 |

MỘT SỐ TÀI LIỆU MỚI PHÁT HIỆN VỀ PHAN CHÂU TRINH*
ĐOÀN KHOÁCH
Phan Châu Trinh là một người thực bụng yêu nước. Sự nghiệp "Cứu quốc tồn chủng" của ông tuy không thành, nhưng cuộc đời hoạt động của Phan Châu Trinh đối với chúng ta không phải không còn chỗ khả thủ. Rõ ràng thời đại và thế giới quan đã hạn chế rất nhiều đường lối đấu tranh cách mạng của Phan Châu Trinh, nhưng văn chương của ông, như lời phát biểu của Hồ Chủ Tịch, là thứ "văn chương cách mạng (...) có tác dụng cổ động tinh thần cách mạng(1). Phan Châu Trinh do đó là một nhân vật lịch sử vừa phức tạp vừa phong phú. Trước đây, rải rác trên một số sách báo từng có nhiều ý kiến trao đổi(2). Và đặc biệt một số tác phẩm ít được lưu hành của ông cũng được phổ biến để làm cơ sở thảo luận(3). Nhưng phải nhận rằng số tài liệu sử dụng để phục vụ cho cuộc thảo luận còn nghèo nàn quá. Việc sưu tầm thật đầy đủ tác phẩm Phan Châu Trinh trở nên nhiệm vụ hàng đầu. Vào cuối năm 1977, Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh có cử một đoàn cán bộ do Ô.Trần Nghĩa lúc đó là Trưởng ban Văn học, làm Trưởng đoàn ra miền Trung để sưu tầm tài liệu Hán Nôm. Tại Đà Nẵng, Đoàn có phát hiện thêm một số tài liệu về Phan Châu Trinh trước nay chưa được công bố, đang tàng trữ tại nhà Phan Thị Châu Liên là con gái của tác giả, ở số nhà 34 đường Phan Đình Phùng Đà Nẵng. Đoàn sau đó có phân công cho tôi tìm hiểu kỹ số tài liệu này. Nay, qua Tạp chí Hán Nôm, xin công bố kết quả làm việc của chúng tôi để bạn đọc tham khảo.
Trước khi giới thiệu số tài liệu nói trên, chúng tôi muốn điểm qua mấy nét về những tác phẩm của Phan Châu Trinh từng được công bố trước đây(4).
Tác phẩm của Phan Châu Trinh phần lớn trước đây đã được công bố. Nguyên tác có, dịch phẩm có, chữ Hán có, chữ Pháp có, chữ Quốc ngữ có và đặc biệt truyền miệng cũng có. Ở đây chúng tôi chỉ xin nói đến số tài liệu hiện có thể tìm đọc được.
1. Chí thành thông thánh (1905): Nói đến những tác phẩm được công bố của Phan Châu Trinh mà không nhắc qua bài thơ Chí thành thông thánh, tưởng là một điều thiếu sót. Tuy chỉ là một bài thơ chữ Hán luật Đường, làm theo đề ra sẵn của trường quan trong kỳ khảo hạch tại Bình Định năm Ất- Tỵ, nhưng đó là một tiếng sét làm rung chuyển học giới cả nước lúc bấy giờ. Cùng với bài phú Danh sơn lương ngọc của các ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, bài thơ Chí thành thông thánh của Phan Châu Trinh, trong ý hướng chế nhạo khoa cử, đã nói lên được hoàn cảnh nô lệ của dân tộc, lầm than của đất nước, kêu gọi những người có tâm huyết đi làm cách mạng. Hình thức ngắn gọn của bài thơ rất dễ dàng và nhanh chóng "phát hành miệng" đi khắp nước và về sau trong các thi tập của ông hoặc trong các hợp tuyển thơ văn ông, đều có trích in.
2- Đầu Pháp chính phủ thư (1906): hay bức thư gửi Toàn quyền Bô (Beau) sau khi Phan Châu Trinh từ Nhật trở về nước. Nguyên tác bằng chữ Hán được in dịch ra tiếng Pháp. Nội dung bức thư nêu lên những tệ trạng của quan lại Nam triều do thực dân Pháp dung dưỡng, đã làm cho tình ý hai nước Pháp và Nam khó bề liên hiệp. Tác giả đồng thời cũng đề nghị với chính phủ Pháp sửa đổi chính sách bảo hộ ở Đông Dương. Thư này có gửi đăng báo Pháp. Trường Đông kinh nghĩa thục cho in bằng hoạt bản chữ gỗ đến hàng nghìn quyển phát hành đi các nơi(5), khiến tầng lớp sĩ phu Bắc Trung Nam đều có đọc và một số không ít trong hàng ngũ họ còn đọc đến thuộc lòng(6). Năm 1926, Tạp chí Nam Phong cho in lại bản nguyên tác trong các số 103, 104 phần chữ Hán. Cũng năm đó, một bản lược dịch được in vào tập Quốc gia huyết lệ do Thịnh Quan thư quán xuất bản ở Sài Gòn. Một bản dịch Việt khác của Ngô Đức Kế cũng công bố trong Phan Tây Hồ di thảo do Thụy Ký ấn hành ở Hà Nội, rồi Nguyễn Kim Đính ở Sài Gòn cũng phổ biến bản dịch của mình trong Gương chí sĩ. Đến năm 1949, bản Việt dịch Đầu Pháp chính phủ thư của Ngô Đức Kế được tuần báo Tân Dân ở Hà Nội cho in lại vào số đặc biệt kỷ niệm Phan Tây Hồ tiên sinh ngày 24-3-1949. Bảy năm sau, năm 1956, tủ sách "Những mảnh gương" của Tân Việt ở Sài Gòn lại cho ra cuốn Phan Châu Trinh(*) của Thế Nguyên trong phần phụ lục có in lại trọn bản Việt dịch của Nguyễn Kim Đính. Vào những năm sáu mươi, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam đều có phổ biến lại những bản Việt dịch của tác phẩm trên, hoặc đưa vào các hợp tuyển như bản dịch của Ngô Đức Kế trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV của Vũ Đình Liên... Hoàng Ngọc Phách, Thơ văn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thai Mai, hoặc nhằm phổ biến văn kiện dùng cho cuộc thảo luận như Nghiên cứu lịch sử số 66 tháng 9-1964 với bản dịch của X.X., hoặc để nuôi dưỡng tinh thần bất khuất như trường hợp Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp của Thái Bạch.
3- Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907): là bài tựa bằng chữ Nôm của Phan Châu Trinh đề cho cuốn Hợp quần doanh sinh thuyết của Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền. Nội dung bài tựa nhằm kêu gọi toàn dân phải tổ chức đoàn thể, mở mang thực nghiệm để mưu hạnh phúc sống còn. Thư viện Khoa học xã hội ở Hà-Nội hiện có một bản chép tay mang ký hiệu NVv.224, Năm 1959, Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền của Lê Thước và Vũ Đình Liên có trích một đoạn của bài tựa nói trên(7).
4- Tỉnh quốc hồn ca 1 (1907): là một tập thơ gồm 3 phần. Phần đầu là bài Tỉnh quốc hồn ca 1 gồm 470 câu song thất lục bát với nội dung hô hào cải cách xã hội theo đường hướng duy tân lúc bấy giờ. Phần hai có 310 câu gồm 5 bài ca lục bát, nội dung trình bày vấn đề giáo dục đạo đức gia đình, nhưng chưa thoát khỏi tính chất gia huấn phong kiến. Phần ba có 45 câu gồm ba bài ca trù rút ra từ Giai nhân kỳ ngộ diễn ca với nội dung kêu gọi kẻ hào kiệt hãy nhìn lịch sử oanh liệt của dân tộc mà đoàn kết để dựng lại nền tự chủ cho đất nước. Tỉnh quốc hồn ca 1 lúc đầu được dùng làm tài liệu giảng dạy tại trường Đông kinh nghĩa thục. Đến năm 1926, các ông Ngô Đức Kế và Lương Văn Can cho xuất bản Phan Tây Hồ di thảo trong đó có phần Tỉnh quốc hồn ca này. Tháng 7-1945, ông Lê Ấm là con rể của Phan Châu Trinh cho xuất bản tại Quy-Nhơn tác phẩm này với nhan đề Tây Hồ Phan Châu Trinh di thảo tập I Tỉnh quốc hồn ca và mấy bài ca khác. Đến năm 1963, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV, trong phần Phan Châu Trinh có trích in 224 câu, phần nửa đầu Tỉnh quốc hồn ca 1. Rồi trong hợp tuyển thơ văn yêu nước, Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX của nhà xuất bản Văn học Hà Nội năm 1972 cũng cho in lại đoạn đã in trong Hợp tuyển 1963.
5- Tuồng Trưng Nữ Vương (1910): là một vở tuồng sáng tác tập thể do các ông Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện cùng soạn ra để "tiêu khiển" lúc còn ở Côn Đảo, trong đó biểu dương tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng và ý hướng duy tân của các tác giả. Ở Côn Đảo lúc bấy giờ có nhiều người thuộc lòng tác phẩm này, trong đó có ông Tú Trương Huy người làng Tiên Đỏa quận Thăng Bình. Năm 1972, ông Tú đã đọc cho Lê Ấm chép tại Huế. Đến năm 1962, tác phẩm này được nhà xuất bản Anh Minh cho công bố với nhan đề Tuồng Trưng Vương bình Ngũ lãnh.
6- Ký Nhân quyền hội thư (1911): là bức thư gửi cho Hội Nhân quyền và Dân quyền Pháp ở Pa-ri, nội dung kể những việc dân biến ở Trung-kỳ, cách đối phó của chính phủ Bảo hộ, cách mượn cớ để đàn áp và tâng công của quan lại Nam triều, gây lên hậu quả đau thương cho sĩ phu và dân chúng. Trong khi trình bày các sự kiện, Phan Châu Trinh vừa biện minh cho hoàn cảnh khó khăn của mình cùng các đồng chí, vừa vạch trần chế độ cai trị tàn ác của thực dân Pháp ở Đông-Dương. Nguyên tác chữ Hán, Phan Châu Trinh tự dịch ra quốc văn để Huy-lơ Ru (Jules Roux) dịch thành tiếng Pháp, đưa cho Al-be-Xa-Rô (Albert Sarraut) lúc đó sắp sang nhậm chức toàn quyền Đông-Dương. Một bản Pháp dịch khác do Hội Nhân quyền và Dân quyền Pháp ở Pa-ri xuất bản với nhan đề "Các cuộc biểu tình ở An-Nam năm 1908" (Manifestations de 1908 en Annam)(8). Bản Pháp dịch này về sau được báo Chuông rạn (Cloche fêlée) ở Sài-Gòn cho đăng lại từ số 35 ngày 1-2-1926. Vào tháng 1-1965, Nghiên cứu lịch sử số 70 có trích đăng một số đoạn dịch "Bản điều trần của cụ Phan Châu Trinh”(*) trong tập san của Hội Nhân quyền năm 1911. Rồi vào tháng 2-1973, trên Tạp chí Văn học cũng có trích một đoạn của "Thư gửi Hội Nhân quyền năm 1911" trong bản dịch của Viện Văn học. Bản Việt dịch được phổ biến đầy đủ hơn cả có lẽ là bản chú dịch và giới thiệu Trung-kỳ dân biến thỉ mạt ký của các ông Lê Ấm và Nguyễn Quyết Thắng xuất bản tại Sài Gòn năm 1973, trong đó ngoài các phần dẫn nhập, dịch văn, sách tham khảo, còn cho in ốp-xét toàn văn nguyên bản chữ Hán của Phan Châu Trinh.
7- Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1913-1915): là một "vị định cảo" của Phan Châu Trinh được viết ra trong thời gian ông lưu trú tại Pháp. Giai nhân kỳ ngộ nguyên là một tác phẩm của nhà văn Nhật tên Sài Tứ Lang, được Lương Khải Siêu dịch ra Hán văn và Phan Châu Trinh đã diễn ca bản Hán văn này ra thơ lục bát(9). Nội dung tác phẩm nói về sự gặp gỡ lạ lùng của một đôi trai tài gái sắc trên đất nước Mỹ. Tán sỹ là một thanh niên Nhật, U-lan là một thiếu nữ Tây-Ban-Nha, cả hai đều là người yêu nước. Hai người gặp nhau, yêu nhau với đầy đủ mọi diễn biến của trạng thái tâm hồn trong đó pha lẫn các tình huống đông tây, mới cũ. Tuy nhiên, Giai nhân kỳ ngộ không đơn thuần là một truyện tình. Phong trào đòi độc lập tự do của một số nước trên thế giới giữa thế kỷ XIX mới là cái chính thu hút tâm tư của người kể chuyện. Do đó, chen lẫn vào câu chuyện tình, tác giả đã bỏ ra nhiều bút mực để thuật lại tình hình chính trị xã hội và phong trào đấu tranh của những người yêu nước tiến bộ ở Tây-Ban-Nha, Ái-Nhĩ-Lan, Nhật, Ai-Cập, Hung-Gia-Lợi. Sài Tứ Lang đã viết Giai nhân kỳ ngộ để giáo dục người Nhật thời Minh-trị duy tân Lương Khải Siêu lại dùng đối với người Trung-Quốc sau Mậu-Tuất chính biến. Đến lượt Phan Châu Trinh cũng mượn cái vốn ấy với một hình thức đặc biệt Việt Nam, mong truyền bá rộng rãi tư tưởng dân chủ trong phong trào dân tộc dân chủ đang lên vào đầu thế kỷ. Giai nhân kỳ ngộ diễn ca lần đầu tiên trong khoảng năm 1926, được Ngô Đức Kế in ra ở Hà-Nội, nhưng sách vừa in xong chưa kịp phát hành, thì đã bị tịch thu và bị đốt hết(10). Ba mươi năm sau đó, năm 1958, nhà xuất bản Hướng Dương ở Sài-Gòn mới công bố trọn phần Giai nhân kỳ ngộ diễn ca dưới nhan đề Phan Châu Trinh Giai nhân kỳ ngộ (anh hùng ca).
8- Tây Hồ thi tập và Xăng-tê thi tập (1914-1915): Thi tập của Phan Châu Trinh, theo tài liệu của Huỳnh Thúc Kháng, có khoảng năm mươi bài thơ chữ Hán và khoảng hai trăm bài thơ quốc âm(11). Trên thực tế, nếu kể số lượng thì nhiều hơn thế và nếu kể thời gian sáng tác cùng đặc tính của các thi phẩm, thì những bài thơ họ Phan làm ra khi còn ở Việt Nam với ít bài khi mới sang Pháp, đều nằm trong Tây Hồ thi tập: còn những bài sáng tác trong thời gian mười tháng ở ngục Xăng-tê thuộc về Xăng-tê thi tập. Tập trước có trên năm mươi bài thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt, nói lên tình cảm yêu nước tích cực của người trí thức. Đây là tiếng thơ bất khuất của một chiến sĩ đầy nhiệt tình và nhiệt huyết. Tập sau có trên hai trăm hai mươi bài, phần lớn lấy tục ngữ làm đầu đề. Nội dung thi tập cũng bàng bạc tình cảm vì nước vì dân, nhưng hình thức của lối thơ "phú đắc" không khỏi gây ấn tượng gò bó tiểu xảo cho người thưởng thức. Một số tuyển tập thơ văn Hán Nôm từ đầu thế kỷ như Tân văn lục, Văn liên tạp thảo, Văn minh tân học sách đều có thu lục nhiều ít thơ ca của Tây Hồ thi tập(12). Rồi những tuyển tập thơ văn quốc âm, những đặc san kỷ niệm, những tập nghiên cứu về Phan Châu Trinh hoặc tập trung, hoặc rải rác đều có in những bài có trong Tây Hồ thi tập. Chẳng hạn Phan Tây Hồ di thảo của Ngô Đức Kế, Thụy Ký, Hà-Nội, 1926; tuần báo Tân Dân số đặc biệt, 1949; Danh nhân nước Việt của Đào Văn Hội, Sài-Gòn, 1951; Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh của Tôn Quang Phiệt, Văn Sử Địa, Hà-Nội, 1956; "Phong trào cách mạng Việt Nam qua thơ văn" của Trần Huy Liệu trong Nghiên cứu lịch sử số 1, 3-1959; Thơ văn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thai Mai Văn hóa, Hà-Nội, 1961; Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV của Vũ Đình Liên... Hoàng Ngọc Phách, Văn hóa, Hà-Nội, 1963; Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Hư Chu, Mặc Lâm, Sài-Gòn, 1968; Thi ca châm biếm trào lộng Việt Nam của Hoàng Trọng Thược, Khai Trí, Sài-Gòn, 1969; Hợp tuyển thơ văn yêu nước, Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX, Văn học, Hà Nội, 1972... Đặc biệt năm 1961, ông Lê Ấm đã sao lục di thảo của Phan Châu Trinh về hai thi tập Tây Hồ và Xăng-tê rồi cho in chung thành một tập gọi là Tây Hồ Phan Châu Trinh di thảo Tây Hồ và Xăng-tê thi tập. Sách chia làm hai phần, tổng cộng 295 bài thơ trong đó Tây Hồ thi tập có 69 bài và Xăng-tê thi tập có 226 bài, nhưng hết 7 bài chép theo truyền văn.
9- Ký Khải Định hoàng đế thư (1922): là bức thư chữ Hán gửi cho Khải Định, khi vua này sang Pháp dự cuộc đấu xảo quốc tế năm 1922. Chuyến đi của Khải Định có nhiều điểm ám muội mà Phan Châu Trinh cho là một điều xỉ nhục đối với quốc thể. Nội dung bức thư kể rõ bảy điều trái phép của vua và buộc vua phải tự xử. Thư này được Phan Châu Trinh cho dịch ra tiếng Pháp, đăng báo và rải truyền đơn để người Pháp rộng đường tham khảo. Khoảng năm 1925, Trần Huy Liệu đã dịch thư này ra tiếng Việt và cho in trong Gương chí sĩ của Nguyễn Kim Đính, Sài-Gòn, 1926. Bản Việt dịch của Phan Châu Trinh trước đây, về sau bị thất lạc một phần bản thảo, nên ông Lê Ấm khi sao lục, phải dịch tiếp từ bản chữ Hán ra, rồi đến năm 1958 nhà xuất bản Anh Minh mới cho xuất bản dưới nhan đề Di cảo cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh Thư thất điều. Tháng 8-1959, trên Nghiên cứu Lịch sử số 6, Trần Huy Liệu cho in lại bản dịch của mình với nhan đề "Bức thư cảnh cáo Khải Định kể bảy tội đáng giết". Bản Việt dịch này còn được Nghiên cứu Lịch sử cho in lại trong số 66 tháng 9-1964 dưới nhan đề "Thất điều trần" và ở Sài Gòn năm 1968 cũng được Thái Bạch đưa vào Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp với tên "Thư kể tội Khải Định". Đến năm 1972, Hợp tuyển thơ văn yêu nước, Thơ văn yêu nước và cách mạng cũng cho in lại bản Việt dịch này.
10- Bức thư trả lời cho một người học trò tên là Đông (1925): Anh Đông, một du học sinh Việt Nam ở Pháp, ham học, yêu nước, đã từng gặp, nói chuyện và viết thư cho Phan Châu Trinh. Bức thư trên là của Phan Châu Trinh trả lời anh Đông vào tháng 1-1925 ở Pa-ri. Nội dung gồm những ý kiến của ông đối với một loạt vấn đề có liên hệ đến tình hình của nước ta lúc đó, như về cách học, về đảng phái, về chủ trương bạo động, về việc nhờ ngoại viên, về một số nhân vật tên tuổi đương thời, về chính phủ bảo hộ Pháp, về chính phủ bù nhìn Việt, về đường lối phải thực hiện để cứu nước, dựng nước v.v.. Năm 1926, bức thư trên được in vào Phan Tây Hồ di thảo văn tập cụ Phan Châu Trinh tập thứ nhất, Ngô Đức Kế biên tập và phê bình, Lương Văn Can xuất bản, Hà Nội. Tháng 3-1949, được in lại trong tuần báo Tân Dân số 3 ở Hà-Nội, rồi mười năm sau, trong tạp chí Nhân Loại số 11,12 tháng 3 và 4-1959 ở Sài-Gòn.
11- Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông Tây (1925): là hai bài diễn văn Phan Châu Trinh đọc tại Sài-Gòn vào cuối năm 1925 khi ông vừa ở Pháp trở về Việt Nam. Bài đầu, sau khi so sánh hai chủ nghĩa Quân trị và Dân trị, tác giả đã kêu gọi đồng bào mau góp sức lo toan việc nước để đưa dân tộc tiến lên. Bài sau, ông cho rằng sở dĩ nước ta mất, dân ta hèn, bị dày xéo khinh bỉ là vì đã đánh mất nền đạo đức luân lý truyền thống của mình. Cần phải khôi phục lại nền đạo đức luân lý đó mà tinh hoa có thể tóm tắt vào mấy lời sau đây "sĩ khả sát bất khả nhục,... phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Sau khi được trình bày ở Sài-Gòn, hai tác phẩm trên được cho mang ra phổ biến ở Huế(13). Năm 1926, được in trong Gương chí sĩ và ba mươi năm sau đó lại thấy xuất hiện toàn văn trong Phan Châu Trinh(*) của Thế Nguyên. Năm 1964, ở Hà-Nội, Nghiên cứu lịch sử số 66 và 67 đã cho in lại hai bài diễn văn trên. Riêng bài Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa, năm 1968 ở Sài-Gòn, Thái Bạch cũng có giới thiệu và cho in toàn văn trong Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp.
Như trên đã nói, gần đây nhân đi công tác ở Đà-Nẵng, chúng tôi có dịp tìm hiểu số tác phẩm của Phan Châu Trinh hiện tàng trữ tại nhà bà Phan Thị Châu Liên, trong đó có một số tác phẩm đã được công bố, một số tác phẩm tuy đã được công bố nhưng chưa đầy đủ và một số chưa được công bố. Dưới đây chúng tôi sẽ xin lần lượt giới thiệu số tác phẩm công bố chưa đầy đủ và số chưa được công bố.
Những tác phẩm công bố chưa đầy đủ là những tác phẩm khi công bố, người sao lục hoặc đã bỏ bớt một số bài trong nguyên tác, hoặc tự ý thêm vào một số bài không có trong nguyên tác, hoặc cắt xén một số đoạn, sắp xếp lại một số đoạn khác theo thứ tự chủ quan của mình, hoặc sửa chữa những câu chữ không theo phương pháp chỉnh lý văn bản khoa học. Trong những trường hợp trên, bản gốc sẽ giúp ích rất nhiều cho việc chỉnh lý các văn bản. Sau đây là một số bản gốc đó.
1- Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (vị định cảo): tác phẩm này hiện có hai bản chép tay của Phan Châu Trinh, một trên giấy học trò cỡ 20x31cm đóng chung với Tỉnh quốc hồn ca 1 và Tây Hồ thi tập. Đây là bản thảo của tập diễn ca. Một nữa là bản chép sạch trên tập cỡ 16x21cm gồm ba tập:
- Tập 1 đề Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (vị định cảo), nội dung chép từ hồi I đến hồi III.
- Tập 2 chép từ hồi IV đến hồi VI.
- Tập 3 chép từ hồi VII đến hồi IX
Riêng tập 3, tập vở và nét bút không giống hai tập đầu. Nguyên bản tập 3 chắc là bị hỏng, nên gia đình chép lại như trường hợp hai trang đầu của tập 1(14).
2- Tây Hồ thi tập: Thi tập này hiện còn tìm thấy hai nơi trong hai văn bản chép tay khác nhau. Một trong Tỉnh quốc hồn ca 2 gồm mấy bài thơ Phan Châu Trinh làm ra lúc đi chơi Phan-Thiết và lúc ở nhà. Hơn nữa trong Tỉnh quốc hồn ca 1 có trên hai trăm bài thơ trong đó có mười bài "Điếu ông Đồ Chiểu" và bài hoạ "Thơ điếu Nguyễn Hữu Huân".
Ngoài hai tài liệu trên, còn có ba bản chép tay khác mà nét chữ ít giống với nét chữ trên, đều mang tựa đề Tây Hồ thi tập:
- Bản thứ nhất gồm 83 thi đề từ bài "cờ tướng" (số 1) đến bài "dài mỏ khó kiếm ăn" (số 83).
- Bản thứ hai gồm 49 thi đề từ bài "tặng đĩ lỡ làng" (số 1) đến bài "thi xửa y vận" (số 49).
- Bản thứ ba gồm 75 thi đề trong đó một số bài có trong bản chép tay Tỉnh quốc hồn ca 2, một số lớn khác có trong bản chép tay Tỉnh quốc hồn ca 1.
3- Xăng-tê thi tập: Tại 34 Phan Đình Phùng, Đà-Nẵng hiện còn hai bản chép tay mang tên Xăng-tê thi tập:
- Bản thứ nhất là bản sao của Nguyễn Ngô Ngạc khi ông này còn ở Pháp, gồm 221 thi đề viết trên tập học trò với lời kính thuật đề ngày 15-9-1927. Nguyễn Ngô Ngạc là cháu gọi Phan Châu Trinh là cậu họ. Hồi nhỏ ông là môn sinh của Phan, có thi Hương một lần vào năm 1909, làm Lý trưởng, làm Giáo sư. Năm 1916, Nguyễn Ngô Ngạc tòng chinh sang Pháp, đóng suất đội, năm 1920 trở về nước, hàm lục phẩm. Khi còn ở Pháp, Nguyễn Ngô Ngạc đến thăm Phan Châu Trinh ở Pa-ri, được Phan cho xem Xăng-tê thi tập và bảo sao lại một bản gửi về Việt Nam để phổ biến. Bản chính của thi tập này, Phan Châu Trinh giao lại cho con là Phan Châu Dật. Nhưng khi Dật về nước (1919) không kịp mang theo, nên phải nhờ Nguyễn Ngô Ngạc mang về giao lại. Dật nằm nhà thương rồi mất. Bản chính đó, theo Ngạc, đã bị mất. Còn bản sao, đến cuối năm 1927, Ngạc mới đem lại giao lại cho bà Châu Liên và ông Lê Ấm.
- Bản thứ hai cũng làm một bản sao gồm 77 thi đề, từ số 81 đến số 157. Đây chắc là một trong số hai hoặc ba phần của Xăng-tê thi tập mà những phần kia đã thất lạc.
4- Thơ viết từ Côn Đảo: là nhan đề ghi trên bìa mới đóng lại của một thi tập mang di bút của Phan Châu Trinh. Thật ra nhan đề này không phù hợp với nội dung của thi phẩm đó. Trái lại đây là "bản chính" của Xăng-tê thi tập mà Nguyễn Ngô Ngạc đã bảo là không còn nữa. Tuy nhiên, thi tập này hiện còn lại không đủ, chỉ có 161 bài thơ, từ bài số 4 đến bài số 90 và từ bài số 130 đến bài số 203. Nếu đối chiếu bản này với bản của Nguyễn Ngô Ngạc, thì sẽ thấy bản sau đúng là bản sao lại của bản trước.
5- Thơ ngoại cuộc: là một tập di bút của Phan Châu Trinh gồm 21 trang giấy học trò, có hai phần:
- Phần thứ nhất là Thơ ngoại cuộc có 17 trang.
- Phần còn lại gồm một số thi ca khác.
Thơ ngoại cuộc thật ra chỉ là bản chép lại một một cách thuộc lòng (?) bài dịch Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu do Từ Long Lê Đại dịch. Tuy nhiên, nếu so cùng với bản đó in trong Thơ văn Phan Bội Châu của Đặng Thai Mai, Văn hóa, Hà-Nội, 1960, thì bản này có nhiều chữ nhiều câu chép khác hẳn, nhiều đoạn bỏ cách khoảng và đoạn cuối cùng lại thiếu gần 200 câu. Phần thi ca khác còn lại đây gồm bài "thơ giảng báo" là một bài ca trù dài và một bài thơ thất ngôn không có đề và thiếu đi câu luận. Nội dung cả hai bài nhằm kêu gọi đồng bào dù ở đâu và làm nghề gì, cũng nên ý thức đầy đủ hoàn cảnh bất hạnh của đất nước, của dân tộc, để tìm phương cứu nước giúp dân.
Những tác phẩm chưa được công bố gồm cả phần chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và một số nhỏ chữ Pháp. Số tác phẩm này trước đây cũng đã có người nói đến, nhưng hoặc chỉ cho biết tên tác phẩm, hoặc chỉ giới thiệu sơ lược về tác phẩm, hoặc chỉ trích dịch một vài đoạn nhỏ của tác phẩm. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu cả hình thức lẫn nội dung từng tác phẩm, nhưng với một số khác mà chúng tôi cho là ít quan trọng thì chỉ xin nói đến một cách tổng quát.
1- Tỉnh quốc hồn ca 2 là bản chép tay bằng chữ Quốc ngữ của Phan Châu Trinh trên tập vở học trò, đóng chung với một số bài khác cùng nét bút của ông và một phần của người khác. Bản này gồm:
- Một đề cương có 6 phần mà nội dung vạch trần chính sách cai trị của người Pháp tại Đông-Dương và đề nghị một đường lối khiến hai nước Pháp và Việt không nghi kỵ, không ganh ghét và không thù hiềm nhau.
- Văn bản Tỉnh quốc hồn ca 2.
- Tiểu sử Phan Châu Trinh cùng một số thơ của ông làm ra khi ông chưa sang Pháp (phần này nét bút và màu mực có khác những phần kia).
- Bài "Cách cai trị rộng rãi bên An-Nam, một người tự nhận là cha dân An-Nam, nói một đàng làm một nẻo". Đây chắc là bản nháp một bài báo của Phan Châu Trinh nhằm công kích Al-be Xa-rô (Albert Sar-raut) và đường lối chính trị cải cách giả dối của y như việc lập viện tư vấn, luật pháp, học hành,... nhưng thật ra lại đầu độc dân tộc ta và tước đoạt quyền tự do của dân tộc ta. Tỉnh quốc hồn ca 2 là một bài ca song thất lục bát, gồm 133 liên nhưng bị bỏ hết 9 liên ở nhiều đoạn khác nhau, còn lại 124 liên hay 496 câu thơ. Nội dung khúc ca trình bày bản chất của dân ta là "nhớ ơn quên thù" để cầu tiến bộ. Chính sách cai trị của thực dân rất khắc nghiệt, quan lại thừa hành thì nhũng lạm tàn ác, khiến dân ta phải chịu khổ sở lầm than. Có điều, người Pháp vốn có "lòng nhân", nước Pháp là nơi sản sinh "dân quyền lập hiến", nếu ta quyết theo đường lối dân chủ tự trị thì, vì quyền lợi chung, người Pháp chắc sẽ phải "tận tình giúp đỡ ta" và "ta sẽ được tiến bộ văn minh"...
2- Di cảo: là tập di bút chữ Hánm, chữ Nôm gồm một số bài thơ, văn và luận thuyết của Phan Châu Trinh. Toàn tập có 110 trang giấy đại cỡ 25x26 cm, trang 16 dòng chữ thảo rời, giấy có kẻ phần dòng bằng mực đỏ nhưng nhiều trang lại viết tràn ra ngoài số dòng sẵn có. Tập này ngoài bài "Việt Nam quốc dân Phan Châu Trinh ký thư ư đương kim hoàng đến và một số bài thơ trong Quốc âm tạp vịnh, còn có những phần sau đây chưa hề được công bố:
- Chính sách thuế khóa đinh điền thổ ở Việt Nam.
- Thư gửi Hoàng Cao Khải,
- Quốc âm tạp vịnh.
- Thư gửi toàn quyền Đông-Dương.
- Bản Hán dịch bài diễn thuyết của Thiết-Sinh-Sỹ.
- Khất lưu thư.
3- Đại Việt sử ký toàn thư tự: là một bản sao chữ Hán gồm 41 trang chữ thảo rời trên giấy tiểu cỡ 16x27cm, trang 9 dòng, dòng 20-22 chữ, gồm:
- Bài tựa (?)
- Bài lai cảo canh chánh.
Phần đầu gần như một tập bút ký. Sau khi đọc Đại Việt sử ký toàn thư bản của người Nhật, Phan Châu Trinh đã chép lại bài tựa và tự trích ghi những nhân vật yêu nước trong sách từ đời Hùng Vương đến đời Hồ. Phần sau là một bài báo cải chánh bài đăng trong nhật báo Hải lục quân của Trung Quốc về việc đào mả Tự Đức. Bài "lai cảo Trung-Quốc Hải lục quân nhật báo" này còn thấy Thượng Giới Thị(15) chép lại đằng sau tập Đầu Pháp chính phủ thư. Cũng nên biết thêm phần Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử của Thượng Giới Thị có khá nhiều chi tiết về cuộc đời Phan Châu Trinh không có trong tài liệu cùng tên của Huỳnh Thúc Kháng.
4- Đông-Dương chính trị luận: tác phẩm này ở Đà-Nẵng hiện có hai bản:
- Một bản nháp là thủ bản của Phan Châu Trinh gồm 80 trang giấy đại cỡ 16x31cm, trang 12 dòng, dòng 30-32 chữ thảo, nhiều chỗ có ghi chú và sửa chữa.
- Một bản sao của Trần Tiêu(16) gồm 184 trang giấy tiểu cỡ 16x29cm, trang 8 dòng, dòng 15-16 chữ thảo rời. Trang bìa đề Đông-Dương chính trị luận với dòng lạc khoản "Tây Hồ Phan Hy Mã tiên sinh trước". Từ trang 2 đến trang 10 là "Phan Tây Hồ tiên sinh niên biểu" của Huỳnh Thúc Kháng. Trang 11-12 là bài tựa của Trần Tiêu Thượng Giới Thị đề ngày 4 tháng 4 năm Bính Dần (1926). Từ trang 13 đến trang cuối chép văn bản Đông-Dương chính trị luận. Đây là phần chính trị học của Phan Châu Trinh cũng là bản án về những tệ chính và tệ trạng của chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Chính sách của thực dân Pháp là đem lại tư quyền tư lợi cho một thiểu số cá nhân Pháp và bức hại quần chúng nhân dân bản xứ. Do đó mà từ việc thiết lập bộ máy cai trị đến chế độ dùng người đều nhằm mục đích bóc lột đàn áp, khiến cho máu mỡ của nhân dân ngày càng khô cạn nhưng vẫn không dám há miệng kêu ca. Vấn đề chính trị ở Đông-Dương rất khó, muốn giải quyết phải mất nhiều thời gian và tốn nhiều công sức của hàng vạn nhân dân.
5- Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam: là bản thảo chữ Hán của Phan Châu Trinh viết trên năm mươi trang giấy đại cỡ 21x34cm, trang 12 dòng, dòng 32-36 chữ, nhiều chỗ có bôi xóa sửa chữa. Nội dung tác phẩm nhằm trình bày đường lối chính trị của ông về một nước Việt Nam mới sau khi thi hành chính sách liên hiệp Pháp-Việt. Tác phẩm cũng nêu rõ chủ trương bất đồng giữa hai đảng cứu nước bấy giờ: đảng "Cách mạng" do Phan Bội Châu phát khởi thì bài ngoại (Pháp) nhưng ỷ ngoại (Nhật) và đảng "Tự trị" do tác giả phát khởi thì cố tìm cách cho hai nước Pháp và Việt gần nhau, nên đòi hỏi phải cải cách, phải khai trí trị sinh. Bằng vào kinh nghiệm lịch sử giao thiệp giữa Trung Quốc và Việt Nam cùng tình hình Việt Nam từ khi giao thiệp với Pháp, tác giả kiên trì theo chủ trương đường lối của mình.
6- Cuộc ngoại nhân kim nhật chi Trung quốc quan: là một tác phẩm của Phan Châu Trinh mà tài liệu của Huỳnh Thúc Kháng có nói đến, nhưng hiện chưa tìm thấy. Theo tài liệu của Bách Khoa số 406 tháng 3-1974, thì ông Lê Ấm là người đã được đọc tác phẩm trên và cho biết sơ lược nội dung cuốn sách là bàn về sự biến loạn ở Trung Quốc sau khi Tôn Văn mất và đề nghị một hậu duệ của Khổng Tử lên làm tổng thống.
7- Những tài liệu khác: Đây là số thư từ riêng của Phan Châu Trinh nhận và gửi cho người khác ở Pháp, ở Việt Nam và ở các nước ngoài. Hiện còn khoảng trên bảy mươi bức bằng chữ Việt, chữ Pháp và chữ Hán. Trong số thư từ này, trước đây một số đã được nói đến tên , hoặc được trích dẫn một vài đoạn, hoặc được công bố toàn văn. Cũng có một số thư không đề địa chỉ, không đề ngày tháng hoặc ký tên không rõ, còn thì niên đại trên thư đề từ năm 1911 đến năm 1926 và địa chỉ đại để có: Al-be Xa-rô (Albert Sarraut), Ba-but (Babut), Báo Uy-mani-tê (Humanité), Báo Hương Cảng, Bô-ni-fa-xy (Bonifacy), Bộ trưởng Bộ thuộc địa, Ca-rông (Caron), Đại diện chính phủ Đông-Dương, Ec-net Buy-tơ-rây (Ernest Dutrey), Hạ nghị viện Pháp, Hồ Văn An, Ruy-lo Ru (Jules Roux), ông Lâm, Ma-ri-uyt Mu-te (Marius Moutet), Pô-lê (Pollet).
Phan Châu Dật, Q.d. Tất Thành, tỉnh Mỹ-Tho, Tòa Hòa giải Quận 17 ở Pa-ri, Uy-li-xơ Lơ-rich-sơ (Ulysse Leriche), Đuy Vô-rơ (du Vaure)... Có điều xin thưa thêm là một số các bức thư thuộc loại trên, trước đây chắc có trong số di cảo của họ Phan nên đã được một số người nói đến, nhưng bây giờ không còn thấy nữa(17).
Chúng tôi nghĩ rằng, số tác phẩm trên đây một mặt sẽ góp phần bổ sung và chỉnh lý các văn bản về Phan Châu Trinh đã được công bố; mặt khác, với tư cách là những tài liệu mới phát hiện, sẽ là cơ sở để chúng ta nghiên cứu và đánh giá Phan Hy Mã một cách khách quan hơn, chính xác hơn.
Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với bà Phan Thị Châu Liên và nhà văn Phan Tứ đã tận tình giúp đỡ, cho chúng tôi mượn toàn bộ di cảo của Phan Châu Trinh để đọc.
CHÚ THÍCH
(*) Cho đến nay, các sách báo vẫn chưa thống nhất về tiếng đệm trong tên tác giả. Có nơi viết là "Châu", nhưng cũng có nơi viết là "Chu". Để tôn trọng cách đọc và viết của tác giả và gia đình ông, chúng tôi đề nghị dùng: Phan Châu Trinh (Đ.K).
(1) Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự Thật, H. 1971, tr.62.
(2) Xin đọc thêm Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử của Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu niên biểu của Phan Bội Châu, Nam Phong số 106 tháng 6-1926, Phụ nữ tân văn số 44 ngày 20-3-1930, Tân Dân số 3 ngày 24-3-1949, Nghiên cứu Lịch sử số 3,6,7 năm 1959, số 66 đến 76 năm 1964-1965, Tạp chí Văn học số I năm 1969, số 2 năm 1973, Chính văn số 3 năm 1972, Bách Khoa số 405, 406 tháng 2 và 3 năm 1974,..
(3) Phan Châu Trinh(*): "Chuẩn bị thảo luận về một nhân vật lịch sử, Nghiên cứu lịch sử số 66 tháng 9-1964.
(4) Những tác phẩm của Phan Châu Trinh, ngoài nguồn tài liệu này, thiết tưởng còn có thể kiếm thêm những nguồn khác ở Việt Nam và ở Pháp, những nơi đây Phan Châu Trinh đã từng sinh hoạt từ khi được "ân xá" đến năm 1926, có quan hệ với một số tư nhân và nhà nước. Riêng khối tài liệu ở Pháp, theo chỗ chúng tôi được nghe thì bà Thu Trang Công Thị Nghĩa đã có sưu tập và nghiên cứu. Rất mong một ngày gần đây học giới trong nước sẽ được biết thêm khối tài liệu quý báu này.
(5) Xem "Phong trào cách mạng Việt Nam qua thơ văn" của Trần Huy Liệu, Nghiên cứu lịch sử số 3 tháng 5-1959, tr.46.
(6) Xem "Một nho sĩ Việt Nam: ông Phan Châu Trinh" của Ruy-lơ Ru (Jules Roux), Nam Phong số 106 tháng 6-1926, phần phụ trương bằng chữ Pháp, tr.56.
(7) Theo Nguyễn Huệ Chi trong Tạp chí Văn học số 2 năm 1973 thì vì sơ ý nên các soạn giả Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền cho bài tựa này là dịch từ nguyên văn chữ Hán, sự thật thì toàn văn bài trên đã được ghi bằng chữ Nôm trong cuốn Hợp quần doanh sinh thuyết hiện có tại Thư viện KHXH ở Hà Nội, số hiệu VNv.224
(8) Theo các ông Lê Ấm và Nguyễn Quyết Thắng trong Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký thì bàn Pháp dịch này "không biết ai dịch", nhưng theo ông Long Điền trong Bách Khoa số 405 tháng 2-1974 thì chính Phan Văn Trường là dịch giả bản Pháp dịch này.
(9) Xem "Về quyển Giai nhân kỳ ngộ diễn ca" của Huỳnh Lý trong Tạp chí Văn học số I/1969 tr.82.
(10) Theo Giai nhân kỳ ngộ do Hướng Dương xuất bản năm 1958 thì kỳ xuất bản 1926 "sách vừa in xong chưa kịp phát hành một quyển nào thì nhà chức trách đã tịch thâu và đốt hết", nhưng theo Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập II thì Thư viện KHXH ở Hà Nội hiện có bản này và mang ký hiệu P.0689 (25).
(11) Xem Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử của Huỳnh Thúc Kháng. Đây là thủ bút của họ Huỳnh và chính tác giả đã trao lại cho bà Châu Liên năm 1926 tại Huế. Năm 1958, tài liệu này được in chung vào tập Giai nhân kỳ ngộ của nhà xuất bản Hướng Dương.
(12) Các sách này đều có ở Thư viện KHXH ở Hà Nội và mang số hiệu VHv. 2157, A.3103, A.566.
(13) Theo lời bà Châu Liên trong "Chân dung Phan Châu Trinh dưới mắt người con", Bách Khoa số 406 tháng 3-1974, tr.84.
(14) Hai trang đầu của tập I Giai nhân kỳ ngộ diễn ca bị mối ăn mất mấy chỗ, nên gia đình đã chép lại hai trang này đóng phụ vào tập trước. Có điều nên để ý là trong khi chép lại, người chép ngoài việc sao y bản chính, còn chép thêm bài thơ chữ Hán mà trong bản chính chỉ có bài diễn Nôm. Còn bài thơ chữ ở đầu tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ diễn ca có phải là bài "cảm đề" của Phan Châu Trinh về tập diễn ca của mình không? Vấn đề này, ông Huỳnh Lý trong Tạp chí Văn học số I năm 1969 đã tra cứu, đối chiếu văn bản và cho biết bài thơ chữ Hán trên là của Phan Châu Trinh "cảm đề" dịch phẩm của Lương Khải Siêu mà ông đã dùng để viết Giai nhân kỳ ngộ diễn ca. Tuy nhiên trong số di cảo của Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng, chúng tôi chưa tìm thấy bản Giai nhân kỳ ngộ chữ Hán cũng như bài thơ chữ Hán "cảm đề" trong bản nháp của ông.
(15) (16) Thượng Giới Thị là bút hiệu của Trần Tiêu. Theo lời bà Châu Liên cho biết thì Trần Tiêu người Quảng-Bình, học trò của ông Lê Ấm ở trường Quốc Tử Giám, Huế. Sau khi tốt nghiệp trường Giám, Trần Tiêu đến ở lại nhà ông bà Lê Ấm trong thời gian khá lâu. Vì quá hâm mộ Phan Châu Trinh, nên Trần Tiêu đã đọc hết những di cảo của Phan, chỉnh đốn, sao chép, đề tựa một số tác phẩm và nối tiếp công trình của Phan như trường hợp diễn ca tiếp Giai nhân kỳ ngộ từ hồi X đến hồi XIV mà nguyên cảo hiện còn ở Đà Nẵng.
(17) Vào khoảng tháng 12-1977, khi được đọc số di cảo của Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng, chúng tôi đã tổng kê được 79 tài liệu thuộc loại thư từ riêng này. Nhưng khi đối chiếu với một số tài liệu đã được phổ biến trên sách báo trước đó, mới biết được loại tài liệu này trước đây có nhiều hơn thế. Riêng bức thư không đề ngày của Q.d. Tất Thành ở England gửi cho Phan Châu Trinh, chúng tôi được biết Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đã đến tiếp nhận tại Đà Nẵng ngày 8 tháng 3 năm 1978./.
|