TB

"SÁU BỨC THƯ" HAY CUỘC TRANH LUẬN SÔI NỔI GIỮA ĐẠO CAO, PHÁP MINH VỚI LÝ MIỄU VỀ VIỆC KHÔNG THẤY CHÂN HÌNH CỦA PHẬT

TRẦN NGHĨA

Mặc dù sách vở mất mát nhiều, lịch sử Phật giáo nước ta không đến nỗi quá trống vắng như lịch sử nhiều bộ môn học thuật khác dưới thời Bắc thuộc, nhờ vẫn còn lưu giữ lại được một số tác phẩm sáng giá như Lý hoặc luận, Sáu bức thư, Thiền uyển tập anh ngữ lục v.v.

Lý hoặc luận của Mâu Bác, người Giao Châu(1), sống vào khoảng cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III sau công nguyên. Toàn văn Lý hoặc luân đã được chúng tôi dịch và giới thiệu trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1991; bản dịch này sau đó được Tạp chí Triết học đăng lại trong số 2 và số 3 năm 1994.

Thiền uyển tập anh ngữ lục cũng đã được các nhà Hán Nôm học Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thỳy Nga dịch và giới thiệu dưới nhan đề Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học, H. 1990. Đây là một bản dịch tin cậy, có thể dùng cho việc nghiên cứu.

Riêng Sáu bức thư, chúng tôi là người đầu tiên phát hiện vào năm 1960, khi còn là thực tập sinh ở Sở Nghiên cứu văn học Trung Quốc, Bắc Kinh và cũng là người đầu tiên giới thiệu chùm thư này trên Tạp chí văn học số 4 năm 1975, trong bài Một số tác phẩm mới phát hiện có liên quan tới dòng văn học viết bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc thuộc. Năm 1979, trong Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam tập II A (tài liệu in rônêô), ông Lê Mạnh Thát có dịch toàn văn các bức thư này, dựa vào một bản in của người Nhật Bản năm Đại Chính 1 (1912). Đáng tiếc là bản chữ Hán vừa nêu (Lê Mạnh Thát có cho in rônêô ở cuối Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam tập II B) lại có quá nhiều sai sót chưa được chỉnh lý, bản dịch của ông Lê Mạnh Thát do vậy nhiều chỗ trở nên lủng củng hoặc tối nghĩa, khiến các nhà chuyên môn ít người dám sử dụng(2).

Để phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo hay nói rộng ra là lịch sử tư tưởng Việt Nam ngày một tốt hơn, chúng tôi xin cung hiến cùng bạn đọc một bản dịch mới về toàn văn Sáu bức thư, có kèm theo cả phần khảo dị và chú thích.

Trước khi trình bày bản dịch, xin giới thiệu qua về văn bản, tác giả, cùng nội dung và ý nghĩa của Sáu bức thư.

VỀ VĂN BẢN

Chùm thư tranh luận về việc thấy hay không chân hình của Phật giữa Đạo Cao, Pháp Minh với Lý Miễu lần đầu tiên được chép lại trong Hoằng minh tập, một bộ sách 14 quyển do Thích Tăng Hựu người đời Lương sưu tầm và biên soạn, gồm những tác phẩm bàn về đạo xuất hiện từ đời Đông Hán đến đời Lương. Sang đời Thanh, Sáu bức thư lại được Nghiêm Khả Quân đưa vào bộ sưu tập đồ sộ của mình: Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần, Hán, Tam Quốc, Lục triều văn gồm 747 quyển, cùng với những văn phẩm xuất hiện từ đời Tuỳ trở về trước.

Dưới tay chúng tôi hiện có 5 dị bản sau đây về Sáu bức thư:

1. Bản chép trong Hoằng minh tập được in lại trong Tứ bộ - Tử, do Trung Hoa thư cục, Thượng Hải xuất bản, hiện có ở Thư viện Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh, ký hiệu HV.001.T883, T.31, chúng tôi gọi là “Bản TVQG”.

2. Bản chép trong Hoằng minh tập cũng in trong Tứ bộ - Tử, nhưng do Trung Hoa thư cục Đài Loan xuất bản năm 1965, hiện có ở Thư viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, ký hiệu, Hb-474, chúng tôi gọi là “Bản TVKHXH”.

3. Bản chép trong Hoằng minh tập do Nhật Bản in lại vào năm Đại Chính thứ 1 (1912), tài liệu của Lê Mạnh Thát trong Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam tập IIB, in rônêô, 1979, Tp. Hồ Chí Minh, chúng tôi gọi là “Bản Đại Chính”.

4. Bản in trong Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần Hán, Tam quốc, Lục triều văn, in trên giấy dó vào năm Quang Tự Giáp Ngọ (1894) hiện có ở Thư viện mang tên Lê Nin (cũ), Mạc Tư Khoa, ký hiệu 3B 2 - 12/299 và 3B 2 - 12/299 [6], chúng tôi gọi là “Bản Mạc Tư Khoa”.

5. Bản in trong Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần Hán, Tam quốc, Lục triều văn, phần Toàn Tống văn, quyển 63, Trung Hoa thư cục in ảnh (ảnh ấn bản), Bắc Kinh, 1958, hiện tàng trữ tại Thư viện Sở Nghiên cứu văn học Bắc Kinh, chúng tôi gọi là “Bản Bắc Kinh”.

Nếu đối chiếu, ta sẽ thấy lời văn của Sáu bức thư in lại trong các bản trên ít nhiều đều có xuất nhập. Riêng Bản Bắc Kinh màn ưu điểm nổi bật so với các văn bản còn lại là đã kinh qua giám định văn bản, lại có cả phần tiểu sử, tuy còn rất sơ lược của Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu, điều mà các bản khác không thấy có. Vì vậy chúng tôi đã chọn Bản Bắc Kinh làm bản nền để dịch, nhưng thỉnh thoảng cũng tiếp thu một vài từ ngữ thuộc các bản khác mà chúng tôi cho là “chỉnh” hơn Bắc Kinh, và những trường hợp như vậy đều có chua rõ ở phần Chú thích.

VỀ TÁC GIẢ

Soạn thảo ra chùm thư tranh luận về việc “thấy hay không thấy chân hình của Phật gồm 3 tác giả: Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu.

Về tiểu sử của Đạo Cao và Pháp Minh, sách Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần, Hán, Tam quốc, Lục triều văn, phần Toàn Tống văn, quyển 63, dưới mục “Thích Đạo Cao”, bản Bắc Kinh có ghi: “Đạo, Cao, Giao Châu Pháp sư = Đạo Cao là Pháp sư Giao Châu”. Cũng sách này, vẫn quyển 63, dưới mục “Thích Pháp Minh”, ghi: “Pháp Minh, Giao Châu Pháp sư = Pháp Minh là Pháp sư Giao Châu”. Như vậy, cả Đạo Cao lẫn Pháp Minh đều là người Việt Nam, quán tịch Giao Châu. Địa bàn Giao Châu thời Lưu Tống (420 - 479), tức giai đoạn lịch sử mà Đạo Cao và Pháp Minh đang sống có thu hẹp lại so với với trước gồm 6 quận Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Cứu Đức, Nhật Nam và Tống Bình, nằm gọn trong vùng đất thuộc Bắc Bộ và bắc Trung Bộ nước ta ngày nay. Về trình độ học vấn hai ông đều là “Pháp sư” (Dharma - bhànaka), thuật ngữ dùng để chỉ những người am hiểu các sách kinh điển của đạo Phật, có khả năng giảng giải, truyền thụ “phép Phật” cho kẻ khác.

Về tiểu sử Lý Miễu(3), sách Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần, Hán, Tam quốc, Lục triều văn, phần Toàn Tống văn, quyển 57, dưới mục “Lý Miễu”, Bản Bắc Kinh ghi: “Miễu vi Giao Châu Thứ sử = Miễu là Thứ sử Giao Châu”.

Điều này cũng được phản ánh trong đầu đề một số bức thư, qua các cụm từ như “Lý Giao Châu” (ở bức thư số 4 và số 6), “Lý Giao Châu Miễu” (ở bức thư số 2). “Lý Giao Châu” có nghĩa là “người họ Lý làm quan ở đất Giao Châu”, một cách nói gắn người với địa bàn hoạt động thường xuất hiện trong thư tịch cổ và ngay cả trong nhiều bản tiểu sử tác giả ở Hoằng Minh tập. Trong phần chính văn Sáu bức thư, Lý Miễu có lúc còn được gọi là “sứ quân” (như ở bức thư số 2 và bức thư số 4), cách gọi này cũng ủng hộ quan điểm coi Lý Miễu là Thứ sử đất Giao Châu. Vấn đề còn lại ở đây là quốc tịch của Lý Miễu. Mặc dù sách không nói rõ như trường hợp Đạo Cao hay Pháp Minh, ta vẫn có thể nghĩ Lý Miễu là người Trung Quốc sang làm quan ở Giao Châu qua đoạn văn sau đây ở bức thư số 4 do Đạo Cao viết gửi cho Lý Miễu: “sứ quân là bậc sính tri (…), ở vào địa vị tôn qúy (…), sau những lúc nhả cơm vấn tóc rảnh ràng, thì nhởn nhơ thong thả suốt ngày”. Đấy khó có thể là chân dung một vị quan người Việt trong bối cảnh hồi ấy bây giờ.

VỀ NỘI DUNG SÁU BỨC THƯ

“Sáu bức thư” là tên gọi do chúng tôi đặt để chỉ chùm thư gồm 6 bức sau đây:

1. Dữ Đạo Cao, Pháp Minh nhị Pháp sư nạn Phật bất kiến hình thư (4);

2. Đáp Lý Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình;

3. Dữ Đạo Cao Pháp sư thư (I);

4. Đạo Cao trùng đáp Lý Giao Châu thư;

5. Dữ Đạo Cao Pháp sư thư (II);

6. Đáp Lý Giao Châu nạn Phật bất kiến hình.

Bức thư số 1 là của Lý Miễu gửi Đạo Cao và Pháp Minh. Bức thư số 2 là của Đạo Cao trả lời Lý Miễu. Bức thư số 3 là của Lý Miễu gửi Đạo Cao. Bức thư số 4 là của Đạo Cao lần thứ 2 trả lời Lý Miễu. Bức thư số 5 là vcủat Lý Miễu gửi Đạo Cao. Và bức thư số 6 là của Pháp Minh trả lời Lý Miễu.

Bức thư số 1: dài 74, chưa kể 14 chữ tiều đề. Nội dung vặn hỏi (vấn nạn = bắt bẻ) tại sao không thấy chân hình của Phật trên đời, trong khi cứ bảo đạo Phật là tài giỏi, có thể lập “giáo”(5) để làm lợi cho muôn vật, giải thoát cho vô số người ? Lý Miễu, người thảo bức thư này, đồng thời cũng là phía khởi xướng cuộc tranh luận, ngờ rằng cả Phật phép Phật có thể chỉ là câu chuyên bịa.

Bức thư số 2 : dài 320 chữ, chưa kể 10 chữ tiêu đề. Trong bức thư này, Đạo Cao nói với Lý Miễu không phải chỉ tiếp cận vấn đề bằng người trần mắt thịt, mà còn có thể nhìn nó với những con mắt khác nữa. Theo Đạo Cao, dấu tích Phật có thể tìm thấy qua các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp sau đây:

- Phật hiện tĩ thân hìnm nhiều người đã trực tiếp thấy trong ba kỳ thuyết pháp dưới gốc cây Long Hoa để độ chúng sinh ngày trước.

- Phật gián tiếp để lại “chính pháp” (đạo lý nguyên bản của Phật) trong cả một thời gian dài hàng 500 năm kể từ khi Thích Ca tịnh liệt.

- Phật sau đó, cũng dưới hình thức gián tiếp, để lại “tượng giáo” (đạo lý gần với nguyên bản của Phật) trong 1000 năm nữa, sau khi “chính pháp” đã mất.

Ngoài các lý do trên, sự hiện hữu của Phật còn có thể tìm thấy qua những chứng cứ bổ trợ khác:

- Cung vua Nhương Khư, thành Sí Đầu Mạt, núi Linh Thứu (nay thuộc xứ Bihar của Ấn Độ), những nơi Phật từng xuất hiện, nay đều vẫn còn đó.

- Những ghi chép liên quan trong các sách vở nhà Phật như Tịnh danh kinh, Pháp hoa kinh v.v.

Còn về phép Phật và hiệu quả của nó thì hãy nhìn vào thực tế: vua Nhương Khư đã thực hiện cách trị dân bằng “chính pháp” một cách hữu hiện tại thành Sí Đầu Mạt mà sử sách vẫn còn ghi rõ.

Tất nhiên trăm nghe không bằng một thấy. Nhưng có những sự việc do khoảng cách của thời gian và lịch sử mà ta không tài nào nhìn tận mắt được thì không thể không nhờ vào sự ghi chép của sách vở. Nguồn tư liệu này vẫn có khả năng mang lại niềm tin cho chúng ta, giống như chuyện Tam Hoàng Ngũ Đế, Tam Đại Ngũ Bá, Cơ Đán Khổng Khâu, Kinh Thi, Kinh Lễ mà bên phía đại Nho vẫn hằng đề cao và tin tưởng vậy.

Bức thư số 3 : dài 323 chữ, chưa kể 6 chữ tiêu đề. Luận điểm cơ bản của Miễu trong bức thư gởi cho Đạo Cao này là: muốn giác ngộ phải nhìn tận mắt, chứ không thể bằng vào sách vở. Sở dĩ nói phải nhìn tận mắt, là bởi vì “nếu còn mờ ám thì sẽ sinh nghi ngờ, mà nghi ngờ lại không phải căn do dẫn tới giác ngộ”. Sở dĩ nói không thể bằng vào sách vở là bởi vì ba nguyên nhân sau đây: Một là, cùng một tác phẩm, vẫn có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Hai là, giữa sách vở và cuộc sống, thường vẫn tồn tại một khoảng cách. Và ba là, trong cùng một học thuyết, hoặc giữa học thuyết này với học thuyết khác, thường vẫn có nhiều phe phái đấu tranh khích bác nhau, không những làm cho “chính tín” không sáng tỏ, mà còn tăng thêm sự ngờ vực, nghi kỵ…

Trên thực tế, thay vì đến với kẻ mộ đạo bằng “chân hình” Phật lại đến với họ chủ yếu bằng sách vở. Miễu viết: “Nếu bảo đấng Đại thánh có trí tuệ không gì ngăn nổi, rủ lòng từ chẳng đợi cầu xin, thì sao còn tiếc rẻ ánh sáng chói chang, thu giấu tài năng siêu việt, dứt hết hy vọng của mọi người sau khi nhập cõi Nê Viên, tăng thêm tội lỗi của chúng sinh trước lúc mở ba kỳ hội?”. Đặt câu hỏi như vậy, Miễu muốn khẳng định với phía nhà chùa rằng đạo Phật, theo Miễu cũng đều vô bổ đối với kẻ tu hành: “Chó cỏ bày suông, có thể làm giác ngộ được chăng? Tượng thờ đặt hão, có thể gây tin tương được chăng?”

Một luận điểm đáng chú ý nữa cũng được Miễu nêu lên ở đây để phê phán Đạo Cao: không thể lấy Nho chứng nghiệm cho Phật. Bởi lẽ đạo Nho không ưa những chuyện quái đản, trong khi Đạo Phật lại hay bàn đến việc ba đời. Cho nên nói như Cao: “Đã có thể tin bên này, thì cũng có thể nghiệm bên kia” là hoàn toàn vô văn cứ…

Bức thư số 4 : dài 476 chữ, chưa kể đến 8 chữ tiêu đề. Trong bức thư này, Đạo Cao cho rằng không nhất thiết phải tận mắt nhìn thấy Phật rồi mới giác ngộ được, như Miễu quan niệm. Vì theo Đạo Cao, người tu đạo có thể đạt tới mục đích của mình bằng nhiều cách: hoặc “thiền định giữa chốn núi rừng”, hoặc “tu đạo bên nơi thành thị” hoặc “cúi người khảy ngón tay”, hoặc “ca hát tụng niệm”… Tất cả theo Cao, đều là “bến bờ để giác ngộ”(6).

Có đúng như Miễu nói: nghi ngờ không phải là căn do dẫn tới giác ngộ? Theo Cao, “khi đã nghi ngờ tất mong được giải đáp, khi đã được giải đáp thì có thể giác ngộ, khi đã được giác ngộ thì có thể dựa vào Đạo”.

Như vậy, nghi ngờ chẳng phải là “nguồn gốc của sự giác ngộ” đấy sao?

Theo tác giả bức thư số 4, trong việc cầu tìm chân lý, phải biết phục thiện và thành tâm: “Tuy Nho, Mặc đua nhau dậy, Chín giòng ỏm thị phi, nhưng đó là lửa bó cỏ chẳng chịu tắt, chứ đâu phải mặt trời mặt trăng không chói sáng”; “Những kẻ quên mình, dốc lòng theo đạo thì tất sẽ cảm; mà đã cảm thì đều thấy Phật”.

Việc lấy Nho để chứng nghiệm cho Phật, theo Cao, chẳng qua là ước lệ, “rủ áo chắp tay mà theo nhau”, tưởng không có gì quan trọng.

Bức thư số 5 : dài 292 chữ, chưa kể 6 chữ tiều đề. trong bức thư này, Lý Miễu đem cái “tương đối” đối lập với cái “tuyệt đối” để bắt bẻ Đạo Cao: Nếu “tượng giáo”, “sách vở” vẫn có thể làm cho người ta giác ngộ được, thì “chính giáo”, “Phật “toả ánh sáng, chuyển rung mặt đất” để làm gì nữa? Miễu so sánh đạo Phật với đạo Nho; Bảy kinh của đạo Nho bao gồm cả hiện tại và tương lai, trong khi sách vở nhà Phật chỉ dừng lại ở “duyên” và “báo”. Việc giáo huấn của Bảy kinh có tác dụng sâu xa, trong khi sự thuyết giáo của sách vở nhà Phật hiệu quả thường chậm chạp. Miễu cảm thấy bức thư vừa rồi của Đạo Cao lời lẽ loanh quanh. Cần nêu lên ý kiến mới.

Bức thư số 6 : dài 898 chữ, chưa kể 9 chữ tiêu đề. Không trở lại tất cả các vấn đề do cuộc tranh luận giữa Lý Miễu và Đạo Cao khơi ra, Pháp Minh trong bức thư do chính tay mình chấp bút này chỉ xoáy vào một số mặt mà có lẽ ông cho là quan trọng nhất, then chốt nhất.

Trước hết, Pháp Minh đề nghị một cách nhìn vấn đề uyển chuyển và toàn diện, không nên cứng nhắc, càng không thể cực đoan. Theo ông, “đức tin với sự quan sát phải được song cử, mối hoài nghi với sự chứng nghiệm phải được đi đôi” khi bàn về việc thấy hay không thấy chân hình của Phật. Nói như thế, cũng tức là muốn uốn nắn kiểu nhìn người xét việc thường lệch về một phía của Lý Miễu và phần nào của cả Đạo Cao nữa trong các bức thư trước.

Sau nữa, Pháp Minh vạch ra sự mâu thuẫn trong lập luận của Miễu giữa thư trước và thư sau. Ông viết: “(Trong thư vừa rồi) Ngài lại viện lẽ “Bảy kinh ý nghĩa gồm cả tương lai” và dẫn câu “chứa điều thiện thì để phúc lành về sau, chứa điều ác thì để tai vạ về sau” để chứng minh rằng tuy cái lẽ sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh luôn luôn đổi mới (…), nhưng nghiệp thiện ác thì không thể không nhận lấy (…). Thế mà trong thư trước Ngài lại nói: “Đế, Vương, Cơ, Khổng thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này, đối với chuyện kiếp sau, họ lại gác lại không bàn tới, cho nên lẽ ẩn hiện, phế hưng, quyền thực đều không phân tích” - hình như lời Ngài trước sau có mâu thuẫn, không biết ý đích thực của Ngài rốt cục là thế nào?”

Nửa còn lại của bức thư Pháp Minh dành để trình bày một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống hai mệnh đề mà Đạo Cao đã sơ bộ nói tới trong các bức thư trước, đó là “hễ cảm thì ứng” và “không cảm thì không ứng”.

Với nội dung như trên, bức thư của Pháp Minh có vẻ như là muốn kết thúc cuộc tranh luận. Hình như Lý Miễu sau đó cũng đã thôi không tiếp tục viết thư bàn cãi nữa. Trên thực tế cũng chưa ai phát hiện thêm được bức thư nào nữa sau bức thư của Pháp Minh.

VỀ Ý NGHĨA CUỘC TRANH LUẬN

- Chưa có điều kiện nhận xét ai đúng ai sai qua các bức thư. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn bàn thêm một chút về những gì ẩn sau cuộc tranh luận.

1. Trước hết có thể đặt câu hỏi vì sao tại Giao Châu lúc này lại nổ ra cuộc bàn cãi sôi nổi về việc thấy hay không thấy chân hình của Phật, mà thực chất là sự đụng độ giữa hai tư tưởng Chu Khổng do Lý Miễu đại diện với tư tưởng Thích Ca do Đạo Cao và Pháp Minh đại diện? Muốn hiểu vấn đề này, hãy nhìn lại quá trình đạo Phật truyền tới Trung Châu và mối quan hệ phức tạp của nó đối với đạo Nho thời Lưu Tống.

Trong bức thư số 6, Pháp Minh nói Đạo Phật đến thời Hán Minh Đế (58 - 75) mới truyền tới Trung Châu. Trước Pháp Minh 2, 3 thế kỷ, Chính Mâu Tử tại nước ta cũng nói như vậy khi viết Lý hoặc luận. Trên thực tế, lịch sử “Đông du” của đạo Phật đã khởi đầu từ sớm hơn. Cái chuyện sách Sơn hải kinh viết về nước Thân Độc (tức Ấn Độ - TN), Liệt tiên truyện ghi chép sự tích một số Phật đồ… có thể là những ngụy tạo của giới tăng lữ nhằm chứng minh lịch sử xa xưa của Bắc Tông. Song một số chứng tích khác như việc phát hiện 12 người “mặc áo nước ngoài” ở Cam Túc vào năm 196 trước Công nguyên; việc cấm dựng chùa “bất đắc” (hay “Phù đồ”, đều có nghĩa là “Phật” - TN) tại nơi đây 7 năm sau đó… cho thấy Phật tử Ấn Độ đã bắt đầu tới miền tây Trung Quốc truyền giáo từ đời Tần Thủy Hoàng.

Hán Vũ Đế (140 - 109 TCN) mở con đường Tây Vực, về khách quan mà xét, đã tạo điều kiện cho Phật giáo du nhập Trung Quốc dễ dàng hơn. Đến đầu Công nguyên, Sở Vương Lưu Anh từng cúng “Phù đồ”; Hán Minh Đế gửi thư cho Vương Anh, có dùng chữ “y bồ tắc” và chữ “tang môn”, không gì khác hơn là những kiểu đọc bằng Hán của từ upasaka, sau này dịch là “thiện nam”, và từ sramana, sau này dịch là “sa môn”, trong tiếng Phạn. Điều này chứng tỏ sang thế kỷ thứ I, Thích giáo bắt đầu được giai cấp cầm quyển ở Trung Châu chú ý. Từ đấy cho đến thời Tây Tấn (265 - 316), người Tây Vực vào Trung Quốc truyền giáo mỗi lúc một đông, số kinh Phật do họ chuyển sang tiếng Hán cũng chiếm một khối lượng đáng kể. Tuy nhiên do ngôn ngữ bất đồng, những khó khăn trong giao tiếp cũng như trong dịch thuật đã hạn chế không ít các nỗ lực của họ. Rốt cục số người Trung Quốc xuất gia vẫn lèo tèo. Chỉ từ Đông Tấn, tức đầu thế kỷ thứ IV trở về sau, việc truyền bá đạo Phật ở trung Châu mới có khởi sắc. Kinh bổn chuyển sang tiếng Trung Quốc lúc này tăng vọt lên về số lượng và khá đảm bảo về chất lượng, do sự xuất hiện hàngloạt dịch giả bản xứ có kinh nghiệm như Chi Độn, Đạo Can, Tuệ Viễn, v.v… Số người theo đạo từ bi cũng nhiều thêm, đặc biệt là tầng lớp dưới. Cuộc sống cay cực thời ly loạn hết đợt này tiếp đợt khác đẩy họ vào cửa Phật với ảo vọng bằng con đường tu hành, sẽ được hưởng cảnh đời dễ chịu hơn trong các kiếp sau. Giới trí thức suy nghĩ có khác một chút. Họ cảm thấy sống giữa thì buổi nhiễu nhương, không phải là lúc cầu nổi tiếng. Vấn đề bây giờ theo họ là làm sao thoát khỏi vòng danh lợi do bọn quân phiệt và bọn đầu cơ chính trị Trung Quốc đưa ra nhử, để giữ lấy bản chất tốt đẹp của con người (đạo chân), giống như Lão Tử xưa kia “dứt thánh, bỏ trí”, khiến “vạn vật không xúc phạm tới chí hướng, thiên hạ không xê dịch được niềm vui, vua chúa không bắt mình làm bề tôi, chư hầu không kéo mình làm bầu bạn”, đấy mới là cái “đáng quý” (Lý hoặc luận, Tựa).

Xuất phát từ ý nghĩ đó, nhiều trí thức Trung Quốc đã tự đặt mình ra ngoài đời để nghiên cứu đạo Thiền. Đến thời Nam Bắc triều, cùng với sự gia tăng của nội chiến và chết chóc, Phật giáo ở Trung Châu đạt tới giai đoạn cực thịnh của nó.

Đạo Phật lan rộng, đối lập một cách tự nhiên với đạo Nho. Khổng Tử, theo học trò ông kể lại, vốn không thích đến chuyện “quái, lực, loạn, thần” (Luận ngữ, Thuật nhi). Một hôm Tử Lộ hỏi về việc thờ “quỷ thần” ông bảo với người môn đệ gần gũi của mình rằng: “chưa thạo thờ người, làm sao có thể thờ quỷ”. Tử Lộ hỏi sang chuyện “chết”. Khổng Tử đáp: Chưa biết chuyện sống, làm sao biết chuyện chết” (Luận ngữ, Tiên tiến). Chưa hẳn ông thánh của đạo Nho không tin quỷ thần. Một dạo ông bị ốm, Tử Lộ vào thăm và xin cầu khấn cho ông. Khổng Tử hỏi việc này đã thấy chép ở đâu chưa, Tử Lộ nói rằng có. Sách Lỗi viết: “Khi mắc bệnh thì nguyện cầu ở trời đất”. Khổng Tử đáp: “Tưởng gì, chứ cầu nguyện trời đât thì Khâu này đã làm từ lâu rồi!” (Luận ngữ, Thuật nhi)

Tuy thế, đối với quỷ thần, Khổng Tử trước sau vẫn giữ thái độ “kính nhi viễn chi” - tôn trọng mà xa lánh (Luận ngữ, Ung dã) - và ông cho như vậy mới là kẻ có trí.

Trái với óc thực tế và tinh thần mực thước trên đây của đạo Nho, các tín đồ đạo Phật ưa nói tới những chuyện không bình thường. Chuyện Thích Ca tích chứa hàng nghìn ức vạn năm đạo đức trước khi giáng sinh ở Thiên Trúc thành Phật; chuyện ông là hiện thân của đủ các thứ quyền năng: “Mơ hồ biến hóA, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, có thể nhỏ có thể to, có thể ẩn có thể hiện, đi vào lửa không bị cháy, giẫm trên đao không bị thương, trong nhớp nhơ không vấy bẩn, trong tai họa không nguy nan, muốn đi thì bay, muốn ngồi thì phát ánh sáng” (Lý hoặc luận). Chuyện luân hồi, người chết ở kiếp này lại sinh ra ở kiếp khác; chuyện tam thế, với ba cõi đời quá khứ, hiện tại và vị lai, v.v.

Tự mình coi như là một tín đồ trung thành của Chu Khổng trên đất Giao Châu, Lý Miễu từ góc độ “không trông thấy chân hình của Phật” mà phê phán Thích Ca là hết sức dễ hiểu.

2. Ngoài cương vị nhà nho, Lý Miễu còn là một viên quan Thứ sử. Thái độ của Miễu đối với Nho và Phật có liên quan tới tình hình học thuật ở Trung Châu hồi này.

Tại Trung Quốc vào những năm ba mươi của thế kỷ V, tức giai đoạn Miễu đang làm quan ở Giao Châu, đã dấy lên một cuộc bàn cãi sôi nổi chung quanh vấn đề đánh giá tác phẩm Quân thiện luận của Huệ Lâm. Theo sử chép, Lâm người Tân Quận, lúc nhỏ đi tu ở chùa Trị Thành, có tài văn chương, học kiêm nội ngoại, là chỗ bạn bè quen biết của Lưu Nghĩa Chân thuộc dòng họ nhà vua. Lâm trình bày Quân thiện luận dưới hình thức một cuộc đối thoại giữa Nho với Phật, và kết luận cuối cùng rút ra, đúng như đầu đề cuốn sách (7) cho thấy “Lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ, được coi như 6 cái bến phải vượt qua để giác ngộ, theo quan niệm nhà Phật - TN) và ngũ giáo (nhân, nghĩa, lễ, trí và tín, được coi như 5 nội dung giáo dục quan trọng của đạo Nho - TN) phải cùng thực hành”. Nghĩa là Nho với Phật cuối cùng phải “đồng quy”, tức thống nhất về một mối. Ấy thế nhưng khi Quân thiện luận tung ra, giới tăng lữ đều coi Lâm như kẻ “giả mặc áo thầy tu để huỷ báng đạo Thích”, và đòi tống cổ Lâm ra khỏi hội Phật giáo. Nhờ Tống Văn Đế che chở, Lâm trở thành vị “Tể tướng mặc áo nâu” quyền thế một đời. Đến khi Tống Văn Đế bị giết, Lâm phải lánh nạn sang Giao Châu và mất tại đây vài năm sau đó.

Vua quan phong kiếm để củng cố quyền lực, không thể không nói tới “quân thần, phụ tử”, không thể không nhấn mạnh “tu tề, trị bình”, tóm lại, phải gắn với đạo Nho. Và do vậy, nhất thiết phải chống Phật, không chỉ vì đây là suối nguồn của quan niệm “tứ đế” cho đời là bể khổ, vô ngã, vô thường, kêu gọi chúng sinh trút bỏ mọi ham muốn để đi vào con đường giải thoát về mặt lý luận, mà còn vì giáo hội lúc này đang có tham vọng nắm lấy quân chúng để giành quyền lãnh đạo ở Trung Châu về mặt thực tiễn. Cuộc xung đột của vua quan với tăng lữ thể hiện dưới hình thức đấu tranh giữa Nho và Phật đã diễn ra gay go vào thời Tống Văn Đế, mà những bàn cãi về Quân thiện luận và cảnh ngộ thăng trầm của viên “Tể tướng mặc áo nâu” trên kia chỉ là một số khía cạnh của toàn bộ vấn đề.

Tuy nói là “khía cạnh” nhưng nó cũng đã tác động không ít tới suy nghĩ, kể cả việc làm của Lý Miễu tại Giao Châu. Có những trùng hợp thú vị giữa Quân thiện luận của Huệ Lâm và các bức thư của Lý Miễu trên một số chi tiết quan trọng. Chẳng hạn, trong khi Quân thiện luận cho rằng “Lẽ u minh không thể hiện hết ở việc người, Chu Khổng ngờ mà không phân tích, Thích Ca phân tích mà không sát thực”. (Hoằng Minh tập, Đáp Hà Hành Dương thư) thì thư Lý Miễu gửi Đạo Cao và Pháp Minh có đoạn: “Đến như Đế, Vương, Cơ, Khổng thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này, đối với chuyện kiếp sau, họ để ra không bàn tới, cho nên lẽ ẩn hiện, phế hưng, quyền thực đều không phân tích. Nay đức Như Lai sự nghiệp gồm cả tam thế, lòng từ bi nhuần thấm khắp mọi nơi. Nếu không được lấy hiện tại làm giới hạn, thì mớ mê hoặc của quần chúng cần giải cứu không thể nào thanh toán đến tận cùng. Bởi vậy sự hoá độ không chỉ dùng lại ở sách vở, mà Phật sự còn kê la liệt đến hàng muôn….” (Bức thư số 3). Ở một nơi khác, Lý Miễu viết: “Nếu nói Đạo là khéo giỏi, có thể lập giáo để làm lợi cho chúng sinh, siêu độ giải thoát cho vô số người, thì tại sao không thấy chân hình của nó ở trên đời? Hay chỉ là nói suông mà không có thực?” (Bức thư số 1).

Hai đoạn văn vừa dẫn từ các bức thư của Miễu có thể coi như một phiên bản cái ý “Chu Khổng nghi nhi bất tiện, Thích thị biện nhi bất thực” trong Quân thiện luận của Huệ Lâm. Một thí dụ nữa. Quân thiện luận cho rằng “Học đòi ánh thần mà không có một tấc sáng, nghiệm lấy linh biến mà không có một tí thật” (Hoằng minh tập, Đáp Hà Hành Dương như) thì điều nhận xét này cũng sẽ được lặp lại trong một đoạn thư Lý Miễu gửi Đạo Cao như sau: “Nếu bảo đấng Đại thánh có trí tuệ không gì ngăn nổi, rủ lòng từ chẳng đợi cầu xin, thì sao còn tiếc rẻ ánh sáng chói chang, thu giấu tài năng siêu việt, dứt hết hy vọng của mọi người sau khi nhập cõi Nê Viên, tăng thêm tội lỗi của chúng sinh trước lúc mở ba kỳ hội?” (Bức thư số 3).

Chỉ một vài so sánh như trên cũng đủ thấy Lý Miễu, Huệ Lâm và Tống Văn Đế vốn là những người cùng hội cùng thuyền. Điều này giải thích vì sao sau khi Tống Văn Đế chết, ở Trung Châu không còn chỗ dựa nữa, Lâm lại mò tới Giao Châu, nơi Miễu đang quản lý. Lợi ích vua quan luôn luôn đẩy họ đến bên nhau, và đây mới chính là nguyên nhân sâu xa đã thôi thúc Miễu khăng khăng đứng về phía Nho để công kích Phật.

3. Đối với hai trí thức Giao Châu, ta cũng có thể nêu một câu hỏi tương tự. Đạo Cao và Pháp Minh bênh vực Đạo Phật thì cố nhiên rồi, nhưng vì lẽ gì lại công kích đạo Nho, hay đúng hơn, mượn Phật để chống Nho? Vấn đề theo chúng tôi ít nhiều có liên quan tới tình tự một dân tộc đang sống trong vòng đô hộ của phong kiến phương Bắc.

Đạo Nho, như chúng ta biết, rất nghiêm cách về mặt đẳng cấp, thể hiện ở nguyên tắc xử lý các mối các quan hệ “quân thần, phụ tử, phu phụ”, đặc biệt là thái độ của kẻ cầm quyền đối với người dưới quyền: “Dân khả sử do chi, Bất khả sử tri chi” (Luận ngữ, Thái Bá). Trong khi đó thì đạo Phật, nhất là Phật giáo Đại thừa lại ra sức san bằng những bức tường ngăn cách giữa các giai cấp. Hết thảy giống “hữu tình” theo Phật, đều là kết quả của “nghiệp” và do vậy, ngoài những nguyên nhân quá khứ tạo nên sự sai biệt tức là nghiệp, tất cả chúng sinh đều có khả năng tu luyện để thực hiện dần cái sinh mệnh tuyệt đối không còn sai biệt của mình. Không có một phân biệt đối xử nào ở đây cả. Cũng không có một sự chênh lệch căn bản nào giữa giống “hữu tình”. Mỗi người đều mang trong bản thân họ một hạt giống Phật, và nếu bền lòng tu đạo, ai cũng có thể thành Phật… Chính tinh thần bình đẳng này đã thỏa mãn phần nào tình cảm và tâm lý những người đang bị đô hộ. Cho nên không có gì là lạ trước niềm sảng khoái và hãnh diện trông thấy của Pháp Minh khi ông viết những dòng sau đây để trả lời Lý Miễu: “Sa môn sánh ngang vai cùng Vương công, sư sãi đứng thẳng người trước Thiên tử, so trong Chín mươi sáu giòng, hỏi ai cao quý hơn?” (Bức thư số 6).

Mặt khác, đạo Nho chủ trương “Đại nhất thống”, các dân tộc xa gần phải chầu về Trung Quốc như muôn sao đều hướng tới Bắc đẩu (Xuân Chu Công Dương truyện). “Các nước man di mọi rợ cho dù có vua đi nữa, thì cũng chẳng bằng các nước chư hầu ở Trung Quốc mà không có vua” (Luận nữ, Bát dật). “Ta nghe nói dùng phong tục Hoa Hạ đểt làm thay đổi người Di, chưa nghe nói Hoa Hạ bị phong tục người Di làm cho thay đổi” (Mạnh Tử, Đằng Văn Công chương cú thượng). Trong khi đó thì đạo Phật mang tham vọng độ thoát cho vô lượng vô biên chúng sinh, không phân biệt quốc gia, dân tộc. Trước Đạo Cao và Pháp Minh, Mâu Tử đã viết: Hạ Vũ “xuất thân từ rợ Tây Khương”, mà sau thành bậc “thánh triết”, sao Bắc đẩu “ở chính giữa trời”, nhưng so với người thì là ở “phía bắc”. Cứ thế mà suy, “đất Hán vị tất đã ở vào vị trí trung tâm”! Đạo Cao và Pháp Minh viết cho Lý Miễu: “Nếu không tin bên kia (Nho) thì ngờ bên này (Phật) cũng phải. Nhưng nếu đã có thể thông suốt bên kia thì sao lại còn vướng mắc đối với bên này?” (Bức thư số 2). Hoặc: “Tuy Nho, Mặc đua nhau dậy, Chín giòng ổm thị phi, nhưng đó là lửa bó cỏ chẳng chịu tắt, chứ đâu phải mặt trời mặt trăng không chói sáng” (Bức thư số 4) v.v.

Việc Đạo Cao, Pháp Minh mượn Phật để chống Nho thực ra chỉ là một biểu hiện của cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, nhiều mặt của nhân dân ta nhằm bảo vệ nền văn hoá cổ truyền cùng sự sống còn của dân tộc trước âm mưu nô dịch và đồng hoá của ngoại bang dưới thời Bắc thuộc.

Sau đây là bản dịch toàn văn Sáu bức thư:

1. Thư gửi hai vị Pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh để vặn hỏi về việc không thấy hình thể Phật.

Rằng, chỗ Đạo thanh hư(8), tứ đại(9) lẽ thường, nhờ có giáo pháp(10) mà sự nhiệm màu lan khắp mọi cõi. Nếu nói Đạo là khéo giỏi, có thể lập giáo để làm lợi cho chúng sinh, siêu độ giải thoát cho vô số người, thì tạ sao không thấy chân hình của nó ở trên đời ? Hay là chỉ(11) nói suông mà không có thực? Nay đang lúc đi tìm nguồn cội Tây Phương(12), cúi mong Đại Hòa thượng rủ lòng, chấp nhận chút băn khoăn thấp thỏi, không tiếc lời chỉ bảo thần tình.

Đệ tử là Lý Miễu kính lễ.

2. Trả lời ngài Lý Miễu làm quan ở Giao Châu vặn hỏi về việc không thấy hình thể Phật

Thích Đạo Cao xin thưa:

Được bề trên hỏi tới dấu tích khi hiện rõ, khi ẩn khuất của đấng Chí Thánh (13), ý vị sâu rộng, lời lẽ sáng sủa, kính cẩn xem đi xem lại, thấy Ngài thanh danh tiếng tốt càng cao.

Sứ quân(14) tường vách cao kín(15), hiểu cho được giáo pháp tất nhiên khó khăn; vậy xin được dốc hết chút hiểu biết chật hẹp của kẻ ngu dại này, những mong giống như chuyện Tượng Võng tìm được huyền châu(16).

Xét ra, Như Lai(17) ứng vật gồm có ba cách: một là hiện rõ thân hình, tỏa ánh sáng, chuyển rung mặt đất(18); hai là để lại chính pháp(19), cũng như có Phật ở đời; ba là để lại tượng giáo(20), từa tựa như dung nghi khuôn phép của Phật. Dung nghi khuôn phép từa tựa ấy đang đáp ứng đòi hỏi của nhân tình ngày nay. Nhân tình đã cảm được qua tượng giáo, ai bảo phải chờ khi Phật xuất hiện? Cho nên kinh Tịnh danh(21) nói: “Khéo hiểu được Pháp tướng, thì biết nguồn gốc của chúng sinh” (22). Đến như ba kỳ hội Long Hoa(23) ở thành Sí Đầu Mạt(24) thì nhân tình đều cảm được qua việc trông thấy, ai bảo rằng Phật ẩn khuất? Cho nên kinh Pháp hoa (25) nói: “Lúc bấy giờ ta và các tăng đồ đều ra núi Linh Thứu” (26). Cung vua Nhương Khư(27) còn có thể lần ra, thì nguồn cội Tây Phương làm sao không thấy? Nhưng kẻ nghi ngờ ở đời phần nhiều cho lời kinh không phù hợp sự thật nên đâm ra mờ ám ít tin tưởng, lấy cớ không trông thấy Phật mà chểnh mảng việc tu hành.

Kìa chuyện Tam Hoàng Ngũ Đế(28), Tam đại ngũ Bá(29), Cơ Đán, Khổng Khâu(30) biên tập Kinh Thi, chế tác Kinh lễ, đều nghe nói qua sử sách, nào ai trông thấy đâu? Chuyện họ Thích (31) gióng trống pháp(32) ở Lộc Viên(33), Phu tử (34) nêu đức âm ở Tưu Lỗ(35), tai ta không trực tiếp được nghe, mắt ta không trực tiếp được thấy, đều là tin theo sách vở. Nếu không tin bên kia thì ngờ bên này cũng phải. Nhưng nếu đã có thể thông suốt bên kia, thì sao lại còn vướng mắc đối với bên này?

Sứ quân suy nghĩ sâu xa, nhìn thấy tam thế(36), mong Ngài tìm hiểu lời dạy Thọ lượng(37) chưa dứt, gần thì theo dấu tích Đinh Quang, Nho Đồng(38), giữa thì suy xét các sách chép về Đại Thông Trí Thắng(39), để cởi bỏ sự tối tăm trì trệ cho mọi người, như vén mấy từng mây cho vầng thái dương được tỏ vậy.

Bần đạo(40) ý nông lời vụng, e nói chưa thật rõ lòng, mong ngày gặp Ngài sẽ trao đổi thêm những điều còn khúc mắc.

Nay kính thư.

3. Thư gửi Pháp sư Đạo Cao (I) (41)

Lý Miễu xin kính lễ!

Xem đi xem lại lời bàn cao nhã, lớp lang tách bạch, lời lẽ êm đẹp, mừng lĩnh hội được rất nhiều. Đặc biệt là vấn đề “cảm hóa tùy theo từng lúc”, “tượng giáo và chính pháp có chỗ khác nhau”, Pháp sư đã viện dẫn bên ngoài(42) để làm sáng tỏ bên trong(43), chiếu theo lới văn để chứng nghiệm sự thực. Kính vâng ý dạy không có chỗ nào sơ hở của Pháp sư.

Thế nhưng, nguyên do dẫn tới giác ngộ, tất nhờ ở sự xem xét. Nếu còn mơ ám thì sinh nghi ngờ; mà nghi ngờ lại không phải là căn do dẫn tới giác ngộ. Giá như sách vở hiện còn mà các thời đại hiểu giống nhau, tiếng tăm và dấu vết đầy đủ, lời nói và đối tượng đi đôi, thì muôn đời sau chẳng phải chờ có đấng thánh nhân làm thầy nữa(44). Đằng này thì nghĩa lớn đã trái ngược, Nho gia và Mặc gia tranh nhau dậy(45), nào chỉ chính tín(46) không sáng tỏ, mà còn sẽ nói xấu nhau, ngờ vực nhau, gây thêm hiềm khích, vậy có thể nào không lấy sự mục kích và ghi chép làm chứng cứ để củng cố niềm tin của mình ư ? Nếu bảo đấn Đại thánh(47) có trí tuệ không gì ngăn nổi, rủ lòng từ chẳng đợi cầu xin, thì sao còn tiếc rẻ ánh sáng chói chang, thu giấu tài năng , siêu việt, dứt hết hy vọng của mọi người sau khi nhập cõi Nê Viên(48), tăng thêm tội lỗi của chúng sinh trước lúc mở ba kỳ hội ? Chó cỏ(49) bày suông, có thể làm giác ngộ được chăng? Tượng thờ đặt hão, có thể gây tin tưởng được chăng?

Đến như Đế, Vương, Cơ, Khổng (50) thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này, đối với chuyện kiếp sau, họ để ra không bàn tới. Cho nên lẽ ẩn hiện, phế hưng, quyền thực(51) đều không phân tích. Nay đức Như Lai sự nghiệp gồm cả tam thế, lòng từ bi nhuần thấm khắp mọi nơi. Nếu không được lấy hiện tại làm giới hạn, thì mớ mê hoặc của quần chúng cần giải cứu không thể nào thanh toán đến tận cùng. Bởi vậy sự hóa độ(52) không chỉ dừng lại ở sách vở, mà Phật sự(53) còn kê la liệt đến hàng muôn. Thử hỏi nay cái gọi là “Phật sự” ấy rốt cục ở đâu nào?

Như lời cao nhã của Pháp sư, “đã có thể tin bên này, thì cũng có thể nghiệm bên kia”(54), nhưng tôi nghĩ thánh nhân không phải đời nào cũng xuất hiện, Khổng và Thích(55) lại đi khác đường nhau. Lấy việc cụ thể mà bàn, không phải là không mâu thuẫn, vậy Nho Thích có thể chứng nghiệm cho nhau được ư ?

Chưa thể im lặng bỏ qua, nên lại phải gửi mấy lời, mong Pháp sư cứu xét kỹ lần nữa, giúp dần dà được thấy những lời giải thích rõ ràng hơn.

4. Bức thư thứ hai của Đạo Cao trả lời ngài Lý Miễu làm quan ở Giao Châu (56)

Thích Đạo Cao xin thưa:

Lại vâng tiếp các lời dạy thâm thuý, nghĩa sáng ý xa, đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm suy nghĩ, mới phục cái tư tưởng thật sâu sắc của Ngài. Thế mới hay cái điều chí lý (57) không phải hạng tầm thường có thể dò nổi, ngôn từ tinh vi sâu kín không phải kẻ quê đần có thể chen vào. Nay xin đem sự hiểu biết tầm thường nông cạn để trình bày qua những suy nghĩ của tôi.

Xét ra, việc khuyên dạy làm muôn điều lành(58) không phải đều theo một con đường duy nhất: có khi thiền định (59) giữa chốn núi rừng, có lúc tu đạo bên nơi thành thị, hoặc cúi người khảy ngón tay(60), hoặc ca hát tụng niệm, đều là chuyện tai mắt cùng tỏ(61), người thực hiện cũng nhiều vô cùng, ấy là bến bờ để giác ngộ.

Đã gọi là thầm tin tưởng, thì hà tất phải giác ngộ! Đã dựa vào sự xem xét, thì hà tất phải thầm tin tưởng! Tuy(62) nảy ra ý nghi ngờ, nhưng nghi ngờ cũng là nguồn gốc của sự giác ngộ. Xin bàn ngay về điểm này: khi đã nghi ngờ tất mong giải đáp, khi đã được giải đáp thì có thể giác ngộ, khi đã được giác ngộ thì sẽ vào Đạo; như vậy, nghi ngờ chẳng phải nguồn gốc của sự giác ngộ là gì?(63).

Tuy Nho, Mặc đua nhau dậy, Chín giòng ỏm thị phi(64) nhưng đó là lửa bó cỏ chẳng chịu tắt, chứ đâu phải là mặt trời mặt trăng không chói sáng; sao cứ nằng nặc đòi thấy Phật xuất hiện, mà nôn nóng muốn các đạo phải về một mối ngay như thế ? Xưa và nay khác nhau(65), đời cuối cùng không biết dựa vào đâu làm chứng cứ, nhưng lấy chút lòng thành để chiêm nghiệm, thì thấy cũng không sai. Đại thánh tỏa ra ánh sáng dồi dào rực rỡ, nhưng những kẻ hoài nghi ở đời cứ chấp nê việc không thấy hình thể Phật, thành ra lầm lạc mãi trong giấc mộng lớn(66), quay cuồng giữa cảnh trầm luân, đắm chìm trong vòng sinh tử. Các bậc danh nho hiền triết thời xưa đại để có trả lời rằng: nếu đường lối không có gì khác biệt, thì chỉ trình bày lại mà không tạo tác thêm.

Những kẻ quên mình, dốc lòng theo Đạo thì tất sẽ cảm; mà đã cảm thì đều thấy Phật, không cảm thì không thấy(67). Người có trông thấy bảo cho người không trông thấy; người không trông thấy có thể vì do không tin(68). Thánh nhân đâu phải không từng tồn tại? Chúng sinh đâu phải chưa từng trông thấy thánh nhân? Nghe Pháp âm(69) mà khen hay, thì chó cỏ không thể nói là bày suông. Nhìn hình tượng mà cúi người, thì đồ thờ đâu phải là đặt hão.

Cơ, Khổng(70) cứu phong tục suy đồi thời bấy giờ mà còn chưa nổi, thì rảnh đâu để trỏ bảo những sự việc tương lai? Nếu Khâu, Đán(71) mà sinh nhằm vào thời thắt gút dây(72), thì chắc không chỉ dừng lại ở việc biện minh tam thế.

Hỏi nay Phật sự rốt cục ở đâu ư? - Thì cúi đầu chắp tay, có cái gì không phải là Phật sự? Chỉ cốt sao cho có phương pháp để giác ngộ sâu sắc, thì dù khác đường, cũng sẽ về một đích mà thôi(73).

Trong bức thư trước, tôi có dẫn câu “tin bên này…”, “ngờ bên kia…” - Chính vì thế người đời không trông thấy Phật, rồi cứ cho là không có Phật - nên tôi mới lấy chuyện không trông thấy Chu Công, Khổng Tử để làm giây mực so sánh đấy thôi. Ấy là việc rủ áo chắp tay mà theo nhau, lẽ nào gọi là mâu thuẫn?

Sứ quân là bậc sinh tri, không chờ phải học, tính khí tự nhiên, ở vào địa vị tôn quý(74), vận dụng tư tưởng sắc bén(54) phiêu diêu ở vườn nghĩa lý, lịch duyệt trong rừng sách vở, sau những lúc nhả cơm vấn tóc (76) rảnh rang, thì nhởn nhơ thong thả suốt ngày, tiếng nói đạo đức một khi bày tỏ, không ai là không lắng nghe. Còn bần đạo thì kiến thức nông cạn, càng thẹn với giấy tờ; sơ lược mấy lời vụng dại để thù đáp bề trên, những sợ làm hoen ố bài văn đẹp đẽ(77), nghĩ lại càng thấy sợ sệt xấu hổ, mồ hôi chảy ướt đầm.

Nay kính thư.

5. Thư gửi Pháp sư Đạo Cao (I) (78)

Lý Miễu xin kính lễ!

Những lời bàn cao nhã của Pháp sư đã làm rõ ra rằng, bến bờ giác ngộ là do hoài nghi mà tìm được, thừa lòng tin tưởng thì không cần phải xem xét; cúc cung tụng niệm cũng chỉ để tới Đạo…(79). Xem lại các điều dẫn giải vừa rồi của Pháp sư, càng thấy chỗ kín đáo sâu xa.

Tuy nhiên nói như Pháp sư, cái gọi là tượng pháp đã sai lệch với chính pháp, việc cầu giác ngộ chỉ còn bằng vào lẽ thô sơ, mượn lời văn để lĩnh hội ý chỉ(80) mà không cần mục kích, vậy nên Cơ, Khổng mới để lời dạy về sau, ánh sáng huy hoàng của Phật mới không biểu lộ, vì cứ xem sách vở thế gian cũng đã thừa đủ rồi. Nhưng nếu như vậy thì “tỏa ánh sáng, chuyển rung mặt đất” để làm gì nữa?

Đến như tin vào chính pháp, không chỉ có việc cúi xuống ngẩng lên(81), vậy mà Phật sự thì đầy rẫy trong thực tế cũng như trong giáo hóa. Trong khi đó, diệu sắc (82) là con đường bậc Đại giác(83) trải qua, và là cơ sở cội nguồn để dò tìm tới Đạo. Vậy mới biết kẻ tin theo ắt vì Nho, Mặc chống chọi nhau mà đi tới hoài nghi, người học hỏi sẽ vì không thấy bằng chứng cụ thể mà đâm ra hối hận, đủ rõ không thể đổ lỗi cho Tam, Ngũ(84); lòng thầm mộ đạo đức bị sai lạc chính do mười hiệu Phật(85) mà ra, chẳng phải như vậy sao?

Còn như Pháp sư bảo “Cơ, Khổng chuyên cứu vãn phong tục suy đồi (…), không có thì giờ để quan tâm tới mai sau (…), nếu đặt vào thời thắt gút dây, thì thế tất sẽ biện minh tam thế” (86) cũng lại không đúng nốt. Những điều Bảy kinh(87) trình bày, ý nghĩa gồm cả tương lai; còn những điều kinh điển nhà Phật phô diễn thì sự việc chỉ dừng lại ở “duyên” và “báo”(88). Cho nên, Kinh dịch nói: “Chứa điều thiện thì để phúc lành về sau, chứa điều ác thì để tai vạ về sau”; Kinh(89) nói: “Vô ngã, vô tạo, vô thụ”(90) cũng không qua cái nghiệp thiện ác, nhưng ở đây thì việc thuyết giáo về lẽ nhân duyên hiệu quả thường chậm chạp, trong khi việc giáo huấn bao gồm cả tương lai của Bảy kinh có tác dụng rộng xa, lẽ nào chỉ chăm chú mặt này mà để thiếu sót mặt kia như lời Pháp sư nói ?

Những lời bàn trong bức thư vừa gửi tuy đẹp nhưng vốn chỉ là lời quanh quẩn. Mong trong thư sau, Pháp sư sẽ nêu lên nhiều chuyện mới, trình bày nhiều việc lạ, để tẩy sạch những tù đọng xưa nay, khiến cho con đường bằng trở nên thênh thang mọi vướng mắc đều được thông suốt. Rất mong Đại hòa thượng rủ lòng chấp nhận chút lòng thành thực(91) của tôi.

Học trò là Lý Miễu kính trình.

6. Trả lời ngài Lý Miễu làm quan ở Giao Châu vặn hỏi về việc không thấy hình thể Phật (92).

Thích Pháp Minh xin thưa:

Thiên đại luận của Ngài truyền xuống, tôi kính cẩn xem cả buổi, thấy thơm nức như hoa lan, mát nhẹ như gió huệ.

Bần đạo này tài năng không phải thuộc vào hạng mũi dùi sắc nhọn trắng như sương, vận dụng tư tưởng không phải thuần thục như người đầu bếp(93), hành vi lệch lạc, lập luận sơ hở, riêng vấp váp nghi ngờ sợ hãi. Nhất là do vụng lời(94), tối ý, thật khó trình bày vấn đề cho rành rẽ.

Ngu tôi cho rằng, cả hai cách hoài nghi điều mờ ám và tin tưởng sự mầu nhiệm (95); chứng giám quan sát và hiện hình cho thấy: cúc cung tụng niệm và cảm động linh biến đều là cầu bến để tới cõi Đạo, dịp tốt cho sự thăng hoa. Cho nên đức tin với sự quan sát phải được song cử, mối hoài nghi với sự chứng nghiệm phải được đi đôi; lẽ nào không cần hiện hình, coi khinh thần thái, ngang bằng với con đường Cơ Khổng, đánh đồng khuôn mực dạy đời, cho “tỏa sáng, chuyển rung mặt đất” chỉ là lời “nói suông” được sao?

Xét ra, pháp thân(96) ngưng đọng lặng yên(97); diệu sắc(98) trong trẻo lâng lâng hằng còn hằng có, cho nên có thể ẩn hiện, theo thời, hành tàng(99) không thể lường được. Lúc hiện thì cứ thế mà tới, lúc ẩn thì khéo biến mà đi. Theo ngôn từ tìm tông chỉ, nào có chuyện “sai lạc chính do mười hiệu Phật”? Ánh sáng còn rơi rớt lại cũng đủ soi tỏ đời cuối cùng, kẻ đã tin lẽ đâu lại vì chút lửa đom đóm mà thêm ngờ vực? Đang buổi bình minh, trời tang tảng sáng(100) tháp tượng kinh kệ đầy rẫy thế gian, người học hỏi lẽ đâu lại vì không thấy chứng cớ mà đâm ra hối hận?

Ngài lại viện lẽ Bảy kinh “ý nghĩa gồm cả tương lai”(101) và dẫn câu “Chứa điều thiện thì để phúc lành về sau, chứa điều ác thì để tai vạ về sau” (102) để chứng minh rằng tuy cái lẽ sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh, luôn luôn đổi mới, cái cũ và cái mới cứ “tiếp tay” nhau, nhưng nghiệp thiện ác thì không thể không nhận lấy. Vậy là quá hiểu lẽ tam thế, càng tỏ rõ Bảy kinh, nếu cứ “chiếu theo lời văn để chứng nghiệm sự thực”(103), thì tôi đã tuân mệnh Ngài rồi vậy. Thế mà trong thư trước Ngài lại nói “Đế, Vương, Cơ, Khổng thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này, đối với chuyện kiếp sau, họ gác lại không bàn tới, cho nên lẽ ẩn hiện, phế hưng, quyền thực đều không phân tích”(104), hình như lời Ngài trước sau có mâu thuẫn, không biết ý đích thực của Ngài rốt cục là thế nào? “Trước điều nhân, ta không nhường ai cả”(105), xin cúi nghe những lời giải thích “sâu xa kín đáo” của Ngài.

Trong các bức thư giải đáp trước, chúng tôi cón nói sơ đến đấng Chí thánh và sự chìm nổi của chúng sinh, nhưng nghĩa lý và chứng cớ chưa thật sáng tỏ, lời lẽ và tình huống chưa trình bày hết, nay xin nói kỹ thêm để cùng mở rộng đường đi tới Đạo.

Kìa quần sinh(106) ngủ triền miên trong tam hữu(107), chúng thức(108) mờ vĩnh viễn giữa lục trần(109), nổi chìm với sinh tử là chúa tể của sự căn nuốt, tiếp nối ở tâm thức là bánh xe của sự xoay vần; hình hài thành nơi quán trọ, tinh thần là khách dừng chân; tới lui trên ba đường ác(110) bao khổ sở; kết, lìa với tám cảnh khó(111) những chua cay; nỗi hân hoan chỉ là tạm nguôi khuây, mối lo sợ mới thực mãi thúc bách; một thân chết gục lại tiếp một thân; tuy thông minh tài trí, sách vở đầy bụng, am hiểu Trăm nhà(112), thông đạt Chín dòng, “biết chết sống có mệnh, giàu sang tại trời”, “qủy thần không thể kêu cầu, thánh triết khó bề dự đoán”… vẫn không tránh khỏi lấy kiến giải sai lầm để che đậy cái tâm, mơ hồ mà sinh tư lự, gửi lòng dạ ở cỗ xôi bà cốt, dốc thành tâm vào câu chú đạo bùa, nắm cái tà để mong cái chính, giữ hai ý, ngập để chờ cái thật; dùng dằng giữa hai ý, ngập ngừng trước đôi đường; vậy thì dù Phật có “hiện rõ thân hình, tỏa ánh sáng, chuyển rung mặt đất” liệu có thể thấy được chăng? Cho nên kinh sách huyền diệu tung ra khắp chốn là nhằm dăng nơm để chờ đón tâm cơ, tâm cơ động thì ắt phải cảm, mà có cảm rồi mới ứng được.

Nếu cứ biết nấu chí trong ngôi nhà huyền diệu, để tâm tới chốn thẳm sâu, hiểu rõ đời người như sương buổi sớm, biện biệt được tam thế chẳng phải chuyện sai ngoa; buông cương trong thuật thanh chân, gò ngựa trên dơ dối; cấy đức bừa tà cho thành sầm uất; trồng đức tưới chính để háo tốt tươi; rèn khổ hạnh đua thời gian cùng tấc bóng, giữ sạch mình tranh dấn bước với tuổi già; mang lòng thành, ôm chí hướng, do cảm mà liền thông, thì lẽ nào chính mình lại không nhận được ánh sáng rực rỡ và nhìn thấy sự biến hóa thiêng liêng sao? Nếu tai mắt không thông tỏ, thì hoặc ứng vào giấc mộng như trường hợp Hán Minh Đế(113) nhân mộng mà cảm thánh(114), đại pháp(115) từ đó du nhập, đế vương dốc tấm thành để thu đạo đức, anh hùng thu chéo áo(116) để được giáo hóa; sa môn sánh ngang vai cùng vương công, sư sãi đứng thẳng người trước thiên tử, so trong Chín mươi sáu dòng(117), hỏi ai sao quý hơn ? Tống Vũ Hoàng Đế (118) lúc mới lên ngôi, mộng thấy có một đạo nhân(119) xách bát tới xin ăn, nhân đó nói với vua rằng: “Ông kiếp trước có bố thí cho Phật Duy Vệ(120) một bát cơm, nay mới được ở địa vị này”(121). Tỉnh dậy, vua sai người đến hỏi Nghiêm Công (122) xem thực hư thế nào. Nghiêm Công liền đưa kinh Thất Phật (123) trình lên cho vua xem. Chúa nước Ngô là Tôn Quyền(124) lúc đầu còn ngờ vực sự linh nghiệm Phật pháp, đang định đình chỉ để xem xét, chợt thu được xá lỵ (125) ánh sáng chiếu trong cung, kim khí không thể, đập vỡ, lò lửa không thể nung chảy, nay còn thấy để tại chùa Kiến Sơ ở Kế Đô (126). Ở Ngô Quận (127) có một pho tượng Phật bằng đá (128) nổi trên mặt biển, thế là nào đạo sĩ, nào cô đồng và có tới hàng trăm người đi theo làm đủ các thứ phù phép, vừa đánh trống vừa nhảy múa, nhưng không thể nhúc nhích được tượng Phật. Vậy mà sau đó chỉ năm sáu người áo đen (129) với ba bốn chiếc trướng điều (130) lại nhắc tượng Phật lên được, nay còn thấy đặt ở chùa phía bắc Ngô Quận. Những kẻ hết lòng cầu Phật, không ai là không cảm ngộ. Chu Trương (131) mấy đời thờ Phật, do đó mà được chứng nghiệm như thế. Quách Văn Cử (132) sùng kính Tam bảo (133), giữ bền niềm chính tín, tay thò vào miệng hổ bị hóc, biết rõ sự yên nguy. Lan Công (134) phủi tuyết giá lạnh trên mình thú dữ, Hộ Công (135) làm cho suối khô cảm động mà chảy lại thành dòng to… Ấy đều là những vị đứng vào hàng đức hạnh xuất chúng, thanh cao thoát tục, có những sự tích kỳ lạ mà người đời thường ghi nhớ. Ngoài những vị ấy ra, còn nhiều điều nữa, không thể bàn hết được.

Bần đạo thuở nhỏ học hành nhác nhớn, cho đến lúc bạc đầu vẫn cô độc quê mùa, ít được nghe điều hay, mò mẫm học lỏm. Nói năng bộc trực, lời lẽ chất phác, vị tất đã có nhiều điểm khả thủ. Sợ không đáp ứng nổi đòi hỏi của Ngài, mà lòng những bối rối hổ thẹn.

Nay kính thư.

CHÚ THÍCH

1. Điều cần lưu ý là địa bàn đất Giao Châu có thay đổi qua lịch sử. Thời Mâu Bác, Giao Châu gồm 7 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ, Hợp Phố, Cửu Chân và Nhật Nam, trị sở hồi này đặt tại Long Biên (nay là Hà Nội, Việt Nam). Xem Quận huyện thời đại chi An Nam của Lê Chính Phủ, Thương vụ ấn thư quán của Trung Quốc in và phát hành tại Trùng Khánh (tháng 7 năm 1943) và tại Thượng Hải (tháng 12 năm 1943), các tr. từ 49 đến 53.

2. Chẳng hạn trong mục Tài liệu tham khảo của cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1988, các tr. 473 - 476, không thấy nêu bản dịch Sáu bức thư của Lê Mạnh Thát.

3 . Miễu 淼 còn có thể đọc là “Miểu”, “Nhiểu”, “Diểu”, “Diếu” (Khang Hy tự điển)

4. Trong nguyên văn, chữ “thư” đặt ngay sau chữ “Pháp sư”. Chúng tôi đưa chữ “thư” ra cuối đầu đề cho hợp với văn pháp.

5. Giáo (agama): Lời của thánh nhân dạy cho người dưới. Ở trong tâm là Pháp, phát ra lời là Giáo (Từ điển Phật học Hán Việt, phân viện Nghiên cứu Phật học xuất bản, Hà Nội, 1992, Tập I, tr. 501).

6. Thật ra thì Đạo Cao không nói gì ngoài những cái mà kinh sách Phật đã nói: “Là một người Ấn thuần tuý, Phật dụng tâm khổ hạnh tham thiền là nhằm thoát ly sinh tử luân hồi. Có nhiều con đường mở ra cho Ngài đạt tới cứu cánh ấy. Cứ theo các triết sư đương thời thì người ra có thể vê tròn quả giải thoát bằng nhiều phương tiện như ôm ấp một đạo lý, hoặc tu khổ hạnh hay giữ trinh bạch, hoặc học đạo, hoặc diệt dục… Mỗi phương tiện có chỗ sở trường riêng, và nếu khéo vận dụng từng cái hoặc toàn thể thì đạo giải thoát có thể thành được phần nào” (Suzuki: Thiền luận, Trúc Thiên dịch, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1970, tr. 90).

7. Hai chữ “Quân thiện” trong nhan đề sách “Quân thiện luận” có nghĩa là “đều tốt cả hai”.

* Bài số 1

8. Thanh hư: trong trẻo trống không.

9. Tứ đại: bốn yếu tố lớn gồm “đất”, “nước”, “lửa”, “gió”, tạo nên vạn vật, theo quan niệm Phật giáo.

10. Giáo Phật (pháp môn): khoa dạy về cách tu luyện để trở thành Phật. Theo quan niệm nhà Phật thì những giáo ý mà Phật giảng giải được coi như phép tắc, nên gọi là “pháp”. Pháp ấy dẫn dắt chúng sinh vào Đạo và đắc đạo, nên gọi là “môn”. Có rất nhiều “pháp môn”, tức nhiều kiểu tu luyện để trở thành Phật, thiền định, cúng dàng, bố thí, trì giới v.v. Do đó người ta hay nói tới “tám vạn bốn nghìn pháp môn”, “biển pháp môn”, “Vô số pháp môn”…

11. Nguyên văn chữ Hán chép là Chân 真 (thực), có lẽ nhầm. Cứ theo mạch văn thì chỗ này phải dùng chữ trực 直 (chỉ). Chúng tôi dịch chữa lại: Bản Đại Chính cũng viết là trực.

12. Tây Phương: còn gọi là Tây Thiên hay Tây Trúc, chỉ Ấn Độ, nơi phát tích của đạo Phật.

* Bài số 2

13. Đấng chí thánh: đây chỉ Phật.

14. Sứ quân: tiếng dùng để gọi một cách trân trọng những người đứng đầu các châu, quận; đây chỉ Thứ sử Lý Miễu.

15. Tường vách cao kín (viên tường sùng thuý): sách Thích thị thông giám kể rằng Vương Ngạn Siêu lúc hàn vi, muốn theo một vị Thiền sư tên là Huyđi tu, nhưng Thiền sư bảo: “Nhữ thế duyên thâm, đương vi ngã gia viên tường = Người còn nhiều duyên nợ với đời lám, chưa đi tu hành được, chỉ nên đứng ngoaid làm tườmg vách dể bảo vệ cho đạo Phật thôi!”. Đạo Cao gợi lại chuyện này, có ý bảo Lý Miễu đang làm quan, không dễ mà hiểu được Đạo Phật.

16. Tượng võng tìm được huyền châu (võng tượng huyền châu): bài Thiên địa trong sách Trang tử chép: “Hoàng Đế dạo chơi ở mạn bắc Xích Thuỷe, bước lên gò núi Côn Luân mà nhìn trở lại phương Nam, hạt châu đen bỗng đánh rơi đâu mất. Sai “Trí” (= Tinh thần) đi tìm, nhưng không thấy. Sai “Khiết Cấu” (= Lời lẽ) đi tìm, cũng không thấy nốt. Bèn sai “Tượng Võng” (= chập chờn như có như không) đi tìm, thì lại thấy hạt châu đen. Hoàng Đế nói: Lạ thay! “Tượng Võng” mà có thể tìm được “huyền châu” ư ?” “Dẫn lại chuyên này, Đạo Cao muốn nói một cách khiêm tốn rằng ruy mình kiến thức hạn hẹp, vẫn cố gắng giúp Lý Miễu tìm ra chân lý, giống như Tượng Võng đã giúp Hoàng Đế tìm lại hạt châu đen vậy.

Trong nguyên văn chữ Hán, “Tượng Võng” bị chép nhầm thành “Võng Tượng” có nghĩa là “hư vô”, “một loài thuỷ quái”, không ăn nhập gì với “huyền châu” (= hạt châu đen) cả. Đây dịch chữa lại là “Tượng Võng”

17. Như Lai (Tathâgatha): một trong số 10 tên hiệu của Phật. Theo kinh Kim cương thì Phật vốn không do đâu lại, mà cũng không đi đâu, nên gọi là “Như Lai”. Phật Như Lai cũng tức là Phật Thế Tôn hay Thích Ca Mâu Ni.

18. Sách Phật nói: Khi Phật mới sinh ra, đã bước bảy bước, giơ tay phải lên nói: “Trên trời dưới đất không có ai hơn ta được!”. Bấy giờ trời đất rung chuyển mạnh, trong cung vua sáng ngời. Kinh Pháp hoa cũng nói trước lúc Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa, có 6 điềm hiện ra, trong đó, điềm thứ tư là chuyển rung mặt đất (= địa động thụy); điềm thứ sáu tỏa hào quang (= phóng quang thụy). Ở đây, có thể Đạo Cao muốn nói tới cảnh tượng lúc Phật mới giáng sinh, mà cũng có thể là nhắc lại điềm thứ tư và điềm thứ sáu khi Phật Thích Ca ứng hiện để giảng kinh Pháp hoa.

19, 20. Chính pháp, tượng giáo: theo sách nhà Phật, Phật giáo đã diễn biến qua ba thời kỳ. Thời kỳ “chính pháp” (đạo lý chân chính) dài 500 năm kể từ khi Thích Ca mất. Ở giai đoạn này dễ tu chứng và có rất nhiều người tu kết quả, vì đạo lý chân chính của Phật đang còn thịnh hành; dù Thích Ca tịch diệt “Chính pháp” vẫn còn đó, nghĩa là vẫn còn sức ủng hộ mạnh mẽ của Phật đối với kẻ tu hành. Tiếp đến là thời kỳ “tượng pháp” (tiếng nói, câu văn, đạo lý tương tự như chính pháp) dài 1.000 năm. Ở giai đoạn này hơi khó tu chứng, số người tu kết quả cũng ít hơn, vì đạo lý chỉ gần giống với chính pháp thôi. Cuối cùng là thời kỳ “mạt pháp” (đạo pháp đến lúc điêu tàn) cũng dài 1.000 năm. Trong giai đoạn này rất ít người tu hành kết quả.

Ở đây Đạo Cao nói đến hai thời kỳ dấu tích của Phật còn rõ nét, tức thời kỳ chính pháp và thời kỳ tượng giáo (= dùng giáo pháp từa tựa để dạy kẻ tu hành).

21. Tịnh danh: tức kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti), còn gọi là Duy Ma Cật sở thuyết kinh hay Bất kảh tư nghị giải thoát kinh, một bộ kinh Đại thừa, do A Nan (Ananda) đọc lại trong kỳ hội kết tập, kể lại những điều biện thuyết của Duy Ma Cật. Toàn bộ kinh gồm 14 phẩm, gộp lại thành 3 quyển, được Cưu Ma La Thập (Kumârajêva) dịch từ bản gốc bằng tiếng Phạn ra tiếng Trung Quốc vào đầu thế kỷ 5 tại Trường An.

22. Cầu này trích từ phẩm Phật quốc trong kinh Tịnh danh. “Pháp tướng” ở đây chính là “Pháp tướng tông” gọi tắt, còn có tên là “Duy thức tông”, một phái đạo Phật chuyên nghiên cứu về bản chất và phẩm tính của mọi hiện hữu. Theo quan niệm của tông này, thì tất cả các “pháp” (gồm sắc và tâm, vật chất và tinh thần) đều chỉ là “thức” (khả năng nhận thức, tính hay biết; trong đó, “ý thức” hay “alaya thức” là chúa tể. Chỉ có “thức” mới là cái có thật. Còn vạn vật mà ta nhận thấy, kể cả chúng sinh do sự phát hiện của “thức”, vốn đểu được tạo nên bởi ảo tưởng hay bởi nhân duyên, và không có thực tại thường tồn tại nào cả. Thế giới ngoại tại không hiện hữu, nhưng nội thức phát hiện ra giả tưởng của nó như là thế giới ngoại tại. Điều mà ta cho là chân thực, chỉ là một biểu lộ ngoại tại của cái “thức”.

Dẫu câu “khéo hiểu được Pháp tướng, thì biết nguồn gốc của chúng sinh”, Đạo Cao muốn nói với Lý Miễu rằng điều then chốt là phải tìm đến cái “thức” được coi như bản chất và phẩm tính của mọi hiện hữu, chứ không không là vấn đề “Phật xuất hiện” hay “nhìn thấy Phật” như Lý Miễu đặt ra.

23. Ba kỳ hội Long Hoa: ba kỳ hội thuyết pháp của Phật Di Lặc (Maitreya) dưới gốc cây Long Hoa (cây hình con rồng, trổ hoa màu vàng) để độ chúng sinh.

24. Thành Sí Đầu Mạt (Kurkutârâma): nời Di Lặc giáng sinh và thành Phật.

25. Kinh Pháp Hoa: tên đầy đủ là Diệu Pháp liên hoa kinh (Saddharmapundarika, được Cưu Ma La Thập dịch ra tiếng Trung Quốc vào năm 406 tại Trường An. Chủ thuyết của Pháp Hoa là tất cả chúng sinh đều có tính Phật, do đó đều có thể thành Phật, nếu biết tu hành.

26. Núi Linh Thứu: ở gần Vương Xá (Râjagriha), kinh đô nước cổ Magadha, nay thuộc xứ Bihar của Ấn Độ. Theo tín ngưỡng người Ấn, các thiên thần thường hiện đến núi này, nên còn có tên là “Linh Sơn”. Chính Phật Thích Ca đã đến đây để giảng kinh Pháp Hoa. Vì núi có hình dáng con chim ó (= thứu) nên gọi là núi “Linh Thứu”.

27. Nhương Khư (Sankha): còn viết là Hướng Khư, tên vị vua dùng “chính pháp” mà trị dân (chuyển pháp luân) tại kinh thành Sí Đầu Mạt hồi Di Lặc sáp giáng sinh và thành Phật. Tương truyền nhà vua rộng làm việc thiện, dẫn dắt nhân dân, mọi người đều cảm hóa, không ai không mến phục. Thời bấy giờ, con người sống tới 80.000 tuổi, con gái 500 tuổi mới lấy chồng. Ai nấy đều khôi ngô, đoan chính, không có người xấu xí, thô kệch. Trong nước không có tai hoạn, khí hậu không nóng bức, không lạnh lẽo. Cửa ngõ chẳng cần đóng vì không có trộm cướp. Vua cũng khỏi lo chiến tranh, vì các nước đều yêu chuộng hòa bình…

28. Tam Hoàng Ngũ Đế: “Tam Hoàng” có nhiều thuyết; theo Thượng Thư đại truyện thì là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông. “Ngũ Đế” cũng có nhiều thuyết theo Sử ký thì là Hoàng Đế, Xuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

29. Tam đại Ngũ Bá: “Tam đại” là ba đời, gồm Hạ, Thương và Chu (theo Luận ngữ). “Ngũ Bá” là năm kẻ xưng bá, gồm Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công và Sở Trang Công.

30. Cớ Đán Khống Khâu: tức Chu Công và Khổng Tử.

31. Họ Thích: chỉ Thích Ca Mâu Ni (Cakyamuni).

32. Trống pháp (pháp cổ): Phật thuyết pháp để dẫn dắt “chúng sinh” vào đường thiện, cũng giống như vị tướng cho đánh trống để tiến binh vậy. “Trống pháp” ở đây, có thể hiểu là trống đạo lý của nhà Phật. Kinh Pháp hoa có câu: “Phổ vị chúng sinh, kích đại pháp cổ. = Phật muốn độ khắp chúng sinh, bèn đánh trống pháp lớn”.

33. Lộc Viên: cũng gọi là Lộc Dã Viên hay Lộc Uyển (Mrgadava), một khu vườn có rất nhiều hươu (= lộc) gần thành Ba La Nại (Vârânasi) thuộc Ấn Độ. Tại nơi đây, Phật Thích Ca đã đến thutyết pháp lần đầu sau khi thành đạo, độ được năm vị “Chân nhân”. Tiếp đó, Thích Ca còn nhiều lần đến Lộc Dã Viên để giảng giải, luật, tạng (= tripitaka).

34. Phu tử: chỉ Khổng tử.

35. Tưu Lỗ: còn đọc là Trưu Lỗ hay CHâu Lỗ, tên ấp nước Lỗ Thời Xuân thu, quê hương Khổng Tử, nay ở đông nam huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

36. Tam thế: ba đời, ba thuở, ba thời đại. Phật giáo cho rằng hết thảy mọi sự mọi vật đều phải trải qua ba kiếp: quá khứ, hiện tại và tương lai.

37. Thọ lượng: chỉ phẩm Nhu lai thọ lượng trong kinh Pháp hoa.

38. Định Quang, Nho Đồng: “Định quang” hay “Định Quang” tức Phật Nhiên Đăng (Dêpankara); “Nho Đồng” tức Sa môn Nho Đồng (Mânava), sau này trở thành Phật Thích Ca. Kinh Thủ Lăng nghiêm (Suramgama) Q.5 có chép câu nói của Hư Không Tạng Bồ Tát với Phật Thích Ca rằng: “Thuở Phật Định Quang ra đời, trong Giáo hội của đức Phật ấy, Ngài và tôi đều được cái thân vô biên”. Kinh Phật thuyết Thái tử Thụy ứng kể lại một hôm, để có hoa cúng Phật Định Quang, Sa Môn Nho Đồng đã đến cô gái hái hoa mua hoa với một giá rất đắt. Cô giá lấy làm lạ hỏi tại sao, rồi tặng luôn cho Sa Môn hai cành hoa không lấy tiền, với nguyện ước được kết duyên cùng “chàng” trong mọi kiếp sau. Cô gái hái hoa ấy không ai khác hơn là Công chúa Da Du Đà La (Yasodharâ).

39. đại Thông Trí Thắng: tên một vị Phật ở phẩm Hoá thành trong Pháp hoa. Phẩm Hóa thành kể lại rằng Đại Thông Trí Thắng (Mahâbhidjnânabhibhu) nguyên là con của Chuyển Luân Thánh Vương (Tchakravartin). Ông sinh hạ được 16 người con trai, rồi rời bỏ cung đình đi tu và thành Phật, hiệu là Đại Thông Trí Thắng. Các con ông về sau cũng đều xuất gia và được hóa độ thành 16 Sa Di Bồ Tát (Sramanera Bodhisattva), trong số đó, có Phật A Di Đà (Amitabhâ) và Phật Thích Ca Mâu Ni.

40. Bần đạo: còn gọi là “pháp hoa” hay “bần giả”, ý nói người chịu thiếu, chịu nghèo, chẳng giữ của cải, chẳng có chi là của mình. Đây là tiếng khiêm xưng của Đạo Cao.

* Bài số 3

41. Các bản Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, Địa Chính đều không có đầu đề này; đây theo Bản TVQG và Bản TVKHXH.

42. Bên ngoài: ý nói việc dẫn những “Tam Hoàng Ngũ Đế, Tam đại Ngũ Bá, Cơ Đán Khổng Khâu…” đều là những thí dụ lấy từ bên ngoài đạo Phật.

43. Bên trong: đây chỉ học thuyết Phật.

44. Đoạn này trong bản chữ Hán hình như đã bị chép đảo lộn. Đúng ra phải là: “Nhược thư khế sở tồn, dị đại tề giải, thanh tích tịnh tư, ngôn tượng tương tế, vạn thế chi hậu, khả bất đại thánh nhi sư hĩ. Nhược nãi đại nghĩa ký quai…”. Chúng tôi đã dịch chữa lại.

45. Theo sách Hoài Nam Tử, sau khi vương thất nhà Chu đổ nát, vương đạo lu mờ, Nho gia (lấy Khổng Khâu làm thánh sư) và Mặc gia (lấy Mặc Địch làm thánh nữ) mới bắt đầu tách ra làm hai đương tranh luận bvới nhau, môn đồ chia ra làm hai phe công kích lẫn nhau.

46. Chính tín: lòng tin vào chính pháp, tức là giáo pháp chân chính của Phật.

47. Đại thánh: tiếng tôn xưng Phật.

48. Nê Viên (Nirvâna):còn dịch là Niết bàn, có nghĩa là ra khỏi (= nir) cảnh rừng (=vâna) mê tối, phiền não, để đi vào cõi bất sinh bất diệt, thế giới lý tưởng của nhà Phật.

49. Chó cỏ (sô cẩu): vào thời cổ, người ta dùng cỏ hoặc rơm bện thành hình con chó để cúng tế (Tang tử, Thiên vận).

50. Đế, Vương, Cơ, Khổng: tức Tam Hoàng Ngũ Đế, Tam đại Ngũ bá, Cơ Đán Khổng Khâu… mà Đạo Cao từng để cập trong bức thư trước.

51. Quyền, thực: tiếng nhà Phật. Phật mỗi khi thuyết pháp, đều có sự phân biệt giữa quyền và thực. “Quyền” là chỉ thích hợp với một nơi, một lúc nhất định nào đó. Còn “thực” thì không bao giờ thay đổi, nghĩa là đúng với mọi nơi mọi lúc. “Quyền” mang tính chân lý tương đối, “thực” màng tính chân lý tuyệt đối.

52. Hoá độ: giáo hóa và tế độ chúng sinh. “Hóa” là dùng việc thiện mà cảm hoá, đem điều lành mang giáo hóa. “Độ” là cứu độ, đưa chúng sinh từ “bến mê” tới “bờ giác”, đưa họ từ chỗ khổ não đến nơi an lạc.

53. Phật sự: công việc Phật. Đây chỉ những việc như dựng chùa, xây tháp, tạc tượng, in kinh, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, v.v…

54. Nhắc lại câu nói của Đạo Cao trong bức thư vừa rồi: “Chuyện họ Thích gióng trống pháp ở Lộc Viên (…). Nhưng nếu đã có thể thông suốt bên kia, thì tại sao lại vướng mắc đối với bên này”.

55. Khổng và Thích: Khổng Tử và Thích Ca, đây chỉ đạo Nho và đạo Phật.

* Bài số 4

56. Bản TVKHXH và bản TVQG đều chép đầu đề không có các chữ của “Đạo Cao”.

57. Chí lý: trong nguyên văn chữ Hán, “chí” viết là 致 . Có lẽ nhầm. Chúng tôi dịch chữa lại là “chí” 至 viết không có “bán văn”.

58. Muôn điều hành (vạn thiên): theo quan niệm nhà Phật thì “ý lành” “lời lành” và “việc lành” là ba nguồn gốc cơ bản tạo ra muôn việc lành, gọi là “vạn thiên”. Làm mọi điều lành là hành động tu luyện (hạnh tu) của các vị Bồ Tát (Bodhisattva: kẻ đã thành đạo, nhưng chưa vào cõi Phật, còn ở lại đời để cứu độ chúng sinh).

59. Thiền định: “Thiền” là dịch âm tiếng Phạn Dhyâna; “Định” là dịch ý tiếng Phạn Samâdhi. Thiền và Định đều có nghĩa là giữ mình trong trạng thái yên lặng, tâm thể tịch tĩnh để tư duy, đối với cảnh mà suyu xét về đạo lý.

60. Khảy ngón tay (đàn chỉ): tỏ ý mừng vui, tin tưởng. Phẩm Thần lực trong kinh Pháp hoa nói: “Trong lúc reo vui, mọi người đều cùng khảy ngón tay”. Kinh Quán Dilặc thượng sinh Đâu Suất Thiên có ghi rõ lời khuyên sau đây của Phật: “Này Ưu Ba Ly! Sau khi ta tịch diệt, trong hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di (…) nếu ai nghe danh hiệu đức Di lặc Bồ Tát Ma Ha Tát mà tỏ ra mừng vui, cung kính, lễ bái, thì người ấy sau khi mệnh chung, trong khoảnh khắc (…) liền được vãng sinh về cảnh trời Đâu Suất”.

61. Ở chỗ này, Bản Bắc Kinh chép là “nhĩ nhãn chi sở liễu = tai mắt đã tỏ rõ”, còn bản TVKHXH và bản TVQG đều chép là “Nhĩ nhãn sở cộng liễu = mắt thấy tai nghe cùng tỏ rõ”. Hai cách nói về cơ bản không có gì mâu thuẫn. Đây theo Bản TVKHXH và Bản TVQG.

62. Tuy: nguyên văn chữ Hán kỳ 其, vô nghĩa. Đúng ra phải là tuy 雖. Chúng tôi dịch chữa lại.

63. Câu này nguyên văn chữ Hán chép là “phi bản như hà”; chữ như 如 (đúng ra phải là nhi 而. Chúng tôi dịch chữa lại.

64. Theo Hán thư, Nghệ văn chí, sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông chia thành 9 phe nhóm, gọi là “chín dòng” (cửu lưu), gồm Nho gia, Đạo gia, âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia và Nông Gia, tranh luận công kích nhau không ngớt.

65. Câu này nguyên văn chữ Hán chép là “Kim bất đồng”. Có lẽ trước chữ “kim” còn có chữ “cổ” (xưa) đã chép sót. Chúng tôi dịch chữa lại.

66. Giấc mộng lớn (đại mộng): chữ dùng trong sách Trang Tử, thiên Tề vật luận. Đây ý nói kông hiểu gì về Đạo, sống trên đời mà cứ như mơ màng như trong cơn mơ vậy.

67. Chỗ này trong nguyên văn hình như đã chép thiếu hoặc thừa chữ. Trước”tắc” @ lẽ ra phải có một chữ “cảm” 則 nữa, và câu văn đầy đủ sẽ là “Phù vong thân đầu thành tất cả; cảm tắc câu kiến, bất cảm bất kiến”. Bản Đại chính cũng chép như vậy. Hoặc giả nguyên văn chép thừa chữ “tất” 必 . Nếu giả thiết này đúng, thì câu văn hoàn chỉnh sẽ là: “Phù vong thân đầu thành, cảm tắc câu kiến, bất cảm bất kiến”. Ở đây, chúng tôi đã dịch chữa lại theo giả thiết thứ nhất.

68. Câu này, bản chữ Hán chép là “hội bất tín kiến”. Chữ “kiến” đúng ra phải là chữ giã 也 ? (vậy), như thế mới có nghĩa. Chúng tôi dịch chữa lại.

69. Pháp âm: tiếng thuyết pháp của Phật hay Bồ Tát, nhằm dẫn đưa người tu hành tới chỗ giác ngộ.

70, 71. Đều chỉ Chu Công (Cơ Đán) và Khổng Tử (Khổng Khâu).

72. Thời gắt gút dây: Thời kỳ con người sống còn đơn giản, chưa phát minh ra chữ viết. Gặp việc cần ghi nhớ, họ chỉ biết lấy dây thắt gút lưu lại mà thôi. Việc lớn thắt gút lớn, việc nhỏ thắt gút nhỏ.

73. Chỗ này trong nguyên văn chữ Hán, Bản Bắc Kinh không có chữ nhĩ (thôi), trong khi các bản TVKHXH và TVQG đều chép có chữ nhĩ. Ở đây dịch theo 2 bản sau.

74. Tôn Quý: dịch thoát chữ “đại bảo”, chỉ cương vị Thứ sử của Lý Miễu.

75. Sắc bén: dịch thoát chữ “dĩnh thoát”, có nghĩa là “mũi dùi nhọn thoát ra ngoài”, ý nói người có tài, không sớm thì muộn cũng để lộ tài ra (Sử ký, Bình Nguyên Quân Ngu Khanh liệt truyện).

76. Nhả cơm vấn tóc (thổ bộ ác phát): Sử ký, Lỗ thế gia; chép lời Chu Công răn khuyên Bá Cầm: “Ta so với thiên hạ cũng không phải là thấp hèn gì, vậy mà ta cứ mỗi lần tắm, phải ba bận vấn tóc, mỗi bữa ăn, phải ba lần nhả cơm để tiếp kiến kẻ sĩ, nhưng vẫn còn lo để sổng mất người hiền tài trong thiên hạ”.

77. Chỉ bức thư Lý Miễu gửi Đạo Cao vừa rồi.

* Bài số 5

78. Các bản Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, Đại chính đều không có đầu đề này.

79. Đây là những ý mà Đạo Cao đã trình bày ở bức thư thứ 2 gửi Lý Miễu.

80. Nguyên văn là “tá thuyên hội chỉ = mượn nơm để hiểu ý”. Sách Trang tứ, Ngoại vật có dùng chữ “thuyên đề - nơm úp cá và bẫy bắt thỏ” với ý “nơm, bẫy” là công cụ dùng để úp cá và bắt thỏ, nhưng bản thân nó thì không phải là cá hoặc thỏ; cũng như lời nói là phương tiện để thuyết minh chân lý, nhưng bản thân nó thì lại không phải là chân lý. Ở đây dịch thoát là “mượn lời văn để lĩnh hội ý chí”.

81. Chỉ sự lễ bái Phật.

82. Diệu sắc (Surupa): đây chỉ là “báo thân” (cái thân do quả báo mà có) và “báo thổ” (tức “thực báo vô chướng ngại thổ”, một xứ sở của Phật do quả báo mà có). Đây là thể tướng thứ hai của Phật mang lấy xuống cõi trần, gánh chịu nỗi sướng hoặc khổ do nghiệp trước quy định.

83. Đại giác: tức Phật. Theo quan niệm nhà Phật, kẻ phàm phu thuộc dạng mê lầm chưa giác ngộ. La Hán, Duyên Giác và Bồ Tát thì tuy đắc đạo, song sự giác ngộ chưa đầy đủ. Chỉ có Phật là giác ngộ hoàn toàn, nên gọi là “Đại giác”. Trong số đắc đạo, La Hán và Duyên Giác chỉ có thể “Tự Giác = tự làm cho mình giác ngộ”, tự “độ” cho mình, mà chẳng “độ” được cho chúng sinh. Bồ Tát thì vừa tự giác, vừa giác tha, nhưng sự giác ngộ ấy chưa đầy đủ. Chỉ có Phật là tự giác và giác tha trọn vẹn mà thôi.

84. Tam, Ngũ: tức Tam Hoàng, Ngũ Đế.

85. Mười hiệu Phật: theo quan niệm nhà Phật thì Phật có 10 danh hiệu, đó: 1. Như Lai (Tathâgata), bậc an nhiên tự tại hoàn toàn, vì đã “đắc qủa Chân Như”; 2. Ứng Cung (Arhat), bậc đáng được người đời thờ cúng, vì đã “dứt hết phiền não”; 3. Chính Biến Trí (Samyaksamboudha), bậc thấu hiểu các “pháp”, có “chính trí” biết hết tất cả; 4. Minh Hạnh Túc (Vidyâcarasasampanna), bậc có đủ trí tuệ và đức hạnh; 5. Thiện thệ (Sugata), bậc đi trên đường “Bát chính” để đến thẳng cõi Niết Bàn; 6. Thế Gian Giải (Lokavid), bậc tinh thông mọi sự lý đối với các giống vô tình và hữu tình ở thế gian, 7. Vô thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu (Anuttara - Purusa - Damya - Sârathi), bậc cao hơn hết trong đám chúng sinh, giống như một “trượng phu” cầm cương ngựa đi vào đường lành; 8. Thiên Nhân Sư (Sâstâdêvamânusyânâm), bậc dẫn đường cho cả Người và Tiên; 9. Phật (Bouddha), bậc giác ngộ hoàn toàn; 10. Thế Tôn (Lokanâtha hoặc Bhagavat), bậc cao hơn hết trong mọi cõi thế và được cả chúng sinh tôn trọng.

86. Chỗ này, Lý Miễu trích dẫn chưa được đúng với nguyên văn của Đạo Cao trong bức thư số 4.

87. Bảy kinh (Thất kinh): bảy tác phẩm kinh điển của đạo Nho, gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu và sách Luận ngữ.

88. “Duyên” “báo”: “Duyên” là sự dính líu, tương quan giữa tâm thức con người và ngoại cảnh, một gạch nối giữa “năng duyên” (tâm thức) và “sở duyên” (cảnh giới”. “Báo” là sự đáp lại. Chẳng hạn, Phật quan niệm nếu biết kia đã làm điều lành, thì sau này sẽ có sự báo ứng sung sướng, thảnh thơi, còn nếu trước kia đã làm điều ác, thì sau này sẽ vướng lấy tai nạn, khổ sở.

89. Kinh: đây chỉ kinh Tịnh danh, vì câu trích dẫn tiếp sau là ở phẩm Phật quốc của kinh này.

90. Vỗ ngã, vô tạo, vô thụ: “Vô ngã” (Anataman), không công nhận có một cái “bản ngã”, “bản thể”, nhất định, một cái “tướng”, một cái “dụng” chủ tể. Như “vô nhân ngã, vô tư ngã, vô tha ngã” tức là đối với người, đối với mình, đối với mọi người mọi vật, không công nhận (chấp) có một cái thân thể thường tồn, nhất định. Đạo Phật cho rằng đây chỉ là những cơ thể do “ngũ uẩn” (sắc, thụ, thưởng, hành, thức) tạm thời hòa hợp lại mà thành. Còn đối với pháp, cũng không nhận (chấp) là có một cái thể thường tồn, nhất định. Đạo Phật cho rằng đấy chỉ là những mối nhân duyên kết hợp lại mà nên đấy thôi.

Trong “ngũ uẩn”, thì “thụ” có nghĩa là thụ cảm ngoại giới, thông qua các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; và có “hành” có nghĩa là tạo tác, hành động - sau khi đã nhận thức và suy nghĩ về ngoại cảnh, con người đi tới hành động, tạo tác ra các điều thiện hoặc ác. Nếu loại bỏ được những quá tình trên, cũng tức là “vô thụ”, “cô tạo” vậy.

91. Trong nguyên văn chữ Hán, chỗ này Bản Bắc Kinh chép là “thùy nạp lượng nghi” 垂 納 亮 疑 , còn Bản TVKHXH và Bản TVQG đều chép là “thùy nạp lượng khoản” 垂 納 亮 款 , nói chung đều tối nghĩa. Riêng Bản Đại Chính chép là”thùy nạp hào khoản” = rủ lòng chấp nhận chút lòng thành thực của tôi”, nghĩa có rõ hơn. Ở đây dịch theo Bản Đại Chính 垂 納 亮 款.

* Bài số 6

92. Bản TVKHXH và Bản TVQG chép đầy đủ đầu đề bức thư này là “Thư trả lời Ngài Lý Miễu làm quan ở Giao Châu” (Đáp Lý Giao Châu thư).

93. Người đầu bếp: nguyên văn chữ Hán là “Bào Sinh”, có lẽ chỉ Bào Đinh, tên một chuyên gia mổ trâu trong sách Trang tử, thiên Dưỡng sinh chủ.

94. Vụng lời: trong nguyên văn chữ Hán, Bản Đại Chính và Bản Bắc Kinh đều chép là “từ nạp” 辭 納 tối nghĩa. Ở đây dịch theo Bản TVKHXH và Bản TVQG, nguyên văn là “từ nột” 辭 訥 , lời nói vụng về.

95. Sự mầu nhiệm: chỉ các hiện tượng như “tỏa ánh sáng”, “chuyển rung mặt đất”…

96. Pháp thân: theo quan nuệm đạo Phật thì Phật có ba thể tướng: pháp thân, báo thân và hóa thân, trong đó “pháp thân” là thân thật của Phật. “Pháp thân” còn gọi là “tự tính thân”, nó có bốn đức: thường (= không thay đổi, không sinh không diệt), lạc = (vui, yên ổn, vì đã tịch diệt), ngã (= mình; “tự thật” về mặt thể và “tự tại về mặt dụng) tịnh (= trong sạch, vượt khỏi mọi sự nhơ bẩn). Nó không vướng vào bốn khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Nó khác với cái thân mà Phật mang lấy xuống cõi trần, gánh chịu nỗi sướng hoặc khổ do nghiệp trước quy định, tức là cái “báo thân”hay “sinh thân”. Nó cũng khác với cái thân mà Phật dùng phép thần thông biến hóa ra để cứu độ chúng sinh, tức là cái “hóa thân” hay “thần thông biến hóa thân”.

97. Ngưng đọng lặng yên (ngưng tịch): trong nguyên văn chữ Hán, Bản Bắc Kinh chép là “ngưng tuyệt” 凝 絕 , nghĩa không ăn nhập với văn cảnh. Đây theo Bản TVKHXH, Bản TVQG và Bản Đại Chính.

98. Diệu sắc: Đây chỉ “hóa thân” hay “thần thông biến hóa thân” của Phật, cái thân mà Phật dùng phép thần thông biến hóa ra để cứu độ chúng sinh.

99. Hành tàng: xuất hiện hoặc giấu kín tông tích.

100. Nguyên văn chữ Hán là “bạch hắc tị kiên = trắng đen sánh vai”, ở đây dịch thoát.

101, 102. Trong bức thư số 5.

103, 104. Trong bức thư số 3.

105. Nguyên văn chữ Hán là “Đương nhân bất nhượng ư sư”, câu của Khổng Tử ở sách Luận ngữ, Vệ Linh Công.

106. Quần sinh: Cũng như “chúng sinh”, chỉ giống hữu tình sống tụ tập với nhau.

107. Tam hữu: cũng gọi là “tam giới”. Đạo Phật cho rằng có ba cõi đời mà chúng sinh sẽ quay vòng sống chết trong đó, ấy là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

108. Chúng thức: sự tri giác, cảm nhận thế giới bên ngoài của con người nhờ các giác quan như mắt (nhãn thức), mũi (thính thức), tai (ty thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức), ý (ý thức), gọi chung là “sáu tri thức” (lục thức).

109. Lục trần: đạo Phật cho rằng có sáu cảnh bên ngoài làm ô nhiễm thân tâm vốn trong sáng của ta, đó là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, gọi chung là “lục trần” hay “lục tặc” (sáu tên kẻ cướp), vì cho là chúng luôn luôn rình chờ cơ hội để xâm nhập vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (lục căn) của ta, hòng cướp đi “công đức”, “thiện pháp” của ta.

110. Ba đường ác: gồm đường qủy đói (ngạ qủy đạo), đường Địa Ngục (Địa Ngục đạo), và đường súc sinh (súc sinh đạo).

111. Tám cảnh khó: gồm Địa Ngục, qủy đói, súc sinh, châu Uất Đan Việt (nơi con người quá sung sướng nên không tu học được), cảnh trời Trường Thọ (nơi con người không chịu động não suy nghĩ nên không tu học được, thế trí biện thông (cậy mình thông minh tài trí, kiêu căng, không lo tu học), sinh ra trước hoặc sau Phật (đạo Phật lúc này chưa có hoặc kém phát triển, do đó cũng khó tu học). Ở vào các hoàn cảnh như trên thì khó lòng tu hành kết quả.

112. Trăm nhà (bách gia): chỉ các học phái thời Xuân thu - Chiến quốc.

113. Hán Minh Đế (58-75): tức vua Minh Đế nhà Hán. Việc ông nằm mộng thấy “Thần nhân” có chép trong sách Lý hoặc luận, điều 21.

114. Cảm thánh: ý nói giác ngộ đạo Phật.

115. Đại pháp (Mahâdharma): pháp giáo lớn, sâu xa, huyền diệu của Đại thừa, có sức độ tất cả các hạng chúng sinh. Đây có nghĩa là giáo lý do Phật truyền bá.

116. Thu chéo áo: tỏ ý khép nép, kính cẩn.

117. Chín mươi sáu dòng: chỉ các học phái bị coi là “ngoại đạo” ở Ấn Độ.

118. Tống Vũ Hoàng Đế: tức Lưu Dụ, kẻ sáng lập ra nhà Tống thời Nam Bắc triều, làm vua từ năm 420 đến 422. Đây là cứ liệu cho thấy Sáu bức thư ra đời vào thế kỷ V.

119. Đạo nhân: đây có nghĩa là thầy tu.

120. Phật Duy Vệ (Vipasyia): tên vị Phật thứ 1 trong 7 vị Phật quá khứ.

121. Chỗ này, trong nguyên văn chữ Hán, Bản Bắc Kinh chép là “kim cư kỳ vị” 今 居 其 位 . Bản Đại Chính chép là "cư đắc kỳ vị" 居 得 期 位 . Đây theo Bản TVKHXH và Bản TVQG.

122. Nghiêm Công: tức Huệ Nghiêm. Cao tăng truyện có chép tiểu sử ông cùng chuyện Tống Vũ Đế nằm mộng thấy đạo nhân, và cho biết Huệ Nghiêm mất vào năm Nguyên Gia 20 (tức 443), thọ 81tuổi.

123. Thất Phật: kinh chép về bảy vị Phật kế tiếp nhau ra đời, gồm Tỳ Bà Thi (Vipasyin) cũng tức Phật Duy Vệ, Thi Khí (Cikhin), Tỳ Xá Phù (Visvabhu), Ca La Ca Tôn Đại (Krakucehanda), Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamouni), Ca Diếp (Kacyapa) và Thích Ca Mâu Ni (Cakyamuni).

124. Tôn Quyền: vua đầu của nước Ngô thời Tam quốc, làm vua từ 222 đến 251.

125. Xá lỵ (Sarêra): xương Phật còn lưu lại sau khi hỏa táng.

126. Về tháo độ của Tôn Quyền đối với đạo Phật, có thể tìm hiểu qua sự tích của Khang Tăng Hội chép trong sách Toàn Thượng cổ, Tam đại, Tần, Hán, Tam quốc, Lục triều văn, phần Toàn Tam quốc văn, Q.75: “Hội, nguyên người Thiên Trúc, thuở nhỏ theo cha đến Giao Chỉ (…). Đến cuối thời Hán vào nướcNgô, được chúa Ngô là Tôn Quyền cho làm chức Bác sĩ. Vào khoảng năm Xích Ô (238 - 250) đến ở chùa Kiến Sơ, dựng tháp xá lỵ. Trung Quốc có chùa tháp bắt đầu từ đó”.

127. Ngô Quận: lập từ thời Đông Hán, sau này gọi là Tô Châu.

128. Chỗ này, trong nguyên văn chữ Hán, Bản Bắc Kinh chép là “Ngô Quận hữu hậu Phật = Ngô Quận có hậu Phật”, chữ “hậu” 后 là do chữ “thạch” 石? viết nhầm mà thành. Bản TVKHXH và Bản TVQG đều chép là “thạch”.

129. Đây chỉ các nhà sư.

130. Trướng điều: nguyên văn chữ Hán là “chu trương” 朱 張 , chữ “trương” phải đọc là “trướng 帳 . “Chu trướng” là trướng điều.

131. Chu Trương: có lẽ là Chu Ứng, một cư sĩ người Ngô Huyện bất lâu vẫn thờ Phật, đã cùng một số người nhắc được tượng Phật bằng đá lên khỏi mặt nước mà Cao tăng truyện đã thuật lại (xem Cao tăng truyện của Huệ Đạo, Q.13, phần chép về Thích Huệ Đạt).

132. Quách Văn Cử: tức Quách Văn, tự Văn Cử, người đất Chỉ, đời Tấn. Theo Tấn thư Q.94, Quách Văn Cử từ nhỏ rất thích cảnh thiên nhiên, sau khi cha mẹ mất, đã vào ở ẩn trong núi Đại Địch tại Dư Hàng. Một hôm có con hổ tới há miệng hướng về phía Vân Cử. Văn Cử nhìn vào họng con thú, thấy có cái xương nằm ngang, bèn thò tay vào móc xương ra ngoài. Sáng hôm say, con hổ tha một con hươu tới đặt trước nhà Văn Cử để tạ ơn. Vương Đạo nghe tiếng, mời Văn Cử về ở luôn trong nhà mình. Suốt bảy năm, Văn Cử không ra khỏi cửa. Nhưng bỗng một ngày, Văn Cử từ việt Vương để đi, vào dựng một túp nhà tranh trong hang cùng, tại Lâm An. Ít lâu sau, Tô Tuấn nổi lên chống lại nhà Tấn phá trụi đất Dư Hàng, riêng Lâm An còn nguyên, ai cũng bảo Văn Cử thấy trước được sự việc.

133. Tam bảo: ba ngôi báu (triratna), gồm “Phật”, “Pháp” (lý pháp và giáo pháp mà Phật giảng giải) và “Tăng” (những người xuất gia tu học giáo pháp của Phật).

134. Lan Công: tức Vu Pháp Lan. Theo Minh tường ký của Vương Diệm và Cao tăng truyện của Huệ Hạo thì Lan người Cao Dương sống vào thời Tấn Huệ Đế (265 - 306), xuất gia từ lúc 15 tuổi, tính ưa hang dộng, từng dựng chùa trong núi sâu. Vào một đêm đông tuyết rơi đầy trời, ông đang ngồi “định” thì có một con hổ đen vào nhà, đến ngồi trước giường ông. Ông lấy tay xoa đầu hổ, hổ vểnh tai nằm rạp xuống. Đến sáng hôm sau trời quang tuyết tạnh, hổ lại ra đi.

135. Hộ Công: tức Trúc Pháp Hộ, người Đôn Hoàng. Theo Cao tăng và Xuất tam tạng ký thì đến cuối đời Tấn Vũ Đế (265 - 289), Hộ vào sống ẩn giữa rừng sâu, thường đến một con suối cạnh nhà để tắm giặt. Sau vì có người hái củi tới phóng uế bên bờ suối, con suối bỗng khô cạn đi. Hộ bèn tham rằng: người đâu mà thất đức, đến nỗi con suối hết chảy; nếu nước cứ khô mãi, ta đây biết lấy chi mà dùng, thật đến lúc phải dời chỗ ở đi thôi !

Sau mấy câu than thở đó, con suối bỗng nhiên lại tuôn nước tràn trề, Hộ nhờ vậy không phải dời nhà đi nơi khác.

TB

BỘ BA VÁN KHẮC CỔ CHÂU LỤC,
CỔ CHÂU HẠNH, CỔ CHÂU NGHI
VÀ VĂN HIẾN HÁN NÔM CHÙA DÂU

NGUYỄN QUANG HỒNG

Vào khoảng cuối năm 1986, do nhu cầu thu thập tư liệu để chuẩn bị biên soạn một bộ Tự điển chữ Nôm, tôi có tiếp xúc với một tác phẩm Hán Nôm, tên đề là Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục. Bản sách này chứa trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang kí hiệu A.818, do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (FEEO) ở Hà Nội trước đây đãlưu trữ lại được. Sau đó ít lâu, cùng với các bạn đồng nghiệp, tôi có dịp trở về thăm chùa Dâu ở Thuận Thành, Hà Bắc. Được nhà sư trụ trì chùa và cán bộ địa phương giúp đỡ, chúng tôi đã thực hiện việc điều tra, thu thập các tư liệu chữ Hán chữ Nôm ở chùa Dâu, một ngôi chùa nổi tiếng là cổ kính ở vùng Kinh Bắc. Bấy giờ, ở gian chái bên phải nhà Tổ của chùa là một kho chứa đủ các thứ gia cụ và nông cụ linh tinh như nong nia thúng mủng, cào cuốc, gầu tát nước v.v… Và tình cờ chúng tôi nhìn thấy trong đó có để lẫn lộn xô bồ nhiều tấm ván nhỏ có khắc chữ Hán chữ Nôm. Điều hết sức thú vị là trong số hơn một trăm tấm ván khắc tác phẩm Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục, còn lại trọn bộ từ đầu chí cuối. Càng thêm hào hứng, khi chúng tôi phát hiện ra trong đống đồ đạc, phủ đầy bụi thời gian kia hai bộ ván khác nữa có liên quan với tác phẩm nói trên. Đó là ván khắc một tác phẩm văn vần chữ Nôm gọi là Cổ Châu Phật bản hạnh và một tác phẩm khác bằng Hán văn gọi là Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi. Mà bản in của hai tác phẩm này, như chúng tôi biết, chưa hề được Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp trước kia lưu trữ lại, và cho đến nay vẫn chưa có mặt trong văn khố Viện Nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội(1).

Mối liên hệ chặt chẽ giữa ba bộ ván khắc này trước hết là ở nội dung mà các tác phẩm đề cập đến. Nếu như Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục và Cổ Châu Phật bản hạnh đều thiên về kể lại sự tích bà A Man cùng các vị Phật thuộc hệ Tứ Pháp và tán dương công đức của họ đối với dân với nước, thì Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi là những bài văn cúng tỏ lòng tưởng nhớ của hậu thế đối với chư Phật và cầu mong được chư Phật thiêng liêng muôn đời phù hộ. Mặc dù nội dung hai tác phẩm trên cơ bản là như nhau, song Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh ngữ lục là văn bản cổ từ xưa truyền lại, được khắc in nguyên văn chữ Hán, kèm theo lời diễn ra chữ Nôm, tất cả đều bằng văn xuôi. Còn Cổ Châu Phật bản hạnh thì hoàn toàn là văn vần chữ Nôm theo thể lục bát vốn rất dễ phổ biến trong dân gian. Trong khi đó, với nội dung cúng tế và cầu nguyện, hướng về các vị Phật tổ thiêng liêng của bản chùa, Hiến Cổ Châi Phật tổ ngh i lại dùng toàn văn ngôn chữ Hán để giữ vẻ nghiêm trang thần bí, là một điều hoàn toàn thích hợp. Xem ra, giữa ba tác phẩm này từ nội dung và mục đích (chức năng) đến hình thức ngôn ngữ và văn tự dù có chỗ tương đồng hay khác biệt, song tất cả dường như đều nhằm hỗ trợ và bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống hợp lý và hoàn chỉnh, tiêu biểu cho văn hiến Hán Nôm của chùa Dâu cổ kính.

Cũng rất đáng được chú ý đến ở đây là, cả ba tác phẩm đều lần lượt được trình các nhà sư trụ trì chùa Dâu, vào những thời kỳ khác nhau, đứng ra tổ chức san khắc ngay tại bản chùa. Và, cũng không phải là tình cờ mà cả ba tác phẩm này đã được những người san khắc đặt tên gọi tắt cho từng tác phẩm một cách nhất quán như nhau: Cổ châu lục (đối với Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục), CỔ CHÂU HẠNH (đối với Cổ Châu Phật bản hạnh và CỔ CHÂU NGHI (cho Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi). Ở mỗi tác phẩm, những tên gọi tắt này được khắc vào chính giữa mỗi tấm ván, nơi giáp lai giữa hai trang in. Dưới đây chúng ta sẽ không ngần ngại sử dụng triệt để các tên gọi tắt một cách nhất quán và tiện lợi đó theo truyền thống của bản chùa.

Toàn bộ văn bản Cổ châu lục được san khắc trên 21 tấm ván có kích thước 30x22cm. Mỗi tấm in ra giấy, gấp đôi lại (để đóng thành sách theo lối cổ truyền) sẽ thành một tờ hai trang với khổ 15x22cm. Trên mỗi trang đều chia thành 6 cột để khắc chữ. Cứ một câu (hoặc một cú đoạn nguyên văn chữ Hán thì một câu tiếp theo diễn ra chữ Nôm. Phần diễn Nôm (và đôi khi xen lời chú giải bằng chữ Hán) khắc chữ cỡ nhỏ bằng phân nửa chữ Hán nguyên văn. Lối “dịch đuổi” từ Hán sang Nôm và cách trình bày trên ván khắc như vậy vẫn thường thấy ở một số tác phẩm Hán Nôm khác từ thời Lê Trịnh, như bộ sách 4 quyển Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (nguyên tác Hán văn của Nguyễn Dữ, do Nguyễn Thế Nghi diễn Nôm) chẳng hạn. Ván khắc Cổ châu lục có vài chỗ bị mòn mờ, nhưng nhìn chung là còn khá tốt, chữ rõ ràng, dễ đọc. Người viết chữ để khắc là Hải Tịch (có lẽ là pháp danh của một nhà sư hoặc một môn đồ của bản chùa). Việc san khắc ván in do nhà sư Tính Mộ (1706 - 1755) trụ trì chùa Dâu lúc bấy giờ đứng ra trông coi, với sự đóng góp và trợ giúp của các môn đồ như Hải Mật, Hải Lệ, Hải Tố, Hải Nhiệm, Hải Bạch, Hải Ích, Hải Thản, Hải Ứng, Hải Dị. Công việc san khắc hoàn thành vào mùa Thu năm thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng (1752) triều Lê. Tất cả những thông tin này đều được khắc ghi ở những dòng cuối cùng của bộ ván khắc.

Nguyên văn chữ Hán tác phẩm Cổ châu lục dài ngót 2100 chữ. Những người san khắc ghi rõ đây là cổ bản, nghĩa là một văn bản từ xưa truyền lại. Ngay từ phần mở đầu, soạn giả (không rõ là ai) có cho biết câu chuyện được kể lại đây (về sự tích bà Man Nương thành Phật trên đất Cổ Châu) là dựa theo sách Báo cực truyện. Có thể Báo cực truyện là một bộ sách ở Trung Hoa, ghi chép các truyện thần nhân tiên phật, nhưng nay đã thất truyền. Ta biết rằng trong Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên (đầu thế kỷ XIV, đời nhà Trần, cũng có dẫn sách Báo cực truyện. Tuy nhiên, trong số 28 truyện do Lý Tế Xuyên soạn không thấy có chuyện bà Man Nương. Điều đáng lưu ý là ở phần cuối Cổ châu lục có nhắc đến và dẫn lời của Lý Tế Xuyên, chứng tỏ tác phẩm Cổ châu lục đã được soạn ra từ sau thời đó, và có thể soạn giả là người đã từng quen thuộc với sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên. Sau Việt điện u linh tập không lâu (khoảng cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV) xuất hiện sách Lĩnh Nam chích quái, trong đó có chép chuyện Phật bà Man Nương. Không rõ là soạn giả Cổ châu lục đã biết đến sách này chưa. Còn có thêm một căn cứ nữa để đoán định niên đại tác phẩm Hán văn Cổ châu lục là như sau: trong nguyên văn, sau phần kể sự tích bà Man Nương từ khi gặp thầy Khâu Đà La cho đến khi hóa thành Phật và sự hình thành nên hệ thống chùa Tứ Pháp ở Giao Châu, là phần ghi lại sự cảm ứng linh thiêng của phật Pháp Vân chùa Dâu qua các lần cầu đảo (theo thứ tự thời gian triều đại) mà đích thân nhà vua hoặc hoàng hậu và các quan trong triều cử hành. Lần cầu mưa đầu tiên được ghi lại là vào thời Lý Nhân Tông, năm nhà vua mới lên ngôi (1072), và lần cầu đảo cuối cùng được ghi vào nguyên bản Cổ châu lục là vào năm Đại Khánh 9 (tức năm 1322), dưới thời vua Trần Minh Tông. Nếu văn bản này soạn ra khá muộn về sau này, thì những sự kiện cầu đảo linh ứng tương tự như vậy diễn ra vào những triều vua nhà Trần hoặc nhà Lê sau đó, ắt cũng phải được ghi chép đây. Thế nhưng, trong nguyên bản Cổ châu lục không thấy biên chép gì nữa sau thời nhà vua Trần Minh Tông (1314 - 1329). Mãi cho đến năm Lê Cảnh Hưng 13 (tức năm 1752), khi nhà sư Tính Mộ cho khắc ván in lại nguyên bản Cổ châu lục (kèm diễn Nôm), thì nhà sư mới cho soạn thêm hơn 100 chữ Hán nữa, phụ khắc vào cuối với tiêu đề Khánh Kim để “phản ánh kịp thời” những sự kiện cầu đảo linh nghiệm ở bản chùa vừa diễn ra không lâu dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Ta lại biết rằng (theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn): Lý Tế Xuyên soạn Việt điện u linh tập vào năm đầu niên hiệu Khai Hựu (tức năm 1329) thuộc triều vua Trần Hiến Tông (1329 - 1341) kế tiếp sau vua Trần Minh Tông nói ở trên. Như vậy, có nhiều lý do để đoán định rằng, phần Cổ bản Hán văn trong Cổ châu lục đã được soạn ra không lâu sau cuốn sách Việt điện u linh tập và soạn giả có chịu ảnh hưởng từ cuốn sách nổi tiếng đó của Lý Tế Xuyên. Đó có thể là vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIV (cuối nhà Trần), hoặc muộn lắm là đầu thế kỷ XV (đầu nhà Lê).

Phần diễn dịch ra chữ Nôm trong bộ ván khắc Cổ châu lục tất cả gồm có 2360 chữ. Người thực hiện công việc diễn Nôm này là Viên Thái, có lẽ cũng là một nhà sư, mà hiện giờ chúng tôi chưa biết được đích xác lai lịch của ông (hay bà?). Cũng vậy, chưa có gì chắc chắn để xác định niên đại, khi Viên Thái thực hiện công việc diễn dịch từ Hán sang Nôm này. Xem xét sơ qua cách viết chữ Nôm trong bản khắc in, thì thấy ở đây có cả chữ giả tá ghi âm thuần túy, lẫn chữ hình thanh nửa ghi âm nửa ghi ý, song nhìn chung, chữ giả tá thuần âm vẫn chiếm ưu thế. Có không ít những chữ, mà các văn bản có niên đại muộn, vào cuối nhà Lê chẳng hạn, đã hầu như chuyển hẳn sang lối viết hình thanh, thì ở đây vẫn thấy viết khá nhất quán theo lối giả tá ghi âm đơn thuần (như BA chỉ viết đơn giản là Ba @, NGƯỜI chỉ viết là Ngại @, TÊN viết là Tiên @, NAY viết là Ni @, CON viết là Côn @ v.v…). Đáng lưu ý hơn là trong lời văn diễn Nôm của Cổ châu lục có khá nhiều những từ ngữ và cách diễn đạt cổ (như: Mày trong phép tao, Hay chưng thầy thửa ở, Tu Định xấu đấy, Thực thời lỗi ấy chưng ai, Đã mà cây lại hợp, Chẳng chẳng ngửa kính, Mặc trả oan gia đứa Khâm Ung, Bốn chùa mặc yên đặt đấy, Phới phới vậy cả mưa, Lánh chưng chăng khả… và những tiếng cổ như: cóc: biết, óc: gọi, ghín: gìn, hợp: nên, áng: đám, thốt: nói, tra: tìm, dức (thức): vang, vóc dáng: thân hình, la - đá: đá v.v…). Tình hình viết chữ và dùng chữ như thế là khá phổ biến trong văn xuôi diễn Nôm ở thế kỷ XVI và XVII, như có thể thấy trong phần Tăng bổ giải âm (của Nguyễn Thế Nghi, từng làm quan dưới triều Mạc) cho bộ Truyền Kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Riêng một từ LA - ĐÁ, ngoài các văn bản chữ Nôm từ thế kỷ XVII về trước, còn thấy ghi lại trong sách Hoa Di dịch ngữ biên soạn ở Trung Hoa vào thời nhà Minh (1368 - 1638), và cả trong Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes (xuất bản năm 1651). Sang thế kỷ XVIII, trong bộ từ điển Việt - La (Dictionarium Annamitico Latinum) viết tay xong (xong năm 1773) của Pigneau de Béhaime đã không có mặt từ song tiết LA - ĐÁ mà chỉ còn là đơn tiết ĐÁ. Lại nói, bản sáchin sớm nhất còn lại hiện nay của bộ Tân biên Truyền kỳ mạn lục Tăng bổ giải âm tập chú là từ bộ ván san khắc vào năm Cảnh Hưng 24 (1763), chừng mười năm sau bộ ván CỔ CHÂU LỤC. Xem ra, diễn Nôm theo kiểu “dịch đuổi” từng câu đối với nguyên tác văn xuôi chữ Hán có thể là phong khí một thời (vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII) trong bước đầu hình thành nền văn học chữ Nôm ở nước ta, và chính trong tâm thế chung đó, đã có sự góp mặt khiêm tốn của phần diễn Nôm trong Cổ châu lục do Viên Thái thực hiện.

Hoàn toàn có thể khẳng định được rằng cũng chính nhà sư Tính Mộ cùng với các môn đồ kể trên là những người đứng ra san khắc tác phẩm tiếp theo: CỔ CHÂU HẠNH. Kích cỡ các tấm ván, cùng hình thức trình bày đến cách chia cột, khắc chữ ở bộ ván in này là giống hệt như bộ ván khắc CỔ CHÂU LỤC. Đã thế, giòng chữ ghi năm tháng hoàn tất việc san khắc bộ ván này cũng giống hệt như ở bộ ván CỔ CHÂU LỤC, đều là Cảnh Hưng thập tam niên chi Nhâm Thân (tức năm 1752), chỉ khác là bộ Cổ châu lục khắc xong vào”một ngày lành mùa Thu”, còn bộ CỔ CHÂU HẠNH thì khắc xong vào “giờ lành tiết Nhất Dương” (tức là khoảng tháng Mười Một ta). Như vậy, hai bộ ván được san khắc xong chỉ chênh nhau trước sau vài ba tháng mà thôi. Bởi vậy, mặc dầu ở cuối bộ ván CỔ CHÂU HẠNH không ghi rõ, chúng ta vẫn đoán nhận ra rằng việc san khắc hai tác phẩm CỔ CHÂU HẠNH và Cổ châu lục đã được nhà sư Tính Mộ đặt ra cùng một lúc và thực hiện công việc này gần như đồng thời với nhau.

Như đã từng nói ở trên, cũng kể về sự tích và truyền tụng công đức Phật mẫu A Man cùng chư vị phật Tứ Pháp, song khác với Cổ châu lục là văn xuôi (Hán văn kèm diễn Nôm), CỔ CHÂU HẠNH là một tác phẩm văn vần lục bát bằng chữ Nôm. Toàn bộ CỔ CHÂU HẠNH gồm 246 cặp lục bát (ngót 3450 chữ), cũng được khắc trên 21 tấm ván, mỗi tấm sẽ cho 2 trang in khổ 15x22cm, mỗi trang chia thành 6 cột, mỗi cột khắc một cặp lục bát chữ Nôm cỡ to. Về cách viết chữ Nôm, có thể bắt gặp một vài sai biệt nhỏ ở một số chữ cụ thể so với chữ Nôm trong ván khắc CỔ CHÂU LỤC, song nhìn chung là khá thống nhất giữa hai bộ ván khắc này. Khi kể về sự tích bà Man Nương cùng sự hình thành nên hệ chùa Tứ Pháp, hầu hết các chi tiết trong CỔ CHÂU HẠNH là trùng hợp với CỔ CHÂU LỤC. Có khác chăng là ở CỔ CHÂU HẠNH, sự việc đôi khi được kể lại tỉ mỉ hơn (và do đó, có thể là dài dòng hơn). Nhất là quang cảnh lễ hội chùa Dâu đã được tác giả dựng lại khá sinh động với đầy đủ âm thanh, màu sắc và không khí rộn ràng náo nức của dân chúng. Rõ ràng là cảm hứng văn hoá dân gian của tác giả đã được thể hiện một cách thích đáng.

Rất tiếc là chúng ta không biết rõ tác giả CỔ CHÂU HẠNH là ai. Có thể là đã từng có ai dựa vào nội dung Cổ châu lục để diễn Nôm thành văn vần lục bát cho dễ phổ biến, dễ thuộc. Sau rồi qua truyền miệng dân gian, người ta không còn nhớ (và cũng không cần nhớ) tác giả đầu tiên của nó là ai nữa. Đó là số phận và đời sống chung của tác phẩm dân gian, mà các bài văn vần kể hạnh ở các nhà chùa như bài CỔ CHÂU HẠNH này chẳng qua cũng là cùng chung cảnh ngộ. Bởi vậy mà khi khắc ván tác phẩm này, người ta đã để trống mà không ghi tên tác giả. Trong khi đó, ở bộ ván CỔ CHÂU LỤC, tác giả phần diễn Nôm đã được ghi rõ là Viên Thái. Phải chăng có thể đặt một dấu ngang bằng hay dấu nối giữa Viên Thái và tác giả CỔ CHÂU HẠNH? Không loại trừ một giả thuyết như vậy, song chứng minh nó là điều không dễ gì thực hiện được.

Có một vài chi tiết từ trong bản thân văn bản CỔ CHÂU HẠNH giúp ta căn cứ để đoán định niên đại ra đời của nó. Trước hết, đó là niên hiệu Hồng Đức (từ 1470 đến 1497) dưới triều vua Lê Thánh Tông được nhắc đến vào đoạn cuối tác phẩm với quang cảnh lễ hội chùa Dâu tưng bừng náo nhiệt. Sau đó là hết, không còn nhắc đến một triều đại nào tiếp theo nữa. Và đó cũng là chi tiết mới thêm vào so với nguyên văn CỔ CHÂU LỤC. Thứ nữa, để gọi tên nước Trung Hoa thời cổ xưa (thời nhà Hán, nhà Tùy v.v…), tác giả vẫn quen gọi là Đại Minh, theo cách gọi tên nước thời nhà Minh (1368 - 1644). Chỉ có người đương thời mới quen gọi tên nước như vậy. Từ đó suy ra, tác phẩm văn vần CỔ CHÂU HẠNH không thể ra đời muộn hơn năm 1644 (từ đó về sau không được gọi tên nước là Đại Minh nữa), và đương nhiên cũng không thể hình thành sớm hơn năm 1470 (trước đó chưa có niên hiệu Hồng Đức). Tuy nhiên, giới hạn thời gian đó vẫn còn quá rộng, nhất là đối với cái mốc khổi đầu. Có lẽ CỔ CHÂU HẠNH ít có khả năng xuất hiện trước phần diễn Nôm văn xuôi trong CỔ CHÂU LỤC, mà khả năng nhiều nhất là đồng thời hoặc sau một chút, tức là cũng vào khoảng từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII.

CỔ CHÂU NGHI, như tên gọi của nó (Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi ) đã chỉ rõ, là một tập hợp có hệ thống các bài văn tụng niệm khi cúng dâng hương hoa trước anh linh các vị Phật tổ chùa Dâu và cả các vị Phật thuộc hệ Tứ Pháp. Ở đây, trong các bài văn cúng lần lượt có nhắc đến tất cả các “nhân vật” chủ yếu đã xuất hiện trong Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH: Phật mẫu A Man, chư vị Tứ pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, cùng Thạch Quang Phật. Rồi đến thầy Khâu Đà La, ông bà Tu Định, và cả sĩ Vương. Các vị Phật tổ bản chùa, ngoài Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (? - 594), Thiền sư Pháp Hiền (? - 626) còn có Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087).

Toàn văn CỔ CHÂU NGHI, gồm hơn 1500 chữ Hán, khắc trên 13 tấm ván khổ 30x20cm, in lên giấy gấp đôi lại sẽ có trang in khổ 15x20cách mạng. Mỗi trang chia làm 5 cột, khắc chữ khá to và đẹp. Trong số 13 tấm ván khắc, có hai tấm là tấm thứ 5 và tấm thứ 12 có lẽ bị thất lạc hoặc hỏng nát, và không rõ từ bao giờ, người ta đã khắc bù lại vào mặt sau của những tấm ván còn lại, với nét chữ khô cứng và xấu hơn. Với hai mặt ván khắc bù này, tác phẩm CỔ CHÂU HẠNH coi như vẫn còn đầy đủ. Căn cứ vào những giòng chữ khắc ngay ở tấm ván đầu tiên, bên dưới tên tác phẩm, có thể nhận biết được rằng CỔ CHÂU NGHI vốn cũng là những văn bản chữ Hán đã được soạn ra từ xưa, nhưng không rõ là từ tác giả thời nào. Cho đến thế kỷ XVIII thì được nhà sư Thích Quảng Điều, ẩn tăng ở Viện Thiền Phong trên Tử Sầm (Sơn Tây) “dựa theo khoa nghi cũ mà sửa chép lại”. Nhà sư Thích Quảng Điều (còn gọi là Tính Quảng Thích Điều Điều) vốn là một người hay chữ, từng soạn nhiều bài văn bia, như Liên Phương tháp ký Tịnh Hạnh tháp ký tịnh minh đều dựng ở chùa Quang Khánh xã Dương Mông (Kim Thành, Hải Hưng) năm 1757. Như vậy, nhà sư Thích Quảng Điều cũng là người đương thời với nhà sư Tính Mộ ở chùa Dâu hồi ấy. Đúng 40 năm sau khi Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH được khắc in, thì nhà sư Chiếu Tuyên (1754 - 1801) kế tục công đức của nhà sư Tính Mộ, đã dựa vào văn bản do nhà sư Thích Quảng Điều “sửa chép” (tức là biên tập) lại đó, đem cho san khắc thành ván in. Một người họ Nguyễn ở xã Kiêu Kỵ viết chữ Hán, và hiệp thợ Hồng Lục khắc chữ. Công việc san khắc CỔ CHÂU NGHIhoàn tất vào cuối mùa hè năm Nhâm Tý, niên hiệu Quang Trung 5 (tức năm 1792), dưới triều Tây Sơn Nguyễn Huệ.

Nơi đến công đức của sư Tính Mộ và sư Chiếu Tuyên, có lẽ cũng cần phải nhắc dến ít nhất là một bài văn khắc trên bia và một bài văn khắc trên chuông nữa ở chùa Dâu.

Hơn 15 năm trước khi chủ trì việc san khắc Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH, nhà sư Tính Mộ đã đứng ra trông coi việc trùng tu lại tháp Hòa Phong, một kiến trúc cổ kính và nổi tiếng ở chùa Dâu. Khởi công tu tạo từ mùa Thu năm Đinh Tỵ (1737), và mùa Hạ năm sau (1738) thì hoàn thành. Việc này đã được ghi lại trong bài Hòa Phong tháp bi ký do một vị họ Nguyễn, cựu nhậm Tri huyện Thượng Nguyên soạn, khắc vào bia đá dựng ở chân tháp Hòa Phong, vào đúng năm ấy.

Hơn 55 năm sau, chùa Dâu tổ chức đúc một quả chuông to. Công việc này đến lượt do nhà sư Chiếu Tuyên trông coi. Điều thú vị là, sau khi chuông đúc xong, để ghi lại sự kiện đầy ý nghĩa ở chốn cửa Phật này, cũng chính nhà sư Chiếu Tuyên, mặc dù tự khiêm rằng đã không ngần ngại tự tay thảo nên bài minh tuyệt hảo, và đem khắc lên chuông với tên đề là Cổ Châu Diên Ứng đại thiền tự tạo chú đại pháp chung. Đó là vào một ngày đầu tháng Chạp năm Quý Sửu, năm đầu tiên thuộc triều đại vua Cảnh Thịnh (1793) nhà Tây Sơn. Ta còn nhớ rằng, mới chỉ hơn một năm trước đó, nhà sư Chiếu Tuyên vừa cho san khắc xong bộ ván CỔ CHÂU NGHI(2).

Hệ thống các chùa Tứ Pháp hình thành trước tiên ở miền Cổ Châu xưa, thuộc huyện Thuận Thành (Hà Bắc) ngày nay. Song dần dần về sau, nhiều nơi khác ở châu thổ sông Hồng, và có thể còn lan xa hơn nữa, cũng hình thành nên các quần thể chùa chiền thuộc hệ Tứ Pháp. Ở những nơi đó, chúng ta có thể tìm thấy những tác phẩm chữ Hán chữ Nôm nói về sự tích Phật mẫu A Man cùng chư vị phật Tứ Pháp. Chẳng hạn, tôi đã có dịp về thăm chùa Thành Đạo (tục gọi chùa Đậu) thuộc huyên Thường Tín (Hà Tây). Đó là một ngôi chùa nổi tiếng ở phía Nam Hà Nội, thuộc hệ Tứ Pháp, phụng thờ phật Pháp Vũ (em phật Pháp Vân). Ở đây tôi được tiếp xúc với một bản Thánh tích thực lục được khắc lên những tấm đồng mỏng, và xâu ghép lại thành tập sách đồng, được giữ gìn cẩn thận tại bản chùa. Đó là một tác phẩm Hán văn, nội dung về cơ bản giống như Cổ châu lục ở chùa Dâu. Có thể là khi soạn Thánh tích thực lục cho chùa Đậu, soạn giả (khuyết danh) đã dựa hẳn vào phần Cổ bản trong CỔ CHÂU LỤC, thậm chí nhiều đoạn, nhiều câu là sao y nguyên văn. Có khác chăng là ở Thánh tích thực lục của chùa Đậu đã lược bỏ đôi chỗ ít liên quan với phật Pháp Vũ, trước hết là những đoạn ghi lại các cuộc cầu đảo linh ứng ở chùa Dâu. Đồng thời cũng có thêm thắt chút ít, như đưa vào chi tiết Quách Thông (Quách Qùy nhà Tống?) xin đất để dựng chùa Thành Đạo, cùng vài bài thơ ngự đề, có thể là thơ đề vịnh của các chúa Trịnh. Tại văn khố Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có lưu trữ một bản sao (từ đầu thế kỷ này, với nét bút lông rất cẩn thận) nguyên văn bản sách đồng Thánh tích thực lục nói trên (ký hiệu: A.1067).

Cũng tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có thể tìm thấy tập sách khác nhan đề là Cổ Châu Tứ Pháp phả lục (ký hiệu: A.2051). Tập sách này in từ một bộ ván khắc vào năm Khải Định Kỷ Mùi (1919), gồm 20 trang, cỡ nhỏ. Trong đó, sau Tiểu dẫn, có bài văn xuôi chữ Hán gọi là Tứ Pháp ngọc phả do Trần Đăng Thái dựa vào một bản Tứ Pháp cựu truyện nào đó ở xã Khúc Toại mà biên soạn ra. Bản ngọc phả này dài không quá 1000 chữ, kể vắn tắt về sự tích phật A Man cùng chư vị phật Tứ Pháp. Tiếp theo lại có cả bản diễn Nôm thành văn vần lục bát gồm 126 dòng (63 cặp), do Đỗ Huy Liêu soạn (gọi là Tứ Pháp ngọc phả quốc âm). Ở đây, cả trong văn xuôi “thực lục” lẫn trong văn vần “quốc âm”, nội dung câu chuyện vốn đã khá vắn tắt, mà ở một số chi tiết cũng có ít nhiều dị biệt so với Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH. Chẳng hạn, trong các văn bản ở chùa Dâu thì Man Nương bỗng dưng có mang và 14 tháng sau sinh ra một bé gái, còn trong Cổ Châu Tứ pháp phả lụ c do Trần Đăng Thái và Đỗ Huy Liên soạn thì Man Nương mang thai 10 tháng và sinh ra hòn đá (!). Chỗ giống nhau là sau đó nàng mang con (hoặc là bé gái, hoặc là hòn đá) vào rừng trao cho thầy Khâu Đà La, để thầy dùng phép lạ giấu nó vào trong thân một cây đa to, nhờ vậy mà giải được nỗi lo “khôn che tiếng tục, khôn cầm tiếng oan”. Xem ra, chuyện kể như trong Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH ở chùa Dâu có phần tự nhiên và hợp lý hơn, bởi vì một khi đã sinh ra hòn đá, thì có muốn giấu hòn đá đi cũng chỉ là việc đơn giản, hà tất phải mang vào rừng nhờ phép lạ của vị cao tăng kia mới thực hiện được. Ở Cổ châu lục và CỔ CHÂU HẠNH còn kể thêm rằng, bé gái được thu nạp vào lòng cây đa, trải nhiều năm, đã hóa thành đá trong đó, và sau này trở thành Bụt Đá (Thạch Quang Phật). Chuyện có vẻ thần kỳ, song cũng là hợp lý này, đã không được phản ánh trong sách Cổ Châu Tứ Pháp phả lục nói trên. Tóm lại, xét về căn cứ sơ thủy và niên đại của văn bản, về tính hoàn chỉnh và hợp lý của nội dung và hình thức văn bản, thì tất cả các tác phẩm và xem xét trên đây đều khó có thể tranh chấp được giá trị với bộ ba ván khắc CỔ CHÂU LỤC, CỔ CHÂU HẠNH CỔ CHÂU NGHIhiện đang lưu trữ tại chùa Dâu.

Chỉ với bộ ba ván in CỔ CHÂU LỤC, CỔ CHÂU HẠNH và CỔ CHÂU NGHI, chùa Dâu đã có được vẻ riêng của mình về phương diện văn hiến Hán Nôm. Vậy mà ở chùa Dâu không những chỉ có thế. Ở đây còn lưu giữ một loạt các bộ ván khắc in kinh sách nhà Phật, trong đó có những bản đã được diễn dịch ra chữ Nôm từ những thế kỷ trước (như Nhân qủa kinh quốc, Kỳ vũ kinh, Tam giáo kinh …). Theo sự kiểm kê sơ bộ của chúng tôi thì ở đây hiện còn hơn 100 tấm ván in, chia làm 12 bộ sách khác nhau. Chỉ tiếc là nhiều bộ ván in đã bị tàn khuyết, không còn được trọn vẹn như CỔ CHÂU LỤC, CỔ CHÂU HẠNH, CỔ CHÂU NGHI. Mặc dầu vậy, tất cả những bộ ván khắc đó, cùng với mấy chục bài văn chữ Hán chữ Nôm khắc trên các tấm bia (gồm 9 bia đời Lê, 3 bia đời Tây Sơn, 15 bia đời Nguyễn), chuông (1 chuông đồng đường kính 84 cm đúc đời Tây Sơn), khánh (1 khánh đồng dài 186 cm đúc đời Nguyễn), biển gỗ v.v… hiện còn tại chùa Dâu đều rất đáng được chúng ta ngày nay trân trọng, giữ gìn và nghiên cứu. Đó trước hết là những chứng tích “biết nói” về chiều sâu lịch sử cùa chùa Dâu, về vị trí quan trọng của nó trong bước đầu hình thành nên Phật giáo Việt Nam, từ những năm đầu Công nguyên. Đó có thể cũng là vang bóng của những thời kỳ xa xưa du nhập, phát sinh và phát triển văn hiến chữ Hán (mà trước hết là kinh sách nhà Phật và kinh sách nhà Nho) trên đất nước ta, bắt đầu từ thế kỷ II đến thế kỷ VI và tiếp tục về sau, mà trung tâm là vùng Luy Lâu (cũng là Cổ Châu) xưa. Và hiển nhiên hơn và trực tiếp hơn, đó là nguồn tư liệu có thể giúp ích cho việc nghiên cứu về lịch sử đất nước và lịch sử văn hoá, về tín ngưỡng và sinh hoạt dân gian ở lưu vực sông Hồng, về ngôn ngữ và chữ viết ở nước ta trong quá khứ v.v…

CHÚ THÍCH

1. Gần đây, tôi được biết rằng từ những năm còn chiến tranh, một số nghiên cứu đã biết đến kho ván khắc chữ Hán ở chùa Dâu. Mặc dù vậy cho đến nay kho ván khắc này vẫn hầu như chưa được khảo sát giới thiệu, và các bộ ván khắc vừa được nhắc đến vẫn đang nằm im lặng trong tình trạng như chúng tôi đã chứng kiến.

Đầu năm 1994 chúng tôi bắt đầu giới thiệu với đông đảo độc giả một trong số ba tác phẩm kể trên trong kho ván khắc chùa Dâu là bài Cổ châu Phật bản hạnh qua một cuốn sách nhỏ (xem: Sự tích đức Phật chùa Dâu Nxb. Văn hoá thông tin Hà Nội (1994). Hiện nay chúng tôi đang chuẩn bị cho công bố toàn văn bộ ba ván khắc Cổ Châu và một vài văn bản khác có liên quan.

2. Về tiểu sử và hành trạng thiền sư Tính Mộ, thiền sư Chiếu Tuyên cùng các vị sư khác trụ trì chùa Dâu, xin xem: Nguyễn Tá Nhí, Dòng Thiền Đông Đô ở chùa Dâu, Nội san Phật học, Hà Nội, số 3 - 1994.

TB

THI LIỆU HÁN HỌC TRONG CÁC
VĂN BẢN THƠ NÔM

NGUYỄN THUÝ HỒNG

Thi liệu Hán học có thể gọi là chất liệu thơ ca Hán bao gồm các từ, ngữ, hình ảnh, ý thơ, tứ thơ của thơ ca Trung Quốc cổ điển như Cổ thi, Đường thi… Chúng có mặt khá nhiều trong các văn bản thơ Nôm như là một yếu tố ngôn ngữ có tính “mỹ từ pháp”. Việc sử dụng thi liệu Hán cũng là một biện pháp tu từ quen thuộc của thơ ca cổ điển Đông phương - hệ qủa của tư tưởng “sùng cổ, pháp tiên vương” (tôn sùng người xưa, bắt chước các đời vua trước). Các thi sĩ Đông phương hay sử dụng lại các từ, ngữ, hình ảnh, ý thơ, tứ thơ Hán trong thơ mình và coi chúng như là những khuôn mẫu (môtip) lý tưởng sẵn có, đưa vào sáng tác để tăng thêm sự thuyết phục.

Trong các văn bản thơ Nôm, thi liệu Hán thường được các thi gia khai thác theo ba cấp độ sau:

1) Cấp độ thứ nhất: chuyển dịch một câu thơ, một đoạn thơ Hán đưa vào sáng tác thơ Nôm.

Đây là cấp độ sử dụng thi liệu Hán giản đơn nhất, không có mấy sáng tạo độc đáo của thi gia để tìm kiếm một ý tứ, hình ảnh thơ cho riêng mình. Trong thơ ca Trung Quốc cổ điển vốn đã có nhiều câu thơ, đoạn thơ hay mang giá trị ổn định. Người làm thơ chỉ việc dùng lại các câu thơ, đoạn thơ này sao cho nội dung biểu đạt của nó ăn khớp với nội dung trong sáng tác của mình. Thí dụ: diễn đạt tâm trạng nhớ nhung của người đang yêu, Kinh thi có câu thơ bất hủ:

“Bỉ thái cát hề,
Nhất nhật bất kiến như tam nguyệt hề;
Bỉ thái tiêu hề,
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Thái Cát)
(Người hái dây sắn kia,
Một ngày không thấy mặt tưởng như ba tháng;
Người hái cỏ tiêu kia,
Một ngày không thấy tưởng như ba năm)

Nguyễn Du đã mượn nội dung của câu thơ, chuyển dịch vào tác phẩm để diễn đạt tâm trạng nhớ nhung nàng Kiều của chàng Kim Trọng:

“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”
(Truyện Kiều)

Hay một câu thơ khác, khuôn mẫu nổi tiếng về nỗi “Khuê trung trường hận” của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến trong Đường thi:

“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”
(Khuê oán - Vương Xương Linh)
(Giật mình thấy sắc cây dương liễu đầu đường
Hối hận đã để chồng đi giành tước phong hầu).

câu này đã được Đặng Trần Côn “tập cú” khi sáng tác Chinh phụ ngâm bằng Hán văn:

“Hồi thủ đầu trường dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”
(Ngoảnh đầu thấy sắc cây dương liễu nơi đường đê dài
Hối hận đã để chồng đi tìm cách phong hầu).

và người dịch Chinh phụ ngâm sang bản Nôm vẫn tôn trọng và dịch sát ý thơ Hán:

“Khi ngoảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”
(Chinh phụ ngâm bản hiện hành)

Sự vay mượn theo kiểu dịch (hoặc lược dịch) một câu thơ, đoạn thơ Hán rồi đưa vào văn bản thơ Nôm là một biện pháp các thi gia hay làm. Tuy nội dung, ý tứ, hình ảnh là vay mượn từ thơ ca Hán song hình thức ngôn từ lại của Việt Nam. Câu thơ Hán đã thực sự thoát thai hoán cốt mang một sắc thái mới phù hợp với sự cảm thụ và đời sống tâm hồn của người Việt.

2) Cấp độ thứ hai: khai thác thi liệu Hán theo cách chỉ mượn từ ngừ.

Kiểu khai thác này có ưu thế cho người dùng ở chỗ không bị gò bó theo nội dung đoạn thơ, câu thơ Hán. Tùy theo văn cảnh, thi gia có thể lựa chọn các từ ngữ vốn đã có vị trí “đắc thế” trong thơ ca Trung Quốc rồi chủ động đưa vào sáng tác. Thông thường các từ ngữ này không bị dịch sang tiếng Việt nên màu sắc Hán rấ dễ nhận biết, không bị mờ nhoà như ở cấp độ khai thác thi liệu Hán thứ nhất. Thí dụ Kinh thi có câu:

“Chấp tử chi thủ
Dữ tử giao lão” (Vệ phong)
(Cầm tay chàng
Cùng chàng sống đến già”

Tác giả Lâm tuyền kỳ ngộ đã mượn từ “giai lão” đưa vào sáng tác nhằm diễn đạt một nội dung tương ứng:

“Một thơ giai lão lên lời chúc
Đôi chữ thừa hoan mượn chén khuyên”

Có trường hợp ngay trong một đoạn thơ Nôm, thi gia cũng có thể mượn một vài từ ngữ từ một vài câu thơ Hán khác nhau để đưa vào cho ý thơ của mình thêm hàm súc. Đỗ Phủ (đời Đường) có câu “Hà Đông nữ nhi thân tính liễu” (Người con gái xứ Hà Đông họ Liễu). Mượn câu này, Tô Đông Pha (đời Tống) có câu:

“Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên”

(Chợt nghe tiếng gầm của sư tử Hà Đông,
Gậy chống rời khỏi tay tâm thần hoảng hốt).

Từ đó, văn học cổ có điển “sư tử Hà Đông” để chỉ người phụ nữ oai dữ. Còn từ “cù mộc” vốn là tên một bài thơ trong Kinh thi trở thành điển chỉ người vợ cả: Cả hai từ này lại có mặt trong một đoạn văn bản Nôm cùng chỉ oai của người vợ cả:

“Rắp đem cất cù mộc để nương mình, chỉ e giọng Hà Đông liệu kiếp phù sinh là mấy chốc”.

(Phú Nôm: Lắm mối tối nằm không )

Tuy nhiên cách dùng từ ngữ - thường là các từ ngữ Hán đã được chọn lọc từ thi liệu Hán - đưa vào thơ Nôm nhiều khi cũng gây ra sự khó hiểu cho độc giả về sự không thông hiểu cặn kẽ nguồn gốc Hán của từ ngữ. Trên một phương diện nào đó, các từ ngữ này thường gắn với điển tích, muốn hiểu chúng phải có thao tác liên tưởng giữa từ ngữ với văn bản Hán của nó. Trường hợp từ “trà my” trong câu thơ Truyện Kiều cũng vậy, vốn có trong một câu Đường thi “Khai đáo trà my hoa sự liễu” (đợi đến đóa trà my nở thì sự đã rồi). Nguyễn Du đã mượn từ “trà my” từ ý thơ này để diễn tả sự thất thân của Kiều với Mã Giám Sinh:

“Tiếc thay một đóa trà my
Con ong đã tỏ đường đi lối về”.

Sự liên tưởng giữa nội dung mà văn bản Nôm diễn tả cùng với nội dung của bài thơ Đường sẽ làm ý thơ Nôm hàm súc, sâu sắc hơn rất nhiều.

3) Cấp độ thứ ba: vay mượn ý tứ, hình ảnh thơ ca Hán. Đây là cấp độ khai thác thi liệu Hán ở mức độ cao nhất và tinh tế nhất. Chính vì thế cũng khó nhận biết nguồn gốc thi liệu Hán trong văn bản Nôm nếu không có vốn kiến thức Hán học sâu rộng. Thi gia Nôm khai thác thi liệu Hán trên cơ sở sự gặp gỡ hoà đồng về tâm tư tình cảm với thi gia Hán chứ không làm thao tác “lặp lại” giản đơn. Chất Hán học thể hiện qua văn bản Nôm như là những gì vốn có trong thi gia: cảm hứng, cảm xúc thi ca. Thí dụ: hình ảnh lá ngô đồng rụng báo hiệu mùa thu được diễn đạt trong một khuôn mẫu lý tưởng của thi ca Hán học:

“Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu”.
(Cổ thi)
(Một lá ngô đồng rụng
Mọi người đều biết mùa thu đến).

Nguyễn Du đã tái hiện khuôn mẫu này trong một câu thơ Truyện Kiều:

“Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”
Hay ý tứ của một bài Đường thi:
“Khứ niên kim nhật thủ môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong”.
(Tiêu Hộ)
(Năm ngoái ngày này trong cổng này
Mặt người và màu hoa đào cũng phản chiếu ánh hồng.
Mặt người (giờ) không biết ở nơi nào,
Hoa đào vẫn như cũ cười với gió đông)

đã được Nguyễn Du gói trọn trong hai câu lục bát nhằm diễn tả tâm sự trớ trêu của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy tìm người yêu:

“Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
(Truyện Kiều)

Ở kiểu khai thác thi liệu Hán học này, nguồn gốc Hán hầu như bị xóa nhòa trên hình thức ngôn từ - Còn chăng đó là âm hưởng truyền thống của thơ ca Hán học: sâu lắng, đậm đà, gợi nhiều hơn tả, trĩu nặng ký thác tâm sự. Phải thông thạo Hán học mới có thể chỉ ra nguồn gốc của ý thơ, tứ thơ là thực sự vay mượn từ đâu trong thi ca Hán học.

Trên đây là ba cấp độ sử dụng thi liệu Hán học có trong các văn bản thơ Nôm. Chúng tôi nhìn nhận hiện tượng này như là một biên pháp tu từ của thơ ca Nôm nói riêng và thơ ca cổ điển Đông phương nói chung. Sự giao lưu văn hoá, văn học giữa Trung Quốc và các nước Đông phương đã tạo ra hiện tượng này. Nguyên nhân sâu xa của nó là sự coi trọng các điều “Tử viết, thi vân” của các thi gia được đào đạo theo nền giáo dục cửa Khổng sân Trình. Thi liệu Hán học có giá trị “làm đẹp” cho văn bản, khiến câu thơ, ý thơ được gia tăng sức thuyết phục nhờ liên tưởng tới nguồn gốc Hán sâu xa của nó. Tuy nhiên nếu lạm dụng “cổ nhân” sẽ tự trói mình trong các khuôn mẫu, môtip của thơ ca Hán học, gây ra sự sáo mòn trong sáng tác và sự gò bó trong cảm hứng thi ca.

TB

TÌM HIỂU NGUỒN SÁCH LÊ QUÝ ĐÔN ĐÃ ĐỌC QUA KHẢO SÁT VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ

NGUYỄN TUẤN THỊNH

Trong số các tác gia cổ điển Việt Nam, Lê Quý Đôn là người có số lượng các trước tác lớn nhất còn lưu giữ lại đến ngày nay, đồng thời cũng là người đã được giới nghiên cứu Việt Nam ngày nay chú ý nghiên cứu vào loại nhiều nhất. Nhưng điểm qua các công tỉnh viết về Lê Quý Đôn, chúng ta thấy các nhà văn nghiên cứu phần lớn chú ý tới việc Lê Quý Đôn đã biên soạn những sách gì, nội dung các sách đó ra sao, chứa đựng nội dung gì… mà hầu như chưa có ai để ý đúng mức tới một vấn đề mà theo chúng tôi không phải không có ý nghĩa đối với việc làm sáng tỏ sự nghiệp trước của Lê Quý Đôn, đó là việc Ông đã đọc những sách gì, cũng tức là tìm hiểu nguồn cung cấp tri thức cho Lê Quý Đôn.

Hiện nay, đi tìm hiểu xem Lê Quý Đôn đã đọc những sách gì quả là không dễ dàng. Chúng ta chỉ có thể thực hiện việc này thông qua khảo sát các tác phẩm của ông, xem ông đã trích dẫn, nhắc tới, bàn tới những sách nào. Nhưng việc làm đó cũng gặp những trở ngại do số lượng tác phẩm của Lê Quý Đôn khá lớn và vẫn còn một số tồn nghi, chưa chắc chắn đã phải là của Lê Quý Đôn. Thêm nữa, các sách được trích dẫn, được nhắc đến trong tác phẩm của Lê Quý Đôn cũng chưa chắc chắn phải là các sách ông đã đọc, có những sách ông trích lại, hoặc chỉ nghe tên mà chưa đọc, hoặc chỉ đọc một phần chứ không đọc cả cuốn. Vấn đề này làm cho công việc khảo sát không tránh khỏi một độ dung sai nào đó.

Mặc dù có khả năng dao động và sai số cùng những khó khăn trong việc tra cứu để phân loại, chúng tôi vẫn mạnh dạn tiến hành công việc khảo sát. Chúng tôi tạm coi các sách được ông trích dẫn, nhắc trong tác phẩm đều là các sách đã đọc, đã biết tới. Vì chưa có điều kiện khảo sát toàn bộ tác phẩm của Lê Quý Đôn, lần này chỉ xin chọn Vân đài loại ngữ để nghiên cứu khảo sát (Vân đài loại ngữ do Trần Văn Giáp khảo đính, dịch ra tiếng Việt, nhà xuất bản Văn hoá xuất bản năm 1962). Theo chúng tôi đây là tác phẩm thể hiện tập trung nhất sự uyên bác của tác giả, đồng thời cũng là tác phẩm trích dẫn nhiều sách nhất. Sách Quần thư khảo biện danh nghĩa là khảo biện các sách, nhưng không phải là tác phẩm trích dẫn nhiều sách nhất.

Chúng tôi tiến hành thông kê tất cả các lượt sách đã được trích dẫn, nhắc tới, bàn tới. Vì có sách chỉ được trích dẫn một lần, nhưng cũng có sách được trích dẫn nhiều lần, cho nên trên cơ sở số lượt sách đã xuất hiện đó, chúng tôi quy về số đầu sách đã được trích dẫn. Tiếp theo, trong phạm vi có thể, chúng tôi tra cứu xem những sách đó thuộc loại gì, viết vào thời điểm nào; tác giả, nội dung chủ yếu… Trên cơ sở kết quả tra cứu, chúng tôi tiến hành phân loại. Việc phân loại cũng gặp phải những khó khăn do một số sách không có ghi chép và mô tả trong các công trình thư mục Việt Nam và Trung Quốc. Các sách cổ đại thường mang nội dung hỗn hợp, đa dạng rất khó phân loại.

Trên cơ sở cách thức tiến hành như vậy, chúng tôi đã làm việc và thu kết quả như sau:

- Tổng số lượt sách được trích dẫn, nhắc tới trong Vân đài loại ngữ 851 lượt.

- Tổng số đầu sách được trích dẫn, được nhắc là 505 cuốn. (Trong số 505 cuốn đó, có những cuốn gồm hàng trăm quyển). Số sách đã được thống kê và phân tích, chúng tôi lại chia thành mấy loại để tìm hiểu:

- Sách thuộc kinh điển Nho giáo (giới hạn trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và sách chú giải, bình luận Tứ Thu, Ngũ Kinh).

- Các sách sử.

- Các sách loại thư, bách khoa thư.

- Sách văn học (văn tập, thi tập, tiểu thuyết, truyện ký…)

- Sách của người Trung Quốc dịch từ sách châu Âu hoặc viết về châu Âu.

- Các sách ghi chép biên khảo thuộc thể “ký”, “chí”, “tạp chí”, “tạp lục”…

- Sách của Bách gia chư tử. Sách mang nội dung tư tưởng triết học.

- Các sách không phân loại được.

Trên cơ sở phân chia theo các mục loại như vậy, chúng tôi thu được kết quả như sau:

- Sách kinh điển Nho giáo có 17 cuốn, được trích 110 lượt, chiếm gần 13% tổng số lượt trích dẫn sách. Trong đó cuốn được trích nhiều nhất là Kinh Lễ 32 lượt, Kinh Dịch 17 lượt, Mạnh Tử Trung dung chỉ được trích mỗi sách 2 lượt.

- Sách sử được trích 79 quốn với 158 lượt trích, chiếm 18.5% tổng số lượt trích. Bộ sử được trích nhiều nhất là bộ Tư trị thông giám cương mục (1) với 25 lần trích.

- Các sách loại thư, bách khoa thư là 16 bộ, trích 50 lượt, chiếm 5.8% tổng số lượt trích. Bộ Tam tài đồ hội(2) trích 11 lượt. Uyên giám loại hàm (3) trích 8 lượt. Sách Sơ học ký (4) trích 9 lượt, còn lại là cách sách khác.

- Cách sách thuộc thể “ký”, “chí”, “tạp chí”… gồm 132 cuốn được trích 168 lượt, chiếm 20% tổng số lượt trích.

- Sách văn học có 28 cuốn, trích 35 lượt, chiếm 4.1% tổng số lượt trích.

- Sách Bách gia Chư tử, sách triết học có 45 cuốn, trích 73 lượt, chiếm 8.6% tổng số lượt trích.

- Sách Âu châu có 4 cuốn, trích 11 lần. Trong đó cuốn Khôn dư đồ thuyết (5) được trích 7 lần.

- Các sách mang nội dung tổng hợp và chưa phân loại được là 184 cuốn với 246 lượt trích, chiếm 28.9% tổng số lượt trích.

Sau đây là một vài nhận xét qua kết quả khảo sát, phân loại.

Số sách Lê Quý Đôn trích dẫn, nhắc đến trong Vân đài loại ngữ là hết sức đồ sộ. Trong điều kiện thư tịch lúc bấy giờ, Lê Quý Đôn biết tới ngần ấy cuốn sách quả là học rộng.

Số sách kinh điển Nho giáo chiếm tỷ lệ không lớn lắm, chỉ chiếm 13% tổng số lượt trích. Điều đó cho thấy ngoài việc chú ý tới việc học kinh điển, Lê Quý Đôn còn mở rộng phạm vi đọc ra rất rộng, không chỉ chú ý tới đọc sách phục vụ khoa cử mà còn chú ý mở rộng kiến văn. Phạm vi lấy tư liệu và hướng sự hiểu biết tới nhiều lĩnh vực làm cho vốn tri thức của Ông hơn hẳn nhiều Nho gia cùng thời.

Các sách bách khoa thư, loại thư này tuy chỉ chiếm 5.8% tổng số lượt trích dẫn, nhưng chúng ta cũng biết rằng số các sách mang tính bách khoa không thể nhiều bằng các loại sách khác, nhưng quy mô của mỗi bộ hàng trăm quyển thì số đầu sách tuy ít những nguồn thông tin, tri thức từ nó lại rất lớn. Nhiều cuốn bách khoa thư lớn của Trung Quốc được trích trong tác phẩm của Lê Quý Đôn, trong đó có cả cuốn mới hoàn thành đầu thế kỷ XVII như Uyên giám loại hàm. Lê Quý Đôn cũng có một vài tác phẩm có xu hướng bách khoa trong đó Vân đài loại ngữ là một. Việc làm sách mang tính bách khoa của Trung Quốc chắc chắn có những kích thích, gợi ý nhất định tới việc trước tác của Lê Quý Đôn.

Số sách lịch sử chiếm số lượng khá lớn (18.5%), nếu so với các trước tác thơ văn (văn tuyển, thi tuyển) thì lớn hơn rất nhiều. Điều đó cũng dễ hiểu vì để viết bộ Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn cần đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống, của học thuật, do đó các sách sử chắc chắn tỏ ra có nhiều ưu thế hơn trong việc cung cấp tri thức.

Các sách ký, chí, lục khảo sát, ghi chép thực tiễn chiếm trên 20%, số này chiếm tỷ lệ khá lớn trong số các sách đã phân loại. Điều này chứng tỏ Lê Quý Đôn rất chú ý tới nguồn ghi chép khảo sát từ địa lý, địa phương chí và các dạng ghi chép khác.

Sách Âu châu do người Trung Quốc chuyển dịch tuy ít nhưng cũng đã có mặt trong vốn trí thức của Lê Quý Đôn. Riêng cuốn địa lý Khôn dư đồ thuyết được trích 7 lần, chứng tỏ Lê Quý Đôn có quan tâm tới địa lý học cận đại Âu châu.

Điều đáng chú ý hơn nữa là trong số sách Lê Quý Đôn trích, có một số cuốn được làm dưới thời Thanh, tức đương thời với Lê Quý Đôn, như sách Uyên giám loại hàm gồm hàng trăm cuốn, soạn năm 1710, đã được Lê Quý Đôn đọc và trích dẫn. Các sách của người Âu châu dịch sang Trung Quốc chủ yếu cũng được làm đầu đời Thanh. Việc Lê Quý Đôn có đọc các sách đời Thành là một trong những dấu hiệu để tìm hiểu việc Lê Quý Đôn có tiếp xúc với học thuật đương thời Minh - Thanh.

Mặc dù sự phân loại còn rất tương đối, nhưng các con số thống kê, cũng cho ta nhiều gợi ý trong việc tìm hiểu nguồn cung cấp tri thức cho Lê Quý Đôn. Chúng tôi hy vọng trong thời gian tới có thể tiến hành khảo sát trên toàn bộ tác phẩm của Lê Quý Đôn. Chắc khi đó sẽ có nhiều nhận xét quan trọng hơn sẽ được rút ra.

CHÚ THÍCH

1. Tư trị thông giám cương mục, bộ sử biên niên do Tư Mã Quang đời Tống soạn. Sách gồm 294 quyển, ghi chép sử kiện lịch sử trong khoảng thời gian 1362 năm.

2. Tam tài đồ hội do Vương Nguyên Hàn đời Minh soạn. Sách làm theo lối bách khoa, lấy đồ họa cổ làm chính, gồm 106 quyển.

3. Uyên giám loại hàm, sách do nhóm Trương Anh đời Thanh làm, hoàn thành năm 1710. Sách 450 quyển, phân làm 43 bộ, 2536 mục nhỏ.

4. Sơ học ký sách của Từ Kiêm đời Đường, gồm 30 quyển, chia làm 26 môn loại, 313 mục nhỏ.

5. Khôn sư đồ thuyết của Ferdinandus Verbiest. Đây là cuốn sách địa lý học viết

TB

THƯ VIỆN THÁI BÌNH VỚI SỐ SÁCH
HÁN NÔM TRONG TỈNH

PHẠM ĐỨC DUẬT

Năm 1996, giữa lúc quân Mỹ tiến hành cuộc oanh kích Miền Bắc nước ta ác liệt nhất, hơn 20 anh chị em chúng tôi đang học lớp Đại học Hán học sơ tán tại một làng hẻo lánh thuộc huyện Hiệp Hòa tỉnh Hà Bắc. Bên cạnh những tin vui thắng trận ở hai miền, tôi và anh Cao Hữu Lạng, hai học viên quê Thái Bình của lớp học này còn biết tin Thư viện tỉnh nhà đang tổ chức sưu tầm sách Hán Nôm.

Mười năm sau, từ Viện Văn học chuyển về công tác tại Ty Thông tin - Văn hoá Thái Bình, tôi đến ngay Thư viện tỉnh tìm hiểu về những sách Hán Nôm mà một nhóm các cụ, cộng tác viên của Thư viện đã điều tra, sưu tầm, thu nhập được từ tháng 4-1966 đến tháng 8-1969. Sau hơn ba năm, các cụ đã điều tra tại 19 xã thuộc 5 huyện Kiến Xương, Thái Thụy, Đông Hưng, Quỳnh Phụ và Tiền Hải. Kết quả, ngoài một số câu đối, hoành phi, đại tự, ngọc phả, thần sắc, bia đá, văn tự, các cụ đã thống kê được 7.755 cuốn sách thuộc nhiều môn loại. Nhưng do khó khăn về kinh phí, các cụ chỉ nhận tặng biếu, hoặc sao chép, mua về cho Thư viện tỉnh được 41 tên sách, gồm 75 cuốn và một số văn tự, biên lai… Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu số sách ít ỏi ấy và tìm hỏi thêm cụ Nguyễn Gia Vĩ trong nhóm sưu tầm, chúng tôi đã thu hoạch được nhiều điều bổ ích.

1. Nhận xét đầu tiên của chúng tôi là, tuy trải qua nhiều biến cố lịch sử nhưng nhân dân Thái Bình vẫn lưu giữ được hàng vạn sách Hán Nôm. Với vốn sách quý này, chúng ta có thể nghiên cứu tìm hiểu nhiều vấn đề về truyền thống văn hóa Thái Bình. Trước hết là những thư tịch, tài liệu liên quan tới Lê Quý Đôn. Mảng tư liệu này đã giúp nhiều người viết tham luận cho Hội thảo kỷ niệm lần thứ 250 năm sinh Lê Quý Đôn (2.8.1726 - 2.8.1976) do Thái Bình tổ chức. Cùng trên cơ sở mảng tư liệu này, kết hợp với một vài nguồn khác, tuyển tập Thơ Lê Quý Đôn, Thư mục Lê Quý Đôn, nhiều công trình viết về ông và Lê Quý Đôn toàn tập lần lượt được xuất bản.

2. Khi tiến hành việc sưu tầm văn học dân gian lưu truyền trong tỉnh, bên cạnh nguồn tư liệu trực tiếp là lời kể của nhân dân, chúng tôi có chú ý tới nguồn tư liệu gián tiếp: sách Hán Nôm. Theo chỉ dẫn trong Bản thống kê sách Hán Nôm của Thư viện, chúng tôi đã tìm về gia đình cụ Trần Đình Xước, xã Vũ Lăng (Tiền Hải) đọc cuốn Phương ngôn ký lược viết tay bằng chữ Nôm do chính cụ sưu tầm rồi ghép vần làm thành sách. Về xã Trà Giang (Kiến Xương), chúng tôi tìm đọc phần Hát chèo, Hát ru chép trong quyển Ca trù thể cách. Về xã Tây Giang (Tiền Hải) đọc Tạ tộc kỷ niệm văn của gia đình cụ Tạ Đình Thâm, chúgn tôi đã tìm được xuất xứ của câu:

Ông Nỉnh ông Ninh, ra đến đầu đình lại gặp ông Lảng ông Lang.

Ông Lảng ông Lang, ra đến đầu làng lại gặp ông Nỉnh ông Ninh.

Sách chú thích: Ông Tạ Đình Ninh và ông Lê Lang là hai vị thủy tổ của dòng họ Tạ và họ Lê ở xã Tây Giang, Lạch Sung (Thanh Hóa), ra lập làng Tây Giang từ mấy chục thế kỷ trước. Hoặc từ sách Phương ngôn quốc âm trích tập, chúng tôi đã tìm được bài Đồng Xâm chính từ phong cảnh ca có giá trị về văn học và lịch sử địa phương… Những sách Hán Nôm nằm rải rác trong tỉnh đã góp phần quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành cuốn Văn học dân gian Thái Bình (tập 1) (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982), được giải thưởng Lê Quý Đôn lần thứ nhất của tỉnh (1980 - 1985).

3. Tác giả sách Chùa Keo (Ty VH - TT Thái Bình xuất bản, 6 - 1975 tái bản năm 1984) đã không xác định được chùa này thờ Dương Không Lộ hay Nguyễn Minh Không. Chúng tôi bỏ ra hàng nửa năm trời đọc hầu hết các sách đã công bố về hai vị thiền sư đời Lý nói trên, rồi đi nhiều nơi thờ hai vị ở trong tỉnh và tỉnh ngoài để khảo sát, xác minh, nhưng vấn đề vẫn chưa sáng tỏ. Sau nhờ những thông tin từ kho sách Hán Nôm ở Thư viện Thái Bình (chú thích về “Kiến Xương tứ linh từ”, tức bốn đền thờ linh thiêng ở Kiến Xương) chúng tôi về nghiên cứu vị thánh thờ ở Chùa Am xã Vũ Tây. Tại đây, chúng tôi được cụ Trần Văn Thuyết kể cho nghe một câu chuyện như sau: Năm Duy Tân thứ hai (1908), dân làng Lại Trì khắc một đôi câu đối bằng gỗ cúng vào am với hai vế là:

Dương gia tập phúc thiên sinh thánh;

Lý thế tôn thiền quốc hữu sư.

Khi đôi câu đối này treo lên, thì nổ ra một cuộc tranh cãi về tên học của vị thánh thờ ở đây. Cụ cử nhân Vũ Công Quán cho rằng, đức thánh họ Dương là đúng. Ngược lại, cụ tú kép Trần Văn Ước lại cho rằng đức thánh họ Nguyễn. Hai cụ dùng đủ mọi lý lẽ qua những văn bản Hán Nôm khác nhau để tranh biện. Cãi nhau không xong, cả hai cụ phát đơn kiện việc này lên tòa án Thái Bình. Cuối cùng tòa án Thái Bình đã xử cho cụ kép Ước thắng cuộc và như thế là thừa nhận thánh họ Nguyễn. Dư luận của dân sở tại lúc đó cho rằng cụ Kép thắng cuộc vì có con trai cả làm Thông phán ở Thái Bình đã chạy kiện cho bố. Tuy vậy, dân Lại Trì vẫn phải chiểu theo lệnh của tòa án cho khoét chữ “Dương” trên câu đối đi, ghép miếng gỗ khác vào và khắc chữ “Nguyễn” điền vào đó. Hiện nay, đôi câu đối trên vẫn còn vết vô vuông chỗ gỗ ghép.

Sau câu chuyện của vụ Thuyết, chúng tôi đọc hai văn bản Hán Nôm ở đây. Và với chứng cứ xác thực, từ sách Quốc sư bảo lục của Tiến sĩ Hy Long Đặng Xuân Bảng, một công trình khảo cứu về hai vị quốc sư thời Lý, chúng ta có thể khẳng định chùa Keo Thái Bình và chùa Keo Nam Hà đều thờ quốc sư Dương Không Lộ.

4. Nhờ hệ thống thư mục của Thư viện Thái Bình, chúng tôi được đọc truyện thơ Gương đại gia đình của cụ Tú tài nho học Dã Nhân Đào Văn Bình người làng Ngoại Lãng. Cuốn truyện đã cuốn hút chúng tôi về Thuận Vi và Lai Vè tìm hiểu về Nguyễn Lệ, Nguyễn Công, Nguyễn Thị Uyển Trà, Nguyên Kim Phẩm.

5. Cách đây hơn 10 năm, tôi gợi ý với vài bạn công tác tại Thư viện, hợp tác với tôi biên soạn cuốn Các tác gia Thái Bình. Việc đó chưa thực hiện, nhưng tôi đã có ý thức tập hợp mảng tư liệu này. Trong quá trình làm tư liệu về các tác gia, tác phẩm Hán Nôm, tôi nhiều khi xúc động trước tình cảm cao quý, đầy ý thức trách nhiệm của tiền nhân đối với lớp cháu con các thế hệ sau. Đọc bộ sử Nam Hà tiệp lục của Lê Đản người làng Thịnh Cuông, huyện Chân Định (nay thuộc xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương), chúng tôi thấy ông viết về lịch sử Đàng Trong thời chúa Nguyễn. Cũng như Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Nam Hà ký văn của Đặng Trọng An, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nam Hà tiệp lục là bộ sử quý báu giúp chúng ta tham khảo, nghiên cứu về Đàng trong từ đời Gia Long trở về trước. Bài Tổng bạt ở cuốn sách được viết vào năm Gia Long thứ 10 (Tân Mùi, 1811), có nói về lai lịch của sách và các nguồn tài liệu mà tác giả đã sử dụng. Những nhà văn Nôm lịch sử, nghiên cứu văn hoá dân tộc, những nhà thư viện học chỉ cần đọc đoạn trích sau đây, trong bài Tổng bạt cũng biết được ngoài ý chí và tình cảm cao đẹp của tác giả, còn có sự gắn bó máu thịt giữa sách vở tài liệu với nhà trước tác, đặc biệt là tầm quan trọng của công tác thư viện:

“… Tôi là Đản, thỉnh thoảng đọc sách của tiền nhân thuộc đủ các loại trong các thư viện. Những sách ấy được biên soạn từ nhiều đời khác nhau, về văn thì giống sử nước Lỗ, về việc thì đều là chuyện [tranh bá đồ vương] như Tề Hoàn, Tấn Văn [đời Xuân Thu]. Việc nọ chứng minh cho việc kia, so sánh qua lại, cũng biết được đại khái từng việc. Tôi tự xét mình quê mùa, đơn độc, không có tài năng, ngay đến sử hai mươi mốt triều đại của Trung Quốc và các bộ sử của nước Việt ta cũng chưa đọc hết. Nghe nói trong cùng quận tôi, các nhà họ Lê ở Diên Hà, họ Uông ở Vũ Nghi, nhà thì đời trước có sách Nam hành tiểu ký, tôi cũng chưa kịp hỏi mượn mà xem. Chợt năm Gia Long Tân Mùi (1811), giữa tháng 8, mùa thu, tôi cùng anh họ là ông Thản đi lên ứng khảo ở thành Thăng Long và được trúng tuyển. Lĩnh bằng trở về, ông Thản nói với tiôi việc làm sử, tôi bèn không tự xét là cố chấp và quê mùa, thu chép những điều trong các sách mà các cụ nhà tôi còn giữ lại được, cùng các sách của các bạn trong huyện tôi là ông Đặng Bá Trang ở Phú Ân, ông Nguyễn Đăng Thích ở Nam Đường, biên tập thành một bộ, chia làm 5 quyển, trong đó 16 điều, sau mỗi điều có phụ thêm lời lạm bình.”

Tâm sự của một tác gia sử học người Thái Bình đầu thế kỷ XIX là như thế đấy. Chắc ông và những nhà trước tác như ông không thể ngờ rằng, cuối thế kỷ XX này, lớp cháu con chúng ta noi gương tiền nhân, đang cố gắng xây dựng và phát triển một hệ thống thư viện ở Thái Bình từ nhiều năm nay một cách có quy củ. Sách học Lê ở Diên Hà đã được làm tổng tập. Pho tượng Quế Đường tiên sinh được dựng trước cửa một thư viện lớn trung tâm của tỉnh, mang tên nhà bác học nổi tiếng này. Sách vở hàng nghìn nhà trong nước và trên thế giới ngày càng, phong phú, được lưu giữ, bảo quản cẩn thận, hàng ngày qua mắt bạn đọc đủ mọi lứa tuổi, đang góp phần không nhỏ bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong công cuộc đổi mới và chấn hưng nền văn hoá dân tộc ngày nay.

Ở tuổi 40, với người lao động chân tay vẫn còn là thời kỳ sung sức. Với người lao động trí óc, đây thường là thời kỳ làm việc hăng say, với tinh thần minh tuệ. Còn với thư viện khoa học tổng hợp tỉnh Thái Bình, ở tuổi 40, giống như một chàng trai mới lớn, đang phát triển toàn diện để gánh vác trách nhiệm của mình. Chúng tôi yên tâm rằng với số lượng sách Hán Nôm còn ở Thái Bình, Thư viện Khoa học tổng hợp mang tên Lê Quý Đôn sẽ tìm cách tạo điều kiện hơn nữa cho anh chị em nghiên cứu văn hoá truyền thống của tỉnh khai thác có hiệu quả hơn. Đó là một logic lịch sử và cũng là niềm tin yêu, hy vọng của bạn đọc.

TB

VỀ QUÊ HƯƠNG VÀ NĂM SINH,
NĂM MẤT CỦA PHẠM SĨ ÁI

NGUYỄN THỊ NGUYỆT

Phạm Sĩ Ái tự Đôn Nhân, hiệu Nghĩa Khê, thụy Đoan Trực. Ông là một nhà nho, một nhà khoa bảng của thế kỷ XIX, một quan chức triều Nguyễn, một tác gia Hán Nôm Việt Nam.

Ông còn là con của cụ Phạm Sĩ Từ nổi tiếng hay chữ và giỏi về nghề bốc thuốc, là cháu của cụ Phạm Sĩ Thuyên đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Hợi, năm Cảnh Hưng 4 (1743), làm quan đến chức Hàn lâm thị thư, tước Bá, sau về trí sĩ(1). Cụ Sĩ Thuyên có tên trong bia Văn Miếu, Hà Nội(2).

Năm Minh Mệnh 9 (1828), Phạm Sĩ Ái đỗ Cử nhân(3). Năm Minh Mệnh 13 (1832), Phạm Sĩ Ái đỗ Tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng giáp), có tên trong bia Văn Miếu Huế(4). Sau lễ xướng danh ở điện Thái Hòa, Phạm Sĩ Ái nhận chức Hàn lâm viện tu soạn, sau ra làm Tri phủ phủ Cam Lộ thăng Viên ngoại lang ty Thanh Lại, sau đó lại thăng chức Lang trung. Năm Minh Mệnh 20 (1839) ông được triệu về Kinh, thăng Binh bộ Lang trung biện lý bộ vụ.

Sinh thời Phạm Sĩ Ái trước tác nhiều. Sách Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu giới thiệu các tác phẩm của ông như:

1. Đường trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo A.467;

2. Nghĩa khê thi tập VHv.2345;

3. Chí Hiên thi thảo A.390;

Nhiều sách xuất bản khác cũng đã giới thiệu về Phạm Sĩ Ái như:

1. Đại Nam thực lục (ĐNTL), Nxb KHXH, Hà Nội, 1964, tr.45, tái bản 1969, tr.107.

2. Lược truyện các tác gia Việt Nam (LTCTGVN), Nxb. KHXH, H. 1971, tr.386.

3. Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng, TVHNHH, 1973, tr.101.

4. Quốc triều hương khoa lục, Nxb. TPHCM, 1993, tr.162.

5. Các nhà khoa bảng Việt Nam (CNKBVN), Nxb.Văn hóa, 1993, tr.773.

Tất cả các sách trên đều thống nhất về khoa thi, năm đỗ của Phạm Sĩ Ái nhưng về tên gọi hiện nay của quê hương ông và năm sinh, năm mất của ông thì còn để ngỏ.

Nhằm góp phần làm sáng tỏ tiểu sử Phạm Sĩ Ái nhất là những chỗ còn có ý kiến khác nhay, chúng tôi biên chép đôi điều tìm hiểu thêm về quê hương, năm sinh, năm mất của ông.

I. Về quê hương:

Các sách ghi: “Phạm Sĩ Ái người xã Trung Lập, huyện Đường Hào”. Riêng LTCTGVN ghi thêm: “nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Hưng”. CNKBVN cũng ghi thêm: “nay là xã Huỳnh Thúc Kháng, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng”. Chúng tôi muốn nói thêm một chút: xã Trung Lập xưa, nay mang tên gì và thuộc huyện, tỉnh nào?

1. Dựa vào các ghi chép trong thư tịch cổ, và công văn nhà nước về những lần đổi tên đơn vị hành chính, ta thấy có các hiện tượng:

a. Đổi trấn thành tỉnh: Theo Bắc thành địa dư chí(5): Xã Trung Lập, huyện Đường Hào thuộc tổng Trương Xá, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Theo Đất nước Việt Nam qua các đờ i (ĐNVNQCĐ)(6): Năm Minh Mệnh 12 (1831), bỏ không gọi phủ và trấn, đổi gọi tỉnh Hải Dương.

b. Đổi tên huyện: theo ĐNVNQCĐ (sđd): năm Thành Thái 3 (1891), huyện Đường Hào đổi gọi là huyện Mỹ hào thuộc tỉnh Hưng Yên, không thuộc Hải Dương nữa.

c. Đổi tên xã: Theo Sắc lệnh 148, năm 1948 (Chủ tịch Hồ Chí Minh): xã Trung Lập đổi gọi là xã Phùng Chí Kiên, thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

d. Lại đổi tên tỉnh, huyện: theo Nghị quyết 504/năm 1986 (Chủ tịch Trường Chinh ký), tỉnh Hưng Yên sáp nhập với tỉnh Hải Dương gọi là tỉnh Hải Hưng. Huyện Mỹ Hào sáp nhập với huyện Văn Lâm gọi là huyện Mỹ Văn.

Xã Trung Lập, huyện Đường Hào xưa đến năm 1968 mang tên là xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng. Nay vẫn gọi là như vậy. Và trong bản đồ hành chính tỉnh Hải Hưng(7) cùng với sách Danh mục cấp xã huyện tỉnh(8), huyện Mỹ Văn không có xã Huỳnh Thúc Kháng, chỉ có xã Thúc Kháng thuộc huyện Cẩm Bình.

2. Dựa vào địa điểm di tích: hiện ở xã Phùng Chí Kiên đang tồn tại cụm di tích Phạm Sĩ Ái. Tại thôn Nghĩa Lộ còn có ngôi miếu kiểu dáng đẹp, phía trước đắp nổi 4 chữ “Phạm Hoàng kim miếu”, bên trong còn bệ thờ và hương án. Tại nghĩa trang xã, trên gò mả Lẽ còn ngôi mộ xây tam cấp, trên có tấm bia chữ Hán nguyên vẹn, cỡ 40x60cm, không trang trí hoa văn, không có mái che, trán bia khắc 5 chữ “Phạm Đôn Nhân mộ chí”, có 13 dòng gồm 380 chữ, mặt bia bị rạn nứt 5 chữ. Mặt sau áp sát vào mộ nên không rõ niên đại dựng bia. Soạn giả là Nguyễn Bảo ghi vào tiết lập thu Thiệu Trị 1 (1840)(9).

3. Dựa vào địa bàn hậu duệ cư trú:

Qua thăm hỏi, chúng tôi được biết cháu con Phạm Sĩ Ái hiện đang nối đời làm ăn sinh sống ở đây, họ đều mang nguyên quán xã Phùng Chí Kiên ghi trong chứng minh thư.

Từ những ghi chép về thay đổi tên gọi của địa phương trong thư tịch trên đây, kết hợp với địa điểm di tích hiện còn và địa bàn nơi dòng họ đang cư trú, có thể xác định quê hương Phạm Sĩ Ái nay là xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng(10).

II. Về năm sinh:

CNKBVN (sđd) ghi: “Phạm Sĩ Ái sinh năm Bính Thìn (1806)”. Đối chiếu với Niên biểu Việt Nam (NBVN)(11), từ năm 1400 đến năm 2000 có 10 năm Bính Thìn nhưng không có Bính Thìn (1806), năm 1806 là Bính Dần.

Thác bản bia No1647 và No5697(12) ghi: “Phạm Sĩ Ái niên canh Bính Dần” (Phạm Sĩ Ái tuổi Bính Dần).

Quốc triều khoa bảng (QTKB)(13) ghi “Sắc tứ đệ nhị giáp Tiến sĩ Phạm Sĩ Ái nhị thập thất” (Đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ Phạm Sĩ Ái 27 tuổi).

Chúng tôi so bia và sách, kết hợp với cách tính cộng thêm một tuổi mụ của người Việt Nam, nhận thấy Phạm Sĩ Ái sinh năm Bính Dần (1806) là hợp với can chi (Bính Dần) ghi trong bia; hợp với tuổi đỗ (27) ghi trong QTKB, hợp với năm âm dương lịch (Bính Dần 1806) ghi trong NBVN.

III. Về năm mất:

Khoảng những năm kháng chiến chống Pháp, con cháu Phạm Sĩ Ái đã làm mất gia phả của dòng họ, trong hơn 300 quyển gia phả ở Viện Hán Nôm cũng chưa tìm thấy quyển nào ghi chép về dòng họ này. Bởi vậy tuổi thọ của ông các sách còn để dấu (?) (hỏi chấm). Trong ĐNTL có ghi: “Năm Canh Tý Minh Mệnh 21 (1840), mùa thu, tháng 7, ngày mồng một làm lễ thu lương, mở khoa thi hương ở Thừa Thiên, Nghệ An, Gia Định (…) Binh bộ Lang trung Biện lý Bộ vụ Phạm Sĩ Ái sung chức chủ khảo trường Gia Định, thự tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Văn Nhượng sung phó chủ khảo (…). Trường Gia Định chấm văn chưa xong, chánh phó Chủ khảo nối nhau ốm chết cả. Vua sai bọn đề điệu cả quyển thi niêm phong lại đưa về bộ”.

Căn cứ đoạn văn trên, dấu (?) được giải đáp: Phạm Sĩ Ái mất năm Canh Tý, Minh Mệnh 21 (1840), thọ 35 tuổi.

CHÚ THÍCH

1. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb KHXH, H, 1993, tr.706.

2. Thác bản văn bia kí hiệu, No1362 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

3. Quốc triều hương khoa lục, Nxb. Tác phẩm mới. HCM, 1993, tr.152.

4. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H, 1993, tr.944.

5. Thư viện Viện Hán Nôm, A.81/1-2

6. Nxb. KHXH, H. 1981, tr.7.

7. Cục đo đạc và bản đồ, kiách thước 55x75cm, tỉ lệ 1/150.000 năm 1992.

8. Nxb. Tổng cục thống kê, 1993.

9. Tháng 11 - 1992, chúng tôi đã in rập tấm bia này nộp Viện Hán Nôm bảo quản lâu dài. Nhân đây, chúng tôi xin cám ơn các vị lãnh đạo và nhân dân địa phương đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.

10. Xem thêm Tạp chí Hán Nôm, số 3 - 1994, tr.68.

11. Nxb. KHXH, H. 1984, tr.65.

12. Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

13. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv. 1271; VHv. 290; A.37.

TB

NGƯỜI TA LẠI NGHI NGỜ CẢ
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU HAY SAO?

CAO TỰ THANH

Tạp chí Văn học số tháng 8.1994, mục Trao đổi ý kiến có đăng tải bài Nguyễn Đình Chiểu có phải là tác giả “Lục Văn Tiên” không? của ông Nguyễn Quảng Tuân. Bài viết ngắn và rõ ràng, có điều mục tiêu học thuật và cách thức trao đổi của người viết thì rất không rõ ràng, nên người ta không thể không có ý kiến.

Trong bài viết nói trên, ông Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn ra ý kiến của một người Pháp là E.Villard trong Excursions et Reconnaissances năm 1882 cho rằng “Tác giả truyện Lục Vân Tiên không biết là ai, thật là một điều lầm lẫn khi người ta đem truyện thơ ấy gán cho một nhà nho ở tỉnh Vĩnh Long là Nguyễn Đình Chiểu, người chỉ có làm công việc chuyển viết sang chữ Nôm và đưa vào Nam Kỳ khoảng 50 hoặc 60 năm về trước. Truyện Lục Vân Tiên đã được phổ biến ở Bắc Kỳ từ thời cổ, và có lẽ là công trình của một trong những nhà thơ xưa chỉ ngâm đọc mà không ghi chép lại các tác phẩm của mình. Điều ấy giải thích vì sao chúng ta lại có nhiều bản Lục Vân Tiên rất khác nhau”. Không rõ ở đây ông Nguyễn Quảng Tuân chép và dịch tiếng Pháp có đúng không, nhưng theo câu chữ thì có thể thấy ngay rằng E.Villard vừa nói sai (Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu viết ra chữ Nôm khoảng năm, sau mươi năm trước 1882, nghĩa là khoảng 1882-1832, khoảng thời gian mà Nguyễn Đình Chiểu tối đa cũng chỉ mới có mười tuổi!) vừa nói bừa (Lục Vân Tiên đã được phổ biến ở Bắc Kỳ từ thời cổ), và lại còn nói rất bí hiểm nữa (Nguyễn Đình Chiểu ở Vĩnh Long đưa Lục Vân Tiên vào Nam Kỳ)… Nhưng chưa nói tới sự hiểu biết của nhiều người Việt Nam thế kỷ XIX - XX, ngay cả nhiều người Pháp từ Chánh Tham biện Bến Tre Michel Ponchon năm 1883 đến thống đốc Nam Kỳ Hoeffel năm 1940 cũng đã thấy họ không phát biểu thiếu cẩn trọng như E.Villard về vấn đề tác giả truyện Lục Vân Tiên.

Trích dẫn ý kiến của một học giả nước ngoài, ông Nguyễn Quảng Tuân đã chủ động chối từ việc thẩm định giá trị tư liệu với một thái độ có vẻ “khách quan”…! Nhưng ông chỉ “khách quan” có một nửa, “khách quan” một cách có dụng ý. Vì trên thực tế thì ông đã chịu khó suy đoán về lập luận mà cũng là chứng minh cho kết luận của E.Villard bằng cách nêu ra những “chứng cứ văn bản” mà cụ thể là một số bản Lục Vân Tiên phiên ra chữ quốc ngữ la tinh và dịch ra chữ Pháp in trước năm 1888 chỉ ghi là “Poeme populaire annamite”, hai bản Lục Vân Tiên chữ Nôm in ở miền Bắc năm 1897 và 1921 có nhan đề Vân Tiên cổ tích tân truyện và hai bản Lục Vân Tiên chữ Nôm khắc bản ở Quảng Đông chỉ ghi tên người đính chính là Duy Minh Thị mà không ghi tên người sáng tác. Theo sự suy diễn của ông Nguyễn Quảng Tuân, như vậy có nghĩa là các bản chữ quốc ngữ la tinh và chữ Pháp nói trên đã không thừa nhận Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của truyện Lục Vân Tiên, hai bản Nôm ở miền Bắc thì “đã cho Lục Vân Tiên là một chuyện được viết lại”, còn hai bản Nôm khắc bản ở Quảng Đông thì vì chỉ ghi tên người đính chính mà không ghi tên tác giả nên có thể không phải là của Nguyễn Đình Chiểu (đây là cách ông hiểu giùm E.Villard)…! Nhưng đó là một lối lập luận tuỳ tiện, khiên cưỡng và không ngay thẳng, bởi vì có thể thấy ngay rằng ông Nguyễn Quảng Tuân đã cố tình dẫn chứng thiếu và giải thích sai về tư liệu… Chẳng hạn, mặc dù có ghi là “Poème Populaire annamite” (Thơ dân gian An Nam), bản Histoire du grand lettré Louc Vian Téian của Eugène Bajot in năm 1886 ở Sài Gòn vẫn có bài tựa cho biết rất rõ những người Pháp quan niệm tác phẩm này là của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng ông Nguyễn Quảng Tuân lại chủ tâm lờ đi. Tương tự, ông cũng đã cố tình hiểu sai mấy chữ “cổ tích tân truyện” trong nhan đề của hai bản Nôm Lục Vân Tiên in ở miền Bắc nói trên, đồng thời còn lờ đi một sự thật là năm 1882 thì E.Villard không thể có các văn bản in sau năm 1882 để lập luận như ông. Về hai bản Lục Vân Tiên mà Duy Minh Thị đính chính khắc in ở Quảng Đông cũng vậy: ông Nguyễn Quảng Tuân đã cố ý quên rằng có không ít bản in Truyện Kiều chữ Nôm hoàn toàn không đề tên Nguyễn Du trên bìa, vì Truyện Kiều Lục Vân Tiên đã trở thành những tác phẩm loại “kinh điển” trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX - XX, không cần phải ghi tên tác giả người ta mới biết… Hơn thế nữa, với ý kiến “Sự dài ngắn khác nhau và sự dị biệt giữa các bản đã làm phức tạp thêm lịch sử sáng tác (chúng tôi nhấn mạnh - CTT) của quyển truyện”, ông Nguyễn Quảng Tuân còn nhập nhằng đánh đồng quá - trình - phổ - biến truyện Lục Vân Tiên (mà kết quả là dẫn tới sự xuất hiện nhiều dị bản) với quá - trình - sáng - tác tác phẩm, quá trình mà ông người Pháp E.Villard không biết. Ngoài ra, người ta còn rất ngạc nhiên với bản phiên âm trang bìa bản Lục Vân Tiên in kèm bài viết của ông Nguyễn Quảng Tuân”… Gia Định thành (?) Duy Minh Thị đính chính, … Phật (?) Sơn Bửu Hoa các tàng bản”, không biết ông đọc ở đâu được hai chữ thành Phật nói trên?

Tóm lại, với bài viết có nhan đề giật gân của mình, ông Nguyễn Quảng Tuân đã không làm điều gì khác hơn là gieo rắc ngờ vực trong người đọc, gây nhiễu thông tin khoa học về cả Lục Vân Tiên lẫn Nguyễn Đình Chiểu, và nguy hiểm hơn là đã theo đuôi một người nước ngoài ít hiểu biết mà hạ thấp vai trò, bôi nhọ uy tín của Nguyễn Đình Chiểu trong văn học sử Việt Nam. Bởi nếu căn cứ vào sự kiện Michel Ponchon nhờ Nguyễn Đình Chiểu nhuận chính một bản in chữ Nôm truyện Lục Vân Tiên với tư cách là tác giả và Nguyễn Đình Chiểu nhận lời vào tháng 11.1883, thì thái độ “khách quan” của ông Nguyễn Quảng Tuân cho thấy ông nghi ngờ Nguyễn Đình Chiểu đã mạo nhận là tác giả truyện Lục Vân Tiên là đánh lừa hàng triệu người đọc cả trăm năm nay, chứ không phải như E.Villard do ít hiểu biết mà sai (vả lại sự kiện nói trên xảy ra sau bài viết của ông ta). Điều này thật rất đáng ngạc nhiên, vì người ta còn nhớ rằng cách nay không lâu, ông Nguyễn Quảng Tuân còn lao tâm khổ tứ mà làm đồng tác giả cho cả một quyển Từ điển truyện Lục Vân Tiên hẳn hoi; và tuy từ điển của các ông có những chú giải rùng rợn và vô phương cứu chữa kiểu “mẹ con Quỳnh Trang - Võ Thể Loan bị cọp bắt đưa vào hang Thương Tòng để ăn thịt” (!), ông vẫn không tỏ ra mảy may nghi ngờ về quyền tác giả tuyệt đối và duy nhất đối với truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, thậm chí còn khá say sưa với các “từ địa phương” miền Nam trong tác phẩm, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận cái “gốc gác Nam Kỳ” của truyện Lục Vân Tiên…

Người ta có thể hoàn toàn tán thành một thái độ hoài nghi lành mạnh trong khoa học. Nhưng lối đặt lại vấn đề “Nguyễn Đình Chiểu có phải là tác giả của Lục Vân Tiên không? và nhất là lối “trao đổi” như ông Nguyễn Quảng Tuân trong bài viết nói trên không những chẳng ích lợi gì cho khoa học mà còn mang ý nghĩa của một sự phủ nhận truyền thống, gây nhiễu cho người đọc và bôi nhọ tiền nhân.

TB

VỀ "BỨC THƯ ĐỂ LẠI CỦA
PHẠM HỒNG THÁI"

PHAN VĂN CÁC

Xưa và nay số 3 (04) CVI.1994 có đăng Bức thư để lại của liệt sĩ Việt Nam Phạm Hồng Thái do Đặng Thắng Châu sưu tầm và Thanh Đạm dịch, kèm theo nguyên văn bằng chữ Hán. Đây là một tư liệu có giá trị để tìm hiểu thêm về người anh hùng Nghĩa liệt đoàn và về giờ phút hi sinh oanh liệt của Anh.

Tuy nhiên, đối với bản chữ Hán cũng như bản dịch, chúng tôi đều nhận thấy có những điểm cần làm sáng tỏ thêm.

Trước hết là về nguyên văn chữ Hán. Nhìn chung người đọc dễ dàng nhận ra từ ngữ và cú pháp nửa văn ngôn nửa bạch thoại, cũng như cách diễn đạt Hán văn kiểu Việt Nam khiến có thể tin rằng văn bản trên là chân thực. Song điều đáng tiếc là xuất xứ của văn bản chưa đủ rõ: Quốc văn chu báo là báo nào? xuất bản ở đâu? vào thời gian nào? Nguyên văn có ghi “đệ nhất quyển đệ nhất kì” (quyển thứ nhất, số 1) mà người dịch bỏ qua. Chú thích đó vẫn quá mơ hồ. Ước gì tìm được bút tích của liệt sĩ, hay chí ít cũng tìm được nguyên dạng ở tờ báo xuất bản ngay năm 1924. Còn văn bản đã có chỉ là bản được soạn thảo lại bằng chữ giản thể là kiểu chữ của thập kỉ 60 về sau, do một ban biên tập tư liệu nào đó thực hiện. Độ tin cậy vì thế có phần bị hạn chế.

Bản dịch không thật sát lắm nhưng cũng tạm ổn, trừ một chỗ sót và hai chỗ sai dưới đây:

Sót mấy chữ “của người Pháp” sau chữ “cường quyền” (dòng 4 bản dịch).

Sai ở câu “Hắn đến Phi Luật Tân thuộc nước Mĩ, đến Ấn Độ, Miến Điện thuộc Anh, cung cách độc ác, lang sói của hắn khó mà viết ra cho hết”, sai hẳn với nguyên tác. Câu đó lẽ ra phải nối với một đoạn câu trên mà dịch lại như sau: “Cái cách hắn ngược đãi nhân dân Việt Nam, bưng bít tai mắt của liệt cường thì dẫu Mỹ đối với Phi-lip-pin, Anh đối với Ấn Độ, Miến Điện cũng thực không đầy tội ác độc địa như vậy…”

Câu “Chỉ mong toàn thế giới nghe biết mà cứu xét” ở gần cuối cũng không đúng. Câu ấy phải dịch là: “Chỉ mong toàn thế giới xét kĩ mà cứu lấy…”, “cứu” đây là cứu lấy mạng sống của dân tộc này chứ không phải “cứu xét”.

Chỉ một bài văn nhỏ ngoài 500 chữ mà đã có đến mấy lỗi như vậy. Thế mới biết công việc phiên dịch quả không đơn giản chút nào! Vì trách nhiệm trước số đông độc giả không am tường Hán văn, vì yêu quý Xưa và nay và nhất là vì trách nhiệm đối với những lời trăng trối của liệt sĩ trước lúc tụ nghĩa, không thể không viết mấy dòng đính chính này, mong dịch giả và Toà soạn thông cảm cho.

TB

VỀ NGHĨA CỦA TỪ "TRIỆN HƯƠNG" TRONG THƠ NÔM

KIM ANH

“Triện Hương” là một từ hay xuất hiện trong thơ Nôm thời trung đại, thường được dùng để mô tả cuộc sống thanh khiết của các tao nhân, mặc khách, nho sĩ, người ẩn dật… chẳng hạn:

Song có hoa mai trì có nguyệt,
Án còn phiến sách, triện còn hương.
(Tự thân
12 - QATT)(1)

Thư trai vắng vẻ cảnh ngày nhàn,
Một quyển Hy kinh, một triện hương.
(Tức sự
3 - QATT)(2)

hoặc:

Thi nhân khi ấy chi làm bạn
Một triện trầm hương một chén chè.
(Lại vị cảnh hè - HĐQATT)(3)

Vật “triện hương” là gì ?

Các nhà nghiên cứu lần lượt chú thích như sau:

1. “Triện hương”: bánh hương hình chữ triện. Theo Hương phổ, những người hiếu kì dùng các thức có chất thơm tán thành bột rồi đem bột ấy chế thành một thứ hương hình chữ triện (chữ triện, chữ lệ). Thứ hương này có thể thắp được suốt một ngày một đêm”. (Xem Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm trong Quốc âm thi tập, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956).

2. “Triện: lò hương, vì nắp có khắc hình chữ triện, có lỗ hở ở giữa các nét chữ để khi đốt hương cho khói bốc qua cho nên gọi là triện hương” (Xem Đào Duy Anh trong Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd).

3. “Triện: lò đốt hương (vì có nắp thông khói trổ theo hình chữ triện) nên gọi là triện hương, hoặc chỉ cái giá đeo hương vòng làm theo hình chữ triện” (xem thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển), Sđd).

4. “Hương hình chữ triện, làm bằng gỗ trầm thơm. Theo sách Hương phả chép thì người hiếu kì thương dùng các thứ gỗ có chất thơm để chế một loại hương hình chữ triện, đốt trong Hồng Đức quốc âm thi tập, Sđd).

Theo trên, ta có ít nhất ba cách giải thích về “triện hương”:

1- Bánh hương hình chữ triện;

2- Lò hương có nắp trổ hình chữ triện;

3- Giá đeo hương hình chữ triện.

Vậy cách giải thích nào gần với sự thật ?

Tôi trong khi đọc sách của Phạm Đình Hổ - một học giả có tiếng ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, thấy ông giải thích hai chữ triện hương trong bài khảo về hương như sau, xin trích dẫn ra đây để bạn đọc cùng tham khảo:

“Hương có nhiều loại, không loại nào giống loại nào. Loại thường dùng là chứ hương, triện hương và tuyến hương (…) Triện hương là nấu sắt thành khuôn, chạm khắc nét chữ triện, nén mạt hương theo nét chữ, đốt lửa ở nét đầu của chữ triện, khiến cho hương cứ theo nét chữ mà cháy. Điều này lược thấy trong sách Thành kim đạo sinh nhập tiên của họ Thạch. Sách Đối liên tập của Trung Quốc có câu: Hương yên triện, xuất bình an tự (khói hương theo hình chữ triện “bình an” của bánh hương mà bốc lên) thì ý của câu này cũng như vậy. Có người giải thích khói hương bay lên thành hình chữ triện là nhầm. Vế dưới của câu đối là: Đăng diệm trang thành phú quí hoa (Lửa đèn tô điểm thành hoa phú quí). Bởi hoa mẫu đơn là hoa phú quí. Hoa mẫu đơn còn gọi là song đầu, trùng đài, ngọc lâu, vì nhụy hoa vươn lên tầng tầng lớp lớp. Phàm trong nhà có hoa đèn phun châu tầng tầng lớp lớp tất có điềm lành lớn. Tác giả lấy đó kết thành câu đối, cấu tứ rất khéo mà sự thực về hương nhân đó có thể xét được vậy”(4).

Qua đoạn trích dẫn trên, có thể thấy cách giải thích hai chữ “triện hương” là “Bánh hương hình chữ triện” của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm là đúng.

1. Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển), Nxb. Văn học, H. 1980, tr. 205

2. Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, Nxb KHXH, H. 1976, tr. 438.

3. Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 41.

CHÚ THÍCH

1. Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển), Nxb Văn học, Hà Nội, 1980, tr. 205

2. Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, Nxb. KHXH, H, 1976, tr.438.

3. Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 41.

4. Xem Quần thư tham khảo, Q2, tờ 34 - 35. Sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.487. Nguyên văn: “Kì loại bất nhất, sở thường dụng giả viết chú hương, viết triện hương, viết tuyển hương(…) Triện hương giả, dung thiết vi phạm, chú khắc triện văn, trấn hương mạt ư trọên văn, điểm hỏa ư triện văn chi thủ hoạch, sử chi trục hoạch nhiên hương, lược kiến ư Thạch Thị thành kim đạo sinh nhập tiên giả, thị giã. Nội địa Đối liên tập hữu vân: “Hương yên triện xuất bình an tự, kì ý diệc nhiên. Hoặc nhận yên phi thành triện văn giả, ngộ giã. Hạ cú đốt vân: “Đăng diệm trang thành phú quý hoa”. Cái mẫu đơn chi phú quý giả mẫu. Mẫu đơn hoa hữu song đầu, hữu trùng đài, hữu ngọc lâu, hoa nhụy chi thượng, tằng tằng đôi khởi. Phàm nhân gia đăng hoa phún châu tằng tằng đôi khởi giả, tất hữu cát khánh. Tác giả sĩ thử kết đối, cấu tứ thậm xảo nhi hương chi sự thực nhân khả khảo giã.

TB

LẠI THÊM MỘT BẢN DỊCH
TRƯỜNG HẬN CA

THẾ ANH

Tỳ bà hành Trường hận ca là hai bài thơ trường thiên xuất sắc nhất của Bạch Cư Dị đã được lưu truyền từ lâu ở Việt Nam và có ảnh hương sâu rộng trong nhân dân ta. Hai tác phẩm này đã được Phan Huy Thực và Tản Đà dịch rất thành công. Bài dịch Tỳ bà hành chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong Tạp chí Hán Nôm số 2/1993 và số 3/1994), còn bài dịch Trường hận ca của Tản Đà thì có người đã nhận xét “Vừa sát nghĩa, sát ý, vừa linh hoạt uyển chuyển, không chỗ nào gượng gạo, non yếu, trái lại đều cứng cát, sắc sảo, chỗ như dệt, như thêu, chỗ như chạm, như trổ, bản dịch thực sự xứng đáng hoàn toàn với nguyên tác, dịch giả đứng ngang tầm với tác giả”(1).

Vừa qua, ông Nguyễn Thạch Giang đã cung cấp cho người đọc một bản dịch khác của một số thân sĩ ở Bình Định(2). Mới đây chúng tôi lại được ông Nguyễn Thượng Xứng(3) đọc cho nghe một bản dịch Trường hận ca mà theo ông, thì có lẽ là của một vị Án sát họ Nguyễn ở Phương Khê thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi chưa có điều kiện xác minh, nhưng sau khi nghiên cứu bản dịch này, chúng tôi cho rằng đây là một bản dịch tốt, sát ý, có số câu tương ứng với số câu trong nguyên bản, có nhiều đoạn dịch thanh thoát và sáng tạo. Vì người cung cấp chỉ nhớ thuộc lòng chứ không có văn bản, nên có một số từ chúng tôi vẫn còn ngờ ngợ nhưng vẫn để nguyên và có vài ba câu còn để trống vì chưa nhớ lại được.

Để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, chúng tôi xin ghi lại đây bài dịch đó.

Vua Hán(4) chuộng mặt người quóc sắc,
Sai người tìm dằng dặc bấy nay.
Học Dương có gái nhà này,
Buồng riêng nâng giấc, ai hay mặt hàng.
Giời đúc chuốt người càng chai (?) lịch,
Một mai vào Thái Dịch chầu vua.
Miệng cười trăm thức nở đua,
Sáu cung(5) son phấn cũng thua mặt này.
Hồ trong vắt tắm ngày xuân lạnh,
Suối ấm tuôn phấn quạnh màu da.
Chị hầu nâng dậy thướt tha,
Ơn trên đầm ấm thật là từ đây.
Mặt hoa rẽ tóc mây quét gót,
Màn phù dung ấm suốt đêm xuân.
Đêm ngại ngần, ác lên dần,
Buổi chầu từ đấy đã gần xế trưa.
Những chầu chực lòng chưa thong thả,
Xuân chơi xuân, đêm đã sang đêm.
Ba nghìn sắm sửa áo xiêm,
Ba nghìn chăn ấm chiếu êm một mình.
Nhà vàng suốt năm canh hầu hạ,
Say trong lầu chưa hả vì xuân.
Ơn trên rơi xuống người thân,
Anh em rạng vẻ đai cân một nhà.
Khiến thiên hạ lòng cha cùng mẹ,
Chuộng Kiều nhi mà rẻ nam nhi.
Mây xanh che lớp cung Ly(6)
Tai nghe tiếng nhạc gió đi vang lừng.
Điệu hát múa cầm chừng ti trúc,
Chưa chán ai xem lúc ban ngày.
Ngư Dương (7) nổi trống tới ngay,
Quần Nghê áo Vũ tan bay bơ phờ.
Chín thành quyết mịt mờ gió bụi,
Ngàn ngựa xe dong ruổi Nam Tây.
Lá cờ đi đứng lung lay,
Cửa đô bước tới dặm rày hơn trăm.
Sáu quân chẳng xa xăm (?) khôn nhẽ,
Trước ngựa riêng oan kẻ nga mi.
Thoa rơi ai sá nhặt chi,
Vòng vàng xuyến bạc còn ghi bên đầu.
Vua Hán luống ngậm sầu che mặt,
Một niềm riêng đôi mắt giọt châu.
Gió bay bụi sạch làu làu,
Đường lên Kiếm Các quanh cầu mây đi.
Ngang sườn núi Nga My (8) mấy kẻ,
Bóng mặt trời đã xế cờ tinh.
Phương Tây nước biếc non xanh,
Chín lần một gánh chung tình sớm hôm.
Trăng cung vắng như nom tận ruột,
Nhạc đêm mưa nhường lọt tới gan.
Ơn trời đem lại xe loan,
Thẩn thơ bước tới khoan khoan lại dừng.
Mã Ngôi nọ trông chừng cồn đất,
Chốn cũ đây, nào mặt hồng nhan?
Đoái thương tấm áo chứa chan,
Trông chừng kẻ chợ nâng an ngựa về.
Khi về thấy bốn bề như cũ,
Sen đầy hồ liễu rủ trong cung.
Mày dương liễu, mặt phù dung,
Đoái trông khôn nhẽ ngăn dòng châu tuôn.
Đêm xuân gốc hoa phun cành lý,
Ngày thu mưa lá xí cây ngô.
Đìu hiu cỏ mọc thành đô,
Bên thềm chẳng quét lá khô bời bời.
Người con hát rã rời tóc bạc,
Kẻ chực hầu nhơ nhác mày xanh.
Huỳnh bay điện vắng buồn tênh,
Khêu đèn đã hết mối tình chưa yên.
Đêm dằng dặc canh truyền tiếng trống,
Giời mờ mờ rạng bóng tinh hà.
Ngói uyên (9) nặng giọt sương sa,
Chăn mừng hơi giá ai là tình chung.
Càng ly biệt càng trông chẳng thấy,
Giấc chiêm bao biết mấy mà không
Hồng Đô (10) có khách Lâm Cùng (11),
Đem ngoài hồn phách vào trong tinh thần.
Nặng vì trên chín lầu trăn trọc,
Sai người tìm lặn mọc dò la.
Nương mây cưỡi gió đi qua,
Lặn vào trong đất, luồn ra ngoài giời.
Chốn xanh nọ cùng nơi vàng ấy,
Khắp đôi đường chỉ thấy mênh mông.
Nghe trên biển có tiên phong,
Núi non chót vót quanh không lầu lầu.
Mây lồng bóng nóc lầu lóng lánh,
Tiên ở trong chắp cánh bẻ bai.
Ngọc Chân tên ấy có người,
Mặt hoa da phấn ở đời như in.
Gõ cửa ngọc tây hiên đến hỏi,
Ả ngọc kia cậy nói cô Thành.
Nàng nghe tin sứ thánh minh,
Đang mơ giấc điệp giật mình trướng hoa.
Khoác áo dậy la đà đẩy gối,
Ngân bình kia mở lối rèm châu.
Bước ra còn rối mái đầu,
Mũ hoa chẳng sửa xuống chầu trước sân.
Gió lay động mấy lần phấp phới,
Nhường áo lông múa với quần Nghê.
Châu rơi mặt những ủ ê,
Mưa xuân lấm tấm hoa lê một cành.
Ngập ngừng mới tạ tình vua Hán,
Rằng trăm năm cách gián đôi đường.
Kể từ giã cảnh Chiêu dương,
Biết bao ác bạc thỏ vàng non tiên.
Khi ngoảnh lại mà nhìn dưới cõi,
Tràng An kia khói bụi mịt mù.
Nỗi này mới tỏ tình cho,
Vòng vàng xuyến bạc là đồ gửi đi.
Gửi một mảnh, làm ghi một mảnh,
Mối chung tình nửa gánh chưa tan.
Lòng kia xin vững như vàng,
…………………………………
Trường sinh đôi bảy tháng ngày,
Nỉ non đêm vắng lời này riêng nghe.
…………………………………
…………………………………
Trên làm chim xin liền đôi cánh,
Dưới làm cây xin dính đôi cành.
Có phen tan hết vàng xanh,
Mà lòng dừng dặc mối tình chứa chan.

CHÚ THÍCH

1. Trần Thanh Dạm - Thơ Đường - Tản Đà dịch. Nguyễn Quảng Tuân biên soạn. Nxb Trẻ 1989.

2. Tạp chí Hán Nôm số 2 (13) - 1992.

3. Nhà giáo nghỉ hưu, cháu cụ Nguyễn Thượng Hiền.

4. Vua Hán: chỉ Đường Minh Hoàng. Bạch Cư Dị là bề tôi nhà Đường, nên không tiện nêu đích danh, mà chỉ nói chệch ra là “Vua Hán”.

5. Sáu cung: nơi ở của các cung phi.

6. Cung Ly: một hồ trên núi Ly Sơn, có suối nước ấm. Đường Minh Hoàng sai xây cung điện ở đấy đẻ nghỉ ngơi và du ngoạn.

7. Ngư Dương: nơi đóng quân của An Lộc Sơn, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

8. Nga My: một ngọn núi ở phía Tây nam tỉnh Tứ Xuyên.

9. Ngói uyên: Ngụy Văn Đế năm mơ thấy hai phiến ngói rơi xuống đấtm hóa đôi uyên ương, về sau người ta gọi thứ ngói cứ ghép hai phiến một để lợp nhà là ngói uyên ương.

10. Hồng đô: dùng để chỉ nơi kinh đô, trước là cửa một cung điện đời Hán.

11. Lâm Cùng: nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên.

TB

ĐÌNH LÀNG ĐÌNH QUÁN VÀ VĂN BIA CỦA LÊ HIỂN TÔNG

ĐỖ THỈNH

Đình Quán xưa có tên Nôm là Kẻ Diễn, thuộc xã Phù Diễn, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, nay là một thôn thuộc xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Đình Quán là một làng nhỏ, năm 1920 cả làng chỉ có hơn 50 hộ và 73 suất đinh với 25 ẫu 8 sào ruộng, nên cả làng phải làm thêm nghề phụ là hàn bán đồng nát, muabán lông gà lông vịt.

Giữa làng có ngôi đình có liên quan đến tên làng. Tương truyền xưa có một vị quan to xây cho làng ngôi đình, vì dân ít và ngheo, nên gọi là “Đình quan”. Về sau gọi chệch ra là “Đình quán” và trở thành tên làng. Đầu hồi đình có con đường chạy dọc cắt làng ra làm hai giáp Đông Quán và Tây Quán.

Có thể đình làng Đình Quán do hoàng thân Trạc quận công xây dựng đời Lê Thuần Tông (1732 - 1735), thờ thành hoàng có vị hiệu là Tuy Dụ Diễn Khánh Đại vương. Hiện nay trong đình có 11 đạo sắc phong của các vua Lê Cảnh Hưng năm 44 (1783), Quang Trung thứ 5 (1792), Cảnh Thịnh thứ 4 (1796), Minh Mệnh thứ 2 (1821) Thiệu Trị 2 đạo (1845), Tự Đức 2 đạo (1850 - 1881), Đồng Khánh (1887), Duy Tân (1909), Khải Định (1924).

Đáng chú ý là trong đình hiện còn tấm bia đá lớn, cao 1,70m, rộng 0,80m, trán bia có rồng chầu mặt nguyệt. Bia dựng năm Cảnh Hưng 17, Bính Tý (1756) do vua Lê Hiển Tông viết văn bia. Sau đây là toàn văn bản dịch “Hậu thần bi ký” ở đình làng Đình Quán(1).

Bài ký bia hậu thần

Nhà vua soạn bài ký ghi trên bia hậu thần, viết về vị hoàng thân triều trước là Tham đốc được phong tặng Đô hiệu điểm, lại được gia phong Thái Bảo, Trạc quận công, được ban tên thụy là Cẩn Tín.

Nghĩ rằng: Thuận dưỡng bản tính con người, quạt gió hòa ở nơi tám cõi, dựng đặt sửa sang phép tắc cho dân để thờ cúng ngàn năm. Lòng người tha thiết với đạo hiếu là như vậy đó.

Nghĩ phụ hoàng của trẫm vâng nhận ngôi báu, kính cẩn đức hóa ở chốn cung đình. Lúc này bà Chiêu Nghi đã sớm hợp duyên trời, được phụ hoàng của trẫm cho gần gũi chầu hầu, được liệt vào hàng phi tần sủng ái. Thơm thảo đã hun đúc lên tinh anh, rồi bà sinh được người con trai đặt tên là Thân ý. Đứa bé đẹp như chim phượng đã déo dài thêm tông phái của triều đình, làm hưng chấn lên vẻ đẹp của vết tích gót con kỳ lân. Thật là phận quý được thậm ơn, tắm gội niềm vui lớn. Mùa xuân ấm áp trên lầu quỳnh gác tía làm cho đài của các trái cam càng thêm đẹp.

Nhưng than ôi! Cỏ thơm mộng vỡ, hoa đẹp vậy sao bỗng chốc lại tàn ngay? Trong cung đình thiết trướng cáo tang thật bất ngờ. Bảo là về, không biết hãy về đâu? hỡi các nhà xung quanh cung thất ? Bóng đã khuất xa đâu dừng dây cương ngựa, lòng thành nhớ tới cội nguồn.

Nay thôn Đình Quán, xã Phù Diễn, Huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai là quê hương của ông Thân Ý. Lúc ông còn sống (đối với ông) cũng có nhiều ân nghĩa, vậy nên mọi người trong thôn tôn ông làm hậu thần. Xét lúc sinh thời ông có lòng tốt nên nay mới báo đáp ơn sâu. Sau khi ông mất lại tăng thêm ân điển để an ủi vong linh ông nơi chín suối.

Bản xã bèn dùng 12 mẫu ruộng tốt, 230 quan tiền để phụng thờ ở các tiết trong năm. Lễ vật ở các lần tế tự theo như nghi thức đã quy định phải sửa biện cho đầy đủ. Mọi điển lệ được ghi lại rõ ràng để chiếu sáng cho muôn đời vĩnh cửu. Lại soạn văn bia khắc vào đá để lưu lại trăm đời bất hủ.

Than ôi, bút đẹp trang hoàng tên ông trường tồn với trăng sao. Bia cao sừng sững vĩnh viễn không mất cùng với núi sông.

Bài minh rằng:

Tôn thất diên trường,
Dòng dõi đẹp sáng;
Chức tước cao sang,
Thiên tư trí tuệ.
Cần, kiệm để giàu sang,
Phú quý nhưng hiếu lễ.
Không thích việc giấu làng,
Cho việc cứu giúp người là quý.
Cứu giúp người nghèo,
Bằng thóc gạo trong kho.
Năm nay bố thí,
Năm sau càng bố thí.
Khi nào hết mới thôi.
Chỉ mong giúp người được nhiều,
Để báo ơn mọi người cùng nghĩ.
Nhớ tới lúc được thêm ơn sâu,
Sửa lễ rất long trọng
Điển lễ thật đàng hoàng,
Đồ tế càng sạch sẽ.
Hoa đẹp cúng quanh năm,
Trải muôn đời giữ mãi,
Vĩnh viễn hưởng lộc nhiều.
Một tòa bia sừng sững,
Cao mãi cùng đất trời !

* Các tiết lễ nghi:

Ba ngày tết Nguyên đán vào tháng giêng: mỗi ngày lễ vật gồm một con gà trống giá 3 mạch tiền cổ, một mâm xôi mười bát gạo nếp, rượu, trầu, đèn giá 3 mạch tiền cổ, 5 chiếc áo, một đôi chiếu trắng, vàng mã giá 8 mạch tiền cổ.

- Tiết Đoan Ngọ vào tháng năm: lễ vật gồm 1 thủ lợn giá 1 quan 2 mạch, một mâm xôi 15 bát gạo nếp, rượu, trầu, hương, đèn, vàng mã giá 3 mạch tiền cổ.

Ngày 12 tháng 7 là ngày sinh của ông, lễ vật gồm: 1 thủ lợn giá 2 quan tiền cổ, 1 mâm xôi 20 bát gạo nếp, rượu, trầu, hương, đèn, vàng mã giá 3 mạch tiền cổ.

- Tiết Trung thu vào tháng 8, lễ vật một con gà trống giá 3 mạch tiền cổ, 1 mâm xôi 15 bát gạo nếp, rượu, trầu, hương, đèn, vàng mã giá 3 mạch tiền cổ.

- Ngày 14 tháng 11 lễ dự cáo, lễ vật gồm 1 thủ lợn giá 1 quan tiền cổ, 1 mâm xôi 20 bát gạo nếp, rượu, trầu, hương, đèn, vàng mã giá 2 mạch tiền cổ.

- Ngày15 tháng 11 ngày giỗ, lễ vật gồm 1 mâm cỗ dâng tiến quy định 20 bát giá 5 mạch tiền cổ, 1 đầu trâu giá 6 quan, 1 mâm xôi 30 bát gạo nếp, 5 chiếc áo, 1 ngàn vàng mã, rượu, trầu, hương, đèn, vàng mã giá 6 mạch tiền cổ.

Bản thân ca hát, cầu phúc (ghi tiếp ở bên trái mặt bia sau), tên thụy, tên hiệu viết vào văn tế. Hàng ngày lễ gồm xôi, rượu, trầu tùy theo hoàn cảnh đương thời.

Bản thôn tế xong, mang biếu những người trông coi việc tế tự thủ lợn hoặc đầu trâu sống để coi trọng lễ nghi, đây là thường lệ.

Ngày lành, tháng trọng xuân, năm Bính Tý, Hoàng triều Cảnh… năm thứ 17.

Khâm sai tả phiên án Lại cai hợp Huyện thừa, Hoè Lộc tử Phạm Dung vâng mệnh lệnh viết chữ.

Trong bia, sau chữ “Hoàng Tirều” tiếp 2 chữ bị đục nhưng chữ đầu vẫn còn rõ là chữ Cảnh. Qua truy xét thì chữ bị đục là chữ Hưng, bởi vì Cảnh Thịnh không có năm thứ 17 và nội dung văn bia đúng là do vua Lê Hiển Tông viết về người em con bà phi của vua cha Lê Thuần Tông. Bà Chiêu Nghi quê ở làng Đình Quán, không rõ tên họ, Chiêu Nghi chỉ là chức do vua ban bậc thứ nhất trong 9 bạc cung tần.

Văn bia do vua trực tiếp viết ra rất quý hiếm, song nội dung bia có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hoá, xã hội thời Lê mạt.

TB

TÌM THẤY BỐN BÀI THƠ NÔM TRONG GIA PHẢ HỌ NGUYỄN GIA

NGUYỄN DUY HỢP

Trong thông báo đọc tại Hội nghị thông cáo khoa học: Những phát hiện mới về văn hóa Hà Bắc, tháng 10-1993, tôi đã công bố tìm thấy mấy bài thơ Nôm chép trong Gia phả họ Nguyễn Gia ở xã Liễu Ngạn (Thuận Thành - Hà bắc), tức là dòng họ của nhà thơ, danh nhân văn hoá Nguyễn Gia Thiều. Tất cả gồm 4 bài, 1 của Nguyễn Gia Thiều, 1 của Nguyễn Gia Ngô, thân phụ nhà thơ và 2 bài của Nguyễn Gia Châu, ông nội của nhà thơ.

Đây là những bào thơ xưa nay chưa biết đến, may mắn gia phả còn ghi lại. Ngoài Nguyễn Gia Thiều, các tác gia khác như Nguyễn Gia Ngô và Nguyễn Gia Châu, hoàn toàn xa lạ trên thi đàn Việt Nam, mặc dù sinh thời, Nguyễn Gia Ngô có cả một tập thơ Quốc Âm. thơ Nguyễn Gia Thiều được Lý Văn Phức ca ngợi là “Thiên đoàn bách luyện ngữ kinh nhân” ngoài khúc ngâm Cung Oán, còn có 4 tập thơ nữa như Ôn Như thi tập, Tây hồ thi tập, tiền hậu thi tập, Tứ Trai thi tập mà bây giờ ta cũng chỉ được biết đến 1 khúc ngâm và 2 bài thơ ngắn. Tìm được 1 bài thơ của các bậc tiền bối, đáng quý biết bao!

Ý thức được giá trị của tư liệu văn học này, năm 1991, nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Gia Thiều, tôi đã đưa in giới thiệu 2 trong 4 bài trên ở các báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Nay xin giới thiệu cả 4 bài kèm theo tiểu sử sơ lược của từng tác giả, mong cung hiến bạn đọc một ít tư liệu, để hiểu thêm về danh nhân văn hoá Nguyễn Gia Thiều và những người trong gia đình nhà thơ. Văn bản dưới đây đều trích trong Gia phả họ Nguyễn Gia (Liễu Ngạn).

NGUYỄN GIA CHÂU (1678-1757)

Nguyễn Gia Châu tên chữ là Thanh Lăng, thụy Đoan Cẩn, là con Bỉnh quận công Nguyễn Gia Đa. Quê làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc; nay là thôn Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.

Nguyễn Gia Châu (Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép là Nguyễn Minh Châu, Văn bia Long đức nhị niên tiến sĩ đề danh ký chép là Nguyễn Minh Chu) xuất thân quan võ. Năm Chính Hòa thứ 20 (1699) triều Lê, ông mới 23 tuổi đã được chú Trịnh căn cử đi kinh ký ở Quốc phủ và giữ Ngũ hồ. Năm 1704 giữ chức Đô chỉ huy Thiêm sự, quản uỷ và được cử đi trấn thủ lần lượt các xứ An Quang, Kinh Bắc, Sơn Nam, Thanh Hóa. Từ năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712) đến năm Cảnh Hưng thứ 13 (1752) trong vòng 40 năm Nguyễn Gia Châu liên tiếp thông suất xứ Nghệ An và châu Bố Chính.

Người bấy giờ gọi là “Lưu Đồn Chúa”. Năm 1733, làm Đề điệu khoa Qúi Sửu, niên hiệu Long Đức. Năm 1754 giữ chức Thự phủ sự, Đại tư đồ, đứng đầu võ ban. Mất năm Đinh Sửu (1757), thọ 80 tuổi, được bao phong Ý Túc Trung Vũ Đại vương, cấp việc cúng tế cho hai xã và ban cho 5 mẫu ruộng liêm điền.

Gia phả cho biết: “Thời gian ở Nghệ An, những lúc công việc nhàn rỗi, ngài lại cùng bọn nho sĩ giảng bàn kinh nghĩa. Cũng có khi hứng chí làm thơ…” Sau đây là hai bài thơ Nôm của Nguyễn Gia Châu:

1 - ĐỀ Ở CỬA SINH TỬ

Chim kêu nội lực lừng ca vũ,
Cá lượn khe xanh lắng quản huyền.
Dù những tao nhân du thưởng đấy,
Thết thoi vàng giấy để làm duyên.

2 - DU THƯỞNG LINH SƠN TỰ

Vâng lệnh hai lần trấn Nghệ An,
Nhàn du tập phúc cảnh Linh San.
Bốn bề ngất thắm non nương tục,
Một vũng lồng xanh nước rửa oan.
Gió cuốn hương nghê lồng bảo tọa,
Trăng soi gương thỏ giãi thiền quan.
Từ bi cảnh ấy thênh thênh rộng,
Bút hứng nhường bao mặc thế gian.

NGUYỄN GIA NGÔ (1714 - 1757)

Đạt Vũ hầu Nguyễn Gia Ngô là con trưởng Siêu quận công Nguyễn Gia Châu. Năm 20 tuổi, lấy con gái thứ sáu của chúa Trịnh Cương là Quận chúa Quỳnh Liên Trịnh Thị Ngọc Tuân (thân mẫu Nguyễn Gia Thiều), được phong là Quận mã. Năm 1743 trấn thủ Thái Nguyên, tước hầu. Năm 1748 chúa Trịnh Doanh (anh vợ) vời về triều làm Thiêm sai Ngũ phủ Phủ liêu rồi sung chức Nhật giảng (dạy thế tử học). Ông giảng sách có nhiều nghĩa lý phát minh và đều ngụ ý khuyên can nhà chúa.

Nguyễn Gia Ngô xuất thân quan võ, đặc biệt có tài bắn cung, đương thời gọi là Do Cơ bá.

Ông có tập thơ Quốc Âm (nay đã mất), chỉ còn sót đôi câu chép trong gia phả. Bài dưới đây nhan đề do chúng tôi đặt.

CẢM TÁC
Khải vận mừng trên có Thánh quân,
Tiếc thay niên thiếu dự lương thần.
Tại triều ấy những ai Y, Lã(1),
Cửa khổn thời nào sức Phủ, Thân(2).
Uốn lưỡi trước sân hươu trỏ ngựa(3).
Quấy dơ trong nước giặc là (?) dân.
Muốn nên thịnh trị như Nghiêu, Thuấn(4),
Ắt chẳng gì hơn dụng Đức, Nhân.

NGUYỄN GIA THIỀU (1741 - 1798)

Với tác phẩm Cung oán ngâm khúc, từ lâu Nguyễn Gia Thiều đã trở thành một cây đại thụ trên thi đàn Việt Nam. Nhưng rất lạ là tiểu sử của Nguyễn Gia Thiều có nhiều lầm lẫn, sai lạc. Phần chép dưới đây về tiểu sử của ông, được thực hiện tương đối tỉ mỉ, chi tiết là nhằm đính chính những điểm sai lạc đó.

Nguyễn Gia Thiều hiệu là Hi Tôn Tử và Như Ý Thiền, là con trưởng Đạt Vũ hầu Nguyễn Gia Ngô và Quỳnh Liên quận chúa Trịnh Thị Ngọc Tuân. Ông sinh giờ Sửu, ngày mồng 6 tháng 2 năm Tân Dậu (tức ngày 22 tháng 3 năm 1741). Ông là hậu huệ đời thứ 24 của Thái tể Định quốc công Nguyễn Bậc, khai quốc công thần triều Đinh (“Gia Ngô” trước nhầm là Gia Cư”).

Vì là con cháu nhà Chúa nên mới 5 tuổi, Nguyễn Gia Thiều đã được vào nội dưỡng trong Vương phủ. 12 tuổi được ban cho hưởng lộc điền 10 mẫu ở xã Quang Biểu (nay thuộc huyện Việt Yên, Hà Bắc), ở xã Lân Cương, cũng thuộc Việt Yên. 19 tuổi làm quan Hiệu uý quản Trung mã tả đội. Năm Tân Mão (1771), thăng Tổng binh đồng tri, tước Ôn Như hầu. Vậy mà đến năm Giáo Ngọ (1774) mới có 33 tuổi, Nguyễn Gia Thiều đã chán công danh, bỏ khiếm việc binh, về nhàn cư ở Tây Hồ.

Khi ở Tây Hồ, Nguyễn Gia Thiều lấy hiệu là Tâm Thi Viện Tử (Từ điển văn học chép nhầm là “Tân Thi Viện Tử”), lại hiệu là Sưu Chân (Từ điển văn học chép nhầm là “Sơn Nhân”). Ông cùng ba người em ruột lập tao đàn “Tứ Trai” để ngâm vịnh. “Tứ Trai” gồm Nguyễn Gia Thiều “Tâm Trai”, Nguyễn Gia Cơ (Kỳ Trai), Nguyễn Gia Viêm (Họa Trai) và Nguyễn Gia Chu (Thanh Trai). Tứ trai đều có suy hiệu là “Thi Ấn”, “Thi Xích”, “Thi Cầm”, “Thi Thược”. Tập thơ Tứ Trai là tập hợp sáng tác của bốn anh em. “Tứ trai” không phải là hiệu của Nguyễn Gia Thiều như trước đây hiểu lầm. Nguyễn Gia Thiều còn cùng ba người khác lập “Tứ Linh Tửu Hữu” để uống rượu tiêu sầu.

Ngoài tài thơ văn, Nguyễn Gia Thiều còn thông thạo hội họa, kiến trúc. Thời gian từ năm 1774 đến năm 1781, ông giúp nhà Vua trùng tu 6 cung trong Hoàng thành, xây tháp chùa Tiên Tích, dựng thành cung 7 chỗ cho chúa Trịnh. Ông rất được vua khen ngợi. Chúa ra chơi tận nhà riêng. Vua tặng một chiếc áo ngự bào và cho hiệu là “Sơn Thủy Nhân Hoa”.

Năm Nhâm Dần (1782) Nguyễn Gia Thiều cử làm Trấn thủ Hưng Hóa. Ông có công dụ dư đảng Hoàng Công Chất đem 10 châu biên giới qui phục triều đình. Tiến sĩ Hồ Sĩ Đống có thơ mừng tặng. Tháng chạp năm đó chúa Trịnh Sâm mất. Trịnh Khải mưu cùng quân Tam phủ phế truất Trịnh Cán, tự lập làm chúa. Trịnh Khải ngờ Nguyễn Gia Thiều ủng hộ Trịnh Cán, nên triệu ông về Kinh bỏ ngọt. Rất có thể tâm trạng của ông lúc này cũng giống như tâm trạng người cung nữ bị bỏ rơi, nên ông đã sáng tác khúc ngâm Cung oán để ký thác.

Năm 1786 Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc diệt họ Trịnh. Vua Chiêu Thống muốn thâu tóm quyền hành, phong Nguyễn Gia Thiều làm Đê đốc quản cả 6 cơ. Nhưng quyền lực đã bị nhiều phe phái xâu xé, không thực hiện được ý đồ của ông vua trẻ. Nguyễn Gia Thiều lại bỏ về Tây Hồ.

Năm 1789 vua Quang Trung kéo đại quân ra Bắc cả phá quân Thanh. Nguyễn Gia Thiều sợ, chạy lên Sơn Tây rồi Hưng Hóa. Quang Trung cho tìm về, phong quan chức Nguyễn Gia Thiều không nhận, ngày ngày uống rượu giả điên. Biết không thể thu phục được nhà thơ, năm 1797 vua Cảnh Thịnh đã trả lại tự do cho ông. Ông về nhà, đến giờ Ngọ ngày mồng 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ (tức ngày 22 tháng 6 năm 1798) thì qua đời. Mộ táng tại nhà Huy Vũ trại ở Kinh. Sau táng ở trại Bà Hoàng, phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức (tức Hà Nội bây giờ). Vậy mà mấy năm nay người ta cứ đến thắp hương viếng mộ ông ở Liễu Ngạn, Thuận Thành, Hà Bắc!

Bài thơ sau đây có nhan đề Tạ bạn cũ, viết năm 1797, khi được Tây Sơn cho về nhà, là tác phẩm cuối cùng, là lời tự bạch, là bản tổng kết cả cuộc đời nhà thơ Nguyễn Gia Thiều.

TẠ BẠN CŨ
Mở mắt ra nhìn nước thánh minh,
Xét tài chẳng dám lạm công danh,
Ngửa thân cứ trực trong thời mệnh,
Ẩn tích hằng pha chốn thị thành.
Miệng thấy khói ra câu nọ khí,
Dạ nghe gặn dưới chén kia tình.
Ấy đang vinh buổi anh em thế,
Vì nỗi đa niên liễu phải cành.

CHÚ THÍCH

1. Y, Lã: Y Doãn và Lã Thượng, hai vị hiền thần triều Thương và triều Chu nước Trung Hoa cổ đạt.

2. Phủ, Thân: Phủ hầu và Thân bá, bầy tôi Chu Tuyên vương, có công lớn với nhà Chu.

3. Hươu trỏ ngựa: Về đời Tần Nhị Thế, gian thần Tể tướng Triệu Cao dâng vua con hươu lại nói là con ngựa! Kẻ nào đón ý Triệu Cao bảo là ngựa, thì được Triệu Cao dùng. Ai trung thực bảo là hươu thì bị hãm hại.

4. Nghiêu, Thuấn: Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, hai triều đại nổi tiếng thái bình, thịnh trị của Trung Quốc.

TB

MỘT CÔNG TRÌNH KHẢO DỊ CÓ GIÁ TRỊ VỀ THƠ CA VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XV:
THƠ CHỮ HÁN LÊ THÁNH TÔNG

NGUYỄN ĐĂNG NA

Nhà xuất bản Khoa học xã hội vừa cho ra mắt bạn đọc Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông(1). Đây là công trình do các nhà nghiên cứu Hán Nôm: Mai Xuân Hải (chủ biên), Nguyễn Văn Bến, Trần Quí, Phạm Thuỳ Vinh, Hoàng Hồng Cẩm, Nguyễn Tuấn Lương thuộc Viện Hán Nôm của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia khảo dịch. Công trình đã được giáo sư Hán học Trương Đình Nguyên thẩm định và hiệu đính. Với TCHLTT, người đọc được thưởng thức 207 bào thơ của Lê Thánh Tông, bao gồm toàn bộ 5 tập thơ: Châu cơ thắng thưởng thi tập, Chinh Tây hành kỷ thi tập, Minh Lương cẩm tú thi tập, Văn minh cổ xuý thi tập, Quỳnh uyển cửu ca thi tập và 136 bài thơ khác không nằm trong tập thơ riêng nào. Như vậy, ngoài Anh hoa hiếu trị thi tập đã mất từ lâu và Cổ tâm bách vịnh thi tập, tập thơ đánh giá và bình luận về lịch sử Trung Hoa, thì về cơ bản, thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông đã được giới thiệu gần đủ(2). So với Thơ văn Lê Thánh Tông(3) ra đời cách đây 8 năm thì TCHLTT đã tuyển dịch thêm 109 bài, nhiều gấp hơn hai lần. Lượng đổi đến một dộ nào đó sẽ làm cho chất đổi. Bởi vậy, với con số 207 bài, Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về hồn thơ lộng gió thời đại của vị anh quân - thi nhân Lê Thánh Tông.

TCHLTT không chỉ tăng về số lượng, mặc dù “lượng đổi thì chất đổi”, mà chủ yếu ở đây, chất lượng của công trình được nâng cao rất nhiều. Trước hết, những sai xót của lần in trước được khắc phục. Chẳng hạn, bài Đề Bạch Nha động ở Châu cơ thắng thưởng, hoặc bài Truy tư Nhị Thánh công nghiệp trong Văn minh cổ xuý nay được trả về đúng vị trí của chúng: Những bài không thuộc tập nào. Đặc biệt, nhóm khảo dịch đã gia tăng đáng kể những bài thơ bị gọi là “thơ xướng họa - thù tạc”. Chính những bài thơ này giúp chúng ta xua đi nhận thức thiếu chuẩn xác về thơ Lê Thánh Tông. Đây là lời nhận xét của Học sĩ Đào Cử (1449 - ?), đỗ Tiến sĩ năm 1467: “Trong lúc nhàn rỗi, (nhà vua) bỏ hết thú vui đàn hát, thú chơi săn bắn, sạch lòng ít dục, như cây ngaytừ gốc, nước trong từ nguồn… Vịnh thời tiết thuận… để mừng lòng trời ngầm giúp… Nói đạo làm vua, đạo làm tôi để khuyên người về việc nên làm…, mượn cảnh vật, ngụ tình hoài để khích lệ tiết tháo trong sạch của các quan. Nghĩa lí cao xa, từ khí hùng hồn, tình khuyến miễn chứa chan ở lời nói…”(4). Nếu thù tạc và xướng họa như vật, thì quả thật nên làm, vì nó vừa làm cho tâm hồn trở nên thanh cao, vừa nhắc nhở người ta về đạo làm người, về nghĩa vụ với dân với nước.

Toàn bộ 207 bài trong Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông đều được giới thiệu theo trình tự sau: Nguyên văn chữ Hán, Phiên âm, Dịch nghĩa, Khảo dị, Nguyên chú, Chú thích, Lời bình, Dịch thơ. Cách làm nghiêm túc và cẩn thận như vậy, khiến công trình phục vụ được nhiều đối tượng bạn đọc. Tiếc rằng, không hiểu sao, nhà xuất bản cho in với số lượng quá ít: 500 bản. Các cung đoạn khảo cứu trên gắn bó với nhau một cách chặt chẽ. Muốn dịch đúng, trước hết phải có văn bản đúng. Lời giới thiệu dù ngắn (24 trang), nhưng đủ tóm lược một cách khoa học về tình hình văn bản thơ Lê Thánh Tông. Phần nguyên văn chữ Hán cùng Khảo dị trong bài là những minh chứng cho Lời giới thiệu và làm tăng thêm độ chính xác của văn bản. Nhưng, mấu chốt của việc đúng hay sai, chính là ở Chú thích. Qua chú thích, người đọc thấy rõ trình độ am hiểu văn học sâu sắc của nhóm khảo dịch và cảm thấy hài lòng, tin cậy. Cũng cần phải nói thêm rằng, chú thích thơ của Lê Thánh Tông cực kì khó, bởi ông ta là một người học rộng, đọc lắm, đi nhiều. Thơ của ông vừa chứa chan tình yêu thiên nhiên đất nước, lòng tự hào dân tộc, lại vừa tỏa ra ánh sáng trí tuệ của đấng minh quân. Có thể lấy Chinh Tây hành kỉ thi tập làm thí dụ. Tập thơ dài 30 bài, mà phải chú tới 33 địa danh (trong đó có 14 cửa biển, 3 bến cảng, 7 sông, 5 núi và 4 doanh, cung, trạm, thành…), 14 quẻ trong Kinh Dịch và nhiều điển khác rút từ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử, Binh pháp Tôn - Ngô, Kinh Thi, Kinh Lễ cùng những thi liệu lấy trong thơ Đỗ Phủ, thơ Âu Dương Tu v.v… Tất cả những chú thích nói trên về cơ bản đều chính xác, tỉ mỉ và gọn. Đấy mới chỉ là lời chú thích cho 30 bài thơ. Từ đó, ta có thể hình dung ra, nhóm khảo dịch đã phải đổ biết bao công sức và trí tuệ để chú thích cho toàn bộ 207 bài thơ.

Từ hiểu nghĩa văn bản đến dịch thành thơ cũng là một khâu quan trọng và không kém phần khó khăn. Một măt, nhóm khảo dịch thừa hưởng những bào đã được dịch thành thơ trong các sách Đại Việt sử kí toàn thư (1 bài), Hoàng Việt thi tuyển (11 bài), hoặc của một số dịch giả khác như: nhà thơ Trần Nhuận Minh (1 bài), Hoàng Lê (1 bài), Đỗ Ngọc Toại (2 bài), Ngô Linh Ngọc (41 bài), mặt khác họ phải đương đầu, tự dịch lấy. Chẳng hạn, Hải Anh (79 bài), Mai Hải (46 bài), Lâm Giang (16 bài), Trần Văn Quý (5 bài), Minh Đăng (4 bài), Thuỳ Li (2 bài). Cần phải ghi nhận công lao này của nhóm khảo dịch.

Dĩ nhiên, một công trình lớn và phức tạp như TCHLTT không thể tránh khỏi những sơ suất. Chẳng hạn, có bài dịch nghĩa mà chưa chú ý đến sự chau chuốt từ ngữ, khiến đọc lên nghe thô… Nhưng dù có những điều bất cập như vậy, Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông của nhóm cán bộ nghiên cứu Viện Hán Nôm vẫn là một công trình khảo dịch nghiêm túc về mặt khoa học và có nhiều cống hiến trong việc giới thiệu thơ ca Việt Nam nửa sau thế kỉ XV, đặc biệt là, cung cấp tư liệu chuẩn xác, khách quan để người đọc thấy được đầy đủ hơn tâm hồn nghệ sĩ của nhà văn hoá lớn Việt Nam ở hậu bán thế kỷ XV: vua Lê Thánh Tông. Mong rằng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có nhiều công trình khảo dịch có ý nghĩa như vậy để xứng đáng là con chim đầu đàn của ngành Hán Nôm học.

CHÚ THÍCH

1. Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, KHXH, HN, 1994. Dưới đây tôi viết tắt là TCHLTT.

2. Hiện còn hơn 40 bài thơ chưa được giới thiệu.

3. Thơ văn Lê Thánh Tông KHXH, H. 1986.

4. Đào Cử: Bạt Quỳnh uyển cửu ca (Trích trong Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, KHXH, H. 1992, Tập III, tr.108 - 109).

TB

VỀ CÔNG TRÌNH "HIỆN TƯỢNG VAY MƯỢN HÌNH CHỮ TỪ CHỮ HÁN: TRƯỜNG HỢP CHỮ NÔM - CHỮ BÌNH DÂN CỦA VIỆT NAM" CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐÌNH HOÀ

CHU TUYẾT LAN

Giáo sư Nguyễn Đình Hòa là một nhà nghiên cứu về ngôn ngữ, một công dân Mỹ gốc Việt. Ông vốn là người Hà Nội, đã từng học bảy năm liền (1937 - 1944) tại trường Bưởi ngày xưa và cũng đã từng dạy ngoại ngữ ở đây năm 1945 (lúc đó trường mang tên Chu Văn An). Ông sang Mỹ du học từ năm 1984(1). Ông đã công bố từ rất sớm và khá nhiều những công trình nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Nôm.

Theo Thư mục ngôn ngữ học Việt Nam (2) của Viện Ngôn ngữ học (thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia Việt Nam) thì từ năm 1957 đến năm 1974, Nguyễn Đình Hòa đã công bố tại Sài Gòn 22 công trình viết bằng tiếng Việt về chữ Nôm, về phương pháp so sánh các ngôn ngữ, về ngôn ngữ học cấu trúc, về lịch sử ngôn ngữ học, về ngữ pháp học, về âm vị học, v.v… Cũng theo Thư mục ngôn ngữ học, từ năm 1955 đến năm 1992, ông đã công bố ở nước ngoài bằng tiếng Anh 52 công trình về khoa học xã hội và nhân văn trong đó đa phần thuộc về lĩnh vực ngôn ngữ.

Trong số 52 công trình viết bằng tiếng Anh của Nguyễn Đình Hòa nói trên, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc Tạp chí Hán Nôm công trình: “Hiện tượng vay mượn hình chữ từ chữ Hán: Trường hợp chữ Nôm - chữ bình dân của Việt Nam” của ông(3). Công trình này là sự mở rộng và phát triển của bản tham luận mà ông đã trình bày tại hội thảo quốc tế về ngôn ngữ và tiếng Hán - Tây Tạng tại Paris (Pháp) năm 1979.

Công trình này đã được in lại từ bản tiếng Anh trong Tập san vủa Viện Lịch sử và Ngữ văn học Academia Sinica, Phần II, tập LXI, in tại Đài Bắc (Đài Loan) tháng 6 năm 1990 và xuất bản vào tháng 3 năm 1992.

Nội dung chính của công trình gồm 30 trang, chia làm 5 phần:

- Phần I: Lời giới thiệu.

- Phần II: Nguồn gốc chữ Nôm.

- Phần III: Cấu tạo chữ Nôm.

- Phần IV: Tiến trình phát triển của chữ Nôm.

- Phần V: Thương hướng nghiên cứu.

Trong Phần I, Nguyễn Đình Hòa giới thiệu những nét chính về chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.

Trong Phần II, trước khi trình bày lịch sử của việc nghiên cứu nguồn gốc chữ Nôm, đứng trước nhiều cách hiểu khác nhau về từ Nôm, Nguyễn Đình Hòa đã tán thành cách hiểu của Việt Nam từ điển (Hà Nội, 1931): “Chữ Nôm là cách nói thông tục của người Việt Nam khi đối lập với chữ Nho”.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng chữ Nôm là do Sĩ Nhiếp (thế kỷ II sau Công nguyên) tạo ra. Nguyễn Đình Hòa đã trình bày ý kiến của Nguyễn Văn San (1880), Sở Cuồng Lê Dư (1932), Trương Chính (1956), Trần Văn Giáp (1969), Trần Xuân Ngọc Lan (1982)…

Loại ý kiến thứ hai cho rằng chữ Nôm xuất hiện vào cuối thế kỷ VIII Nguyễn Văn Tố (1930), Dương Quảng Hàm (1943).

Loại ý kiến thứ ba cho rằng chữ Nôm được phôi thai trước thời Sĩ Nhiếp, được hình thành ở thế kỷ thứ VIII và trưởng thành ở đầu thế kỷ X: Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1971).

Loại ý kiến thứ tư lại cho rằng chữ Nôm xuất hiện ở thời nhà Trần (thế kỷ XII - XIII) với câu chuyện Nguyễn Thuyên viết văn tế cá sấu: Ngô Thì Nhậm (1706 - 1803) Pelliot và Cadierè (1904), Henry Maspéro (1912).

Loại ý kiến thứ năm cho rằng chữ Nôm có từ thời Hồng Bàng (2789 - 258 trước Công nguyên); Phạm Huy Hổ (đầu thế kỷ XX).

Sau khi nêu lên năm loại ý kiến trên, Nguyễn Đình Hòa đề cập đến việc các học giả trong và ngoài nước đã chia sẻ hay phản đối những ý kiến đó như thế nào? Những cuốn từ điển Việt - Latinh của Pigneau de Béhaine, Tabert, Huỳnh Tịnh Của v.v… đã cung cấp nhiều chữ Nôm có hình dáng đáng tin cậy về mặt chứng cứ vào cuối thế kỷ XIX, Cordieri (1935) nghi ngờ giả thiết về việc Sĩ Nhiếp tạo ra chữ Nôm. Cordieri cho rằng chữ Nôm phát triển ở cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Sau khi bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư được xuất bản ở Hà Nội, 1971, thì người ta càng tin rằng ở thế kỷ XIII đã có chữ Nôm.

Tân Việt Điểu Thái Văn Kiểm (1959) đã đối chiếu văn tế cá sấu của Hàn Dũ (Trung Quốc) với bài văn tương truyền là của Nguyên Thuyên. Trần Văn Giáp (1971) cho rằng văn bản nói là của Nguyễn Thuyên là một sự bịa đặt.

Về hai tiếng “Bố Cái” trong tên hiệu Bố Cái Đại Vương cũng được nhiều học giả quan tâm và đã có những cách lý giải khác nhau về ý nghĩa của chúng. Nguyễn Văn Tố (1930), Dương Quảng Hàm (1943), André Haudricourt (1974), Nguyễn Khắc Kham (1978). Nguyễn Đình Hòa không đồng ý ví Haudricourt khi học giả này đề nghị đọc bố (trong Bố Cái) là vua.

Nguyễn Đình Hòa cũng trình bày việc các học giả đã tranh luận về tên nước Đại Cồ Việt như thế nào: Lê Dư, Hoàng Thúc Trâm, Keith Taylor, Nguyễn Khắc Kham, v.v…

Dựa vào các tên gọi Bố Cái Đại Vương và Đại Cồ Việt, Bửu Cầm (1960) cho rằng chữ Nôm được sáng chế vào giữa thế kỷ VIII và thế kỷ X, chứ không thể được thực hiện trong một thời gian ngắn hoặc do bất kỳ một cá nhân nào chế tạo ra mà là kết quả sáng tạo của cả một tập thể trải qua nhiều thế hệ.

Ông Trần Kinh Hòa (viết bằng Trung Quốc năm 1949, Đoàn Khoách dịch ra tiếng Việt năm 1963) cho rằng Chữ Nôm không thể có trước thời Lý.

Liên Giang là người chỉ ra sớm nhất (1942) sự gắn liền giữa chữ Nôm và văn hoá Phật giáo. Chữ Nôm do các tăng ni Phật tử sáng chế để nói với quần chúng và để thuyết pháp. Theo Liên Giang, đầu tiên chữ Nôm do một nhà sư gốc Trung Quốc tạo ra, được sử dụng rộng rtãi dưới triều Đình và Lý.

Năm 1961, Nguyễn Khắc Kham cho rằng chữ Nôm phát triển ở thời nhà Lý, trong giới tăng ni, được dùng để dịch kinh Phật. Năm 1979, Nguyễn Khắc Kham nhận định chữ Nôm đã phát triển vào lúc đạo Phật được đưa vào Giao Châu (Thế kỷ III và IV sau Công nguyên).

Theo Nguyễn Đình Hòa, mọi người không thể tán thành ý kiến của Liên Giang và Nguyễn KhắcKham. Ông đánh giá cao các học giả ở trong nước như Đào Duy Anh và một vài người khác đã nghiên cứu những chứng cớ hiện có trong sách vở. Theo ông, Đào Duy Anh đã có sức thuyết phục khi cho rằng chữ Nôm chính thức xuất hiện khi mà nhu cầu xã hội thúc đẩy mọi người sáng tạo ra thứ chữ có khả năng dùng được trong mọi lĩnh vực của đời sống. Như vậy chữ Nôm ra đời dưới các triều Đinh, Tiền Lê, Lý (Chữ Nôm: nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, 1975). Đào Duy Anh nhận xét chữ Nôm đã hoàn thiện vào thời Lý Cao Tông (1176 - 1210).

Năm 1963 Trần Huy Bá xác định niên đại của cái chuông đồng (tìm được ở Đồ Sơn năm 1958) là năm 1076. Trên chiếc chuông này có khắc hai chữ Nôm.

Bị thất bại vì không có ai có khả năng tìm được những chữ khắc mà Maspéro đã đề cập đến, Đào Duy Anh đã nghiên cứu 22.584 bản rập văn bia (hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), và đã tìm thấy được những chứng cứ là trên tấm bia ở đền Báo Ân (Vĩnh Phú) có niên đại 1210 có nhiều chữ Nôm.

Theo Trần Xuân Ngọc Lan và Cung Văn Lược (1976) một tấm bia khác cổ hơn (1173) có ít nhất là sáu chữ Nôm. Những chữ Nôm này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thời gian xuất hiện chữ Nôm (Lê Văn Quán, 1981).

Trong Phần III, Nguyễn Đình Hòa trình bày việc nghiên cứu về cách cấu tạo chữ Nôm và về diễn biến của loại chữ này.

Ông đã giới thiệu ý kiến của Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) của Huỳnh Tịnh Của là hai người bàn đến cách cấu tạo chữ Nôm khá sớm. Những người quan tâm đến vấn đề này còn có Hồ Ngọc Cẩn (1933), Dương Quảng Hàm (1942), Hoàng Xuân Hãn (1953), Phạm Văn Diêu (1958), Trần Văn Giáp (1969), Nguyễn Khắc Kham (1970), Vũ Văn Kính (1971), Nguyễn Phú Phong (1978), Paul Schneider (1979), v.v… Nguyễn Đình Hòa đã chỉ ra sự quan tâm của từng học giả, chẳng hạn Đào Duy Anh đã phân tích rất kỹ hai phương pháp giả tá và hình thanh; còn Nguyễn Tài Cẩn và XtanKêvich (1976, 1985), đã đưa ra một cách phân loại sử dụng hệ thống nhị nguyên để phân biệt 7 phương pháp sáng chế ra chữ Nôm được đặt tên là A, B, C, D, E, F, và G. Những câu chữ A, B và C đã được vay mượn từ những chữ Trung Quốc bình thường, hai hệ phân loại phụ A1 va A2 mượn cả hình lẫn âm; còn hai hệ phân loại C1 và C2 chỉ vay mượn hình để tượng trưng âm đọc giống nhau hoặc gần giống nhau của dạng thức từ Việt Hán và để thành đại đa số chữ Nôm theo kiểu loại thứ nhất. Phân loại B của hình chữ tóm tắt chỉ có khoảng 40 thí dụ. Với kiểu phân loại mới (loại thứ hai) loại D gồm những dạng từ gốc bao gồm một dấu phụ để báo cho người đọc biết rằng đây không phải là trường hợp C. Những chữ củaloại E diễn tả những trường hợp đặc biệt lý thú trong ngữ âm lịch sử. Loại chữ hội ý (F) là một loại chữ nhỏ và được gợi ý từ dạng chữ Nhật.

Trong chuyên khảo nghiên cứu về chữ Nôm (1981), Lê Văn Quán đã phân biệt giữa 6 loại chữ A, B, C, D, E và F, một mặt những chữ này vay mượn thuần túy từ kho từ Hán Việt, mặt khác 8 loại khác được sáng chế ra bằng cách kết hợp hai thành tố, (như trong G, H, I, và J) hoặc là hình chữ với dấu nháy (như trong K và L) hoặc bằng cách sử dụng rút gọn (như trong M và N).

Năm 1987, Nguyễn Ngọc San cung cấp sơ đồ phân loại theo các loại: vay mượn trực tiếp dựa hoàn toàn vào chữ viết ghi ý.

Theo Nguyễn Đình Hòa, khung phân loại của Lê Văn Quán và Nguyễn Ngọc San chi tiết hơn khung phân loại của Nguyễn Tài Cẩn và XtanKêvich. Cũng theo ông, sơ đồ của Nguyễn Ngọc San thích hợp trong việc thể hiện cấu tạo chữ Nôm.

Trong phần IV, trong lúc trình bày về tiến trình nghiên cứu chữ Nôm, sau khi giới thiệu các ý kiến của Đào Duy Anh, Nguyễn Ngọc San, hai đồng tác giả Vũ Văn Kính - Nguyễn Văn Khánh và Hoàng Xuân Hãn, học giả Nguyễn Đình Hòa viết: Sự thay đổi bất thường phải bàn luận về điểm mạnh và điểm yếu của nó. Cũng từ sự thay đổi bất thường đó, các nhà nghiên cứu đã dựng lại tiến trình của nó. Tiến hành công việc này có Đào Duy Anh và Lê Văn Quán.

Trong phần bàn về Phương hướng nghiên cứu (Phần V) Nguyễn Đình Hòa đề cập đến ý tưởng của Dương Quảng Hàm cách đây 40 năm về cách biên soạn một từ điển chữ Nôm với chất lượng lý tưởng. Ông cũng nhắc đến các từ điển và bảng tra chữ Nôm của Trần Đức Rật, Chen, Vũ Văn Kính và Nguyễn Văn Kính, Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính, Takenchi, Paul Schneider (bút danh Xuân Phúc).

Theo Hoàng Xuân Hãn, các từ điển chữ Nôm không có giá trị lớn đối với độc giả đọc loại chữ này. Năm 1978 học giả họ Hoàng đã lập Bảng hỗ chiếu các âm đầu Nôm và Hán.

Nguyễn Đình Hòa cho biết, người học chữ Nôm rất hoan nghênh sự tiện lợi của bảng mục lục theo vần đối với Truyện Kiều đồng thời cũng hoan nghênh việc dịch ra chữ Quốc ngữ các tác phẩm Nôm gốc. Ông cũng ghi nhận việc giải mã và chú thích sách Phật giáo Thiền tông bản hạnh. Ông còn cho rằng cũng cần tiếp tục nghiên cứu về chính sách cấm đoán của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với các tác phẩm văn học Nôm.

Theo Nguyễn Đình Hòa những hướng nghiên cứu của Gaston Nhân, của Lê Văn Quán là đúng hướng.

Trong những dòng cuối của phần này, Nguyễn Đình Hòa đã đánh giá cao việc nghiên cứu Hán Nôm của các học giả trong nước, ông cũng nêu ra những khó khăn và thuận lợi của các loại học giả đã và đang làm việc Pháp và Mỹ.

Qua tình hình giới thiệu trên, bạn đọc có thể thấy công trình của Nguyễn Đình Hòa nặng về tổng thuật. Song sự tổng thuật của ông có sức thuyết phục bởi: 7 trang chụp các tài liệu Nôm tiêu biểu và một thư mục 12 trang gồm 159 tài liệu tra cứu kèm theo. Ngoài ra, ông không chỉ tổng thuật ý kiến của người khác, không ít trường hợp ông nêu rõ chủ kiến của mình như việc nhận xét về ba khung phân loại về cấu tạo chữ Nôm.

So với các công trình nghiên cứu chữ Nôm từ trước tới nay, thì đây là một công trình có đóng góp đáng kể dựa trên một hệ thống tư liệu phong phú và đầy đủ nhất. Nó không chỉ tham khảo các tư liệu ở trong nước mà cả ở nước ngoài, những gì các nhà nghiên cứu đã nói về chữ Nôm đều được đề cập tới. Nhìn vào hệ thống thư mục tra cứu đồ sộ và phong phú của ông, chúng ta không thể không ghi nhận phong cách làm việc khoa học và nghiêm túc của vị học giả xa xứ này.

CHÚ THÍCH

1. Theo bài “Không nên để con cháu chúng ta quên tiếng Việt” Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1 (3), Hà Nội, 1995, tr.18-19.

2. Thư mục Ngôn ngữ Việt Nam Nguyễn Như Ý Chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1994.

3. Tài liệu viết bằng tiếng Anh, do GS. Nguyễn Đình Hòa gửi tặng Viện nghiên cứu Hán - Nôm trong dịp ông Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm sang công tác tại Đài Loan. Chúng tôi đã dịch tài liệu vừa nêu sáng tiếng Việt, bản dịch và bản gốc hiện được lưu giữ tại phòng Thông tin - Tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm - CTL.

TB

CHỮ NÔM VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
(TỪ IRG 2 TẠI HÀ NỘI ĐẾN IRG 4 TẠI ĐÀI BẮC)

NGUYỄN QUANG HỒNG

LTS. GS-TS Nguyễn Quang Hồng (Viện Hán Nôm) và PGS. Ngô Trung Việt (Ban Kỹ thuật công nghệ thông tin) vừa đi tham dự cuộc họp lần thứ 4 của IRG về văn tự biểu ý và tin học tại Đài Bắc (từ 27/2 đến 3/3/1995) trở về. Theo yêu cầu của Tạp chí Hán Nôm, GS. Nguyễn Quang Hồng đã gửi đến bạn đọc viết sau đây.

Trước hết xin được giải thích sơ qua về mấy chữ IRG. Đó là tên gọi tắt từ mấy chữ tiếng Anh Ideographic Rappoteur Group, là một nhóm công tác chuyên môn gồm các chuyên gia về chữ biểu ý và tin học của một số nước, được tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Standard Organization - gọi tắt ISO), và các hội đồng quốc tế v kỹ thuật điện tử và tin học lập ra từ tháng 10/1993. Các thành viên của IRG hiện nay gồm có Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đài Loan, Hồng Công và Việt Nam. IRG mỗi năm họp hai lần thường kỳ vào cuối tháng 2 và tháng 8, tại địa điểm luân phiên cho từng nước thành viên. IRG có người phụ trách chung và thư ký biên tập do các nước thành viên bầu. Nội dung làm việc trong mỗi lần nhóm họp là duyệt xét các kiến nghị từng nước thành viên, thông qua các việc đã làm, chuẩn bị và lập lịch trình cho các công việc tiếp theo. Thời gian giữa hai lần họp, mỗi nước thành viên phải khẩn trương chuẩn bị và hoàn chỉnh các kiến nghị của mình, đồng thời tham gia vào việc xem xét những vấn đề chung mà IRG đã đề ra. Trong công việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên gia về chữ biểu ý (mà ở nước ta là chữ Nôm) và về công nghệ thông tin.

Việt Nam ta tham gia vào nhóm IRG này bắt đầu từ cuộc họp lần cuối của nhóm CJK (tức là nhóm chuyên viên về chữ biểu ý và tin học của China, Japan và Korea), là tiền thân của IRG (gọi tắt là IRG - 1) tại Tokyo (tháng 8/1993), Việt Nam chưa cử đại biểu tham dự, nhưng đã đăng ký t chức tham họp IRG - 2 tại nước mình.

Trong các năm 1993, qua sự cộng tác giữa các chuyên gia Việt Nam trong lĩnh vực chữ Nôm và lĩnh vực tin học, chúng ta đã xác lập và công bố một tập mã chuẩn chữ Nôm (phần I), gồm 2397 chữ thuần Nôm ghi tiếng Việt, trong đó có 581 chữ ngẫu nhiên trùng hình với các chữ Hán. Bộ mã chuẩn chữ Nôm này do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng đề nghị và được Bộ Công nghệ và Môi trường ban hành vào cuối năm 1993.

Tại cuộc họp IRG - 2, lần đầu tiên tổ chức tại Hà Nội (Tháng 2/1994), Việt Nam đề nghị đưa tập mã chữ Nôm nói trên vào kho chữ biểu ý nói chung của IRG để dùng thông tin quốc tế. Đồng thời cũng đề nghị lập thêm một cột mới cho các chữ biểu ý của Việt Nam (cột V) bên cạnh các cột V (China), J (Japan) và T (Taipei) trong danh sách các chữ biểu ý chung. Yêu cầu này đã đực IRG - 4 nhất trí chấp thuận. Tuy nhiên, việc cấp thêm cột mới V cho Việt Nam không thuộc thẩm quyền của IRG, mà là của WG2 (Work - Group 2) - một nhóm chuyên gia khác trực thuộc tổ chức ISO, có nhiệm vụ xây dựng bộ mã ISO - 10646 (16 bit và 32 bit).

Tại cuộc họp IRG - 3 ở Bắc Kinh (Tháng 8/1994), đại biểu Việt Nam tiếp tục đề nghị cấp cột V, và đề nghị xếp chữ Nôm vào loại B (văn tự biểu ý còn được sử dụng), chữ không xếp vào loại C (văn tự cổ không còn sử dụng nữa). Các yêu cầu này đều được chấp thuận, song phải trình cho WG2 quyết định. Tháng 10/1994, trong cuộc họp thường kỳ của WG2 tại Mỹ, những yêu cầu nói trên của chúng ta đã được chấp nhận, với điều kiện phải đảm bảo cho việc in ấn bộ mã chữ Nôm tốt hơn, với phông 96x96 (tức là mội hình chữ phải vẽ theo 96 điểm mỗi bề, sao cho nét chữ có độ mịn thật cao), để tiện thu nạp vào bô mã chung của ISO - 10646.

Những yêu cầu kỹ thuật này cho đến nay chúng ta vẫn chưa thực hiện được. Mặc dù vậy, trong danh sách các chữ biểu ý lưu hành trong nhóm IRG cũng đã có cột V riêng cho Việt Nam. Ở công trình V này tạm thời mới chỉ thu nạp 581 chữ Nôm trùng hình với chữ Hán. Việc đưa mã chữ Nôm thuần tuý không trùng với chữ Hán sẽ được thực hiện ngay sau khi WG2 cấp cho chúng những mã số mới trong danh sách chung đó.

Thực ra trong khi chữ Nôm của ta không phải chỉ vẻn vẹn có 581 chữ trùng hình với chữ Hán. Trong các văn bản Nôm của ta không ít những chữ không khác biệt với các chữ Hán vốn có: hoặc là trùng hình một cách ngẫu nhiên (như chữ Hán 坦 thản trùng hình với chữ Nôm đọc là đất, có thể là do rút gọn từ chữ thổ 土 + chữ đát 怛? ), hoặc là do mượn chữ Hán để ghi âm Việt (như chữ Hán 沒? mộ t có nghĩa là “mất tăm” được mượn để ghi một tiếng Việt trong “một, hai, ba…” hoặc là mượn chữ Hán cả hình lẫn nghĩa (như chữ 利? lợi, còn đọc với âm Việt là lời), v.v. Nếu tính hết các trường hợp vay mượn này, thì số chữ Nôm trùng hình với chữ Hán có thể còn nhiều hơn cả số chữ Nôm đặc hữu do ta tự tạo. Bởi vậy mà để bổ sung vào cột chữ V, vừa qua chúng ta cũng đã tranh thủ ngay một tập chữ Nôm trùng hình với chữ Hán gồm hơn 3000 chữ và mang đén cuộc họp IRG - 4 tại Đài Bắc.

Phải nói là mặc dù đã hết sức cố gắng, song vì thời gian quá eo hẹp, lại thiếu thốn nhiều thứ, nên tập mã chữ Nôm lần này chúng ta chưa chuẩn bị thật tốt, và do đó cũng chưa kịp trình duyệt để ban hành chính thức thành tập Tiêu chuẩn chữ Nôm (phần II). Song nếu không tranh thủ đưa trình IRG - 4 tập dự thảo này sớm, thì chúng ta sẽ bỏ lỡ mất dịp đưa hơn 3000 mã chữ Nôm này vào bổ sung cho cột V trong lần in thử kho chữ biểu ý chung của IRG đang được xúc tiến thực hiện. Cũng may là rốt cuộc, tập mã chữ Nôm này cũng đã được IRG - 4 chấp nhận về nguyên tắc, mặc dù chúng ta vẫn phải chịu “mắc nợ” về những chi tiết kỹ thuật; cần tiếp tục hoàn chỉnh tập mã chữ Nôm này và nhanh chóng cho ban hành chính thức, đồng thời cũng phải thể hiện nó theo phông 96x96 như quy định chung của IRG và của ISO.

Ngoài việc xét duyệt bổ sung mã chữ do các thành viên kiến nghị, trong các cuộc họp của IRG còn có khá nhiều chuyện để bàn. Riêng những vấn đề về hình thể nói chung, đã được thảo luận từ IRG - 2 có lẽ còn phải tiếp tục lâu hơn nữa. Chúng ta đều biết rằng chữ Hán vốn có nhiều hình thể phức tạp, mà mỗi chữ đều phải khuôn vào một ô vuông nhất định cho cân đối, hài hoà. Sự nhất dạng ô vuông mang tính thẩm mỹ cao này đồng thời lại dẫn đến sự đa dạng đến rắc rối của các thành tố cấu tạo chữ, khiến cho việc đồng nhất và phân biệt các mã chữ cũng như các thành tố của chữ trở nên hết sức phức tạp trong việc xử lý các tín mã cụ thể theo yêu cầu của kỹ thuật máy tính điện tử. Đó là chưa kể phải rà xét để hợp nhất hoặc tách biệt khá nhiều những trường hợp vẫn được gọi là dị thể chữ Hán. Chẳng hạn: ba hình chữ 吳 vẫn được coi là dị thể của một chữ Ngô và có thể hợp nhất) ở Trung Hoa lục địa, thì trong các tập chữ do các thành viên Nhật Bản và Đài Loan đề nghị vấn đề tách biệt làm 3 tín mã khác nhau.

Mục đích chủ yếu mà nhóm IRG muốn hướng tới là làm sao nhanh chóng xác lập và cung cấp cho Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO một kho mã chữ biểu ý chuẩn mực, được thừa nhận sử dụng thống nhất ở nhiều nước. Với kho chữ phong phú, đa dạng nhưng đã được chuẩn hoá này, người ta sẽ tiến tới chế tạo ra những chữ biểu ý rất lớn, đáp ứng được những nhu cầu đa dạng và tế nhị trong các hoạt động truyền thống và in ấn hiện đại. Bởi vậy, nếu Việt Nam ta không cố gắng theo đuổi việc cùng với các thành viên khác trong nhóm IRG (và cả WG2) đến nơi đến chốn, thì chúng ta sẽ khó lòng bảo vệ được vị trí của chữ Nôm trong khi chữ biểu ý chung của ISO, và do đó cũng sẽ chịu thiệt thòi (khó lường hết được) trong việc sản xuất và sử dụng các hệ máy tính hiện đại, và nói chung là trong công nghệ thông tin và in ấn vào những năm cuối thế kỷ này và đầu thế kỷ sau.

TB

BỘ TỪ ĐIỂN VIỆT - LATINH CỦA PIGNEAU DE BE'HAINE