TB

MẤY SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ QUỐC HỌC

TRẦN NGHĨA

Chưa lúc nào việc nghiên cứu và phát triển quốc học lại cần được đẩy mạnh trên quy mô rộng lớn như lúc này, khi mà cả dân tộc cam kết dấn thân vào con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mong giành lấy một vị trí xứng đáng trong thế giới văn minh. Giữa thời buổi đua chen, rất cần một thái độ sáng suốt, một tinh thần tỉnh táo, nhận rõ những sở trường sở đoản của truyền thống văn hóa nước mình để khắc phục mặt yếu kém, học tập cái hay của người khác; phát huy mặt mạnh, tăng thêm lòng tự tin, tự hào dân tộc. Về phương diện này, quốc học có thể góp phần quan trọng.

Sau đây là mấy suy nghĩ của chúng tôi chung quanh ba vấn đề :

- Hàm nghĩa và phạm vi của quốc học.

- Quốc học và giao lưu văn hóa.

- Đôi điều đáng chú ý trong việc nghiên cứu quốc học ngày nay.

Hàm nghĩa và phạm vi của quốc học

Trước hết, hãy nói về hàm nghĩa của chữ quốc học. ở phương Đông, Trung Quốc là nước sớm nhất dùng chữ “quốc học” để chỉ một loại trường học do nhà vua xây dựng tại Kinh thành, phân biệt với “hương toại chi học”, loại trường học do các địa phương tự tổ chức. Theo ghi chép của sách Lễ ký(1) thì quốc học thời Tây Chu (TK.11 đến năm 771 TCN) gồm hai bậc là tiểu học và đại học. Chương trình đào tạo gồm sáu môn: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, và số. “Lễ” dùng để “tiết nhân”, dạy cho người ta ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các quy định về xã hội, đạo đức. “Nhạc” dùng để “phát hòa”, dạy cho người ta biết cách qua âm nhạc, tìm tới sự thăng bằng trong tư tưởng tình cảm, sự hòa hợp trong quan hệ cộng đồng. “Xạ” tức bắn cung, cũng là cách bồi dưỡng về phong độ, tính nết. "Ngự" tức cưỡi ngựa, nhằm rèn luyện tinh thần dũng cảm, thượng võ. “Thư” dạy học viết. “Số” dạy làm tính. Lễ, nhạc, xạ và ngự chủ yếu dạy ở bậc đại học. Thư và số chủ yếu dạy ở bậc tiểu học. Trong các môn trên, đứng đầu là lễ. Câu “Tiên học lễ...” có lẽ bắt nguồn từ đấy.

Bậc đại học của quốc học còn được gọi là đông tự, cổ tông, thành quân, thượng tường, thái học, quốc tử học, quốc tử giám. Từ thế kỷ 7 trở đi, quốc tử giám cũng gọi là quốc học.

Ở nước ta, Viện quốc học đầu tiên được thành lập vào năm 1253 trên đất Thăng Long để giảng dạy Tứ Thư, Ngũ kinh. Từ đó về sau, quốc học mang hàm nghĩa “trường công tại Kinh đô” (Kinh sư quan học) được tiếp tục sử dụng qua các đời Trần, Lê, cho đến tận triều Nguyễn, với Quốc học Huế. Nội dung giảng dạy tất nhiên có nhiều thay đổi so với trước.

“Quốc học” còn có một nghĩa thứ hai nữa, tương đương với “quốc cố” hoặc “quốc túy”, chỉ văn hóa học thuật bản quốc, tức của nước mình, dân tộc mình, phân biệt với văn hóa học thuật từ bên ngoài truyền đến.

Phạm vi quốc học theo nghĩa thứ hai này có thể nói là rất rộng. Thư mục học Trung Quốc từng chia thư tịch cổ ra làm 4 loại: Kinh, Sử, Tử, Tập. Đến khoảng Minh Thanh, có người rút gọn thành 3, gồm Nghĩa lý chi học, Khảo chứng chi học và Từ chương chi học. Rồi tiếp đó lại có người tăng lên thành 4, thêm Kinh thế chi học nữa. Thư mục học Việt Nam, bắt đầu từ Lê Quý Đôn, chia cổ tịch của ta ra thành Hiến chương, Thi văn, Truyện ký Phương kỹ, tất cả 4 loại. Phan Huy Chú sau đó đã kế thừa về cơ bản cách chia của Lê Quý Đôn, chỉ đổi Phương kỹ ra Kinh sử.

Sự khác nhau trong phân loại phản ánh mức độ phát triển của học thuật một thời, cùng tình hình cụ thể sách vở thời đó. Xét về tính chất, “Nghĩa lý chi học” tức nghiên cứu về nghĩa lý, tương đương với Triết học ngày nay; “Khảo chứng chi học” tức nghiên cứu về khảo chứng, tương đương với Sử học ngày nay; “Từ chương chi học” tức nghiên cứu về từ chương, rất gần với Văn học; và "Kinh thế chi học" tức nghiên cứu về kinh bang tế thế, rất gần với Chính trị - Kinh tế học. Nếu bổ sung vào danh mục trên “khoa kỹ chi học” tức nghiên cứu về khoa học kỹ thuật nữa, thì ta sẽ có gần đủ nền nghiên cứu hiện đại, gồm khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn.

Liên quan đến Triết học, có tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo...). Liên quan đến Văn học, có Nghệ thuật (Thư pháp, Hội họa, Điêu khắc...). Liên quan đến Chính trị, có Binh pháp (khoa học quân sự). Khoa học kỹ thuật bao gồm Thiên văn, Toán học, Địa lý, Y học, Nông học, Công nghệ và môi trường, v.v.

Tất cả các thứ vừa nêu đều thuộc về quốc học với hàm nghĩa thứ hai; và đây cũng là cách hiểu về từ “quốc học” mà chúng tôi sử dụng bên dưới.

Quốc học và giao lưu văn hóa

Như trên kia đã thấy, quốc học sở dĩ thành quốc học, là nhằm phân biệt với cái ngoại lai. “Bản chất của tôi được lột tả qua anh”, nghiên cứu quốc học do vậy cũng có nghĩa là làm rõ những gì đã nảy sinh qua các cuộc tiếp xúc, va chạm, giao lưu văn hóa. ở đây có thể đi sâu vào hai tình huống mang tính phổ quát: quốc học trong điều kiện giao lưu văn hóa không bình thường, và quốc học trong điều kiện giao lưu văn hóa tự nhiên.

1. Quốc học trong điều kiện giao lưu văn hóa không bình thường.

- Thời Bắc thuộc, có sự đụng độ dữ dội giữa văn hóa Lạc Việt và văn hóa Hán tộc. Sách Quận huyện thời đại chi An Nam dẫn Hậu Hán thư cho biết: “Năm Kiến Vũ 13 (37 SCN) Tô Định làm Thái thú Giao Chỉ (...) Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ lấy Thi Sách là người huyện Chu Diên. Trắc tính rất hùng dũng, việc làm phần nhiều không giữ phép, Tô Định lấy luật pháp mà trị, Trưng Trắc oán giận, vào năm Kiến Vũ 16 (40 SCN) bèn cùng em là Trưng Nhị nổi lên làm phản, đánh vào các quận huyện; người Man, Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Trắc hạ được 65 thành, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”(2). Cái gọi là “phép” (pháp) mà Trưng Trắc không chịu tuân thủ (bất pháp), hay “luật pháp” (pháp) mà Tô Định dùng để xử phạt (dĩ pháp thằng chi) có thể hiểu là chuẩn mực văn hóa Hán do kẻ cầm quyền ngoại tộc áp đặt trên đất Giao Chỉ từ mấy chục năm trước đó. Hậu Hán thư Q.116, Nam Man truyện chép: “Quang Vũ trung hưng, Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Từ đó hai người dạy cho dân cày bừa gặt hái, chế tạo mũ giày; bắt đầu đặt lệ mai mối, biết phép cưới xin; mở trường dạy học, dẫn dắt theo lễ nghĩa”. Bỏ qua những chi tiết Hậu Hán thư ghi chép chưa chính xác(3), việc Tích Quang, Nhâm Diên ra sức đem “Hoa phong” truyền bá ở Lĩnh Nam là điều hoàn toàn có thể tin được. Và kết quả của việc làm này giống như “lửa cháy đổ dầu thêm”, chỉ có tác dụng làm tăng thêm độ phản kháng của người bản xứ mà Trưng Trắc là đại diện, đối với nền thống trị của phương Bắc.

Thái độ cự tuyệt của Bà trưng không gì khác hơn là nhằm bảo vệ nền văn hóa vốn có của dân tộc - văn hóa Hùng Vương - trước âm mưu đồng hóa trắng trơn của triều đình Đông Hán.

- Thời Minh thuộc, kẻ thù quyết tâm đồng hóa một dân tộc vừa thoát khỏi nghìn năm đô hộ, nhằm dọn đường biến nước ta vĩnh viễn trở thành một bộ phận của Trung Quốc. Âm mưu đồng hóa này được tiến hành từng bước theo hướng “di phong dịch tục”, “dụng Hạ biến Di”(4). Để “di phong dịch tục”, tức tìm mọi cách bốc người bản địa ra khỏi truyền thống văn hóa lâu đời của họ, nhà Minh một mặt khuyên nhân dân ta “đừng theo lề thói cũ”(5), và mặt khác, họ mưu toan xóa sạch nền văn hóa Đại Việt được phục hưng qua năm thế kỷ độc lập mà “Thiên triều” từng nhìn với con mắt hằn học, thâm thù. Có thể thấy rõ điều này qua một mật dụ đề ngày 21 tháng 8 năm 1408 của Minh Thành Tổ gửi tướng Chu Năng, lúc cuộc tấn công vào Đại Việt đang sắp sửa: “Khi quân vào nước họ, từ những bản kinh và lời kinh về đạo Phật, đạo Lão ra, còn thì tất thảy sách vở văn tự, kể cả những sách học thông thường của trẻ con kiểu “Thượng đại nhân, Khâu ất Kỷ” đều phải đốt sạch, dù là một mẩu giấy, một chữ viết. Trong nước họ, phàm những di tích lịch sử nào mà Trung Quốc có lập bia thì hãy giữ lại, còn nếu là bia do An Nam dựng thì phải phá hủy cho kỳ hết, không để lại một chữ nào(6). ít lâu sau, nhận thấy mệnh lệnh trên đây của mình chưa được cấp dưới thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh, Minh Thành Tổ đã gửi tiếp một mật dụ nữa cho tay chân của y tại Đông Quan (Hà Nội), với lời lẽ như sau: “... Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng tất thảy sách vở văn tự của An Nam, kể cả những sách học thông thường cuả trẻ con kiểu “Thượng đại nhân, Khâu ất Kỷ” dù là một mẩu giấy, một chữ viết, cùng là những tấm bia do người địa phương dựng lên, hễ thấy là phải phá hủy ngay, đừng để lại. Nay nghe nói trong quân đội mỗi khi thu được sách vở, không những không ra lệnh đốt ngay mà còn chọn để xem rồi sau mới đốt. Vả quân lính phần đông không biết chữ, nếu ai ai cũng làm như vậy thì việc chuyền từ người này sang người khác sẽ để thất lạc đi nhiều. Các ngươi nay phải theo đúng tinh thần sắc dụ trước, ra lệnh cho quân lính bên ấy hễ gặp sách vở là đem đốt ngay, không được lưu giữ(7). Để “dụng Hạ biến Di”, tức dùng văn hóa Hán tộc đang làm thay đổi văn hóa các nước láng giềng, chính quyền nhà Manh buộc người nước ta phải bắt chước Trung Hoa về mọi mặt, từ luân thường đạo nghĩa đến thi cử học hành, thậm chí cả quần áo mũ giày, cái tai cái tóc(8). Họ muốn xóa sạch nền văn hóa bản địa và thay vào đó bằng nền văn hóa ngoại lai. ý đồ ngông cuồng và thô bạo này còn được thể hiện nổi bật trong một tờ biểu do Bố chánh Sứ ty Hoàng Phúc soạn gửi về Bắc: “Nay mừng thấy Giao Chỉ một phương đại định, người vật yên lành, lễ nhạc y quan hệt như Trung Quốc, quan viên bô lão một dạ theo về”(9). Cố nhiên đây là lời tâu không có cơ sở, chỉ cốt làm vừa lòng bề trên của viên Sứ ty mà thôi !

Có thấy hết những thâm ý trong chính sách văn hóa của ngoại bang trên đây, ta mới hiểu được vì sao sau ngày đánh đuổi quân Minh về nước, trong sách Dư địa chí Nguyễn Trãi lại đặc biệt nhấn mạnh: “Người nước ta không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước)(10). “Ngô” ở đây chỉ nhà Minh. Quan điểm quốc học của Nguyễn Trãi rất rõ ràng: một mặt, cần chặn đứng những tác hại của văn hóa ngoại nhập và mặt khác, phải ra sức gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

- Thời Pháp thuộc, liên quan nhiều nhất đến vấn đề quốc học, có Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân và Đề cương văn hóa.

Đông Kinh nghĩa thục, một trường học được thành lập ở phố Hàng Đào, Hà Nội (Đông Kinh) năm 1907, do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền phụ trách. Về thực chất, đây là một tổ chức cách mạng. Dùng hình thức mở trường dạy học, tuyên truyền văn hóa để đào tạo nhân tài, tập hợp lực lượng yêu nước. Cuộc vận động văn hóa của trường mang tính chất dân tộc dân chủ, tập trung thể hiện ở Văn minh tân học sách, một tài liệu do Ban trước tác của nhà trường biên soạn, với 6 mục tiêu phấn đấu là dùng chữ quốc ngữ, hiệu đính sách vở, sửa đổi phép thi, cổ vũ nhân tài, chấn hưng công nghệ, phát triển báo chí.

Phong trào Duy Tân (1906-1908) về thực chất cũng là một phong trào cách mạng, do một số sĩ phu yêu nước và tiến bộ như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... khởi xướng, nhằm vận động cải cách văn hóa và xã hội, khêu gợi lòng yêu nước căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.

- Năm 1943, Đề cương văn hóa của Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, vạch rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa ngu dân, phát xít của đế quốc Pháp và đế quốc Nhật, nêu lên tầm quan trọng của nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam xây dựng trên 3 nguyên tắc lớn: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. “Dân tộc hóa” là phải “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”. “Khoa học hóa” yêu cầu “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”. Và “đại chúng hóa” đòi hỏi chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại quần chúng hoặc xa rời đông đảo quần chúng”. Về tính chất buổi đầu của nền văn hóa mới, Đề cương nêu rõ: "Văn hóa mới Việt Nam (...) là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung". Đề cương còn đề cập đến nhiệm vụ “tranh đấu vì tiếng nói, chữ viết” như làm giàu thêm tiếng nói, ấn định ngữ pháp, cải cách chữ quốc ngữ, v.v.(11).

Có thể thấy trong hoàn cảnh nước nhà bị đô hộ, trước âm mưu đồng hóa của ngoại lang, quốc học nước ta từ Bắc thuộc, Minh thuộc đến Pháp thuộc đều đặt nhiệm vụ bảo vệ văn hóa dân tộc lên hàng đầu và xem hoạt động quốc học như một bộ phận không thể tách rời với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Riêng Đề cương văn hóa còn quan niệm bảo vệ văn hóa dân tộc không thể là nệ cổ, mà phải tạo điều kiện cho việc xây dựng, phát triển nền văn hóa, học thuật mới, phù hợp với nhu cầu của cách mạng và thời đại.

2. Quốc học trong điều kiện giao lưu văn hóa tự nhiên.

- Vào thời Hùng Vương, theo thư tịch và tài liệu khảo cổ cho thấy, văn hóa Lạc Việt trong nhiều thế kỷ trước công nguyên đã thực sự trở thành trung tâm thu hút sự chú ý và ngưỡng mộ của cả vùng Đông Nam Á. Chuyện Thần quy (Rùa thần) và chuyện Bạch trĩ (Chim trĩ trắng) chứng tỏ từ rất sớm, nước ta đã chủ động đặt quan hệ ngoại giao với vương quyền phương Bắc trong tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau. Chuyện Lý Ông Trọng nói lên tài thao lược của người Lĩnh Nam đã một thời làm xôn xao miền Hoa Hạ. Qua đó có thể thấy tiếng vang về quân sự hay “binh pháp” của ta đối với Trung Quốc cổ. Nhưng chứng tích rõ rệt nhất, sinh động nhất về ảnh hưởng của văn hóa Lạc Việt đối với các dân tộc chung quanh, phải kể là trống đồng. Trống đồng, theo nhiều nhà nghiên cứu, sau khi được chế tác ở Văn Lang, đã trở thành món hàng độc đáo, được đem trao đổi với các nước trong vùng.

Mặt khác, nền văn hóa Lạc Việt cũng không phải cái gì khép kín. Sở dĩ nó trở nên phong phú, da dạng, một phần cũng là do biết tiếp thu những cái thích hợp với yêu cầu phát triển của nó trong văn hóa nước ngoài. Chuyện sứ giả Việt Thường nhận “biền xa” của Chu Công sau khi đã tới thăm và hiến chim trĩ trắng, đặt vấn đề trao đổi văn hóa theo hai chiều, có đi có lại. ít nhiều chi tiết trong các truyện Tây qua (Dưa hấu), Nhất dạ trạch (Chằm một đêm) được chép trong Lĩnh Nam chích quái, chứng tỏ một số tri thức về nông nghiệp, thương nghiệp cùng tư tưởng Phật giáo nguyên thủy ấn Độ đã bước đầu truyền tới Lĩnh Nam.

- Thời Trần có những dấu hiệu cho thấy quốc học được một số người cầm cân nẩy mực của đất nước đặc biệt coi trọng và bảo vệ trước ảnh hưởng ngày một gia tăng của văn hóa học thuật phương Bắc. Chẳng hạn khi Lê Quát và Phạm Sư Mạnh muốn “sửa đổi chế độ”, vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) đã bác đi rằng: “Nhà nước đã có phép tắc nhất định, Nam Bắc (chỉ nước ta và Trung Quốc - TN) khác nhau, nếu nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng (chỉ Nho sĩ - TN), tìm đường tiến thân, thì sinh loạn ngay”(12). Trần Nghệ Tông (1370-1372) sau đó cũng từng nói: “Triều trước dựng nước tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không phải noi nhau. Khoảng năm Đại Trị (niên hiệu của Trần Dụ Tông, 1358 - 1369 - TN) kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa của lập pháp, đem phép cũ của Tổ tông thay đổi theo tục của phương Bắc cả”. Và Nghệ Tông quyết định khôi phục lại điển lệ năm Khai Thái (niên hiệu Trần Minh Tông - TN)(13). Chẳng những thế, vua Trần Nghệ Tông còn tổ chức biên soạn “giáo trình” để dạy cho những người làm công tác quản lý Nhà nước trong việc này. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Quý Hợi (1383) (...) mùa đông, tháng 12 (...) Thượng hoàng (chỉ Trần Nghệ Tông - TN) ở cung Bảo Hòa(14), sai Thiêm thư Nội mật viện sự Nguyễn Mậu Tiên, Lễ bộ Lang trung Phan Nghĩa và gia thần Vũ Hiến Hầu (không rõ tên) ở Tiên Du thay phiên nhau chầu chực. Thượng hoàng ban cho ăn và hỏi các việc cũ, ghi chép từng ngày, biên soạn thành 8 quyển, đầu đề là “Bảo Hòa dư bút” (còn gọi là Bảo Hòa điện dư bút - TN), sai Đào Sư Tích đề tựa ở đầu sách để dạy bảo quan gia”.

- Thời Lê trung hưng, Lê Quý Đôn là người đầu tiên ở nước ta đã đưa việc nghiên cứu quốc học vào con đường khoa học. Ông hết sức coi trọng việc cải tiến phương pháp nghiên cứu. Một là cần phải có tư liệu đầy đủ dù nghiên cứu vấn đề gì: “Tiên nho làm sử, đều tập hợp mọi sách, chọn nhặt sửa chữa (...). Thế mà truyện chí của ta từ trước đến giờ chưa có một mảnh giấy hay một chữ nào” (Lê triều thông sử). Hai là cần tôn trọng sự thật khi xử lý các nguồn tư liệu: “Tô Tụng nghe nói việc cũ, tất bảo người ấy kiểm tra lại xuất xứ. Ôn Công nghe nói việc mới, liền ghi chép lấy và ghi rõ tên người đã cho biết sự việc”. Ông nhấn mạnh: “ấy, người hiền ngày trước yêu quý sự chính xác như thế” (Kiến văn tiểu lục). Trên tinh thần đó, ông phàn nàn thái độ tùy tiện của những người biên tập bản Lam Sơn thực lục khắc in năm 1676: “Các nho thần đã vâng mệnh vua đính chính, chỉ căn cứ vào hiểu biết của mình, lấy ý riêng mà sửa chữa thêm bớt, làm sai mất cả sự thật, không phải là bộ mặt sách ban đầu” (Lê triều thông sử). Ba là khi nghiên cứu, cần làm rõ lịch sử vấn đề, nhất là quá trình kế thừa và đổi mới. Điều này đã được quán triệt qua nhiều tác phẩm nghiên cứu của ông. Và bốn là cần đặt vấn đề nghiên cứu Việt Nam trong bối cảnh chung của toàn khu vực và nếu có thể được, cả thế giới nữa. Bởi vì Lê Quý Đôn nhận thấy bên cạnh hoặc đằng sau những nét khác biệt giữa quốc gia - khu vực - thế giới, vẫn có những mặt vốn dĩ tương đồng. Giới thiệu mục lục sách Vân đài loại ngữ, ông viết : “Hải nội và vạn quốc tuy cách gọi và chữ viết mỗi nơi một vẻ, nhưng ý tứ và nghĩa lý không có gì khác nhau”. Qua việc đối chiếu, so sánh nhiều nền văn hóa, ông có điều kiện nhìn rõ cái gì ta giống với người, cái gì ta khác với người, đâu là điểm độc đáo mang màu sắc quốc gia, đâu là vấn đề chung của toàn khu vực. Ông đặt quốc học trong giao lưu văn hóa để nghiên cứu.

Lê Quý Đôn đã đích thân vặn ngược lại kim đồng hồ học thuật quay về với nguồn gốc Việt Nam, với thực tế Việt Nam trong tinh thần khoa học, giữa lúc tình trạng xô bồ, lai căng mất gốc, xa rời cuộc sống đang có chiều hướng phát triển trong quốc học nước ta.

- Dưới triều Nguyễn, điều đáng nói là chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình Huế, đặc biệt đối với văn hóa học thuật châu Âu lúc bấy giờ đang dồn dập gõ cửa phương Đông không riêng gì Việt Nam. Đáng lẽ phải mở rộng giao lưu, hấp thu khoa học kỹ thuật mới, làm cho văn hóa học thuật nước nhà mạnh lên, tạo điều kiện để “cứu vong đồ tồn”, theo những gợi ý của Nguyễn Trường Tộ(15) thì Tự Đức trái lại, chỉ có đóng cửa, đóng thật chặt cửa để “giữ nước” ! Nền quốc học của ta thời đó, dưới sự thao túng của triều đình nhà Nguyễn, chung quy chỉ quanh quẩn trên một góc sân mòn, không cần biết ngoài kia cuộc thế đã có nhiều đổi thay quan trọng, uy hiếp đến vận mệnh của đất nước.

- Đến thời đại chúng ta, từ sau Cách mạng tháng 8, quốc học đã được đặt lại đúng vị trí và đúng hướng của nó, nhờ vậy đã góp phần đắc lực vào hai cuộc kháng chiến, làm tăng lòng tự tin và tự hào dân tộc.

Ngày nay, trong điều kiện mở rộng giao lưu văn hóa với bên ngoài, việc nghiên cứu và phát triển quốc học càng cần được đẩy mạnh vừa để khỏi tụt hậu, vừa đề phong nguy cơ tự đánh mất mình trong xu trào hội nhập văn hóa đang diễn ra như triều dâng thác đổ trên khắp hành tinh.

Đôi điều đáng chú ý trong việc nghiên cứu quốc học ngày nay.

Thời đại đã đổi thay, cách nghiên cứu quốc học cũng cần được điều chỉnh cho thích ứng với cục diện mới. Theo chúng tôi, có mấy điểm cần chú ý sau đây:

1. Nghiên cứu quốc học, như kinh nghiệm lịch sử ở nước ta trên kia cho thấy, trước hết là để “tự tri chi minh”, biết rõ những chỗ đắc thất trong nền văn hóa học thuật nước mình, từ đó tìm cách phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu kém, tạo điều kiện cho văn hóa học thuật bản địa phát triển.

Mặt khác, phải thấy giao lưu văn hóa là hiện tượng tự nhiên và cần thiết như hơi thở đối với cuộc sống. ở đây, sự sùng bái mình quá đáng, thần thánh hóa tính độc đáo của mình, say sưa với những “quốc hồn”, “quốc túy”, dẫn đến việc tách biệt văn hóa dân tộc với trào lưu phát triển chung của văn hóa nhân loại là một thái độ sai lầm, tự kéo lùi mình lại. “Những thành quả về tinh thần của một dân tộc trở thành sở hữu chung của tất cả các dân tộc. Tình trạng dân tộc hẹp hòi và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình vạn trạng đang nảy nở một nền văn học chung của toàn thế giới”(16).

Nhưng tiếp nhận văn hóa từ bên ngoài tới phải trên nguyên tắc hài hòa, không gây hỗn loạn, đổ vỡ đối với văn hóa bản địa. Vì mục đích của du nhập không gì khác hơn là nhằm làm cho văn hóa bản địa khỏe khoắn hơn, phong phú hơn và do vậy, phát triển nhanh chóng hơn. Không thế, cái du nhập sẽ mất đất sống, cũng tức là thất bại và không sớm thì muộn, sẽ bị đào thải. Trong trường hợp thành công, cái du nhập sẽ dần dần được đồng hóa, trở thành một bộ phận của văn hóa bản địa và tiếp biến theo quy luật phát triển chung của văn hóa bản địa. Việc du nhập văn hóa bên ngoài đúng hướng, đúng đối tượng, đúng thời điểm, đúng liều lượng chẳng những không làm mất, mà còn có tác dụng làm rõ nét thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình, góp phần làm giàu cho văn hóa nhân loại.

2. Nghiên cứu quốc học cũng là một loại nghiên cứu truyền thống. Không phải chỉ chúi mũi vào đống giấy cũ mà được. Điều quan trọng hơn vẫn là căn cứ vào hệ tham chiếu của thời đại chúng ta mà giải thích lại cái cũ, từ đó xác định những gì còn bổ ích, có thể tiếp tục và những gì đã lỗi thời, nên giũ bỏ. ở đây, việc khẳng định toàn bộ cũng phi lý như sự phủ định sạch trơn. Phục cổ hoặc quay lưng lại truyền thống đều không có tiền đồ.

3. Nghiên cứu quốc học rất cần đến trí tưởng tượng. Người xưa, việc cũ, hoàn cảnh xuất hiện của chúng cũng ngày một lùi sâu vào dĩ vãng. Dù tư liệu nghiên cứu có đầy đủ chăng nữa, thì do những hạn chế về không gian, thời gian, sự cách bức về tư tưởng, tình cảm, trình độ hiểu biết... làm sao tránh khỏi độ chênh giữa nguyên bản và truyền bản ? Huống hồ sách vở bị mất mát nhiều, sự ghi chép lại lắm sai sót như tình trạng thư tịch cổ của ta hiện nay !

Để bù vào chỗ thiệt thòi có tính chất “áp đặt” ấy, người nghiên cứu không thể không nương nhờ vào trí tưởng tượng. “Tưởng tượng” ở đây, hiểu theo Thi học của Aristoteles (384-322 TCN), có nghĩa là một sự “hồi hướng” nảy sinh trong không khí giao tiếp, đàm thoại được thiết định giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Về phương diện này, Trương Thế Anh trong bài Truyền thống và hiện đại đã có những ý kiến rất hay: “Truyền thống, lịch sử là sự kết hợp giữa việc có mặt ở hiện trường và không có mặt ở hiện trường, là cầu nối giữa người xưa và người đời nay, chính sự liên hệ nội tại giữa chúng mới hình thành truyền thống và lịch sử. Nhưng sự liên hệ nội tại đó phải nhờ vào trí tưởng tượng mới có thể xác lập. Nếu tách khỏi sự tưởng tượng, mối liên hệ nội tại chỉ có thể là trừu tượng hoặc tự tại, không có ý nghĩa gì”(17).

Chính nhờ vào trí tưởng tượng, một kiểu “thần hội”, “thần nhập”, giống như diễn viên “nhập vai” trên sàn diễn, mới có thể đạt tới sự chân thực của lịch sử, của truyền thống, của quốc học.

CHÚ THÍCH

(1) Lễ ký: còn gọi là Tiểu Đái ký hoặc Tiểu Đái Lễ ký, một tuyển tập gồm 49 thiên sách bàn về lễ nghi trước đời Tần Hán, như Khúc lễ, Đàn cung, Vương chế, Lễ vận, Học ký, Nhạc ký, Trung dung, Đại học v.v. tương truyền do Đái Thánh, người đời Tây Hán (204-8 TCN) biên soạn.

(2) Lê Chính Phủ: Quận huyện thời đại chi An Nam, Thương vụ ấn quán xuất bản tại Trùng Khánh, Trung Quốc, năm 1944, tr.31.

(3) Việc cấy gặt, cưới xin không phải chờ đến khi Tích Quang và Nhâm Diên sang làm Thái thú, nhân dân ta mới biết. Mà từ trước thời Bắc thuộc, nhiều tài liệu lịch sử cho thấy người Văn Lang - Âu Lạc đã phát triển mạnh nghề trồng lúa nước và xã hội về cơ bản đã chuyển sang giai đoạn phụ hệ, với chế độ một vợ một chồng. Có thể vào thời Hán, quận Cửu Chân đi lên vẫn còn quá chậm so với quận Giao Chỉ. Vì vậy mà Tích Quang đã cố vực quận thuộc quyền cai quản của mình lên, bằng cách đẩy mạnh sản xuất và làm tăng nhân khẩu. Để đẩy mạnh sản xuất, Tích Quang chú trọng việc đổi mới nông cụ và mở rộng diện tích cấy trồng. Để tăng nhanh nhân khẩu, viên Thái thú táo bạo này áp dụng một biện pháp từng thử nghiệm có kết quả ở Trung Quốc: buộc đàn ông từ 20 tuổi đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi đều phải xây dựng gia đình, nếu không sẽ bị phạt tiền (Hậu Hán thư, Q10).

(4)(5) Thân minh giáo hóa bảng văn. Xem Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên. Bản in của Học viện Viễn đông Pháp tại Hà Nội, 1932.

(6) Lý Văn Phượng: Việt kiệu thư.

(7) Việt kiệu thư, Sđd.

(8) Tuyên minh giáo hóa bảng văn. Xem An Nam chí nguyên, Sđd.

(9) Tiến hạ Giao Chỉ thái bình biểu. Xem An Nam chí nguyên, Sđd.

(10) Dư địa chí, mục 48. Xem Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H, 1969, tr.222.

(11) Văn kiện Đảng (1930 - 1945), T.III, tr.393.

(12)(13) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Trần.

(14) Cung Bảo Hòa ở núi Lạn Kha, tức núi Phật Tích ở xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

(15) Nguyễn Trường Tộ: Điều trần về việc phái học sinh đi du học ngoại quốc (1866); Điều trần về việc nên giao thiệp và thông thương với nước ngoài (1868, 1871), v.v.

(16) Mác - Ăng -ghen: Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Bd. của Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1956. Tr.25 - 26.

7) Song nguyệt san Văn Sử Triết, Số 3, 1994, của Đại học Sơn Đông, Trung Quốc.

TB

VỀ HAI BỘ ĐĂNG KHOA LỤC CỔ NHẤT HIỆN CÒN

NGUYỄN THÚY NGA

Do nhiều nguyên nhân lịch sử, nền văn hóa nước ta đã có quan hệ tiếp xúc lâu đời với nền văn hóa Nho giáo của nước Trung Hoa cổ đại. Từ thời Lý - Trần - Hồ, và nhất là từ đời Lê, các triều vua nước ta đều lấy việc mở mang giáo dục, đào tạo nhân tài làm quốc sách. Đi đôi với việc đề cao Nho học, vai trò của khoa cử không chỉ bó hẹp trong phạm vi chính sự của triều đình mà còn thu hút sự quan tâm lớn lao của toàn xã hội. Đỗ đạt trong các thi không chỉ là thủ tục để được tuyển chọn ra làm quan, thực hiện lý tưởng đem tài năng cống hiến cho đất nước mà còn là sự hiển rạng của bản thân, gia đình, dòng họ của Nho sĩ. Việc lưu danh những người đỗ đạt qua các đời, do đó cũng không đơn thuần chỉ là hồ sơ hành chính mà còn có ý nghĩa biểu dương, cổ vũ. Sự ra đời của các thư tịch đăng khoa lục chính là để đáp ứng yêu cầu lưu danh có tính truyền thống đó.

Chính sử chép sự việc ngày 13 tháng Tư năm Giáp Thìn Hồng Đức 15 (1484) triều đình sai ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Đăng khoa lục v.v… cho học sinh các phủ (Toàn thư, BK13, tờ 39a). Những sách Tứ thư, Ngũ kinh này là sách Trung Quốc khắc in ở nước ta, còn sách Đăng khoa lục nói đây thì hẳn phải là đăng khoa lục của nước ta thì mới có tác dụng thiết thực khích lệ các Nho sinh. Cũng liên quan đến việc này, Lê Quý Đôn viết: “Đến bản triều (Lê) mới có ghi chép, nên không những học trò hiển đạt, bầy tôi danh vọng truyền tụng ở bia miệng, mở sách ra có thể biết được, mà người không có tiếng tăm và sự nghiệp cũng được lưu tên tuổi đến đời sau. Do đấy, người ta có thể biết xã nào, huyện nào từng phát đạt người khoa bảng, để tự cố sức học tập”(1). Như vậy, cả tư liệu của Toàn thư cũng như ý kiến của Lê Quý Đôn trên đây đều nói về một bộ Đăng khoa lục đời Lê sơ. Sau này trong bài Tựa sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Nguyễn Hoãn cũng viết: “Những người trúng tuyển được quan bộ Công dựng đã để tên ở nhà Quốc học, mà Sử quân lại có ghi chép các khoa thành sách. Phàm họ tên, quê quán cùng hoạn nghiệp đều ghi đủ cả”(2).

Tuy hiện nay chưa tìm thấy bộ Đăng khoa lục đời Lê sơ đó, nhưng với các cứ liệu dẫn trên, chúng ta có cơ sở để tin rằng bộ đăng khoa lục đầu tiên lưu danh các nhà khoa bảng của nước ta đã được biên soạn vào cuối TK XV, dưới thời Lê Thánh Tông.

Đến triều Lê Trung hưng, từ năm Thuận Bình 6 (1554) về sau đã tổ chức khoa thi để chọn nhân tài, tất cả gòm 73 khoa, lấy đỗ 772 Tiến sĩ, nhưng cho đến tận nửa đầu TK XVII cũng chưa có sách đăng khoa lục ghi chép về những người đỗ đạt. Vì vậy trong Nghệ văn chí, Lê Quý Đôn đã không nói tới một bộ đăng khoa lục nào. Đến Văn Tịch chí, Phan Huy Chú mới nghi bổ sung hai đơn vị cho loại hình thư tịch này: Đăng khoa lục, 3 quyển, triều thần đời Cảnh Hưng là Nguyễn Hoãn… biên soạn, ấn hành” và “Liệt huyện đăng khoa khảo, 6 quyển, Tiến sĩ ở Hoan Châu là Phan Huy Ôn soạn…”

Tuy vậy, trong di sản thư tịch Hán Nôm hiện còn, ngoài các văn bản của 2 bộ sách nói trên, trong kho sách của Viện Hán Nôm còn có 5 tập đăng khoa lục chép tay khác. Đó là các bộ: Đăng khoa lục sao bản, Lịch đại đại khoa lục, Lịch đại đăng khoa lục Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục và Thiên Nam lịch triều Tiến sĩ đăng khoa lục.

Như vậy, về loại hình thư tịch đăng khoa lục đại khoa triều Lê, chúng ta hiện còn 7 đơn vị, - tức 7 bộ sách, bao gồm 18 văn bản khác nhau. Nhưng qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi xác định chỉ có 02 bộ: Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục là có niên đại khá sớm. Sau đây chúng tôi xin lần lượt trình bày về vấn đề văn bản của từng bộ:

Đăng khoa lục sao bản 登 科 錄 抄 本 (A.785):

Sách dày 80 tờ, viết theo hàng dọc mỗi trang 10 dòng nghi họ tên hai người, Sách mất một số tờ đầu và cuối, dòng trên sách ở trang 1 có lẽ do người sưu tập sách ở Thư viện Viễn đông bác cổ mới ghi thêm vào để tiện đăng ký chứ không phải là tên sách vốn có từ trước. Tờ đầu hiện còn ghi tên Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên khoa Hưng Long 12 (1304) đời Trần. Tờ cuối ghi dở dang về khoa Quý Dậu niên hiệu Chính Hòa 4 (1683). Như vậy nội dung sách ghi được 96 khoa thi với họ tên của 1888 người.

Đặc điểm rõ nhất của Đăng khoa lục sao bản là ở mục ghi về từng khoa thi đều có dòng chữ “…đề danh ký…題 名 記 ” Các trình bày làm cho chúng ta liên tưởng đến tên các tấm bìa Tiến sĩ ở Văn Miếu,- có thể hình dung người biên soạn đã trực tiếp căn cứ theo các tấm bìa mà nghi chép lại. Tuy nhiên, vấn đề không hẳn chỉ có thể, bởi vì ngay cả các khoa thi triều Mạc vốn không có bìa như ở phần nghi chép, soạn giả vẫn dùng dòng chữ đó. Trước đây nhà thư tịch học Trần Văn Giáp đã mô tả tập sách này tương đối kỹ, chú ý đến của nó là: (1) có phần ghi riêng về người thì đỗ dưới triều Mạc (không ghi xen với các khoa thi của triều Lê Trung hưng), (2) có ghi những chi tiết liên quan đến các khoa thi và chép theo lối chữ “hoa” đời Lê, từ đó ông nhận định: “ Sách có thể chép theo đời Lê”4 (Xin xem kiểu chữ ở phụ lục 1)

Để khẳng định thêm nhận xét của Trần Văn Giáp, trong khi nghiên cứu văn bản, chúng tôi đặc biệt chú ý so sánh khảo sát để tìm thêm cứ liệu nội chứng.Kết quả đã phát hiện được 2 cứ liệu đáng chú ý:

- Trong cả tập sách chỉ có một chữ duy nhất được viết theo dạng kiếng huý là chữ đề…提 tất cả 21 lần, đều là từ chỉ chức quan Đề điệu 調 (các tò 5a, 6b, 8b, 10a, 12a, v.v…). Các văn bản đời Lê Trung hưng thường ít khi viết kiêng huý, hoặc chỉ kiêng huý một hai chữ. Tập Đăng khoa lục sao bản này chỉ viết kiêng huý một chữ Đề trong từ Đề điệu là một đặc điểm cho thấy có thể nó là văn bản đời Lê5.

- Qua khảo sát các tên làng xã quê quán người thi đỗ, chúng tôi thấy Đăng khoa lục sao bản sử dụng hệ thống địa danh đời Lê Trung hưng,- tức là địa danh ở thời kỳ sách được biên soạn. Một cứ liệu đáng tin cậy, có thể coi như một mã hiệu để phân biệt văn bản đời Lê/ Nguyễn là địa danh Kỳ chủng 奇 種 , tên xã thuộc huyện Thanh Lan (nay thuộc xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Do lệnh kiêng huý chữ Chủng 種 là tên huý của vua Gia Long, xã này đến đầu đời Nguyễn đổi tên là xã Kỳ Trọng 奇 重 , do đó truyền bản đời Nguyễn của các tập đăng khoa lục khác đều chép tên xã này theo địa danh đã thay đổi đó (như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục), nhưng ở văn bản Đăng khoa lục sao bản chúng tôi phát hiện tên xã này vẫn được chép là Kỳ Chủng 奇 種 (tờ 58b), chưa bị biến động theo lệ kiêng huý triều Nguyễn.

Đáng tiếc là sách bị mất một số tờ đầu (và có thể cả cuối ?), không còn những ghi chép liên quan cho biết tên soạn giả và hiện đại biên soạn chính xác. Tuy vậy, trong văn bản vẫn còn có dấu vết để có thể xác định được niên đại tương đối của tác phẩm: trước tờ ghi khoa Bính Thình niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676) có 4 chữ: Kim thượng hoàng đế …今 上 皇 帝 (Vua hiện nay). Vua “hiện nay” tức là vua Lê Huy Tông (1676-1704). Cứ liệu này khá đáng tin cậy để cho phép đoán định Đăng khoa lục sao bản được biên soạn trong đời Lê Huy Tông. Và vì tờ cuối cùng của sách còn có đến khoa Quý Dậu Chính Hoà 4 (1683)nên có thể xác định sách được biên soạn trong khoảng đầu niên hiệu Chính Hoà (1680- 1704).

Với cứ liệu kiểu chữ viết của cả tập, đặc điểm kiêng huý, cứ liệu địa danh và dòng chữ “kim thượng hoàng đế…今 上 皇 帝 ” vừa dẫn trên chúng ta có thể xác định cuốn Đăng khoa lục sao bản mang tính ký hiệu A.1785 là một văn bản ra đời trong niên hiệu Chính Hoà.

Lịch đại đại khoa lục 歷 代 大 科 錄 (A.2119):

Sách chếp tay,giấy bản rất cũ, rách nát do bị mối mọt,dày 163 tờ, khổ 27x19cm. Mỗi trang 8 dòng, dòng 19 chữ viết trên giấy kẻ dọc, có lẽ đây là bản chép để đem khắc ván in.Tờ trên sách vốn bị rách, tên hiệu dùng có lẽ cũng do nhân viên Viễn đông Bác cổ đặt ra để tiện đăng ký hiệu. Từ tờ đầu đến tờ 159 cùng một kiểu chữ khác, kiểu chữ thảo, chép thêm khoa Chính Hoà 15 (1694) và 18 (1697) là hết nội dung đăng khoa lục. Cũng nét chữ thảo đó chép thêm mấy trang đầu của bản diễn ca Thiên Nam ngữ lục. chữ viết của tập này là lối viết khá đặc thù thường thấy trên các văn bản đời Lê Trung hưng. Đặc điểm này trước đây cụ Trần Văn Giáp đã nhận thấy và cho đó là kiểu “ Tống tự”6. (Xin xem kiểu chữ ở phụ lục 2).

Nội dung ghi từ khoa thi Hán học đầu tiên là khoa Thái Ninh 4 (1075) đến Chính Hoà 18 (1697), gôm 115 khoa vớ họ tên của 1982 nhà khoa bảng, mỗi dòng ghi họ tên một người và cũng sắp xếp riêng người đỗ các khoa đời Mạc và đời Lê.

Toàn bộ văn bản không có chữ viết kiêng huý. Không chỉ các chữ huý của triều Lê Trung hưng mà cả các chữ huý đầu triều Nguyễn cũng không hiện diện trong văn bản.

Cũng như Đăng khoa lục sao bản, chúng tôi thấy Lịch đại đại khoa lục sử dụng hệ thống địa danh đời Lê Trung hưng. Cứ liệu đáng kể là xác tạc mà chúng tôi như một mã hiệu để nhận diện văn bản đời Lê của Đăng khoa lục sao bản địa danh Kỳ Chủng 奇 種 , thì lịch ở đại khoa lục, tên xã này cũng được ghi là Kỳ Chủng (tờ 122b) chưa đổi là Kỳ Trọng.

Tương tự như Đăng khoa lục sao bản, tập này trước khi ghi các khoa: Chính Hoà 6 (1685), ở tờ 158a và Chính Hoà 12 (1691), tờ 158b cũng có dòng ghi về vua đương triều, những chữ ghi có hơi khác: “Hoàng thượng sac tứ 皇 上 敕 賜 Hoàng thượng sac ban). Hoàng thượng nói đây cũng chính là vua Lê Hy Tông (1676-1704). Cứ liệu này cũng khá đáng tin cậy cho phép chúng tôi đoán định Lịch đại đại khoa lục được biên soạn trong đời Lê Huy Tông.

Từ những đặc điểm về chữ viết, về địa danh không kiêng các chữ huý đầu triều Nguyễn, dòng niên đại tương đối trên văn bản, có thể xác định sách này cũng là một tài liệu đăng khoa lục ra đời trong niên hiệu Chính Hoà (1860-1704) triều Lê, thời điểm biên soạn cũng xấp xỉ vào khoảng thời gian xuất hiện của Đăng khoa lục sao bản. Điều đó khiến chúng tôi phải xét khả năng: Phải chăng lịch đại đại khoa lục sao bản Đăng khoa lục sao bản chỉ là hai truyền bản khác nhau của cùng bộ đăng khoa lục ? Tuy nhiên, qua đối chiếu, so sánh chúng tôi thấy hai tập sách tuy cơ bản giống nhau, nhưng cũng có nhiều chi tiết tỏ ra chúng được biên soạn độc lập với nhau.

Về sự giống nhau, có thể nêu những dẫn chứng như sau:

Hình thức: Cả hai tập sách đều ghi riêng các khoa thi đời Mạc và đời Lê, chia thành “Lê kỷ”, “Mạc kỷ”.

Nội dung:

1/ Cả hai tài liệu đều ghi việc năm Thiện Thành 1 (1401) đời Hồ Hán Thương lấy Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi. đoạn ghi này tựa như về sự kiện mà không trực tiếp liên quan đến khoa lục (các tài liệu đăng khoa lục khác, chẳng hạn Lịch triều đăng khoa của nhóm Nguyễn Hoãn thì ghi Nguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh năm Hưng Long 12 “1304”đời Trần Anh Tông).

2/ Cả ĐLSB và LĐĐK đều chép nhầm niên hiệu Thánh Nguyên 聖 元 đời hồ thành Nguyên Thánh 元 聖 .

3/ Về các nhà khoa bảng cũng có những trường hợp Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục ghi họ tên giống nhau (những điều khác với các tài liệu khác), như Trượng phóng 張 放 , cả hai bản đều ghi là Nguyễn Phóng 阮 放 (Hưng Long 12).

Những người đỗ các khoa đầu triều Lê sơ, cả 2 tập điều chỉ ghi được họ tên 6 người (Triệu thái趙 泰 , Nguyễn Thiên Tích 阮 天 錫 , Trình Thành 程 清 , Đào Công Soạn 陶 公 僎 , Trình Thuấn Du 程 舜 俞 , Phan Phu Tiên 潘 孚 先 , và cùng ghi nhần tất cả đổ khoa Thuận Thiên7 v.v…

Ngoài phần giống nhau đó, giữa Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục có một số dị biệt.

Về họ tên, xin nêu một số trường hợp như sau:

TT ĐKSB LĐĐK Năm Đỗ
1 Đoàn Hối 段 晦 Đoàn Xuân Lôi 段 春 雷 Xương Phù 5
2 Vũ Mộng Nguyên 武 夢 原 Vũ Mộng Tuân 武 夢 恂 Thanh Nguyên 1
3 Lưu Nam Tuấn 劉 南 俊 Đào Nam Kiệt 陶 南 桀 Hồng Đức 3
4 Nguyễn Văn Lan 阮 文 闌 Phạm Văn lan 范 文 蘭 Quang Hưng 3
5 Nguyễn Khải 阮 啟 Nguyễn Nhân Trừng 阮 仁 澄 Vĩnh Tộ 5

v.v…

Về quê quán nhà khoa bảng, xin nêu một số ví dụ sau:

TT TÊN NGƯỜI ĐKSB LĐĐK
1 Nguyễn Tông (Quang Thuận 4) O ghi x. Văn xá 文 舍
2 Đỗ Thanh Đào (Hồng Đức 15) x. Đồng Nẫm 同 稔 x. Đồng Dư 同 余
3 Phạm Cẩn Trực (Hồng Đức 15) h. Gia Lâm 嘉 林 x. Gia phúc 嘉 福
4 Trần Thước (Hồng Đức 27) x. An Việt 安 越 x. An Lạc 安 樂
5 Nguyễn Hiếu Trung (Đoan Khánh 1) x. An Ngọ 安 午 x. An Trung 安 忠
6 Nguyễn Trừng (Đoan khánh 4) h. Sơn Minh 山 明 h. Tân Minh 新 明
7 Đào Khắc Cẩn (Hồng Thuận 3) x. Hải Động 海 洞 O ghi
8 Bùi Văn Tảo (Đại Chính 9) x. Cổ Trà 古 茶 x. Cổ tế 古 齊
9 Nguyễn Hữu Dực (Quảng Hoà 4) x.Cung Xuyên 宮 川 x.Chân Xuyên 真 川

v.v…

Từ những cứ liệu trên, chúg tôi cho rằng Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục có thể đã được biên soạn trên cơ sở tham khảo cùng một tài liệu góc và thời gian gần nhau (Cùng trong niên hiệu Chính Hoà). Nhưng Trong quá trình thực hiện, mỗi soạn giã đều có thêm những tài liệu tham khảo khác, kết quả như chúng ta thấy là giữa Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục có nhưng thông tin độc lập với nhau.

Việc xác định nguồn gốc đời Lê của Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục sẽ giúp các nhà nghiên cứu lưu ý về sự hiện diện của hai công trình đăng khoa lục cách này khoảng ba trăm năm mà người ta vẫn nghĩ rằng lịch sử thư tịch nước ta trong giai đoạn đó dường như không có hoạt động biên soạn đăng khoa lục cách này khoảng ba trăm năm mà người ta vẫn nghĩ rằng lịch sử thư tịch nước ta trong giai đoạn đó dường như không có hoạt động biên soạn đăng khoa lục. Rất có thể các soạn giả bắt đầu việc biên soạn từ chỗ không có hoặc thiếu tài liệu tham khảo nên hai bộ sách trên không tránh khởi những nhần lẫn về họ tên, quê quán của một số nhà khoa bản. Ngoài trừ một số điểm cần nghiên cứu chỉnh lý đó, có thể nói Đăng khoa lục sao bản Lịch đại đại khoa lục là hai tập đăng khoa lục cổ nhất mà truyền bản còn giữ được đến nay.

Chú thích:

1. Xem Lê Quý Đôn. Kiến văn tiểu lục, Phan Trọng Điểm Dịch, Nxb. Sử học, H. 1962, tr117.

2. Lịch triều đăng khoa lục, Tựa, nguyên bản chữ Hán, tờ 1b.

3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí Văn tích chí, T.3, Tr.171, 175.

4. Xem Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, T.1, Nxb. Văn hoá, H. 1984, tr.286.

5. Các tài liệu chữ huý được dẫn dụng, chúng tôi căn cứ theo các kết quả nghiên cứu của PTS. Ngô Đức Thọ. Xin Xem: Nghiên cứu chữ huý trên văn bản Hán Nôm, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, 1995.

6. Xem: Trần Văn Giáp, Sđd, tr.291

7. Sau nay, trong sách Lịch triều đăng khoa, nhóm soạn giả Nguyễn Hoãn đã có tư liệu để bổ sung họ tên 12 người đỗ trong các khoa thi đầu đời Lê sơ và ghi rõ năm đỗ của 6 vị này như sau: Đào Công Soạn đỗ Giáp đẳng khoa Bính Ngọ niên hiệu Thiên Khánh 1 (1429); Triệu Thái, Trình Thuấn Du, Phan Phu Thiên 2 (1429); Trình Thanh, Nguyễn Thiên Tích đỗ khoa Hoành từ năm Tân Hợi niên hiệu Thuận Thiên 4 (1431).

TB

GIỚI THIỆU ẤN TRIỆN TRONG NỘI CÁC TRIỀU NGUYỄN

NGUYỄN CÔNG VIỆT

Tổ chức hành chính trung ương thời Nguyễn gồm các hệ thống lục Bộ, lục Tự, chư Nha, Giám sát, trong đó có rất nhiều cơ quan khác nhau. Nội các là một Nha độc lập trực thuộc quyền quản lý của Hoàng Đế. Là văn phòng của Hoàng đế nên Nội các gắn bó mật thiết với ấn triện, thể hiện bằng các loại văn bản giấy tờ quan trọng có đóng nhiều loại dấu ấn khác nhau. Bài viết này xin giới thiệu đôi nét vế ấn triện trong Nội các - cơ quan đặc biệt của Hoàng đế thời Nguyễn.

Tiền thân của Nội các là Tam Nội viện tức văn phòng của Hoàng đế được lập từ năm Gia Long thứ nhất (1802). Chức Thượng Bảo khanh được đặt ra là nơi coi giữ các Bảo Tỷ, ấn triện và chịu trách nhiệm hầu Bảo(1) khi cần thiết. Năm 1820 khi lên ngôi, vua Minh Mệnh đã tinh giảm tổ chức Tam Nội viện đổi làm Văn thư phòng, Văn thư phòng không dùng ấn quan mà dùng Quan phòng chức vụ trong giấy tờ văn bản. Ngay năm này nhà vua đã cho đúc ấn Quan phòng bằng đồng cho Văn thư phòng, núm ấn chạm hình rau tảo, dây đeo mầu đen. Mặt ấn hình chữ nhật, dài 1 tấc ngang 7 phân 2 ly, dày 2 phân 2 ly, khắc 5 chữ Triện “Văn thư phòng quan phòng”.

Xem xét văn bản chữ Hán trong kho châu bản triều Nguyễn, chúng tôi thấy hình dấu “Văn thư phòng quan phòng” đóng trong một bản tấu có niên đại năm Minh Mệnh thứ 7 (1826). Dấu hình chữ nhật, kích thước 3,2x4,2cm, năm chữ Triện chia 3 hàng, chữ “Phòng” ở giữa dài gấp đôi chữ khác đó là năm chữ “văn thư phòng quan phòng” 文 書 防 關 防.

(Là ấn Quan phòng của phòng văn thư(2).

Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) Văn thư phòng được đổi làm Nội các với biên chế lớn hơn và chức năng cũng quan trọng hơn trước. Bốn tào Thượng bảo, Ký chú, Đồ thư, và Biểu bạ được hoàn thiện, trong đó Thượng bảo tào (có từ năm 1821) là nơi coi giữ các loại Bảo Tỷ cùng Quan phòng, ấn, Kiềm, Đồ ký của các nha môn. Những văn bản chữ Hán như các bản thảo chiếu biểu, bản phó dụ, châu dụ cũng được Thượng bảo tào coi giữ. Khi những chiếu chỉ dụ đã được phân định hoặc những bản chương sớ, sách đã được vua xem xét ưng thuận thì Thượng bảo tào cùng với các cơ quan hữu trách họp thống nhất và tiến hành hầu Bảo.

Khi đổi làm Nội các thì ấn Quan phòng cũng được thay đổi, ấn “Văn thư phòng quan phòng” cũ được bộ lễ thu hồi không dùng nữa và thay vào đó là quan phòng mới khắc 8 chữ Triện “Sung biện nội các sự vụ quan phòng”. Trong Châu bản còn lưu giữ một số hình dấu này. Dấu có kích thước 3,2x4,2cm bằng dấu cũ, 8 chữ triện chia ba hàng, hai hàng giữa cao bằng 2/3 mỗi chữ hàng bên(3).

Đây là Quan phòng các chức quan được phong làm công việc Nội các(4). Dấu Quan phòng trên khi đóng trên văn bản được gọi là Quan phòng của người phụng dụ (ở đầu bài) đóng đối diện mỗi tên người (khi có nhiều người phụng dụ ở các cơ quan khác nhau cùng chung một văn bản). Hoặc đóng dưới tên mình (khi chỉ có một người phụng dụ). Đây bản phụng dụ Thiện bản, tức là bản sao thị thực của phiếu nghĩ phụng dụ, ở những bài dụ khi đến khâu “phê phụng” người ta lập thêm một bản sạch sẽ để lưu chiểu nên gọi là “Thiện bản”. Giá trị của bản sao này cao hơn bản thảo vì nó có dấu Quan phòng của người phụng dụ.

Những bản có chữ vua phê thì quan Nội các họp cùng trực quan khác để duyệt, việc thuộc Bộ nào thì Nội các sao ra rồi đóng ấn Quan phòng “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” đưa cho Bộ ấy thực hiện. Bản chính Nội các lưu giữ, những bản thảo dụ chỉ vua phê ban xuống, Nội các cùng trực quan phê duyệt và quan Nội các viết ra tập khác. Nếu viết nhầm phải tẩy sửa thì những chỗ sửa đó phải đóng ấn Quan phòng của Nội các. Đời Đồng Khánh sau này, những chỗ sửa chữa đóng dấu kiềm có 2 chữ “Nội các”.

Khi quan Nội các được phê phụng lời chỉ dụ thì sau này cũng phải đóng dấu ấn quan phòng Nội các vào đầu trang trước dòng ghi niên hiệu. Phải ghi tên họ viên Nội các Nha môn ấy trực tiếp hầu duyệt, sau đó giao bản cam kết và Quan phòng ấn triện của Đường quan ấy lưu tại Nội các tâu lại viết rõ rồi đóng ấn Quan phòng của Nha môn và cả Nội các vào các văn bản đó.

Những tập tấu hoặc sắc văn có Châu phê, Châu cải, Châu khuyên hoặc Châu điểm thì Nội các lấy ngay bản phụ ấy, hoặc giấy khác viết theo đúng mẫu trên. Phần cuối viết rõ chữ “Nội các kính sao” rồi đóng ấn Quan phòng “Sung biện Nội các sự vụ quan phòng” và phát xuống trực ty tuân nhận. Những bản sao lại rồi viết rõ năm tháng ngày truy sao và ký tên đóng ấn Quan phòng Nội các làm bằng cứ đối chiếu.

Tất cả những văn bản phải đóng ấn Bảo, Tỷ đều được Nội các cùng trực quan, lục bộ, khoa đạo thực hiện hết sức nghiêm cẩn, phạm dù lỗi nhẹ cũng bị tội. Năm Minh Mệnh 20 (1839) chỉ vì giấy niêm vàng phiếu nghĩ bộ Binh chưa được Châu điểm mà bộ, ty không xem xét kỹ đã vội chuyển cho Nội các đóng ấn kim Bảo. Lỗi bị phát hiện lập tức chức Đãi chiếu ở Nội các và các viên Tư vụ thư lại ở bộ Binh đều bị phạt 100 trượng và cách bãi. Viên Nội các trực cùng khoa đạo thời điểm đó bị giáng một cấp, Đường quan bộ Binh chính tay phê phụng và trực thần Nội các đều bị giáng 3 cấp.

Xem xét những tập tiếp theo ở Châu bản triều Nguyễn từ cuối Thiệu Trị 4 (1844) trở đi, chúng tôi phát hiện thấy dấu quan phòng “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” có sự thay đổi. Về kích thước, nội dung, bố cục và loại chữ của dấu không thay đổi, nhưng cách viết chữ Triện của 2 dấu ở hai thời kỳ trên hoàn toàn khác nhau về kiểu chữ.

Sách chính sử có ghi về vấn đề này. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) nhà Nguyễn lại có sự cải tổ đối với Nội các. Thượng bảo tào được đổi làm Thượng bảo sở, ấn Quan phòng “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” cũng được khắc lại với hình thức, nội dung như cũ, chỉ khác về kiểu nét chữ Triện. Cuộc cải tổ này mặc dù đúng theo nguyên tắc cũ nhưng chức năng của Nội các với những việc được phân chia rõ rệt hơn trước, hình dấu “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” đánh dấu cho cuộc cải tổ này.

Chức năng của Thượng bảo sở có trọng trách hơn Thượng bảo tào. Phụng giữ chiếu, chỉ, châu thư, kim phượng đồng, kim ngọc Bảo Tỷ, ấn kiềm, Quan phòng, Đồ ký, Kiềm ký của Nội các và các nha môn trong kinh ngoài tỉnh, phụ trách viết chiếu dụ để hầu Bảo, và nhiều việc khác.

Cùng với lục Bộ và Khoa đạo, Nội các đóng vai trò quan trọng của bộ ba thực hiện chức năng văn phòng của Hoàng đế. Việc hầu Bảo đã thực hiện rõ chức năng này. Các bài dụ chỉ đã tinh tả và đề niên hiệu ở trước thì đóng ấn “Ngự tiền chi bảo” trên mỗi chữ “mỗ niên” ở dòng niên hiệu. Các lời dụ, chỉ biên ở đằng sau thì đóng “Ngự tiền chi bảo” trên chữ “Khâm thử”, còn các tập tấu có ngự bút châu phê thì đóng “Ngự tiền chi bảo” ở dưới châu phê đồng thời đóng ấn “Văn lý mật sát” vào nơi giáp trang của hai bản.

*
**

Đời Đồng Khánh đã tinh giảm chức quan và lại thuộc ở Nội các làm hai lần : đợt 1 - năm Đồng Khánh 1 (1886) và đợt 2 - năm Đồng Khánh 2 (1887). Từ đây trở đi Nội các giảm bớt vai trò trung tâm hành chính.

Năm Đồng Khánh nguyên niên (1885), các quan ở Nội các vì thấy ấn Quan phòng “Sung biện nội các sự vụ quan phòng” hình thức chỉ đơn giản làm kiểu tay quai, thế nhỏ và xấu, nét chữ Triện khắc mỏng và thời điểm này kiêng chữ húy "biện" 辨, nên tâu xin cho đúc Quan phòng mới bằng đồng hình thể đẹp hơn, núm hình sư tử ngồi. Mặt dấu khắc 8 chữ Triện “Sung lý nội các sự vụ quan phòng” 充 理 內 閣 事 務 關 防, đồng thời Nội các lại xin làm 1 kiềm nhỏ khắc 2 chữ “Nội các” 內 閣 . Sau đó các ấn đã được đúc và sử dụng.

Chúng tôi cũng đã in được dấu Kiềm “Nội các” trong Chư bộ vệ tấu tập đời Đồng Khánh nguyên niên. Dấu hình vuông kích thước 2,2x2,2cm khắc 2 chữ Triện “Nội các”, dấu đóng ở nơi giáp trang và chỗ sửa chữa (5).

Đến giữa năm Đồng Khánh 1(1886) các đại thần ở Viện Cơ mật tâu hạch tội của Nội các về việc làm trên cho rằng Nội các cố tình làm trái lệ cũ về hình thức của ấn, và lại đúc thêm kiềm nhỏ, như vậy khi phê phụng không biết đóng dùng thế nào. Dấu Quan phòng của Nội các chỉ dùng đóng vào dụ chỉ và bản lục sao ở 6 Bộ mà thôi, không được đem dùng cho Nha môn ở các tỉnh. Họ yêu cầu thu lại Quan phòng “Sung lý nội các sự vụ quan phòng” và kiềm nhỏ "Nội các" để hủy, theo mẫu cũ làm lại như xưa. Đồng Khánh đã nhất trí với các đại thần Cơ mật viện và phạt 3 viên quan Nội các là Cao Đệ, Phạm Phú Lâm và Nguyễn Văn Trung 9 tháng lương.

Những chi tiết này giải quyết cho chúng tôi điều thắc mắc về sự vắng mặt của dấu "Sung lý nội các sự cụ quan phòng" trong bảng sưu tập. Như vậy chúng tôi thấy rõ quy chế về việc làm và sử dụng ấn triện đến đời Đồng Khánh đã bị vi phạm song song với việc Đồng Khánh tinh giảm chức quan và lại điển không kiêng gì ở Nội các.

Ngày 2 tháng 5 năm 1935 Nội các đã được thay thế bằng Ngự tiền văn phòng do Bảo Đại thiết lập, chấm dứt 104 năm hoạt động.

CHÚ THÍCH

(1) Hầu bảo tức đóng dấu ấn vàng.

(2) Dấu "Văn thư quan phòng" đóng trong quyển 18 trang 391 đời Minh Mệnh 7 - Châu bản.

(3) Dấu "Sung biện nội các sự vụ quan phòng" đóng trong quyển 46 trang 4. Đời Thiệu Trị 2 - Châu bản.

(4) Sung làm công việc Nội các gồm hai người trật nhị phẩm là Thị Lang lục Bộ. hoặc Chưởng viện học sĩ, Trực học sĩ vi Hàn lâm, hai người trật tứ phẩm lấy Thị độc học sĩ viện Hàn lâm.

(5) Kiềm dấu "Nội các" đóng trong quyển 1 - Đồng Khánh nguyên niên - Châu bản./.

TB

NIÊN BIỂU NHÀ MẠC

LÊ THÀNH LÂN

Nước có lúc mạnh lúc yếu, mỗi triều đại có lúc thịnh lúc suy. Có thịnh mới giành được nước, có suy mới bị diệt vong. Nhà Mạc không ngoài lệ ấy.

Nhà Mạc chưa kịp cho viết sử về triều đại mình. Các sử quan triều Lê trung hưng và triều Nguyễn vẫn chỉ coi nhà Mạc là ngụy triều hoặc họ dùng một mỹ từ là nhuận triều để gọi. Điều đáng tiếc là họ không viết một kỷ dành riêng cho nhà Mạc mà chỉ phụ chép. Thái độ đó còn ảnh hưởng mãi về sau, đến những người làm niên biểu gần đây vẫn chép phụ một Thế phả họ Mạc, xếp cùng với thế phả họ Trịnh và thế phả họ Nguyễn. Từ cách nhìn thiên lệch ấy, dẫn đến chỗ không chú ý đến sưu tầm tư liệu về nhà Mạc, không khảo cứu cho chính xác, được chăng hay chớ. Đến thời chúng ta tư liệu chẳng còn được bao nhiêu, muốn khảo cứu cũng khó.

Có lẽ trong số các sử gia xưa, chỉ có Lê Quý Đôn có một ý thức rõ ràng về việc sưu tầm tư liệu và viết riêng về nhà Mạc trong Đại Việt thông sử(1), tuy vậy ông vẫn phải dùng từ nghịch thần. Ông cầm bút sau những năm tháng sôi động của nhà Mạc khoảng 200 năm, tất nhiên cũng có chịu ảnh hưởng của những tư liệu và cách nhìn của nhóm tác giả Đại Việt sử ký toàn thư(2), nhưng rõ ràng tư liệu của ông còn khá phong phú, nhiều chỗ có thể đính chính lại những sai sót của họ, như ta sẽ thấy sau này.

Gần đây, có nhiều người đã hướng sự chú ý của mình về nhà Mạc, điều này cũng tự nhiên khi có một cách nhìn mới sẽ có nhiều phát hiện mới. Chúng tôi vì thế mà được đọc và tiếp thu nhiều ý kiến cũng như tư liệu mới qua các tác phẩm Văn bia thời Mạc(3) Mạc thị thế phả hợp biên(4), Vương triều Mạc(5). Những kết quả nghiên cứu này mới chỉ là bước đầu, một ý tưởng, một phác họa, đôi chỗ chưa chuẩn xác, sơ lược. Dưới góc nhìn niên đại học, chúng tôi muốn đóng góp một chút vào thành quả chung đó.

Một chục năm trước, chúng tôi đã có ý định biên soạn lại niên biểu Việt Nam, nhất là niên biểu nhà Mạc, lúc đó chúng tôi đã nhận thấy có những chỗ sai lệch lớn, chẳng hạn năm sinh, năm lên ngôi của Mạc Mậu Hợp và viết bài Vài ý kiến về việc biên soạn niên biểu Việt Nam(6).

Có lẽ người đầu tiên làm một niên biểu Việt Nam tương đối hệ thống và chi tiết là Cadière với cái tên Tableau chronologique des dynasties Annamites(7). ở đó, chủ yếu ông đã tham khảo Việt sử thông giám cương mục(8) Đại Việt sử ký toàn thư, và dường như không tham khảo Đại Việt thông sử. Kể ra đối với niên biểu Việt Nam nói chung thì như thế là được, nhưng riêng về nhà Mạc có lẽ là không đủ và đã dẫn đến một vài sai sót đáng lẽ có thể tránh được. Nguyễn Bá Trác viết Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu(9) dường như độc lập với Cadière, nhưng kết quả cũng gần như vậy, đặc biệt là còn bỏ xót các niên hiệu: Đoan Thái, Hồng Ninh và Long Thái. Vụ Bảo tồn bảo tàng biên soạn cuốn Niên biểu Việt Nam(10), chỉ là kế thừa các tác giả đi trước, không sáng tạo thêm gì, làm thô đi bằng cách không ghi ngày cải nguyên, vì thế không làm rõ được các năm có hai niên hiệu, đặc biệt chép các vua nhà Mạc vào mục thế phả như họ Nguyễn và họ Trịnh là không đăng đối về lịch sử. So với cuốn lịch trên, Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử(11) của Nguyễn Trọng Bỉnh đã cố gắng chi tiết hoá đến ngày cải nguyên, nhưng hơi rườm rà và có phần không chính xác, như cho rằng Mạc Mậu Hợp có miếu hiệu là Mục Tông... Nhìn chung các niên biểu này đại để là giống nhau và có chỗ không chính xác.

Sự giống nhau giữa cá niên biểu này làm cho nhiều người hoàn toàn yên tâm, tin tưởng và do đó dẫn đến những sai sót. Tất nhiên, mỗi người có một chuyên môn riêng, khi đã động đến niên đại thì phải dùng các niên biểu này và vì thế mà dẫn đến sai sót thì cũng chẳng đáng trách. Đặng Kim Ngọc trong Vương triều Mạc là một ví dụ, anh viết: "ảnh hương của nhà Mạc đậm nhất là ở vùng Thăng Long và sứ Hải Dương. Các vùng khác rất ít tiếp xúc với chính quyền trung ương. Một ví dụ để chứng minh cho điều này: một số bia đã được dựng ở Hà Nam Ninh, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình khi dùng niên hiệu vua Mạc, không biết niên hiệu đó đã được thay đổi bằng một niên hiệu mới. Ví dụ như niên hiệu Quang Bảo có 8 năm (1554 - 1561), từ 1562 trở đi thuộc niên hiệu Thuần Phúc. Thế nhưng trên bia Hậu thần từ vũ bi ký ở huyện Đan Phượng, ngoại thành Hà Nội lại ghi năm Quang Bảo thứ 9 (1562), hoặc bia trùng tu Thanh Quang tự ở huyện Trực Ninh (Hà Nam Ninh) lại ghi năm Quang Bảo thứ 10 (1563)... (5, tr.67). Chúng tôi không bàn về nhận định trên của Đặng Kim Ngọc mà chỉ bàn về thí dụ của anh. Thí dụ đó không đắt vì thật ra các văn bia đều đúng cả, niên hiệu Quang Bảo được dùng 10 năm, từ đầu năm ất Mão (1555) đến hết năm Giáp Tý (1564) (chú ý rằng từ tháng Hai năm Giáp Tý đã sang thời Mạc Mậu Hợp, nhưng còn dùng niên hiệu Quang Bảo). Năm khởi đầu và năm kết thúc của niên hiệu Quang Bảo ở các niên biểu cũ đều sai cả. Đinh Khắc Thuân dịch Văn bia thời Mạc gặp những bia tương tự, cũng nghĩ như Đặng Kim Ngọc, dựa vào các niên biểu cũ mà ghi chú rằng bia sai, thế là lấy cái sai làm chuẩn để chú cho cái đúng. Các tác giả của Các nhà khoa bảng Việt Nam(12) cũng đã tin vào niên biểu cũ nên bị nhầm.

Rõ ràng có một nhu cầu khẩn trương soạn lại và công bố một niên biểu mới và chính xác về nhà Mạc, nhất là khi có nhiều người hướng vào việc nghiên cứu triều Mạc.

Hôm nay, chúng ta gặp một xu hướng mới, tạm gọi là “tìm lại nguồn gốc”, nhiều dòng họ đang chắp nối lại các chi phái, xây dựng các phả hệ, họ cần biết hành trạng của các tiên tổ của mình: ngày sinh, ngày thi đỗ, ngày nhậm chức, ngày kỵ..., khi đó họ cũng cần một niên biểu chính xác. Hy vọng niên biểu này của chúng tôi đáp ứng phần nào nhu cầu này.

Chúng tôi xin tóm tắt một vài kết quả mà chúng tôi đã thu được.

Chúng tôi đã dùng 6 bia (số 36, 39, 40, 47, 33 và 38) ở sách Văn bia thời Mạc và 2 khoa thi trong Đăng khoa lục(13) là: khoa thứ 13 vào năm Thuần Phúc 1 là năm Ất Sửu (1565) và khoa thi thứ 14 vào năm Thuần Phúc 4 là năm Mậu Thìn (1568) để chứng minh rằng Đại Việt thông sử (1, tr.311-313) đã viết đúng:

- Tháng Hai năm Quý Hợi (1563) Mạc Mậu Hợp sinh;

- Tháng Hai năm Giáp Tý (1564) Mạc Mậu Hợp lên làm vua;

- Lấy năm sau là Ất Sửu (1565) làm năm Thuần Phúc thứ nhất.

Chúng tôi ai cũng đã dùng hơn 60 bia trong số 147 bia + 1 chuông trong Văn bia thời Mạc cùng với niên đại của 22 khoa thi thời Mạc trong Đăng khoa lục xác định lại được 7 niên hiệu sau:

- Quang Bảo, gồm 10 năm, từ đầu năm Ất Mão đến hết năm Giáp Tý (1555 - 1564) chứ không phải 1554 - 1561.

- Thuần Phúc, gồm 4 năm, từ đầu năm ất Sửu đến giữa năm Mậu Thìn (1565-1568) chứ không phải 1562-1565.

- Sùng Khang, gồm 11 năm, từ giữa năm Mậu Thìn đến giữa năm Mậu Dần (1568 - 1578) chứ không phải 1566 - 1577.

- Diên Thành, gồm 8 năm, từ giữa năm Mậu Dần đến giữa năm Ất Dậu (1578 - 1585) chứ không phải từ đầu năm Mậu Dần đến hết năm Ất Dậu.

- Đoan Thái, gồm 4 năm, từ giữa năm ất Dậu đến giữa năm Mậu Tý (1585 - 1588) chứ không phải 1586 -1587.

- Hưng Trị, gồm 4 năm, từ giữa năm Mậu Tý đến giữa năm Tân Mão (1588 - 1591) chứ không phải 1588-1590.

- Hồng Ninh, gồm 2 năm, từ giữa năm Tân Mão đến gần cuối năm Nhâm Thìn (1591 - 1592) chứ không phải từ đầu năm Tân Mão đến gần cuối năm Nhâm Thìn.

Trước khi xây dựng niên biểu nhà Mạc, chúng ta cần có một cái nhìn tổng quát về giai đoạn lịch sử nước nhà từ 1527 đến 1802 nêu trong bảng 1: Nam - Bắc triều và Trịnh - Nguyễn phân liệt.

Tình hình đất nước giai đoạn này rất phức tạp, nhiều thế lực phong kiến vì quyền lợi ích kỷ của dòng họ mình tranh giành nhau quyền vị; đất nước bị phân chia, lúc thì Nam - Bắc triều, lúc thì Trịnh - Nguyễn phân liệt; chiến tranh liên miên, lúc thì giữa thế lực nhà Mạc với Lê - Trịnh, lúc thì Trịnh - Nguyễn, lúc thì Tây Sơn với chúa Nguyễn, đất nước chẳng mấy lúc được bình yên.

Cặp phạm trù chính triều - nhuận triều (hàm ý: ngụy triều) theo thiên kiến của các sử gia xưa, giờ đây không còn thích hợp cho việc soạn niên biểu nữa. Ở đây, chúng tôi dùng cặp phạm trù (vương) triều chính thức - (vương) triều cùng thời theo vai trò của triều đại đó về mặt kinh tế, văn hoá, quản lý xã hội, phạm vi lớn nhỏ về đất đai mà họ chiếm giữ, trong một chừng mực nhất định có đặt vấn đề họ có giữ được Thủ đô Thăng Long hay không.

Theo cách nhìn đó, thời Nam - Bắc triều, nhà Mạc được coi là triều chính thức, họ quản lý một phần đất đai rộng lớn ở phương Bắc, trong đó có Thủ đô Thăng Long; trong 60 năm ấy họ liên tục 3 năm một lần tổ chức được 20 khoa thi lấy đỗ hơn 400 Tiến sĩ, trong khi đó thế lực Lê - Trịnh đang nhen nhóm dần từ bên Lào, rồi về vùng Thanh Nghệ, mấy lần đánh ra Thăng Long rồi lại rút về; năm 1554 mới lần đầu cho thi Chế khoa, đến năm 1592 mới tổ chức được 7 khoa thi và lấy đỗ không nhiều, bởi vậy ta tạm coi là triều cùng thời. Từ 1593, thời Trịnh - Nguyễn phân liệt, nhà Lê - Trịnh mới được coi là triều chính thức, còn nhà Mạc là triều cùng thời.

Để thấy rõ quan hệ giữa các triều vua và các họ (về sau là các chúa) Trịnh, Nguyễn, chúng tôi bố trí bảng 1 thành 4 cột tạo nên một bảng không - thời gian, vừa biểu hiện tính đồng đại vừa biểu hiện tính lịch đại. Cột 1 dành cho triều chính thức. Cột 4 dành cho triều cùng thời. Cột 2 lúc đầu dành cho họ Trịnh và về sau là chúa Trịnh. Cột 3 lúc đầu dành cho họ Nguyễn và về sau là chúa Nguyễn.

Việc phân chia các giai đoạn hoàn toàn có tính chất tương đối. Chúng tôi tạm lấy ngày 16 tháng Tư năm Quý Tỵ (16-5-1593) là ngày Lê Thế Tông vào Thăng Long, đánh dấu sự thắng lợi có tính chất quyết định của thế lực Lê - Trịnh làm mốc kết thúc thời kỳ Nam - Bắc triều, từ đó thế lực nhà Mạc bị thu hẹp dần, cuối cùng chỉ còn chiếm giữ 4 huyện ở Cao Bằng cho đến 1677.

Điểm mốc phân ra Lê trung hưng và Lê mạt thực ra không rõ ràng, có thể ở cuối thế kỷ sau; nhưng với việc Trịnh Tùng xưng Bình An vương vào tháng Tư năm Kỷ Hợi (1599), bắt đầu thời vua Lê chúa Trịnh, thì vua Lê chỉ còn là hư vị, ta có thể tạm lấy mốc đó.

Họ Trịnh và họ Nguyễn đều lấy danh nghĩa Lê để cai quản đất nước. Sau việc Trịnh Tùng xưng vương, năm 1600 Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá cát cứ, có thể coi là bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân liệt. Trịnh - Nguyễn đánh nhau chỉ từ 1627. Họ Nguyễn mãi đến năm Giáp Tý (1744) mới xưng vương.

Niên biểu nhà Mạc được chia làm 3 giai đoạn:

M.a. 1527 - 1533: Một mình thống trị đất nước,

M.b. 1533 - 1593: Có thể coi là triều chính thức (Bắc triều).

Hai giai đoạn đó gồm chung vào bảng 2: triều chính thức.

M.c. 1593 - 1677: Được coi là triều cùng thời, lập thành bảng 3.

Nói chung, đối với triều chính thức, chúng tôi bố trí thành 10 cột, như ở bảng 2: Niên biểu nhà Mạc; A. Triều chính thức.

Cột 1 ghi thứ tự các vua của một triều đại.

Cột 2 ghi tên thật (húy) của vua; khi vua mất thì ghi miếu hiệu được vua con tân phong.

Cột 3 ghi các triều đại phong kiến phương Bắc hoặc nước thực dân thống trị khi đất nước bị ngoại thuộc. Trong trường hợp này ta bỏ trống.

Cột 4 ghi số năm tại ngôi của vị vua đó. Khi bị ngoại thuộc thì ghi số năm bị thống trị.

Cột 5 ghi niên hiệu. Khi chưa lên ngôi thì ghi các chức tước được đảm nhận. Ngoài ra còn ghi việc sinh, tử nếu biết rõ niên đại.

Cột 6 ghi số năm dùng niên hiệu đó. Chú ý là có những năm dùng 2 niên hiệu, nên được tính hai lần, tổng số năm dùng các niên hiệu của một vị vua sẽ lớn hơn hoặc bằng số năm tại ngôi, chẳng hạn Mạc Mậu Hợp ở ngôi 29 năm, dùng 7 niên hiệu (kể cả niên hiệu Quang Bảo, được dùng tiếp cho đến hết năm), nếu đem cộng một cách "máy móc" thì số năm dùng 7 niên hiệu đó sẽ là 34 !

Cột 7 ghi ngày, tháng (nếu có thể biết được) và năm can chi bắt đầu dùng niên hiệu đó.

Cột 8 ghi năm dương tương ứng với năm can chi ở cột 7, cốt để dễ tính, dễ hình dung.

Cột 9 ghi các niên hiệu của Trung Quốc tương ứng. Khi chưa lên làm vua, các chức tước được ghi theo niên hiệu của triều chính thức, ở đây là triều Lê tương ứng.

Cột 10 ghi đời vua tương ứng niên hiệu ở cột 9.

Kèm theo niên hiệu và đời vua, chúng tôi có ghi một phân số, tử số là niên thứ, mẫu số là số năm niên hiệu đó được dùng hay số năm tại ngôi của vị vua đó, để khi tính toán không bị "vượt khung". Chẳng hạn niên hiệu Sùng Khang 1 ứng với niên hiệu Long Khánh 2/6 nhà Minh. Như vậy, Sùng Khang 6 không thể ứng với Long Khánh 7 được nữa, bởi thế là "vượt khung", do Long Khánh chỉ được dùng có 6 năm. Ta có thể tìm ra Sùng Khang 6 ứng với Vạn Lịch 1 đời vua Thần Tông.

Bảng 3 là niên hiệu nhà Mạc khi là triều cùng thời, có cấu trúc gần giống bảng 2, khác là đã bỏ đi cột 3, chỉ còn 9 cột, do đó số thứ tự các cột tương ứng mà giảm đi 1. Cột 8 và cột 9 chỉ để đối chiếu với triều chính thức.

Đi sâu, cụ thể vào từng bảng, theo từng vị vua cần có lời bàn thêm cho rõ: những chỗ này, chúng tôi có đánh dấu hoa thị (*).

1. Về Mạc Đăng Dung:

Cuốn Vương triều Mạc ghi sai ngày sinh và ngày mất của ông do đem ghép ngày tháng âm vào năm dương (5, tr.14). Tộc phả họ Mạc ở Nghệ Tĩnh lại nhầm ngày mất của ông ghi theo can chi thành ra năm mất, nên sai lệch lớn.

- Về niên hiệu Hồng Thuận của nhà Lê được đem đối chiếu cũng cần bàn: Đại Việt sử ký toàn thư có ghi năm Canh Ngọ sai thành năm thứ 1(2, tr.57), đúng ra phải là năm thứ 2; còn việc ghi năm Tân Mùi là năm thứ 3(2, tr.63) thì đúng.

- Năm Bính Tý ở nhà Lê ứng với 2 niên hiệu. Việc Mạc Đăng Dung được phong chức Tả Đô đốc là sau khi nhà Lê đã cải nguyên thành Quang Thiệu vào ngày 27 tháng Tư năm đó.

2. Về Mạc Đăng Doanh:

- Tháng Chạp năm Kỷ Sửu (1529) Mạc Đăng Doanh xưng làm Hoàng đế, tôn Đăng Dung làm Thái thượng hoàng. Đến đầu năm sau Đăng Doanh mới lấy niên hiệu là Đại Chính. Lê Qúy Đôn ghi ngày mồng 1 tháng Giêng năm Canh Dần (1530) này là ngày Đinh Hợi (1, tr.269), có lẽ sai, theo chúng tôi phải là ngày Nhâm Thìn.

- Đăng Doanh miếu hiệu là Thái Tông. Do thời Nguyễn húy vua Thiệu Trị, mà sử sách sau đó đều ghi chữ Tông thành Tôn.

- Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng Đăng Doanh mất ngày 15 (2, tr.131), Lê Qúy Đôn lại viết là ngày 25, ông còn ghi ngày đó là ngày Mậu Ngọ (1, tr.179), đúng với lịch pháp; nên chúng tôi tin theo Lê Qúy Đôn.

3. Mạc Phúc Hải còn có tên là Đức Nguyên theo Đại Việt thông sử (1, tr. 280). Chữ Nguyên này có ý nghĩa là bắt đầu. Con ông là Phúc Nguyên, với chữ Nguyên có nghĩa là nguồn nước. Có người băn khoăn về trường hợp này, hai cha con có tên đồng âm khác nghĩa, liệu có đúng như vậy không ? Theo chúng tôi, quả thật Phúc Hải có tên là Đức Nguyên. Điều này phải dựa vào kết quả khảo về chữ húy.

Trong Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm (18, tr.63), Ngô Đức Thọ cho biết các địa danh có âm Dung Nguyên được đổi thành tên khác dưới triều Mạc, nhưng các địa danh có âm Doanh và Hải không thấy đổi. Trong văn bia không thấy buộc phải kiêng húy âm Dung, thậm chí cả chữ Nguyên là nguồn nước, nhưng lại thấy viết kiêng húy chữ Nguyên là bắt đầu.

Trong các văn bia, khi ghi năm đầu một niên hiệu, thường người ta viết là "nguyên niên". Trước khi Phúc Hải lên làm vua, ta thấy trong các văn bia thời Mạc có 3 lần dùng chữ "nguyên niên"; đó là bia số 3 trong cuốn Văn bia thời Mạc dựng năm Canh Dần (1530) có một lần viết "Minh Đức nguyên niên", lần sau lại viết "Đại Chính nguyên niên"; bia số 4 dựng năm Tân Mão (1531) cũng viết "Đại Chính nguyên niên" không kiêng kỵ gì (3, tr.37-38, 40). Nhưng, sau khi Phúc Hải lên ngôi vào năm Canh Tý (1540), chúng tôi thấy có đến 25 lần theo lẽ thường nên viết là "nguyên niên" đều đổi khắc là "sơ niên", bắt đầu từ bia số 15, khắc năm "Quảng Hòa sơ niên" (1541) (3, tr.64).

Chúng tôi bàn kỹ điều này, vì đây cũng là trường hợp ít thấy, hai vua cùng triều có tên tuy chữ viết khác nhau, nhưng lại đồng âm (Một trường hợp khác, cũng có khía cạnh tương tự, tuy không hoàn toàn giống là ở triều Nguyễn: Vua Minh Mệnh có tên là Nguyễn Phúc Kiểu, chữ Kiểu này có sách phiên âm là Hiệu; vua Kiến Phúc có tên là Nguyễn Phúc Hạo, có sách cũng phiên chữ Hạo này là Hiệu). Các tác giả Tộc phả họ Mạc ở Nghệ Tĩnh chắc có phân vân về tên gọi Đức Nguyên này nên không ghi lại, nhưng ghi lại một tên gọi khác của Phúc Hải là Đăng Hàn (14, tr.31), tiếc rằng không dẫn rõ căn cứ vào đâu.

4. Mạc Phúc Nguyên: dùng 4 niên hiệu: năm đầu dùng tiếp niên hiệu Quảng Hoà của vua cha cho đến hết năm; sau đó dùng các niên hiệu Vĩnh Định, Cảnh Lịch và Quang Bảo. Theo khảo cứu của chúng tôi qua 6 văn bia: 26, 28, 32, 33, 38, đặc biệt là bia số 23 (3, tr.77) việc cải nguyên Quang Bảo, muộn hơn ở các sách khác 1 năm, cụ thể là vào năm ất Mão (1555).

- Chúng tôi theo Đại Việt thông sử mà cho rằng Phúc Nguyên mất vào ngày 7 tháng Hai năm Giáp Tý (1564) (1, tr.311); có lẽ Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng ông mất vào tháng Chạp năm Tân Dậu (1561) (2, tr.146) là sai. Điều này dễ hiểu khi ta khảo cứu kỹ về Mạc Mậu Hợp.

5. Các niên đại liên quan đến Mạc Mậu Hợp là phức tạp nhất, đa phần do Đại Việt sử ký toàn thư viết sai hoặc không rõ; hầu hết các sách sử, niên biểu đều theo đó mà viết sai. Nhưng, cũng rất may là chúng ta có hơn 40 văn bia có niên đại chính xác làm thành một hệ thống hoàn chỉnh giúp ta chỉnh lý lại. Phối hợp với các cuốn cổ sử, có những niên đại ta có thể xác định chính xác đến ngày tháng, đôi chỗ chỉ biết nó xê dịch trong khoảng một vài tháng.

- Theo truyền thống, năm đầu Mậu Hợp dùng tiếp niên hiệu Quang Bảo của vua cha, tiếp theo là 6 niên hiệu nữa: Thuần Phúc, Sùng Khang, Diên Thành, Đoan Thái, Hưng Trị và Hồng Ninh.

- Bia số 36 ghi: "Thuần Phúc vạn vạn niên chi số, tuế tại Chiên Mông, Xích Phấn nhược; trọng thu cốc đán" (3, tr.112). Rõ ràng Thuần Phúc 1 là năm Ất Sửu (1565)

- Ngược lên ta biết ông lên làm vua năm Bính Tý (1564), đúng như Đại Việt thông sử đã viết (1, tr. 311); cũng từ đó ta có lý do để thừa nhận Đại Việt thông sử đã viết đúng về ngày mất của Phúc Nguyên.

- Theo bia số 47 (3, tr.134) và bia số 45 (3, tr.129) ta biết được việc cải nguyên Sùng Khang được tiến hành sau tháng Giêng và trước hoặc trong tháng Một năm Mậu Thìn (1568), chứ không phải đầu năm Bính Dần (1566) như đã ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư (2, tr.151).

- Chúng tôi theo Việt sử thông giám cương mục (8, tr.1381) cho rằng cải nguyên Diên Thành vào tháng 7 năm Mậu Dần (1578). Điều này không mâu thuẫn với văn bia.

- Theo bia số 99 (3, tr.242) và bia số 103 (3, tr.250) ta có thể thấy việc cải nguyên Đoan Thái trong khoảng thời gian từ mồng 3 tháng Sáu đến 25 tháng Mười năm ất Dậu (1585) chứ không phải đầu năm Bính Tuất (1586) như Đại Việt sử ký toàn thư (2, tr.175) đã viết. Tuy vậy, theo tinh thần đoạn văn trong Đại Việt sử ký toàn thư ấy, cũng như trong Đại Việt thông sử ta có thể đoán định thêm rằng việc cải nguyên được tiến hành đúng vào ngày 28 tháng Sáu năm ất Dậu (1, tr.344). Theo bia số 122 (3, tr.288) ta biết tháng Năm năm Mậu Tý (1588) vẫn còn thuộc niên hiệu Đoan Thái, việc cải nguyên Hưng Trị sẽ phải sau tháng Năm đó chứ không phải ngay đầu năm như Đại Việt sử ký toàn thư đã viết (2, tr.178).

- Việc cải nguyên Hồng Ninh phải sau tháng Tám, theo bia số 140 (3, tr.331) và trước mồng 3 tháng Chạp năm Tân Mão (1591), theo bia số 144 (3, tr.377) chứ không phải ngay đầu năm như trong Đại Việt sử ký toàn thư đã viết (2, tr.182).

- Mậu Hợp mất tháng Chạp năm Nhâm Thìn, theo lẽ thường năm Nhâm Thìn ứng với năm 1592, nhưng lúc này đã sang năm 1593.

- Tộc phả họ Mạc ở Nghệ Tĩnh đã theo Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử (11, tr.382, 384) mà ghi miếu hiệu của Mậu Hợp là Mục Tông, có lẽ là sai, chúng tôi chưa thấy cuốn sử nào viết như vậy. Có thể Nguyễn Trọng Bỉnh đã nhầm với Mục Tông nhà Minh, được chép ngay gần đấy trong Đại Việt thông sử (1, tr.314, 315).

6. Mạc Toàn làm vua có 3 tháng, từ cuối năm này sang đầu năm sau nên coi là 2 năm.

7. Mạc Kính Chi cũng như Mạc Toàn, nhưng trong 2 năm đó, dùng 2 niên hiệu: niên hiệu Bảo Định chỉ gần 2 tháng, niên hiệu Khang Hựu không đầy 1 tháng.

8. Mạc Kính Cung lên làm vua lấy niên hiệu là Càn Thống vào tháng Ba năm Lê Quang Hưng thứ 16, tức là năm Quý Tỵ (1593), người dịch Đại Việt thông sử đã ghi chú lầm thành năm 1592 (1, tr.366).

9. Mạc Kính Khoan đầu hàng nhà Lê trung hưng và được phong Thông quốc Công vào tháng Sáu năm Ất Sửu (1625). Đến đây coi như niên hiệu Long Thái chấm dứt.

10. Mạc Vũ Kính chạy sang Trung Quốc tháng Tám năm Đinh Tỵ (1677). Đến đây nhà Mạc mới chấm dứt.

Để kết thúc, xin thuật lại việc chúng tôi làm lại niên biểu nhà Mạc.

Mười năm trước, khi viết bài Vài ý kiến về việc biên soạn niên biểu Việt Nam, chúng tôi thấy Đại Việt sử ký toàn thư viết Mạc Mậu Hợp nối ngôi Phúc Nguyên vào tháng Chạp năm Tân Dậu (1561), lấy đầu năm sau là Nhâm Tuất (1562) làm năm Thuần Phúc thứ nhất (2, tr.147). Trong khi đó Đại Việt thông sử lại cho biết Mậu Hợp sinh vào tháng Hai năm Chính Trị thứ sáu, tức năm Qúy Hợi (1563) (1, tr.311). Thật là mâu thuẫn: chẳng lẽ Mậu Hợp lên làm vua, rồi 14 tháng sau mới chào đời ?

Giờ đây, trả lời câu hỏi đó, chúng tôi mới khẳng định Đại Việt thông sử viết đúng, nhưng vẫn còn những chỗ khác viết sai.

Khi đọc Mạc thị thế phả hợp biên, chúng tôi thấy các tác giả dường như đã ngẫu nhiên mà tìm thấy một sự thật là Mạc Mậu Hợp lên ngôi vào năm 1564 (tr. 40), nhưng rồi lại trở về với định kiến cũ: niên hiệu Thuần Phúc từ 1562 đến 1565 (tr.54). Đối với chúng tôi lúc ấy Thuần Phúc chỉ còn có một năm 1565. Đọc tiếp, chúng tôi thấy sách ấy mô tả hiện vật. "Khuông trị vệ lăng xuyên tiền sở chi ấn" do "Thượng bảo ty tạo" mà bên trái ấn có ghi Thuần Phúc 3 (tr.128). Thế là quả ấn này đã phá khung 1 năm của Thuần Phúc. Vậy là Sùng Khang cũng sai. Chúng tôi bèn quyết định xây dựng lại niên biểu này hoàn toàn từ các văn bia không phụ thuộc vào các niên biểu hiện có. Kết quả thật đáng ngạc nhiên: một hệ thống hoàn chỉnh, không một mâu thuẫn nội tại. Chúng tôi trao đổi với PTS. Ngô Đức Thọ để đối chiếu với Đăng khoa lục, thì thấy chúng khớp nhau hoàn toàn.

Thế là các hiện vật của một thời xa xưa đã nói lên tiếng nói chân thật về thời đại mình !

BẢNG 2: NIÊN BIỂU NHÀ MẠC.
A. TRIỀU CHÍNH THỨC 1527 - 1593

 

BẢNG 2: NIÊN BIỂU NHÀ MẠC.
A. TRIỀU CÙNG THỜI 1593 - 1677

 

TÀI LIỆU DẪN

(1) Lê Quý Đôn toàn tập. Tập III. Đại Việt thông sử. Nxb. KHXH. 1978.

(2) Ngô Sĩ Liên và các sử quan nhà Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập IV. Nxb. KHXH, H. 1973.

(3) Đinh Khắc Thuân (Sưu tầm, khảo cứu, dịch chú). Văn bia thời Mạc . Nxb. KHXH, H. 1996.

(4) Hoàng Lê (Biên soạn). Mạc thị thế phả hợp biên (Lưu hành nội bộ) H. 1988.

(5) Viện Sử học. Vương triều Mạc. Nxb. KHXH, 1996.

(6) Lê Thành Lân: Vài ý kiến về việc biên soạn niên biểu Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 6 (231), 1986, tr.61-68.

(7) Cadière, M. L. Tableau chronologique des dynasties annamites. BEFEO, t. V. 1905, tr. 77-145.

(8) Quốc sử quán Thế kỷ XIX. Việt sử thông giám cương mục. Tập XIV, NXB. Văn sử địa. Hà Nội. 1957.

(9) Nguyễn Bá Trác. Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu. Đắc lập ấn quán. Huế. 1924.

(10) Vụ bảo tồn bảo tàng. Niên biểu Việt Nam. Nxb. KHXH. 1970.

(11) Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh, Bùi Viết Nghị. Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử. Nxb. KHXH. 1976.

(12) Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb. Văn học, 1993.

(13) Đăng khoa lục. Ký hiệu VHv.650. Thư viện Viện Hán Nôm.

(14) Phan Xuân Thủy, Phan Đăng Diêu, Phan Đăng Ngàn. Tộc phả họ Mạc ở Nghệ Tĩnh. (Lưu hành trong nội bộ). 1979.

(15) Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm 1995.

(*) Cách gọi này theo gợi ý của Phó Tiến sĩ Ngô Đức Thọ. Mười năm trước, khi bàn về việc làm niên biểu (6), chúng tôi đã dùng cặp phạm trù Chính triều - đồng triều (phụ triều)./.

TB

VÀI SUY NGHĨ VỀ TÁC PHẨM
QUAN ÂM DIỆU THIỆN

NGUYỄN VĂN SÂM

Chúng ta có thể chia tác phẩm viết bằng chữ Nôm liên quan đến Phật Bà Quan Âm ra làm hai loại: Quan Âm Thị Kính Quan Âm Diệu Thiện. Gọi là Quan Âm Thị Kính là theo cách nói bình dân lâu đời. Gọi là Quan Âm Diệu Thiện là theo cách gọi tên nhân vật chính, vì nhân vật thành Phật Bà Quan Âm ở đây là công chúa Diệu Thiện con của vua Diệu Trang Vương, nước Hưng Lâm.

Bản Nôm Quan Âm Thị Kính có nhiều, bộ thư tịch về sách Hán và Nôm của người Việt Nam mới nhất là Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Hà Nội 1993, quyển 2, số thứ tự 2776 nhắc đến 9 bản in. Ta có thể chia những bản này ra làm hai thoại, thoại nhiều tính văn chương bác học và thoại ít tính bác học hơn. Loại trước nhiều hơn mà quan trọng nhất là Quan Âm chú giải tân truyện 觀 音 注 解 新 傳, in năm Tự Đức Mậu Thìn (1868) và Mậu Dần (1878), do Thịnh Văn Đường tàng bản ấn hành 盛 文 堂 藏 版 (quyển trước có tại Thư viện Viện Hán Nôm Việt Nam và quyển sau tàng trữ tại Trường Sinh ngữ Đông phương Pháp, bản Microfilm có phổ biến ở Việt Nam). Thoại này đã được phiên âm ra quốc ngữ nhiều lần, tuy rằng người phiên âm không khai thác trên phần chú giải. Có giá trị nhất là bản phiên âm của Thiều Chửu.

Cũng đề tài Quan Âm Thị Kính nhưng thuộc thoại khác là Quan Âm diễn ca toàn truyện 觀 音 演 歌 全 傳 (bản hiệu đính do Minh Chương Thị 明 張 氏 ấn hành năm Bính Thân (1896), Bảo Hoa Các tàng bản 寶 花 閣 藏 版. Bản này chưa từng được phiên âm và bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam cũng không thấy nhắc đến bản này.

Truyện Quan Âm Thị Kính nói chung, thoại nào văn chương cũng lưu loát, từ ngữ ít hay nhiều cao diệu, điển tích chính xác, tạo được sự khoan khoái cho người đọc khi thưởng thức văn chương bởi tính cách hàm súc ít lời nhiều ý. Có thể nói đây là truyện Nôm trong dòng bác học, ảnh hưởng nhiều trong dân Việt bao nhiêu năm nay.

Loại truyện Quan Âm thứ hai mà tôi gọi là Quan Âm Diệu Thiện. Loại này ảnh hưởng ít hơn, nhất là ở miền Nam không nhiều người biết đến. Loại này gồm có:

1. Quan âm tế độ diễn nghĩa kinh 觀 音 演 渡 濟 演 義 經 . Đây là bản Nôm bình dân nhất và dài nhất trong loại Quan Âm, hơn 4000 câu, in năm Quang Tự thập tứ niên Mậu Thân 1908), do hai tín nữ Nguyễn Từ Nguyên và Huỳnh Diệu Trúc bỏ tiền ra lo việc khắc ván. Chữ Nôm khắc đẹp rõ theo giọng miền Nam trong câu văn và nhiều chữ viết theo cách Nam với những sai lầm chính tả như n/ng, c/t hoặc mượn âm mà không lưu ý đến ngữ nghĩa. Tính chất Kinh (nói nhiều về đạo đức ở đời, về niềm tin tôn giáo, về sự trả phước lại khi làm theo điều giảng dạy) là nhiều nhất trong tất cả các tác phẩm liên quan tới ý niệm Quan Âm. Bản này dài, nhiều trùng lặp. Các chuyện đi xuống địa ngục với những mô tả hình phạt nơi âm giới là những ý niệm ta thường thấy trong các truyện Nôm bìmh dân thế kỷ 19 là Phạm Công Cúc Hoa Mục Liên Thanh Đề. Sự kiện giống nhau này do sự ảnh hưởng từ nguồn kinh sách thời Mãn Thanh với khái niệm trừng phạt kẻ ác đức không lo tu niệm, xâm nhập vào nước ta thời đó, mà “Hồi dương nhơn quả” là một thí dụ cụ thể. Bộ Di sản Hán Nôm... cũng không thấy nhắc đến quyển Quan Âm tế độ diễn nghĩa kinh 觀 音 演 渡 濟 演 義 經 này.

2. Nam Hải Quan Âm bản hạnh quốc ngữ diệu soạn trùng san 南 海 觀 音 本 行 國 語 妙 撰 重 刊 do Lê Mạnh Thát phiên âm trong bộ Chân Nguyên thiền sư, Vạn Hạnh Sài Gòn 1979, gọi đây là bản Vũ Tạo, vì vào năm 1850 ông bà Vũ Tạo đã đứng ra lo việc khắc in. Bản này dài, chữ dùng thuần Hán rất nhiều, lý luận về đạo Phật có tính cách vi diệu thâm sâu. Xen lẫn trong chuyện có nhiều đoạn không phải là thơ lục bát. Ta có thể nói đây là bản bác học của đề tài Quan Âm Diệu Thiện. Lê Mạnh Thát mách rằng bản Vũ Tạo có câu rất quan trọng là: “Trúc lâm Tuệ Đăng hòa thượng Chính Giác Chân Nguyên diệu soạn”. Căn cứ từ đây ông khẳng định rằng tác giả Nam Hải Quan Âm bản hạnh 南 海 觀 音 本 行 là Hòa thượng Chân Nguyên, thuộc Phật giáo phái Trúc Lâm.

3. Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca 南 海 觀 音 佛 跡 歌 . Cũng theo học giả Lê Mạnh Thát, bản này, bản này do chùa Vũ Thạch chứa bản gỗ, không đề ngày tháng khắc in, cũng không ghi ai là người soạn, người viết. Lê Mạnh Thát gọi đây là bản Vũ Thạch. Bản này chữ dùng đơn giản, từ thuần Việt nhiều hơn, nhiều câu được viết thật dễ hiểu. Các đoạn không phải thơ không cần thiết lắm, xen lẫn vào trong truyện như bản Vũ Tạo không nhiều. Những đoạn lý luận về Phật giáo không vi diệu và nhiều khi quá đơn giản. Có thể coi đây là bản bình dân của Nam Hải Quan Âm bản hạnh.

Sau khi so sánh sơ lược hai bản Nôm 2, 3 học giả Lê Mạnh Thát kết luận rằng bản Vũ Tạo có trước và sự khác biệt giữa hai bản là do người đời sau sửa đổi, đơn giản hóa, bình dân hóa để phù hợp với nhu cầu của quảng đại quần chúng trong việc hiểu đạo Phật. Ông cho rằng bản Vũ Thạch sinh ra do quá trình bình dân hóa tác phẩm của Hòa thượng Chân Nguyên.

Chúng tôi trong bài này chưa muốn đi sâu vào việc biện luận về tác giả và về văn bản, chỉ muốn nhân những bản Nôm mà mình có trước mắt, phân loại truyện lấy đề tài Phật Bà Quan Âm và nhận định sơ lược ý nghĩa truyện Nôm Nam Hải Quan Âm (Phật sự tích ca) mà thôi. Cũng cần nói thêm là truyện Nôm loại Quan Âm Diệu Thiện hiện nay cũng còn rất nhiều. Di sản Hán Nôm số 2775 nhắc đến 7 bản in, 1 bản viết; số 2793 nhắc thêm 2 bản in và số 2794 nhắc thêm 1 bản in nữa. Hiện chúng tôi chỉ tham khảo được bản Vũ Thạch (trong Chân Nguyên toàn tập) và bản Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca, ký số Vietnamien B.23 của Thư viện quốc gia Pháp (số 2793 của Di sản). Bản này khắc in chung với Quan Thế Âm Thánh tượng 觀 世 音 聖 像 và Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh 觀 世 音 真 經 , do hai tín nữ Văn Thị Tám, Nguyễn Thị Bảo san khắc tín cúng, ván khắc tại xã Liễu Chàng và sau đó lưu giữ tại chùa Diễn Khánh, Hà Nội. Chắc chắn rằng về văn bản, hai bản Vũ Thạch và Văn Thị Tám là một, chỉ khác nhau về thời gian khắc in mà cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy chứng tích rõ ràng về mặt vật chất.

Nam Hải Quan Âm (tôi gọi bằng tên Quan Âm Diệu Thiện) chủ yếu trình bày về đường tu và hành thiện của một người con gái quyết chí đi đến cùng con đường hành đạo, tu tập của mình. Cảm ứng đạo ở đây là cảm ứng tự ngộ không qua sự thuyết giảng của bất kỳ một vị cao tăng nào đi trước. Giá trị ở chỗ đó, như một cảm nhận bẩm sinh về lẽ huyễn hóa, hư ảo của cõi đời, nên từ chối cuộc sống đời. Đạo gắn liền với con người của công chúa là không do thủ đắc, nên không thể mất vì bỏ cuộc phá giới; không do hoàn cảnh gia đình hay nghịch cảnh cá nhân thúc đẩy, nên sự ngộ đạo có tính cách gắn bó, thuần thành. Công chúa Diệu Thiện ngay từ thuở thanh xuân đã chọn lối đi đặc biệt cho mình không giống bất kỳ ai trong cùng hoàn cảnh. Được vua cha thương yêu và hứa sẽ cho phò mã - chồng tương lai của bà lên nối ngôi sau này, nhưng bà nhất định đi tu, không thực hiện chuyện hôn nhân, mặc dầu chịu áp lực vô vàn nặng nề từ phía vua cha. Bà lý luận rằng mình tu hành ngoài việc giải thoát cho mình, còn là trả được chữ hiếu, bằng cách độ vớt cho phụ mẫu thoát khỏi trầm luân trong vòng luân hồi ở những kiếp sau (Nhưng tôi khổ hạnh bây giờ, mai sau cha mẹ được nhờ độ siêu, kẻo e nghiệp chướng đã nhiều, chẳng tai bể khổ cũng nghèo sông mê/ Hiếu là độ được đấng thân).

Trả hiếu như vậy dĩ nhiên không phải trả cái hiếu theo quan điểm Khổng giáo, cũng không phải trả cái hiếu theo sự hiểu của con người Phật tại gia hay tu trì. Chữ hiếu quan niệm theo cách này là ngoài tầm tay của con người bình thường sống trong thế giới của cõi đời, trong xã hội và cả trong chùa chiền, vì nó cần đến sự thấu triệt nguyên lý tu Phật và sự dũng cảm xóa bỏ cuộc sống xã hội của chính cá nhân mình. Hiếu Khổng hóa hợp với tu Phật để trả công sinh thành sẽ vi diệu hơn, nhưng dễ bị chống đối bởi người bình thường trong xã hội mà lý tưởng cuộc đời là giữ khư khư những gì thuộc về mình. Đức vua Trang Vương điển hình về con người xã hội nói trên. Ông cấm đoán con gái mình không được xuất gia không phải là vì ghét đạo, sợ đạo như trường hợp vài vua nhà Nguyễn trong lịch sử Việt. Mà bởi vì ông quá yêu chuộng cái giang sơn của mình. Không có người đàn ông liên hệ xa gần với mình lên kế vị ngôi vua giữ nước cho mình thì giang sơn mình sẽ vào tay kẻ khác, dòng họ khác. Ông sẽ mất tất cả. Cấm đoán con mình đi tu chỉ là hình thái thấy được của ý thức muốn kéo dài cơ nghiệp của mình.

Từ răn đe, cấm đoán, ngăn trở, đến cô lập, đầy ải, giết chóc chỉ có một bước ngắn nhưng rất quan trọng, bước điều khiển do lòng tự ái và ích kỷ. Trong khi đó con gái của ông, công chúa Diệu Thiện quyết tâm đi cho đến cùng con đường mình đã vạch. Càng trở ngại bà càng kiên trì, càng nguy hiểm bà càng bền tâm. Không đủ năng lực để vượt qua thì đã có sự trợ giúp của Phật Tổ, của Ngọc Hoàng. Những huyền năng này có thể được hiểu như những thành công vĩ đại sau những khó khăn của sự cố gắng tột cùng. Bởi vậy mãnh hổ tha đi khỏi pháp trường khi lưỡi đao của người đao phủ vừa múa tới, hay đường xa ngàn dặm đã có mãnh hổ đưa lưng ra chở, rồi chim chóc, muông thú đến giúp đỡ này kia trong những lao động cực nhọc. Đó chỉ là những cách thức điễn tả từ lâu đời của quảng đại quần chúng về những tự lực tối đa của người tu hành để thoát hiểm trong nguy biến hay nghịch cảnh.

Dĩ nhiên con người càng thuộc về thời xa xưa càng có khuynh hướng tin tưởng thần quyền linh thiêng và mầu nhiệm. Tin tưởng những cứu trợ đó là do Phật Tổ thực hiện, vì bà chúa Ba rất sùng Phật pháp, vì bà là hóa thân của một vị Bồ tát, là những tin tưởng thuần thành. Đây không phải là sự đòi hỏi đáp ứng gì về công sức tu hành, đây chỉ là niềm tin để trợ duyên giúp người tu đầy đủ nghị lực bước ra khỏi những khốn cùng của nghịch cảnh. Cũng vậy, khi tin tưởng tu hành cần mẫn thì trí huệ sáng láng, có thể thấy trước các việc xảy ra, thì cắt mắt, cắt tay cũng sẽ hoàn lại, lành lại là những cách tin rất lâu đời và phổ biến của những niềm tin dân gian ở Á đông. Niềm tin đó giúp chiến thắng những chùn bước, giúp tinh tấn trên đường hành đạo, phát huy tính thiện và can đảm hành động theo lẽ phải. Truyện Nam Hải Quan Âm ở mặt này đã trở thành một loại kinh cứu khổ từ bao nhiêu năm nay.

Ta không lạ khi thấy trong nhiều bản chữ Nôm cũng như bản phiên âm quốc ngữ có in kèm theo cả kinh tụng Cao Vương Quan Thế Âm Chân kinh để cầu cứu khổ cứu nạn.

Tính chất văn chương nhiều thì chúng ta có “truyện”, niền tin tôn giáo và tín ngưỡng có nhiều thì chúng ta có “kinh”. Chỉ có dòng truyện Quan Âm Diệu Thiện được ở vị trí “kinh” mà thôi. Dòng truyện Quan Âm Thị Kính chưa được hân hạnh đó, vì chưa chứa đầy đủ niềm tin tôn giáo và tín ngưỡng. Chưa ai coi truyện Nôm Quan Âm Thị Kính như một quyển kinh bao giờ.

Lý do khác là truyện hàm chứa một tinh thần cứu khổ vô biên. Sự đau đớn xót xa của bà Diệu Thiện khi du địa phủ, chứng kiến những tội nhân bị hành hạ vì mắc những tội lỗi trên trần thế cho thấy điều đó. Bà nhìn thấy trước mặt toàn những u hồn khổ nạn, đầy đọa, nhục hình. Bà không thấy những tội nhân làm quấy làm ác, tàn độc, điêu trá. Chỉ có khổ nạn hiện tại của chúng sinh là mới đáng kể, quá khứ của họ trở thành chuyện đã qua. Cho nên bà xin Diêm chúa tha thứ cho tất cả u hồn đang bị giam cầm nơi Địa ngục. Bà đại diện cho lòng từ bi, không đại diện cho tinh thần luật pháp, tha tất cả hình phạt, xóa tất cả tội lỗi. Cũng vậy bà xin cho hai yêu tinh sư tử xanh và voi trắng khỏi bị Phật Tổ gia hình, mặc dầu chúng trước đây đã mắc tội vô vàn với hai người chị của bà.

Với Quan Âm Thị Kính, Thị Kính là người đàn bà chấp nhận hàm oan (vì chồng, vì một người đàn bà, vì một đứa trẻ) và đi tu vì một lẽ đời do nghịch cảnh của hàm oan với Quan Âm Diệu Thiện, Diệu Thiện là người đàn bà từ bi thương yêu khắp cả chúng sinh mọi loài, và đi tu vì lẽ đạo do một sự tự ngộ. Thị Kính đau khổ vì gia đình, vì những thối tha trong xã hội tác động lên bà. Nhìn chung bà chịu đựng đau khổ gây nên do những chuyện riêng tư của mình nhiều hơn. Diệu Thiện đau khổ vì lòng tín tu, vì tội nhân trong Địa ngục. Bà chịu đựng vì lẽ đạo và lòng từ bi nhiều hơn. Đau khổ nào cũng là đau khổ. Thị Kính hay Diệu Thiện cũng là những trường hợp người phụ nữ bị áp bức và thái độ chịu đựng của hai người đó đã được biết bao nhiêu thế hệ kính phục, chiêm ngưỡng, noi theo. Chỉ có cái nguyên ủy của tinh thần chịu đựng là khác.

Trong Quan Âm Diệu Thiện, người đàn bà cũng đáng thương không kém là chánh cung hoàng hậu, vợ của Trang Vương, mẹ của Diệu Thiện công chúa. Trước mặt bà luôn luôn là nỗi khổ. Sự xung khắc giữa chồng và con gái đưa đến những thua thiệt tận cùng của đứa con: tù tội, bị hành hạ, khổ sở, ly tan, chết chóc. Những điều này luôn luôn xảy ra trước mắt bà. Bà lăn khóc ngả nghiêng, bà hai hàng nước mắt tuôn rơi cũng chỉ vì thương con mà phải chứng kiến thảm cảnh không thể tưởng tượng được về con mình. Cái tay đó nằm trên mâm sẵn sàng để làm thuốc cho chồng bà. Bà biết rõ ràng đó là cánh tay con mình. Bà xác nhận bằng lý chứng mối tương cảm mẹ con, nốt ruối chính giữa hổ quan, thật con tôi đó còn bàn rằng ai. Bà cũng biết rõ rằng con mình vì thương cha mà chấp nhận chặt tay, khoét mắt. Cái đau xót thương con cộng thêm với sự nhận chân về sự khác biệt giữa hai cha con, làm cho nối khổ của bà tăng thêm gấp bội. Những chi tiết này nâng truyện Nam Hải Quan Âm về mặt nghệ thuật truyện ở phần tâm lý của người đàn bà Việt Nam trong gia đình.

Ông Phật Quan Âm nguyên thủy ấn Độ sang các nước á châu viễn đông đã chuyển sang nữ phái, Phật bà. Chuyển giới tính cũng chỉ là để đáp ứng vai trò từ bi dịu hiền của một đức Phật chuyên lo cứu vớt chúng sinh qua những khổ nạn trong cõi đời hiện tại. Giải thích sự chuyển giới tính đó ở cả hai Quan Âm Diệu Thiện Quan Âm Thị Kính là đều vận dụng đến một tiền kiếp lỗi lầm, hoặc vì đã để cho người ác có cơ xuất hiện, hoặc vì đã lỡ lời hứa về một chuyện kiếp sau. Nam, nữ do vậy chỉ là hóa thân, hình thức. Đó không phải là một tình trạng đã hoàn thành, đó chỉ là một trong chuỗi dài nhiều kiếp, một tình trạng của giai đoạn thời gian.

Trong hoàn cảnh khó khăn tu tập của người Việt Nam ở khắp nơi, việc ôn tập để thấy rõ ràng công đức tu hành và hình ảnh trọn vẹn của công chúa Diệu Thiện quả là điều tối cần thiết. Cái tu khổ của bất cứ ai trong chúng ta hiện giờ đã thấm vào đâu ! Và cuộc sống khổ của chúng ta lại càng không đáng kể hơn nữa./.

TB

CHU DỊCH
VỚI VẤN ĐỀ LUÂN LÝ ĐẠO ĐỨC

LÊ VĂN QUÁN

Đạo đức là những nguyên lý, quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với xã hội và cộng đồng. Nó là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh sự tồn tại xã hội. Nội dung đạo đức quyết định bởi điều kiện lịch sử xã hội, sự tồn tại của xã hội. Nó không thể thoát ly điều kiện lịch sử nhất định của xã hội mà tồn tại độc lập. Quan điểm niềm tin đạo đức và cảm tình đạo đức khác nhau đã tạo thành ý thức đạo đức khác nhau. Quan niệm đạo đức lại được biểu hiện bằng những nguyên tắc đạo đức và những quy phạm hành vi nhất định. Trong xã hội giai cấp, hành vi con người và đặc biệt là những quy phạm hành vi được coi là hạt nhân của đạo đức. Nó biểu hiện vì quan hệ của con người với xã hội và mối quan hệ giai cấp nhất định. Quan hệ đó là sản phẩm của quan hệ kinh tế xã hội nhất định, quyết định bởi cơ sở kinh tế xã hội và phục vụ xã hội. Ăng - ghen nói: “Mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi oích của giai cấp thống trị hoặc là khi giai cấp bị trị trở nên khá mạnh nó biểu hiện cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”(1).

Điều này tức là nói, nguyên tắc đạo đức trìu tượng siêu lịch sử, siêu thế giới là điều không thể tồn tại. Khi xã hội loài người tiến vào xã hội nô lệ chế độ tư hữu thì sẽ nảy sinh vấn đề thái độ và quan hệ cá nhân đối với đất nước, đối với tập đoàn và cả đối với của cải, quyền lực chính trị... Do đó, cũng nảy sinh những quan niệm đạo đức, quy phạm hành vi phải, trái, tốt, xấu thích ứng với yêu cầu ở chế độ nô lệ.

Kinh Dịch cũng đã phản ánh mầm mống quan niệm đạo đức và những quy phạm về hành vi thích ứng với chế độ nô lệ. Trong chế độ nô lệ, đánh giết, mua bán nô lệ không bị coi là trái với quy định hành vi đạo đức. Kinh Dịch đã cung cấp cho chúng ta tình hình mua bán nô lệ ở cuối đời Ân đầu đời Chu, không bị coi là trái đạo đức:

“Lữ tức thứ, hoài kỳ tử, đắc đồng bộc, trinh”.
(Lữ, cửu nhị)

(Khách đến quán trọ, giữ được của cải, tiền bạc, được đầy tớ, tốt (chính bền).) (Quẻ Lữ, hào 2, dương)

“Lữ phàn kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”.
(Lữ, cửu tam)

(Khách đốt quán trọ, mất đầy tớ, dù chính đáng cũng nguy hiểm)
(quẻ Lữ, hào 3, dương)

Với con mắt chủ nô lệ thì việc được (mua) nô lệ là tốt, là phù hợp với hành vi đạo đức. Và nô lệ chạy trốn tức là biểu thị nô lệ phản kháng, là nguy hiểm, là không phù hợp với hành vi đạo đức.

Trong chế độ nô lệ, chiến tranh cướp đoạt được coi là phù hợp với hành vi đạo đức. Mục đích của cuộc chiến tranh này là, cướp đoạt đất đai, của cải và nô lệ. Dưới con mắt của giai cấp chủ nô lệ thì chiến tranh cướp đoạt chẳng những không bị dư luận xã hội lên án, mà còn được coi là hành vi quang vinh và dũng cảm. Kinh Dịch đã ghi lại:

“Hữu phù luyên như, vô cữu”
(Trung phu, cửu ngũ)

(Bắt được tù binh trói lại, không có lỗi).
(Quẻ Trung phu, hào 5, dương)

“Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạm, vô bất lợi.”
(Khiêm, lục ngũ)

(Không giàu, cho nên thu phục nước láng giềng, lợi dụng lấn đánh, không gì là không có lợi).
(Quẻ Khiêm, hào 5, dương)

Đạo đức chủ nô lệ yêu cầu, trong chiến tranh cướp đoạt, giành được của cải và nô lệ càng nhiều, chẳng những được coi là trung thành với nhà nước chế độ nô lệ, mà còn được coi là một đạo đức tốt đẹp, dũng cảm.

Ở chế độ nô lệ, coi thường phụ nữ và giữ trinh tiết được coi là quy phạm hợp đạo đức. Trong xã hội đẳng cấp của chế độ nô lệ, phụ nữ bị coi thường. Chế độ một vợ một chồng chỉ là sự trói buộc người phụ nữ, còn nam giới thực tế lại không có sự ràng buộc ấy. Chẳng hạn, người con gái lấy chồng, không sinh đẻ, chẳng những bị xã hội coi khinh mà có lý do để người chồng ruồng bỏ:

“Đắc thiếp, dĩ kỳ tử, vô cữu”
(Đỉnh, sơ lục)

(Gặp được nàng hầu, để sinh con với mình, không có lỗi).
(Quẻ Đỉnh, hào 1, âm).

Vì vợ không có con mà người chồng ly hôn hoặc lấy vợ lẽ, đều coi là hành vi hợp đạo đức. Ở chế độ nô lệ tư hữu, điều đó có liên quan đến việc kế thừa tài sản. Nhưng trên cơ sở chế độ tư hữu, chế độ một vợ một chồng chỉ đối với phụ nữ. Thông dâm đã từng coi là hành vi xấu cũng chỉ đối với phụ nữ. Phụ nữ phá hoại trinh tiết phải đền bằng sinh mạng hoặc bị bán làm nô lệ. Tình hình đó, ở Kinh Dịch cũng phản ánh:

“Hằng kỳ đức, trinh, phụ nhân cát, phu tử hung”
(Hằng, lục ngũ)

(Giữ được lâu dài đức của mình, bền và chính, đàn bà tốt, đàn ông xấu)
(Quẻ Hằng, hào 5, âm)

“Phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung”
(Tiệm, cửu tam)

(Chồng đi xa (ra trận) không về, vợ có mang không nuôi, xấu.)
(Quẻ Tiệm, hào 3, dương).

Lời hào thứ 5, âm, quẻ Hằng nói, người phụ nữ cần giữ trinh tiết thì được coi là hành vi tốt đẹp. Trái lại, nếu như người phụ nữ không giữ được trinh tiết thì sẽ bị khiển trách và bị coi thường. Lời hào thứ 3, dương, quẻ Tiệm nói, chồng đi chiến trận chưa trở về, vợ ở nhà lại có mang, Kinh Dịch coi điều này là xấu. Nhưng con trai không cần phải “chung thủy” với vợ mình, không tuân theo chế độ một vợ một chồng, cho nên con trai giữ trinh tiết lại coi là hành vi xấu. (lời hào thứ 5, âm, quẻ Hằng).

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, và có tác dụng duy trì trật tự xã hội và lợi ích công cộng. Cái lợi ích công cộng mà ở đây đề cập đến, không phải là lợi ích chung của giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị mà là lợi ích của nhà nước thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Nhưng để điều chỉnh quy phạm đạo đức trong quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và tập thể xã hội, thì nó lập lờ trong quan hệ lợi ích nhà nước. Nó không phải thực hiện bằng sức mạnh cuỡng chế của pháp luật nhà nước, nhưng nó đối với hành vi của con người lại có tác dụng trói buộc rất lớn. Ở Kinh Dịch đã ghi lại những quy phạm hành vi và quan niệm đạo đức để duy trì trật tự xã hội và lợi ích công cộng lúc bầy giờ.

Thứ nhất là, đức “Khiêm” được tác giả Kinh Dịch cho là đạo đức đẹp:

“Khiêm, hanh, quân tử hữu chung”.
(Khiêm, quái từ)

(Quẻ Khiêm, hanh thông, người quân tử (giữ trọn vẹn tới cùng)
(Khiêm, hào 1, âm)

"Khiêm, khiêm, quân tử dụng thiệp đại xuyên, cát".
(Khiêm, sơ lục)

(Khiêm nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn, tốt).
(Khiêm, hào 1, âm)

Thứ hai là, “tiết” cũng được tác giả Kinh Dịch cho là đức tốt đẹp. Chẳng hạn:

“An tiết, hanh”
(Tiết, lục tứ)

(Yên với sự tiết kiệm, hanh thông).
(Quẻ Tiết, hào 4, âm)

“Cam tiết, cát, vãng hữu thượng”
(Tiết, cửu ngũ)

(Vui với tiết chế, tốt, cứ thế mà đi thì được khen)
(Quẻ Tiết, hào 5, dương)

Ở đây, thái độ của tác giả Kinh Dịch rất rõ ràng. Tác giả ca ngợi đức khiêm, ca ngợi sự tiết kiệm là những đạo đức tốt đẹp. Đặc biệt tác giả Kinh Dịch khuyên răn mọi người :

“Bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”
(Tiết, cửu tam)

(Không tiết kiệm mà than vãn, không đổ lỗi cho ai được)
(Quẻ Tiết, hào 3, dương)

Đạo đức quý trọng tiết kiệm, hiển nhiên là phản ánh sự tồn tại trong xã hội lúc bấy giờ. Bọn thống trị chủ nô lệ đời Thương răn dạy giai cấp chủ nô lệ không nên xa xỉ hoang dâm. Vua ban hành lệnh quý trọng tiết kiệm:

“Trẫm bất kiên hiếu hóa, cảm cung sinh sinh cúc nhân, mưu nhân chi bảo cư, tự, khâm”.
(Thượng thư - Bàn Canh hạ)

(Ta không dùng những người chỉ ham tiền của. Hi mà kính cẩn, có lòng vì dân, lo cho dân được an cư, thì ta kén dùng và khâm phục.)

Bọn thống trị coi tiết kiệm là hành vi mẫu mực của đạo đức, là phương pháp quan trọng duy trì sự thống trị lâu dài:

“Thận nãi kiệm đức, duy trì Vĩnh đổ”
(Thượng Thư, Thái giáp thượng)

(Cẩn thận giữ lấy đức kiệm, nghĩ đến việc lâu dài về sau).

Thứ ba là đức “kính” cũng được tác giả Kinh Dịch coi là đạo đức tốt đẹp. Kinh Dịch đã ghi:

“Hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.”
(Nhu, thượng lục)

(Có ba người khách thủng thẳng tới, kính trọng họ thì sau tốt lành.)
(Quẻ Nhu, hào 6, âm)

“Lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”
(Ly, sơ cữu)

(Xéo bừa bãi, kính trọng họ thì không có lỗi).
( Quẻ Ly, hào 1, dương)

Tư tưởng Kinh Dịch quí trọng “đức” có liên hệ với tư tưởng “kính đức bảo dân” (kính trọng đức, bảo hộ dân) ở đầu đời Chu. Chu Tông xuất phát từ lợi ích quí tộc chủ nô lệ của nhà Chu, cho nên ông nói, nhà Thương bị diệt vong, nhà Chu hưng thịnh đều là do mệnh trời, chỉ có “bảo hưởng vu dân” (giúp dân no ấm) thì mới có “hưởng thiên chi mệnh” (tọa hưởng mệnh trời)(2)

Vì nhà Thương không “kính đức bảo dân”, cho nên trời trao mệnh cho nhà Chu thống trị thiên hạ. Chu Tông coi “mệnh trời”là chủ tề chi phối tất cả.

Nếu nói Kinh dịch đã phán ánh tư tưởng đạo đức của giai cấp chủ nô lệ chiếm địa vị thống trị trong xã hội nô lệ, thì dịch truyện phản ánh tư tưởng đạo đức của giai cấp địa chủ từ thời kỳ chế độ nô lệ chuyển biến sang chế độ phong kiến. Đương nhiên, tư tưởng luân lí đạo đức phong kiến vẫn là kế thừa và phát triển luân lý đạo đức xã hội nô lệ.

Tác giả Dịch truyện đã tiếp nhận quan niệm đạo đức trong quan hệ kinh tế đương thời. Do đó, họ đề xuất phạm trù đạo đức với nội dung: trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhân, khiêm v.v... làm quy phạm đạo đức của giai cấp địa chủ phong kiến. “Trung” là chỉ quy phạm hành vi quan hệ giữa giai cấp bị thống trị là dân đối với giai cấp thống trị tối cao là vua. và cũng chỉ là quy phạm hành vi quan hệ trong nội bộ giai cấp thống trị bề tôi với vua. Tác giả Dịch truyện nói:

“Bất cập kỳ quân, thần bất khả quá dã”
(Tiểu quá, lục nhị, tượng truyện)

(Không được gặp vua, là vì bầy tôi không thể quá (phận) bề tôi)
(Quẻ Tiểu quá, hào 2, âm, lời tượng)

“Quân bất mật tắc thất thần, thần thất mật tắc thất thân, cơ sự bất mật tắc hại thành. Thị cố quân tử thận mật nhi bất xuất dã”.
(Hệ từ thượng)

(Vua không kín thì mất bề tôi, bề tôi không kín (miệng) thì thiệt thân mình, mưu cơ không giữ kín thì tai hại nảy sinh. Cho nên người quân tử cẩn mật và không tiết lộ).

Đó là nói, mục đích của người quân tử tu dưỡng đạo đức cần phải vua ra vua, bề tôi ra bề tôi. Bề tôi tôi phải trung với vua; vua đối với bề tôi phải kín miệng, nếu không thì mất bề tôi. Bề tôi phải trung với vua, đó là yêu cầu cơ bản của xã hội phong kiến đối với bề tôi và dân chúng, cũng là quy phạm vi của bề tôi và dân, nếu không thực hiện được điều đó là hành vi vô đạo đức.

Đạo “hiếu”, là chỉ quy phạm hành vi trong quan hệ con cái với cha mẹ. Tác giả Dịch truyện nói:

“Vương cách hữu miếu, chí hiếu hưởng dã”
(Tụy quái, Thoán truyện)

(Vua đến nhà miếu, để dâng lễ là rất hiếu)
(Quẻ Tụy, lời Thoán)

Con cái chẳng những phải “hiếu” với cha mẹ mình mà từ đó suy ra còn phải "hiếu" với tổ tiên mình. Trong xã hội phong kiến, gia đình, gia tộc là đơn vị cơ bản trong sản xuất và chính trị xã hội. Trong gia đình thực hiện “hiếu” tức là tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha, không chống đối người tổ chức sản xuất và phân phối trong gia đình. Nếu trong gia đình thực hiện “hiếu” thì sẽ không xúc phạm cấp trên, không làm loạn. Đó là hợp với quy phạm hành vi đạo đức ở thời phong kiến.

Đức “Tiết” là chỉ quy phạm hành vi trong quan hệ vợ với chồng. Dịch truyện chép:

“Lão phụ sĩ phu, diệc khả xú dã”
(Đại quá, cửu ngũ, tượng truyện)

(Bà già lấy chồng trai tráng, cũng có thể là xấu)
(Đại quá, hào 5, dương, lời tượng).

Dịch cho đó là điều xấu, xét về mặt dư luận là không hợp đạo đức. Vì theo tác giả Dịch truyện, người phụ nữ trọn đời chỉ có một chồng. Khi chồng còn sống, mặc dù bị bạc đãi, nhưng người vợ vẫn không bỏ đi lấy chồng khác. Khi chồng chết người vợ vẫn không tái giá. Nếu người vợ không thực hiện được điều đó, tức là trái với đạo đức, bị dư luận xã hội lên án. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết không đi lấy chồng khác, như vậy được gọi là “trinh tiết”, “thủ tiết”. Đó là sợi dây phong kiến trói buộc người phụ nữ.

Đạo “nghĩa”, chỉ là hành vi trong mối quan hệ người với người. Dịch truyện nói:

“Quân tử vu hành, nghĩa bất thực dã”,
(Minh Di, sơ cửu, tượng truyện)

(Người quân tử (biết thời cơ) thì bỏ đi ngay, là theo điều nghĩa mà không ăn (lộc)).
(Minh Di, hào 1, dương, lợi tượng)

Đạo “nghĩa” cũng tức là một hành vi đạo đức trong mối quan hệ xử lý giữa con người với nhau. Cho nên Dịch truyện nói:

“Hòa thuận ư đạo đức nhi lý ư nghĩa”
(Thuyết quái truyện)

(Hòa thuận ở đạo đức và xử lý ở điều nghĩa).

Trung, hiếu, tiết, nghĩa là hạt nhân của đạo đức phong kiến. Nhưng theo quan niệm của tác giả Dịch truyện, quan hệ đạo đức “nhân”, “nghĩa” cần phải kết hợp với điều lợi “Lợi” tức là “công lợi”.

Theo tác giả Dịch truyện, quan hệ đạo đức “nhân”, “nghĩa” và “lợi” là:

“Lợi giả nghĩa chi hòa dã. Trinh giả sự chi cán dã. Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự, quân tử hành thử tứ đức giả, cố viết kiền, nguyên, hanh, lợi, trinh”. (Kiền, văn ngôn).

(Lợi là điều nghĩa hòa thuận. Trinh là gốc của sự việc. Quân tử thể theo điều nhân đủ để cầm đầu người ta, tập hợp tốt để để hợp với lễ, làm lợi cho người ta đủ để hòa hợp điều nghĩa, kiên trinh vững vàng đủ để chủ trì các việc. Đấng quân tử thực hành bốn đức tính ấy, cho nên gọi là: Kiền, nguyên, hanh, lợi, trinh).

Nghĩa của bốn từ: nguyên, hanh, lợi, trinh nói trong quẻ Kiền, Văn ngôn hoàn toàn khác với nghĩa gốc của nguyên, hanh, lợi, trinh trong Kinh Dịch . Văn ngôn coi nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn loại quy phạm đạo đức mà người quân tử đã thực hiện, đó hoàn toàn là một giải thích mới xuất hiện ở Dịch truyện. Nó coi lợi là công lợi của giai cấp địa chủ, cầu mong “lợi vật”, lại đem “lợi vật” gắn với “hòa nghĩa” và coi đó là thể hiện “hòa nghĩa”.

Dịch truyện cũng đề cập đề đức “khiêm”. Dịch truyện cho rằng:

“Khiêm khiêm, quân tử, ty dĩ tự mạc dã” (Khiêm, sơ lục, tượng truyện).

(Khiêm tốn, khiêm tốn, bậc quân tử lấy sự thấp nhường để tự nuôi mình)
(Khiêm, hào 1, âm, lời tượng)

Theo Dịch truyện, khiêm tốn chẳng những là đạo đức đẹp mà còn là điều tồn tại phổ biến trong trời đất. Khiêm tốn chẳng những là đạo trời đạo đất, mà còn là đạo người , đạo quỷ thần. Điều mà người ta nói đến “ích khiêm” (thêm vào khiêm), “lưu khiêm” (trôi vào chỗ khiêm), “phúc khiêm” (làm phúc cho khiên), “hiếu khiêm” (yêu thích khiêm), có nghĩa khiêm là điều tốt lành và coi tự mãn là điều tổn hại. Do đó, tác giả Dịch truyện gắn liền đức khiêm tốn với củng cố địa vị thống trị. Họ cho rằng có công lao mà khiêm tốn có thể khiến cho muôn dân phục tòng thống trị.

Đạo đức có tiêu chuẩn khách quan. Điều đó có lợi cho xã hội tiến bộ và xã hội phát triển, đạo đức tiến bộ hay không là do thực tiễn xã hội kiểm nghiệm. Bất cứ một loại đạo đức nào cũng đều quyết định bởi cơ sở kinh tế xã hội nhất định. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tư tưởng luân lý đạo đức Kinh Dịch cũng không vượt khỏi giới hạn đó. Nó chẳng những là duy tâm mà còn mang tính tôn giáo. Nó từ trong hình thức tôn giáo thần học mở rộng ra đạo đức, và hòng thoát khỏi hình thức tôn giáo thần học trở về xã hội hiện thực.

Dịch truyện ra đời sau Kinh Dịch khoảng 5, 6 thế kỷ, cho nên nó thường nói đến lý tưởng đạo đức của người quân tử, trên thực tế là trìu tượng nhân cách lý tưởng của giai cấp địa chủ mới nổi dậy. Nhưng lý tưởng đạo đức và quy phạm hành vi đạo đức mà bọn thống trị biểu hiện lại tách rời cuộc sống hiện thực. Bọn chúng bề ngoài nói đạo đức “nhân nghĩa” nhưng trong hành động luôn luôn làm khác. Đó là biểu hiện tính dối trá lý tưởng đạo đức của giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột.

Hà Nội ngày 8- 1- 1997

CHÚ THÍCH

(1) C. Mác, F. Ăng - ghen tuyển tập, tập 5, tr.136, Nxb. Sự thật, H. 1983.

(2) Thượng Thư, Đa phương./

TB

SUY NGHĨ TIẾP VỀ "BÁT QUÁI"

ĐỖ NGUYÊN ĐƯƠNG

Trong một bài báo trước (Tạp chí Hán Nôm số 29), tôi đã mạo muội đưa ra một số suy nghĩ thô thiển về Bát Quái. Bài báo đó đã cố gắng nói lên cấu tạo nội tại của Bát Quái, bằng cách đó làm rõ được trật tự lô gích của cái được gọi là “Tiên Thiên Bát Quái”. Đó là một cách trình bày Bát Quái theo một lô gích toán học chặt chẽ. Nó được coi là Bát Quái cổ sơ nhất và được gán tác giả là Phục Hy, một nhân vật huyền thoại Trung Quốc cổ đại, cách đây có đến năm - bảy ngàn năm.

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Trật tự Quẻ Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài
Mã xuôi 1 2 3 4 6 7 8 9
Mã ngược 9 8 7 6 4 3 2 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng ?

Bảng mã sẽ là:

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn
Mã xuôi 1 2 3 4 6 7 8 9
Mã ngược 9 8 7 6 4 3 2 1

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, b) = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tổn Khảm Cấn Khôn
Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950
Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 -0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Quẻ dương Quẻ âm
Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963 Tốn giá tích: - 0.12556;
giá hợp: - 094546
Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432) Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)
Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987) Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)
Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971) Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

TB

LỊCH SỬ SỬ DỤNG CHỮ HÁN TRÊN
BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN

PHAN VĂN CÁC

Ngót hai ngàn năm nay, chữ Hán, sản phẩm văn hóa độc đáo của dân tộc Trung Hoa trước sau đã truyền đến bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản cũng như Việt Nam, và được sử dụng như văn tự chính thức ở những thời kỳ lịch sử nhất định. ở hai địa đầu Đông bắc Á và Đông nam Á của vành đai văn hóa Hán, Hàn Quốc và Việt Nam, có nhiều mối tương quan và tương đồng văn hóa rất đặc sắc. Bài viết này cố gắng phác họa lại những đường nét chính trên bức tranh “chữ Hán ở bán đảo Triều Tiên”, “một khía cạnh của vấn đề so sánh Hán văn Việt Nam - Triều Tiên - Nhật Bản” mà hiện nay nhiều người đang quan tâm.

Chữ Hán chiếm tỷ trọng cao trong tiếng Triều Tiên: từ vựng Hán do chữ Hán tổ thành, từ vựng do từ tổ gốc Hán kết hợp với từ vựng vốn có của tiếng Triều Tiên, cộng với từ vựng do từ tổ gốc Hán kết hợp với các yếu tố ngoại ngữ khác thẩm thấu vào trong Triều Tiên như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Nhật tổ thành đã đi vào mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, văn học, ngôn ngữ, khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, đến mức rất khó nhận biết. Từng có thống kê cho biết trong Triều Tiên khẩu ngữ và bút ngữ, từ vựng gốc Hán đều chiếm khoảng 60%: ở lĩnh vực xã hội chính trị kinh tế, con số ấy lên đến 63%, trong khoa học kỹ thuật là 48%, trong các tác phẩm văn học là 20%.

Theo trình tự thời gian, có thể phác họa lịch sử sử dụng chữ Hán ở Triều Tiên qua 4 giai đoạn như sau:

I. Giai đoạn thứ nhất: chữ Hán truyền đến bán đảo Triều Tiên

Ngày nay đáp án cho câu hỏi “chữ Hán bắt đầu sử dụng ở Triều Tiên từ bao giờ”. Vẫn chưa được khẳng định ngã ngũ, ít nhất đã có 3 ý kiến khác nhau:

- Năm 103 TCN

- Năm 17 TCN

và năm 285 SCN chênh nhau ngót 4 thế kỷ.

Ý kiến thứ ba căn cứ vào sử liệu ghi chép rằng bây giờ có một người Triều Tiên tên là Vương Nhân 王 仁 mang sách Luận ngữ sang dạy học ở Nhật Bản. Vì thế có thể khẳng định muộn nhất là đến trước năm 285, người Triều Tiên đã sử dụng chữ Hán.

Thật ra đầu thế kỷ I, đã có việc dùng chữ Hán để ghi địa danh. Như trong “Cái mã đại sơn 蓋 馬 大 山 thì “cái mã” là chữ ghi âm KAMA một từ tiếng Triều Tiên. KAMA là cái nồi, vì núi này màu sẫm, đen như trôn nồi nên mang tên “Núi Nồi”.

Hay như ba tên nước xuất hiện trên bán đảo này trước đó là Mã Hàn 馬 韓 , Biền Hàn 弁 韓 và Thìn Hàn 辰 韓 mà sử gọi là Tam Hàn 三 韓 thì cũng như ghi âm tiếng Triều Tiên, trong đó “Mã” là phương Nam, “Biền” là “nước lớn sáng sủa “và “Thìn Hàn” là “nước lớn phương Đông” (tên gọi Hàn Quốc vốn mang nghĩa “nước lớn”, về sau thì mất nghĩa gốc ấy mà trở thành tên riêng).

II. Giai đoạn thứ hai: từ thế kỷ IV đến giữa thế kỷ VIII

Đến thời Tam Quốc của Triều Tiên, tức là khoảng thế kỷ IV SCN, đã xuất hiện các quy tắc dùng chữ Hán ghi tiếng Triều Tiên, mà giới Hán ngữ học gọi là “lại độc” 吏 讀, cũng có người viết là “lại thổ” 吏 吐 , hoặc “lại đạo” 吏 道 , “thổ” hay “độc” đều là cách dùng chữ Hán để ghi Triều Tiên THO với hàm nghĩa trợ từ. “Lại độc “có nghĩa là văn tự quan phương có mang ngữ trợ từ tiếng Triều Tiên.

Ở thế kỷ V, trên lãnh thổ các nước thuộc bán đảo Triều Tiên, chữ Hán đã được sử dụng khá rộng rãi, học chữ Hán đã thành một hành vi xã hội tính thời thượng. Trên các tấm bia Xương Ninh 昌氵寧 dựng năm 551, bia Hoàng thảo lĩnh ở Hàm Châu 咸 戎 黃 草 嶺 dựng năm 568 và bia Ma vân lĩnh 磨 雲 嶺 ở Lợi Nguyên 利 原..., văn bia toàn viết bằng chữ Hán. Nội dung các văn bia này cho thấy trình độ phổ cập chữ Hán đã khá cao.

Việc dùng chữ Hán theo kiểu “lại độc” (dùng để phiên các tên nước, tên làng, tên người và chức quan, thậm chí cả từ ngữ thông thường) có thể khái quát thành 4 cách:

(1) Dịch âm. Chẳng hạn như tên đất Cao Li viết 高 麗 (cao lệ) chính là dịch âm KORI của Triều Tiên gồm từ KOR nghĩa là “thung lũng”, “khe núi” hợp âm với trợ từ từ vĩ I (chứ không phải như có tác giả đã gán cho nó cái nghĩa là “cao sơn lệ thủy” - núi cao sông đẹp [ ! ]). cũng như vậy, Lũy lợi 累利 là ghi âm Triều Tiên NULI với nghĩa là “thế giới” (chứ không phải là mối lợi chồng chất !).

2. Dịch ý: Thí dụ địa danh Xích Xuyên 赤 川 chính là dịch ý của PURKU nghĩa là “đỏ” với NAE nghĩa là “sông”. Ta không lấy làm lạ là PURKUNAE có lúc viết thành Đan Khê 丹 溪 .

(3) Ghi bằng chữ đồng âm dị nghĩa: ở Seoul có một cái ngõ ghi bằng ba chữ Ngưu Nhĩ Động, trong đó “Động” có nghĩa là “ngõ hố”, còn “Ngưu nhĩ” không phải là “tai trâu” “tai bò” gì chỉ là chữ đồng âm hay nói đúng hơn là cận âm với 三 角 “tam giác” (ba góc) mà âm Triều Tiên là SE KWI. “Ngưu nhĩ động” thật ra có nghĩa là “ngõ tam giác”, đặt tên theo địa hình tam giác của cái ngõ ấy.

(4) Dịch nửa âm nửa nghĩa: Địa danh Thanh Cừ 清 渠 là ghép “thanh” ghi nghĩa từ MALK (nghĩa là “trong”), với chữ “cừ” ghi âm KA đọc nối phụ âm cuối của MALK với suffix A tiếng Triều Tiên, đọc nghe tương tự như cổ âm GIA của 渠 .

Cũng như vậy, người Triều Tiên dùng hai chữ Hán “thế lí” 世 里 để ghi nghĩa “thế giới”, đó cũng là một sự kết hợp ghi âm với ghi nghĩa. Triều Tiên NURI là “thế giới”, được ghi thoạt tiên bằng chữ “thế” 世 chỉ nghĩa, rồi dùng chữ “lí” 里 để ghi âm tiết RI trong NURI.

Cách ghi theo lối nửa dịch âm nửa dịch nghĩa này khá phức tạp. Một âm tiết hoặc một từ đơn trong Triều Tiên có thể ghi âm bằng nhiều chữ Hán khác nhau. NA Triều Tiên nghĩa là “nước”. “Quốc gia” đã được ghi bằng một trong chín chữ Hán sau đây: 那 na, 乃 nãi, 奴 nô, 羅 la, 路 lộ, 難 nan, 腦 não, 婁 lâu. Còn từ PURI nghĩa là “lửa” thì được ghi chữ Hán bằng 3 cách: “phu lí” 夫 里 . “Bình lại” 平 吏 và “ba lợi” 巴 利 .

Hán văn Triều Tiên vì thế rất khó hiểu không những với người Việt Nam mà ngay cả với người Trung Quốc. Người ta đã dẫn làm thí dụ một câu trong một bài văn bia như sau:

乙 亥 年 八 月 前 部 小 大 使 者 於 九 婁 治 (Ất Hợi niên bát nguyệt tiền bộ tiểu đại sứ giả ư cửu lâu trị).

Trong đó “Tiền bộ” là tên một bộ lạc của Cao Cú Lệ, “tiểu sứ giả” và “đại sứ giả” là quan chức của Cao Cú Lệ. Câu ấy được giải mã là: tháng 8 năm ất Hợi, tiểu sứ giả và đại sứ giả người của bộ lạc Tiền Bộ cai trị ở đất Cửu Lâu.

Một số không ít chữ Hán đã được gán nghĩa mới, nhiều khi rất xa lạ với nguyên nghĩa trong tiếng Hán:

tác: văn thư Nhà nước.

can: (quan chức) hàm bộ trưởng.

kết: “kết”, đơn vị diện tích đo ruộng đất, bằng một hình vuông có cạnh là một dây ( 繩 ).

chủ: từ tố ghép thêm sau danh từ, biểu thị ý nghĩa tôn kính.

xuyên: mũi (bán đảo dài nhọn chọc ra biển).

bốc: 1. Gánh; 2. Cõng; 3. Gánh chịu.

tiết: 1. Lúc; 2. Số lần; 3. người chế tác.

Đáng chú ý là ở thời kỳ này, để phục vụ việc chuyển dịch một số các trợ từ và cả những thực từ khó dịch của tiếng Triều Tiên, người ta đã đặt ra những “chữ Hán” của riêng người Triều Tiên đương thời như các chữ sau đây:

để ghi trợ từ Triều Tiên MYEO biểu thị ý nghĩa “và” “cùng” .

để ghi trợ từ HAN với nghĩa như 的 của tiếng Hán.

để ghi TOL nghĩa là “hòn “đá”.

để ghi SOL nghĩa là “cây thông”

để ghi KOS nghĩa là “nơi chốn”;

để ghi PHAS nghĩa là “đậu xanh”;

để ghi MATURI nghĩa là “không đầy đấu” “một ít”;

để ghi NON nghĩa là “ruộng nước”;

để ghi SATARI nghĩa là “cái thang”;

để ghi HOM nghĩa là “cái máng”;

để ghi NUPIOS nghĩa là “quần áo đã trần lót”;

để ghi ILTHA nghĩa là “mất”;

để ghi CHANGKO nghĩa là “kho”, “nhà kho”;

để ghi TACI nghĩa là “nện chặt” “đầm chắc”

để ghi THAL nghĩa là “trách” “quở trách”

để ghi ANHAE nghĩa là “bà xã”, “nhà tôi” v.v...

Chữ được tạo ra bằng cách ghép 济 với 米 bỏ bớt nét để chỉ “lương thự cứu tế”. Cũng 济 như vậy ghép chữ 功 với chữ 夫 thành chữ để chỉ “dân công”, v.v...

Hiện tượng “sáng tạo” này lan sang cả địa hạt ngữ pháp. Người Triều Tiên viết 物 物 (vật vật) với nghĩa là “muôn hình muôn vẻ”

白 話 (bạch thoại) với nghĩa là “trình bày” “giãi bày”

始 叱 (thủy sất) với nghĩa là “do... đứng đầu”, “đứng đầu là... ”

犯 斤 (phạm cân) với nghĩa là “phía dưới” “bên dưới”.

III. Giai đoạn thứ ba: từ thời Silla (giữa thế kỷ VIII) đến giữa thế kỷ XV

Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là sự dùng thẳng các từ chữ Hán (nhiều trường hợp trước kia mượn chữ Hán để ghi) khuynh hướng này biểu hiện rất rõ trong các tên đất và chức quan đương thời. Chẳng hạn như 9 khu vực hành chính của Silla đã được thay thế theo kiểu đó:

Tên chuyển viết bằng chữ Hán ® Tên chữ Hán:

沙 伐 戎 Sa phạt châu ® 尚戎 Thượng châu

漢 山 戎 Hán sơn châu ® 漢 戎 Hán châu

完 山 戎 Hoàn sơn châu ® 全 戎 Toàn châu

歃 梁 戎 Sáp lương châu ® 梁 戎 Lương châu

首 若 戎 Thủ Nhược châu ® 朔 戎 Sóc châu

河 西 戎 Hà Tây châu ® 溟 戎 Minh châu

武 珍 戎 Vũ Trân châu ® 武 戎 Vũ châu

熊 川 戎 Hùng xuyên châu ® 熊 戎 Hùng châu

青 戎 Thanh châu ® 康 戎 Khang châu

Một số quan chức cũng được thay bằng tên gọi theo chữ Hán.

Thí dụ:

chức 大 舍 Đại xá (bộ Binh) đổi thành 郎 中 Lang trung

(bộ Lễ) 主 簿 Chủ bạ

舍 知 Xá tri (bộ Binh) 執 事 員 Chấp sự viên ngoại lang

(bộ Lễ) 司 禮 Tư lễ

(bộ Điều 調 ) 司 庫 Tư khố...

Đồng thời với việc đổi dùng chữ Hán này, âm vận cũng thay đổi. Trong “lại độc”, chữ Hán chỉ là một ký hiệu, đọc lên vẫn là âm của từ vốn có trong tiếng Triều Tiên, không liên quan gì với nghĩa chữ Hán.

Cũng từ giữa thế kỷ VIII trở đi bắt đầu diễn ra sự phân lập giữa “lại trát” 吏 扎 chuyên ghi lại bút ngữ với “hương trát” ảm 扎 chuyên ghi chép khẩu ngữ. Cách ghi của “lại trát” được phân thành 4 thủ pháp dịch âm, dịch ý, đồng âm dị nghĩa và nửa nghĩa nửa âm như đã trình bày trên đây, còn “hương trát” thì về cơ bản chỉ dùng 2 thủ pháp dịch âm, dịch ý mà thôi. Đối tượng ghi chép của “hương trát “là “hương ca” 鄉 歌 , với ý nghĩa là dân ca Triều Tiên (trong cổ ngữ, 鄉 hương theo quan niệm của các văn nhân Triều Tiên lúc bấy giờ sùng chuộng văn hóa Hán, nên coi Trung Quốc là 城 thành, coi nước mình là hương, trong sự đối lậ p thành / hương bằng văn minh / quê mùa).

Để có khái niệm về “hương trát”, có thể khảo sát bài hương ca rất được lưu truyền sau đây, bài Hiến hoa ca 獻 花 歌 (bài hát tặng hoa):

柴 布 岩 乎 希 執 手 母 牛 放 教 遺 吾 不 喻 忄斬 伊 賜 等 花 折 叱 可 獻 乎 理 音 知

Trong lời bài ca này, thì các chữ tử, nham, đạo, chấp, thủ, mẫu ngưu, phóng, ngô, bất, tàm hoa, chiết, hiến là lối chuyển chú dịch ý. Còn 希 教 兮 伊 賜 叱 音 如 đều là những chữ muộn để biểu thị chữ Triều Tiên, là những ký hiệu ghi âm, không mang hàm nghĩa cụ thể.

Ý nghĩa bài ca đại để là “Bên tảng đá màu đỏ, em thả trâu buông tay mà ngỏ lời rằng, phải chí hàng chẳng ngại ngần, thì em sẽ xin ngắt cành hoa tươi đem đến tặng chàng”.

Bài này được chép trong thiên Kỷ dị 己 異 sách Tam Quốc di sự. Trong ngôn ngữ Triều Tiên, ngoài các thực từ, còn có rất nhiều trợ từ biểu thị ý nghĩa phi thực tại, trong các văn bản “lại trát” và “hương trát”, các trợ từ này cũng được biểu thị bằng những chữ Hán.

Thí dụ: 亦 是 dùng để biểu thị chủ cách

乙 tân cách

矣 衣 thuộc cách

焉 đề thị cách

以 留 乙 留 tạo cách (tựa như 用, 以 tiếng Hán).

中 也 中 谷 中 惡 中 阿 希 希 良 vị cách

果 là trợ từ kết nối (nghĩa như là “và”, “với” “cùng”)

下 , 也 dùng để biểu thị “hô ngữ”.

Thời kỳ đầu, “lại độc” dùng 之 chi, dã, tai làm trợ từ cuối câu. Còn trong “lại trát” dùng 多 如 羅 等 耶, 置 耶谷 làm trợ từ cuối câu trần thuật; dùng 古 遺 法 làm trợ từ cuối câu nghi vấn; dùng 賜 立 如 biểu thị “sử động” v.v...

Trợ từ kết nối chữ Triều Tiên rất phong phú và đã được biểu thị bằng trên một chục chữ Hán: 如 可, 遺 , 昆 , 果 , 乃 , 尼 , 置 , 等 , 矣 , , 沙 , 結 ...

Riêng trong “hương trát” còn dùng 乎 và 在 làm từ ví hình dung từ; dùng 有 và 行 biểu thị thời thái; dùng 令 是, 便 內 biểu thị sử động; dùng 乎, 教 是, 教 biểu thị tôn kính v.v...

Đến khoảng thế kỷ XIV, lời ca viết bằng chữ Hán bắt đầu lưu hành rộng rãi, dưới đây là một thí dụ điển hình, bài Quan đông biệt khúc rất thực hành lúc bấy giờ:

雪 獄 東 洛 山 西 囊 陽 風 景

降 山 亭 祥 雲 亭 南 北 相 望

騎 紫 鳳 駕 紅 鸞 佳 麗 神 仙

爭 弄 球 絃 景 几 何 如

高 陽 酒 徒 習 家 池 館

四 節 遊 伊 沙 伊多

Trong bài viết này, ngoài 為 và 伊 沙 伊 多 dùng chữ Hán để biểu thị âm đệm tựa như “ối, a ý a” thì đều dùng đúng nghĩa chữ Hán, ta đọc hiểu tựa như đọc thơ Hán vậy.

Ở giai đoạn này bắt đầu có sách công cụ dùng chữ Hán ghi tiếng Triều Tiên. Thế kỷ XII, thời Cao Li, có sách 雞 林 類 事 Kê lâm loại sự là một tập từ vựng song ngữ đối chiếu, về sau dùng chữ Hán để ghi âm Triều Tiên tương ứng, ở giữa dùng 曰 viết để nối:

足 曰 手 曰 遜

齒 曰 亻尒火 曰 孛

水 曰 沒竹 曰 帶

千 曰 千萬 曰 萬

海 曰 海江 曰 江

茶 曰 茶銅 曰 銅

旗 曰 旗墨 曰 墨

林 曰 林兵 曰 軍

雷 曰 天 動雲 曰 屈 林

風 曰 孛 纜高 曰 那 奔

深 曰 及 欣來 曰 鳥 月昆

坐 曰 阿 則 家月昆

坐 曰 阿 則 家月昆

小 曰 胡 根

有 曰 移 寶

面 美 曰 捺

熱 水 曰 泥 根 沒

洗 手 曰 遜 時 蛇

凡 洗 溜 皆 曰 時 蛇

凡 飲 皆 曰 痲 蛇.

Ở giai đoạn này còn có một hiện tượng ngôn ngữ gọi là “khẩu quyết” 口 訣, thực ra đó là “câu nói cửa miệng”, chữ 訣 này không còn giữ nghĩa gốc trong Hán ngữ nữa mà là chữ Hán ghi âm KYEOT của tiếng Triều Tiên. những chữ Hán ghi âm thường gặp trong “khẩu quyết” lúc bấy giờ là 為 尼 伊 難 為 也 也 也 矣 於 以 他 可 是 為 古 割 史 無 三 日 高 v.v...

Người ta còn dùng bộ phận của chữ để thay cho cả chữ, nhằm biểu thị những “khẩu quyết” ấy bằng hình thức rút gọn hơn. Thí dụ:

Dùng 夕 thay cho 多 TA ;

Dùng thay cho 那

EUN

MYEO;

臥 OA;

奴 NO;

古 KU;

尼 NI;

AE;

Tình hình này có phần nào giống với hiện tượng “phiến giả danh” 片 假 名 trong tiếng Việt.

IV. Giai đoạn thứ tư: từ giữa thế kỷ XV đến 1945: kết hợp ngoại văn với chữ Hán

Năm 1444, người Triều Tiên đã sáng chế ra văn tự của chính mình - “huấn dân chính âm” 訓 民 正 音 , tức là chữ cái Triều Tiên. Chữ cái Triều Tiên được sáng tạo theo nguyên lý “tam tài: thiên - địa - nhân” bằng cách mò phông các nét của chữ Hán, vì thế, chữ Triều Tiên trên thực tế là thứ chữ vuông tổ thành bằng chữ cái phiên âm. Về quy tắc viết, nó cũng gần giống chữ Hán, có thể viết dọc, có thể viết ngang, cũng có thể viết xiên. Về nghệ thuật thư pháp, nó cũng chú trọng các thể khải thư, hành thư, thảo thư.

Sau khi chữ cái Triều Tiên ra đời, người Triều Tiên bắt đầu viết bằng cách kết hợp dùng cả chữ Hán lẫn chữ Triều. Bài Thái bình từ dưới đây là một thí dụ về cách viết kết hợp ấy:

NARAHI 偏 小 HAYA 海 東 AEOA RYEO SYEOTO 箕 子遺 風 古 今 EOP SI 二 百 年 I 來 HAYA 禮 義 是 崇 尚 HANI 衣 冠 文 物 I 漢 唐 宋 ITOEOYATTEONI.... (nghĩa: Quốc gia tuy không lớn lắm, nhưng nhìn xem đất nước hơi đông, ta cũng có di phong của cơ tử thịnh hành hơn bao giờ hết, hai trăm năm nay vẫn trước sau như một, kính chuộng lễ nghĩa, phục sức và di sản văn hóa cũng phần nhiều là Hán Đường Tống... ).

Chữ cái Triều Tiên cũng được dùng để giải thích các văn bản Hán văn, đó là trường hợp của Phác thông sự Ngạn giải 朴 通 事 諺 解, Lão khất đại Ngạn giải 老 乞 大 諺 解 v.v...

Giai đoạn này ngoài 4 chức Hán đặc biệt của “lại độc” tiếp tục được sử dụng ra, người Triều Tiên lại tiếp tục sáng chế thêm ngót hai chục chữ Hán “đặc Triều” nữa: v.v.

Cũng trong giai đoạn này, trong khi chữ cái Triều Tiên (ngạn văn) thông dụng khắp bán đảo Triều Tiên, thì với giới văn nhân, sử dụng chữ Hán để viết văn làm thơ phú vẫn là hiện tượng phổ biến thịnh hành. Thí dụ như Kim Ngao tân thoại 金 鏊 新 話 , Ngọc lâu mộng 玉 樓 夢, Lưỡng ban truyện 兩 班 傳 v.v. là những tiểu thuyết Hán văn điển hình, nguyên tác không hề dùng một câu tiếng Triều nào. Dưới đây là một bài thơ chữ Hán của nhà văn - triết gia lớn thời Lý của Triều Tiên Đinh Nhược Dung 丁 若 鏞 (1762 - 1836), bài Ai tuyệt dương 哀 絕 陽 :

蘆 田 少 婦 哭 聲 長
哭 向 縣 門 號 穹 蒼
夫 征 不 復 尚 可 有
自 古 未 聞 男 絕 陽
舅 喪 已 縞 兒 未 澡
三 代 名 簽 在 軍 保
薄 古 往 愬 虎 守 閭
里 正 咆 哮 牛 去 皂
磨 刀 入 房 血 滿 席
自 恨 生 兒 遭 窘 厄
蠶 室 淫 刑 豈 有 辜
閔 囝去 勢 良 亦 忄戚
生 生 之 理 天 所 予
乾 道 成 男 坤 道 女
騙 馬 豶 豕 猶 雲 悲
況 乃 生 民 思 繼 序
豪 家 終 歲 奏 管 絃
粒 米 寸 帛 無 所 捐
均 吾 赤 子 何 厚 薄
客 窗 重 誦 鳲 鳩 篇

Lô điền thiếu phụ khốc thanh trường,
Khốc hướng huyện môn sào khung thương,
Phu chinh bất phục thượng khả hữu,
Tự cổ vị văn nam tuyệt dương.
Cữu tang dĩ cảo nhi vị tảo,
Tam đại danh thiêm tại quân bảo.
Bạc ngôn vãng tố hổ thủ hôn,
Lí chính bào hao ngưu khứ tạo.
Ma đao nhập phòng huyết mẫn tịch.
Tự hận sinh nhi tao quẫn ách.
Tàm thất dâm hình khởi hữu cô,
Mẫn nam khứ thế lương diệc thích.
Sinh sinh chi lí thiên sở dữ,
Kiền đạo thành nam khôn đạo nữ.
Phiến mã phần thỉ do vân bi,
Huống nãi sinh dân tư kế tự.
Hào gia chung tuế tấu quản huyền,
Lạp mễ thốn bạch vô sở quyên.
Quân ngô xích tử hà hậu bạc,
Khách song trùng tụng thi cưu thiên.

Trên đây là một vài nét về lịch sử sử dụng chữ Hán ở bán đảo Triều Tiên từ khi chữ Hán du nhập cho đến năm 1945. Từ 1945, bán đảo này sau khi giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Nhật Bản chẳng bao lâu thì xảy ra chiến tranh Triều - Mỹ rồi đất nước chia cắt thành hai quốc gia, tình hình chữ Hán cũng có khác nhau.

Nếu so sách lịch sử sử dụng chữ Hán ở Triều Tiên với tình hình tương tự ở Nhật Bản và Việt Nam, ta sẽ thấy có nhiều điều thú vị: trong cái “đại đồng” ta sẽ phát hiện nhiều điều “tiểu dị” từ đó càng hiểu sâu thêm bản sắc văn hóa truyền thống riêng của mỗi dân tộc, đồng thời càng thấy rõ nhu cầu và lợi ích của giao lưu văn hóa “đồng văn”./.

TB

NGÀY XUÂN ĐỌC TỪ ĐIỂN CHU DỊCH

MAI XUÂN HẢI

Xưa kia Tư Mã Thiên trong Sử ký - Khổng Tử thế gia từng nói: “Khổng Tử về già thích đọc Dịch, khắc khổ nghiên cứu đến nỗi sợi dây xâu các thẻ sách Chu Dịch bị đứt ba lần. Cuối cùng soạn thành 10 thiên Dịch truyện: Thoán, Hệ, Tượng, Thuyết quái, Văn ngôn, để diễn giải kinh nghĩa của 64 quẻ. Ông còn nói: "Nếu cho ta vài năm nữa thì đối với Dịch, ta sẽ hiểu rõ ràng". (Khổng Tử vãn nhi hỉ Dịch, tự Thoán, Hệ, Tượng, Thuyết quái, Văn ngôn. Độc Dịch vi biên tam tuyệt. Viết: giả ngã sổ niên, nhược thị, ngã vu Dịch tắc bân bân hĩ). ở Việt Nam, những bậc thức giả lớn cũng đều rất thích Chu Dịch. Nguyễn Trãi trong bài thơ Nôm Tự thán số 35 viết:

“Nắng quáng thưa thưa bóng trúc tre,
Cây im thư thất sáng bằng the.
Tỏ tường phiến sách con Chu Dịch,
Bàn bạc lòng nhàn cái quýt chè...”

Còn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thơ Nôm, thơ Hán của ông đều thấm đượm mùi vị của triết lý Chu Dịch. Những người yêu thích Chu Dịch qua các thời đại thật không thể kể xiết. Ngày nay trong hành trang tri thức của cán bộ nghiên cứu Hán Nôm nói riêng, cũng như cán bộ nghiên cứu văn hóa Việt Nam và Đông phương nói chung, không thể thiếu vắng được tri thức về Chu Dịch. Trong bài viết này, chúng tôi xin phép được giới thiệu vài nét về Chu Dịch thông qua bộ Từ điển Chu Dịch mà chúng tôi cho đây là một cái mốc đáng kể trong những thành tựu nghiên cứu Dịch học tại Trung Quốc mấy năm lại đây.

Dịch còn gọi là Chu Dịch (sách về đạo Dịch của nhà Chu (1066 - 256 TCN), là một bộ sách triết học cổ nhất của Trung Quốc và thế giới hiện nay. Đi xa hơn nữa, nếu nói cho đủ là “tam Dịch” (ba bộ sách về Dịch) gồm Liên sơn, Quy tàng và Chu Dịch. Đó là ba bộ sách bói cổ xưa, đều có phù hiệu Bát quái (8 quẻ) và Lục thập tứ quái (64 quẻ). Tương truyền Liên sơn là bộ sách bói thời Phục Hy, 64 quẻ của sách này bắt đầu bằng quẻ Cấn (núi), thịnh hành thời nhà Hạ (2140 - 1711 TCN). Quy tàng là sách bói thời Hoàng Đế, 64 quẻ bắt đầu bằng quẻ Khôn (đất), thịnh hành thời nhà Thương (1711 - 1066 TCN). Hai bộ sách này đã thất truyền từ lâu, nay chỉ còn lại bộ Chu Dịch (mà từ đây trở xuống chúng tôi gọi là Kinh Dịch), 64 quẻ bắt đầu bằng quẻ Càn (trời). Nếu nói theo cách nói truyền thống thì Dịch đã hình thành sớm nhất: về thời gian là đã trải qua “ba đời cổ”: thượng cổ, trung cổ và hạ cổ; còn về tác giả là đã trải qua “ba đời thánh”: Phục Hy, Văn Vương, Khổng Tử. Phục Hy là vị tù trưởng thời kỳ xã hội nguyên thủy Trung Quốc. Ông là tác giả của phần phù hiệu của Bát quái (8 quẻ). Hệ từ hạ truyện nói: “Xưa có Bao Hy thị (tức Phục Hy) làm vua thiên hạ ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem phép đất, xem vết chim muông, cùng với sự nghi của đất, gần thì lấy từ bản thân mình, xa thì lấy ở vật, bắt đầu làm ra tám quẻ để thông với đức của thần minh, để hòa với tình của vạn vật”. Đó là Dịch vào thời “thượng cổ” (Dịch của Phục Hy). Văn Vương là vị vua thứ nhất nhà Chu, cùng với con là Vũ Vương có công dẹp Trụ là vị vua bạo ngược cuối cùng của nhà Thương rồi lập ra nhà Chu. Sử chép, trong thời gian ông bị Trụ giam ở ngục Dữu Lý (nay ở phí bắc Thang Âm, Hà Nam) đã đem 8 quẻ (Bát quái) của Phục Hy diễn thành 64 quẻ (lục thập tứ quái) và soạn ra Quái từ, Hào từ (lời quẻ, lời hào). Sử ký - Chu bản kỷ nói: “Tây bá (tức Chu Văn Vương) ở ngôi năm 50 tuổi. Trong thời gian bị giam ở ngục Dữu Lý đã tăng 8 quẻ của Dịch thành 64 quẻ”. Hán thư - Nghệ văn chí cũng chép: “Đến thời Ân Chu, Trụ ở ngôi cao, nghịch trời hại vật. Văn Vương là chư hầu, thuận mệnh thi hành đạo trời, chiêm nghiệm trời người để làm theo, thế rồi chồng 6 hào của Dịch soạn thành thượng hạ thiên”. Đó là Dịch vào thời “trung cổ" (Dịch của Văn Vương).

Khổng Tử (551- 479 TCN) người ấp Trâu, nước Lỗ thời Xuân thu, là nhà tư tưởng, giáo dục vĩ đaị thời Tiên Tần, sáng lập ra trường phái Nho gia. Quan điểm của các học giả trước Hán - Đường đều cho phần Thập dực là do Khổng Tử soạn ra. Sử ký - Khổng Tử thế gia: “Khổng Tử về già thích Dịch, viết Thoán, Hệ, Tượng, Thuyết quái, văn ngôn”. Hán thư - Nghệ văn chí Chu Dịch chính nghĩa của Khổng Dĩnh Đạt (đời Đường) cũng nói gần như vậy. Đến đời Tống, Âu Dương Tu có nêu những nghi ngờ. Nhưng cho dù phần Thập dực có phải là của Khổng Tử viết toàn bộ hay không, hay là có cả phần do học trò mình viết, thì đến thời Xuân thu, Dịch đã trở thành một bộ sách hoàn chỉnh, bao gồm cả phần phù hiệu của 8 quẻ, 64 quẻ và đầy đủ các phần kinh truyện. Đó là bộ mặt của Dịch vào thời “hạ cổ” (Dịch của Khổng Tử). Nhưng gọi là “kinh” với tư cách là tên gọi thông dụng của một loại sách chuyên môn, độc lập thì đến đời Hán Vũ Đế mới hình thành. Nhà vua đặt chức Ngũ kinh bác sĩ và Dịch trở thành bộ kinh, đứng đầu các kinh, lấy Dương Hà làm vị Dịch kinh Bác sĩ đầu tiên. Nhưng tên gọi Dịch kinh lúc đầu thời Hán là để chỉ phần kinh văn của 64 quẻ. Về sau, khi Phí Trực, Trịnh Huyền đưa phần Thập dực vào sau, đi liền với Quái từ, Hào từ thì Dịch kinh mới bao gồm cả hai phần “kinh” và “truyện” như ngày nay.

Như vậy là trải qua “ba đời cổ”. “ba đời thánh” Kinh Dịch đã ra đời, hình thành và ổn định. Tính về mặt thời gian là cách nay chừng 5000 năm. Tính về mặt tác giả là tập thể (chí ít cũng là 3 người, như chúng tôi vừa trình bầy ở trên). Từ một cuốn sách đầu tiên vốn không có chữ, chỉ có phù hiệu, rồi đến có chữ, từ một cuốn sách bói trở thành một tác phẩm triết học đồ sộ, vĩ đại bậc nhất trong lịch sử nhân loại, chưa kể đến những giá trị to lớn về lịch sử, xã hội, ngôn ngữ, văn học, mỹ học v.v...

Cho đến tận ngày nay, do Dịch phản ánh chân thật phổ quát quy luật phát sinh, vận động của tự nhiên và xã hội, mà căn nguyên chí giản chí dị là từ hai yếu tố âm - dương trong một sự vật vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, tiêu tức, đắp đổi, chuyển hóa lẫn nhau mà sinh ra. Nó kiêm đủ cả 5 nghĩa: biến Dịch, giao Dịch, phản Dịch, đối Dịch, và di Dịch, nên từ khi ra đời đến nay (và mãi mãi sau này) nó đã, đang và sẽ liên tục, liên tục, liên tục phát triển. Nếu như Johann Wolfgang Goethe nhà triết học, nhà văn Đức lỗi lạc thế kỷ XVIII - XIX nói câu nổi tiếng: “Mọi lý thuyết đều là mầu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi” thì câu nói này có thể nói đúng với mọi học thuyết, nhưng trừ Kinh Dịch. Bởi Kinh Dịch chính là bộ sách (kinh) nói về sự vận động (Dịch). Từ vũ trụ cho đến cuộc sống tự nhiên xã hội và con người đều là vận động theo nguyên lý của Kinh Dịch.

Có thể trích ra hàng loạt câu nói nổi tiếng ca ngợi sự đúng đắn của đạo Dịch, của triết lý Kinh Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: “Ôi đạo của Dịch rộng lớn thay! Lấy nó mà nói về việc xa thì không bao giờ cùng, nói việc gần thì bình thản mà chính đính. Nó bao gồm đầy đủ tất cả mọi việc trong khoảng trời đất” (Phù, Dịch quảng hĩ, đại hĩ. Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tĩnh nhi chính. Dĩ ngôn hồ thiên địa chi gian tắc bị hĩ). Hoặc như một câu khác cũng trong Hệ từ thượng truyện: “Triết lý Chu Dịch rộng lớn đầy đủ, bao quát hết thảy mọi thứ, gồm chứa cả đạo hóa dục của trời đất, tỷ mỷ cặn kẽ giúp vạn vật sinh trưởng, phát triển, không bỏ sót một vật nào” (Dịch phạm vi thiên địa chi hóa nhi bất quá, khúc thành vạn vật nhi bất di).

Do tính bao quát cùng khắp như vậy của đạo Dịch, nên nó có phạm vi ứng dụng rất rộng rãi. Nó hàm chứa đủ cả bốn phương tiện ứng dụng thường dùng của thánh nhân. Đó là nếu dùng Kinh Dịch để chỉ đạo ngôn luận thì coi trọng lời văn; chỉ đạo hành động thì đề cao biến hóa; chỉ đạo việc chế tác khí vật thì coi trọng biểu tượng; chỉ đạo việc quyết đoán nghi ngờ thì coi trọng chiêm bốc” (Dịch hữu thánh nhân chi đạo tứ yên: Dĩ ngôn giả thượng kỳ từ, Dĩ động giả thượng kỳ biến; Dĩ chế khí giả thượng kỳ tự; Dĩ bốc phệ giả thượng kỳ chiêm - Hệ từ thượng truyện). Được như vậy chính là do: “Dịch chính là điều mà thánh nhân đã nghiên cứu, nghiền ngẫm một cách cực kỳ sâu xa, vi diệu” (Phù, Dịch thánh nhân chi sở cực thâm nhi nghiên cơ dã - Hệ từ thượng truyện). Hoặc Dịch đã thăm dò những điều huyền vi, tìm tòi những thứ ẩn khuất, moi móc những thứ sâu kín, đạt tới đạo lý sâu xa” (Thám trách sách ẩn, câu thâm trí viễn - Hệ từ thượng truyện). Nói tóm lại: “đạo Dịch là chuẩn khớp với trời đất, nên bao quát khắp cả đạo trời đất” (Dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa chi đạo - Hệ từ thượng truyện). Hoặc: "Đạo Dịch rốt ráo thay ! Bao gồm bản thể to tát, công dụng thần diệu đều tồn tại ở khắp mọi nơi” (Chí tai Dịch hồ. Kỳ đạo chí đại nhi vô bất bao; kỳ dụng chí thần nhi vô bất tồn. Trình Di - Dịch tự). Đấy là chưa kể Kinh Dịch còn là cội nguồn uyên nguyên lập thuyết của nhiều môn học huyền bí cũng như không huyền bí nữa, như: Thiên văn, Địa lý, Lịch pháp, Nhạc luật, Binh pháp, Vận học, Toán thuật, Y học, Lý số, cho đến cả "lô hỏa ngoại phương" (kỹ thuật luyện đan, dưỡng sinh), "Thiền gia diệu đế" (giáo lý nhà Phật), và cả các ngành khoa học của phương Tây gần đây nữa (theo bài bạt của tác giả Trương Thiện Văn trong sách Từ điển Chu Dịch.

Đến đây xin nói qua về Dịch học (tức là môn học nghiên cứu về Dịch) và sự phát triển của Dịch học. Từ đầu thời Tây Hán, sau khi Kinh học được đề cao, Chu Dịch được liệt vào trong những kinh sách được giảng dạy ở các trường học của nhà nước, do vậy Dịch học trở thành một ngành học chuyên môn mà các thời truyền thừa phát triển. Hán thư - Nghệ văn chí: “Đến khi nhà Tần chủ trương đốt sách, cho sách Dịch thuộc loại sách bói, nên vẫn cho phép lưu truyền, mà không bị tuyệt diệt. Khi nhà Hán hưng thịnh, thì có Điền Hà truyền bá. Đến thời Tuyên Đế, Nguyên Đế, trong Học quan thì có Thi Thù, Mạnh Hỉ, Lương Khâu Hạ, Kinh Phòng; trong dân gian thì có thuyết của hai nhà Phí Trực, Cao Tướng”. Thời Hán Vũ Đế, nhà vua còn lập ra học vị Bác sĩ Kinh học, trong đó Dương Hà là vị Dịch kinh Bác sĩ đầu tiên. Từ đó xuất hiện những chuyên gia nghiên cứu về Dịch học mà sách vở gọi là “Dịch gia”.

Như chúng ta đều biết, Dịch thành sách lấy Tượng số làm cơ sở. Thực chất của Tượng số lại là để bầy tỏ nghĩa lý. Do vậy Dịch học chia thành hai tông phái lớn là Tượng số Nghĩa lý. Rồi từ đó lại chia thành những phái nhỏ, gọi là “hai phái sáu tông” (lưỡng phái lục tông). Đại để Dịch học thời Hán thuộc trường phái Tượng số kế thừa thời Tiên Tần, sau chuyên về chiêm nghiệm âm dương tai biến, đi vào chiêm đoán họa phúc. Thời Đường với các đại biểu lớn là Vương Bật, Khổng Dĩnh Đạt, Hàn Khang Bá, Dịch học phát triển theo trường phái Nghĩa lý, lấy huyền lý Lão - Trang để thuyết Dịch. Đến thời Tống, Dịch học phát triển đến đỉnh cao cả Tượng số, lẫn Nghĩa lý, bộ mặt Dịch học hoàn toàn đổi mới, ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sau. Nói đến Dịch học đời Tống phải kể đến phái Tiên thiên tượng số với Trần Đoàn, Lưu Mục, Thiệu Ung sáng chế ra các loại Dịch đồ nhằm khám phá bí mật hóa sinh của vạn vật trong tự nhiên. Lại có phái “chuyên phát triển trình bầy Nho lý như Hồ Viện, Trình Di... Sang thời Nam Tống, lại có phái Chu Hy, Thái Nguyên Định... kết hợp cả hai phái, nên ảnh hưởng càng sâu rộng hơn. Còn phái của Lý Quang, Dương Vạn Lý thì tham chứng sự thật lịch sử, lấy đó để giải thích Dịch, bắt nối Dịch lý với lịch sử, mở ra một hướng mới cho Dịch học.

Tất cả những điều mà chúng tôi vừa trình bầy trên đây, và rất nhiều điều khác nữa chúng ta có thể tìm thấy trong bộ sách Từ điển Chu Dịch do Trương Thiện Văn biên soạn, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải xuất bản năm 1992. Theo lời bạt của tác giả cho biết, tác giả là học trò của nhà Dịch học nổi tiếng đương đại, Giáo sư Hoàng Thọ Kỳ, mà giới học giả thường gọi là “Lục Am tiên sinh”, Bộ Chu Dịch từ điển này tác giả thực sự bắt tay làm từ mùa hạ năm 1988, đến mùa hạ năm 1990 thì cơ bản hoàn thành. Trong suốt quá trình đó, tác giả đã được thầy mình động viên, khích lệ, đọc duyệt góp ý cho bản thảo, và viết cả lời tựa cho bộ sách, mà chỉ 44 ngày sau đó, thầy đã vội vã lìa đời sau một cơn bệnh nặng.

Theo Phàm lệ, bộ Từ điển này gồm hơn 4600 mục từ được chia thành 7 loại: 1- Thường thức Dịch học (kiến thức chung về Dịch học): 243 mục từ; 2- Dịch phái, Dịch lệ (trường phái, thể lệ Dịch học): 344 mục từ; 3- Kinh truyện yếu ngữ (gồm tên quẻ, tên hào, tên thiên Thập dực, từ ngữ quan trọng trong kinh truyện, là bộ phận chủ yếu của bộ từ điển này). Thượng kinh 1268 mục từ. Hạ kinh 1313 mục từ (cộng 2581 mục từ); Hệ từ truyện 90 mục từ. Thuyết quái truyện: 28 mục từ, Tự quái truyện: 64 mục từ, Tạp quái truyện: 37 mục từ; 4- Dịch từ diễn dụng (những từ có nguồn gốc, có xuất xứ từ Chu Dịch giúp làm sáng tỏ ảnh hưởng của Chu Dịch đối với Hán ngữ học): 175 mục từ; 5- Trị Dịch danh gia (các nhà nghiên cứu về Dịch học): 401 nhà; 6- Dịch học yếu tịch (những tác phẩm Dịch học): 578 tên sách; 7- Biệt loại tham lệ (những nội dung về mối quan hệ giữa Dịch học với các ngành khoa học khác, và những nội dung chưa đưa vào 6 loại trên): 81 mục từ(1).

Phàm lệ còn cho biết thêm, về mục các nhà nghiên cứu Dịch học, những nhà trước Hán - Đường thì cố gắng đưa đầy đủ, từ Lưỡng Tống về sau thì lựa chọn những nhà có ảnh hưởng tương đối lớn. Những nhà Dịch học đương đại thì giới hạn năm mất vào đầu thập kỷ 50 của thế kỷ này. Về mục những tác phẩm Dịch học thì chọn những tác phẩm Dịch học quan trọng trong các thời đại hiện còn làm chính. Các văn bản cũ thì nói chung chọn loại thiện bản, hoặc tương đối phổ biến. Những tác phẩm đương đại thì đưa cả nhà xuất bản và năm tháng xuất bản lần đầu. Về việc giải thích ngữ nghĩa, nếu có nhiều nghĩa thì từ điển cũng nêu đủ, nhưng chỉ giới hạn ở nội dung có liên quan đến Dịch học mà thôi. Khi giải thích có châm chước tiếp thu những tư liệu có liên quan để chứng minh, cốt làm sáng tỏ cái gốc của sự lập thuyết... Nếu muốn phát biểu ý kiến của người biên soạn, và những chỗ khảo dị, biện nghi về âm, nghĩa thì thêm chữ “án” (xét) để phân biệt.

Ngoài ra ở phần đầu bộ Từ điển này còn có 29 hình vẽ và biểu bảng quan trọng về Dịch học của các nhà. Dưới mỗi biểu bảng, hình vẽ đều có thuyết minh ngắn gọn, và chúng đều có quan hệ với các mục từ trong chính văn.

Nếu đọc vào nội dung từng mục từ cụ thể, chúng ta có thể thấy mỗi mục từ có thể coi là một bài nghiên cứu nhỏ, tác giả phân tích sâu, dẫn chứng rộng, lập thuyết hợp lý, thuyết phục. Thí dụ như mục từ “Khiêm”, Từ điển cho biết: Khiêm là tên quẻ thứ 15 trong 64 quẻ, do quẻ dưới là Cấn () và quẻ trên là Khôn () hợp thành. Hình quẻ là (Địa sơn Khiêm), tượng trưng cho sự khiêm tốn. Tiếp đó mục từ trích sách Thượng thư, chương Đại Vũ mô để mở rộng thêm: “Tự mãn thì sẽ tổn hại, khiêm tốn thì được ích lợi” (mãn chiêu tổn, khiêm thị ích). Câu đó phù hợp với ý nghĩa lớn ca ngợi đạo đức khiêm tốn của quả Khiêm. Qua hình quẻ, Đạị tượng truyện của quẻ Khiêm còn cho biết: “Núi cao mà ẩn tàng trong lòng đất, là tượng trưng cho sự khiêm tốn. Người quân tử nhìn tượng ấy thì khi hành động phải biết lấy ở chỗ quá nhiều để bổ sung cho chỗ không đủ, cân đong sự vật phải sao cho được công bằng”. (Địa trung hữu sơn, Khiêm. Quân tử dĩ biều đa ích quả, xứng vật bình thí). Quái từ quẻ Khiêm còn nhấn mạnh thêm: “Quẻ Khiêm tượng trưng cho sự khiêm tốn, nên được hanh thông. Nhưng chỉ có bậc quân tử mới giữ được đạo đức khiêm tốn trước sau như một. (Khiêm hanh, quân tử hữu chung). Mục từ còn trích Hàn Thi ngoại truyện, dẫn lời Chu Công Đán thường mượn quẻ này để khuyên Bá Cầm: “Dịch có một con đường, lớn đủ để giữ thiên hạ, vừa đủ để giữ quốc gia, nhỏ đủ để giữ thân, đó là đạo khiêm tốn vậy”. Tiếp đó, mục từ nêu tình hình cụ thể của các hào: Cả 6 hào trong quẻ, 3 hào dưới đều tốt mà không xấu, 3 hào trên đều lợi mà không hại. Sự tốt lợi trong Dịch ít có quẻ nào được hoàn toàn như vậy. Hào Sơ lục là “khiêm khiêm”, hào Lục nhị là “minh khiêm”, hào Cửu tam là “lao khiêm”, hào Lục tứ là “huy khiêm”... (xin lưu ý rằng, lăng vua Tự Đức ở Huế có tên là Khiêm lăng, và các bộ phận kiến trúc trong lăng đều được đặt tên bằng các lời hào của quẻ này). Cuối cùng, mục từ trình bầy quan hệ biện chứng giữa việc giữ đạo khiêm tốn với việc dẹp bỏ thói kiêu ngược được trình bầy trong hai hào Lục ngũ và Thượng lục. Hoặc lấy một mục từ về tên sách, như mục từ Chu Dịch bản nghĩa của Chu Hy để chứng minh. Nội dung mục từ nêu rõ tên tác giả, thời đại, số quyển, ai khắc, khắc vào thời nào. Nội dung chính của sách là gì, lập thuyết chịu ảnh hưởng của ai, bố cục của sách giống bản nào, của ai, đầu sách cuối sách có phần gì, đời sống của tác phẩm này qua các thời có gì thay đổi, Tứ khố toàn thư đề yếu nhận xét ra sao, bộ mặt hiện nay của sách thế nào v.v... Nhiều khi tên mục chỉ là một câu, như mục từ “Vô cực nhi thái cực”, tác giả cũng chỉ rõ đó là câu nói của ai, trong tác phẩm nào, Chu Hy giải thích thế nào, anh em Lục Cửu Uyên hiểu ra sao, khác nhau thế nào, khi nào thì xuất hiện câu “Tự vô cực nhi vi thái cực”, ai thêm vào chữ “tự” và “vi”, thêm vào 2 chữ này thì bản nghĩa bị xuyên tạc đi như thế nào, v.v...

Các mục từ về các nhà Dịch học, đọc cũng rất thú vị. ở đây ngoài việc chúng ta biết được họ tên, thụy, hiệu, năm sinh, năm mất, quê quán, quan tước, các tác phẩm Dịch học của họ còn mất ra sao, chúng ta còn biết được cả tính cách, hành trạng, quan điểm sống và học thuật của họ nữa, đọc lên có sức cảm hóa người đọc khá mạnh. Thí dụ, ở mục từ Trình Hiệu, Từ điển viết: "Ông tư chất hơn người , lại được đạo học dưỡng dục, nên khí hòa tinh túy dồi dào khắp người . Học trò, bạn bè quen ông mấy chục năm, chưa từng thấy ông cáu giận bao giờ...". Hoặc ở mục từ Vương Chiêu Tố, từ điển viết: “Hồi trẻ ông dốc chí học tập, không làm quan, có chí khí, được quê hương ca ngợi. Ông đi chợ, mua thứ gì, cứ theo lời người bán mà trả, không mặc cả bao giờ. Người trong huyện bảo nhau: Vương tiên sinh mua hàng thì không được nói thách. Ông nhà có cây cột gỗ chất trong cửa, nửa đêm có trộm, lách cửa sắp vào, ông biết, liền ngầm từ trong cửa vứt gỗ ra ngoài, tên trộm xấu hổ bỏ đi. Từ đó cả thôn không còn trộm cắp. Nhà ông có con lừa, nhiều người đến mượn. Mỗi khi sắp đi đâu, ông hỏi đầy tớ trước, biết là không có ai mượn lừa ông mới ra đi. Người xã kiện tụng, không tới phủ quan, mà toàn đến nhờ ông hòa giải cho. Ông hiểu rộng cửu kinh, tinh thông Lão, Trang, Thi, Dịch...”

Nói tóm lại, bộ Từ điển Chu Dịch này được biên soạn khá công phu, mang tính chuyên môn sâu và nội dung bao quát tương đối rộng, vừa giải thích, vừa dẫn chứng, vừa khảo chứng, rất bổ ích cho người học tập và nghiên cứu Kinh Dịch. Có thể nói đây là một bộ sách “tập đại thành” về Kinh Dịch, chứa đựng nhiều tri thức về Dịch học và liên quan tới Dịch học, nhiều tri thức tinh mật Đông phương về tự nhiên, xã hội và con người. Còn những ai thích học Dịch, với bộ từ điển này trong tay, theo chúng tôi, là có thể tự học Kinh Dịch được. Nhân ngày xuân được xin giới thiệu với bạn đọc.

CHÚ THÍCH

(1). Những số liệu cụ thể của từng loại này là do người viết bài này thống kê./.

TB

TRẢ LỜI HAI ÔNG THẾ ANH VÀ HỒ NGUYÊN
VỀ BÀI "ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU"

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Tạp chí Hán Nôm số 4 (29)-1996 có đăng bài Đọc lại Truyện Kiều của hai ông Thế Anh - Hồ Nguyên, trong đó có nói đến việc tìm hiểu chữ nghĩa Truyện Kiều và có nói đến một vài chữ trong quyển Truyện Kiều(1) do chúng tôi chú giải. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với hai ông rằng “Trong nghề chữ nghĩa văn chương có cái khác với các môn khoa học tự nhiên là cùng một hiện tượng nhưng lại có những cách hiểu khác nhau nên vấn đề trao đổi tranh luận để đi đến chỗ hợp lý, được nhiều người tiếp nhận là một điều cần thiết”.

Hai ông đã đưa ra một số trường hợp cụ thể để trao đổi và chúng tôi xin được trình bày lại như sau:

1. Câu 566:

Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa

Câu này, trong quyển Truyện Kiều khảo đính và chú giải, chúng tôi đã giảng là “tả cảnh cuối mùa hè, sang đầu mùa thu” nhưng hai ông Thế Anh - Hồ Nguyên lại cho rằng “phải hiểu là cuối xuân sang hè mới chính xác”.

Hiểu như vậy có hợp lý không ? chúng ta hãy đọc lại Truyện Kiều để tìm hiểu cho chính xác hơn.

Ở đầu truyện, khi Nguyễn Du để cho Kim Trọng gặp Thúy Kiều, ông đã tả cảnh mùa xuân vào tiết thanh minh:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

(c.39 -c.40)

Như vậy Kim Trọng đã gặp Thúy Kiều vào khoảng đầu tháng ba.

Sau cuộc gặp gỡ ấy, Thúy Kiều về đã tưởng nhớ đến Kim Trọng:

Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?

(c.181 - c.182)

Và Kim Trọng cũng tưởng nhớ đến Thúy Kiều:

Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

(c.245 - c.246)

Thời gian tương tư ấy cũng kéo dài đến cuối tháng ba:

Tuần trăng khuyết , đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng

(c.251 - c.252)

Kim Trọng bèn tìm cách để được gặp Thúy Kiều và đã thuê được một căn nhà ở bên vườn Thúy. Ở đây chàng đã:

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
(c.284)

và rồi thời gian qua đi cũng gần hai tháng mà vẫn chưa có dịp gặp lại Thúy Kiều:

Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.

(C.287 - c.288)

Thế là đã sang tới tháng năm rồi ! cho đếm một hôm Kim Trọng bắt được chiếc thoa của Thúy Kiều vương trên cành đào, chàng mới có dịp được gặp lại nàng và chàng đã tỏ tình:

Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.

(C.315 - c.316)

Nếu tính cái khoảng thời gian “bấy lâu” ấy thì lúc này đã vào đầu tháng sáu rồi và việc Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú xảy ra ngay sau đó cũng đã vào khoảng cuối hè gần sang thu rồi, đúng như Nguyễn Du đã tả qua câu:

Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa

Điều cần nói thêm nữa là sau khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú thì Thúy Kiều cũng phải bán mình để chuộc cha và đã ra đi ngay theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy vào đúng mùa thu như Nguyễn Du đã tả tiếp qua mấy câu sau đây:

Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.

(c.911 - c.914)

Thế thì câu:

Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa.

chính là tả cảnh cuối mùa hè, sang đầu mùa thu vậy.

Nhưng nếu ta lại căn cứ vào câu 370:

Thưa hồng rầm lục đã chừng xuân qua

thì lại là cảnh cuối xuân sang hè, khi Vương ông, Vương bà, Thúy Vân và Vương Quan đi dự sinh nhật ngoại gia.

Ở đây Nguyễn Du có sự sơ suất chăng vì trong nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân cũng kể rằng Thúy Kiều đã bán mình vào đầu mùa hè.

Văn ước đã ghi rõ ràng:

“Người đứng lập tờ văn ước tên là Chung Sự. Nay nhận thấy người hiếu nữ tên gọi là Vương Thúy Kiều vì việc cứu cha nên phải bán mình làm thiếp cho khách họ Mã lấy số tiền sính lễ là 450 lạng bạc, hẹn sau ba ngày, việc quan kết liễu sẽ theo Mã ra đi không dám sai thù. Vì sợ lòng người bất trắc nên lập văn ước làm tin.

Văn ước viết ngày 15 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 11.

Người viết giấy: Chung Sự ký.

Người trung gian: Bà mối Hàm ký”.

Vậy Nguyễn Du đã sơ suất khi thêm vào một số chi tiết mà nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không có.

2. Câu 1092:

Giá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Hai ông Thế Anh và Hồ Nguyên cho rằng: “Trong câu này có một số điểm cần trao đổi: Giá hay Đóa; Đồ mi hay trà mi

Hai ông còn cho biết thêm: “có xem lại một số bản Kiều Nôm thì câu này đều viết chữ 架 giá như ông Nguyễn Quảng Tuân khẳng định”.

Đối với nghi vấn của hai ông, chúng tôi xin trả lời theo từng điểm:

a. Giá hay Đóa

Về chữ này, các bản Nôm đều viết chữ giá 架 như hai ông đã kiểm soát lại. Chúng tôi chỉ phiên âm cho thật đúng với mặt chữ chứ không hề suy đoán để khẳng định.

Hơn nữa chữ Giá đồ mi mới có nghĩa vì như Đào Duy Anh đã nhận xét: “Người ta nói núi ngậm trăng khi trăng xế chứ hoa ngậm trăng thì không thấy nói”(2).

Nhận xét của Đào Duy Anh rất đúng vì hoa đồ (trà) mi nhỏ như hoa hồng leo (tường vi) thì làm sao ngậm được vừng trăng.

Thực ra thì là cái giá tức cái giàn hoa đồ mi nó ngậm lấy vừng trăng như mấy câu thơ sau đây trong sách Quốc sắc thiên hương đã tả:

Nhất điểm thương tâm vô thác xứ,
Đồ mi giá thượng nguyệt trì trì.
Trù trướng hữu thùy chi ?

(Một mảnh lòng son biết gửi nơi đâu,
Trên giá đồ mi vừng trăng đi chầm chậm.
Mối sầu của ta ai người hiểu cho ?)

Vừng trăng đi chầm chậm như đứng lại một chỗ, ở dưới nhìn tréo lên trông thấy như giàn hoa ngậm lấy vừng trăng.

Vậy chữ giá mới có nghĩa.

b. Đồ mi hay trà mi

Hai ông Thế Anh - Hồ Nguyên đã cho biết là “trong Khang Hy tự điển có ghi âm Đồ và Trà là đồng âm” và cho rằng đồ mi hoặc trà mi đều được cả.

Chúng tôi nhận thấy chữ 荼 tuy có hai âm (đồ hoặc trà) nhưng khi đặt thành từ ngữ 荼 蘼 thì phải đọc là đồ mi chứ không thể đọc là trà mi được. Chính vì vậy mà các cụ ta xưa để đọc thành “trà mi” đã viết bớt đi một nét 茶 .

Còn về chuyện tục thanh của chữ “đồ” thì xin đọc bài Thầy đồ nọ là người tài bộ, quẩy cầm thư đi Giáo thụ phủ Vĩnh Tường... sẽ rõ.

Chúng tôi xin miễn chép cả bài vào đây.

3. Câu 2854:

Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng.

Hai ông Thế Anh - Hồ Nguyên cho rằng: “Kiều ở đây không phải là ai khác mà đích thực là Thúy Kiều” nên hai ông cho rằng chữ “Kiều” phải viết hoa.

Chúng tôi sở dĩ không viết hoa chữ “kiều” vì các bản Nôm như bản Kiều Oánh Mậu và bản Quan Văn Đường (1906) đều viết 嬌 (kiều: người con gái) chứ không viết 翹 (Kiều: tên của Thúy Kiều) mà chữ 嬌 này ai cũng hiểu là ám chỉ Thúy Kiều, không cần phải gọi đích danh ra.

Qua ba phần trình bày ở trên, chúng tôi xin được kết luận bài trao đổi ý kiến này và cũng xin thưa rằng, trong việc phiên âm Truyện Kiều, chúng tôi đã theo đúng bản Nôm và tuyệt đối không dám sửa chữa đặt thêm một chữ mới nào khác vì chữ nghĩa Truyện Kiều thì vô cùng mà sự hiểu biết của mình chỉ có hạn.

N.Q.T

CHÚ THÍCH

(1) Truyện Kiều. Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải, Nxb. KHXH, H. 1995.

(2) Tự điển Truyện Kiều. Đào Duy Anh, Nxb. KHXH, H. 1974./

TB

DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU

TRẦN ĐẮC THỌ

Có lẽ không người Việt Nam nào lại không thuộc ít nhiều thơ của cụ Nguyễn Du, nhất là về phần thơ chữ Nôm của cụ. Riêng về mảng thơ chữ Hán của cụ thì ít được phổ biến, tuy có nhiều bài rất hay, hay tới mức trác tuyệt. Muốn hiểu rõ tâm sự của cụ phải tìm đọc thơ chữ Hán. Loại thơ này của cụ có phần nào khó dịch ra thơ quốc ngữ, nên cho tới nay, số người dịch toàn bộ thơ chữ Hán của cụ không nhiều. Ngay như nhà thơ Quách Tấn, am hiểu chữ Hán, có sở trường về thơ Đường Luật, mà cũng chỉ dịch có 72 bài trong hơn hai trăm rưởi bài đã sưu tầm được. Thơ chữ Hán Nguyễn Du có nhiều bài uẩn súc, ý tại ngôn ngoại. Cụ để lại 3 tập thơ chữ Hán là Thanh Hiên thi tập. Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập có lẽ bị thất lạc nhiều. Có tài liệu cho biết thời Tự Đức nhà Nguyễn, có lần vua đòi trình lên ngự lãm toàn bộ thơ chữ Hán của cụ. Việc đòi hỏi này có do thiện ý không, khó mà biết được. Chỉ biết chính ông vua này đọc Truyện Kiều đến đoạn nói về Từ Hải, đã muốn phạt trượng tác giả, tuy tác giả đã qua đời mấy chục năm. Lệnh vua ra thường phải thi hành lệnh khẩn trương, nên gia đình cụ khó lòng kịp sao chép lại được hết vì nguyên bản phải nộp lên trên. Nộp không hết còn ẩn lậu, triều đình biết ra, tội khi quan khó tránh. những bài bây giờ có được là do gia đình chép lại, hoặc do sư tầm ở các gia đình thân bằng, cố hữu, các gia đình có lòng trân trọng thơ của tác giả.

Thơ của cụ không những khó dịch thành thơ tiếng Việt. Ngay như chỉ dịch nghĩa cũng mối người hiểu một cách, dịch một cách. Tôi đắn đo mãi khi chọn bản dịch năm 1988 của Nhà xuất bản Văn học vì nó là sản phẩm của một tập thể, đã được tái bản tới lần thứ ba, đã mấy lần được bổ sung, sửa chữa, mà bây giờ cũng chưa có bản nào mới hơn. Bài tôi mang ra khảo chứng là bài số 8 trong Thanh Hiên thi tập, nhan đề U cư mà mà có nhiều bản đã dịch không sát là "ở nơi u tịch", "U cư" được tác giả viết thành 2 bài, nguyên văn như sau:

Phiên âm:

U CƯ
Đào hoa, đào diệp lạc phân phân,
Môn yểm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm canh giác lão tùy thân.
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân.
Lưu lạc bạch đầu thành để sự ?
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.

Dịch nghĩa:

Ở ẨN
Hoa đào, lá đào rụng tơi bời,
Cánh cửa đóng xiêu vẹo, một ngôi nhà bàn hàn.
Ở lâu bỗng quên mất mình là khách,
Trải nhiều năm càng biết cái già đã đến với mình.
Chốn tha hương giứ sự vụng về để phòng kẻ tục,
Đời loạn muốn bảo toàn sinh mệnh nên sợ người đã lâu.
Lưu lạc đến bạc đầu có nên chuyện gì đâu ?
Gió tây thổi làm rớt chiếc khăn đen nhỏ.

II

Phiên âm:

Thập tải phong trần khứ quốc xa
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia
Trường đồ nhật mộ tâm du thiểu
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch
Hoang trì thuỷ hạt xuất hà ma
Hành nhân mạc tụng Dăng lâu phú
Cường bán xuân quang tại hải nha (nhai)

Dịch nghĩa:

Trải gió bụi mười năm bỏ nước đi xa,
Phơ phơ tóc bạc ở gửi nhà người.
Đường dài ngày muộn bạn mới ít,
Một nhà xuân lạnh, bệnh cũ lại nhiều.
Vách nát trăng sáng chiếu vào con thằn lằn đang nằm cuộn.
Ao hoang nước cạn khiến ếch nhái nhô ra.
Người đi xa chớ đọc phú Đăng lâu nữa,
Hơn nửa tuổi xuân sống ở bên trời.

Khác với lần xuất bản năm 1978, lần này Nhà xuất bản Văn học không dùng bản của các cụ Lê Thước, Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, mà dùng bản của các ông Đào Duy Anh sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích, được bà Nguyễn Kim Hưng biên tập. Phần dịch nghĩa và dịch thơ lần này được sửa chữa, bổ sung nhiều nên tốt hơn so với bản cũ. Tuy nhiên, không phải vì thế mà không có những điều cần được trao đổi.

Ngay bài U cư được xếp ở gần đầu Thanh Hiên thi tập cũng làm người đọc phải ngờ ngợ. Câu đầu của bài U cư thứ hai, đã chứng tỏ cụ đi lánh nạn ở quê vợ tại Quỳnh Bôi (Thái Bình) 10 năm rồi. Như vậy, sao nó lại đứng ở vị trí thứ 8 trong tập thơ ?

Bây giờ ta bắt đầu điểm từ bài I:

- Câu đầu bài I, "lạc phân phân" dịch là rụng tơi bời, e không sát, Hoa lá rụng tơi bời chỉ có sau một cơn bão tố hay sau một trận mưa gió nặng nề. Lá đào rụng vào giữa mùa đông (nếu lúc ấy, lá chưa rụng hết, người ta cũng vặt trụi) để có hoa nở nhất loạt vào dịp Tết đầu xuân. Còn hoa đào thì tàn hết vào trung tuần tháng giêng, tất cả đều xảy ra trong thời gian khô, lạnh hoặc mưa xuân. Vậy thời làm gì có mưa gió to để hoa, lá đào tơi bời rụng!

- Câu 5: "Dưỡng chuyết sơ phòng tục" được dịch giữ sự vụng về để phòng kẻ tục. "Phòng kẻ tục" vậy ai là kẻ tục tử ỏ đây ? Theo thiển ý, tác giả có ý nói "dưỡng chuyết" để ngừa việc vô tình vi phạm vào tục lệ địa phương. Tác giả là con của tể tướng, nhất phẩm triều đình. Nếp sống của nhà quan, không giống nếp sống nhà dân, mà tóc giả đi lánh nạn không muốn lộ tung tích, nên phải giữ gìn.

- Câu 6: "Xuy đảo" có nghĩa gió thổi làm xô cái khăn đen nhỏ, không đủ dài để quấn chặt. Ngày xưa, các cụ chít khăn, mà không đội khăn vì chưa biết làm sẵn thành hình cái khăn, khăn bị sổ, không nhất thiết là phải rơi. Vả "xuy đảo" cũng không có nghĩa là thổi rơi. Tác giả đã nhấn vào chữ "tiểu" (tiểu ô cân).

Cả câu 6: "Gió tây thổi làm rớt chiếc khăn đen nhỏ" cần được chú thích rõ thêm vì "gió tây" là một từ địa phương chỉ gió lạnh. Câu ca dao anh về để áo lại đây, Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng đã nói lên điều đó. ở bài này thiết nghĩ nên dịch"tây phong" là gió lạnh để tránh cho người đọc hiểu lầm vì từ "gió tây" thường được chỉ gió nóng mùa hè, thổi từ phương tây lại. ở ta đầu mùa đông hay có gió tây bắc là loại gió lạnh. Đông hay tây bắc, trong dân gian thường gọi chung là gió bấc.

Về bài U cư II, ở câu 1, "khứ quốc xa" không nên dịch là bỏ nước đi xa vì thực tế không có chuyện ấy. Tác giả chỉ từ kinh thành lánh về Thái Bình. Thiết tưởng nên dịch là rời quê hương là đủ. Chính cụ Nguyễn Du đã từng viết Tấc lòng cố quốc tha hương khi tả cô Kiều ở Châu Nhai nhớ về quê nhà.

Câu 2: "tiêu tiêu bạch phát" dịch là phơ phơ tóc bạc cũng quá sự thực. Lúc đó, tác giả mới khoảng 30 tuổi (20 năm ở kinh thành sống trong nhung lụa + 10 năm đánh giặc ở Quỳnh Côi - Thái Bình). Tóc bạc phơ phơ chỉ tóc bạc hoàn toàn. Chưa kể, dịch như thế là sai. "tiêu tiêu bạch phát" có nghĩa là tóc bạc chưa kịp chải. Từ Hán Việt "tiêu" còn có nghĩa là rối loạn.

Câu 5: "vách nát trăng sáng chiếu vào con thằn lằn đang nằm cuộn". Dịch như trên, cần xem lại, vì con thằn lần cũng như con thạch sùng không bao giờ nằm cuộn cả. Xương sống của chúng không cho phép nằm trong tư thế đó. Chỉ rắn mới nằm cuộn được. "Bàn tích bích" có nghĩa thằn lằn bò đuổi quanh nhau, chui ra chui vào qua lỗ thủng ở vách, mà không phải cuộn tròn ở nền nhà dưới ánh trăng lọt qua vách chiếu vào.

Câu 6: "Ao hoang, nước cạn khiến ếch nhái nhô ra". Trước hết từ "Oa" mới là con ếch. Còn con nhái cũng như con cóc, vốn ở cạn là chính, chỉ khi đẻ mới xuống nước, nên không chờ nước cạn mới "nhô ra" (?). Trong sinh vật học, loài ếch nhái được xếp vào loại lưỡng cư như: ếch, nhái, ễnh ương, chẫu chuộc, nhái xanh, nhái bén... Từ "nhô ra" dùng không chính xác. "Nhô" là thò ra ngoài. Người ta nói ngôi nhà xây nhô ra ngoài phạm vi được phép. "Hà ma" là con chẫu chuộc. "Xuất hà ma" là chẫu chuộc, chẫu chàng nhảy ra kiếm nơi có nhiều nước, khi thấy ao cạn.

Câu 7: "Mạc tụng Đăng lâu phú" dịch là "chớ đọc phú Đăng lâu có lẽ cũng không ổn. "Tụng" là một kiểu đọc khác với lối đọc dịch từ chữ Hán "độc". Ta thường nói "tụng kinh". Thiết nghĩ tác giả viết "tụng Đăng lâu phú" là có dụng ý, ta nên để nguyên là "tụng" thì hơn.

Trong bài này, tôi không dẫn chứng một bản dịch thơ nào vì e có người cho tôi có thiên kiến. Vả lại, thưởng thức thơ, mỗi người có một "khẩu vị" riêng. Nếu bạn nào quan tâm đến vấn đề thì việc kiểm tra lại những ý kiến đề xuất của tôi, tìm một vài bài dịch thơ U cư nào đó để đối chiếu, xác minh những đề xuất của tôi, thiết tưởng cũng không khó. Về phần tôi, cũng xin mạo muội góp hai bài thơ dịch để ta cùng nhau trao đổi, mong sẽ có những bản dịch hoàn chỉnh hơn. May ra cụ Nguyễn Du sẽ bớt ngậm ngùi:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
(Độc tiểu Thanh ký)
(Ba trăm năm nữa ai mà biết
Thiên hạ nào ai khóc Tỗ Như.)

(T.Đ.T. dịch).

Sau đây là hai bản dịch thơ của tôi về bài U cư:

Gốc đào hoa lá tả tơi dần
Nhà nát, cổng xiêu, rõ cảnh bần.
Trú mãi, bẵng quên mình phận khách,
Năm chầy, càng thấy tuổi già câng.
Quê người, lấy vụng dè chừng tục,
Thời loạn, né người đỡ thiệt thân.
Lưu lạc bạc đầu còn lận đận,
Gió hàn làm sổ chiếc khăn thâm.

II
Rời quê hương, chục năm gió bụi,
Kiếp ở nhờ đầu rối tuyết pha.
Bạn mói ít, trời chiều lối ngõ,
Bệnh xưa nhiều, xuân lạnh căn nhà.
Vách hư, trăng lạt, lằn quanh diễu,
Nước cạn, oa hoang, chẫu nhảy ra.
Phú Đăng lâu, khách đi chớ tụng(1)
Chân trời góc biển, tuổi xuân già.
(T.Đ.T.)

CHÚ THÍCH

(1). Đăng lâu phú: bài phú của Vương Xán, một nhà thơ nổi tiếng thời Đông Hán (Trung Quốc ), người Lạc Dương, tránh nạn đến nhờ Lưu Biểu ở đất Kinh Châu, nhớ nhà lên lầu Thành Giang Lăng làm bài phú này. Vương Xán ở trong nhóm Kiến An thất tử. Thơ của nhóm Kiến An này cảm thán cho thời ly loạn, thân thế nổi chìm, gặp nhiều điều bất như ý./

TB

SÁCH HỌC CHỮ HÁN
CHO HỌC SINH NHỎ TUỔI NGÀY XƯA

THẾ ANH

Nền nho học ở nước ta đã lùi sâu vào dĩ vãng nên nhiều người, nhất là lớp trẻ ngày nay không hình dung được cách học hành và chế độ thi cử thời xưa. Trong bài này tôi muốn giới thiệu sơ lược một số “sách giáo khoa” được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập cho lớp học trò nhỏ tuổi mới bắt đầu bước chân đến “cửa Khổng sân Trình”.

Cuốn sách vỡ lòng chữ Hán phổ biến nhất để đào tạo nhân tài tương lai của nhiều thế hệ trước đây là cuốn Tam tự kinh. Như tên gọi của nó, mỗi câu trong sách gồm 3 chữ có gieo vần để người học dễ nhớ, chữ cuối các câu chẵn có vần với nhau, cứ liên tiếp hai vần trắc rồi lại hai vần bằng:

Nhân chi sơ,
Tính bản thiện.
Tính tương cận,
Tập tương viễn.
Cẩu bất giáo,
Giáo chi đạo,
Quí dĩ chuyên

Cuốn Tam tự kinh do một nhân vật nổi tiếng đời nhà Tống là Vương Ứng Lân(1) soạn để dạy trẻ trong nhà, nhưng về sau nhiều người thấy hay mới đem phổ biến dùng làm sách huấn mông (dạy trẻ) và cũng được đưa vào Việt Nam khá sớm.

Cuốn sách đề cập đến nhiều nội dung: Từ cách giáo dưỡng một em bé mới lên 5-6 tuổi về vấn đề tu dưỡng tính tình, về lễ nghi hiếu đễ, về đối nhân xử thế... cho đến những kiến thức về lịch sử, xã hội và cả những vấn đề vạn vật và vũ trụ mà chỉ gói gọn trong khoảng 1000 chữ Hán. Ở Việt Nam trước đây cũng đã có người diễn âm Tam tự kinh ra thể lục bát để trẻ con dễ học, dễ nhớ, chẳng hạn:

Bà Mạnh ở chọn láng giềng,
Con thơ biếng học chém liền cửi khung.
Năm con họ Đậu một dòng,
Nghĩa phương hòa một bảng rồng cả năm.
(Tích Mạnh mẫu, trạch lân xử.
Tử bất học, đoạn cơ trử
Đậu Yên sơn, hữu nghĩa phương.
Giáo ngũ tử, danh câu dương).

Đứng về quan điểm giáo học pháp hiện đại thì nội dung cuốn sách có chỗ chưa thích hợp với lứa tuổi vỡ lòng, nhưng nhờ cách học truyền thống đó mà phần lớn các nhà nho đã trở thành những người mẫu mực của thời đại họ.

Ngày nay ở Trung Quốc cũng rất coi trọng vấn đề kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nên các nhà giáo dục đã dựa vào cuốn Tam tự kinh để soạn cuốn Tân Tam tự kinh(2) bổ sung thêm những kiến thức và nội dung mới cho các em thiếu nhi học tập.

Ngoài cuốn Tam tự kinh, các em còn được học một số sách khác như Ấu học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Minh đạo gia huấn, Minh tâm bảo giám v.v... để chuẩn bị cho giai đoạn học tập tiếp theo là nghiên cứu các sách học kinh, truyện (Tứ thư, Ngũ kinh).

Tiếp theo cuốn Tam tự kinh, các thầy đồ thường cho học sinh học cuốn Ấu học ngũ ngôn thi. Đó là một cuốn sách thơ năm chữ gồm 278 câu, nội dung khuyên các em chăm chỉ học hành để đỗ đạt cao và ra làm quan, hưởng vinh hoa phú quý. Do đó cuốn sách còn gọi là Trạng nguyên thi. Cuốn sách nêu lên những mục tiêu để khích lệ các em phấn đấu:

Mãn triều chu tử quý
Tận thị độc thư nhân.
(Các quan sang trong triều mặc áo đỏ, áo tía, hết thảy đều là những người học hành).

hoặc:

Nhất tử thu hoàng ân,
Toàn gia thực thiên lộc.
(Một người con đội ơn vua, cả nhà được hưởng lộc trời)

... Trong sách có những câu thuộc loại châm ngôn nổi tiếng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị:

Thế thượng vô nan sự,
Nhân tâm tự bất kiên.
(Trên đời chẳng có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền).

Thê hiền phu nội trợ,
Tử hiếu phụ tâm khoan.
(Vợ hiền lo việc nội trợ cho chồng, con hiếu thảo làm vui lòng bố)

Bạch nhật mạc nhàn quá,
Thanh xuân bất tái lai.
(Ngày xanh chớ bỏ qua, tuổi xuân không trở lại).

Cuốn Ấu học ngũ ngôn thi không nằm trong danh mục sách của người Trung Hoa, nên nhiều người cho rằng tác giả cuốn sách là người Việt Nam, nhưng chưa xác định được thời gian và con người cụ thể. Có một điều khẳng định là phần lớn những ngữ liệu cũng như nhiều đoạn thơ đều lấy từ trong kho tàng vốn cổ của Trung Quốc. Ai đã từng học chữ Hán trước đây hẳn rất thích thú với 4 câu thơ nói lên sự toại nguyện trong từng trường hợp cụ thể mà bản thân đã có dịp trải qua:

Cửu hạn phùng cam vũ,
Tha hương ngộ cố tri.
Động phòng hoa chúc dạ,
Kim bảng quái danh thì.
(Hạn lâu được trận mưa rào,
Xa quê bạn cũ ghé vào thăm ta.
Động phòng đêm ấy đuốc hoa,
Tên ghi đầu bảng còn ngờ chiêm bao).

Hoặc những câu thơ tuyệt đẹp tả thú chơi của những tao nhân mặc khách:

Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì,
Thu ẩm Hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
(Cỏ non hương ngát đường xuân dạo,
Hồ biếc sen thơm nắng hạ vờn,
Thu nhắp Hoàng hoa thời bát ngát,
Đông ngâm Bạch tuyết giọng ngâm trong.)

Tản đà, nhà thơ tài hoa và đa cảm hồi đầu thế kỷ đã ghi lại trong Giấc mộng lớn câu chuyện học chữ Hán của ông như sau: “Năm mình lên năm tuổi, tức là năm Thành Thái thứ năm, ở Nam Định vỡ lòng học chữ Hán. Khi ấy đi học còn phải có người cõng, về nhà thì thích chơi chuồn chuồn. Trong năm ấy học được một quyển Tam tự kinh, một quyển Ấu học ngũ ngôn thi và một phần Dương tiết. Trong ba quyển sách ấy. thích nhất là quyển Ấu học ngũ ngôn thi Trong Ấu học ngũ ngôn thi thích nhất là hai câu “Hoa cù hồng phấn nữ, Tranh khán lục y lang”(3). Cái bệnh đa tình từ đấy, cái lòng mê khoa cử cũng từ đấy”. Thế mới biết tác dụng của cuốn sách giáo khoa vỡ lòng đối với người học mạnh mẽ đến dường nào.

Việc học tập ngày xưa, nhất là ở lứa tuổi ấu học không có chương trình quy định chặt chẽ và khoa học như ngày nay, nên việc học sách gì trước, sách gì sau là do thầy đồ quyết định, vì “sách giáo khoa” không có hệ thống đi từ dễ đến khó, mà mỗi quyển đều có nội dung riêng biệt không phụ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn cuốn Sơ học vấn tân đề cập đến vấn đề lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, có thêm một phần nói về cách xử thế và những lời khuyên đối với học trò; quyển Minh đạo gia huấn gồm những lời khuyên về luân thường đạo lý và những câu châm ngôn xử thế; quyển Hiếu kinh dạy về đạo hiếu đối với cha mẹ; quyển Minh tâm bảo giám sưu tập những câu danh ngôn của các bậc hiền triết đã nói trong các kinh điển để răn dạy người đời và xem đó là “tấm gương quý báu để soi sáng lòng người” (Minh tâm bảo giám).

Ngoài ra còn có những loại như: Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự. Đặc biệt Tam thiên tự(4) là một cuốn sách hay, dễ học, dễ nhớ vì có vần và có đối, học luôn được cả chữ Hán và chữ Nôm:

Thiên trời, địa đất,
Cử cất, tồn còn.
Tử con, tôn cháu,
Lục sáu, tam ba.
Gia nhà, quốc nước.
.....

Tóm lại, sách học chữ Hán ngày xưa là “Khuôn vàng thước ngọc” lưu truyền từ đời này sang đời khác không có gì thay đổi cho đến khi kết thúc chế độ khoa cử ở nước ta (1918).

CHÚ THÍCH

(1) Vương ứng Lân: tự là Bá Hậu, như vậy ứng Lân và Bá Hậu là một, chứ không phải là 2 người như trong cuốn Khoa cử và giáo dục Việt Nam (tr.72) của Nguyễn Q. Thắng Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1993.

(2) Tân tam tự kinh - Quảng Đông giáo dục xuất bản xã 1995.

(3) “Đường hoa gái đẹp má hồng,
Tranh nhau nhìn ngắm anh chàng áo xanh”.

(4) Tam thiên tự do Ngô Thời Nhiệm soạn, bản khắc có chữ Hán và chữ Nôm./.

TB

MỘT TẬP THƠ CHỮ HÁN MỚI ĐƯỢC PHÁT HIỆN

NGUYỄN SĨ CẨN

Gần đây ông Trần Minh Siêu, thường trực Ban quản lý di tích Sở Văn hóa - Thông tin Nghệ An đưa cho tôi xem một cuốn sách chữ Hán mà ông sưu tầm được từ năm 1966 ở Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, do cụ Trương Đắc Đại người xã Diễn Kim tặng. Sách đóng bằng loại giấy dó mỏng và dai ngày xưa thường dùng để in mộc bản; khổ sách 13,5x19,5cm gồm 128 tờ (256 trang). Bìa sách bằng giấy bồi dầy phết cậy mầu nâu, gáy sách và các mép sách đều phết cậy, ở mép trên và dưới có hai chữ “Thi tập”. Bọc ngoài bìa sách bằng cậy còn có một bìa bằng giấy bìa học sinh màu xanh lơ đã ngả màu, ngoài bìa có 4 chữ: “Nghệ An thi tập”. Điều đáng chú ý là sách tuy đóng theo kỹ thuật sách in mộc bản nhưng lại là sách viết tay, mỗi trang 10 dòng, chữ nhỏ, viết chân phương, có đá thảo, nét chữ đẹp. Sách đã được đọc và chấm bằng bút son nghiêm chỉnh, những câu thơ hay đều được khuyên bên cạnh, một số chữ viết sai đều được sửa lại bằng chữ son.

Tuy ngoài đề là “Nghệ An thi tập” nhưng ruột sách bao gồm 4 tập thơ tuyển của 4 tác giả. Vấn đề đặt ra trước hết là xác định tên các tác giả của 4 tập thơ này. Để làm việc này chúng tôi dựa vào những căn cứ sau đây:

- Đề mục của từng tập được viết bằng chữ lớn hơn ở dòng đầu mỗi tập.

- Nội dung các bài thơ.

- Những ghi chú bằng chữ nhỏ ở một số bài thơ như: ngày, tháng, năm sáng tác, sự việc xẩy ra nhân đó tác giả làm thơ, thơ tác giả xướng họa với bạn hữu v.v...

- Đối chiếu với những tài liệu khác có liên quan.

Phân tích cụ thể như sau:

Tập thứ nhất:

- Đề mục của tập này là: Nghệ An thi tập.

Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, Nxb. Sử học, H. 1962, tr.356; Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập III, Nxb. Văn hóa, H. 1963 tr.106; Các nhà khoa bảng Việt Nam Nxb. Văn học, H. 1993, tr.729 thì tác giả Nghệ An thi tập là Bùi Huy Bích.

Bùi Huy Bích (1744 - 1802) người làng Định Công, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) hiệu là Tồn Am, đỗ Hoàng Giáp khoa Kỷ Sửu năm 1769, đã từng làm Đốc đồng, Hiệp trấn Nghệ An từ 1777 đến 1784. Ông là một nhà văn học, sử học có tiếng còn để lại nhiều tác phẩm trong đó có Nghệ An thi tập.

- Nội dung Nghệ An thi tập trong cuốn sách này phần lớn là thơ viết về danh lam thắng cảnh xứ Nghệ (Hoan Châu, Hồng Lĩnh, Lam Giang, Vĩnh Doanh, chùa Hương Tích, bến đò Phù Thạch...) thơ xướng họa, tặng đáp với các danh nhân xứ Nghệ đương thời như Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Thiếp... Bài “Bạng cáp sa” trong tập này cũng thấy có trong Hoàng Việt thi văn tuyển Nxb. Văn hóa, 1958, tr.132. Đặc biệt ở bài Giang trình hiểu phát quá Sơn Bảng, Thanh Liêm chư sơn có mấy ghi chú: “Đinh Dậu niên tam thập tứ” (Năm Đinh Dậu 34 tuổi) và “Đinh Dậu thất nguyệt sóc, phó Nghệ An Đốc đồng chi nhậm, sơ tam nhật phát tự Phú Xuyên huyện, Châu Xá xã Giang Tân...” (Đầu tháng 7 năm Đinh Dậu, đi nhậm chức Đốc đồng Nghệ An, ngày mồng 3 ra đi từ bến sông xã Châu Xá, huyện Phú Xuyên...). Tiếp theo bài thơ này là các bài viết về: qua núi Tam Điệp, qua huyện Quảng Xương, huyện Quỳnh Lưu... rồi đến bài Phó Trấn Thành lại có ghi chú: “Thất nguyệt thập tứ nhật chí Vĩnh Doanh tức Chân Phúc chi Yên Trường... bát nguyệt phụng phó Trấn thành tại Kỳ Hoa huyện...” (Ngày 14 tháng 7 đến Vĩnh Doanh tức Yên Trường thuộc Châu Phúc... tháng 8 đến Trấn thành ở huyện Kỳ Hoa...)(1). Đối chiếu các ghi chú trên với các tài liệu khác cho thấy:

+ Bùi Huy Bích sinh năm 1744 đến năm Đinh Dậu 1777, tính theo tuổi âm lịch là 34 tuổi, khớp với ghi chú: “Năm Đinh Dậu 34 tuổi”.

+ Sách La sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn, Nxb. Minh Tân - Paris - 1952 phần chữ Hán, thủ sao của Hoàng Xuân Hãn, mục “cẩn án” tr.275 có ghi: “Bùi Huy Bích, Đinh Dậu niên (1777) phó Nghệ An xứ Đốc đồng chi nhậm Sơ tam nhật thất nguyệt phát tự Phú Xuyên, thất nguyệt thập tứ nhật đáo Vĩnh Doanh” (Năm Đinh Dậu (1777) Bùi Huy Bích đi nhậm chức Đốc đồng xứ Nghệ An; ngày 3 tháng 7 ra đi từ Phú Xuyên, ngày 14 tháng 7 đến Vĩnh Doanh). Lời “cẩn án” này cũng khớp với lời ghi chú ở bài “Phó Trấn thành” nói trên.

+ Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam (sđd, tr.729) cũng chép: “Năm Đinh Dậu Bùi Huy Bích được bổ làm Đốc đồng Nghệ An”.

Vậy dựa vào những căn cứ trên có thể xác định tập Nghệ An thi tập trong cuốn sách này là tác phẩm của Bùi Huy Bích.

Tập thứ hai

- Đề mục của tập này là: Lạp Phong tiên sinh thi tập.

“Lạp Phong” là hiệu của Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp (1723 - 1804) còn có hiệu là: Hạnh Am, Khải Xuyên, Bùi Phong cư sĩ, Lục Niên tiên sinh, La Sơn phu tử v.v., người làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ Hương giải đời Lê, không chịu đi thi Hội, có ra làm quan rồi bỏ về ở ẩn tại núi Thiên Nhẫn. Nguyễn Huệ biết ông là người có tài và có uy tín nên đã thiết tha mời ông ra phò tá. Ông nhận làm Viện trưởng viện Sùng Chính, tổ chức dịch các sách kinh điển Nho gia ra tiếng Việt bằng chữ Nôm. Ông là người học rộng, thông hiểu sâu sắc nghĩa lý kinh sử, được người đời sau suy tôn là La Sơn phu tử. Tác phẩm của ông có: Hạnh Am thi cảo (Lược truyện các tác gia Việt Nam, sđd, tr.344 và Văn học Việt Nam, tập III- sđd, tr.169. Riêng sách La Sơn phu tử (sđd) có cả tập Hạnh Am thi cảo bằng chữ Hán, thủ sao của Hoàng Xuân Hãn, từ tr.304 đến tr.335).

- Đối chiếu nội dung hai tập Lạp phong tiên sinh thi tập Hạnh Am thi cảo thì thấy hầu hết các bài thơ trong Lạp phong tiên sinh thi tập đều có trong Hạnh Am thi cảo, kể cả bài Biền ngôn và bài Hạnh Am ký viết bằng văn xuôi.

Hơn nữa, cuối tập Lạp phong tiên sinh thi tập có dòng chữ: “Cảnh Hưng Nhâm Dần thập nguyệt Giáp Tý, Hoan Châu hậu học Nguyễn Khải Xuyên cẩn ký” (Ngày Giáp tý, tháng 10, năm Nhâm Dần, đời Cảnh Hưng kẻ hậu học đất Hoan Châu là Nguyễn Khải Xuyên kính cẩn ghi chép) thì cuối bài “Biền ngôn” sách La Sơn phu tử cũng có dòng chữ: “Hữu Việt Cảnh Hưng Nhâm Dần thập nguyệt Giáp Tý, Hoan Châu hậu học Nguyễn Thiếp Cẩn ký”. Như thế là ngày tháng năm ghi chép tập thơ trong hai văn bản đều giống nhau chỉ khác nhau ở chỗ: một bên chép tên (Nguyễn Thiếp) một bên chép hiệu (Nguyễn Khải Xuyên).

Những căn cứ trên cho phép xác định tác giả tập thơ Lạp phong tiên sinh thi tập là Nguyễn Thiếp.

Tập thứ ba:

- Đề mục của tập thơ: Bảo Triện Hoàng giáp Trần công thi tập.

Căn cứ vào nội dung một số bài thơ và ghi chú trong tập này (sẽ nói cụ thể sau) thì gia đình họ Trần Danh ở Bảo Triện là một gia đình khoa hoạn lớn: Người khai khoa thi Hội là Trần Phụ Dực (tên đi thi, tên đệm là Phụ) 1655 - ?, đỗ Tiến sĩ năm 1683, đời Lê, làm quan đến chức Tham chính Lạng Sơn. Trần Phụ Dực có hai người con trai là: Trần Danh Ninh (1703 -1766) đỗ Hoàng giáp năm 1731, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ và Trần Danh Lâm (1705 - 1777) đỗ Tiến sĩ năm 1731, cùng khoa với anh, làm quan Đốc đồng Cao Bằng, thăng dần lên đến Thượng thư bộ Công. Con Trần Danh Lâm là Trần Danh án (1755 - 1794) đỗ Hoàng giáp năm 1787, làm quan với nhà Lê, khi Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc ông bị đau ở lại quê nhà, cùng với Trần Quang Châu, Dương Đình Tuấn mưu việc chống lại Tây Sơn không thành. Về sau khi nghe tin Lê Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc rồi mất. Vậy là gia đình họ Trần Danh ở xã Bảo Triện trong 3 đời có 4 ông cháu, cha con đỗ đại khoa (2 Hoàng giáp, 2 Tiến sĩ). Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam thì tác phẩm của Trần Danh Lâm có Hoan Châu phong thổ thoại (tr.316) và của Trần Danh án có: Bảo Triện Trần Tiến sĩ thi tập (tr.336)(2), còn Trần Danh Ninh không thấy có tên ghi là tác gia trong Lược truyện... Như vậy vấn đề còn lại là xét xem giữa Trần Danh Lâm và Trần Danh án ai là tác giả Bảo Triện Hoàng giáp Trần công thi tập.

Khảo sát nội dung tập thơ Bảo Triện Hoàng giáp Trần công thi tập thì thấy có nhiều bài nói về tâm sự cô trung và nỗi sầu bi của tác giả đối với thời cuộc (các bài Tự thuật, Thuật hoài...) Tâm sự này không thể là tâm sự của Trần Danh Lâm vì con đường làm quan của ông này rất thuận lợi, mà chỉ có thể là tâm sự của Trần Danh án như đã nói trên(3)

Đặc biệt trong bài Tự thuật số 2(4) câu mở đầu viết:

Ngũ triều, tam thế, tứ quan thân
(Bốn người thuộc ba đời làm quan dưới năm triều vua)

Bốn người thuộc ba đời làm quan như đã trình bày ở trên là: Trần Phụ Dực (đời ông), Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm (đời con), và Trần Danh Án (đời cháu).

Năm triều vua là:

1/ Vĩnh Khánh Lê Đế Duy Phương (1729 - 1732)

2/ Long Đức Lê Thuần Tông (1732 - 1735)

3/ Vĩnh Hựu Lê Ý Tông (1735-1740)

4/ Cảnh Hưng Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

5/ Chiêu Thống Lê Mẫn Đế (1787- 1788)

(Niên biểu Việt Nam Nxb. KHXH. 1970, tr.27-28).

Nội dung câu thơ này khớp với gia đình họ Trần Danh ở Bảo Triện (4 người thuộc 3 đời làm quan dưới 5 triều vua). Bài thơ này chỉ có thể là thơ của Trần Danh Án chư không thể là của Trần Danh Lâm vì đến Trần Danh Lâm thì mới chỉ 2 đời và 3 người làm quan.

Vả lại, đề mục tập thơ chép là "Bảo Triện Hoàng giáp Trần công..." mà Trần Danh Lâm đỗ Tiến sĩ, còn Trần Danh án đỗ Hoàng giáp.

Như vậy là với những căn cứ trên có thể kết luận: Bảo Triện Hoàng Giáp Trần công thi tập là tác phẩm của Trần Danh án(5).

Tập thứ tư:

Đề mục của tập thơ: La Sơn Bùi Hoàng giáp thi tập (Tập Thơ của ông Hoàng giáp họ Bùi người La Sơn).

Theo đề mục ấy thì tác giả tập thơ có thể là là Bùi Dương Lịch người xã An Toàn huyện La Sơn (nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh - có đúng thế không? Bùi Dương Lịch (1757- 1828) hiệu Tồn Trai, đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi 1787. Quang Trung lên ngôi, ông làm việc Viện Sùng chính với La Sơn phu tử. Dưới thời Gia Long ông làm Đốc học tại Nghệ An. tác phẩm có: Bùi gia huấn hài, Nghệ An ký, Yên Hội thôn chí, ốc lậu thoại, Lê quí dật sử v.v

Khảo sát nội dung La sơn Bùi Hoàng Giáp thi tập, ta thấy:

- Mở đầu tập thơ có bài Ốc lậu thoại dẫn (Lời dẫn tập "ốc lậu thoại"). Vậy tập thơ này phải chăng là tập Ốc lậu thoại của Bùi Dương Lịch nhưng mang tên là La sơn Bùi Hoàng giáp thi tập ? Ngày xưa đối với sách chép tay thường xảy ra chuyện thay đổi tên sách theo ý của người chép như vậy(6).

- Nội dung tập thơ có nhiều bài viết về danh lam thắng cảnh xứ Nghệ: Hồng lĩnh, Song ngư, Lục Niên thành, Liệt Sơn thành (2 bài), Nghi Xuân bát cảnh (8 bài: Ngàn Hống giăng màn, Cánh buồm về cửa Đan Hải, Chùa Uyên Trừng...) làm ta liên tưởng đến sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch. Lại có bài Tồn Trai nói đến “Tùng phong, La nguyệt, cựu gia thôn” (Nhà ở nơi thôn xóm cũ có gió thổi rừng thông, trăng soi mặt nước sông La) mà chúng ta biết “Tồn Trai” là hiệu của Bùi Dương Lịch. Đặc biệt có bài Phú Xuân cải tuế ( ở Phú Xuân đổi tuổi) ghi chú làm năm Canh Tuất và câu cuối bài thơ là “Khai niên tam thập hữu tam niên” (Mở đầu năm ta 33 tuổi). Chúng ta biết Bùi Dương Lịch sinh năm 1758 đến năm Canh Tuất tức là năm 1790, tính theo tuổi âm lịch là 33 tuổi. Như vậy bài thơ mừng tuổi đầu năm này là của Bùi Dương Lịch khi ở Phú Xuân.

Vậy dựa vào những căn cứ trên: tên tập thơ, nội dung tập thơ, bài Tồn Trai, bài Phú Xuân cải tuế, bài đề dẫn tập Ốc lậu thoại... có thể xác định được tập La Sơn Bùi Hoàng giáp thi tập là tập thơ của Bùi Dương Lịch.

Sau cùng, ở trang cuối cuốn sách có một dòng chữ (nhưng chữ cuối dòng bị rách) ghi: “Tự Đức nhị thập bát niên, trọng xuân, cốc nhật...” (Tự Đức năm thứ 28, tháng 2, ngày lành...) và ở cuối dòng tiếp sau đó có 2 chữ: “Chân, cao” (còn nữa bị rách) chúng tôi đoán dòng chữ trên là ghi ngày tháng, năm chép cuối sách; 2 chữ sau có thể là tên người chép, và theo cách viết thì người chép có thể là người họ Cao. (Phải chăng cuốn sách này là của thư viện gia đình họ Cao Xuân ở Diễn Châu, Nghệ An ?).

Thực ra, vấn đề tác giả của 4 tập thơ trên, từ lâu mọi người đều biết rõ, là điều không cần phải bàn cãi. Nhân việc tìm thấy một dị bản ở Nghệ An, chúng tôi thêm một bước khảo sát để đi tới kết luận chắc chắn rằng cuốn sách Nghệ An thi tập vừa mới phát hiện đích thực là 4 tập thơ của 4 tác giả.

1. Nghệ An thi tập với khoảng 160 bài thơ của Bùi Huy Bích.

2. Lạp phong tiên sinh thi tập với khoảng 100 bài thơ của Nguyễn Thiếp.

3. Bảo Triện Hoàng giáp Trần công thi tập với khoảng 125 bài của Trần Danh án.

4. La Sơn Bùi Hoàng giáp thi tập với khoảng 265 bài của Bùi Dương Lịch.

Bốn tập thơ gồm khoảng 650 bài thơ của ba ông Hoàng giáp và một ông Hương giải (không chịu thi Hội) đó thực là một tập thơ chữ Hán quí của nền văn học cổ trung đại nước nhà.

Chúng tôi đã thử đối chiếu Lạp Phong tiên sinh thi tập trong cuốn sách ấy với Hạnh Am thi cảo trong La Sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn và thấy: Lạp phong tiên sinh thi tập thiếu 17 bài có trong Hạnh Am thi cảo nhưng lại có thêm 28 bài không thấy có trong Hạnh Am thi cảo. Như vậy là nhờ có Lạp Phong tiên sinh thi tập mà chúng ta có thêm 28 bài thơ của Nguyễn Thiếp. Công việc đối chiếu này ở các tập còn lại với các tập cùng tác giả hiện nay đã có ở Viện Hán Nôm, Thư viện Viện Văn học, Thư viện Quốc gia v.v. chắc sẽ đem lại thu hoạch đáng kể. Thời đại sống của các tác giả 4 tập thơ trên (nửa sau thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX) là thời kỳ lịch sử đất nước đang trải qua nhiều biến cố: Lê, Trịnh đi đần vào con đường suy vong, khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi, Nguyễn Huệ chiến thắng quân Thanh, Nguyễn Ánh thiết lập triều đại mới, tầng lớp nho sĩ phân hóa mãnh liệt... Thơ văn trong 4 tập ấy chắc sẽ giúp thêm chúng ta trong việc tìm hiểu hiện thực xã hội, tâm tư tình cảm và thái độ của tầng lớp kẻ sĩ đương thời đối với thời cuộc. Riêng đối với các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh thì 4 tập thơ này là một nguồn tài liệu phong phú đối với việc tìm hiểu xứ sở và con người xứ Nghệ bởi vì trong đó có rất nhiều bài viết về cảnh trí thiên nhiên, và con người xứ Nghệ. Có những đề tài được hai, ba tác giả đề cập đến theo cách nhìn của mình.

Rất mong Sở văn hóa - Thông tin Nghệ An và Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho chụp lại cuốn sách vì hiện nay giấy cuốn sách đã bắt đầu mủn ra, nếu không có kế hoạch bảo quản thì sách sẽ rách nát mất, và tạo điều kiện cho việc biên dịch và công bố các tập thơ ấy(7).

CHÚ THÍCH

(1) Vĩnh Doanh là Thành Vinh; Chân Phúc là huyện Nghi Lộc, Kỳ Hoa là huyện Kỳ Anh sau này.

(2) Lược truyện các tác gia Việt Nam chép “... Trần Tiến Sĩ..." là chép nhầm vì Trần Danh Án đỗ Hoàng giáp.

(3) Tiểu sử hai ông này, xem Lược truyện các tác gia Việt Nam, sđd, tr.316 và 338, và Các nhà khoa bảng Việt Nam, sđd, tr.689 và 755 v.v...

(4) Trong tập thơ có tất cả 4 bài Tự Thuật. Số bài 1, 2... do chúng tôi đánh số.

(5) Đây là sự xác định đối với cả tập, chứ trong tập này chúng tôi cũng nghi là có thể có thơ Trần Danh Lâm lẫn lộn vào. Hiện tượng này đối với việc chép tay thơ ngày xưa cũng thường xảy ra, nhất là thơ ở đây lại là thơ của hai cha con. Xin ghi lại đây để tiếp tục khảo sát sau này.

(6) Theo Nguyễn Thị Thảo trong Bùi Dương Lịch, sách Danh nhân Nghệ Tĩnh tập 4 - Văn phòng UBND Nghệ Tĩnh xuất bản năm 1990 thì Ốc lậu thoại gần trên 50 bài thơ văn Hán, và thơ văn Bùi Dương Lịch còn chép lẫn lộn với thơ văn nhiều người trong Tồn Trai thi tập, A.445 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Riêng trong tập La Sơn Hoàng giáp thi tập này có khoảng 265 bài.

(7) Hiện nay chúng tôi đang biên soạn thơ Nguyễn Thiếp./.

TB

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ NGHIÊN CỨU HÁN NÔM BẬC SAU ĐẠI HỌC TRONG
NHỮNG NĂM QUA

TRỊNH KHẮC MẠNH#

Năm 1996, một năm được mùa của công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm. Có được những kết quả thắng lợi này là do sự nỗ lực phấn đấu, sự miệt mài tích luỹ của nhiều người trong nhiều năm tháng qua và sự cố gắng của cơ sở đào tạo. Đúng là "trồng cây sẽ có ngày hái quả" như ông cha ta thường nói. Trong niềm vui khích lệ hôm nay, nếu chúng ta nhìn lại chặng đường dài đã qua về công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm bậc sau đại học thì mới thấy hết được niềm tự hào của ngày hôm nay.

Cách đây năm mười năm, việc đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học chuyên ngành Hán Nôm bậc sau đại học còn gặp nhiều khó khăn. Những cán bộ khoa học tốt nghiệp đại học Hán Nôm và tương đương như: Đại học Hán học (1965 - 1968), lớp chuyên tu Hán Nôm (1972 - 1976) và các thế hệ sinh viên tốt nghiệp ngành Hán Nôm khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội muốn vươn tới một học vị cao hơn theo đúng chuyên ngành của mình đều cảm thấy bế tắc.

Thời ấy, nhiều cán bộ nghiên cứu Hán Nôm đã tự đào tạo để hành trang cho mình những tri thức cần thiết đối với công tác Hán Nôm như: Văn bản học, Thư tịch học, Ngôn ngữ học, Ngôn ngữ văn tự, phiên dịch chữ Hán và chữ Nôm ..., không ít người trong số đó đã đạt được những kết quả chuyên môn vững vàng và đã trở thành những chuyên gia giỏi có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển ngành Hán Nôm học.

Thời ấy cũng có những cán bộ Nghiên cứu Hán Nôm đi theo nghiệp khoa cử để đạt học vị sau đại học (Phó Tiến sĩ) nhưng phải nương nhờ vào các chuyên ngành khoa học khác, ở nhiều cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, và gian nan vất vả lắm. Như Cung Văn Lược bảo vệ luận án theo chuyên ngành Lí luận Ngôn ngữ ở Viện Ngôn ngữ học, Đinh Công Vĩ bảo vệ luận án theo chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cổ trung đại ở Viện Sử học, Đào Thái Tôn bảo vệ luận án theo chuyên ngành Văn học Việt Nam ở Khoa Ngữ văn (Đại học Tổng hợp Hà Nội) và Trịnh Khắc Mạnh bảo vệ luận án theo chuyên ngành Văn học các nước Châu á ở Viện Phương Đông học (Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cũ). Sự lang thang này ở mỗi người mỗi vẻ và họ đều là những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm.

Như vậy, rõ ràng là cách đây 5 năm trở về trước, từ ý thức của mỗi người đến qui hoạch đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm còn chểnh mảng và tản mạn, chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ trong cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên ngành Hán Nôm.

Quyết định số 300/ TTg ngày 21 tháng 6 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm và quyết định số 1511/GD-ĐT ngày 26 tháng 7 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học chuyên ngành Hán Nôm cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công tác đào tạo cán bộ chuyên ngành Hán Nôm nói chung và cơ sở đào tạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm nói riêng. Sự kiện đáng ghi nhớ này đã đem lại một môi trường thuận lợi và khích lệ những chuyên gia Hán Nôm nhiều năm lăn lộn với nghề, khẳng định kết quả nghiên cứu khoa học của mình ở khoa trường. Với niềm tự hào phấn khởi, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã vững tin triển khai công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm bậc sau đại học (Tiến sĩ và Phó Tiến sĩ), những luận án PTS. Khoa học Ngữ văn chuyên ngành Hán Nôm (hệ ngắn hạn) lần đầu tiên đã được đón chào nhiệt liệt và khẳng định giá trị khoa học trong các lĩnh vực chuyên môn: Tỵ huý học, Văn tự học, Văn bản học, ấn chương học, Bi ký học...

Trong bài viết này, tôi xin giới thiệu các luận án đã bảo vệ thành công tại Hội đồng chấm luận án Nhà nước, các luận án đã thông qua tại Hội đồng cơ sở và đào tạo Cao học Hán Nôm trong những năm 1994 - 1996.

* Những luận án đã bảo vệ thành công tại Hội đồng chấm luận án Nhà nước.

Năm 1994, Đỗ Thị Hảo (P. Trưởng phòng Nghiên cứu ứng dụng) là người mở đầu bảo vệ luận án PTS. Khoa học Ngữ văn chuyên ngành Hán Nôm(1) mã số 5.04.32 tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, bởi lẽ lúc ấy Viện Nghiên cứu Hán Nôm vừa mới kịp trở thành cơ sở đào tạo sau đại học. Dù cho Đỗ Thị Hảo lúc đó có bảo vệ luận án tại bất kỳ một cơ sở đào tạo nào thì cũng là một sự kiện lịch sử của ngành Hán Nôm vì đây là một luận án chính thức mang mã số chuyên ngành Hán Nôm đầu tiên ở nước ta. Với đề tài: Khảo sát văn bản Diệu Liên thi tập của nữ sĩ Mai Am, luận án của Đỗ Thị Hảo đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu văn bản và dịch chú một phần tác phẩm Diệu Liên thi tập, một tập thơ chữ Hán dày dặn gồm 345 bài thơ của nữ sĩ Mai Am. Đóng góp chính của luận án là bước đầu góp sức vào việc nghiên cứu văn bản Hán Nôm và giới thiệu một nữ tác giả văn học thế kỷ XIX mà từ trước đến nay còn ít người biết đến, qua đó thấy được giá trị văn chương của Mai Am trong bối cảnh xã hội và tình hình văn học thế kỷ XIX.

Năm 1995, Ngô Đức Thọ (Trưởng phòng Văn bản học) là người bảo vệ luận án về Hán Nôm đầu tiên đầy ấn tượng tại cơ sở đào tạo. Luận án của Ngô Đức Thọ là một chuyên khảo về chữ huý với tên đề: Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, mà tác giả đã từng dày công nghiên cứu trong vòng 10 năm trời. Luận án đã tập trung khảo sát một khối lượng tài liệu Hán Nôm đồ sộ có chữ viết kiêng huý trong suốt chiều dài lịch sử, đã đi sâu phân tích từng chữ huý cụ thể trên các văn bản và cung cấp những cứ liệu khá đầy đủ về các luật lệ kỵ huý, danh sách chữ húy của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là một luận án có nội dung khoa học phong phú và rất có giá trị, góp phần xây dựng môn Tỵ huý học ở Việt Nam. Luận án của Ngô Đức Thọ đã được giới khoa học xã hội quan tâm chú ý, đặc biệt là các Nhà xuất bản cũng muốn công bố phát hành và một ngày gần đây luận án được chính thức công bố bằng hai thứ tiếng Việt - Pháp trên cơ sở giúp đỡ của tổ chức E.F.E.O (Cộng hòa pháp) tại Việt Nam.

Năm 1996, Nguyễn Tá Nhí (Trưởng phòng Văn tự học) đã bảo vệ luận án với đề tài: Các phương thức biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt. Đây là một đề tài hay, có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn, đáp ứng yêu cầu bức thiết của việc nghiên cứu, học tập chữ Nôm Việt đang gia tăng trong nhà trường và xã hội. Luận án của Nguyễn Tá Nhí đã phân tích nghiên cứu có hệ thống các phương thức biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt và so sánh thống kê định lượng, luận án đã nêu ra số lượng khoảng 1200 đơn vị chữ Hán thông dụng được sử dụng phổ biến kèm thành tố biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt. Thành tố biểu âm có thể xê dịch tuỳ thuộc vào khả năng người viết, tính địa phương và thời gian. Thành tố biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm chủ yếu là chữ Hán và vị trí của nó phụ thuộc vào thành tố biểu nghĩa. Kết quả khảo sát này rất có ý nghĩa khả dĩ giúp người đọc nhanh chóng tìm ra âm đọc của chữ Nôm. Đây là một đóng góp mới mẻ cho lịch sử nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Việt.

Lịch sử phát triển chữ Nôm từ khi xuất hiện đến nay là cả một quá trình biến đổi liên tục. ở mỗi giai đoạn chữ Nôm lại có những đặc trưng riêng do nhu cầu thích ứng với tiếng Việt ở giai đoạn đó. Luận án của Hoàng Thị Ngọ (Phòng Văn tự học) với đề tài: Nghiên cứu về chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh đã góp phần lí giải vấn đề này. Luận án có những đóng góp mới có giá trị khoa học về việc xác định bản chữ Hán Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền bá vào nước ta khoảng cuối thế kỷ XIII, và lai lịch bản giải âm hiện có niên đại thế kỷ XVIII là được in lại từ một bản giải âm đã có từ trước, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV- đầu thế kỷ XVI. Việc giải mã toàn bộ các chữ Nôm, phân loại cấu trúc chữ Nôm trong văn bản, luận án đã cung cấp những số liệu về dạng chữ Nôm đặc thù, đáng chú ý là loại dùng 2 mã để ghi 1 tiếng và cung cấp những cứ liệu về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp một cách có hệ thống nhằm góp phần lí giải, nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt khoảng thế kỷ XV - XVI.

Luận án của Hoàng Văn Lâu (Trưởng phòng Tạp chí Hán Nôm) về đề tài: Khảo sát văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng là một đề tài thú vị và bức thiết. Như mọi người đã biết, tác phẩm Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng là một trong ba bộ sử lớn ghi chép về lịch sử thời kỳ phong kiến ở nước ta. Cho đến nay tác phẩm này còn bị xem là tàn khuyết và chưa dịch công bố. Bởi vậy, luận án của Hoàng Văn Lâu nhằm giới thiệu và khôi phục văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu là một việc làm bổ ích, có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn đối với ngành Hán Nôm và Sử học. Tác giả luận án đã bỏ nhiều công sức để tìm kiếm các nguồn tài liệu và đã tập hợp được 7 văn bản khác nhau có liên quan đến bộ Việt sử cương mục tiết yếu. Qua phân tích, đối chiếu và vận dụng thành thạo tri thức văn bản học, tác giả luận án đã bước đầu khôi phục được diện mạo văn bản bộ Việt sử cương mục tiết yếu gồm 8 quyển với 1.200 trang. Kết quả nghiên cứu này thực sự có giá trị. Từ nay chúng ta có được bộ Việt sử cương mục tiết yếu đầy đủ của Đặng Xuân Bảng, một tác phẩm sử học giá trị để phiên dịch, công bố và sử dụng.

Cũng theo hướng nghiên cứu văn bản, nhưng ở luận án của Nguyễn Thúy Nga (Phòng Văn bản học) không đi sâu nghiên cứu văn bản 1 tác phẩm mà tập trung nghiên cứu một hệ thống văn bản với tên đề tài: Nghiên cứu văn bản đăng khoa lục Việt Nam. Đăng khoa lục là một tài liệu quan trọng để tìm hiểu chế độ giáo dục, các danh nhân văn hóa và trình độ phát triển văn hóa giáo dục của các thời kỳ phong kiến ở nước ta, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống tài liệu đăng khoa lục và xác định rõ độ tin cậy của các tài liệu này. Đọc luận án của Nguyễn Thuý Nga chúng ta sẽ vững tin hơn khi sử dụng các tài liệu đăng khoa lục. Luận án đã giới thiệu 48 văn bản của 10 bộ đăng khoa lục đời Lê, Nguyễn hiện còn. Qua phân tích đối chiếu và giám định văn bản, tác giả luận án đã phác hoạ ra lịch sử biên soạn đăng khoa lục ở nước ta, xác định được độ tin cậy của từng văn bản; phát hiện một số văn bản đăng khoa lục có giá trị như: Đăng khoa lục sao bản, Lịch đại đại khoa lục, Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Hương khoa lục và xác định được 330 trường hợp sai khác về tên họ, 173 trường hợp sai khác về địa danh, đặc biệt đã bổ sung thêm được 36 người đỗ đại khoa thời Lý - Trần - Hồ. Các kết quả nghiên cứu này là thực sự có giá trị khoa học.

Một loại hình văn bản đặc thù: Ấn triện Việt Nam đã được Nguyễn Công Việt (Phòng Văn tịch học) say mê hứng thú nghiên cứu có đến hơn 10 năm trời và nay một phần của kết quả nghiên cứu được hệ thống thành luận án với tên gọi: "Nghiên cứu ấn triện thời Nguyễn Việt Nam". Tác giả luận án đã giành nhiều công sức, thời gian để tìm tòi các nguồn tài liệu ở nhiều địa phương trong toàn quốc, các nhà bảo tàng và đã tập hợp được hơn 100 mẫu hình ấn triện thời Nguyễn Việt Nam. Qua giới thiệu, phân loại, nghiên cứu các hiện vật ấn triện và các tư liệu Hán Nôm có dấu ấn triện, tác giả luận án đã xác định rõ niên đại và giải mã thành công các ấn triện nhằm giới thiệu khái quát các loại ấn triện gồm: Kim ngọc bảo tỷ, ấn, Kiềm ấn, Quan phòng, Đồ ký, Kiềm ký, Ký triện, Tín ký, Ký và ấn tín tư nhân trong xã hội. Luận án của Nguyễn Công Việt là một công trình có giá trị khoa học và có ý nghĩa khi nghiên cứu các văn bản Hán Nôm, tổ chức hành chính, quan chức thời Nguyễn nói riêng cũng như khi nghiên cứu nền văn hiến cổ Việt Nam nói chung. Luận án còn góp phần xây dựng bộ môn ấn chương học ở Việt Nam và việc giám định, quản lý cổ vật.

Tư liệu văn bia từ lâu đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học trong và ngoài nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu và giới thiệu Văn bia Việt Nam ra mắt bạn đọc. Trong năm 1996, lại có thêm 2 luận án nghiên cứu về văn bia theo hướng văn bia của một thời đại và văn bia ở một vùng địa phương.

Đinh Khắc Thuân (Phòng Tin học Hán Nôm) với đề tài luận án: Văn bia thời Mạc và đóng góp của nó trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI là một công trình nghiên cứu công phu có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn. Luận án đã bao quát một lượng tư liệu văn bia phong phú gồm 165 bia và 1 chuông, 42 bộ tượng đồ gốm khác thuộc thời Mạc. Các tư liệu được thống kê, phân loại theo niên đại, theo địa danh, theo di tích nhằm nêu bật đặc điểm văn bia thời Mạc, góp phần cung cấp nguồn tư liệu đáng tin cậy khi đi sâu nghiên cứu tình hình phát triển về các mặt: xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, hệ thống chính trị thời Mạc và lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI.

Luận án thứ 2 nghiên cứu về văn bia là của Phạm Thị Vinh (Phòng Văn tịch học) với tiêu đề: Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã. Lần đầu tiên với số lượng hơn 1000 văn bia xứ Kinh Bắc thời Lê trong suốt hơn 300 năm được Phạm Thị Vinh hệ thống hóa về mặt văn bản học như: định lượng, định tính và thống kê phân loại theo niên đại, địa phương, di tích văn hóa; qua dó tác giả lý giải sinh hoạt làng xã vùng Kinh Bắc xưa về các mặt: chình trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, tôn giáo... Luận án đã bao quát một mảng tư liệu đáng tin cậy, "những trang sử đá", góp phần soi sáng, đính chính những sử liệu có liên quan tới Kinh Bắc thời Lê.

* Những luận án đã thông qua Hội đồng cấp cơ sở:

Luận án của Phạm Văn Thắm (Trưởng phòng Văn hiến khu vực và dân tộc) về đề tài: Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời kỳ trung đại là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa văn bản học, vừa có ý nghĩa về mặt nhận thức giá trị của thể loại truyền kỳ viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.

Truyện truyền kỳ là một thể loại quan trọng và được ưa chuộng của văn học Việt Nam thời trung đại và của văn học các nước có sử dụng Hán tự, nhưng cho đến nay chưa có một chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu văn bản, xác định tiêu chí và xác lập danh mục truyện truyền kỳ chữ Hán Việt Nam. Do vậy luận án của Phạm Văn Thắm là một công trình đầu tiên nghiên cứu khá toàn diện về truyền kỳ chữ Hán Việt Nam. Luận án đã trình bày một cách có hệ thống lịch sử hình thành, phát triển truyện truyền kỳ ở Trung Quốc và điểm lại các quan điểm về truyện truyền kỳ ở Việt Nam, từ đó đã xác định được các tiêu chí cơ bản cho thể loại truyền kỳ chữ Hán Việt Nam. Dựa trên các tiêu chí đã được xác định và nghiên cứu văn bản, tác giả luận án đã khảo sát 11 văn bản với 624 truyện và lập được danh mục 342 truyện kỳ quái, trong đó 49 truyện thuộc thể loại truyền kỳ. Luận án có nhiều đóng góp mới về. Văn bản học, và thể loại truyền kỳ chữ Hán Việt Nam.

Giới nghiên cứu văn học từ lâu đã biết đến Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, một tác phẩm viết bằng văn ngôn, có vị trí quan trọng trong nền văn học cổ Việt Nam và Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú là bản dịch ra văn xuôi Nôm vào khoảng thế kỷ XVI của Nguyễn Thế Nghi đã được Hoàng Thị Hồng Cẩm (Phòng Văn bản học) lấy làm đối tượng nghiên cứu của luận án với tiêu đề: Nghiên cứu văn bản tác phẩm Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú. Luận án của Hoàng Thị Hồng Cẩm đã góp phần vào việc xác định số lượng các hệ thống ván in, các lần in ấn, các văn bản hiện còn của dịch phẩm Tân biên truyền kỳ mạn lục, đồng thời góp thêm tư liệu xác định khoảng niên đại xuất hiện của tác phẩm dịch này. Luận án cũng đã nêu lên được giá trị của một dịch phẩm văn xuôi trong lịch sử văn học Việt Nam. Việc làm sáng rõ giá trị của dịch phần này sẽ giúp ích cho chúng ta hiểu biết thêm về các mặt như: Văn xuôi cổ, từ vựng ngữ pháp cổ, chữ Nôm cổ và sự giao thoa Hán - Việt trong lối dịch truyền thống.

Việt Nam và Trung Quốc có lịch sử ngoại giao hàng nhiều thế kỷ, các sứ thần giữa hai nước khi đi làm nhiệm vụ chính trị còn để lại một khối lượng thơ văn bang giao khá lớn trong lịch sử văn học của mỗi nước, luận án của Nguyễn Ngọc Nhuận (Thư ký Hội đồng Khoa học Viện) về đề tài: Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao, đi sứ của Phan Huy ích nhằm góp phần làm rõ cuộc đời và tác phẩm thơ văn bang, đi sứ của Phan Huy Ích, một tác gia văn học lớn thời Tây Sơn. Luận án của Nguyễn Ngọc Nhuận đã tiến hành khảo sát các văn bản thơ văn bang giao, đi sứ của Phan Huy ích, tiến tới xác lập thiện bản và khai thác giá trị văn bản đó trong dòng văn học thời Tây Sơn cũng như đường lối chính sách đối ngoại đương thời.

Mai Ngọc Hồng (Trưởng phòng Sưu tầm tư liệu Hán Nôm) với đề tài: Nghiên cứu và đánh giá văn bản thần tích Thái Bình là sự lựa chọn đúng đắn khi nghiên cứu thần tích ở một địa phương, vì Thái Bình là một vùng đất được hình thành dần dần qua lịch sử, nên là địa bàn thích hợp để nghiên cứu sự lan truyền của thần tích, qua đó góp phần cho việc nghiên cứu và đánh giá văn bản thần tích ở từng địa phương. Luận án của Mai Ngọc Hồng là một công trình nghiên cứu khá công phu, bước đầu giới thiệu tương đối đầy đủ văn bản thần tích ở địa phương Thái Bình gồm 69 tập với 327 văn bản. Qua nghiên cứu, phân loại và đánh giá, luận án đã nêu được những đặc điểm văn bản tiến tới xác lập loại hình văn bản thần tích chuẩn và những giá trị sử liệu của văn bản thần tích ở địa phương Thái Bình.

* Đào tạo Cao học Hán Nôm

Theo quyết định số 3853/GD-ĐT ngày 13 tháng 12 năm 1994 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về việc giao nhiệm vụ đào tạo Cao học Hán Nôm cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm, năm 1996 Viện đã tổ chức tuyển sinh và khai giảng lớp Cao học Hán Nôm khóa I (1996 - 1998). Đây cũng là khoá Cao học Hán Nôm chính qui đầu tiên của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Lớp Cao học hiện có 17 học viên, trong đó có một số học viên đã quá độ tuổi, có học viên từ Nam Bộ xa xôi, tất thảy đều nhiệt tâm học tập. Sau năm học thứ nhất, lớp đã học xong phần kiến thức cơ bản gồm: Tứ thư, Ngũ kinh, Chư tử và một số môn học khác như: Triết học, Ngôn ngữ học, Văn học Trung Quốc, Văn học Việt Nam... Kết quả thi và kiểm tra các môn học đều đạt điểm khá và giỏi, trong đó điểm xếp loại giỏi chiếm 75%-80%. Năm thứ hai học viên sẽ nghe giảng về các chuyên đề khoa học và làm luận văn tốt nghiệp. Khoảng giữa năm 1998, lớp Cao học Hán Nôm sẽ kết thúc, tin tưởng rằng 17 học viên đều sẽ bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Hán Nôm và trưởng thành trong nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo, nhằm góp phần thúc đẩy ngành Hán Nôm học.

Thật là phấn chấn khi điểm lại công tác đào tạo cán bộ nghiên cứu Hán Nôm bậc sau đại học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong những năm qua, nhưng cũng cần phải khiêm tốn mà nhận ra rằng trong công tác này còn nhiều khiếm khuyết, còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo hơn nữa, có như thế chúng ta mới làm tốt được sự nghiệp "trồng người" như lời Bác Hồ đã dặn. Từ năm 1997 sự nghiệp đào tạo bậc sau đại học chuyển sang một giai đoạn mới với hai hình thức đào tạo: Thạc sĩ và Tiến sĩ, cơ sở đào tạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tuyển nghiên cứu sinh Tiến sĩ khóa I và học viên Cao học khóa II trong thời gian tới.

Tháng 1 - 1997

CHÚ THÍCH

(1) Sau đây gọi chung là luận án.

TB

HỘI NGHỊ CỘNG TÁC VIÊN
"TẠP CHÍ HÁN NÔM"

TB

NHẬT BẢN LINH DỊ KÝ (NIHONRYOIKI) TÁC PHẨM MỞ ĐẦU DÒNG VĂN HỌC TRUYỀN KỲ Ở XỨ SỞ MẶT TRỜI MỌC

NGUYỄN THỊ OANH

Nhật Bản linh dị ký, tên thường gọi là Linh dị ký, tên đầy đủ là Nhật Bản quốc hiện báo thiện ác linh dị ký (Nihonkoku gempozenaku ryoiki) là tập truyện cổ Phật giáo đầu tiên, viết bằng chữ Hán của Nhật Bản. Đây là một tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng văn học cổ điển Nhật Bản, phản ánh nhiều mặt của nền văn hóa Nhật Bản thời trung đại. Bài tựa sách đề năm Diên Lịch (Enryaku) thứ 6 (787).

Tác giả là Keikai, một nhà sư chùa Yakushi, ở phía nam Kinh đô Nara. Không rõ ông sinh ra và mất năm nào. Theo nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản thì có lẽ Keikai sinh vào khoảng những năm đầu thời Nữ hoàng Hiếu Khiêm (Kiken)(1), cho đến đầu thời Thiên hoàng Quang Nhân (Konin)(2). Ông là sư tăng tự độ, có vợ con, những vẫn tu hành Phật đạo. Không rõ ông xuất gia năm nào. Ông sống ở huyện Nakusa tỉnh Ki (nay thuộc tỉnh Wakayama). Do những cố gắng trong việc tu hành và truyền giáo, năm 795 ông được ban danh hiệu Truyền đăng trú vị(3). Ông viết Linh dị ký vào năm 787, hoàn thành năm 822. Hiện ở chùa Yakushi còn lưu giữ hai bản sao Linh dị ký vào năm Diên Bảo (Enho) thứ 7 (1088). Song bản sao được coi là cổ nhất phát hiện vào năm Đại Chính (Taisho) thứ 11 (1922) là bản sao năm Diên Hy (Engi) thứ 4 (904), tức bản sao sau 80 năm kể từ khi Linh dị ký ra đời. Bản sao này được coi là quốc bảo, hiện được lưu giữ ở Thư viên Quốc bảo (Quốc bảo quán ở tàng) chùa Kofuku, tỉnh Nara.

Linh dị ký gồm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ. Quyển Thượng có 35 truyện, quyển Trung có 42 truyện và quyển Hạ có 39 truyện, cả thảy là 116 truyện. Đầu mỗi quyển là lời Tựa, sau phần lớn mỗi truyện là lời Tán, xen kẽ trong các truyện là các đoạn thơ, ca dao. Có thể nói Linh dị ký là tác phẩm được viết dưới sự ảnh hưởng to lớn của Phật giáo. Các đề tài như chuyện về các thiền sư, chuyện về người có sức mạnh, chuyện sự trả ơn của súc vật, chuyện báo ứng luân hồi, chuyện ở hiền gặp lành, làm ác phải chịu quả báo… có liên quan đến sự linh nghiệm của đức Phật quan âm, Diệu Kiện bồ tát, Di lặc bồ tát, đến sự linh ứng của kinh điển và tượng Phật. Tất cả truyện kỳ lạ, linh nghiệm đều được dàn dựng gắn với hiện thực trên nền lịch sử có thật, được tác giả sắp xếp theo trục thời gian một chiều từ thời Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku) (478)(4) cho đến hết thời Thiên hoàng Hằng Vũ (Kanmu) (781-806)(5). Cốt truyện tuy mộc mạc, đơn giản nhưng chủ đề chung bao trùm lên là đề cao cái đẹp nhân bản của con người: từ bi, bác ái, giữ gìn những đạo đức truyền thống như hiếu nghĩa, lòng thủy chung và sự hy sinh cao quý vì cộng đồng. Mặc dù các cốt truyện đều được xây dựng trên những tình tiết hoang đường kỳ ảo, song tác giả không có ý dẫn dắt người đọc thoát ly khỏi thế giới hiện thực. Trái lại, từ những câu chuyện tưởng như kỳ quái, tác giả hướng người đọc trở về với hiện thực bằng ý nghĩa giáo huấn của tác phẩm. Chính vì vậy Linh dị ký được phổ biến sâu rộng trong nhân dân, đi sâu vào niềm tin mang tính tôn giáo của người dân Nhật Bản.

Dưới đây, chúng tôi xin trích dịch 9 truyện trong Linh dị ký để bạn đọc tham khảo.

1. CHUYỆN BẮT THẦN SẤM

Sugaru thuộc dòng họ Chíiakobe là cận thần có tâm phúc, hộ vệ cho Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku) hay còn gọi là Thiên hoàng Ohatsu Wakatake trị vì 23 năm ở cung Asakura ở Hatsuse. Thời Thiên hoàng sống ở cung Iware, Sugaru đã vô tình đi vào cung điện trong lúc Thiên hoàng đang cùng Hoàng hậu ân ái ở điện Daian. Thiên hoàng vô cùng xấu hổ không dám cùng Hoàng hậu tiếp tục chăn gối.

Khi đó trong không trung bỗng vang lên tiếng sấm. Thiên hoàng nghe thấy lập tức ra lệnh điệu Sugaru tới, hỏi rằng:

- Có phải nhà ngươi gọi thần Sấm đến không?

Sugaru đáp rằng:

- Bẩm thưa Thiên hoàng, thần mời thần Sấm đến đấy ạ.

Thiên hoàng nghe thấy thế bèn ra lệnh:

- Hãy mời thần Sấm đến cho ta.

Sugaru phụng lệnh Thiên hoàng, lui gót trở ra cung điện. Sugaru trên trán thắt dây sắn dây màu đỏ, vác một cây mâu trên có cắm lá cờ đuôi nheo nhỏ cũng màu đỏ, cưỡi con ngựa đi theo con đường trước chùa Toyora từ phía Yamada trước thôn Abe. Khi đến phố Morokoshi, ông lớn tiếng gọi:

- Hỡi thần Sấm trên trời, Thiên hoàng có lời mời ngài tới.

Nói rồi vừa cho ngựa quay trở lại vừa nói:

- Ngươi tuy là thần Sấm, nhưng vì cớ gì mà không nhận lời mời của Thiên hoàng ta.

Khi quay trở về đúng đến khoảng giữa chùa Toyora và Iioka đã thấy thần Sấm xuất hiện. Sugaru thấy thế lập tức gọi quan trông coi thần mang kiệu đến đưa thần Sấm về cung điện và tâu với Thiên hoàng rằng:

- Thưa Thiên hoàng, thần đã đón thần Sấm về rồi ạ.

Lúc đó thần Sấm bỗng loé chớp sáng rực. Thiên hoàng thấy thế vô cùng sợ hãi bèn dâng rất nhiều lễ vật và cho người rước thần Sấm về nơi đã giáng hạ. Bây giờ người ta vẫn gọi chỗ thần Sấm xuống là gò Ikazuchi. (Nay là phía bắc cung Oharida kinh đô cũ - Nguyên chú).

Về sau, khi Sugaru mất, Thiên hoàng ra lệnh làm lễ mai táng ông bảy ngày bảy đêm, ca tụng tấm lòng trung tín của ông và dựng mộ ông nơi thần Sấm giáng xuống, rồi lại dựng bia đề rằng: “Mộ của Sugaru, người đã bắt thần Sấm”. Thần Sấm thấy vậy vô cùng tức giận, giáng sấm sét xuống tấm bia, và nhảy xuống dẫm nát trụ bia. Nhưng cuối cùng thần Sấm lại bị kẹp chătụ vào vết nứt của trụ bia và lại bị bắt một lần nữa. Thiên hoàng nghe thấy chuyện đó, sai người gỡ ra, thần Sấm lần nữa lại thoát chết. Sau khi thoát ra ngoài, thần Sấm vẫn run bẩy bẩy, sợ hãi không thể bay về trời ngay được. Sau đó Thiên hoàng lại ra lệnh dựng lại bia và đề rằng: “Mộ Sugaru, người lúc sống bắt được thần Sấm, khi mất cũng bắt được thần Sấm”. Và tên gọi gò Ikazuchi có từ thời cố đô xưa (tức Asuka) chính là bắt nguồn từ câu chuyện kể trên.

2. CHUYỆN LẤY VỢ HỒ SINH CON

Ngày xưa, vào thời Thiên hoàng Khâm Minh (Kinmei, năm 539) (Thiên hoàng Kinmei còn gọi là Thiên hoàng Amekuni Oshiharuki hironiwa trị vì ở cung Kânzashi ở Shikishima - Nguyên chú), có người ở huyện ôn tỉnh Mino muốn lấy vợ bèn cưỡi ngựa đi tìm. Tình cờ gặp một cô gái xinh đẹp trên đồng cỏ. Thấy chàng trai cô gái liếc mắt đưa tình, chàng trai cũng ngây ngất nhìn cô. Thế rồi đi tới hỏi:

- Nàng đi đâu vậy.

Cô gái trả lời:

- Thiếp đi tìm người cùng kết duyên.

Chàng trai thấy vậy liền nói:

- Nàng có muốn làm vợ ta không?

Cô gái trả lời:

- Thiếp bằng lòng.

Chàng trai lập tức đưa cô gái về làm lễ cưới và cùng nhau chung sống. Chẳng bao lâu cô mang thai, sau sinh ra một cậu con trai.

Lại nói nhà chàng trai có con chó cái cũng đẻ con vào ngày 15 tháng 12. Con chó con mỗi lần gặp thiếu phụ cứ nhảy chồm lên, gầm gừ rồi bất ngờ xông ra cắn. Người thiếu phụ rất sợ bèn nói với chồng rằng:

Chàng hãy giết con chó con đi.

Người chồng thấy con chó con đáng thương không nỡ giết. Khoảng tháng 2, tháng 3, vào vụ giã gạo nộp thuế hàng năm, khi người thiếu phụ vào gian để cối giã gạo chuẩn bị bữa ăn trưa cho mấy cô gái, lập tức bị con chó mẹ xông ra đuổi cắn. Trong lúc hoảng hốt sợ hãi, người thiếu phụ liền biến thành con hổ chạy trốn, leo lên ngồi trên cái sọt. Người chồng thấy thế nói:

- Chúng ta chẳng phải đã có con với nhau sao? Ta làm sao quên được nàng, nàng hãy thường xuyên đến đây ngủ cùng ta nhé?

Nhớ lời chồng dặn, hổ thường xuyên đến và nghỉ lại. Vì vậy được đặt tên là “Kitsune”. Có một lần, người vợ mặc chiếc váy nhuộm hồng (bây giờ gọi là mầu hoa đào - Nguyên chú), thướt tha đi tới, rồi lại thững thờ bỏ đi. Người chồng nhớ tới người vợ đã bỏ đi, buồn rầu mà hát rằng:

Tình yêu có ở đời này, lúc nào cũng ở bên ta, làm ta day dứt.

Nếu là nàng hãy hiện ra giây lát.

Ta đau khổ vì người con gái trẻ nay không biết đã đi đâu…

Rồi đặt tên cho con trai của mình là Kitsune và họ Konoatae. Người con trai đó sau quả thành người có sức mạnh, đi như chim bay. Tên họ Konoatae ở tình Mino có liên quan đến câu chuyện kể trên.

3. CHUYỆN CHÚ BÉ CÓ SỨC MẠNH NHỜ SỰ HẢO TÂM CỦA THẦN SẤM

Ngày xưa vào thời Thiên hoàng Mẫn Đạt (Bitatsu, năm 572 - 585), (là Thiên hoàng Nunakura Futotamshiki trị vì ở cung Osada ở Iware - Nguyên chú), có một nông dân ở làng Katawa, quận Aichino tỉnh Owari. Một hôm, người nông dân đi dẫn nước vào ruộng thì trời bắt đầu mưa, liền chạy trú mưa dưới gốc cây, chống gậy sắt xuống đất. Lúc đó bỗng vang lên tiếng sấm, người nông dân sợ qúa vội cầm gậy sắt, chăm chăm lên nhìn trời, lập tức thần Sấm biến thành chú bé con xuất hiện trước mặt người nông dân. Người nông dân định dùng gậy sắt giết chết thần Sấm. Thần Sấm thấy thế vội nói rằng:

- Xin bác đừng giết tôi, nhất định tôi sẽ trả ơn cho bác.

Người nông dân hỏi rằng:

- Nhà người lấy gì để trả ơn cho ta.

Thần Sấm thưa rằng:

- Tôi sẽ cho bác một đứa con. Nhưng bác hãy vì tôi làm một máng nước bằng gỗ cây quế hương, dẫn nước vào và thả một lá tre xuống.

Người nông dân làm theo đúng lời thần Sấm dặn. Sau khi làm xong, thần Sấm lại nói:

Xin bác đừng tới gần máng nước.

Và cho ông lui ra. Bỗng mây đen kéo đến che kín bầu trời, lúc sau trên đầu chú bé mới sinh có hai con rắn cuộn tròn, đầu và đuôi rủ cả xuống phía sau.

Chú bé lớn lên được khoảng hơn mười tuổi, nghe tin triều đình có người rất khoẻ liền nảy ra ý định cùng người đó thử sức, bèn trẩy kinh lên sống ở gần cung điện vua. Lúc đó có một Thân vương, là người có sức mạnh không ai địch được, đến sống ở cung điện riêng, phía bắc chính cung. Ở góc phía đông bắc ấy có một hòn đá lớn cao 8 thước. Thân vương khoẻ bê hòn đá ném đi, nhưng hòn đá lại rơi vào cửa, chặn luôn cửa lại làm không ai có thể ra vào được. Chú bé tí hon nhìn thấy nghĩ bụng: có lẽ người này là Thân vương khoẻ nhất đây, nên chờ lúc đêm tối không ai nhìn thấy lẻn đến bê hòn đá, ném cách xa hơn Thân vương khỏe đến một thước. Thân vương khoẻ thấy thế vỗ tay, vặn người lấy hết sức bình sinh ném đá, nhưng cũng không thể ném xa hơn lần trước. Còn chú bé, lần này lại ném xa hơn tới hai thước. Thân vương khoẻ lại ném lần nữa, nhưng cũng chẳng xa hơn lần đầu. Thân vương khoẻ bèn đi ra chỗ chú bé đứng ném đá, thấy vết chân chú bé con hằn sâu trên mặt đất tới ba tấc. Thân vương nhìn thấy vết chân, nghĩ bụng ở đây chắc có chú bé con nào đó ném đá, định đi đến để bắt, nhưng khi Thân vương đến, chú bé đã chạy trốn. Thân vương đuổi thì chú bé chạy. Thân vương lại đuổi, chú bé liền chui qua hàng rào chạy trốn. Được một lúc lại chui qua tường quay trở lại. Thân vương liền nhảy qua tường đuổi theo, chú bé lại chui qua tường trốn đi. Cuối cùng Thân vương khỏe không thể nào bắt được chú bé. Ông ta nghĩ bụng: thằng bé này chắc khoẻ hơn ta, nên không đuổi theo nữa.

Về sau chú bé con vào làm tiểu ở chùa Gango. Tối tối lại có người chết ở gác chuông chùa. Chú thấy thế bèn nói với các sư tăng rằng:

- Xin cho con giải nạn cho người chết.

Các sư tăng đồng ý. Chú tiểu bèn lấy bốn cái đèn để bốn góc gác chuông và nói với bốn người rình ở bốn góc rằng:

- Nếu ta bắt được quỷ, tất cả các ngươi hãy cùng lúc mở chụp đèn ra.

Nói rồi chú bé nấp vào chỗ cánh cửa gác chuông. Nhưng phải chờ đến nửa đêm quỉ mới tới. Liếc thấy chú bé ở đó, quỷ không dám xuất hiện. Chờ đến canh tư quỷ mới dám đi vào gác chuông. Ngay lập tức, chú bé túm tóc đẩy vào trong. Bốn người đứng chờ sẵn đấy hoảng hốt, đứng ngây người ra, luống cuống không sao mở nổi chụp đèn. Chú bé vừa giữ quỷ vừa lần lượt mở chụp đèn ở bốn góc gác chuông. Gần sáng, quỉ phải chịu lột tóc mới trốn thoát được. Ngày hôm sau, khi lần theo vết máu quỉ đến ngã tư nơi chôn kẻ hầu ác bụng của nhà chùa mới vỡ lẽ, con quỉ ấy chính là linh hồn của người hầu xấu bụng đó. Mái tóc con quỉ được chùa Gango giữ lại sau trở thành vật báu của chùa.

Về sau chú bé trở thành Ubasoku (Tiếng Phạn là Upasaka, chỉ người tu tại gia - Người dịch chú) và vẫn tiếp tục sống ở chùa Gango. Một hôm, Ubasoku đi dẫn nước vào ruộng, nhưng các Thân vương lại không cho nước chảy vào ruộng chùa. Đến khi ruộng chùa khô nứt nẻ. Ubasoku nói với các sư tăng rằng:

- Hãy để tôi dẫn nước vào ruộng.

Các sư đồng ý. Thế rồi làm một cái mai mười người vác mới nổi mang đến cho ông. Ông vác mai và cây gậy sắt đứng đầu cửa ngòi nước. Các Thân vương ra giằng lấy mai của ông quẳng đi và đóng cửa ngòi nước lại. Ubasoku lần này vác hòn đá to trăm người bê không nổi đến chặn cửa ngòi nước lại và chỉ để một dòng nước chảy vào ruộng chùa. Các Thân vương thấy thế sợ hãi không dám chặn lại lần nữa. Vì vậy ruộng chùa không bị hạn, lại thu hoạt được nhiều thóc. Từ đó, các sư đã công nhận việc xuất gia đắc độ của Ubasoku và đặt tên cho ông là Đạo Trường Phát sư. Việc người đời sau truyền rằng: “Pháp sư Đạo Trường ở chùa Gango là người mạnh nhất”, có cơ sở từ câu chuyện kể trên. Pháp sư Đạo Trường sở dĩ có sức khoẻ hơn người là vì đã ra sức rèn luyện từ kiếp trước. Chuyện này là chuyện lạ ở Nhật Bản.

4. CHUỘC RÙA, LÀM VIỆC PHÓNG SINH, ĐƯỢC RÙA TRẢ ƠN

Thiền sư Gusai là người Bách Tế. Khi Bách Tế bị Tân La và nhà Đường xâm lược có một người là tổ tiên của Trưởng quan ở huyện Mitani, tỉnh Bingo, trong đoàn phái khiển quân đã xuất chinh sang cứu Bách Tế. Trước khi lên đường, ông cầu nguyện rằng:

- Nếu bình yên trở về, con sẽ xây chùa thờ thần phật.

Sau quả nhiên ông đã tránh được mọi tai họa và chiến thắng trở về. Khi đó ông mời Thiền sư Gusai cùng trở về xây dựng chùa Mitani. Ngoài ra, thiền sư còn xây dựng nhiều chùa chiền khác. Sư tăng các chùa và thiện nam tín nữ thấy vậy rất kính trọng thiền sư. Thiền sư còn bán gia sản của mình lên kinh đô mua vàng và sơn son thếp vàng để tạo tượng Phật. Trên đường trở về chùa Mitani, khi đến bờ biển Naniwa, ông thấy người ta bán bốn con rùa lớn bèn khuyên người khác bỏ tiền ra mua và thả xuống biển. Sau đó ông thuê thuyền mang theo hai chú tiểu ngày đêm rong ruổi vượt biển trở về. Trên đường về, có một hôm, trời đã về chiều, bóng tối lan dần, những người chèo thuyền nổi lòng tham, nhân lúc thuyền dừng lại ở đảo Kabane tỉnh Bizen, chúng bắt hai chú tiểu ném xuống biển và bức Thiền sư phải nhảy xuống biển. Thiền sư nhẹ nhàng khuyên giải, nhưng chúng cương quyết không nghe. Không có cách nào khác. Thiền sư bèn cầu nguyện rồi từ từ đi xuống biển. Khi nước vừa ngập đến ngang người thì chân Thiền sư chạm vào hòn đá. Đến sáng nhìn xuống thì ra đứng trên lưng con rùa. Thiền sư được rùa đưa đến bờ biển Bitchu, đến đây, rùa cúi đầu chào có lẽ là sự trả ơn của rùa khi được Thiền sư cứu sống.

Lại nói bọn cướp thuyền có sáu tên, chúng đến chùa Mitani để bán vàng và thếp vàng. Bậc đàn việt ra trước mặc cả giá, thiền sư từ phía sau đi ra xem. Liếc thấy thiền sư, chúng giật mình không biết tiến thoái thế nào. Thiền sư thấy vậy không nỡ bắt phạt. Thế rồi, Thiền sư tạo Phật tượng, trang trí tháp, cúng giàng tươm tất. Sau đó ông trở về sống ở vùng ven biển, ngày ngày giáo hóa chúng dân. Ông thọ hơn 80 tuổi.

Là con vật mà biết nghĩa lý, không quên trả ơn người đã cứu sống, huống hồ chúng ta lại có thể quên được sao.

5. CHUYỆN KỂ VỀ NGƯỜI TU HÀNH THEO PHÉP THẦN CHÚ CỦA KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG, CÓ SỨC MẠNH KÌ LẠ, BIẾN THÀNH TIÊN BAY LÊN TRỜI

En Ubasoku là người họ En của dòng họ Kamo. Đại thần Takakamo Ason cũng là người xuất thân từ dòng họ này. Ông là người làng Chihara, huyện Kazurakinokami, tỉnh Yamato, sinh ra là người có học vấn vào bậc nhất, lại kính tin Tam bảo, coi đó là nghiệp của đời mình. Mỗi lần cầu nguyện, ông cưỡi mây ngũ sắc, bay lên không trung cùng tụ họp với các tiên nhân nơi tiên cung, vui chơi nơi thế giới vĩnh hằng, nằm nghỉ trên khu vườn đầy hoa, hít thở linh khí do mình nuôi dưỡng. Chẳng thế, hơn 40 tuổi ông vẫn còn sống nơi hang động, mặc áo thô bằng sợi cây sắn dây, ăn lá cây tùng, tắm nước suối trong, gột rửa bụi trần nơi trần thế, tu luyện theo kinh Khổng tước, chứng được pháp thuật linh nghiệm. Ông còn có thể sai khiến được quỷ thần, tự do tự tại trong mọi việc. Ông khuyến dụ quỷ thần, lệnh cho các thần rằng:

- Các thần hãy bắc cầu qua hai ngọn núi Kimpu (Kim phong) và Kazuraki (Cát Thành).

Các thần nghe vậy đều thở dài khó chịu.

Vào thời Thiên hoàng Văn Vũ (Mommu) trị vì thiên hạ ở cung Fujiwara, có thần Hitokotonushi ở núi Kazuraki nói xằng qua người khác rằng:

- Ubasoku họ En âm mưu lật đổ Thiên hoàng.

Thiên hoàng nghe thấy liền sai người định tới bắt Ubasoku. Nhưng do có sức mạnh phi thường nên không thể bắt ông được, họ liền quay ra bắt mẹ ông Ubasoku vì cứu mẹ nên đã chịu ra cho họ bắt. Ông lập tức bị lưu đày ở Izu. Lúc đó thân ông nổi trên mặt biển. Ông ngồi khom khom trên đỉnh núi cao vạn trượng rồi bay như chim phượng hoàng. Ban ngày ông tuân theo sắc lệnh của Hoàng thượng đến tu hành ở đảo. Ban đêm ông đi đến núi Phú Sĩ tỉnh Suruga để tu hành. Thế rồi ông xin được tha chém đầu và muốn trở về Kinh đô nơi Thiên hoàng đang sống, vì thế cho nên khi sắp bị hành hình ông lập tức bay lên đỉnh núi Phú Sĩ. Ông phải sống lưu đày ở Izu hơn ba năm. Thế rồi đội ơn lòng từ bi của Thiên hoàng, tháng giêng năm Tân Sửu niên hiệu Taiho (Đại Bảo) năm đầu, (701) ông được phép trở về gần Kinh đô. Cuối cùng ông trở thành tiên bay lên trời.

Có pháp sư Dosho người nước ta, phụng sắc lệnh sang Đường học đạo Phật. Lúc đó pháp sư tới Tân La (Hàn Quốc ngày nay) theo lời mời của Ngũ bách hổ và giảng kinh Pháp hoa ở núi đó. Lúc đó trong đám hổ có một người hỏi pháp sư bằng tiếng Nhật. Pháp sư liền hỏi:

- Ngươi là ai?

Người đó chính là Ubasoku. Pháp sư nghĩ: “Đây là thánh nhân của nước ta” liền từ trên tòa cao đi xuống tìm nhưng không thấy. Thần Hitokoto bị En Ubasoku niệm thần chú bắt, tới nay vẫn chưa được giải thoát.

Những chuyện kì lạ về sức mạnh huyền diệu của Ubasoku có rất nhiều, không kể xiết nên lược bớt đi. Chúng ta có thể thấy rằng pháp thuật Phật đạo rất rộng lớn. Những người quy y đạo Phật tất chứng được pháp thuật ấy.

6. CHUYỆN KỂ NGANG NHIÊN CƯỚP ĐỒ VẬT CỦA NGƯỜI KHÁC LÀM ĐIỀU ÁC PHẢI CHỊU QỦA BÁO

Kashiwade no Omi Hirokuni là viên Thiếu lãnh ở huyện Miyako tỉnh Buzen. Vào thời Thiên hoàng Văn Vũ (Mommu) (697-707) trị vì thiên hạ ở cung Fujiwara, ngày 15 tháng 9, mùa thu năm Ất Tỵ, niên hiệu Khánh Vân (Kyoun) thứ 2 (705) Hirokuni đột nhiên mất. Nhưng qua ba ngày đến giờ Thân (3 giờ chiều) ngày Mậu (ngày 17) ông bỗng nhiên sống lại và kể lại câu chuyện sau:

- Có 2 sứ giả, một người búi tóc trên đầu, một là chú hầu nhỏ. Chúng tôi cùng nhau lên đường, đi qua khoảng 2 trạm nghỉ, gặp một con sông lớn. Trên sông có cây cầu, cầu sơn son thếp vàng. Chúng tôi qua cầu, khi sang tới bờ bên kia là nước hoàn toàn mới lạ. Tôi hỏi sứ giả rằng:

- Đây là nước nào?

Sứ giả trả lời:

Đây là nước Tonan.

Khi tới kinh đô của nước ấy có 8 người lính mang vũ khí đuổi theo. Phía trước có cung điện bằng vàng, khi vào cổng đã thấy Diêm Ma Pháp Vương ở đó. Ngài ngồi trên chiếc ghế bằng vàng và nói với tôi rằng:

Nay ta triệu ngươi tới đây vì chuyện ngươi bị vợ ngươi tố giác.

Rồi lập tức đưa một người phụ nữ ra. Tôi nhận ngay ra đấy là người vợ đã mất trước đây. Cô ấy bị đinh sắt đóng từ đỉnh đầu xuống tận hậu môn, từ trán xuyên qua gáy, chân tay trói bằng thừng sắt và bị 8 người giải đến. Diêm Vương hỏi:

- Ngươi có biết người đàn bà này không.

Tôi thưa rằng:

- Đây quả đúng là vợ tôi.

Diêm Vương lại hỏi:

- Ngươi có biết tội của ngươi là gì không.

Tôi trả lời rằng:

- Tôi không biết.

Diêm Vương quay sang hỏi người phụ nữ. Người phụ nữ đáp:

Dạ thưa biết. Ông ta đuổi tôi ra khỏi nhà, vì vậy tôi căm giận ông ta.

Đại vương quay sang nói với ta:

Ngươi vô tội. Ngươi có thể trở về nhà nhưng phải thận trọng không được hé cho ai biết chuyện dưới suối vàng này. Nếu muốn gặp cha ngươi, hãy đi về phương Nam.

Tôi liền đi tới đó, QUẢ thấy cha tôi. Ông đang bị đứng ôm cột đồng nóng rực, 37 đinh sắt đóng vào thân, lại còn bị đánh bằng roi sắt, sáng 300 roi, trưa 300 roi, tối 300 roi, cộng lại cả ngày bị đánh 900 roi. Ngày nào ông cũng bị đòn. Ta thấy vậy vô cùng thương tâm, than rằng:

- Than ôi, con không nghĩ cha lại khổ đến như thế này.

Người cha nói:

- Ta phải chịu khổ như thế này, con có biết không. Để nuôi dưỡng với vợ con có lúc ta giết súc vật. Cũng có lúc ta cho vạy 8 lạng bông ép lấy lãi thành 10 lạng. Cũng có lúc cho vay cân nhỏ ép lấy lãi cân lớn. Có lúc còn cưỡng đoạt đồ vật của người khác, cưỡng hiếp vợ người khác. Không chăm sóc cha mẹ già, không kính trọng người có tuổi, chửi mắng cả kẻ không phải người hầu của mình. Vì tội như vậy mà tấm thân bé nhỏ của ta bị 37 chiếc đinh đâm, mỗi ngày bị đánh 900 roi thật đau đớn khổ sở lắm. Ngày nào ta mới thoát tội, ngày nào thân ta mới được yên. Con hãy vì ta tạo ngay Phật tượng, viết kinh, chuộc lại tội lỗi cho ta. Dù thế nào cũng không được quên. (Năm ta mới mất) ngày mồng Bẩy tháng Bẩy, vì đói qúa biến thành con rắn lớn bò đến nhà con, định vào phòng thì bị con cầm gậy hất ta đi. Năm sau ngày mồng Năm tháng Năm, ta biến thành con chó nhỏ khi tới nhà con, con gọi con chó khác ra cắn đuổi, chẳng ăn được gì tức giận trở về. Lại vào ngày mồng Một tháng Giêng năm nay, ta biến thành con mèo vào nhà con, đêm đó ta được ăn no thịt và các lễ vật dâng cúng. Ta phải nhịn đói ba năm, mãi đến lúc đó mới được ăn. Ta là kẻ phi đạo lý, coi thường anh em, trên dưới, nên phải biến thành con chó lúc nào cũng sùi bọt mép. Ta lẽ nào không thể trở thành con chó nhỏ màu đỏ được sao?

Phàm kẻ bố thí một thăng gạo, sẽ được hưởng đồ ăn trong 30 hôm. Bố thí một bộ quần áo sẽ được quần áo mặc cả năm. Người cầu khẩn nhà sư đọc kinh, sau khi chết được ở cung điện bằng vàng ở phương Đông, kiếp sau được tùy ý sinh ra ở trên trời. Người tạo tượng Phật Bồ tát được sinh ra nơi Tây phương vô lượng tịnh thổ. Người phóng sinh được vãng sinh nơi Bắc phương cực lạc. Kẻ ăn chay một ngày được hưởng lương thực trong mười năm. Khi tới Địa Ngục tôi thấy được sự “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”. Sau đó, ta loanh quanh định ra khỏi Địa Ngục thì thấy có đứa trẻ vội đi tới qùy lạy. Đứa trẻ liền gọi tôi và đưa tôi đến cạnh cửa bên, đẩy cửa mở. Khi tôi định đi ra đứa trẻ nói với tôi rằng:

- Hãy đi mau đi.

Tôi liền hỏi đứa trẻ:

- Ngươi là con vị nào.

Cậu bé trả lời:

- Ông muốn biết ta là ai ư? Ta là kinh quan Âm Bồ Tát được nhà ngươi viết lúc còn nhỏ.

Thế rồi tôi trở về nhà, và bỗng nhiên thấy mình sống lại.

Hirokuni xuống suối vàng thấy rõ việc ở hiền gặp lành, làm ác phải chịu quả báo, liền đem chuyện đó kể lại với mọi người. Chuyện gây tội ác phải chịu quả báo cũng được nói nhiều trong kinh Đại thừa, ai dám không tin. Trong kinh có ghi rằng: “Hiện thế cam lộ, vị lại thiết hoàn” là nói về chuyện này chăng.

Hirokuni từ đó hết lòng vì cha tạo tượng Phật, chép kinh, cúng giàng Tàm bảo, đền đáp công ơn cha mẹ, chuộc lại lỗi lầm, về sau dốc lòng quy chính.

7. QUỶ SỨ CUNG DIÊM MA VƯƠNG BÁO ĐỀN ƠN ĐƯỢC MỜI CƠM

Ở huyện Yamada tỉnh Snuki có một người phụ nữ tên gọi là Nunoshiki no Omi Kinume. Vào thời Thiên hoàng Thánh Vũ (Shomu, 724-749), Kinume bỗng nhiên bị bệnh nặng. Cô bèn chuẩn bị rất nhiều món ăn ngon đặt ở hai bên cửa cúng thết thần dịch bệnh. Thế rồi quỷ sứ ở Diêm Ma Vương được lệnh đi bắt cô. Qua mấy ngày đi tìm, quỷ sứ thấy mệt và đói, nhìn thấyn lễ vật dâng cúng bọn chúng liền ngọt nhạt xin ăn. Thế rồi quỷ sứ nói với Kinume rằng:

- Ta đã ăn cơm của nhà ngươi nên sẽ báo lại ơn này. có người nào cùng họ tên với nhà ngươi không ?

Kinume trả lưòi:

- Ở huyện Utari cùng tỉnh có người cùng họ Kinume.

Quỷ sứ liền dắt cô đi đến nhà cô gái ở huyện Utari. Khi gặp cô gái đó, lập tức có cái đục một thước từ trong túi đỏ hiện ra đánh vào trán cô gái, rồi cứ thế quỷ sứ đưa cô gái đó đi. Còn cô Kinume huyện Yamada lén trở về nhà. Lúc đó Diêm Ma Vương đợi Mikinume tới, xem xét, thấy cô Diêm Ma Vương nói:

- Đây không phải Kinume ta cho gọi. Nhầm người này rồi. Thôi, cô cứ tạm ở lại đây. Bọn bay hãy triệu ngay Kinume của huyện Yamada tới đây ngay.

Bọn quỷ không dấu được buộc phải đi đến huyện Yamada đưa cô gái đó về. Diêm Ma Vương đợi thấy cô liền nói rằng:

- Đây đúng là Kinume mà ta cho gọi.

Cô Kinume huyện Utari trở về nhà, qua 3 ngày, ở nhà đã thiên thân thể của cô. Cô đành quay trở lại thưa với Diêm Ma Vương rằng:

- Thân thể của con đã mất rồi, không còn nơi nào nương tựa cả.

Diêm Vương lập tức hỏi:

- Thây của Kinume huyện Yamada có còn không ?

Cô trả lời:

- Dạ thưa còn.

Diêm Ma Vương liền ra lệnh:

- Ngươi hãy lấy thi thể đó làm thân nhà ngươi.

Vì vậy cô Kinume huyện Yamada sống lại trở thành cô Kinume huyện Utari. Tỉnh lại cô nói rằng:

- Đây không phải là nhà của ta. Nhà của ta ở huyện Utari kia.

Bố mẹ cô thấy vậy nói rằng:

- Con là con của chúng ta. Tại sao con nỡ nói như vậy.

Kinume không nghe, cô trở về nhà ở huyện Utari. Về đến nhà cô nói:

- Đây quả là nhà ta rồi.

Khi gặp cha mẹ, cha mẹ cô không nhận, nói rằng:

Cô không phải con gái chúng ta. Con gái ta chết, đã làm lễ hỏa táng rồi.

Kinnume liền thuật lại lệnh chỉ của Diêm Ma Vương. Thế rồi cha mẹ cô ở cả 2 huyện nghe chuyện đó, bằng lòng nhận cô làm con và chia tài sản cho cô. Vì vậy cô Kinnume này có 4 cha mẹ và tài sản của cả hai gia đình. Công đức làm cơm dâng quỷ thần không phải vô ích. Nguời có tài sản như vậy nên làm cơm cúng giàng. Đây cũng là chuyện lạ.

8. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI BỊ ÁC QUỈ ĐẦY ĐOẠN VÀ ĂN THỊT

Vào thời Thiên hoàng Shomu (Thánh Vũ), người trong nước thường hát bài ca rằng:

Ai muốn lấy ngươi, con gái nhà Ai muốn lấy ngươi, con gái nhà Yorozu ở thôn Amuchi ơi !

Nam mô, nam mô.

Tiên ông trong núi uống đến một thạch rượu rồi đi thuyết pháp.

Sau đó... cô Yorozu trở thành tì thiếp của tiên ông”.

Đương thời, ở phía đông làng Amuchi huyện Tochi tỉnh Yamato, có một gia đình rất giàu có. Họ là Kagamitsukuri no Miyatsuko. Gia đình đó có một người con gái tên gọi là Yorozu no ko, chưa lấy chồng, cũng chẳng có quan hệ với chàng trai nào. Cô là trang thiếu người tử tế đến dạm hỏi song cô từ chối chưa muốn lấy ai.

Vài năm trôi qua, có một chàng trai đem rất nhiều lễ vật tới hỏi cô làm vợ. Ba cỗ xe chở đầy tấm lụa đẹp. Cô gái thấy thế liền ưng thuận, gần gũi thân mật với chàng và bằng lòng với lời cầu hôn của chàng, thế rồi cùng nhau ân ái. Đêm hôm đó, trong phòng ngủ của đôi vợi chồng trẻ, ba lần có tiếng kêu rên phát ra:

- Ôi đau quá, đau quá.

Cha mẹ cô gái nghe thấy vậy, nói với nhau rằng:

- Có lẽ chưa quen nên thấy đau.

và ngủ luôn chẳng cần để ý gì nữa. Sáng ngày hôm sau, không thấy đôi vợ chồng trẻ dậy, bà mẹ liền gõ cửa phòng ngủ, cất tiếng gọi nhưng không thấy ai trả lời. Bà thấy lạ bèn mở cửa thì trong phòng chỉ còn có cái đầu lâu và một ngón tay còn sót lại, tất cả đã bị ăn hết. Ông bà sợ qúa ra xem lại đồ sính lễ thì thấy những tấm lụa đẹp đã biến thành xương xẩu các loài thú vật. Cả ba cỗ xe cũng đã biến thành gỗ cây Gumi. Mọi người khắp nơi nghe chuyện bẻn kéo đến xem, ai cũng sửng sốt ngạc nhiên. Cha mẹ cô đặt chiếc đầu của cô vào chiếc hòm rất đẹp, sáng ngày thứ 7 làm lễ cúng cơm chay trước Phật. Có lẽ điềm báo trước tai họa đó là bài hát đó chăng. Có người nói đó là việc kỳ quái của thần, cũng có người cho rằng bị quỉ sứ ăn thịt. Nghĩ kĩ lại có lẽ là do thù hằn của kiếp trước chăng. Đây cũng là chuyện lạ.

9. CÔ GÁI NGHÈO KIẾT XÁC, CẦU PHÚC TUỢNG PHẬT QUAN ÂM NGHÌN TAY, TRỞ THÀNH NGƯỜI GIÀU CÓ

Amanotsukai Minome là người phường 2, khóm 9, ở Tả kinh Nara. Bà sinh hạ được 9 người con nên nghèo tới mức chẳng có gì so sánh được. Không có gì để sống, bà liền đi cầu phúc tượng Quan Âm ngàn tay ở chàu Amaho. Chưa đầy một năm, vào ngày mồng Mười tháng Mười, mùa đông năm Quý Mão, niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (Tempyohoji) thứ 7 (763), đời Thiên hoàng Thuần Nhân (Junnin), không ngờ em gái bà lại lặn lội tới thăm và gửi lại bà chiếc rương bằng da. Chân người em gái bị phân ngựa dây bẩn cả. Cô em gái nói với bà rằng:

- Em sẽ quay trở lại ngay, chị cho em để chiếc rương bằng da ở đây.

Nhưng bà chờ mãi không thấy em mình trở lại, bèn đi đến chỗ người em hỏi. Người em nói với bà rằng:

- Em không biết.

Bà lấy làm lạ bèn mở chiếc rương ra xem, thấy có 100 quan tiền ở trong đó. Thế rồi, cũng như mọi bận bà mua hương hoa dầu đèn đi đến dâng trước tượng Quan Âm ngàn tay. Bà thấy chân pho tươợng có phân ngựa dây bẩn vào. Bà tự hỏi: Số tiền này chẳng phải Quan Âm cho tay hay sao. Sau ba năm, số tiền 100 quan dùng để sửa chùa để ở viện ngàn tay của chùa Amaho tự nhiên mất. Chúng ta có thể hiểu rằng số tiền ở trong rương bằng da đó, chính là số tiền của chùa. Qủa thật số tiền đó là tiền Quan Âm đã ban cho bà. Lời tán rằng:

Thiên thay! người mẹ,
Amanotsukai Minome.
Sáng nhìn con đói,
Nước mắt trào rơi.
Tối dâng hương hoa,
Nguyện cầu đức Phật.
Tiền tự vào nhà,
Sầu nghèo tiêu tán
Quan Âm ban phúc,
Được giàu có ra.
Nuôi con đầy đủ,
Áo quần tinh tươm.
Chính nhờ Quan Âm,
Từ bi cứu giúp.
Đó là công đức,
Dàng cúng hương hoa.

Trong kinh Niết bàn cũng ghi rằng: “Vì yêu thương con hết mực nên được vãng sinh nơi thế giới trần tiên” là nói về chuyện này vậy. Đây cũng là chuyện lạ.

CHÚ THÍCH

(1). Nữ hoàng Hiêu Khiêm (Koken): Thiên hoàng đời thứ 46, tên là Abe, con gái thứ hai của Thiên hoàng Shomu (Thánh Vũ) và hoàng hậu Komei (Quang Minh). Bà ở ngôi từ năm 749 - 758. Cũng có thuyết cho là từ năm 718 - 770.

(2). Thiên hoàng Quang Nhân (Konin): Thiên hoàng đời thứ 49, tên là Shirakabe, con trai thứ 6 của Thân vương Shiki. Ông ở ngôi từ năm 770 - 781. Cũng có thuyết cho là từ năm 709-781.

(3). Truyền đăng trú vị: Chức thứ 3 trong sư tăng. Đó là Truyền đăng đại pháp sư vị; Truyền đăng pháp sư vị; Truyền đăng trú vị và Truyền đăng nhập vị. “Truyền đăng” chỉ sự tiếp nối không ngừng của Phật pháp, sự thắp sáng mãi, không lúc nào tắt.

(4). Thiên hoàng Hùng Lược (Yuryaku): Thiên hoàng đời thứ 21, tên là Ohatsuse wakatakeru, con trai thứ 5 của Thiên hoàng Doãn Cung (Inkyo). Ông ở ngôi khoảng giữa thế kỷ thứ V.

(5). Thiên hoàng Hằng Vũ (Kanmu): Thiên hoàng đời thứ 50, tên là Yamanobe, con trai thứ 2 của Thiên hoàng Quang Nhân (Konin). Ông ở ngôi từ năm 781-806. Cũng có thuyết cho là từ năm 737-806.