TB

THỬ BÀN VỀ CÁCH DẠY CHỮ NÔM TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM

LÊ VĂN

Ở nước ta, các tài liệu văn thơ viết bằng chữ Nôm còn lưu lại khá nhiều. Một nguồn di sản văn hóa vô cùng phong phú của dân tộc bị lớp thời gian bao phủ đang đợi chờ chúng ta sưu tầm và khai thác. Để tìm hiểu quá khứ của dân tộc, nhất là nền văn hóa truyền thống dân tộc, chúng ta cần phải biết sự phát triển ngôn ngữ văn tự qua các thời đại lịch sử. Đồng thời, chúng ta cần nắm chắc kết cấu nội tại của chữ Nôm, cách sử dụng văn bản Nôm v.v… Nhưng điều tiên quyết là chúng ta phải đọc được các văn bản viết bằng chữ Nôm. Vì thế, sinh viên các ngành Văn, Sử, Ngôn ngữ… học chữ Nôm là điều rất cần thiết.

Nói chung, ở các trường có dạy Hán Nôm, chưa coi trọng việc dạy chữ Nôm. Bởi vì, số giờ học Hán Nôm ở các trường chỉ có hạn, cho nên có ý nghĩ: chữ Hán học chưa xong, còn học chữ Nôm làm gì !

Lại có ý kiến cho rằng, chữ Nôm khó hơn chữ Hán, cứ học tốt chữ Hán, mới học được chữ Nôm.

Những ý nghĩ ấy chưa hoàn toàn xác đáng. Nếu chữ Nôm khó hơn chữ Hán, thì chữ Nôm không thể tồn tại được. Bởi vì, chữ Nôm chưa phải là loại văn tự chính thức của Nhà nước, nhưng nó vẫn lưu truyền trong dân gian và làm nổi danh các tác phẩm: Chinh phụ ngân, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên,...

Và ngày này mỗi lần Tết đến, trên hè phố Thủ đô Hà Nội, ta lại thấy các ông đồ viết câu đối Nôm. Hơn nữa, nếu chữ Nôm khó hơn chữ Hán thì ông cha ta dùng luôn chữ Hán, không cần phải sáng tạo chữ Nôm.

Rõ ràng, chữ Nôm dễ hơn chữ Hán. Do đó, người học không nhất thiết có chữ Hán mới học được chữ Nôm. Trong chương trình dạy Hán Nôm ở các trường cũng không nhất thiết cứ học chữ Hán trước rồi mới học chữ Nôm. Chữ Nôm là loại văn tự ghi lại ngôn ngữ dân tộc ta ở thời xưa. Nếu với cách nhìn của người nước ngoài, thì dây là một ngoại ngữ đã xuất hiện ở một thời kỳ mà người Việt Nam đã sử dụng. Với cách nhìn ấy, chúng ta dạy chữ Nôm ngay từ đầu cho những người chưa biết chữ Hán cũng chẳng có gì sai. Hơn nữa, số giờ dạy chữ Hán Nôm ở các trường lại có hạn, cho nên việc bố trí dạy chữ Nôm cho sinh viên chưa biết chữ Hán, chính là tiết kiệm thời gian và tạo điều kiện học Hán văn nhanh chóng đạt kết quả.

Trong chương trình dạy Hán Nôm ở các trường, thế nào cũng có một số giờ dạy viết chữ Hán. Nếu học chữ Nôm ngay từ buổi ban đầu, thì chúng ta có thể kết hợp vừa phân tích kết cấu chữ Nôm vừa tập viết chữ Hán. Bởi vì, chữ Nôm cấu tạo bằng chất liệu chữ Hán, cho nên ít nhiều nó cũng có những đặc điểm của kết cấu chữ Hán. Như vậy, khi bước sang giai đoạn Hán văn, chúng ta có thể bỏ giờ tập viết chữ Hán.

Khi học chữ Nôm, người học cần phải nắm vững từng kiểu loại kết cấu. Trên lý thuyết, chữ Nôm có rất nhiều kiểu loại(1).

Nhưng khi dạy thực hành, chúng ta không nhết thiết phân tích chữ Nôm một cách quá tỉ mỉ. Vì phân chia tiểu loại quá tỉ mỉ, khiến người học khó nhớ, cho nên chỉ quy vào những kiểu loại cơ bản mà thôi(2). Người Việt Nam ta học chữ Nôm có rất nhiều thuận lợi. Vì chữ Nôm là văn tự ghi lại ngôn ngữ dân tộc, cho nên đọc được âm là hiểu được nghĩa. Học xong một giáo trình chữ Nôm hoàn chỉnh, chúng ta có khoảng 2000 chữ Hán. Điều quan trọng là chúng ta có cần cù, ở các trường có tập đều đặn hay không? Với giáo trình này, ở các trường có thầy hướng dẫn chỉ mất có 50 giờ, còn người tự học thì mất khoảng 100 giờ. Chúng ta có quyết tâm tự học đều đặn mỗi ngày một giờ học thuộc 20 chữ hán, thì chỉ trong 3 tháng chắc chắn sẽ đọc được các văn bản viết bằng chữ Nôm. Sau khi học xong giáo trình, nhớ được 2000 chữ Hán, tức là người học đã thực hiện được nửa đoạn đường học chữ. Vì thời thượng dùng chỉ có 3 hoặc 4 ngàn; tổng số chữ dùng trong Tứ thư (bốn bộ sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử) chỉ có 4466 chữ mà thôi(3).

Đến đây chúng ta càng thấy rõ, dạy chữ Nôm cho những người chưa biết chữ Hán ngay từ đầu cùng là tạo tiền đề cho người học bước vào học Hán văn mau chóng đạt kết quả tốt đẹp. Cố nhiên, khi đã có một vốn chữ Nôm nhất định, chúng ta không thể dừng lại ở đó, mà còn phải tiếp tục đọc các truyện viết bằng chữ Nôm thì trình độ mới được nâng lên một cách vững chắc. Nhất là, khi chúng ta có sẵn 2000 chữ Hán chuyển sang học chữ Hán văn thì khả năng nhận biết chữ Nôm có liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng khi đọc các văn bản Nôm, người ta thường gặp không ít khó khăn. Muốn giúp người học giải quyết được những khó khăn trong việc đọc các văn bản Nôm, người dạy phải tự trang bị cho mình những tri thức tốt thiểu như sau:

1. Hiện nay, chúng ta chưa có một quyển “Từ điển chữ Nôm” hoàn chỉnh. Các sách viết bằng chữ Nôm của ta hiện có đều là những văn bản viết bằng văn tự cổ. Trong đó, có những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ hiện đại hay rất gần ngôn ngữ hiện đại, nhưng lại ghi bằng văn tự cổ. Ví dụ văn thơ Nôm đầu thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Các bài văn thơ Nôm của các tác giả ở giai đoạn này đều viết bằng tiếng Việt, vì cơ bản giống như tiếng Việt của chúng ta ngày nay, cho nên người đọc không thấy khó khăn lắm. Nhưng có những tác phẩm viết bằng văn ngôn cổ và ghi bằng văn tự cổ. Ví dụ: Các tác phẩm văn thơ Nôm viết ở thế kỷ XIV, XV,… Đây là những tác phẩm Nôm cổ, những tác phẩm viết cách ta hàng 5 hoặc 6 thế kỷ, ngôn ngữ có những nét khác xa ngày nay. Ở ngôn ngữ cũng như văn tự qua quá trình lịch sử thường nảy sinh sự đối lập: ngôn ngữ cổ với ngôn ngữ mới, văn tự cổ và văn tự mới. Vì vậy, nảy sinh ra những trường hợp một chữ Nôm có nhiều cách đọc, nhiều cách viết(4). Ví dụ:

Chữ Hán “nữ” (con gái), cùng trong một văn bản Nôm, nhưng lại có những cách đọc khác nhau:

Nỡ: “Trung hiếu niềm xưa, mựa nỡ dời”

Nợ: Nợ quân thân chưa báo được” (Quốc âm thi tập, Ngôn chí 11).

Nữa: “Ẩn cả lọ chi thành thị nữa” (Quốc âm thi tập, Ngôn chí 16).

Cùng một âm đọc “trái” (quả), nhưng lại có những cách viết: 鏁 迀 賴 鞩

Chữ Nôm là loại văn tự khối vuông ghi âm tiết, cho nên nó đã ghi lại đúng âm đọc ở thời kỳ sản sinh ra nó. Ở thời kỳ tiếng Việt còn phát âm “trái” là “khái”, “blái” tức là ở giai đoạn tiếng Việt còn có nhóm phụ âm kl-, bl-.

Về sau nhóm phụ âm trên không còn nữa, cho nên chữ Nôm “trái” có một thời kỳ được ghi bằng chữ Hán “lại”. Nhưng do quan hệ giao tiếp, người viết thông tin cho người đọc, chỉ thuần túy dùng chữ Hán “lại” ghi âm đọc Nôm “trái”, người đọc rất khó đoán âm đọc, cho nên chữ Nôm “trái” được bổ sung thêm thành tố Hán “quả” biểu hiện ý nghĩa (ý phù).

Qua các văn bản Nôm, ta thấy chữ Nôm càng xa xưa thường là sử dụng nguyên hình chữ Hán. Càng về sau, chữ Nôm càng được hoàn chỉnh, bổ sung thêm phần ý phù. Vì thế ở cuối thế kỷ thứ XVIII đầu thế kỷ XIX loại chữ Nôm gồm có hai hình tố: ghi âm và ghi ý chiếm đa số trong hệ thống chữ Nôm.

Điều này thể hiện khá rõ nét ở loại chữ Nôm đọc chệch âm. Chẳng hạn, chữ Nôm “nhiều” lúc ban đầu được ghi bằng chữ Hán có âm đọc hán Việt “nhiêu” (phì nhiêu), nhưng về sau được dùng thành tố Hán “đa” (nhiều) để biểu ý.

Do đó khi giảng kết cấu chữ Nôm, chúng ta nên lý giải kỹ về những trường hợp này. Nếu không người đọc dễ ngộ nhận cho rằng viết sai, viết thiếu.

2. Việc lính hội ý nghĩa của các từ cổ lại là điều không phải dễ dàng, cho nên trong một số văn bản Nôm những trường hợp đọc sai, hiểu sai thường là nằm trong số các từ này. Ví dụ:

Chữ “biên” @ có thể phiên âm đọc Nôm là “bên”, nhưng ở câu thơ dưới đây vẫn là “biên” (= náu tóc):

Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc
(Quốc âm thi tập,
bài 50)

“Chuốc” 贖 (= mua):

Mời thầy chuốc thuốc, muốn xin ngăn đừng
(Hồng nghĩa giác tư y thư,
tờ 2b)

“Chuốc” 祝 (= rót rượu, mời):

Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
(Đoạn trường tân thanh,
câu 1296)

“Đáo để” 到 底 (= rất đỗi):

Thường chàng đáo để xót xa
(Phương Hoa tân truyện,
câu 319)

Việc đọc và hiểu được ý nghĩa của từ Việt cổ, trước hết, phải có thời gian tích lũy, tra cứu các từ điển cổ v.v… Nhưng trong các văn bản viết bằng chữ Nôm, ý nghĩa của từ được bộc lộ ra ngoài là nhờ ngữ cảnh. Ngữ cảnh có thể là một câu trọn vẹn, nhưng cũng có thể bao gồm một đoạn văn, một khổ thơ. Nhất là, trong các loại văn (biền ngẫu), thơ ca cổ, lại cần phải dựa vào niêm luật thì mới có thể suy đoán được âm đọc và ý nghĩa của từ một cách chính xác. Việc tìm hiểu ý nghĩa của từ là phải căn cứ vào khả năng cú pháp, khả năng kết hợp từ. Cùng trong một tác phẩm, cùng một từ có thể có những cách dùng khác nhau. Ví dụ từ “hòa”:

Dại hòa vụng nết từ khừ
(Quốc âm thi tập,
bài 93)

Trong câu này “hòa” là một liên từ liên hiệp nối hai tính từ, biểu thị ý nghĩa “và”; nhưng ở câu:

Phu phụ đạo thường chăng được chớ,
Nối tông hòa phải một hai khi.
(Quốc âm thi tập,
bài 190)

thì “hòa” là trợ từ, giống như “mà” trong tiếng Việt hiện đại.

Đặc biệt, tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình, hiện tượng đa nghĩa và đồng âm tương đối phổ biến, do đó, việc dựa vào ngữ cảnh để suy đoán ý nghĩa của từ là điều rất quan trọng.

Ví dụ từ “nghỉ”:

Phụ tình án đã rõ ràng,
Do tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui.
(Đoạn trường tân thanh,
câu 1180)

Trong câu này, từ “nghỉ” có nghĩa là “y” “va”, “hắn. Nhưng cũng cách viết, cách phát âm như vậy, trong đoạn thơ:

Vốn xưa làm Nôm xe chữ kép,
Người thiểu học khôn biết khôn xem.
Bây giờ Nôm dạy chữ đơn,
Cho người mới học nghỉ xem nghỉ nhuần.
(Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa,
bài Tựa)

Nếu đọc kỹ bốn câu thơ trên, và qua từ “khôn” nghĩa là “khó” ở câu thứ hai, chúng ta có thể suy đoán được ý nghĩa của từ “nghỉ” ở câu thứ tư là “dễ dàng” (dễ xem dễ nhuần).

Dựa vào ngữ cảnh sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm ngữ nghĩa của những từ tỉnh lược ở câu thơ hoặc câu văn. Ý nghĩa của từ tỉnh lược thường lưu lại trong các từ đa âm tiết có liên quan với nó. Ví dụ từ “khong”:

Xem thôi kẻ vịnh người khong,
Hoa tươi nét bút, ngọc ròng lời tao.
(Ngọc Kiều Lê tân truyện,
câu 10)

Từ “khong” vốn bắt nguồn ở từ “khong khen” của tiếng Việt Cổ, với nghĩa là “khen”. Ở đây, do vần điệu của câu thơ cho nên đã tỉnh lược chữ khen.

Ngoài ra, nếu đi sâu nghiên cứu văn bản Nôm thì những hiện tượng tu từ, lối chơi chữ, hình thức đối trong thơ ca… cũng là những vấn đề chúng ta cần quan tâm lưu ý.

3. Những người giảng dạy chữ Nôm không những có sự hiểu biết về chữ Hán, chữ Nôm mà còn phải có sự hiểu biết về văn hóa Việt Nam và Trung Quốc, sự hiểu biết chuyên môn về Hán học, Việt học, sự hiểu biết về những quan điểm Mác xít và đường lối của Đảng ta về văn hóa. Muốn đọc tốt các văn bản Nôm, đòi hỏi việc học chữ phải được bổ trợ bằng những hiểu biết về lịch sử địa lý văn hóa, phong tục, hiểu biết về tư tưởng xã hội ngày xưa ở Việt Nam và Trung Quốc. Vì trước đây các tài liệu Hán Nôm của ta ra đời trong tình hình văn học, sử học, triết học chưa chia tách thành ngành riêng. Đặc biệt là những người giảng dạy Hán Nôm cần phải có tri thức tối thiểu về ngôn ngữ học. Đừng để xảy ra tình trạng giáo trình do các thầy biên soạn vẫn mang những sai sót không đáng có. Thí dụ viết “Chữ Nôm ghi tiếng Hán Việt”(5).

Trong hệ thống tiếng Việt của ta chỉ có từ Hán Việt, âm Hán Việt, chứ không có tiếng Hán Việt.

Cả đến những khái niệm như “từ” “chữ” cũng chưa phân biệt rõ, niên có những đề mục khiến người đọc rất khó hiểu. Ví dụ: “Phân tích cấu trúc từ chữ Nôm ghi tiếng Hán Việt” (Sđd. tr.139). Hay là ở phần bài tập, có những câu ghi: “Phân tích chữ” (Sđd, tr.144, 147, 150, 157). Phân tích chữ gì ? Và không hề có chấm câu (ở đây là hai chấm) v.v…

Trên đây tạm dẫn một vài sai sót để chúng ta cùng suy nghĩ. Những sai sót ấy tuy đơn giản nhưng lại rất cơ bản.

Người sinh viên ở các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm học Hán Nôm có được trang bị những tri thức như đã nói ở trên thì mời thấy hết giá trị của chữ Nôm. Khi người sinh việc đọc được các nguyên bản Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Thạch Sach, Trê Cóc, Nhị độ mai, Hồng Đức Quốc âm thi tập, v.v... viết bằng chữ Nôm, chắc hẳn họ sẽ tự hào về ông cha ta, về dân tộc đã từ chữ Hán khối vuông tạo nên loại chữ riêng của nước mình, của dân tộc mình. Chữ Nôm là văn tự khối vuông ghi âm tiết, nó còn có những nhược điểm khiến cho người đọc khó đọc, khó nhớ. Nhưng chữ Nôm ra đời và đã được sử dụng một thời gian khá dài trong đất nước Việt Nam thì ít ra nó cũng là nguồn văn tự quý giá làm tiền đề cho các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu, tham khảo, xây dựng một loại văn tự dễ học, dễ nhớ, đó là chữ Quốc ngữ. Ngày nay, chúng ta tự hào về dân tộc ta đã có chữ Quốc ngữ, một thứ chữ có đầy đủ khả năng ghi chép, tiếp thu, truyền đạt tất cả nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới đến tận mọi người dân ở mọi vùng đất nước. Và chúng ta đã thoát khỏi việc sử dụng chữ khối vuông Hán. Trong khi đó, một số nước cùng trong địa bàn châu Á đã nhiều lần đề xuất cải tiến văn tự nhưng đến nay vẫn không thoát khỏi việc sử dụng chữ khối vuông Hán.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985. tr.53, chia ra 10 loại. Trần Xuân Ngọc Lan: Chi nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.44, chia ra 17 tiểu loại.

(2) Lê Văn Quán, Tự học chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1989.

(3) Trình Hy Lam, Ngô Thúc Hy chủ biên: Tiếng Hán cổ đại, Cát Lâm Nhân dân xuất bản xã, 1983, tr.21.

(4) Cũng không loại trừ khả năng, chữ Nôm chưa phải là loại văn tự chính thức của quốc gia, cho nên người viết có thể linh động thay đổi cách viết theo sự hiểu biết riêng của mối người.

(5) Giáo trình Hán Nôm, Trường Đại học tổng hợp, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, H. 1990, các tr.132, 138, 141, 164,…

TB

HIỆN TƯỢNG ĐỌC KHÔNG CHUẨN
TỪ HÁN VIỆT TRONG VĂN BẢN NÔM

NGUYỄN THỊ LÂM

Chúng ta biết rằng trong kho tàng từ vựng tiếng Việt, những từ gốc Hán đọc với âm Hán Việt chiếm tỉ lệ khá lớn (khoảng 60-70%)(1). Cho nên, việc mượn ngay chữ Hán để ghi những từ mượn ở tiếng Hán Việt là một điều hoàn toàn có thể chấp nhận được trong quá trình tạo chữ Nôm. Những chữ này có một đặc điểm là dù gặp chúng trong văn bản Hán hoặc Nôm thì âm đọc và nghĩa cũng không khác gì nhau. Còn việc xác định xem chúng là Nôm hay Hán thì phải hoàn toàn dựa vào tính chất văn tự của văn bản mà ta tiếp xúc.

Phải nói rằng sự ăn khớp về văn tự, về âm đọc cũng như về nghĩa là đa số. Nhưng thực tế cũng cho thấy không chỉ ở địa hạt văn tự có những trường hợp tiếng gốc Hán không được ghi đúng những chữ cần thiết(2), mà về mặt âm đọc cũng có hiện tượng không tuân thủ nguyên tắc vừa nêu trên. Chúng tôi có thể nêu những biểu hiện âm đọc không phù hợp với phiên thiết bởi những nguyên nhân sau đây:

1. Do tự dạng

Ví dụ chữ “đồ” 荼 , các từ điển cổ chú là “đồng ngô thiết, âm đồ” nhưng vì chữ này gần giống với chữ “trà” 茶 “trì nha thiết” nên người ta dễ đọc nhầm chữ nọ thành chữ kia. “Đồ ti” (tiếng Phạn có nghĩa là lễ hỏa thiêu) quen đọc thành “Trà tì”, “Man đồ ta” (tiếng Phan có thể dịch là linh phù, đàn, đạo tràng) quen đọc thành “trà mi” trong các bản phiên âm Truyện Kiều của Nguyễn Du(3):

“Tiếc thay một đóa trà mi
…………………
…………………
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành”.
(Kim Vân Kiều tân truyện)

Thực ra “trà mi” phải đọc thành “đồ mi”. Các sách từ điển đều chú đó là “một thứ cây nhỏ, cành lá có gai. Đầu mùa hè nở hoa sắc trắng hơi vàng, rất đẹp”. Nguyễn Ức hiệu Lan Trai một nhà thơ đời Trần Minh Tông, cũng có bài “Đồ mi” (hoa đồ mi)(4). Tương tự như vậy, chữ “huyễn” 幻 cũng quen đọc thành chữ “ảo”… Bởi vậy, trong những trường hợp này, độc giả cần có sự hiểu biết tinh tế để tránh những sai lầm đáng lẽ không nên có.

2. Do kỵ húy

Lệ kiêng húy ở nước ta chỉ mới bắt đầu có từ thời Trần(5). Khi gặp những chữ trùng tên với các vua chúa hoặc những người thân thích trong hoàng tộc thì phải tìm chữ khác thay thế, hoặc viết thiếu nét, hoặc đảo trật tự của nét. Chẳng những về cách viết mà về âm đọc cũng phải thay đổi. Ví dụ chữ “thằng” (thự lăng viết, âm thằng) nhưng vì trùng tên với Thái Thượng Hoàng đầu tiên của nhà Trên nên phải đọc là “thừa”: “Trần Thằng” đọc là “Trần Thừa”. Hoặc chữ “lỵ” (lý dụy thiết, âm lỵ) vì trùng tên với Thái Tổ nhà Lê nên phải đọc là “lợi” “Lê Lỵ” đọc thành “Lê Lợi”… Bên cạnh đó, Phật giáo, Đạo giáo cũng do coi trọng kiêng húy mà gây nên một loạt âm Hán Việt đọc không chuẩn. Ví dụ chữ “thủy” 水 (Mẫu Thủy) đọc là thoải(6), chữ “hoa” đọc thành “bơ”(7) (vì Quỳnh Hoa là tên của Liễu Hạnh nên trong nghi lễ thờ cúng có kiêng húy): chữ “thằng” 乘 (còn có âm là thặng) đọc là “thừa” (Đại thừa, Tiểu thừa)(8)… Trong dân gian còn lưu hành câu sau đây:

“Quan huyện là quan huyện Thằng
Xử kiện lằng nhằng là thằng quan huyện”

Lẽ ra ở đây không kiêng âm “thằng” thì phải đọc thành “thừa” (có nghĩa là vâng chịu, thừa hành…) và câu đầu sẽ là “Quan huyện là quan huyện Thừa”. Những âm kiêng húy được sử dụng một cách rộng rãi, lưu truyền từ đời nọ sang đời kia đến nỗi dần dần người ta quên mất âm chính, chỉ nhớ âm phụ. Mỗi chữ húy lại thường có một “lai lịch” nhất định nên người ta cũng căn cứ vào đó để giám định văn bản.

3. Do âm địa phương

Thuật ngữ ngôn ngữ học gọi chung tiếng nói của địa phương là phương ngữ. Ở nước ta, có những người đã chia ra phương ngữ Bắc, phương ngữ Nam, phương ngữ Trung(9). Trong từng vùng như vậy lại có những sắc thái ngôn ngữ riêng. Chẳng hạn ở địa hạt phụ âm đầu, có vùng phát âm không phân biệt những âm uốn lưỡi và âm không uốn lưỡi tương ứng: giữa L và N, giữa S và X, giữa tr và ch, giữa r và d/gi… Ở Nam bộ không có phụ âm đầu (v) mà thay vào đó là một bán nguyên âm (J)… Về vần và thanh điệu mỗi nơi cũng có những đặc trưng riêng. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng tới chữ Nôm là thứ chữ ghi âm tiếng nói của người Việt, chúng tôi hy vọng sẽ trình bày trong một dịp khác. Ở đấy cần khẳng định rằng những tập tục, thói quen ngôn ngữ là có tính chất lâu dài và điều đó cũng ít nhiều để lại dấu ấn trong cách đọc các từ Hán Việt. Chẳng hạn tiếng địa phương Nam bộ đọc: “tiểu thư” thành “tiểu thơ”, “Hoài Nhân” thành “Hoài Nhơn”; “Hiển vinh” thành “Hiển vang”. Trong thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu:

“Làm trai trong cõi người ta
Trước lo báo bổ sau là hiển vang”
(Vân Tiên cổ tích truyện,
tr. 2a)

Lại có trường hợp ban đầu là một âm kiêng húy. Ví dụ chữ “hoàng” 黃 , ở Nam Bộ vì kiêng tên Nguyễn Hoàng nên đọc thành “huỳnh”. Do vậy tất cả những người họ Hoàng đều phải đổi thành “Huỳnh”. Trong khi đó, ở miền Bắc không công nhận âm kiêng húy đó nên vẫn cứ đọc là “hoàng”. Thế rồi do sự truyền bá lâu dài, âm “huỳnh” dần dần đã trở thành âm địa phương riêng của Nam Bộ.

Tình hình đọc không chuẩn từ Hán Việt do âm địa phương cũng đã diễn ra trong cách đọc văn bản của người Tày (có khoảng 15%) đọc chệch”(10). Như vậy là nó mang tính chất khá phổ biến. Tuy nhiên, mức độ cao hay thấp còn gắn liền với đặc điểm của từng vùng. Sự thu thập những dấu ấn của ngữ âm địa phương còn để lại trên chữ Nôm sẽ là một tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu tiếng Việt.

Những nội dung chúng tôi vừa sơ bộ nêu trên đây có thể coi là biệt lệ của các loại từ Hán Việt trong văn bản Nôm. Chúng ta cũng cần nhận thức một cách đầy đủ, nâng cao hiệu quả trong công tác phiên âm.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr.54.

(2) Xem Nguyễn Thị Lâm - Nguyễn Minh Tân: Về cách ghi từ Hán Việt trong văn bản Nôm, Tạp chí Hán Nôm, số 1/1986.

(3) Ví dụ các bản: Truyện Kiều, Nxb. Văn học, 1979; Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985; Truyện Kiều, Đào Duy Anh hiệu khảo và chú giải, Nxb. Nghệ Tĩnh, v.v…

(4) Thơ văn Lý Trần, Tập 3, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1978, tr.26-27.

(5) Xem Ngô Đức Thọ: “Bước đầu nghiên cứu chữ húy đời Trần”. Nghiên cứu Hán Nôm, 1/1986.

(6) Song nữ tế tế Thái Thoải văn (Quốc phong ngâm vịnh. Ký hiệu VHv.2248, tr.49b, sách Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

(7) Tam hòa thánh mẫu, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1991, tr.25.

(8) Chỉ các môn phái đạo Phật. Nếu không vì lý do kiêng húy thì phải đọc là “Đại thặng, Tiểu thặng” với ý nghĩa Phật giáo coi môn đồ là những cỗ xe chuyên chở tư thưởng nhà Phật (xem Ngô Đức Thọ, Sđd).

(9) Xem Hoàng Thị Chân: Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb. KHXH, 1989.

(10) Theo Cung Văn Lược: “Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Nôm Việt” (Bản tóm tắt luận án PTS., H. 1991).

TB

VÀI NÉT VỀ KIM THẠCH VÀ KHOA NGHIÊN CỨU KIM THẠCH Ở TRUNG QUỐC

ĐINH KHẮC THUÂN

1. Khái niệm về Kim Thạch

“Kim” là kim loại mà chủ yếu là đồng, được tạo tác thành khí vật, có nguồn gốc từ việc Hoàng Đế cho khắc chữ, ghi niên đại trên các khí vật như đỉnh, vạc,… từ thời tam đại trở về trước. Còn “thạch” là đá, được khắc chữ, tạo hình, có nguồn gốc từ Vô Hoài Thị khi phong cho thần núi Thái Sơn, đã cho khắc vào đá để ghi công, và từ đời nhà Tần cho khắc chữ lên trống đá. “Kim Thạch” là từ chỉ chung cho những di vật và di văn bằng đồng và đá của người xưa ở Trung Quốc còn lưu lại đến nay. Thuật ngữ này cũng đã xuất hiện khá sớm trong thư tịch cổ Trung Hoa, như trong chương Kiêm Ái của Mặc tử ghi “lậu ư kim thạch”, nghĩa là khắc vào đồng đá. Tuy vậy, “kim thạch” thực sự trở thành danh từ học thuật mới bắt đầu từ đời Tống với tập Kim thạch lục của Tăng Củng.

Nói đến kim thạch ở thời Thương, Chu là nói đến nhạc khí; còn thời Tần là kim thạch khắc từ. Từ thời Tống về sau, do việc phát hiện di vật cổ ngày một nhiều, chủng loại ngày càng phong phú, nên khái niệm kim thạch cũng được mở rộng. Chúng bao gồm không chỉ những di vật và di văn trên đồng, đá mà còn trên các chất liệu cứng khác như xương thú, tre gỗ, ngói ngọc… Ở thời Tống, kim thạch được chia làm hai loại. Một là cổ khí vật, gồm di vật thuộc Tam đại, Tần, Hán bất luận được làm bằng kim hay ngọc, bất luận có chữ hay không có chữ, miễn là thưởng ngoạn được. Hai là kim thạch văn tự, tức văn tự được khắc trên bất kể khí vật nào, miễn là có thể sao lục được. Hai loại trên lúc đầu chỉ hạn chế ở khí vật và bia kệ, dần dần được mở rộng đến ngói, gốm và thậm chí cả giáp cốt, trúc mộc.

Giáp cốt, trúc mộc dầu được phát hiện muộn, song nó xuất hiện khá sớm cùng buổi đầu chữ viết được khắc lên kim thạch. Xét ở mặt sử dụng, thì trúc mộc được sử dụng rộng rãi nhất, nhưng đến cuối thời Nam Bắc triều bị phế bỏ hoàn toàn. Việc dùng giáp cốt chỉ hạn chế ở triều đại Ân Thương. Vả lại trúc mộc dùng lâu sẽ hư hỏng, giáp cốt chỉ dùng vào việc bói toán. Chỉ có sử dụng kim thạch thì từ thời thượng cổ đến nay không hề gián đoạn, lại lâu bền. Chính sự lâu bền của kim thạch đã được phản ánh ngay tên gọi của nó “cát kim”, “trinh thạch” mà di khí thời Chu và khắc thạch đời Tần đã ghi. Và vì vậy kim thạch được dùng chỉ chung cho các di vật được làm từ chất liệu bền chắc có khắc chữ chạm hình trang trí hoặc những di vật không có chữ, không có trang trí nhưng có ý thức như một tác phẩm. Mã Hành, nhà kim thạch học cận đại đã chia kim thạch làm ba loại: Một là di vật đồng, bao gồm lễ nhạc khí, độ lượng hành, tiền tệ, ấn tín, trang phục vua, vũ khí cổ. Hai là di vật đá, gồm khắc thạch, bia kệ, tạo tượng, kinh chàng, mộ chí,… Ba là di vật ngoài kim thạch, gồm giáp cốt, trúc mộc, ngọc và gốm. Trên cơ sở đó, Chu Kiếm Tâm nhà kim thạch học hiện đại chia kim thạch thành các loại: khí vật cát kim gồm: lễ khí, nhạc khí, binh khí, độ lượng hành khí, tạp khí, tiền tệ, tiền phạm (tiền phạm hàm), tỉ ấn, phong nê (một kiểu tiêm phong cổ để giữ bí mật tài liệu gửi đi), binh phù, kính giám; thạch khắc văn tự hoặc đồ họa gồm: khắc thạch, bi kệ, mộ chí, tháp minh, phù đồ, kinh chàng, tạo tượng, ma nhai, địa biệt, đồng thời kiêm cả các trứ tác trên ngọc khí, ngõa chuyên, giáp cốt, giản độc, minh khí, đào khí (đồ gốm).

Như vậy khái niệm kim thạch không ngừng được mở rộng từ chỗ là di vật bằng đồng đá có hoặc không khắc chữ đến tất cả các di vật được làm bằng chất liệu cứng khác khắc chữ, không khắc chữ, tạo hình hay đồ họa. Tư liệu kim thạch là nguồn sử liệu đích thực phục vụ khoa học lịch sử. Nghiên cứu tư liệu kim thạch, được gọi là khoa nghiên cứu kim thạch: Kim thạch học. Đối tượng và phạm vi của khoa nghiên cứu kim thạch không ngừng mở rộng cùng sự mở rộng khái niệm kim thạch như trình bày ở trên. Giá trị của kim thạch học cũng hết sức lớn lao, giúp việc khảo đính thư tịch như chứng kinh, đính sử, bổ thất, khảo tự; nghiên cứu văn chương như truy tìm ngọn nguồn, thể chế, công chuyết và thưởng thức nghệ thuật như thư họa, điêu khắc.

2. Lịch sử hình thành và phát triển của khoa nghiên cứu kim thạch

Khoa nghiên cứu kim thạch là hạt nhân của nền khảo cổ học Trung Quốc trước đây, thực sự trở thành ngành khoa học riêng từ thời Bắc Tống. Tuy nhiên việc nghiên cứu kim thạch đã có mầm mống từ Hán, phát triển đến Ngụy, Tấn và Đường. Thời kỳ cực thịnh của khoa học kim thạch này cũng là thời Tống. Sau đó chững lại và có phần suy thoái vào thời Nguyên, Minh; rồi phục hưng nở rộ từ thời Thanh đến nay.

Do đặc điểm của kim thạch: thời Tam đại chỉ có kim mà không có thạch; còn từ Tần, Hán về sau thạch nhiều, kim ít, niên nghiên cứu lịch sử thời Tam đại thì không có gì bằng kim, từ Tần Hán về sau thì không gì bằng thạch. Các học giả Hán, Ngụy, Tùy, Đường khi nghiên cứu về lịch sử thời Tam đại, Tần đã rất coi trọng tư liệu kim thạch này.

Chẳng hạn các học giả thời Đông Hán xét chữ khắc trên vạc cổ mà xác định “tổ nhà” Chu bắt đầu từ Hậu Tắc, Hậu Tắc được phong ở đất Thai, Công Lưu phát tích ở đất Bân…”. Hứa Thận trong Thuyết văn giải tự cũng dựa vào chữ khắc mà chứng minh sự biến thiên của văn tự. Trương An thời Ngụy chú Hán Thư, đã căn cứ vào văn bia mà biết được Phục Sinh tên là Thắng Vương. Hoặc Tấn Xước đời Tần chú Hán thư địa lý chi dựa vào văn bia mà đính chính tên huyện Lê Âm là huyện Lê Dương…

Ở giai đoạn đầu này, việc nghiên cứu kim thạch đã được quan tâm, song còn lẻ tẻ và ngẫu nhiên. Thông thường ngẫu nhiên gặp được văn bia nào, di vật nào thì ngẫu nhiên thuật lại. Vì thế các tập hợp đó thường lộn xộn, lẫn lộn. Đến Tùy Đường, việc nghiên cứu kim thạch đã được mở rộng và bắt đầu sưu tập thành tác phẩm chuyên biệt như những sưu tập về bi văn, thạch kinh và đặc biệt là phát hiện được trống đá ở Trần Thương. Nổi bật nhất trong các tác phẩm này là 8 loại trứ tác đề cập đến thạch kinh Lạc Dương ký, Tây Chinh ký, Hậu Hán thư, Thủy kinh chú, Lạc Dương già lam ký, Bắc Tề thư, Tùy thư kinh tịch chí và Tây kinh tân chí.

Đến thời Bắc Tống, do việc kế thừa thành quả nghiên cứu trên và đặc biệt do tư liệu kim thạch được phát hiện nhiều nên các học giả Trung Quốc mà tiêu biểu là Lưu Xưởng, Âu Dương Tu khai sơn phá thạch, đã đề xướng lên khoa học kim thạch này. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu được xác định cụ thể. Nghiên cứu kim thạch ở đây không chỉ dừng ở các di vật và di văn kim thạch mà còn mở rộng ra các chất liệu cứng khác ngoài kim thạch. Phương pháp nghiên cứu đa dạng. Song tựu trung lại gồm: sưu tập, phân loại, niên đại, khảo thích, bình luận.

Về kim: việc lưu trữ, ghi chép cổ khí bắt đầu từ Lưu Xưởng khi ông làm Thái thú ở Vĩnh Hưng, Trường An - cố đô nhà Tần, Hán có nhiều cổ khí chôn vùi trong những ngôi mộ cổ hoang phế. Ở đây ông tập hợp được 11 cổ khí, sai thợ tô lại văn tự, vẽ lại hình dáng rồi khắc lên bia đá, lấy tên là Tiên Tần cổ khí ký. Trong lời tựa của tập cổ khí này, Lưu Xưởng đề xướng 3 phương pháp nghiên cứu cổ khí là thể chế cổ khí, đính chính văn tự và sắp xếp thế thứ. Đây là bước mở đầu việc nghiên cứu cát kim.

Sau Lưu Xưởng chừng 30 năm, Lữ Đại Lâm viết Khảo cổ đồ 10 quyển, Thích văn 1 quyển vào năm Nhâm Thân, niên hiệu Nguyên Hựu (1092). Sách gồm 211 đồ đồng cổ, 13 đồ ngọc. Sau đó 10 năm, Vương Phủ viết Tuyên Hòa bá cổ đồ 30 quyển, chép 829 cổ khí, chia làm 20 loại, mỗi loại có tổng thuyết (giới thiệu chung) và miêu tả, kích cỡ, văn tự chú giải tường tận. Tiếp theo là Tục khảo cổ đồ 5 quyển bổ sung cho tập Tuyên hòa bá cổ đồ. Rồi Lịch đại chung đỉnh di khí khoản thức pháp thiếp của Tiết Thượng Công 20 quyển. Bộ này được nhà nước cho in vào năm Thiệu Hưng 14 (1144), gồm 511 cổ khí. Cổ khí thuyết của Hoàng Bá Tư viết xong năm Đinh Mão, niên hiệu Thiệu Hưng (1147) gồm 426 thiên. Quảng xuyên thư bạt của Đổng Dậu gồm 10 quyển ghi chép văn tự trên cổ khí và bia thiếp từ Hán, Đường đến Tống; đồng thời khảo chứng hết sức xác đáng…

Về thạch: Thạch khắc đã được coi trọng từ thời Hán. Thời Đông Hán trở về sau, bia mộ phát triển nhiều, vua Nguyên Đế nhà Lương đã sưu tập, ghi chép bia khắc gồm 120 quyển lấy tên là Bí anh, nhưng sổ sách này bị thất truyền. Đây có thể coi là sự mở đầu cho việc ghi chép về thạch khắc. Đời Đường thạch khắc được khảo chứng nhiều. Đến thời Tống, các học giả Tống quy định thành 6 thể lệ biên tập thạch khắc: tổn, mục, bạt vĩ, lục văn, phân địa, phân nhân và toàn tự.

Theo thể lệ này, Âu Dương Tu, người đầu tiên sao lục thạch khắc viết thành Tập cổ lục 10 quyển, vào năm Gia Hựu 6 (1061). Cùng với Âu Dương Tu là Tăng Củng, ông đã biên tập triện khắc cổ kim thành sách Kim thạch lục gồm hơn 500 quyển. Những sách trên có phần mục và bạt, trở thành khuôn mẫu cho đời sau biên soạn. Theo thể lệ “lục văn”, Hồng Thích biên tập bộ Lệ thích năm Càn Đạo 2 (1166), có lời tựa, khắc in toàn văn 92 bia, gồm 27 quyển. Tiếp theo là Lệ tục 21 quyển cũng được khắc in. Ngoài ra là tập Cổ văn uyển chép thơ, phú, tạp văn từ Đông Chu đến Nam Tề gồm hơn 260 bài, trong đó có rất nhiều bài văn trên khắc thạch. Thể “phân địa” thì có sách Dư địa bi mục của Vương Tượng Chi, Bảo khắc tùng biên của Trần Tư, Ngũ lộ mặc bảo của Trịnh Dương, Kinh triệu kim thạch của Điền Khái… chuyên chép văn bia của từng địa phương. Thể lệ “phân nhân” có Bảo khắc loại biên 8 quyển không rõ người soạn. Tứ khố đề yếu cho là người sau đời Lý Tông (1225) soạn. Sách chia làm 8 loại: Đế vương Thái tử, quốc chủ, danh thần, nhà sư, đạo sĩ và phụ nữ. Mỗi loại lấy tên người làm gốc rồi ghi bi mục, niên đại, địa danh ở dưới. Thể lệ “toản tự” lấy “chữ lệ làm kinh”, lấy “bia làm cước chú”, như tập Lệ vận của Lưu Cầu, 10 quyển gồm 261 loại thư mục bia.

Ngoài ra còn rất nhiều trứ tác khác của các học giả đời Tống bị mất. Dương Diện Tuân trong Tống đại kim thạch dật thư mục đã kê được 89 loại trừ tác kim thạch của thời Tống. Thế mới biết kim thạch học thời Tống phát triển đến cực thịnh.

Sau thời kỳ cực thịnh này là thời kỳ trung suy: Nguyên-Minh. Ở thời Nguyên do không coi trọng thực học, lại ít đào được di vật kim thạch nên chỉ có một vài học giả có trứ tác như Ngô Khưu Diễn, Phan Địch, Dương Tuần, Phân Ngang Tiêu.

Ngô Khưu Diễn viết Học cổ biên, chuyên về triện khắc, ấn chương và Chu Tần khắc thạch thích âm vốn là sách san định lại Chu Tần khắc thạch thích âm của Dương Văn Bỉnh đời Tống. Phạn Địch viết Thạch cổ văn âm huấn cũng khảo đính âm huấn của Thạch cổ văn đời Tống. Dương Tuần viết Tăng quảng chung đỉnh triện vận nhằm bổ sung cho Chung đỉnh triện vận của Vương Sở đời Tống…

Sang thời Minh, các trứ tác kim thạch có khá hơn. Nhưng so với thời Tống thì vẫn chưa có ai kế thừa. Duy có tập Tuyên Đức đỉnh di phổ thì phân tích biện luận khá tinh tế.

Nghiên cứu cổ khí thời Minh, có Cách cổ yếu luận của Tào Chiêu và Tân tăng cách cổ yếu luận của Vương Tá. Sách ghi chép về chữ cổ, có Kim thạch di văn phủ của Phong Đạo Sinh, Chích cổ di văn của Lý Đăng, Kim thạch văn phủ của Chu Thời Vọng… Các sách trên đều biên soạn theo vận bộ, sao chép nhầm lẫn nhiều. Về trống cổ, Dương Thận viết Thạch cổ văn âm vận thích 3 quyển, thực chết là chép lại, sắp xếp trứ tác của người trước. Về thạch khắc, các học giả thời Minh cũng theo thể lệ đời Tống mà biên soạn như Thủy kinh chú bi mục 1 quyển của Dương Thận, Thạch mặc huề hoa 6 quyển của Triệu Hàm, Thành Khắc trung sai 1 quyển của Đào Tông Nghi…

Những tác phẩm kim thạch thời Minh tuy đã tiếp thu phương pháp nghiên cứu thời Tống, song ghi chép nhầm lẫn, đúng sai không bàn rõ.

Sang thời kỳ nhà Thanh, quốc gia dần dần ổn định. Các học giả đua nhau nghiên cứu cổ học và sưu tập tìm kiếm cổ vật. Đặc biệt từ cuối niên hiệu Quang Tự trở đi, người ta phát hiện được giáp cốt, trúc mộc, đồ gốm, phong nê… Nhiều tác phẩm nghiên cứu kim thạch ra đời với nhiều phương pháp nghiên cứu mới. Vì thế thời kỳ này được gọi là thời kỳ phục hưng, thu hoạch và chỉnh lý của kim thạch học.

Thành tựu trước hết về nghiên cứu kim thạch thời kỳ này là thạch khắc, sau đến các kim, giáp cốt rồi giản độc.

Trong các niên hiệu đầu nhà Thanh (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính) do chưa phát hiện nhiều cát kim nên các học giả nghiêng về nghiên cứu thạch khắc. Đến sau niên hiệu Càn Long, việc nghiên cứu cát kim được phục hồi và tách khỏi thạch khắc, trở thành chuyên ngành riêng.

Về thạch khắc, ở thể lệ “tồn mục” có Cồ lâm kim thạch biểu 1 quyển của Tào Dung gồm 800 loại danh mục bi thiếp; Quận cổ lục của Ngô Thức Phân 20 quyển, gồm hơn 1800 loại… Ở thể lệ “Bạt vĩ” có Kim thạch văn tự ký 6 quyển của Cố Viêm Vũ; Tuyết đường kim thạch tự bạt vĩ của La Chấn Ngọc… Ở thể lệ “lục văn” có Kim thạch di văn lục 10 quyển của Ngô Ngọc Tấn… Thể lệ “mô đồ” (vẽ hình) đối với thạch khắc thì mới bắt đầu từ thời Thanh với tập Kim thạch kinh nhỡn lục của Chử Tuấn, làm khuôn mẫu cho các tập “mô đồ” sau này. Thể lệ “Toản tự” có Hán lệ dị đồng của Cam Dượng Thanh, Bi văn trích ký của Lương Đình Nam… Ở các thể lệ khác như “nghĩa lệ”, “phân địa”, “phân đại”, “thông toản”, “khái luận” đều có nhiều trứ tác lớn. Ngoài ra cũng phải kể đến những thành tựu nghiên cứu về thạch kinh.

Về cát kim từ sau tập Tây Thanh cổ giám 40 quyển do Vua Càn Long lệnh cho nho thần ghi cổ khí ở nội phủ, nhiều trứ tác về cát kim xuất hiện. Các cổ khí được ghi chép nhiều gấp 5 lần so với thời Tống.

Ngoài ra việc ghi chép về tiền tệ, tỷ ấn, binh phù, gương soi, ngọc khí, gạch ngói cũng hết sức phong phú với khối lượng trứ tác đồ sộ. Đây là thời kỳ phục hưng của kim thạch học.

Từ cuối thời Thanh đến cận hiện đại, việc nghiên cứu kim thạch vượt ra ngoài khái niệm kim thạch trước đây. Đó là việc ghi chép nghiên cứu về giáp cốt văn, giản độc (tre gỗ ghi chữ), phong nê và đồ gốm cùng minh khí (vật túy táng)… Trên cơ sở thành quả nghiên cứu kim thạch của các bậc tiền nhân, các nhà kim thạch học cận hiện đại chỉnh lý và biên soạn thành sử liệu, thư mục. Tác phẩm nhiều, học giả lắm. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không thể nêu hết được, dù chỉ sơ lược. Tuy nhiên có được bài viết này là nhờ 2 tác phẩm nghiên cứu của hai học giả cận và hiện đại: Mã Hành, Chu Kiếm Tâm, tôi nhắc đến như vậy duy là để tỏ lòng cảm ơn sâu sắc.

Khái niệm kim thạch và nghiên cứu kim thạch ở Trung Quốc không ngừng mở rộng và phát triển. Ngày nay nhiều bộ môn trong kim thạch học đã tách ra thành chuyên ngành riêng như đồ đồng, binh khí, cổ liền học…

Thành tựu nghiên cứu kim thạch ở Trung Quốc đã góp phần to lớn trong việc bảo tồn và khai thác di sản văn hóa dân tộc của đất nước có bề dầy lịch sử.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mã Hành: Phàm tương trai kim thạch tùng cảo, Trung Hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1917.

2. Chu Kiếm Tâm: Kim thạch học, Văn vật xuất bản xã, Bắc Kinh, 1981.

3. Trung Quốc nhân danh đại từ điển, Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải, 1984.

TB

TÌM HIỂU PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY PHÂN LOẠI SÁCH VỞ TRONG NGHỆ VĂN CHÍ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN

ĐINH CÔNG VĨ

Ở ta cũng như ở Trung Hoa thời xưa, “Nghệ văn chí” nằm trong hệ thống các “chí” như “Thiên văn chí”, “Địa lý chí”,… góp phần cấu thành tác phẩm sử. Đó là một bộ phận của “chí truyện” rất phổ biến trong sử tịch phương Đông.

Đáng tiếc là ở nước ta từ lâu người ta chỉ hay khai thác, nghiên cứu nó về mặt văn học, ngôn ngữ… mà chưa mấy ai đi sâu tìm hiểu nó về mặt sử học. Đã có những ý kiến về phân loại sách trong “Nghệ văn chí”, nhưng ít khi bàn đầy đủ về phương pháp trình bày, phân loại sách, v.v…(1).

Bài viết này của chúng tôi có thể xem như là một cố gắng bổ sung cho tình hình trên.

Để viết “Nghệ văn chí”, rõ ràng Lê Quý Đôn có tham khảo các phương pháp trình bày, phân loại sách vở của Trung Quốc, nhưng ông không hề rập khuôn, mà có phương pháp trình bày, phân loại riêng của mình.

Trong “Nghệ văn chí”, Lê Quý Đôn cung cấp cho ta một kết cấu “thượng hạ liên hoàn ứng hợp”. Thí dụ có lời “Tựa” chung, lại có lời “Tựa” bộ phận. So với việc ghi lời “Tựa” đầu tiên, chung nhất, việc ghi lời “tựa” bộ phận thể hiện khía cạnh riêng của cái chung. Hoặc ở lời “Tựa”, ông ghi: “Nước ta được gọi là nước văn hiến, trên từ vua chúa, dưới đến các quan cùng nhân dân đều có biên soạn sách vở”, thì ở dưới, “loại hiến chương”, ông ghi: “Hình như 3 quyển, đầu niên hiệu Minh Đạo, Lý Thái Tông sai cơ quan Trung thư biên soạn. Hình luật thư 1 quyển, đầu niên hiệu Thiệu Phong, Trần Dụ Tông sai Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn san định… Trình tự ấy là cố định, không đảo ngược phản ánh tính hệ thống của những sách vở được ghi chép có bố trí trong “Nghệ văn chí”. Tính hệ thống của nó lại không tách rời tính cụ thể đặc biệt là ở phần dưới. Ở phần này, mỗi loại sách, Lê Quý Đôn lại ghi rõ số lượng, như: “Hoàng triều ngọc điệp 1 quyển, Hình thư 3 quyển…”. Phần lớn các sách lại có ghi tác giả và thời gian biên soạn, như: “Luật thư do Nguyễn Trãi soạn trong niên hiệu Đại bảo” (1440 - 1442). Dù sách còn hay không còn, Lê Quý Đôn vẫn cứ liệt kê ra và ghi lời chua bên cạnh để người đọc tiện theo dõi và tham khảo, như: “ Hoàng triều ngọc điệp soạn đầu năm thứ 17 đời Lý Thái Tổ, nay không còn. Kiến trung thường lễ 3 quyển… nay không còn”. Với các sách không được nhìn tận mắt thì Lê Quý Đôn ghi lại lời nhận xét của người khác, như: “Việt sử cương mục, vài quyển, Hồ Tông Thốc soạn. Ngô Thì Sỹ khen sách ấy là thận trọng mà có phép tắc, bình luận sự việc thì thích đáng mà không rườm nhưng sau cơn binh hỏa sách ấy không còn”.

Với loại sách đã mất, Lê Quý Đôn thường cố gắng tìm hiểu và ghi chép làm sao cung cấp cho người đọc, dù chỉ là vài nét trên đại thể, phương pháp trình bày, sắp xếp, biên chép của nó. Như bộ Hình thư đời Lý Thái Tông nay không còn, Lê Quý Đôn cho biết sách này “có tham khảo, châm chước (cho hợp thời nghi), xếp theo môn loại, biên tập thành điều mục, ban hành trong nước”.

Với các sách tàn khuyết như Thiên Nam dư hạ tập, Lê Quý Đôn ghi: “Đại khái phỏng theo lối sách Hội yếu của nhà Đường, nhà Tống”. Cũng có trường hợp biết đến đâu, Lê Quý Đôn thông báo đến đấy, chừa lại những mặt tồn nghi. Chẳng hạn: “Bạch Vân Am tập 2 quyển, lại 1 bộ 2 quyển, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn, tự đề tựa, tổng cộng 1000 bài thơ; một bộ không có lời tựa, vả lại so về thơ với nguyên văn chỉ có 1/10, đây hẳn là do đời sau biên tập, nhưng không biết họ tên”.

Phương pháp phân loại sách vở đó của Lê Quý Đôn chủ yếu dựa vào tình hình điều kiện thực của sách vở Việt Nam. Ông làm việc thận trọng, có cân nhắc, chọn lọc khi tiếp thu cách phân loại sách vở của học giả Trung Hoa. Chẳng hạn như ông không tiếp thu cách ghi chép chí đời Hán, đời Đường, mà chỉ học theo cách ghi chép chí đời Tống. Trong đời Tống, ông lại chọn lọc nữa, chỉ học theo phép ghi chép trong Tống sử của Thái Khắc Thác, chứ không học theo Cương mục của Chu Hy, Tư Mã Quang,…

Nếu những bảng phân loại thư tịch Trung Hoa như Thất lược của Lưu Hâm chia sách làm 7 loại, Hán thư “Nghệ văn chí” của Ban Cố chia sách làm 6 loại, thì “Nghệ văn chí” của Lê Quý Đôn cũng như Tùy thư “Kinh tịch chí” của Ngụy Trưng đời Đường và Trịnh Mặc đời Ngụy chia sách làm 4 loại. Song nếu Ngụy Trưng dùng 4 tên “kinh”, “sử”, “tử”, “tập”, Trịnh Mặc dùng 4 tên “Giáp”, “Ất”, “Bính”, “Đinh” để chỉ 4 loại sách, thì Lê Quý Đôn dùng 4 tên khác hẳn, đó là “Hiến chương”, “Thơ văn”, “Truyện ký”, “Phương kỹ”. Bảng phân loại sách vở của Lê Quý Đôn không hề có “lục nghệ”, “lục nghệ lược”, hay bộ “kinh” như ở các bảng phân loại sách vở Trung Hoa. Các sách thuộc bộ “kinh” như Tứ thư thuyết ước của Chu An được Lê Quý Đôn xếp vào loại “thơ văn”, tương đương với bộ “tập” của phương Bắc.

Ngay giữa loại “thơ văn” của Lê Quý Đôn với bộ “tập” của phương Bắc cũng không phải hoàn toàn như nhau. Nếu ở bộ “tập” hay “thi phú loại” của người phương Bắc nói chung đều có truyền thống đề cao Sở từ của Khuất Nguyên và các tác phẩm tương tự, thì loại “thơ văn” của Lê Quý Đôn không hề có trường hợp như thế. Ở ta, “Từ khúc” không phổ biến. Trong “Thi văn loại” của Lê Quý Đôn tuy cũng có “Tổng tập”, “Biệt tập” và “Văn thơ” như Ngụy Trưng, nhưng là vận dụng vào tình hình sách vở cụ thể của nước ta, có khác với tình hình sách vở của Trung Hoa.

Khác với Tùy như “Kinh tịch chí” của Ngụy Trưng và Tống sử “Nghệ văn chí” của Thái Khắc Thác, “Nghệ văn chí” trong Lê triều thông sử không hề có bộ “sử” đứng độc lập. Những sách vở mang tính chất lịch sử được Lê Quý Đôn xếp một phần vào loại “Truyện Ký”, một phần vào loại “Hiến chương”.

Những bộ “sử” của phương Bắc có sự ghi chép tổng hợp: bên cạnh “chính sử”, “cổ sử”, “tạp sử”, Tùy thư “Kinh tịch chí” có nói tới “Tạp truyện”, Tống sử “Nghệ văn chí” có nói tới “Truyện ký”. Những cuốn “Tạp sử” như Ngô Việt xuân thu, Việt tuyệt thư đều có ý vị tiểu thuyết, phản ánh tính chất “văn sử bất phân” ở Trung Quốc thời cổ. Ở nước ta cũng vậy, những cuốn Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh,… vừa là văn vừa là sử. Do vậy Lê Quý Đôn đã mạnh dạn xếp chúng vào “Truyện ký”. “Truyện ký” ở các tác phẩm Trung Hoa chiếm một phần rất quan trọng. “Nhị thập tứ sử”, cốt lõi của lịch sử văn hóa cổ Trung Hoa, chủ yếu viết theo thể “Kỷ truyện”. Nhưng “Truyện ký” ở Trung Hoa chỉ là một bộ phận của bộ “sử”, còn ở Lê Quý Đôn, nó được ghi thành cả một đề mục lớn: “Truyện ký loại”.

Tuy thế, việc phân loại sách vở trong “Nghệ văn chí” của Lê Quý Đôn vẫn có điều cần phải suy nghĩ. Từ thời Lê, quan niệm “văn sử triết bất phân”, quan niệm coi chữ Hán hơn chữ Nôm… rất có ảnh hưởng đến việc phân loại sách vở. Với Lê Quý Đôn, ta thấy:

1/ Trong bảng phân loại sách vở của “Nghệ văn chí”, các tác phẩm văn xuôi tự sự không được Lê Quý Đôn xếp vào mục “thơ văn”, mặc dù chính nó là văn. Ông đưa nó sang “Truyện ký” để xếp chung với các tác phẩm sử học và khoa học chuyên ngành khác. Chẳng hạn ông xếp Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục. Việt điện u linh với Đại Việt sử ký, Việt sử và tác phẩm quân sự như Binh gia yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư là cả một sự khiên cưỡng.

Từ thế kỷ XV đến sinh thời Lê Quý Đôn, trong văn xuôi chữ Hán xuất hiện một thể loại mới là “truyền kỳ” mang tính chất những truyện ngắn văn học, từ Thánh Tông đi thảo đến Truyền kỳ mạn lục. Nó phỏng tác khá thành công những câu chuyện nơi “đầu đường ngõ chợ”, làm người đọc có cảm tưởng người viết sáng tạo trăm phần trăm. Thực ra cái gọi là “sáng tác” ấy khi hình thành, vẫn xuất phát từ những cái gốc có sẵn. Hư cấu nghệ thuật ở đây chưa đủ khả năng quyết định để cho đặc thù riêng của các bộ môn khác không phải là văn học, thể hiện cái quan niệm “bất phân” của người xưa. Do vậy, trong việc sắp xếp thư tịch cổ của Lê Quý Đôn ở “Nghệ văn chí” còn có những mơ hồ, làm cho cây bút sử học chép văn học của ông có chỗ chưa thỏa đáng.

2/ Trong bảng phân loại sách đó của ông còn thể hiện sự thiên lệch. Lê Quý Đôn chú ý quá nhiều đến các tác phẩm viết bằng chữ Hán, nhưng lại xem nhẹ truyện Nôm dân gian, loại tác phẩm này không được ghi chép đầy đủ trong “Nghệ văn chí”. Ông nêu được những tác phẩm của Nguyễn Trãi, nhưng tập thơ Quốc âm nổi tiếng của vị anh hùng dân tộc này lại không có mặt trong bảng phân loại sách ở Lê triều thông sử; thơ Nôm của Hồ Quý Ly cũng không được nhắc tới. Lê Quý Đôn chỉ mới ghi được một vài tác phẩm Nôm như Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sứ Bắc Quốc ngữ thi tập của Hoàng Sĩ Khải, Kim Lăng ký của Đỗ Cận, Quốc ngữ thi của Chu An, Phi sa tập “có nhiều thơ quốc âm” của Hàn Thuyên… So với tình hình phát triển thơ văn quốc âm nước ta thuở đó thì số lượng các sách Nôm được Lê Quý Đôn nhắc tới như vậy thật quá ít ỏi.

Vài hạn chế ấy, nhưng vẫn không thể phủ nhận được rằng: Lê Quý Đôn là người đầu tiên ở nước ta thể hiện phương pháp trình bày, phân loại sách vở theo lối riêng của mình và là người mở đường cho môn thư mục học ở Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Đoàn Đắc Bằng: “Lê Quý Đôn nhà thư mục học đầu tiên của nước Việt Nam nghìn năm văn hiến” (Trong Lê Quý Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ 18, 1979, Q.1). Trần Nho Thìn: “Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại thư tịch của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú” (Tạp chí văn học số 4, 1981), v.v…

TB

VỀ VĂN BẢN BỘ SÁCH ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC

NGUYỄN HỮU MÙI

Đỉnh khiết Đại Việt lịch triểu đăng khoa lục (ĐKĐVLTĐKL) là bộ sách gồm 4 quyển ghi lại các khoa thi Hội và danh sách những người đỗ đạt trong các khoa thi đó, bắt đầu từ khoa Ất Mão (1075) đến khoa Kỷ Hợi (1779). Đây là bộ sách in mộc bản hoàn thành vào năm Cảnh Hưng 40 (1779), do Nguyễn Hoản(1) hiệu chính, Vũ Miên(2), Phan Trọng Phiên(3) và Uông Sĩ Lãng(4) biên tập, cùng 5 người trông coi khắc in. Sách trở thành công cụ quan trọng để tra cứu các vị đỗ đại khoa cùng quê quán và khoa thi của họ đồng thời góp thêm tư liệu nghiên cứu về khoa cử ở nước ta. Những năm 1962 và 1968, bộ sách này đã được trung tâm học liệu của Bộ Giáo dục (Sài Gòn cũ) dịch và công bố(5). Dịch giả do chưa khảo sát kỹ các nguồn tư liệu hiện có, nên đã làm hạn chế rất lớn đến chất lượng bản dịch. Chúng tôi thấy cần thiết trình bày ở đây về văn bản bộ sách, qua đó chọn ra một bản tốt nhất để tiện sử dụng.

Trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có tất cả 8 bản ĐKĐVLTĐKL còn lưu giữ được. Bản 1 ký hiệu VHv.2140 (được đóng thành 3 tập); bản 2: VHv.650; bản 3: VHv.651; bản 4: A.2752 (ba bộ sách này, mỗi bộ đóng thành 2 tập); bản 5: A.1387; bản 6: VHv.2874; bản 7: VHv.1651 và bản 8: VHv.293 (bốn bộ này, mỗi bộ đóng thành 1 tập).

Qua so sánh đối chiếu từng tờ của 8 bản với nhau, chúng tôi thấy cả 8 bản phần lớn đều in ra từ một mộc bản (ván khắc). Do được in ra từ một mộc bản nên về nguyên tắc tờ của quyển này cũng đồng nhất với tờ của quyển kia và ngược lại. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có sự khác nhau nhất định. Có thể phân ra làm hai loại văn bản..

Loại văn bản thứ nhất là bản mang ký hiệu VHv.2140/1-3. Tập 1 của bản này gồm quyển thủ và quyển 1. Quyển thủ chỉ còn lại 3 tờ, gồm phần BIỆT LỤC và BỔ DI của các triều từ Lý, Trần đến đầu Lê Sơ (trong đó quyển thủ của VHv.650, VHv.651, A.2752, A.1387 là 14 tờ. Ba tờ dành cho bài tựa, 8 tờ dành cho các khoa thi đời Lý và Trần). Quyển 1 có 54 tờ, từ khoa Bính Ngọ đời Lê Thái Tổ đến khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502), gồm 23 khoa thi. Tập 2 gồm quyển 2 có 63 tờ (tờ 13 được thay bằng một bản viết tay), từ khoa Ất Sửu nieê hiệu Đoan Khánh 1 (1505), đến khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng 15 (1592), gồm 36 khoa thi xen kẽ giưa Lê và Mạc. Tập 3 gồm quyển 3, có 66 tờ, từ khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng 18 (1595), đến khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779), gồm 63 khoa thi. Cả 3 tập là 183 tờ.

Về hình thức văn bản thì Bộ VHv.2140 có những nét đáng chú ý: ván khắc không hề bị đục nên bản in còn nguyên vẹn. Khuôn in thống nhất 21x13cm. Chữ sắc nét và đều đặn. Giấy đã ố vàng và cổ nhất trong 8 bản hiện có. Ở mỗi tờ đều có dấu khuyên, dấu chấm câu bằng son và bằng mực Tàu. Toàn bộ 183 tờ đã được tu bổ bằng cách lồng vào giữa mỗi tờ là một tờ giấy bản, ép cứng. Riêng một số tờ cuối quyển 3, vì giấy đã mủn nát ở mép tờ, nên phần chữ mất được thay thế bằng chữ chép tay. Bìa cũ không còn, hiện tại sách được đóng bằng bìa học sinh.

Nếu kiêng húy là một tiêu chí quan trọng vạch ra sự khác nhau giữa các văn bản cổ thì ở sách này có các chữ húy đời Lê Trung hưng. Đó là chữ Trừ , xuất hiện 3 lần ở các tờ 25a, 37a và 55b của quyển 3. Chữ Đề @, trong “Đề hình” (tên một chức quan) xuất hiện 6 lần ở các tờ 18b, 20a của quyển 1; 28a, 41a, 44a, 51a của quyển 3. Những chữ thuộc diện cần kiêng húy đời Nguyễn không thấy có trong toàn bộ 183 tờ của bộ sách này.

Qua đây chúng ta khẳng định rằng bộ sách mang ký hiệu VHv.2140/1-3 là bộ sách được in ra từ đời Lê Cảnh Hưng 40 (1779) mà Phan Huy Chú có nói đến trong mục Truyện ký của Lịch triều hiến chương loại chí(6). Đây là bản in sơm nhất trong mảng sách “Đăng khoa lục” hiện còn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà lâu nay chúng ta chưa có dịp biết đến để khai thác.

Loại văn bản thứ hai gồm 7 bản còn lại. Chúng tôi chỉ xét đến 4 bản là VHv.650, VHv.651, A.2752 và A.1387 vì đây là những bản hiện còn trọn bộ (ba bản còn lại là VHv.2874, VHv.293, VHv.1651 đều không trọn bộ).

Trong 4 bản này, hai bản VHv.650, VHv.651 ghi thêm 4 khoa thi cuối cùng của triều Lê còn lại, sau khoa Kỷ Hợi Cảnh Hưng 40 (1779). Hai bản A.2752 (bản này thiếu tờ 53 và đóng nhầm vị trí của 2 tờ 25 và 35 của quyển 1) và A.1387 còn đóng thêm 18 khoa thi triều Nguyễn, từ khoa Nhâm Tý niên hiệu Minh Mệnh 3 (1822) đến khoa Nhâm Tuất niên hiệu Tự Đức 15 (1862).

Về hình thức văn bản, nếu bản VHv.2140 giấy đã ố vàng và cổ nhất thì 4 bản sau ngược lại, giấy còn tốt, không có dấu khuyên, dấu chấm câu lưu lại trên văn bản. Bìa hiện tại đóng bằng bìa vàng. Bản A.2752 và A.1387 còn được gắn sơn ta vào gáy sách. Điều dễ nhận thấy là chúng được in ra từ một bộ ván in đã mờ mòn nhiều. Các khung viền của nhiều tờ có khổ không thống nhất, như các tờ 27, 43, 51 của quyển 3. Ván khắc nhiều chỗ bị đục bỏ ở phần tên người, tên địa phương như các tờ 27, 28 quyển 1; tờ 11, 12, 22 quyển 3. Khi đối chiếu tỉ mỉ từng tờ của 4 bản này với bản VHv.2140, chúng tôi thấy có những chỗ khác nhau. Dưới đây là một số các ví dụ:

- Bản VHv.2140 quyển 1, tờ 28a, Nguyễn Đổ, người xã Cựu Quán, 4 bản sau in là Đường Quán.

- Bản VHv.2140, quyển 1, tờ 39a, Bùi Phỉ, người xã Yên Lão, 4 bản sau in là Yên Đảo.

- Bản VHv.2140, quyển 1, tờ 44a, Nguyễn Nghiễm người huyện Thanh Lâm, 4 bản sau in là Thanh Oai.

- Bản VHv.2140, quyển 1, ở khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502, khắc thiếu tên 1 người, 4 bản sau in bổ sung là Nguyễn Trọng Hưng vào tờ 53b.

- Bản VHv.2140, quyển 2, tờ 5a, Hứa Tam Tinh, người xã Vọng Nguyệt, 4 bản sau in là Như Nguyệt.

- Bản VHv.2140, quyển 2, tờ 7b, Nguyễn Bá Thuyên, người xã Vũ La, huyện Thanh Lâm, 4 bản sau in là xã Vũ La, huyện Thanh Oai.

- Bản VHv.2140, quyển 2, tờ 21a, Khổng Tư Trực, người xã Đoan Bái, 4 bản sau in là xã Đoạn Niên.

- Bản VHv.2140, quyển 2, tờ 25a, ghi Phạm Khắc Hựu, 4 bản sau in là Nguyễn Khắc Hựu.

- Bản VHv.2140, quyển 3, tờ 43a, tên người là Tần Lê Thoan, 4 bản sau in là Tần Lê Đưa. Khắc nhầm chữ Thoan, 4 bản sau in là Tần Lê Đưa. Khắc nhầm chữ Thoan thành chữ Đưa (tên Nôm). Tra bia Tiến sĩ Văn Miếu, thác bản số 1317, thấy ghi là Tần Lê Thoan.

- Bản VHv.2140, quyển 3, tờ 37b, Nguyễn Đình Ức, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa), 4 bản sau in là Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn). Khắc thiếu nét. Tra bia Tiến sĩ Văn Miếu, thác bản số 1320, thấy ghi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (Thám hoa).

Xét vào văn bản, thấy xuất hiện, một chữ húy thời Nguyễn, ở tờ 63b quyển 2. Đó là chữ Nhậm, chữ húy của Nguyễn Dực Tông (Tự Đức), được khắc thiếu nét “sổ”(7). Những chữ thuộc diện kiêng húy của triều Nguyễn được thể hiện bằng cách đục bỏ hoàn toàn hoặc đục bớt nét đi như chữ TÔNG(8) bị đục bỏ hoàn toàn, chữ TUYỀN(9) đục bỏ bộ “bạch”, chữ HOA(10), chữ DUNG(11), bị đục bớt nét, chữ THỰC(12) bỏ đi “dằng đầu”. Trong khi đó, chữ Trừ, chữ Đề và thêm chữ Bang ở bài tựa quyển thủ là 3 chữ húy thời Lê Trung hưng vẫn được bảo lưu đầy đủ ở cả 4 bản.

Với những kết quả phân tích trên đây, chúng ta thấy các văn bản VHv.650, VHv.651, A.2752 và A.1387 được in ra vào thời Nguyễn, cụ thể là vào năm 1843 đời Thiệu Trị(13), trên cơ sở của bộ ván cũ thời Lê đã in ra bản VHv.2140. Việc in lại này được tiến hành bằng cách thay những ván cũ thời Lê đã hư hỏng bằng các ván khắc mới, có bổ sung sửa chữa thêm vào. Với các tên húy thời Nguyễn vốn có trong ván cũ thời Lê, người khắc đã đục bỏ hoặc đục bớt nét đi. Đó là cách làm thường thấy ở thợ khắc chữ, vừa đỡ tốn kém, vừa đảm bảo yêu cầu kiêng húy.

Cách làm bản mộc như vậy dễ gây nhầm lẫn về mặt văn bản. Kết quả là bản dịch của Trung tâm học liệu Bộ giáo dục (Sài gòn cũ) như đã nói ở trên, do không khảo cứu văn bản mà chỉ dựa duy nhất vào A.2752, nên đã có những sơ suất đáng tiếc. Chẳng hạn Nguyễn Thực dịch ra là Nguyễn Quán(14), Nguyễn Tông Lỗi dịch ra Nguyễn Lỗi(15), Lê Quang Hoa dịch ra Lê Quang(16), Trịnh Tuyền dịch ra Trịnh Thủy(17). Còn tên huyện Kỳ Hoa, Kim Hoa, tên xã Hoa Lâm, Hoa Cầu,… dịch giả thường để trống. Do bản A.2752 đóng lộn tờ 35 vào vị trí tờ 25 của quyển 1 nên vô tình đã “đẩy” 16 vị tiến sĩ vốn đỗ khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) xuống vị trí của 14 Tiến sĩ đỗ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18 (1487) và ngược lại. Đó là chưa kể vì thiếu tờ 53 quyển 1 nên cũng thiếu luôn 17 vị đỗ khoa Nhâm Tuất, Cảnh Thống 5 (1502) trong bản dịch(18).

Như vậy, từ sự trình bày trên đây về 2 loại văn bản, chúng tôi thấy mỗi loại đều có ưu khuyết điểm của nó: loại văn bản thứ nhất, tuy được in ra vào thời Lê, không hề bị đục hoặc cạy bớt nét, nghĩa là nó còn giữ nguyên được bộ mặt thật ban đầu của nó, nhưng thiếu nhiều tờ. Loại văn bản thứ hai, tuy đủ số tờ, đủ số khoa thi, nghĩa là đủ tên các vị từ Tiến sĩ trở lên, từ triều Lý đến khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779), nhưng lại có nhiều sai lệch, biến dạng về tên người, tên địa phương.

Theo chúng tôi, bản VHv.2140/1-3 hiện tại là bản tốt nhất. Ở bản này, tuy thiếu 11 tờ quyển thủ, nhưng hoàn toàn có thể bổ sung cho nó nhờ các bản khác, như bản VHv.650 chẳng hạn.

Các sách in thời Lê hiện còn lại rất ít. Bản VHv.2140/1-3 do vậy không chỉ là nguồn tư liệu quý về khoa cử, mà còn là nguồn tư liệu để chúng ta hiểu thêm về vấn đề in ấn mộc bản thời Lê.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Hoản (1713 - 1791): Người xã Lan Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng 4 (1743).

(2) Vũ Miên (1714 - 1782): Người xã Xuân Lan, huyện Lương Tài, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748).

(3) Phan Trọng Phiên (1734 - 1809): Còn có tên là Phan Lê Phiên, người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, đỗ tiến sĩ khoa Đinh Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng 18 (1757).

(4) Uông Sĩ Lãng (1735 - 1802): Nguyên tên Uông Sĩ Điển, đổi thành Uông Sĩ Lãng. Mo xã Vũ Nghị, huyện Thanh Lan, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766).

(5) Tập I dịch năm 1962, từ đầu đến khoa Mậu Thìn, niên hiệu Chính Hòa 9 (1688). Tập II dịch năm 1968, từ khoa Bính Tuất, niên hiệu Chính Hòa 15 (1694), đến khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Tự Đức 15 (1862).

(6) Ký hiệu A.1551, quyển 7, tờ 24b.

(7) Xem Phạm Tùng Mệnh, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Mạc Hồng Ninh 2 (1592).

(8) Là những chữ húy được ban hành vào năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841) (ĐNTL, Chính biên, Đệ tam kỷ, Q.1. Tập XXIII. Nxb. KHXH, 1970, tr.117 - 119).

(9) Là những chữ húy được ban hành vào năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841) (ĐNTL, Chính biên, Đệ tam kỷ, Q.1. Tập XXIII. Nxb. KHXH, 1970, tr.117 - 119).

(10) Là những chữ húy được ban hành vào năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841) (ĐNTL, Chính biên, Đệ tam kỷ, Q.1. Tập XXIII. Nxb. KHXH, 1970, tr.117 - 119).

(11) Là những chữ húy được ban hành vào năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841) (ĐNTL, Chính biên, Đệ tam kỷ, Q.1. Tập XXIII. Nxb. KHXH, 1970, tr.117 - 119).

(12) Chữ Thực là một trong 8 chữ húy ban hành vào năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mệnh 1 (1820) (ĐNTL, Chính biên, Đệ nhị kỷ, Q.IV, Nxb. KHXH, 1970, tr.122 - 123).

(13) Theo Đăng khoa lục hợp biên dẫn thì năm 1843, nhà Nguyễn mới tiến hành khắc in các khoa thi tiến sĩ bản triều. Bấy giờ ván khắc “Đăng khoa lục” chứa chất trong Văn Miếu Hà Thành. Lê Nguyên Trung còn cho biết ông có sưu tập các bản Đăng khoa lục cũ ở các nhà tư nhân, sửa chữa thêm vào rồi đưa khắc in.

(14) Tập 1, tr.228.

(15) Tập 1, tr.38.

(16) Tập 1, tr.277.

(17) Tập 1, tr.212.

(18) Tập 1, tr.111.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU CUỘC ĐỜI VÀ
SỰ NGHIỆP CỦA KIỀU OÁNH MẬU

NGUYỄN XUÂN DIỆN

Trước nay, các nhà nghiên cứu Truyện Kiều và văn bản Truyện Kiều đều dành một sự chú ý đặc biệt và những đánh giá cao đối với bản Kiều do Kiều Oánh Mậu khảo đính, chú giải và đưa in năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái 14 (1902). Một số nhà nghiên cứu đã có viết về cuộc đời và tác phẩm của Kiều Oánh Mậu, song chúng tôi thấy cần phải bổ sung thêm một số tư liệu để giúp cho việc nghiên cứu được đầy đủ hơn. Bài viết này bước đầu cung cấp một số tư liệu mới về cuộc đời, tác phẩm và những đóng góp để bạn đọc tham khảo thêm.

Kiều Oánh Mậu (1854-1911)(1) người làng Đông Sàng, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Đương Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây). Lúc nhỏ Kiều Oánh Mậu tên là Kiều Dực (hoặc Kiều Hữu Dực), sau lại đổi là Kiều Cung, tự Tử Yến, hiệu Giá Sơn. Năm 1883, vua Tự Đức chết, đặt miếu hiệu là Dực Tông, ông mới đổi tên là Kiều Oánh Mậu. Theo Kiều thị gia phả (do chính Kiều Oánh Mậu biên soạn(2) thì cụ tổ của ông là Kiều Phúc, đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493). Tiếp sau đó là các cụ Kiều Văn Bá đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Tỵ, niên hiệu Hồng Thuận 1 (1509)(3); Kiều Bá Nghiễm, Kiều Trọng Dương đều đỗ Hương cống năm Ất Mùi (1775) đời Lê Cảnh Hưng.

Cha của Kiều Oánh Mậu là Kiều Huy Tùng (1834 - 1917), đỗ Tú tài khoa Đinh Mão (1867), đỗ Cử nhân Ân khoa Mậu Thìn (1868); thời Tự Đức, nhiều năm làm Tri huyện các huyện Chân Định, Quỳnh Côi, Phù Dực tỉnh Thái Bình.

Kiều Oánh Mậu đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879); năm ấy ông 25 tuổi. Hai năm sau ông lại đậu Phó bảng, khoa Canh Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880). Khoa này lấy đỗ 5 Phó bảng. Năm ấy, cha ông cáo quan về quê dạy học sau 12 năm làm Tri huyện.

Sau khi đỗ Phó bảng, Kiều Oánh Mậu được bổ làm tập sự ở Bộ Công trong triều đình Huế. Năm Nhâm Ngọ (1882), ông được cử ra Bắc là Tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Tháng 12 năm 1883, thực dân Pháp cho quân đánh phá thành Sơn Tây. Kiều Oánh Mậu đã sáng tác bài Ai Sơn thành (Cảm thương thành Sơn Tây) bằng chữ Hán(4) và ngay sau đó, bài này được phổ biến rộng rãi. Bài thơ đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp phơi bày nỗi khổ của nhân dân, kích thích lòng yêu nước và ý chí đánh đuổi thực dân Pháp. Đặc biệt nó còn lên án sự nhu nhược của triều đình phong kiến triều Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Kiều Oánh Mậu lập tức bị cách chức và bị buộc phải trở về quê nhà ở Sơn Tây. Năm ấy ông 31 tuổi.

Năm Bính Tuất (1886), Kiều Oánh Mậu lại được phục chức cho làm Tri phủ Lý Nhân (Hà Nam). Vài năm sau, năm 1891, lại bị giáng làm Tri huyện Vũ Giàng, sau đó giữ chức Bố chính Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh). Những năm cuối thế 19, đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp nhận thấy nhân dân ta vẫn còn tin mến các văn thân, sĩ phu yêu nước, chúng muốn mua chuộc lòng dân đồng thời cũng định lôi kéo cả tầng lớp văn thân sĩ phu vào bộ máy thống trị. Phó bảng Kiều Oánh Mậu là người sở trường về văn học, lại có uy tín trong nhân dân và hàng ngũ quan lại đương thời, nên năm 1895, họ Kiều được cử làm Đốc biện (quản biện sự vụ) tờ Đại Nam đồng văn nhật báo. Đây là tờ báo viết bằng chữ Hán và là tờ báo đầu tiên tại Hà Nội, do tòa Thống sứ Pháp tổ chức và kiểm duyệt. Chức vụ Đốc biện (Chú bút), thường được giao cho những nhà khoa bảng có danh vọng (Đốc biện trước đó là Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ)(5).

Đại Nam đồng văn nhật báo thường đăng những thông tư nghị định của bộ máy thống trị như một loạt công báo. Đối tượng chủ yếu của tờ báo này là các quan lại và các nhà nho, lớp trí thức Nho học ở miền Bắc. Tuy vậy báo cũng có những mục luận, thời đàm và các mục về sinh hoạt xã hội Kiều Oánh Mậu đã viết một số bài bình luận cho báo này(6). Họ Kiều đã lợi dụng phương tiện hợp pháp này để kín đáo tuyên truyền cổ động cho các phong trào như: giáo dục quần chúng, hô hào tân học, kêu gọi phát triển nền kinh tế quốc dân, chấn hưng công nghiệp, nông nghiệp và thực nghiệp, các ngành thủ công, các hội buôn, các công ty thương nghiệp,…

Trong thời gian này, Kiều Oánh Mậu có quen biết và giao du với Bạch Thái Bưởi. Họ Kiều còn làm thơ và câu đối tặng cho nhà tư sản dân tộc này.

Do những hoạt động yêu nước của Phó bảng Kiều Oánh Mậu ở báo quán, nên năm 1902, ông đã bị chuyển sang làm Đốc học tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phú ngày nay). Thám hoa Vũ Phạm Hàm thay ông làm Đốc biện Đại Nam đồng văn nhật báo.

Thời gian này, ông ra sức cổ động, ủng hộ việc sáng lập trường tư thục, khuyến khích người đi học, và sáng tác nhiều thơ văn kêu gọi, tổ chức các buổi nói chuyện về việc học, rất được bạn bè hưởng ứng.

Năm năm sau, năm 1907, ông lại đổi sang làm Đốc học tỉnh Bắc Giang (Hà Bắc ngày nay). Ở Bắc Giang, Giá Sơn có lập một trại ấp để mộ dân kiến điền, đặt tên là ấp Sơn Kiều và do chính ông đứng tên trong sổ địa bạ.

Khi làm đốc học Bắc Giang, Kiều Oánh Mậu thường xuống Hà Nội, cùng ông Cử Lẫm (Phan Văn Lẫm - Bố Chính Hải Dương) tham gia giảng dạy ở trường Đông Kinh nghĩa thục. Kiều Oánh Mậu và Phan Văn Lẫm rất tận tâm với Đông Kinh nghĩa thục; đến kỳ giảng bài, hai ông đều về Hà Nội đúng hẹn, được bạn bè và học trò mến trọng.

Cuối thu năm 1908, Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa. Cụ Lương Văn can(7) và các thành viên trong Ban trị sự bị bọn thực dân Pháp bắt tù và đày ra Côn Đảo, một số giảng sư là quan chức bị tình nghi và bị giải chức, trong số đó có Kiều Oánh Mậu. Đây là lần thứ hai ông bị giải chức và buộc phải về quê quán, không được cư trú tại Bắc Giang và Hà Nội nữa.

Ngày 3-11-1908, Kiều Oánh Mậu gửi thư lên Thống sứ Bắc kỳ đòi được ở lại Yên Việt (một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang) để quản lý trại ấp với số ruộng đất hơn 50 mẫu.

Cuối năm 1910, kết thúc thời hạn bị giải chức, Kiều Oánh Mậu không xin phục chức mà thường đi thăm thú những nơi danh lam thắng cảnh ở Bắc Kỳ và liên lạc theo lời hẹn ước với các bạn đồng tâm, các văn thân, sĩ phu yêu nước để cổ động cho các phong trào yêu nước.

Sau một thời gian lâm bệnh, Giá Sơn Kiều Oánh Mậu qua đời ngày 26 tháng 8 năm Tân Hợi, niên hiệu Duy Tân thứ 5 (tức ngày 28 tháng 10 năm 1911), thọ 58 tuổi.

Các tác phẩm do Kiều Oánh Mậu trước thuật, biên soạn, diễn Nôm, khảo đính, chú giải, đề tựa, duyệt đọc mà chúng tôi được biết gồm:

Trước thuật:

- Bản triều bạn nghịch liệt truyện (A.997, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

- Giá Sơn di cảo(8)

Biên soạn:

- Kiều thị gia phả.

Diễn Nôm:

- Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch (AB.271, Viện NCHN).

- Tiên phả dịch lục (AB.289, Viện NCHN).

- Tỳ bà Quốc âm tân truyện (AB.272, Viện NCHN).

Khảo đính, chú giải, chỉnh lý:

- Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du (AB.12, Viện NCHN).

- Nam nữ giao hợp phụ luận của Phau-Rô (R.393, Thư viện Quốc gia Hà Nội).

Đề tựa:

- Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (A.218, Viện NCHN).

Duyệt độc:

- Bút toán chỉ nam của Nguyễn Cẩn (A.1031, Viện NCHN).

- Toán pháp của Nguyễn Cẩn (VHv.495, Viện NCHN).

Sách do Kiều Oánh Mậu trước thuật, diễn Nôm, khảo đính, chú giải, đề tựa và duyệt đọc tuy không nhiều, song cũng chứng tỏ ông đã có sự hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: về chính trị xã hội (Bản triều bạn nghịch liệt truyện); về văn học và văn bản học (Đoạn trường tân thanh, Tang thương ngẫu lục, Hương Sơn Quan Thế Âm chân linh tân dịch, Tỳ bà Quốc âm tân truyện, Tiên phả dịch lục) ; về toán học (Bút toán chỉ nam, Toán pháp)…

Nổi bật nhất trong sự nghiệp của Kiều Oánh Mậu là ở công tác văn bản học. Những sách như: Đoạn trường tân thanh, Hương Sơn Quan Thế Âm chân kinh tân dịch, Tiên phả dịch lục đều cho thấy sơ trường này.

Trong khi khảo đính, chú giải và nhuận sắc Truyện Kiều cũng như khi diễn Nôm các tác phẩm chữ Hán, Kiều Oánh Mậu luôn để tâm coi trọng công việc khảo cứu các văn bản. Trong “mười điều lệ ngôn Đoạn trường tân thanh, Kiều Oánh Mậu có mô tả tình trạng các bản Kiều mà ông sưu tầm được; có so sánh phê bình và chọn ra bản nền để làm chỗ dựa chính cho việc khảo đính, chú giải, nhuận sắc(9). Ông viết: “Tôi nhân việc mà tra cứu tìm tòi, tùy nơi mà tham khảo, đính chính lại, một câu một chữ phàm có ý nghĩa thì mong cho được sáng rõ hơn để biết chỗ khổ tâm của tác giả, tất cả bốn năm lần thay đổi bản thảo mới dám cho ra vấn thế” (bản dịch của Lê Thước - Sđd).

Khi diễn Nôm Tiên phả dịch lục, một cuốn kể về lai lịch hàng trang của Bà Chúa Liễu Hạnh, Kiều Oánh Mậu có tham khảo các sách: Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm); Thoái thực ký văn (Trương Quốc Dụng); Tịnh Nội đạo tràng pháp môn lục, Nam sử tập biên và một số sách báo khác, có so sánh để thấy chỗ giống và khác nhau, đồng thời đưa ra những nhận xét của mình về các sách đó.

Về sáng tác và nghiên cứu văn học, Giá Sơn Kiều Oánh Mậu là tác giả của ba cuốn truyện thơ Nôm (còn gọi là truyện diễn Nôm); viết theo thể lục bát, mỗi truyện dài hàng nghìn câu. Đáng chú ý, trong bài Tựa cuốn Tỳ bà Quốc âm tân truyện, dựa theo nguyên bản truyện chữ Hán Tỳ bà ký của Cao Đông Gia (đời Nguyên - Trung Quốc), đề năm Bính Thân, niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1896) ông có đưa ra nhiều nhận xét thú vị về lịch sử phát triển của thơ văn Nôm, của thơ lục bát và các truyện ký chữ Hán được đem diễn Nôm. Trong ba cuốn diễn Nôm, thể thơ lục bát được Kiều Oánh Mậu sử dụng thành thạo, nhiều đoạn khá điêu luyện.

Về sử học, Kiều Oánh Mậu để lại duy nhất một tác phẩm viết về lịch sử. Đó là cuốn Bản triều bạn nghịch liệt truyện. Cuốn này đã được Bộ Quốc Gia giáo dục Sài Gòn dịch và xuất bản năm 1963(10).

Bản triều bạn nghịch liệt truyện kể lại tất cả các cuộc loạn lạc, các vụ phản nghịch chống lại triều đình, các cuộc khởi nghĩa trong thời Nguyễn từ Gia Long đến Hàm Nghi (tức là từ đầu cho đến cuối thể kỷ XIX). Tài liệu chính mà Kiều Oánh Mậu tham khảo để viết là cuốn Đại Nam hội điển sự lệ và bộ Liệt truyện. Ngoài ra, ông cho biết còn lấy từ “các tập thi văn của những tác giả có tiếng hoặc tham khảo những văn kiện thông tư của các tỉnh, hoặchỏi nơi các vị kỳ mục, bô lão, hoặcnh điều nghe thấy mà viết” (sách dịch đã dẫn, tr.8-9). Cuốn sử này, chắc chắn còn phải bàn luận nhiều song chúng ta cũng ghi nhận ở đây sự đóng góp của ông đối với nền sử học nước nhà, ở phương diện sử liệu.

Trên đây là những tìm hiểu bước đầu của chúng tôi về cuộc đời và tác phẩm của Kiều Oánh Mậu - một nhà khoa bảng yêu nước, một tác giả Hán Nôm đáng chú ý cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hy vọng trong thời gian tới, những đóng góp của ông sẽ được nghiên cứu, phát hiện và đánh giá ngày càng đầy đủ hơn.

CHÚ THÍCH

(1) Về năm sinh của Kiều Oánh Mậu, các sách Tìm hiểu kho sách Hán Nô m (Tập 2), Truyện Kiều (do Nguyễn Thạch Giang khảo đính, chú giải); Thư mục tác giả (bản in Rônêô, Thư viện Viện Hán Nôm) và Kiều thị gia phả (gia phả) đều chép là năm 1854. Về năm mất của ông thì gia phả chép là 1911, còn các sách kể trên đều chép là 1912.

(2) Kiều thị gia phả viết bằng chữ Hán, hiện chỉ còn được 4 trang lưu giữ lại tại gia đình ông Kiều Vĩnh Khánh, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông Khánh là cháu 4 đời của Kiều Oánh Mậu.

(3) Lịch triều đăng khoa lục chép Kiều Văn Bá đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511).

(4) Xem báo Tri tân số 194 (năm 1946) bản dịch ra tiếng Việt của Thiết Chi (tức Kiều Tường - con trai cả của Kiều Oánh Mậu).

(5) Đào Nguyên Phổ (1860-1907) tự Hoành Hải, hiệu Tảo Bi, người làng Thượng Phan, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Tuất, niên hiệu Thành Thái 10 (1898). Đào Nguyên Phổ là người đề tựa cuốn 4 Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu khảo định, chú giải và đưa in năm Nhâm Dần (1902). Ông cũng là một trong những người sáng lập Đông Kinh nghĩa thục.

(6) Xem Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb. Sách giáo khoa Mac - Lênin. H, 1987, tr.34.

(7) Cử nhân Lương Văn Can là Hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục.

(8) Bản chữ Hán hiện nay không còn, chỉ còn bản phiên âm và dịch nghĩa tiếng Việt do gia đình ông Kiều Vĩnh Khánh giữ. Cuốn này gồm các bài ký và các bài bàn về hát ả đào của Kiều Oánh Mậu.

(9) Xem Truyện Kiều - Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải. Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp; H, 1976.

(10) Do Trần Khải Văn dịch, Bửu Cầm, Nguyễn Đình Diệm, Tạ Quang Phát và Trương Bửu Lâm sửa chữa, bổ túc và chú thích.

TB

ĐOÀN HUYÊN - MỘT TÁC GIA HÁN NÔM THẾ KỶ XIX

NGUYỄN THỊ OANH

Gần đây, chúng ta có chú ý nghiên cứu và giới thiệu một số tác giả Hán Nôm lâu nay, vì lẽ này lẽ khác, chưa được quan tâm nhiều, như Đặng Huy Trứ, Phạm Văn Nghị, Phạm Thận Duật, Vũ Phạm Khải… Trong sự nỗ lực chung, chúng tôi xin được giới thiệu thêm một tác gia Hán Nôm nữa, đó là Đoàn Huyên với tác phẩm Ứng Khê thi văn tập.

Đoàn Huyên (1808 - 1885), theo Ứng Khê thi văn tập, lúc nhỏ tên là Bàng, sau lớn lên đổi là Trọng Huyên, tự là Xuân Thiều, sau đổi là Phúc Hòa, biệt hiệu Ứng Khê. Về sau “do lệ của triều đình ấn định rằng, phàm tên người là quan viên mà có dùng bộ “nhân” và bộ “nhật” thì đều phải đổi cả, vì thế mới đổi thành và bỏ bớt chữ Trọng đi, gọi là Đoàn Huyên, còn tự và hiệu thì vẫn giữ như cũ”. Ông người thôn Chu Xá, xã Hữu Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay là xã Hữu Châu, Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Tây). Ông đỗ Cử nhân ưu hạng đệ nhị danh năm Tân Mão niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831). Năm Ất Mùi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 16 (1835) ông được gọi vào kinh đô Huế giữ chức Hành tẩu Bộ Binh. Năm Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mệnh thứ 19 (1838), ông được cử giữ chức Tri huyện huyện Hưng Nhân, Thái Bình. Năm 1841, ông đổi làm quyền Tri phủ phủ Tiên Hưng rồi lại chuyển vào Huế làm Chủ sự Bộ Lễ. Ông làm quan được 12 năm, vốn tính ngay thẳng, thật thà, thanh liêm chính trực trước thói đời đen bạc, quan trường nhiễu nhương, ông thấy không thể tiếp tục con đường quan nghiệp. Ông liền dâng sớ xin về nghỉ tại quê nhà, dồn công sức cho nghề dạy học, làm thơ và viết sách. Ông dạy ở khá nhiều nơi và nổi tiếng là người đào tạo giỏi. Vì vậy đến năm Tự Đức thứ 20 (1867) ông được tiến cử giữ chức Đốc học Bắc Ninh. 10 năm làm Đốc học, ông để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp về một ngài Độc học thanh liêm chính trực, tận tụy với nghề nghiệp. Cũng theo Ứng Khê niên phả, Bố chánh Hoàng Diệu, sau là Tổng đốc Hoàng Diệu từng nói với sĩ phu tỉnh Bắc: “Hàng đốc học ít có người như vậy”.

Tác phẩm của Đoàn Huyên gồm có: Ứng Khê thi văn tập; Khâm định tiễu bình phỉ khấu phương lược (cùng tham gia biên soạn với nhiều người khác); trong đó, tác phẩm đầu rất đáng chú ý.

Ứng Khê thi văn tập là một sưu tập thơ văn chữ Hán, chữ Nôm do Đoàn Huyên sáng tác, con trai là Đoàn Triển(1) sưu tầm biên soạn năm Ất Tỵ, niên hiệu Thành Thái thứ 17 (1905). Tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, sách mang các ký hiệu A.288/1-2 và VHv.2662. A.288/1-2 khổ 30x20cm, bìa màu vàng, chữ viết chân phương. Sách dày khoảng 600 trang. VHv.2662 khổ 29,5x17cm, 104 trang.

Theo lời tựa cuốn Ứng Khê thi văn tập, sách gồm 21 quyển, chia ra thành các môn loại như: Học vấn (có Độc Dịch lược sao, Độc thư chất nghi); Cử tử (có Thục đường nghĩ soạn, Thi kinh sách lược); Thù ứng (có Liên thi tự ký cùng với các phần Niên biểu hành trạng, Gia lễ, Ấp văn tặng ngôn, tùy bút phiến văn,…). Tất cả được đính thành 10 tập; sau đóng thành 3 tập, lấy tên là Ứng Khê thi văn tập. Sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm chỉ có 2 tập, thiếu tập 3, phần Văn sách. Được sự giúp đỡ của dòng họ, chúng tôi đã tìm thấy phần đang còn thiếu này ở một cuốn sách dày 140 trang khổ 26x16,5cm, chữ viết chân phương. Sách bị mối xông khá nhiều, nhưng vẫn còn đọc được về cơ bản.

Bản A.288/1 gồm 6 mục: 1- Lời tựa (do con trai Đoàn Triển viết); 2- Thân tân tặng ngôn; 3- Niên biểu; 4- Đối liên; 5- Thi tập; 6- Thân tân tặng ngôn.

Mục 6: Thân tân tặng ngôn (từ tr.1 đến tr.57, phần cuối sách) sao chép lại toàn bộ mục 2: Thân tân tặng ngôn và sao chép thêm:

- Bài viết mừng thọ của con cháu (trai gái, dâu rể) chúc thọ nhân lễ mừng thọ Đoàn Huyên 70 tuổi.

- Sưu tập mừng thọ nhân hai cha con Đoàn Huyên và con trưởng (Đoàn Bưu) cùng được vua ban sắc năm Nhâm Thân (1872).

Bản A.288/2 trong mục Đối liên, sao chép lại phần Đối liên của cuốn A.288/1 và có chép thêm:

- Đề vịnh liên loại.

- Văn liên loại.

Mục Thi tập, chép lại toàn bộ phần Thi tập của cuốn A.288/1 và có chép thêm:

- Mục lục thi tập.

Bản VHv.2662 chép các mục Đối liên, Niên biểu và Thi tập.

Thơ văn là phần chủ yếu trong sáng tác của Đoàn Huyên.

Về Văn: phần có giá trị nhất trong Ứng Khê thi văn tập là phần Niên biểu. Hành trạng tác giả được viết dưới dạng hồi ký. Ở đây sự việc không chỉ dừng lại qua các liệt kê theo thứ tự thời gian mà đan xen vào đó là những mẩu chuyện khá sinh động về thời kỳ ông làm quan ở Hưng Nhân, Tiên Hưng (Thái Bình); thời kỳ làm Đốc học ở Bắc Ninh. Những mẩu chuyện cho ta thấy rõ hơn bộ mặt thực của xã hội mà ông đang sống, qua đó chúng ta có thể hiểu hơn về con người và nhân cách Đoàn Huyên và góp thêm một tư liệu cho văn học chứ Hán giai đoạn này. Có thể đơn cử ra đây một số đoạn viết trong Niên biểu:

“… Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 20 (1839), ngày 1 tháng Giêng, kính rước cáo sắc. Nha lại trong huyện xin mở yến tiệc đón sắc chúc tụng. Ta không muốn phiền nhiễu dân chỉ tuyên độc chiếu chỉ của nhà vua ở công đường của huyện nhân tổ chức tiệc rượu nhỏ với các nha thuộc và chức mục ở tổng lân cận mà không nhận chúc tụng. Sau đấy nghe thấy trong số các lại lệ có kẻ chê cười ta quê kệch, nhưng dân trong hạt đều nói rằng đã giảm bớt tốn phí mấy ngàn đồng cho huyện ta. Chỉ tính một việc này mà nói thì từ xưa tới nay chưa có quan Huyện doãn nào như thế cả, huống nữa việc chính sự giản dị chẳng cũng đáng khen sao?”.

“… Bấy giờ có một tên là em trai thầy học của Bang biện tỉnh đường Phạm Thuận Duật đại nhân (sau làm Án sát Bắc Ninh, rồi thăng lên Tuần phủ, Tổng Đốc), cố ép đại nhân cầu thỉnh hai ba lần. Ta chọn văn bài của tên đó đưa ra xem, rồi nói:

- Bảng đã treo, tổng số cũng đã báo rồi, không dám có riêng tư gì cả. (Về sau nghe nói Phạm đại nhân về nói với tên kia rằng: Ngươi muốn cố xin vào danh sách, trừ phi là đổi viên Đốc học khác thì may ra mới được).

Thuộc viên và các nha lại ở đó rất đông, đều ra sức biện bạch rằng: “Các quan Đốc trước đây đều thế cả, ở các tỉnh khác cũng đều như thế, chỉ riêng có đại nhân (đây chỉ Đoàn Huyên - N.T.O) cố giữ công chính, không vì người khác, thì còn ai làm được như đại nhân nữa. Đã không có lợi lộc gì, lại cũng chẳng có danh, thế thì ích nỗi gì?”

Ta nói:

- Người quân tử làm việc thiện, ví như là ăn cơm. Ở nhà no rồi thì cần gì phải hỏi xin ở ngoài? Người ngoài có biết được điều đó không?

Thế là mọi người không ai dám nói gì thêm nữa. Từ đó việc cầu cạnh xin xỏ cung ít dần, không ai dám đem lợi lộc ra để cầu xin nữa. Khoa ấy sĩ tử Nguyễn Cao người làng Cách Bi, đi học đường xa bị cảm mạo, không kịp đến kỳ phúc khảo, ta biết người này quả có học hạnh, liền công nhiên miễn cho kỳ phúc khảo rồi nói với tỉnh đường ghi vào trong danh sách dự thi. Khoa ấy Nguyễn Cao đỗ giải nguyên (nay sung làm Bang biện tỉnh Bắc Ninh)”.

Về thơ: ông sáng tác không nhiều, tất cả có 78 bài thơ trong đó có 2 bài thơ Nôm và 76 bài thơ chữ Hán, theo một số thể loại: thất ngôn, ngũ ngôn, ngũ ngôn cổ phong, thất ngôn cổ phong. Một số bài ngũ ngôn cổ phong dài tới 36 câu.

Thiên nhiên là chủ đề chính trong sáng tác của ông. Các bài như Thanh minh tiền tam nguyệt (Tháng ba trước tiết Thanh minh); Xuân nhật đề trú phòng (Ngày xuân đề thơ ở phòng ở); Trung thu đối nguyên (Ngắm trăng đêm trung thu); Hiểu khởi (Sớm dậy); Vịnh nguyệt (Vịnh trăng)… là những bài thơ có sức hàm chứa xúc cảm mạnh mẽ.

Sau đây xin trích dịch mấy bài để chúng ta có một ý niệm nào đó về thơ chữ Hán của Đoàn Huyên:

Vịnh nguyệt
Chiếm đoạn càn khôn phẩm tuyệt thanh,
Tài thông bán nguyệt tức tinh huỳnh.
Giang sơn tiếp ngộ câu thành sắc,
Phẩm vật tương khan tiện ủy hình.
Hiển đáo mãn thời năng dụng hối,
Khuy tương yết xứ hựu hoàn doanh.
Kham lân dữ ngã hồn vô gián,
Thời nhập song hư cộng mục thành.

Dịch thơ:

Vịnh trăng
Chiếm của càn khôn vẻ tuyệt thanh,
Mới phô nửa mặt đã lung linh.
Non sông tiếp sáng đều nên sắc,
Muôn vật nhờ trăng mới rõ hình.
Sáng đã đầy tràn thì tối sẫm,
Khuyết vừa hết mức lại tròn xinh.
Cùng ta trăng vốn là bè bạn,
Thường vẫn vào song ngắm nghía mình.
Trần Lê Văn dịch

Chùm thơ về cố đô Huế là chùm thơ có nhiều bài đáng chú ý về đề tài vịnh phong cảnh.

Xuân nhật
Ngự hà văn điếu
Mạc mạc bình lưu ủng cấm thành,
Mang mang hướng vãn tiếp thiên tình.
Phương phi biệt quán nghi phương trượng,
Đạm đãng trừng ba hỗn thái thanh.
Triều đới hoành tà hoa ảnh chí,
Chu lăng minh diệt tịch dương hành.
Xuân phong phất tụ thùy dương ngạn,
Nhất vọng du du phát lữ tình.

Dịch thơ:

Ngày xuân
(Buổi chiều ngắm sông Ngự)
Phẳng lặng sông xanh bọc cấm thành,
Chiều hôm trắng xóa tận trời xanh.
Nhà riêng thơm cỏ ngờ Phương Trượng(2)
Dòng biếc mênh mang lẫn Thái Thanh(3)
Triều dậy nghiêng nghiêng hoa dọi bóng,
Hoàng hôn chênh chếch mái chèo nhanh.
Gió xuân nhè nhẹ lay tà áo,
Vời vợi xa trông lữ khách tình

Chủ đề về gia đình choán khá nhiều trong cảm hứng của nhà thơ. Các bài thơ: Tiếp gia thư (Nhận được thư nhà); Ký nội (Gửi thư về cho vợ); Tuế mộ thượng gia thư kiêm trình (Cuốn năm gửi thư về nhà trình báo); Mộng thiên thất (Mơ về người vợ đã khuất)… là những bài thơ chứa đựng nội tâm sâu sắc.

Mộng tiên thất
Niên lai lao lạc ức kỳ cân,
Muội dán kê minh hệ niệm tần.
Ngụ mị ngẫu nhiên trùng khoản khúc,
Đoan trang uyển nhược cựu phong thần.
Bách niên khảng lệ hồn nhàn sự,
Thiên tải tao phùng cảm túc nhân.
Tỉnh giác cừ cừ nhưng độc đán,
Bồi hồi bất tín huyễn tà chân.

Dịch thơ:

Mơ về người vợ đã khuất
Mấy năm lưu lạc nhớ tình thân,
Gà gáy tinh mơ nhớ bội phần.
Chợp mắt chợt đâu lời thủ thỉ,
Đoan trang dạo trước vẫn tinh thần.
Trăm năm âu yếm mơ huyền hão,
Ngàn thủa tao phùng chuyện túc nhân.
Tỉnh giấc trơ trơ mình tối sáng,
Bâng khuâng chẳng rõ giả hay chân.
Bùi Hạnh Cẩn dịch

Tình cảm đối với bè bạn là những xúc cảm sâu lắng nhất trong tâm hồn ông. Các bài thơ: Đắc cố nhân thư, chiêu Đỗ Thiện Trường tiểu chước dạ thoại (Nhận được thư bạn cũ, mời ông Đỗ Thiện Trường tới uống rượu ban đêm trò chuyện); Dạ vũ ức hữu nhân Hoàng Trung (Đêm mưa nhớ bạn Hoàng Trung)… là những bài thơ khá tiêu biểu. Trong bài Dạ vũ ức hữu nhân Hoàng Trung, ông viết:

… Hà đương cộng tịch chiêu,
Khước thoại kim ly tứ.
Du tai, phục du tai,
Giang sơn trở thanh khí.

Dịch thơ:

… Bao giờ anh lại cùng tôi,
Trong chiều kể lại tình hoài chia ly.
Hỡi ôi dằng dặc hai bề,
Sông ngăn núi cách bạn bè tâm giao.
Trần Lê Văn dịch

Thơ ông còn là nỗi buồn khắc khoải của người lữ khách nơi tha hương. Nỗi nhớ quê hương khiến cảnh sắc mùa hạ trong thơ ông đã đượm màu “hiu hắt”. Trong bài Văn hiên ngẫu thành (Buổi chiều ngoài hiên ngẫu hứng thành thơ) ông viết:

Phất hạm lương sơ thấu,
Bằng lan hứng vị tiêu.
Khinh phong tài động trúc,
Sơ vũ đãn minh tiêu.
Huỳnh hỏa nhiên âm ế,
Trùng thanh phá tịch liêu.
Nam huân thời vị bán,
Mộ sắc dục tiêu tiêu.

Dịch thơ:

Hơi mát thoảng song ngoài,
Tựa hiên hứng chứa nguôi.
Bờ tre vừa gió động,
Khóm chuối đã mưa rơi.
Tiếng trùng phá yên đất,
Lửa dóm soi tối trời.
Gió nam chưa bén nửa,
Hiu hắt sắc chiều phơi.
Nguyễn Oanh - Băng Thanh dịch

Người đời làm thơ chủ yếu để ký thác tâm tình. Duy có điều mỗi người thể hiện tâm trạng của mình dưới nhiều cung bậc khác nhau. Đoàn Huyên cũng vậy. Thơ ông là nỗi niềm sâu kín của một người từ quan về ở ẩn. Các bài thơ: Chi di (Chống cằm); Cáo hưu lưu tỉnh đường liệt hiến (Xin nghỉ hưu lưu biệt các quan ở tỉnh đường); và bài Học cầm ca là bài đạt đến tính triết lý sâu sắc.

Anh chẳng thấy
Uyên Minh(4) từng giữ đàn không giây,
Ngụ tấm tình sâu gẩy ngày ngày;
Tự biết trong đàn có hứng thú,
Cần gì thanh tiếng mới là hay.
Chơi đàn thần diệu cốt không tục,
Thừa hứng lên cao non với nước.
Ngày nay ai được như ông Đào,
Dưới đất, biết tìm ông nơi nào?
Bọn ta đều cao sĩ,
Chân mây động nguyệt ông kỳ chí;
Đất trời đến đâu cũng là nhà,
Tiếng đàn càng nhỏ âm càng lớn,
Ý nhạc tràn đầy tự trong ta.
Ta nay nhàn hạ sợ sinh lười,
Không cờ không bạc gẩy đàn chơi.
Vừa đàn vừa trống khúc gì vậy
Khúc điệu hữu tình như cố gẩy,
Chỉ e “tưng tửng” các anh cười:
Tiếng đàn chẳng lọt tai
Ta cũng tự cười mình,
Chỉ mới biết gẩy đàn hữu thanh(5)
Huệ Chi dịch

Sẽ hoàn thiện một nhân cách thơ hơn nếu trong thơ ông không thiếu vắng những bài về cuộc sống đời thường. Những bài thơ có chất muối, vị cay của cuộc đời. Những bài thơ về những con người bình thường trong niềm vui nỗi khổ hàng ngày. Đó là hạn chế lớn nhất của bài thơ.

Mặc dù còn có những hạn chế, song Ứng Khê thi văn tập vẫn xứng đáng được ghi nhận là tác phẩm Hán Nôm có giá trị. Chúng tôi mong rằng trong tương lai không xa, phần lớn, nếu không phải toàn bộ thơ trong tác phẩm này sẽ được ra mắt bạn đọc, góp phần làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa thành văn của dân tộc.

CHÚ THÍCH

Đoàn Triển (1854-1919): đỗ Cử nhân năm 1885, từng giữ các chức vụ: Tư vụ Nha kinh lược; Tri phủ Bình Giang (Hải Dương); Án sát sung Viện Thượng thẩm; Tu thư cục; Tổng đốc Nam Định. Tác phẩm gồm có: An Nam phong tục sách; Ấu học lịch sử giáo khoa thư; Đoàn Tuần phủ công độc; Nam quốc chính trị sự lược giáo khoa thư. Biên tập: Tiểu học tứ thư tiết lược; Ứng Khê thi văn tuyển. Ông có nhiều đóng góp với Học Viện Viễn đông bác cổ và sự nghiệp giáo dục. Nhân đây xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.

(2) (3) Phương Trượng, Thái Thanh là nơi các tiên ở.

(4) Uyên Minh: Tức Đào Tiềm (365-427) người đất Tâm Dương, làm quan lệnh ở Bành Trạch vào đời Tấn. Ông rất yêu hoa cúc, tính tình khảng khái, ghét luồn cúi. Một hôm có tên Đốc Bưu do quan trên sai xuông, nha lại khuyên ông nên mũ áo chỉnh tề ra đón. Ông đáp: “Ta không thể vì năm đấu gạo mà khom lưng khúm núm thờ bọn tiểu nhân trong làng được. Rồi treo ấn từ quan, trở về quê trồng liễu, trồng cúc làm vui. Trước khi ra về ông có bài Quy khứ lai từ.

(5) Do khuôn khổ hạn hẹp, chúng tôi bớt phần phiên âm của bài thơ này.

TB

THỬ BÀN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MẢNG TƯ LIỆU HÁN NÔM TRÊN
TẠP CHÍ NAM PHONG

CHU TUYẾT LAN

Như chúng ta đã biết, Nam Phong tạp chí ra hàng tháng, xuất bản liên tục từ tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934, tổng cộng 210 số. Mỗi một số đều có phần chữ Quốc ngữ, phần chữ Hán và phần chữ Pháp riêng biệt, đăng tải nội dung tạp chí trong chừng mực khác nhau, tùy thuộc vào sự quan tâm của độc giả từng phần.

Từ trước đến nay trong giới nghiên cứu - phê bình đã có nhiều ý kiến phân tích, đánh giá tạp chí Nam Phong về mặt này mặt khác. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng tôi đề cập đến một lĩnh vực chưa được bàn tới: những đóng góp của tạp chí Nam Phong đối với việc sưu tầm và giới thiệu di sản Hán Nôm của dân tộc.

So với đương thời, Nam Phong là cơ quan ngôn luận tích cực nhất trong việc đăng tải mảng tư liệu Hán Nôm do cha ông ta để lại. Trải qua nhiều thập kỷ, những đóng góp đó vẫn còn được ghi nhận. Chẳng hạn trong khi Viện Văn học tổ chức biên soạn bộ sách Thơ văn Lý Trần(1), các soạn giả đã tham khảo và hơn một lần sử dụng các bản dịch thơ văn được công bố trên Nam Phong.

Không chỉ có Ngành nghiên cứu Văn học, mà nhiều Ngành khoa học xã hội khác như Sử học, Triết học, Dân tộc học, Xã hội học,… đều có thể khai thác ở 210 số tạp chí này những tư liệu và thông tin cần thiết. Để phục vụ các nhà nghiên cứu, phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm năm 1989 đã hoàn thành tập Thư mục các bài viết trên tạp chí Nam Phong có liên quan đến tác giả, tác phẩm Hán Nôm(2).

Tập thư mục gồm hai phần: Phần Thư mục và phần Sách dẫn.

Phần Thư mục được sắp xếp theo vần chữ cái của tên bài viết. Mỗi đơn vị thư mục gồm có 8 yếu tố:

1. Tên tác giả.

2. Tên bài viết.

3. Đồng tác giả, người sưu tập, dịch…

4. Tên tạp chí.

5. Năm xuất bản.

6. Số tạp chí.

7. Trang.

8. Giới thiệu sơ lược nội dung.

Có tất cả 726 đơn vị thư mục.

Phần Sách dẫn gồm Bảng tra tên người Bảng tra tên tác phẩm. Cả 2 bảng đều được sắp xếp theo vần chữ cái, với thứ tự dấu: Không, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng, có chỉ rõ số trang và số thứ tự của đơn vị thư mục.

Tập thư mục đã thông tin được một khối lượng đáng kể các tư liệu Hán Nôm, giúp người đọc tra cứu khá dễ dàng.

Để góp phần nhận thức thêm về tính chất đa dạng của các tư liệu Hán Nôm trên tạp chí Nam Phong, dưới đây chúng tôi sẽ phân loại chúng theo chủ đề và đề tài.

Trong số 726 đơn vị thư mục, có:

a) 399 đơn vị giới thiệu các bài sưu tầm, dịch thơ văn cổ;

b) 33 đơn vị giới thiệu các bài nghiên cứu văn học;

c) 168 đơn vị giới thiệu các bài nghiên cứu về lịch sử hoặc tư liệu về lịch sử;

d) 119 đơn vị giới thiệu các sáng tác thơ văn đương thời (1917 - 1934).

e) 7 đơn vị giới thiệu các văn bản chính trị đương thời (1917 - 1934).

Qua phần sưu tầm, dịch thơ văn cổ, chúng ta thấy hầu hết các tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam đã được Nam Phong giới thiệu: Mãn Giác, Không Lộ, Lý Thái Tông, Lý Anh Tông, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Nghệ Tông, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Phi Khanh, Đặng Dung, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Hữu Trác, Phạm Thái, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Thông,… Bên cạnh những áng thơ Đường được dịch, có mặt trên Nam Phong còn là chuyện Nôm khuyết danh như Tống Chân Cúc Hoa (Thư mục 126). Đáng chú ý, có những tác phẩm rất hiếm hoi được sáng tác trong thời kỳ Bắc thuộc như Bạch vân chiếu xuân hải phú của Khương Công Phụ cũng đã được giới thiệu trên Nam Phong năm 1924, số 83 (Thư mục 246).

Trên phương diện nghiên cứu Văn học, Nam Phong có nhiều bài nghiên cứu về tiểu sử Nguyễn Du, về Truyện Kiều (Thư mục 34, 35, 36, 38, 133, 287, 308, 344, 351, 383, 639, 672). Ngoài ra các tác giả còn khảo cứu Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, nghiên cứu một số bài thơ của Trần Khánh Dư, Lê Thánh Tông, Bà huyện Thanh Quan, bàn về thơ Nôm, câu đối Nôm, khảo sát lối chữ thời cổ (Thư mục 50, 51, 37, 235, 295).

Qua 168 đơn vị Thư mục về tài liệu và nghiên cứu lịch sử, có thể thấy những vấn đề sau được đặc biệt chú ý:

1) Lịch sử nước ta từ thời kỳ Đông Sơn đến thời kỳ Bắc thuộc (Thư mục 73, 169, 174, 182, 183, 304,…).

2) Các thời kỳ lịch sử, với các triều đại như nhà Lê, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn (Thư mục 212, 273, 284, 458,…).

3) Các nhân vật lịch sử: Ngô Quyền, Lý Nhân Tông, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ, Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Thành, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Trường Tộ,… (Thư mục 348, 300, 92, 272, 386, 367, 285, 357, 283, 99, 440, 441, 484, 606, 661, 270, 369, 322, 299, 278, 361,…). Ở phần này người nghiên cứu sẽ tiếp xúc với các tư liệu lịch sử như: những bức thư của Lê Quýnh (bầy tôi của Lê Chiêu Thống), những bài biểu của Nguyễn Thiếp và hai bức thư chữ Hán của Quang Trung mời Nguyễn Thiếp ra giúp nước; bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ,… (Thư mục 257, 260, 207, 208, 209,…).

4) Phong tục, đất đai, thổ sản, các di tích… trên đất nước ta (thư mục 213, 214, 387, 236, 335, 55, 197,…).

5) Giáo dục, khoa cử: bên cạnh những bài khảo cứu về chế độ khoa cử, về các khoa thi (thư mục 241, 224), còn có những bài, những tư liệu khá thú vị, chẳng hạn, đề bài thi để chọn nhân tài dưới chế độ phong kiến, bài biểu tạ ơn của người thi đỗ, quy chế của khoa thi cuối cùng (thư mục 32, 118, 250, 249).

Ngoài ra tạp chí Nam Phong còn đề cập đến rất nhiều vấn đề khác như luật hình, lễ nghi, tang lễ, y học, nghề đàn, lịch, lăng tẩm, lệ cống Trung Quốc, các bộ sử, nhận xét người phương Bắc về người nước ta, lịch sử và phong tục nước ngoài (Ấn Độ, Nhật Bản), Phật giáo, Mạnh Tử, Mặc Tử,…

Bên cạnh đó, còn có 118 đơn vị thư mục giới thiệu các sáng tác thơ văn hầu hết là thơ từ 1917 đến 1934, cung cấp thông tin cần thiết đối với những người quan tâm nghiên cứu tình hình văn học Việt Nam ở giai đoạn giao thời.

Cuối cùng là 8 đơn vị thư mục nói về các văn bản chính trị như các tờ thời dụ của vua Khải Định, biểu mừng Hoàng Thái Hậu năm mươi tuổi,… Nguồn tư liệu sẽ giúp cho các nhà sử học muốn tìm hiểu tình hình xã hội Việt Nam vào đêm trước của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Đến nay hơn nửa thế kỷ đã qua đi, song những đóng góp đã phân tích ở trên các mảng tư liệu Hán Nôm trên tạp chí Nam Phong vẫn còn được ghi nhận. Nó sẽ giúp cho bạn đọc và những nhà nghiên cứu có thêm căn cứ để tìm hiểu lịch sử, ngôn ngữ văn hóa, xã hội và phong tục nước nhà.

CHÚ THÍCH

(1)Thơ văn Lý - Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, Tập I, 1977, 632 tr; Tập II, Quyển thượng, 1988, 968 tr; Tập III, 1978, 824 tr.

(2) Tập thư mục gồm 300 trang đánh máy, do tập thể phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện (Vũ Thanh Hằng, Nguyễn Thị Hà, Chu Tuyết Lan, Nguyễn Hoàng Quý, Ngô Thị Thành và Đoàn Thị Tuyết) biên soạn.

TB

BA BÀI VĂN - BA DÒNG VĂN HÓA TRONG MỘT THIÊN TÀI NGUYỄN TRÃI

NGUYỄN NHƯ LUÂN

I

Bình Ngô đại cáo, Côn Sơn ca, Mộc cận là ba bài văn có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu tư tưởng Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn. Ba bài văn phản ánh đầy đủ ba dòng văn hóa khác nhau trong tư tưởng ông.

Bình Ngô đại cáo thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa. Côn Sơn ca bắt nguồn từ cảm hứng sùng thượng thiên nhiên, thuận theo tự nhiên mà sống. Mộc cận là tiếng nói đốn ngộ lẽ sắc không. Cả ba dòng văn hóa đó chung tụ lại trong một con người Nguyễn Trãi đã không còn giữ bản sắc ban đầu mà phải chịu chi phối của thiên tài ông.

Nhân nghĩa không còn là một khái niệm luân lý đơn thuần. Nó đã trở thành một tư tưởng triết học, một phương châm chỉ đạo chiến lược quán xuyến trong mọi hành động của ông khi kháng chiến Bình Ngô cũng như khi xây dựng đất nước. Có thể nói đối với ông, nhân nghĩa đã thành một chủ nghĩa, một học thuyết nhân nghĩa - học thuyết nhân nghĩa của Ức Trai. Đó là điều mới mẻ vĩ đại nhất, hơn bất kỳ một đạo học gia, một lý thuyết gia nào trước ông.

Cảm hứng sùng thượng thiên nhiên, thuận theo tự nhiên mà sống không những đã bồi bổ cho ông tinh thần lạc quan vững chí trong những khi chưa gặp thời, mà còn quan trọng hơn là đã giúp ông có một cách nhìn thực tế, tìm cho ra quy luật vận động của sự vật để giành lấy thắng lợi.

Trong lịch sử tư tưởng chính trị của dân tộc, số Nho gia thuần túy thời đại nào cũng có nhưng rất hiếm, ngay cả trong những thời cựu thịnh của Nho học vào những thế kỷ XV và XIX sau này, Nho học được tôn vinh như là quốc giáo. Có thể lý giải vấn đề này từ hai phía: một là từ điều kiện lịch sử và hai là từ khát vọng tìm hiểu vươn lên của con người.

Nho học vốn bảo thủ, quanh quẩn với cái nhìn lại quá khứ để từ đó tìm những kỷ cương luân lý trong quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ. Cương thường là thể chế đạo đức luân lý đó. Nho học chỉ giải quyết những vấn đề luân lý thực tại, trong khi con người vốn đã có nhân tố muốn vươn lên, sau qua thực tiễn tích lũy kiến thức ngầm mang một khát vọng tìm hiểu, tiến bộ mãi trong nhận thức sự vật. Cho nên Nho học đơn thuần chỉ mang lại những thắng lợi không lâu dài. Đó là nói thắng lợi nếu có, còn thất bại thì nhiều. Còn trong thơ ca nghệ thuật, Nho học vì thế không chắp cánh cho tâm hồn, cho nên thường đơn điệu, không mấy sức sống. Hồng Đức quốc âm thi tập là một trong số thơ ca đó.

Lý thuyết của Phật và Lão đã đáp ứng cho nhu cầu mới đó của con người. Và, từ đó mà có khái niệm “Tam giáo đồng nguyên”. Ba dòng văn hóa Nho, Phật, Lão về nguồn gốc sâu xa thì chắc chắn đều phát sinh từ văn hóa dân tộc, từ những điều kiện lịch sử và kinh tế của dân tộc, cho nên chủ thuyết có khác nhau, nhưng cả ba cùng chung một mục đích làm cho con người sống hạnh phúc. Bởi thế trong quá trình diễn tiến, cả ba dòng văn hóa đó đã có những điểm tương đồng nhất định và đã có những bổ sung cho nhau. Và chính vì vậy mà cả ba đều dùng chung khái niệm đạo, vi, vô tâm, vô dục, hư, ảo, động, tĩnh, vô, hữu… (tất nhiên là một hàm của từ ngữ kia không hẳn là đồng nhất). Đó là lý do tại sao một dân tộc như dân tộc Việt, một con người như con người Nguyễn Trãi lại có thể dung hợp đồng thời cả ba dòng văn hóa đó.

Bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta phải chung lưng đấu cật trong chiến đấu chống ngoại xâm và trong sản xuất chống thiên tai. Trong cuộc đấu tranh lâu dài trên hai mặt trận đó, dân tộc Việt đã sớm tạo ra cho mình một truyền thống văn hóa tốt đẹp, giàu lòng nhân ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tinh thần dân chủ bàn bạc việc công, tự do, phóng khoáng và lòng dũng cảm… Văn hóa dân gian, đặc biệt là trong ca dao, dân ca, tục ngữ, và cả trong những hình thức biểu diễn nghệ thuật chèo, tuồng, điêu khắc còn ghi lại đậm đà phong vị văn hóa ấy của dân tộc.

Trên cơ sở truyền thống văn hóa đó, dân tộc ta đã tiếp thu có chọn lọc và phê phán cả Nho học, Lão học và Thiền học để làm phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc. Nói một cách khác, cả ba dòng văn hóa đó đã bị chi phối mạnh mẽ bởi truyền thống văn hóa dân tộc và đã trở thành một Nho giáo mới, một Đạo gia mới, một Thiền gia mới của Việt Nam, phục vụ cho lợi ích chính nghĩa của dân tộc mình.

Nhìn trên đại thể, Nho, Đạo hay Thiền Việt Nam, trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, chưa có ai xuất thế một cách đích thực. Hầu hết họ đều bám vào cuộc đời, sống giữa nhân quần xã hội mà hành động cho lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc mà Nguyễn Trãi là một trong số người tiêu biểu lỗi lạc nhất của thời đại, suốt đời chỉ lo nghĩ cho dân cho nước: “Bình sinh độc bảo tiên ưu niệm”.

II

Bây giờ xin đi vào tìm hiểu chi tiết từng bài một: Bài MỘC CẬN.

Trong một bài tham luận đọc ở Hội nghị khoa học kỷ niệm 525 năm Năm Nguyễn Trãi mất do Viện Triết học tổ chức tại Hội trường Thư viện Quốc gia vào tháng 9-1967, tôi có nói: “Trên cơ sở văn hóa truyền thống của dân tộc, giàu lòng thương nước yêu dân, Nguyễn Trãi ngoài tư tưởng Nho gia, còn tiếp thu các dòng tư tưỏng khác là Đạo gia và Thiền gia. Cả ba dòng tư tưởng đó trong một con người Nguyễn Trãi đã có những tư tưởng tích cực, biến lòng yêu nước thương dân của ông thành những sức mạnh to lớn đủ để đưa cuộc kháng chiến bình Ngô đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng “nền thái bình muôn thuở” cho Tổ quốc, cho nhân dân. Thơ ông nhiều bài mang đậm tư tưởng Thiền gia, trong số đó có bài Mộc cận (Hoa bông bụt) là một bài hoàn chỉnh, được sáng tác theo cảm hứng của tư tưởng Thiền học rất rõ”.

Mộc cận là một trong số 34 bài trong phần Hoa mộc môn của Quốc âm thi tập, gồm bốn câu:

Ánh nước hoa in một đóa hồng,
Vẩn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng.
Chiều mai nở chiều hôm rụng,
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.

Lý tưởng của nghệ thuật dân tộc, theo truyền thống, dù là thi ca, hội họa hay bất kỳ nghệ thuật nào, là phải gợi ý chứ không phải là khúc chiết. Nhà thơ thường muốn trao gửi, không phải điều mà nhà thơ diễn tả trực tiếp trong bài thơ, mà là điều nhà thơ muốn nói tới. Do đó phải đọc cho được cái ý ở ngoài lời.

Ở đây tác giả tả hoa bông bụt (mộc cận), nhưng thực ra không có câu chữ nào là đích thực tả về nó. Ta có thể thay đầu đề cho bất cứ một bông hoa nào khác mà không hại gì đến nội dung, đến cái ý tác giả muốn trao gửi. Tưởng cũng cần nói qua một đôi nét về bút pháp của thơ ông trong phần Hoa mộc môn của tập thơ Quốc âm.

Hoa mộc môn đủ các loại: mai, cúc, tùng, trúc, hoa đào, mẫu đơn, hoàng tinh, thiên tuế, cây chuối, mía, cây đa, hoa mộc, hoa nhài, hoa sen, hoa hòe, cây cam đường, cây dương, hoa Trường Yên (hoa nhạn lai hồng ở Trường Yên, Hoa Lư). Ba mươi tư bài thơ về bằng nấy môn loại, không một bài nào được sử dụng bút pháp tả thực. Đối với một loại cây, một loại hoa nào, ông hoặc khởi phát từ những đặc điểm phổ biến, quen thuộc, hoặc từ tên gọi của mỗi loại mà cấu tứ gửi gắm điều mình muốn nói ở ngoài những câu chữ cụ thể. Điều ông muốn nói thường là những điều tâm đắc sâu xa về nhân sinh, về lẽ tạo hóa.

Mộc cận cũng được sáng tác trong phong cách chung đó của Hoa mộc môn. Ở đây, nhân tên cây bông bụt mà ông nghĩ đến Phật (Bụt). Và, nghĩ đến Phật mà phát biểu về thuyết sắc không. Giác ngộ được thuyết sắc không với thái độ bình thản như một điều mới đốn ngộ: sự lạ cho hay tuyệt sắc không, thì bể khổ không còn, con người ta bao giờ cũng lạc quan, thư thái, vì cái Ngã hay Atman - nguồn gốc của mọi rối ren trong đời không còn.

Tác giả đã phô diễn điều đó như thế nào? Ở đây tác giả không phải đã tả một bông hoa, mà ông đã nói đến một cái bóng hoa lồng dưới nước: đó là một ảo ảnh.

Ánh nước hoa in một đóa hồng, trong đó cái thực chỉ được nói tới - hoa, và chỉ hiện ra như một cái bóng chiếu in ở trong nước. Nó ở đâu, như thế nào? Ta không biết. Một thế giới huyền ảo được mở ra, trong đó cái được nói tới là một cái giả (bóng) lồng trong một cái thực (nước). Cái giả là không. Cái thực là sắc. Nhưng cái không, có từ một cái thực (hoa), và cái sắc vốn là không. Ý nghĩa sắc không bắt đầu ngay từ đây, vì cái sắc (nước) vốn là không, nên đây tác giả viết ánh nước.

Tóm lại, trong câu đầu: Nước là thực mà nước được nói tới như giả, như một cái ảnh - ánh nước. Còn hoa là giả ảnh mà được nói tới như thực - một đóa hồng.

Từ đấy chuẩn bị cho ta nghĩ tới thuyết Thiền gia được gọi là nhị đế nghĩa (Théorie de la double vérité) để đón nhận chân lý cao cả sau đó. Ở đây ta có thể thay đổi một số từ ngữ: Thực bằng Hữu, Giả bằng Vô. Nói chư pháp thật ra là vô. Trên bình diện đó, nói hữu là thế đế (vérité au sens ordinaire), nói là chân đế (vérité au sens supérieur) khi những người bình thường cho mọi vật là có thật, là hữu, chẳng biết gì về vô.

Vẩn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng. Khi là không, hoa chỉ là một giả ảnh, thì vẩn nhơ trong nước làm sao mà bám vào được. Ta có thể suy ra: khi con người đã nhận chân được cái bản thể không của mình thì con người sẽ không bị dục vọng làm nhơ bẩn, lòng trong sáng như gương, sống thư thái, nhận biết chư pháp trong thực tại, vượt khỏi những cái hữu hạn của cảnh giới mình đang sống, và chính đó là Phật. Con người, và chỉ có con người mới có thể thành Phật. Mọi người đều mang trong mình khả năng trở thành một đức Phật nếu tâm họ muốn và nỗ lực.

Chiều mai nở chiều hôm rụng. Từ cái bóng hoa lồng dưới nước được nói tới trong hai câu đầu, đến đây trong câu 3, tác giả lại đưa ta lên nhìn nhận một sự thực hiển nhiên của cái thực là bông hoa mà ta vẫn không nhìn thấy, ý muốn gợi cho ta hiểu rằng: cái thực là bông hoa mà cũng là chư pháp hay sắc tướng, theo lý thuyết nhà Phật là không, và chư pháp trong cõi thế gian là biểu hiện của tâm, do đó là hư ảo và vô thường. Và, đời sống ngắn ngủi “sớm nở tối tàn” là điển hình cho sự vô thường đó.

Chiều mai nở chiều hôm rụng, gồm hai vế thuận nhau trong hình thức và nghịch nhau trong nội dung cũng gợi cho ta cái ý luân hồi sinh tử. Con người vì mê muội mà đem lòng tham luyến. Sự mê muội ấy gọi là avidya, được dịch là vô minh. Do vô minh mà có lòng tham luyến sự sống. Nó buộc chặt con người vào vòng sinh tử không bao giờ thoát ra được. Còn sự khát khao trở thành, thì vòng luân hồi vẫn tiếp tục, nó chỉ có thể ngừng khi nào sức mạnh điều khiển nó, sự khát khao bị chặt đứt nhờ trí tuệ thấy rõ thực tại, chân lý, Niết Bàn.

Sự lạ cho hay tuyệt sắc không, là một lời phát biểu điều tác giả tâm đắc về một chân lý của Phật mới được đốn ngộ. Sự lạ là tiếng than khi nhận biết, đắc ngộ được một điều gì. Chiều mai nở chiều hôm rụng của bông hoa được tác giả nhận biết làm cho tác giả lĩnh hội được thuyết sắc không. Hoa sớm nở tối tàn, thì có bao giờ, có giây phút nào cái hoa thực sự được tồn tại ? Như trên đã nói mọi vật đều là biểu hiện của tâm, cho nên là hư ảo và vô thường. Như vậy cũng có nghĩa là mọi vật luôn luôn trong sự biến hóa, luôn luôn đang sinh và luôn luôn đang diệt. Và, từ đó mà cũng là hư ảo, là không. Cho hay tuyệt sắc không, có nghĩa: mới biết tất thảy mọi vật trên thế gian xem như có dáng sắc thật đó mà kỳ thực chỉ là hư không. Kết quả vô minh không còn, vì lòng khát khao, tham luyến cũng dứt. Việc làm bây giờ không tạo được quản, thì quả của nghiệp trước được chồng chất phải hết, như vậy là thoát khỏi luân hồi, sinh tử đạt tới Niết Bàn.

Đến đây, về bố cục và dàn ý, ta có thể phác thành một lược đồ, đánh dấu bước tiến của nhận thức về Thiền: (Xem sơ đồ ).

A, B là hai cặp đối nghịch của câu 1 và câu 3, đồng thời cũng là những hiện tượng được nhận thấy. I, II là hai cặp đồng nhất được nói tới ở câu 2 và câu 4, đồng thời cũng là bản chất của các hiện tượng được nhận thức ở hai mức độ khác nhau: cảm tính lý tính.

Với cặp đối nghịch A là nước/bóng, thực ảo lồng vào nhau. Cái thực có tính ảo, cái ảo lại có tính thực. Cái thực (nước) đựng cái ảo (đóa hồng) Thực, ảo cũng là hữu, vô dẫn ta đến nhận thức cặp I đồng nhất Bụt = lòng do cái thực nhìn thấy tác động trên cái ảo. Có thể nói cặp đồng nhất I là kết quả của cặp đối nghịch A. Bụt lòng chỉ là nhận thức cảm tính, chưa phải là chân lý được nhận thức tự giác. Cần có một biến đổi về chất.

Tới cặp đối nghịch B giữa quá khứ/hiện tại, thì sự phân biệt đã trở nên rõ ràng, thực ảo không lồng vào nhau nữa. Từ đó dẫn đến sự đốn ngộ ở cặp đồng nhất II: sắc = không. Thực (hữu), ảo (vô) và sắc, không là đồng nhất và là chân lý được nhận thức do sự đốn ngộ là kết quả của cặp đối nghịc/B.

Bụt - lòng, sắc - không là những cặp đồng nhất và đều là bản chất theo giáo lý Thiền gia, và đồng thời cũng là điều tác giả muốn trao gửi.

Tư tưởng Thiền gia còn được ghi lại trong nhiều bài thơ khác của ông. Trong thơ chữ Hán, ta có thể đọc được:

Đáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn (Thu dạ lữ cảm)
(Cuối cùng muôn việc đều hư ảo,
Thời đừng bàn chuyện Phàm mất với Sở còn)
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao
(Lâm cảng dạ bạc)

(Danh hão để ngoài lòng, thân là ảo ảnh,
Đời phù sinh trong giấc mộng việc đáng quăng đi)
Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư,
Giác lai vạn sự tổng thành hư
(Ngẫu thuật)

Đời người là cái thừa của một giấc mộng kê vàng,
Tỉnh ra muôn việc đều thành công cả)

Và, đây trong Quốc âm thi tập:

Đành hay thương hải đòi thì biến,
Đã biết nhân gian mọi sự không

(Thuật hứng)

Tào Khê rửa ngàn tầm suối,
Sạch chẳng còn một chút phàm

(Thuật hứng)

Uổng sinh lẩn thẩn mỗ già,
Mọi sự đều nên thuấn nhược đa

(Tự thán)

Ngoài ra, trong số 105 bài thơ chữ Hán có ngót 10 bài có liên quan đến Thiền, nào là: Tiên Du tự, Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự, Đề Ngọc Thanh quán, Đề Đông Sơn tự, Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn, Đề Nam Hoa thiền phòng… Đâu cũng nói lên quan hệ mật thiết của ông với tư tưởng Thiền gia.

Tư tưởng Thiền gia có nhiều lý thuyết về nhiều mặt. Bài Mộc cận đã trình bày và dẫn dắt người đạt đến thuyết sắc không là thuyết quan trọng nhất có tính chất khai trí, mở cửa cho ta đi vào tư tưởng triết học Thiền gia. Sắc không là lý thuyết phủ nhận sự hiện hữu của mọi vật trên thế gian, kể cả cái ta, con người của ta.

Lý thuyết Thiền gia về phương diện triết học cũng như về phương diện tôn giáo, là một lý thuyết độc nhất trong lịch sử đã phủ nhận sự hiện diện của một linh hồn - Ngã hay Atman. Theo giáo lý đó, ý tưởng về ngã là một niềm tin tưởng sai lạc, không có trong thực tại, và nó phát sinh những tin tưởng tai hại về tôi và của tôi, dục vọng, ích kỷ, vị ngã,… Nó là nguồn gốc của mọi rối ren trong đời. Từ sắc không đi đến lý thuyết vô ngã là kết quả tự nhiên, hay là hệ luận về sự phân tích ngũ uẩn và giáo lý duyên khởi mà vô minh là yếu tố đầu tiên.

Nhiều bài thơ khác của ông có nói đến hư huyễn, ảo ảnh, hư không, thuấn nhược đa,… là nhằm vào thuyết sắc không đó. Trong một bài tới, chúng ta sẽ phân tích, tìm hiểu Côn Sơn ca Bình Ngô đại cáo.

TB

LỊCH, LỊCH SỬ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ CHIẾN TRANH

NGUYỄN THƯỜNG

1. ÂM DƯƠNG LỊCH

Trong âm dương lịch hiện nay còn dùng các tên năm bằng cách ghép hai vòng tuần hoàn Thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý với Địa chi: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Khi có dịp tiếp xúc với di sản văn hóa truyền thống trong dân dã và trong sách vở, chúng tôi còn thấy nhắc đến chu kỳ 3 năm và 4 năm.

Trong từ điển thiên văn(1) có các số liệu sau: năm xuân phân có 365 ngày 5 giờ 48 phút 2,8 giây. Tháng cận điểm có 27,5546 ngày. Tháng giao hội có 29 ngày 12 giờ 44 phút 2,8 giây. Chu kỳ vết đen trên mặt trời là 10 năm 9 tháng(2). Vì 3 năm xuân phân chỉ hơn 37 tháng giao hội 3 ngày (3 ngày = 29,5/10 ngày) nên 3 năm xuân phân là chu kỳ chung của 2 biến động này. Nói khác đi, ta có chu kỳ 3 năm. 4 năm xuân phân chỉ hơn 53 tháng cận điểm chưa đầy 1 ngày 14 giờ (27,5546/10 ngày) nên 4 năm xuân phân cũng là chu kỳ chung của chúng.

Tổ hợp hai chu kỳ 3 năm và 4 năm, ta có chu kỳ 12 năm (thập nhị địa chi). Nếu bỏ qua 9 tháng trong chu kỳ 10 năm 9 tháng, chúng ta có chu kỳ thập thiên can (10 năm).

Tuy vậy xem xét kỹ, chúng tôi thấy cần phải sửa đổi đôi chút. Thực tế tháng giao hội thể hiện khá rõ ở nhiều hiện tượng vật lý và hiện tượng sinh học, nhưng sai số lại hơi lớn (3 ngày 25,5/10 ngày).

Nguồn gốc của các hiện tượng địa triều, thủy triều, khí triều, v.v… là do trường trọng lực của trái đất thay đổi(3). Gây ra trường trọng lực trên trái đất bao gồm mặt trăng, mặt trời cùng với các thiên thể khác. Nhưng các tháng vừa nêu ra chỉ chú ý tới tác dụng của mặt trăng, mặt trời mà bỏ qua tác dụng của cả phần vũ trụ mênh mông còn lại xung quanh trái đất. Để phù hợp với chu kỳ 3 năm, chúng tôi giả định rằng có một tháng nữa đặt tên là tháng trường trọng lực (hay gọi tắt là tháng trọng lực).

Trường trọng lực này được gây bởi toàn vũ trụ đến trái đất (chứ không phải chỉ có mặt trăng, mặt trời). Tháng trường trọng lực cùng với năm xuân phân tạo nên chu kỳ năm xuân phân. Để phù hợp với quy luật chung đó (sai số không lớn hơn 1/10) tháng trường trọng lực có độ dài 29 ngày (12 + 2) giờ 44 phút 28 giây. Trong Hội nghị hóa sinh phục vụ sản xuất và đời sống toàn quốc lần thứ nhất, các tác giả Nguyễn Cân, Vũ Thục Nga,…(4) cho biết chiều dài trung bình của vòng kinh phụ nữ Việt Nam là 29,68 ± 2,2 ngày (số trung bình hơn tháng giao hội đúng 2 giờ). Như vậy có thể cho rằng tháng các hiện tượng sinh học bằng tháng trường trọng lực.

2. THẬP NHỊ ĐỊA CHI

Các tên Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi bản thân nó đã gợi ý chúng ta một cách suy nghĩ cụ thể. Năm “Tý” là năm con chuột, năm “Sửu là năm con trâu. Chẳng hạn có thể hiểu là vào những năm Sửu, loài trâu sinh sản mạnh nhất hoặc chết nhiều nhất (loài trâu khi sống hoang dã)…

3. THẬP THIÊN CAN

Trong âm dương lịch lấy thập thiên can là 10 năm. Trong từ điển thiên văn ghi 11 năm. Trong bài giảng thiên văn của Nguyễn Viết Trinh cho biết chu kỳ vết đen trên mặt trời là 10 năm 9 tháng. Trong báo Quân đội nhân dân số ra ngày 19/5/1973(5) cho biết năm sinh, năm nắm quyền (1804), năm đánh Viên, năm đánh Nga, năm thua của Napôlêông và Hítle đều cách nhau 129 năm. Con số 129 năm lại là bội số chung (chia hết) nhỏ nhất của các chu kỳ 1 năm, 3 năm và 10 năm 9 tháng. Như vậy có thể tin rằng con số thực của chu kỳ vết đen trên mặt trời là 10 năm 9 tháng. Con số 10 hay 11 năm là hai cách làm tròn của chu kỳ này. Bội số chung nhỏ nhất của chu kỳ 1 năm, 4 năm, 10 năm 9 tháng là 171 năm. Bội số chung nhỏ nhất của cả 4 chu kỳ 1 năm, 3 năm, 4 năm, 10 năm 9 tháng là 516 năm. Người xưa thường nói đến một khoảng thời gian 500 năm có lẽ có nguồn gốc từ chu kỳ này.

Chẳng hạn, Tư Mã Thiên viết: “cha tôi nói: sau khi Chu Công mất được 500 năm thì Khổng Tử ra đời. Khổng Tử ra đời đến nay đã được 500 năm. Nếu có kẻ nối nghiệp soi sách đời… thì là lúc này đây”(6).

4. NGHĨA CỦA CÁC TỪ TRONG THẬP THIÊN CAN

Trong báo Hà Nội mới số ra ngày 24-6-1990, Tiến sĩ y khoa Hoàng Tuấn viết: “Thuyết lý số là một học thuyết triết học uyên bác được xây dựng và phát triển từ đời cổ đại”. “Người xưa cho bản chất thế giới vật chất là các con số”. “Nó biến hóa kỳ ảo như chính các con số theo những nguyên lý thống nhất”. “Thuyết nhị ngũ: nó là một mô hình sinh toán học cổ đại”. “Từ sự sắp xếp hình Hà đồ - Lạc thư” trong Kinh Dịch, đến sự sắp xếp Tứ tượng, Bát quái, cho đến các mô hình để tính thời tiết 4 mùa, tính âm dương lịch, các mô hình lý thuyết vận khí, các mô hình ứng dụng trong y học cổ truyền đều theo sự sắp xếp biến hóa của 12 con số đầu tiên. “Cho đến ngày nay người ta vẫn chưa hiểu tại sao cũng chính những con số đó chi phối những quy luật cơ bản trong vật lý học”(7).

Trong Chống Đuyrinh, Angghen viết: “Nguyên tắc (quy tắc, định luật, định lí, quy luật,…) không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và lịch sử loài người, mà là được rút ra từ giới tự nhiên và lịch sử loài người; không phải giới tự nhiên và loài người thích ứng với nguyên tắc, mà tóm lại nguyên tắc chỉ đúng nếu nó phù hợp với tự nhiên và lịch sử (…) Cũng như các khoa học khác, toán học sinh ra từ nhu cầu thực tiễn của con người (…) từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí”(8).

Ông Đoàn Thanh Bình viết: “Thời thượng cổ ở Trung Quốc chưa có chữ viết, Phục Hy đã đặt ra một thứ chữ riêng để ghi 8 quẻ ấy gọi là bát quái (…). Đi vào Kinh Dịch, thuyết âm dương đã hoàn toàn biến thành thần bí”(9). Có lẽ ông Đoàn Thanh Bình chưa hiểu Kinh Dịch chăng. Khổng Tử phải là người có tư tưởng thần bí; những đoạn tác giả trích từ Kinh Dịch hoàn toàn có thể hiểu được và bản thân Khổng Tử đã từng nói: “Thánh nhân không bàn chuyện quỷ thần quái dị”(10).

Chúng tôi đã cố gắng tìm một hệ ngữ nghĩa phù hợp với bộ can; nhưng một thời gian dài đã lúng túng. Sự lúng túng đã đẩy chúng tôi đến giả thiết cho rằng bộ can vốn không ra đời ở lục địa Trung Quốc, mà ra đời ở Việt Nam hoặc Mông Cổ. Bởi vậy, khi truyền đến Trung Quốc, ghi vào lịch sử, thì mất nghĩa của nó. Những trang viết của các tác giả trên đã cho chúng tôi một ý nghĩa mới. Có thể bản thân bộ can có nghĩa gốc chỉ là số thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10.

Trong Cơ sử ngữ văn Hán Nôm viết:

“Giáp - Chữ đứng đầu thiên can;

Ất - Hàng thứ hai trong thiên can.

Quý - Thứ 10 trong thập can”(11)

Các con số có hai cách ra đời:

- Con người và loài người đưa ra hệ đếm thập phân khi họ ở trạng thái vô thức, điên khùng và chỉ đưa ra một lần là xong (nhất thành bất biến). Nhưng bản thân con người là một bộ phận của vũ trụ. Con người được tạo thành bằng những nguyên tử, phân tử của giới tự nhiên. Con người “nghĩ ra” (không do gợi ý từ bên ngoài) các con số cũng như giới tự nhiên sinh ra con người. Bởi vậy hệ đếm thập phân là một câu đố huyền bí không thể hiểu nổi.

- Vũ trụ xung quanh con người có chu kỳ 10 năm. Chu kỳ này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của họ, nên nó là nguồn gốc của hệ đếm thập phân(12). Chúng tôi thiên về khả năng thứ 2.

Ý nghĩa của các con số quả là kỳ bí. Nói là hiểu một bài viết, một câu nói, một phép tính nào đó có nghĩa là chúng ta biết bài viết, câu nói, phép tính ấy mô tả, chỉ ra, đề cập đến một hiện thực nào. Các môn khoa học nói chung đều nhằm mô tả, tìm hiểu từng hiện tượng tự nhiên, xã hội một cách trọn vẹn. Còn toán học (cả ngôn ngữ học và triết học cũng có tính chất tương tự) thường không mô tả một hiện tượng nào nguyên vẹn, nhưng mô tả bất kỳ một hiện tượng nào, người ta cũng có thể dùng toán học. Các phép tính nhiều khi có vai trò như một từ, chữ trong ngôn ngữ học. Từ chữ đó có thể mô tả bất kỳ một cái gì tùy theo ý định của người dùng. Thí dụ từ “ăn” có thể có các chữ nghĩa cụ thể khác nhau trong các trường hợp: ăn ở, ăn uống, ăn chơi, ăn kép, ăn hồ, ăn chứng từ, ăn của đút v.v… Phép cộng đơn giản như 1 + 1 = 2 cũng có thể là 2 người, 2 vật, 2 quả, 2 tang lễ, 2 đám cưới, cho vay 2 đồng, nợ 2 đồng v.v… chính vì nó có mặt trong rất nhiều hiện thực khác nhau cho nên đôi khi chúng ta không biết nghĩa của nó. Bây giờ người ta vẫn nói, thầy tướng số, lấy lá số, số mệnh, số kiếp, số phận, số giàu nghèo, số sung sướng, số bất hạnh, số cô đơn v.v… Phải chẳng đây là mọt trong những lý do làm cho thuyết lý số trở thành “kì bí”?

5. LỊCH VÀ LỊCH SỬ

Từ nhỏ đến lớn chúng ta có các chu kỳ:

- Tháng cận điểm.

- Tháng trường trọng lực.

- Năm xuân phân.

- Chu kì vết đen trên mặt trời là 10 năm 9 tháng.

Mặt trăng là vệ tinh của trái đất. Cả 3 hiện tượng tháng cận điểm, tháng trường trọng lực, năm xuân phân đều là những hiện tượng xảy ra trên trái đất. Sự kết hợp của 3 hiện tượng này dẫn tới chu kỳ 4 năm, 3 năm, 12 năm (âm dương lịch gọi là thập nhị địa chi). Riêng chu kỳ vết đen trên mặt trời xảy ra trên mặt trời rồi sau đó mới ảnh hưởng đến trái đất. Âm dương lịch gọi là thập thiên can. Có lẽ ngữ nghĩa như thế này là rõ ràng. Chu kỳ 10 năm 9 tháng làm tròn là 10 năm còn được xây dựng từ Nhị ngũ(13). “Ngũ” ở đây là ngũ hành. Một số sách viết ngũ hành là 5 nguồn gốc, 5 tồn tại cơ bản “nguyên thủy” của vật chất có lẽ là không đúng. Có thể phải hiểu là 5 cách bộc lộ, 5 cách thể hiện của giới tự nhiên. Sự kết hợp giữa chu kỳ 10 năm 9 tháng và chu kỳ 1 năm là 43 năm, 86 năm, 129 năm, 172 năm v.v… các chu kỳ này thể hiện thiên can.

Nhưng đời mỗi con người chỉ nằm trong khoảng từ 1 đến 2 chu kỳ 43 năm (43 năm, 86 năm) nên ảnh hưởng của thiên can không rõ bằng địa chi. Con người là một “vật sở hữu” của trái đất. Khác với mỗi con người, lịch sử loài người lại rất dài, khi xem xét lịch sử, chúng ta cần tìm hiểu cả thiên can và địa chi. Thậm chí thiên can giữ vai trò chính. Lịch sử loài người có thể nên chia thành những khoảng 516 năm hoặc 129 năm. Ảnh hưởng của chu kỳ 4 năm là yếu nên chu kỳ 172 năm nên xem là chu kỳ đứng hàng thứ 3. Nhìn nhận vũ trụ như một thể thống nhất, chúng ta xem lịch sử loài người như một phương tiện thể hiện của vũ trụ và mỗi con người như một phương tiện thể hiện của lịch sử loài người. Nếu chọn năm 1935 làm chuẩn thì điểm đầu công nguyên nên lấy là năm 129 trước công nguyên. Còn nếu chọn năm 1806 làm chuẩn, đầu công nguyên sẽ phải chọn là năm 258 trước công nguyên. Chúng tôi kiểm tra hai chuẩn này trong lịch sử(14). Xem biểu:

Năm tính Sử Việt Nam Sử Trung Quốc
- 2322
- 2193
- Nhà Hạ khoảng từ thế kỷ 21 TCN đến thế kỷ XVI TCN (500 năm).
- 1806
- 1677
- Nhà Thương khoảng từ thế kỷ XVI TCN đến thế kỷ XX TCN (500 năm).
- 774
- 645
- 770 bắt đầu thời Đông Chu.
- Khoảng năm - 656 Tề Hoàn Công xưng bá (Ngũ bá Tề, Tấn, Sở, Ngô, Việt) -
- 258


- 129
257 - 202 Thục Phán An Dương Vương. Trống Đồng Đông Sơn. - 247 Tần Thủy Hoàng lên ngôi khi ấy đã có đất Ba, Thục, Hán, Trung, Việt, Uyển, Sính.
- 129 Thời Hán Vũ Đế (Hán -202 - + 220)
- 258

- 387
248 Khởi nghĩa Bà Triệu, 262 giết Thái thú và sứ Ngô. - 263 Tấn diệt Thục, 280 Tấn diệt Ngô.

- 383 Tiền Tấn đánh Đông Tấn, lính Tiền Tấn đông gấp 10 nhưng phản chiến nên Tiền Tấn thua.
- 774

- 903
766 - 791 Khởi nghĩa Phùng Hưng.
905 Khúc Thừa Dụ chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc
- 755 Loạn An Lộc Sơn (thời Đường) Hoàng Sào (880 - 884).
- 907 Đường tàn; Bắt đầu thời Ngũ Đại.
- 1290

- 1419
1285, 1288 Trần thắng Nguyên lần thứ 2 và 3.
1407 Minh xâm lược, 1417 Lê Lợi khởi nghĩa. 1428 giải phóng toàn quốc.
- 1279 Nguyên diệt Tống.

- 1403 - 1424 Minh Thành Tổ, chính quyền phong kiến tập trung cao độ nhất.
- 1436 - 1444 Thái Đát uy hiếp dữ dội Bắc Kinh.
- 1806
- 1935
1802 Bắt đầu triều Nguyễn (1789, Nguyễn Huệ với trận Đống Đa).

Bạn đọc hãy tự đánh giá, chúng tôi cho rằng bản niên biểu này phù hợp tốt. Cứ sau mỗi đoạn 516 năm, kinh tế mỗi bước lại đạt đến điểm cực thịnh, bắt đầu kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo. Nếu sự chuyển biến của kiến trúc thượng tầng là thường xuyên và kịp thời, thì xã hội được yên tĩnh tương đối. Nếu không có sự chuyển biến kịp thời, thì xã hội giữ được yên tĩnh tương đối. Nếu không có chuyển biến kịp thời, trong mỗi cộng đồng sẽ xảy ra nội chiến. Thời gian chuyển biến mạnh mẽ thường là 129 năm.

Mỗi nước có thay đổi về kinh tế, chính trị, nên quan hệ giữa các nước cũng thay đổi theo. Cuối các chu kỳ 516, năm thường xảy ra chiến tranh giữa các nước khác nhau. Nước nào có sự thích ứng tốt giữa kinh tế và chính trị sẽ giành được thắng lợi. Mỗi bước chuyển biến kinh tế cũng là một bước tiến bộ trong lĩnh vực đường sá và phương tiện giao thông vận tải. Các cuộc chiến tranh càng làm thay đổi mạnh hơn. Ngày xưa và ngày nay kỹ thuật và phương tiện giao thông quân sự vẫn phát triển ở vị trí hàng đầu. Chu kỳ 516 năm còn có thể là chu kỳ tiến bộ của cơ thể sinh học của con người. Tác dụng thường xuyên gây đột biến sinh học là dải sóng điện từ nằm trong vùng hồng ngoại và vùng vô tuyến gần hồng ngoại; dải sóng cực tím hoặc dải có bước sóng ngắn hơn không thấy nói tới.

6. LỊCH VIỆT NAM

Lịch là một ngành khoa học thực nghiệm. Xác định lịch là phép xác định thời gian chuẩn, rồi dùng thời gian chuẩn đó để đo các quá trình khác. Lịch sử là bản ghi một số chu kỳ của một số hiện tượng tự nhiên. Những hiện tượng này thường dễ quan sát và ổn định. Với quan niệm như vậy dân tộc nào cũng phải có lịch. Tùy theo trình độ kỹ thuật và mức độ phát triển kinh tế mà họ có được những chu kỳ cùng với những phép đo chuẩn xác tương ứng. Dù hình thức bản lịch là như thế nào (lịch Tây, Tầu hay Ả Rập), người đọc bản dịch đó cũng chỉ thấy những hiện tượng tự nhiên Việt Nam. Nên về nội dung chúng ta có thể khẳng định rằng người Việt Nam có lịch sử phát minh và sử dụng lịch của mình. Những bài hát truyền miệng:

“Mồng một lưỡi trai,
Mồng hai lá lúa”…
(Chỉ số thứ tự ngày trong tháng)

“Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà”…

(chỉ tháng thứ tự trong năm)

Và hệ đếm can chi chỉ thứ tự năm trong chu kỳ 60 năm có thể là tàn dư của một bản lịch cổ nào đó. Lịch này dựa vào hình dáng mặt trăng để xác định ngày trong tháng. Dựa vào sự ra hoa của cây cỏ để xác định năm trong 12 năm và 60 năm.

Sách Cương mục tiền biên của Kim Lý Tường chép rằng: “Năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu (khoảng 4000 năm trước công nguyên) Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần”. “Theo Thống chí của Trịnh Tiền về đời Đào Đường, con rùa sống đến 2000 năm, trên lưng có ghi văn khoa đẩu, ghi việc trời đất mở mang về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch”. “Đế Nghiêu nhà Đường sai Hy Thúc (trong Kinh Thư) giữ việc này suy trắc khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè… suy trắc cẩn thận để tháng trọng hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và vật”.

Sau này người Trung Quốc “lấy tiết đông chí làm tiết mở đầu cho tuế”.

Lịch gắn liền với thủy triều. Thủy triều lại gắn với canh tác nông nghiệp cổ (xưa đưa nước vào ruộng bằng thủy triều) và chiến tranh cổ.

Hà Nội ở vĩ độ 20o, Bắc Kinh ở vĩ độ 40o, do vậy thủy triều ở Bắc Kinh chỉ bằng khoảng ¾ thủy triều ở vĩ độ qua Hà Nội. Thủy triều mạnh, ảnh hưởng của thủy triều đến đời sống của người dân Việt Nam mạnh, nên người dân Việt Nam phải có hiểu biết về âm dương lịch sớm hơn người Trung Quốc. Những chiến thắng của Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo đều có sức của thủy triều. Những chiến thắng trên là những chiến thắng quyết định cả một giai đoạn lịch sử và quân giặc không chỉ thua một lần trên một vùng địa lý, chứng tỏ người dân Việt Nam hiểu biết thủy triều tường tận đến mức độ nào.

Nhiều người hiện nay vẫn còn chưa tin rằng người Việt Nam xưa đã làm được âm dương lịch. Chúng tôi nghĩ, hiểu biết chuyện mây nước để làm ruộng là việc làm hàng ngày hàng tháng và cả đời của mỗi người nông dân, là công việc của mỗi làng xã của cả nước. Ban phát lịch là việc của vua. Ngày xưa dân cư thưa thớt, phương tiện giao thông nghèo nàn, chậm chạp, thô sơ, đường sá ít và xấu, đa số cư dân mù chữ nên việc canh tác của mỗi gia đình, mỗi làng xã không thể chờ một quyển lịch được làm ra ở ngoài biên giới, cũng không thể chờ mọi thứ ở bản lịch của Nhà nước. Ngày xưa mỗi làng xã hoặc một cụm làng xã thường có thầy địa lý, thầy tướng số, thầy giáo, thầy tu, thầy thuốc,… Công việc thường xuyên của các ông thầy là xem ngày tốt xấu, xem tuổi vợ chồng, tuổi làm nhà, định hướng của một ngôi đình hoặc ngôi nhà thường, chiếm một góc chiếu ở đình trong các buổi hành lễ long trọng, đọc một bài văn tế thần linh hay người đã khuất, hòa giải một vài vụ xích mích trong làng xã về ruộng đất, hôn nhân hay danh dự. Những người này ít nhiều đều biết nhìn trời đoán thời tiết, thời vụ, dịch bệnh mà đứng về một khía cạnh nào đó có thể gọi là những nhà “thiên văn nghiệp dư”. Họ cần biết chút ít thiên văn để giúp đời, hành nghề, cũng để bịp đời khi rơi vào thế bí. Họ là những quyển lịch sống rất đa dạng đáp ứng một cách hữu hiệu nhu cầu của cư dân nông nghiệp. Bây giờ chúng ta nhìn thấy gì trên trời, ngày xưa họ cũng nhìn thấy cái đó như chúng ta, nhưng họ đông hơn và nhìn thiết thực hơn ngày nay.

Âm dương lịch ở Việt Nam có nhiều ưu điểm hơn dương lịch.

Hiện nay trên thế giới có 3 loại lịch: dương lịch, âm dương lịch và âm lịch. Mỗi loại lịch trên, có nơi sinh và đất sống riêng.

Ở Việt Nam từ rất xa xưa, âm dương lịch dùng để phục vụ sản xuất nông nghiệp và các mặt sinh hoạt xã hội. Nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và đời sống gắn liền với âm dương lịch. Nó như một bản tra cứu để những người làm ruộng tìm lại những kinh nghiệm của bản thân và ông cha. Nếu bỏ âm dương lịch, suy nghĩ của người nông dân Việt Nam sẽ mất một giá đỡ quen thuộc. Quá trình đi đến một bản âm dương lịch hiện đại là phức tạp, trong đó có sự đóng góp ban đầu của nhiều dân tộc và sự hoàn thiện thêm (cụ thể thêm, chi tiết thêm) cho mỗi hoàn cảnh địa lý trong suốt quá trình sử dụng âm dương lịch. So với âm dương lịch, dương lịch có nhiều điểm yếu khi sử dụng trên dải đất Việt Nam. Dương lịch chỉ chú ý đến mặt trời (dương: ánh sáng), ít chú ý tới mặt trăng (âm: nước). Khoa học ngày nay thừa nhận điều kiện tồn tại sự sống là nước, ánh sáng, không khí, nhiệt độ thích hợp. Dân ta cũng có câu: “nhất nước, nhì phân”. Với một vùng nông nghiệp, một năm hai vụ lúa, chú ý tưới nước hàng tháng là rất quan trọng (1 tháng 2 lần nguyệt triều, 1 ngày 2 lần nhật triều). Ngày nay chỉ có một số tỉnh đồng bằng chúng ta chủ động được việc tưới nước, còn các vùng địa lý khác vẫn phụ thuộc nặng nề vào thiên nhiên. Hơn nữa, muốn hiểu biết cây lúa, chúng ta phải hiểu biết lịch sử ra đời của nó gắn liền với quá trình canh tác cổ như thế nào. Đem áp dụng dương lịch vào làm nông nghiệp ở nước ta, có thể gặp nhiều khó khăn, vì dương lịch ra đời ở những nước Tây âu có băng tuyết. Những nước này có cường độ chiếu sáng của mặt trời yếu (ít nên quý) và cường độ chiếu sáng lại khống chế chu kỳ nước (chu kỳ băng tan). Động thực vật ở những nơi này có hiện tượng ngủ đông. Nông nghiệp ngày nay có lẽ nên tìm hiểu áp dụng âm dương lịch vào việc dự báo dài hạn về thời tiết, bão gió và khả năng nuôi trồng trên dải đất Việt Nam. Chúng ta đã đi qua một giai đoạn lãng quên quá dài. Chúng ta đã sống trong tâm lý phục ngoại quá lớn đến nỗi nhiều người quên cả chính mình, cứ tưởng mình phải vì một cái gì đó, mình là một cái gì đó từ bên ngoài ban phát. Đưa dương lịch vào Việt Nam là một việc cần thiết, nhưng bỏ âm dương lịch để dùng dương lịch thì rất cần xem xét lại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Từ điền thiên văn, Nxb. KHKT, H. 1983, tr.200, 270, 370, 249, 155.

(2) Bài giảng thiên văn, Phạm Viết Trinh, Nxb. GiáoDục, H. 1959.

(3) Đặc tính của các định luật vật lý của Risa Payman Nxb. KHKT, H. 1972, tr.13-15.

(4) Tóm tắt báo cáo hội nghị khoa học hóa sinh phục vụ sản xuất và đời sống lần thứ nhất, tr.11.

(5) Báo Quân đội nhân dân ra ngày 19-5-1973.

(6) Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb. Văn học, H. 1988, tr.25.

(7) Báo Hà Nội mới, ra ngày 24-6-1990.

(8) Chống Đuyrinh (Angghen), Nxb. Sự thật, H. 1971, tr.58.

(9) Tử vi với số phận con người, sở VHTT Hà Nam Ninh, 1990, tr.37.

(10) Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 2, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.431.

(11) Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập 1, Nxb. GiáoDục, H. 1984, tr.164, 153, 185.

(12) Thông tin Khoa học xã hội số 1 - 1986, tr.61.

(13) Tạp chí các khoa học về trái đất (3-8-1984).

(14) Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. KHKT, năm 1971, tr.68, 109, 110, 130, 136, 206, 211, 236, 240, 432, 369, 347.

(15) Niên biểu Việt Nam đối chiếu, Nxb. KHXH, H. 1970, tr.13.

(16) Bộ sử thế giới, gồm lịch sử thế giới Cổ đại, tập 1, 2. Trung đại, Q.1, tập 1, 2; Q.2, tập 1, 2; Cận đại, Q.1, tập 1, 2 và Hiện đại, Nxb. GiáoDục, H. 1962.

(17) Việt sử thông giám cương mục tiền biên, tập 1, Nxb. Sử học, tr.56, 57.

(18) Tạp chí GTVT và Bưu điện tháng 6 - 1990, tr.22-25.

(19) Tạp chí Y học thực hành số 2 (250), 1984, tr.46.

(20) Tạp chí Khảo cổ số 14, 1974. Bài của tác giả Bùi Huy Hồng.

(21) Quang hợp (Lêbêdep), Nxb. GiáoDục, H. 1965, tr.129, 130, 134, 141, 145.

(22) Giáo trình cổ văn, Tập II, phần 1, Cổ văn Trung Quốc, Nxb. GiáoDục, tr.26, 30.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU NGHỀ
GIẤY CỔ TRUYỀN

HOÀNG HỒNG CẨM

TỪ MỘT VÀI TÍN HIỆU TRONG SÁCH CỔ…

Phải nói ngay rằng, hiện nay chúng ta chưa đủ tài liệu chắc chắn để khảo sát nghề làm giấy cổ truyền ở Việt Nam. Tình trạng những nghề thủ công xưa kia được trân trọng đúng mức đã không lưu lại cho chúng ta nhiều chứng cứ về mặt lịch sử - ngay cả các nghề mộc, đồng, gốm, v.v… thì riêng với nghề giấy tư liệu lại càng mỏng manh hơn. Ở khá nhiều trường hợp một vài tín hiệu hoặc bằng truyền văn, hoặc được ghi chính thức bằng văn bản - có thể cho ta một ý niệm tự hào nào đó. Nhưng để khẳng định nên kết luận khoa học thì lại là điều phải dè dặt rất nhiều.

Chẳng hạn, cứ theo như những ghi chép của các học giả nước ngoài thì giấy đã có ở Việt Nam từ thế kỷ III sau công nguyên. Sách Nam phương thảo mộc trạng (quyển Trung) tác giả Kế Hàm đã nói đến một thứ giấy thơm của người Giao Chỉ làm bằng gỗ cây trầm. Ông cho biết: “Đó là thứ giấy mầu trắng, có vân như vảy cá, mùi rất thơm mà bỏ xuống nước cũng không nát”.

Ý kiến này, gần đây đã được Trần Tu Hòa chấp nhận. Trong cuốn: Trung Việt lưỡng quốc nhân dân đích hữu hảo quan hệ hòa văn hóa giao lưu (Bắc Kinh, 1957) ông đã nói rằng: “Vào thế kỷ III sau Công nguyên, người Việt Nam đã dùng gỗ mật hương làm một thứ giấy bản rất tốt gọi là giấy “Mật hương”. Loại giấy này, vào năm 284 đã được các thương nhân La Mã mua đến hàng vạn tờ.

Ngoài giấy Mật hương, còn có loại giấy tên gọi là Trắc lý. Sách Thập di ký của Vương Gia (thế kỷ IV) cho biết: người Việt Nam biết dùng rong rêu lấy ở dưới đáy biển để làm một thứ giấy gọi là giấy Trắc lý.

Những điều trên đây được ghi chép rõ ràng trong sách vở của người nước ngoài, đều là những tín hiệu có thể tin cậy. Song cho đến nay, chúng ta vẫn không có khả năng để biết được các loại giấy Mật hương, Trắc lý nói trên thực tế là như thế nào? Hình dáng, chất liệu và cách sản xuất các loại giấy ấy ra sao? Thời gian nào và là người ở châu, quận hay miền đất nào làm được? Rồi họ đã truyền nghề trong nước, đã cho lưu thông ra nước ngoài theo những cách thức gì, v.v… Đó là những điều chúng ta chưa thể khảo sát được.

Trên đây là những ghi chép của người nước ngoài. Còn ở trong nước, chúng ta cũng lượm lặt được một vài tín hiệu. Phái nói rằng: có lẽ nhà bác học Lê Quý Đôn gần như là người duy nhất quan tâm đến vấn đề. Trong bộ sách Vân Đài loại ngữ, rồi Phủ biên tạp lục, ông nhiều lần nhắc đến giấy và nghề giấy cổ truyền Việt Nam. Mặc dù chỉ là những ghi chép ngắn gọn, song có lượng thông tin quý báu.

Sau khi nhắc lại một số tri thức trong các sách Thiên tự văn, Hán thư, Đường thư, Lục điển, v.v… nói về sự xuất hiện giấy Ma chỉ, Võng chỉ, Cốc chỉ, Hách đề, v.v… ở Trung Quốc cùng với người có công đầu như Thái Luân (đời Hán Hòa Đế 89 - 105) Lê Quý Đôn nói đến nghề giấy ở Việt Nam. Ông đã đặc biệt chú ý đến nguyên liệu làm giấy các địa phương có truyền thống về nghề giấy. Thí dụ: “Nay nhân dân ở các trấn Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lương Sơn trồng nhiều cây đó. Giống dó dễ trồng, dễ lớn, hai năm thành cây, lấy được vỏ khá nhiều. Người ở đất Thụy Nguyên lại lấy vỏ cây thượng lục làm giấy (tục gọ là cây Niết), giấy làm ra trắng bạch, bền dai, thực là hạng giấy tốt nhất. Cây ấy hiếm, cho nên giấy đắt, một tờ một đồng. Người làng Quảng Đức lấy vỏ cây dó làm giấy thì dễ kiếm mà rẻ (Vân đài loại ngữ, Âm tự loại - điều 222).

Còn ở Phủ biên tạp lục ông ghi “Xã Đốc Sơ, huyện Hương Trà làm giấy hạng trung và hạng tiểu. Xưa có lệ nộp thuế, nghề giấy truyền đến thôn Trung Chỉ phủ Phú Yên, cũng nộp thuế hàng năm: giấy lớn 2500 tờ, giấy vừa 3200 tờ. Giấy trung và tiểu ở Xã Đốc Sơ, giấy vuông xã Vĩnh Xương đều làm bằng cỏ cây dó. Giấy lớn ở hai xã: Lộc Tuy và Đại Phúc ở huyện Lệ Thủy thì làm bằng vỏ cây niết, cũng bền và dầy, cùng với giấy lệnh của Thanh Hóa không khác. (phần Vật phẩm phong tục).

Lê Quý Đôn đã tỏ ra tự hào về loại giấy quý này của Việt Nam: “Trung Quốc chỉ biết có giấy Bạch thùy của Cao Ly mà không biết thứ giấy Thượng lục của An Nam”.

Điều đáng chú ý là trước Lê Quý Đôn, chưa thấy có những thông tin gì khác nữa về nghề làm giấy cổ truyền xét từ góc độ nghiên cứ… Đến những tín hiệu trong dân gian.

Tuy vậy vẫn có thể xem nghề làm giấy của ta là truyền thống lâu đời. Bằng những điều được lưu truyền trong dân gian có thể có cảm tưởng nghề giấy vẫn chiếm một vị trí nhất định trong tình cảm quần chúng qua nhiều thế hệ.

Chúng ta còn ghi chép được nhiều câu ca dao liên quan đến nghề giấy, gây ấn tượng đậm đà bền vững trong lòng người khi nhớ đến phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống thơ mộng ở kinh thành Thăng Long:

Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Nhịp chày ở đây chính là chầy giã dó. Nhịp chày ấy không chỉ đi vào ca dao mà còn được nhắc đến trong văn chương bác học. Bài phú Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng có nhắc đến:

Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng,
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.

Những câu ca dao làm bởi người trong nghề. Những chị thợ thủ công nghề giấy thủa xưa tuy vất vả nhưng vẫn yêu đời:

Người ta buôn vạn bán ngàn,
Em nay làm giấy cơ hàn vẫn vui.
Dám xin ai đó chớ cười,
Tay em làm giấy cho người viết thơ.

Cũng có khi là lời phàn nàn cho cuộc đời cơ cực:

Seo đêm rồi lại seo ngày
Đôi tay nhức buốt vì mày giấy ơi!

Hay:

Giã nay rồi lại giã mai
Đôi chân tê mỏi dó ơi vì mày!

Và có lúc là tiếng hát của tình yêu:
Nhịp chày giã dó nhặt thưa,
Đèn le lói sáng, lòng ngơ ngẩn buồn.
Nhớ ai mê mẩn tâm hồn,
Thương ai mong đợi mỏi mòn tháng năm.

v.v…

Tuy nhiên có cả câu chuyện về vị tổ sư nghề giấy. Sách Lược truyện thần tổ các ngành nghề của Vũ Ngọc Khánh, Nxb. KHXH, 1991, tr.77 chép: “Dân trong nghề, lấy ngày 16 tháng 3 Âm lịch để làm giỗ tổ, nhưng không có tài liệu nào cho biết tên họ vị tổ nghề là gì… Chỉ biết rằng, nơi ông đặt chân tới đầu tiên là làng Yên Hòa. Ông có ý định dạy nghề cho làng này, nhưng hình như đã xảy ra một điều gì không mãn ý, ông lẳng lặng bỏ đi. Người Yên Hòa mới chỉ nắm được cách làm loại giấy phất quạt thì không có điều kiện học thêm với ông nữa. Ông đã sang làng Hồ Khẩu rồi. Tại đây ông hướng dẫn cách làm giấy moi. Người dân biết tương đối thành thạo, ông lại chuyển sang làng Động Xã. Làng này được học cách làm giấy Quỳ, là thứ giấy để dát vàng quỳ… Tiếp đó ông tổ lại về ở làng Yên Thái. Ông ở đây khá lâu, truyền cho dân làng kỹ thuật làm giấy Lệnh, là loại giấy bản khổ tốt, triều đình phong kiến dùng để viết lệnh chỉ. Vì được ông ở lâu nên làng Yên Thái phát đạt về nghề này hơn cả… Cuối cùng ông sang làng Nghĩa Đô. Một người họ Lại đón ông rất trọng hậu, ông truyền cho nghề làm giấy sắc… Ngày 16 tháng 3 không phải là ngày Tổ mất mà là ngày Tổ từ biệt làng Nghĩa Đô ra đi”.

Cứ theo ký ức của nhiều địa phương thì những dạng truyền thuyết như trên đây có ở nhiều nơi. Cũng có nơi có cả nhà thờ Tổ v.v… Song tiếc rằng các chi tiết không dồi dào hơn, nếu như không muốn nói là nghèo nàn, lại khó có điều kiện thẩm tra. Hơn nữa qua những bằng sắc thần tích, thần phả ở các đền miếu thì đến nay chưa tìm ra được việc phong tặng công lao cho ông tổ nghề giấy.

NHÌN LẠI LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG NGHỀ GIẤY Ở VIỆT NAM

Dù sao, những tín hiệu trên đây, tuy có phần sơ sài và chưa có khả năng chứng minh một cách chặt chẽ, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng là: nghề giấy Việt Nam đã có truyền thống lâu đời. Nước ta là một nước văn hiến, có nhu cầu ghi chép từ lâu. Chúng ta lại cũng chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Từ những thế kỷ đầu công nguyên, việc truyền bá kinh Phật là điều không xa lạ gì với các vua chúa, thủ lĩnh và các môn đồ Phật tử. Nghề in cũng ra đời sớm. Sách Thiền uyển tập anh đã nhắc đến nhà sư Tín Học khắc ván in cho các nhà chùa (đời nhà Lý) và sau đó vài ba thế kỷ là những trung tâm nghề in mộc bản xuất hiện. Lược truyện thần tổ các nghề, sđd. tr.76 ghi: “Nghề khắc in ở nước ta có đã lâu, nhưng công lao cải tiến có chất lượng cao hơn là thuộc về Lương Như Hộc. Ông dạy nghề cho các thợ Hồng Lục, Liễu Chàng và sau nữa là Khuê Liễu. Từ đó vùng này trở thành trung tâm khắc ván của cả nước suốt mấy thế kỷ”. Như vậy ít ra cũng phải có giấy để phục vụ cho các trung tâm ấy.

Thật ra, nếu căn cứ vào một vài chi tiết khác được ghi chép trong sử sách và các bài viết của những nhà nghiên cứu sau này, chúng ta cũng có thể khẳng định về sự quyết đoán trên.

1. Sử có chép rằng: “Từ đời Lý Cao Tông (1176 - 1210) trong các cống vật Việt Nam gửi sang Trung Quốc, bên cạnh ngà voi, sừng tê, vàng, lụa còn có cả giấy tốt.

2. Cụ Hoa Bằng ở Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 133, năm 1970, có ghi: “Sau khi Lê Lợi đuổi giặc Minh, Nhà nước Lê sơ có phát triển nghề làm giấy bản, lập “Tạo chí cục” ở Quảng Đức phường để làm các loại giấy như giấy lệnh, giấy thị,…”.

3. Năm Giáp Dần (1734) đời Lê Thuận Tông, chúa Trịnh Giang đã sai in Tứ thư, Ngũ kinh kinh bằng các thứ giấy trong nước và ra lệnh cho sĩ tử và dân gian phải mua, dùng sách nội hóa.

4. Về những cơ sở làm giấy: điểm lại toàn bộ những chi tiết mà Lê Quý Đôn đã ghi chép cùng với tài liệu dân gian có thể ghi nhân về một số vùng làm giấy (ít nhất từ thế kỷ XII lại đây). Đó là vùng ngoại thành, phía tây thành Thăng Long, cụm Cầu Giấy - Bưởi:

Làng Yên Hòa: làm giấy Thô.

Làng Hồ Khẩu: làm giấy Moi.

Làng Động Xã: làm giấy Quỳ.

Làng Yên Thái: làm giấy Lệnh.

Thôn Trung Nhã, xã Nghĩa Đô làm giấy sắc (còn gọi là giấy nghè).

Vùng giấy gồm các làng ở Kinh Bắc tạm gọi là cụm Kinh Bắc:

Làng Xuân Ổ (làng Ó) huyện Tiên Sơn

Làng Ném Tiền

Làng Đào Thôn

Làng Dương Ổ huyện Yên Phong

Làng Châm Khê

Cụm làng giấy này ít nhiều có mối quan hệ mật thiết nhất định với cụm cầu Giấy - Bưởi. Nhưng theo sự điều tra gần đây của Ty Văn hóa Hà Bắc thì từ phương thức và khuôn khổ của tờ giấy đều khác với cụm Cầu Giấy - Bưởi. Ngoài các loại giấy cơ bản, ở vùng này đặc biệt còn làm được loại giấy bằng vỏ dâu để in tranh dân gian gọi là giấy Điệp.

Vùng Thanh Hóa có làng Mai Chử (gọi là làng Mơ) ở huyện Đông Sơn làm giấy bản.

Vùng Nghệ An Hà Tĩnh, tài liệu về vùng này không ghi rõ là địa điểm nào mà chỉ nói: “vùng Nghệ An - Hà Tĩnh xưa kia có một số phường thợ làm được giấy Nhũ tương, cầm tay thấy những hạt óng ánh màu bạc, màu vàng. Loại này thường dùng để ghi các câu đối quý và cũng có thời gian trở thành hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản” (Truyện các ngành nghề, Nxb. Lao động, 1977, tr.95).

Vùng Lệ Thủy, Quảng Bình có hai xã:

Lộc Tụy: 2 xã này đều sản xuất loại giấy

Đại Phú: lớn bằng vỏ cây Miết.

Vùng Thừa Thiên lại có 2 xã của huyện Hương Trà

Đốc Cơ Vĩnh Xương: Cơ sở này làm giấy bẳng vỏ cây dó.

* Ngoài ra, còn có một số cơ sở, như: Thôn Trung Chỉ, phủ Phú Yên và Thanh Hóa làm giấy lệnh (Phủ biên tập lục, tr.325).

VÀI GHI NHẬN ĐỂ TÌM HIỂU THÊM VỀ NGHỀ GIẤY CỔ TRUYỀN

1. Các loại giấy cổ truyền ở Việt Nam

Tạm dùng thuật ngữ giấy cổ truyền để chỉ vào các thứ giấy do người thợ thủ công Việt Nam sản xuất khi chưa tiếp xúc với kỹ thuật Phương tây. Chúng tôi sẽ không nói tới các loại giấy mới được sản xuất ở Đáp Cầu, Lam Sơn, Đức Thọ trước và sau Cách mạng tháng 8… và các loại giấy Tân Mai, Vĩnh Trụ, Bãi Bằng ngày nay. Chúng tôi chỉ nói đến những loại giấy được sử dụng khi việc học theo Nho học còn thịnh hành. Có thể kể:

+ Giấy Bản: dùng in sách và viết (loại giấy cơ bản, dùng phần vỏ trắng của vỏ cây).

+ Giấy Moi, giấy Phèn: loại này mặt thô ráp (do nguyên liệu xấu hơn, phần vỏ ngoài của vỏ cây, dùng để gói hàng).

+ Giấy Xuề: Loại dùng nguyên liệu bằng những “đầu mặt” (còn gọi là Xề, Xề là những mắt vỏ cây).

+ Giấy Thô: dùng phất quạt.

+ Giấy Quỳ: dùng để dát vàng quỳ (loại này chỉ sản xuất được ít vì nguyên liệu hiếm: đó là những cây niết mọc tự nhiên, còn gọi là cây dó chuột, loại cây mọc ở vùng đồi núi tốt hơn ở bờ biển”.

+ Giấy Lệnh: loại này khổ rộng, đẹp dùng để viết lệnh chỉ.

+ Giấy Nghè: loại giấy quý, trên nền có nổi lên lờ mờ hình rồng phun mây. Giấy này được giành riêng để viết sắc phong cho các quan lại và thần linh” (“Nghè” ở đây chỉ thao tác cuối cùng để hoàn thiện mặt hàng - khi giấy đã làm xong, lên màu còn phải dùng vồ đập vào giấy trải trên mặt đá. “Nghè” là một từ chuyên môn, vì vậy làng Nghĩa Đô có tên Nôm là làng Nghè).

+ Giấy Nhũ tương: loại này lại có thấy óng ánh những hạt màu vàng, màu bạc, thường dùng để ghi các câu đối hay có lúc giấy Nhũ tương là hàng xuất khẩu.

+ Giấy Mật hương: làm bằng gỗ trầm: mặt giấy màu trắng, có vân như vẩy cá, mùi rất thơm, bỏ xuống nước không nát.

+ Giấy Trắc lý: làm bằng rong rêu lấy ở dưới biển.

+ Giấy Điệp: làm bằng vỏ cây dâu để in tranh khắc gỗ dân gian.

Tất nhiên không phải cùng một lúc chúng ta có ngần ấy loại giấy, mà đây là cả một quá trình hình thành lâu dài.

Thí dụ: đầu tiên chỉ có thể là loại giấy thô sơ như giấy Moi, giấy Phèn dùng để gói, giấy Bản loại thường để viết.

Tiếp đến, do nhu cầu sử dụng ngày một cao, đòi hỏi ngày một khác (nhất là yêu cầu của Nhà nước phong kiến) nên nghề giấy phải vươn lên về mặt chất lượng với các loại giấy tốt, giấy quý như giấy Nghè, giấy Nhũ tương… để sử dụng làm các sắc phong, lệnh chỉ…

Đồng thời vẫn phải có những loại giấy để phục vụ các ngành nghề khác như nghề làm quạt, nghề dát vàng… Ở mỗi làng có nghề giấy, các nghệ nhân đã sản xuất ra một loại giấy đặc biệt, như giấy Điệp dùng cho các làng tranh: tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng…

Những loại giấy trên đến thời kỳ Nho học suy tàn thì sản xuất không còn thịnh vượng nữa, nhưng ở nông thôn loại giấy bản vẫn phổ biến. Các văn tự văn khế, hương ước, gia phả v.v… vẫn dùng đến giấy bản. Giấy dó lụa (loại mịn, mỏng, dai) vào những năm 40 của thế kỷ này đã trở thành thứ giấy quý, dùng in những loại sách đặc biệt quý.

2. Điểm qua những thao tác thủ công của một làng giấy chuyên nghiệp

Như trên đã nói, giấy cổ truyền Việt Nam đa dạng, phong phú. Hầu như mỗi làng nghề, mỗi phường nghề lại có thêm những nguyên liệu riêng để làm nên những sản phẩm riêng. Ở đây chúng tôi chỉ xin nói đến một phường cụ thể đã từng có những thời kỳ vàng son. Đó là làng nghề Yên Thái ở cụm Bưởi. Nhịp chày Yên Thái giã dó đã vào tình cảm dân gian và văn chương bác học. Nơi đây cũng đã có lúc làm ra giấy dó lụa tuyệt vời. Làng nghề này từ năm 1945 trờ về trước, chuyên sản xuất ra ba loại giấy:

+ Giấy Moi để gói hàng và làm vệ sinh nói chung.

+ Giấy Bản để viết và hút thuốc.

+ Giấy Quỳ để dát vàng.

Các nguyên liệu chính để làm giấy là các loại vỏ cây có sợi như: dó, bo, cảnh, dướng. Tuy nhiên mỗi thứ giấy có yêu cầu riêng như giấy Quỳ chỉ dùng bì cây dó chuột, còn gọi là cây Cảnh, một số địa phương gọi là niết (vì nó dai bền). Giấy sắc thì không được làm bằng loại cây khác với cây dó. Ngoài ra một số cây dang, nứa bông đều có thể làm được, nhưng cách chế biến khác, ở đây xin không nhắc đến.

Các công đoạn làm giấy được lần lượt thực hiện như sau đối với vỏ cây:

1. Ngâm nước trong (nước ao hồ) 1 ngày một đêm.

2. Rồi vớt lên ngâm sang nước vôi loãng trong hai ngày đêm.

3. Khi thử đủ nước vôi rồi, vớt lên để chảy bớt nước.

4. Hòa dung dịch vôi đặc, cho vỏ cây vào dầm đều cho vôi ngấm vào vỏ cây.

Thời gian 4 công đoạn này từ 3 đến 5 ngày tùy theo thời tiết nóng hay lạnh. Giai đoạn này rất quan trọng theo con mắt của người chuyên môn, nó sẽ quyết định cho lên lò nấu được kết quả tốt hay xấu.

5. Xếp lên lò nấu cách thủy đun trong một ngày rưỡi và ủ thêm hai ngày là chín (nếu người xếp lò kém thì hay bị sống lỏi, rất tác hại cho các công đoạn sau.

6. Dỡ nguyên liệu ở trong lò ra ngâm nước vôi loãng lần thứ hai.

7. Lột nguyên liệu làm hai phần, ruột để làm giấy tốt, vỏ để làm giấy xấu.

8. Vò vỏ cho hết đen, rồi dùng sàng rửa sạch vỏ.

9. Ngâm dầm riêng từng loại trong nước chua (nước bể thối) để cả hai loại đều ngâm nước và bột bổ để có thể nghiền được.

10. Dùng sàng rửa lại một lần nữa.

11. Đem giã thành bột. Đây là giai đoạn tinh chế quan trọng hơn. Chính ở đây mới nổi lên nhịp chày Yên Thái, cũng là khâu lao động nặng nhọc nhất: giã dó, làm cho vỏ cây phải nát nhuyễn ra như một thứ bùn loãng. Sau đó phối với các loại khác tùy theo yêu cầu chất lượng sản phẩm cần làm.

12. Dùng loại rá to, cho bột vào mang xuống nước đãi cho hết chất bẩn và nhất là chất nhựa của vỏ cây còn ở trong bột.

13. Cho bột vào “tàu seo”. (Bể nhỏ dài 1,2m, rộng 0,6m), dùng đòn tre đánh cho tơi bột rồi cho nhựa cây gỗ mò vào để hoàn thành dung dịch tráng giấy.

14. Dùng “liềm giấy” (gọi là liềm seo, là khuôn gỗ có căng thẳng một lớp lưới có mắt nhỏ hoặc mành nứa) tráng từng tờ giấy, xếp thành mới (gọi là uốn, đây là những tờ giấy ướt, xếp lên nhau, nên còn gọi là mớ uốn ướt. Seo là động tác dùng liềm seo nén dung dịch giấy để tạo thành giấy ướt.

15. Sáng hôm sau khi đã se bớt nước thì cho vào cần ép theo kiểu đòn bẩy để ép cho khô kiệt, rồi bóc từng tờ phết lên tường lò sấy để cho giấy khô và phẳng như đã dùng bàn là, ở đây gọi là can.

16. Công đoạn cuối cùng là lột các mè giấy đã khô ở trong lò, xếp từng tờ thành một tập, thành trăm. Nếu là giấy nghề thì còn phải giải từng xếp một (gồm vài chục tờ) lên tảng đá to phẳng rồi dùng chày nện cho kỹ thì giấy mới mịn mặt và bền. Giấy quỳ thì còn phải rang quỳ nhuộm là cả một nghệ thuật.

Tuy phải kết luận, nhưng chúng tôi thực sự chưa bằng lòng vì phần tư liệu còn quá sơ sài. Nghề giấy đã có truyền thống nhưng như vậy là không được phát đạt. Ngày nay, khi phát triển sang giai đoạn mới, nhiều nghệ nhân hâu như đã đi vào quên lãng, nhiều cơ sở sản xuất thất bại vì không theo kịp đà sản xuất. Để phù hợp với nhu cầu mới, phải chăng nghề giấy của ta cũng phải theo đà kỹ thuật của khoa học tiên tiến, và cải tiến, giảm bớt sự nặng nề vất vả cho người lao động. Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là không nên bỏ truyền thống của dân tộc. Lúc này cần nghiên cứu sâu hơn không những chỉ giữ gìn cho nghề giấy truyền thống khỏi bị mai một mà về một phương diện nào đấy còn có thể bổ sung kỹ thuật mới nữa, đưa lại năng suất cao, chất lượng tốt (giấy bền, đẹp), giảm sức lao động của người thợ mà giá thành của giấy không cao. Đây cũng là bài học quý cho các ngành nghề truyền thống, cần giữ được bản sắc dân tộc, như Nhật Bản (đã làm với nghề đan), Trung Quốc (đã làm với nghề dệt và gốm), v.v…(1)

CHÚ THÍCH

(1) Bài viết có tham khảo một số ý kiến của bác Đao Đinh Huy ? làng nghề Yên Thái. Nhân dây chúng tôi xin chân thành cảm ơn bác và gia dình.

TB

ĐỌC MỘT CUỐN SÁCH VỀ
PHAN VĂN TRỊ

CAO TỰ THANH

Sau Hội thảo khoa học về Phan Văn Trị tổ chức ở Hậu Giang (Tháng 11, 1985), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 1986 đã xuất bản cuốn Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân. Trước tiên, cần ghi nhận sự cố gắng của hai tác giả và cơ quan xuất bản trong việc góp phần tổng kết, nâng cao và phổ biến rộng rãi những kết quả của Hội thảo khoa học nói trên. Riêng về các tác giả, còn phải kể tới công sức trong việc sưu tầm, điều tra, xác minh một số tư liệu về Phan Văn Trị - cả tư liệu thành văn lẫn tư liệu truyền khẩu, cả ở Hậu Giang lẫn Thành phố Hồ Chí Minh.

Với hai phần chính: I. Phan Văn Trị nhà thơ yêu nước; và II. Thơ Phan Văn Trị, cuốn sách về đại thể đã có được một kết cấu hợp lý để giới thiệu, tổng kết những kết quả đã đạt được trong việc sưu tầm tư liệu và nghiên cứu về Phan Văn Trị. Tuy nhiên, do một số thiếu sót về cả kỹ thuật lẫn phương pháp, hai tác giả hình như không đạt được kết quả như dàn bài cuốn sách đặt ra. Nói khác đi, so với kết quả cụ thể được thể hiện trên quyển sách, dàn bài ấy giống như một cái áo rộng quá khổ người.

Trong phần I, hai tác giả đã chú ý sử dụng các ghi chép của Quốc triều hương khoa lục (QTHKL) do Cao Xuân Dục biên soạn làm cơ sở cho những khảo chứng của mình, như đã thực hiện trong các chú thích về Huỳnh Mẫn Đạt và Nguyễn Thông (tr.65), Trần Thiện Chánh (tr.66), Trương Hảo Hiệp (tr.76) v.v… Tuy nhiên đáng tiếc là các tác giả lại không tỏ ra thực sự làm chủ được tài liệu này. Người đọc ngạc nhiên vì thấy tác giả khi thì nói ở Gia Định trước sau có 21 khoa thi hương, khoa đầu tổ chức năm 1813, khoa cuối tổ chức năm 1870 (tr.36), lúc thì thấy nói có tới 22 khoa, khoa đầu tổ chức năm 1813, khoa cuối tổ chức năm 1866 ở An Giang (tr.50-51)? Thế nhưng theo con số tổng hợp của Nguyễn Khắc Thuần thì đều có 296 người đỗ Cử nhân! Thật ra chỉ có 20 khoa với 269 Hương cống - Cử nhân và khoa cuối tổ chức ở An Giang nhưng không phải vào năm 1866 hay 1870 mà là vào năm 1864 (Tự Đức 17, Giáp Tý). Tương tự, cũng không rõ chi tiết nói về cử nhân Trương Minh Giảng đỗ đầu khoa thi Hương trường Gia Định năm 1819 (tr.76) là căn cứ theo tài liệu nào? Nếu theo bản chụp vi phim QTHKL ở Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh mà tác giả Nguyễn Khắc Thuần sử dụng (tr.35 và 50) thì khoa này Trương Hảo Hiệp đỗ đầu, kế đến là Đặng Văn Nguyên, Đăng Văn Mô rồi mới tới Trương Minh Giảng, nghĩa là ông này đỗ thứ 4 (bản lược dịch QTHKL của tác giả Nguyễn Khắc Thuần nên chăng cũng cần hiệu đính đôi chút để có thể đưa vào sử dụng được tốt hơn?). Còn như trường hợp Cử nhân “Nguyễn Văn Hưng, người Phúc Yên” thi đỗ năm 1843 được nêu ra làm ví dụ về việc sĩ tử quê quán ở nơi khác (có nghĩa là ngoài vùng Nam bộ và Nam Trung Bộ) phụ thí ở trường Gia Định (tr.53) thì thật là một cái lầm rất lớn. Hai chữ Hán mà tác giả Nguyễn Khắc Thuần đọc là “Phúc Yên” - và cứ trong ý tứ này mà suy, có lẽ đã cho rằng đó là Phúc Yên ở miền Bắc (?). Thực ra hai chữ ấy lại không thể đọc và hiểu như vậy! Trước hết là vì vào năm 1843 ở miền bắc không có huyện Phúc Yên. Cũng lại là hai tác giả đã đọc bộ Đại Nam nhất thống chí, phần Lục tỉnh Nam Việt” do chính Cao Xuân Dục trực tiếp viết” (?) và khen ông này “hiểu biết rất sâu sắc về đất Nam Bộ” (tr.49) mà tại sao lại không để ý rằng tỉnh Biên Hòa trong Lục tỉnh Nam kỳ thời ấy có huyện Phước An ? Hơn thế nữa, QTHKL ghi rõ quê quán của Nguyễn Văn Hưng là “Phước An Hắc Lăng”. Trong khi đó, tác giả Nguyễn Khắc Thuần đã “tổng hợp từ các thư tịch cổ viết về đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ XI trở về trước” (tr.47) hẳn hoi, mà sao lại không đọc thấy trong Gia định thành thông chí, Cương vực chí của Trịnh Hoài Đức địa danh ấp Hắc Lăng thuộc tổng An Phú, huyện Phước An trấn Biên Hòa?

Những sai sót như vậy tuy không nhỏ nhưng cũng chưa thật sự là điều đáng nói. Điều đáng nói là chúng ta thấy mức độ thận trọng và khả năng làm chủ có hạn của hai tác giả khi sử dụng tài liệu “Có những ý nghĩa đặc biệt” (tr.49) này. Chính vì vậy nên mặc dù dựa vào QTHKL để phê bình được một thông tin sai lạc về quê quán của Phan Văn Trị, hai tác giả lại đưa ra cho người đọc một thông tin sai lạc khác. Mấy chữ ghi về quê quán của Phan Văn Trị “Vĩnh Long Bảo An Hưng Thạnh” đã được hiểu là “làng Hưng Thạnh tổng Bảo An (chúng tôi nhấn mạnh - CCT) tỉnh Vĩnh Long” (tr.51 và 53). Chưa rõ hai tác giả đã dựa trên bản đồ và tài liệu nào để xác định về “tổng Bảo An” (tr.53) và xác quyết rằng “ở tỉnh Gia Định lúc ấy không hề có tổng Bảo An mà chỉ có tỉnh Vĩnh Long mới có (tr.47). Nhưng quả thật là có một tổng Bảo An như vậy vào năm Phan Văn Trị thi đỗ đi chăng nữa thì đó cũng không phải là địa danh mà QTHKL chép: “Bảo An” đây là huyện Bảo An. Quê quán các hương cống - Cử nhân trong QTHKL chỉ được ghi tối đa là ba yếu tố tỉnh (trước 1832 là trấn), huyện và thôn hoàn toàn không ghi phủ và tổng.

Có lẽ vì từ một thiếu sót như vậy trong việc sử dụng tài liệu tham khảo, trong khi lại đề cập tới quá nhiều vấn đề, cho nên ở phần I, hai tác giả đã đưa ra không ít những nhận định có tính chất cảm tính, chủ quan. Những nhận định về Nguyễn Cư Trinh với nhóm Chiêu Anh Các, và tác phẩm của Bình Dương thi xã, về Mộng Mai đình thi thảo của Trương Hảo Hiệp (tr.75-76)… chẳng hạn, thuộc về loại này. “Tập thơ Mơ về chùa Cây Mai” chủ yếu là thơ đi sứ của Trương Hảo Hiệp - ngay cái tên gọi cũng đã cho thấy đây không phải là những bài thơ được sáng tác ở Gia Định rồi, nói chi đến tác dụng “nhen nhóm lại (!) những hoạt động văn học ở đây”. Hay như đoạn nhận định về sự chấm dứt của phong trào tỵ địa sau hòa ước 1862 ở Nam Kỳ “nó đã chấm dứt vào đúng lúc không nên kéo dài thêm. Nói khác hơn, những người phát động và tổ chức nên phong trào này đã nắm chắc tính quá độ và tạm thời của phong trào” (tr.67). Kể ra đây là một nhận định rất hiện đại, nhưng hai tác giả lại không đưa ra được một bằng chứng nào mặc dù là nhỏ nhất để chứng minh tính chất có tổ chức, có kế hoạch có người lãnh đạo của phong trào tỵ địa, nên người đọc đành phải bằng lòng với nhận định cũ, là phong trào này về cơ bản mang tính chất tự phát và không loại trừ được ý nghĩa cho rằng nó chấm dứt đúng lúc không thể kéo dài thêm.

Phải chăng vì thiếu tư liệu nhưng lại vội vã khái quát hóa nên hai tác giả đã đi đến một nhận định hết sức phi lịch sử sau đây về Phan Văn Trị. Tác giả viết: “Về mặt tư tưởng: qua thơ, Phan Văn Trị đã tỏ rõ là người có tầm nhận thức đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề có ý nghĩa mấu chốt của thời đại ông” (tr.77). Những vấn đề có ý nghĩa mấu chốt của thời đại Phan Văn Trị là gì ? Là mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và mâu thuẫn giữa đông đảo các tầng lớp nhân dân, trong đó chủ yếu là nông dân với giai cấp phong kiến thống trị phản động triều Nguyễn, những mâu thuẫn này chỉ tới Đảng Cộng sản Việt Nam dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới được nhận thức và giải quyết trọn vẹn. Thế nhưng giống Nguyễn Đình Chiểu mơ ước “Ngày nào trời đất an ngôi cũ, Mừng thấy non sông bặt gió tây” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp), Phan Văn Trị cũng chỉ dọa Tôn Thọ Tường là “Ba cõi may dầu in lại cũ, Đôi tròng trông đã thấy không ngươi” (Tự thuật, bài VIII), cũng chỉ mong mỏi “Bao thuở đem về cơ thống nhất, Ngàn thu bia tạc đấng trung trinh” (Cảm hoài, bài I), Nghĩa là cũng chỉ hướng về một đất nước độc lập thanh bình trong khuôn khổ phong kiến. Ở đây, trên phương diện ý thức chính trị, đúng là Phan Văn Trị đã nhận thức được một trong những vấn đề quan trọng của đất nước lúc bấy giờ đó là việc chiến hay hòa. Đấu tranh chống lại hay cam phận đầu hàng kẻ xâm lược và đã hướng về cách giải quyết tích cực nhất trong điều kiện xã hội và lịch sử lúc ấy. Còn việc nhận thức được những mâu thuẫn có ý nghĩa mấu chốt nhất của thời đại trên phương diện tư tưởng, thì lịch sử Việt Nam phải vượt qua Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,… mới tìm ra được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu trở lại với tiết Phan Văn Trị và thời đại của ông (tr.23-40), sẽ dễ dàng hiểu được vì sao hai tác giả lại mắc phải sai lầm nói trên. Dường như có thể chép nguyên văn nhiều đoạn trong tiết này để viết về Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Hữu Huân, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa…! Thời đại của Phan Văn Trị với những biến cố của nó có tác động đến hành tàng, tư tưởng tình cảm của ông như thế nào, đã góp phần quy định phương pháp nhận thức, thái độ ứng xử của ông cụ thể ra sao… là những vấn đề mà hai tác giả hầu như không đề cập đến.

Trong phần II, hai tác giả giới thiệu 14 tài liệu chủ yếu để làm công tác khảo dị văn bản (tr.90-91). Con số này nói lên công sức của hai tác giả trong quá trình làm việc, nhưng đáng lưu ý là trong đó chỉ có một tài liệu chữ Nôm (bản ký hiệu N), còn trong 13 tài liệu chữ Quốc ngữ la tinh thì có đến 7 tài liệu được xuất bản sau năm 1945, giá trị văn bản có nhiều điểm cần bàn thêm. Những tài liệu như Cours de littérature Annamite của Trương Vĩnh Ký (in thạch bản 1889), Thi phú văn từ của Võ Sâm (xuất bản năm 1912), Việt âm văn uyển của Lê Sum (xuất bản 1919)… gần với thời Phan Văn Trị hơn thì lại không được sử dụng. Có lẽ vì vậy mà không lạ gì nếu phần văn bản các bài thơ trong quyển sách vẫn chuyển tải một số sai lầm của nhiều tài liệu trước nay đến người đọc. Chẳng hạn câu thơ Phan Văn Trị “Ở Hớn đành lòng phò lợn Hớn” (Cảm hoài, bài II, tr.106). Chúng tôi đã có dịp đọc ba văn bản chữ Nôm khác nhau của tác phẩm này, thì thấy chỉ có một bản chép chữ “lợn” là khuyển + lận, còn hai bản kia đều chép là trùng + lận, theo cả chữ lẫn nghĩa đều phải đọc là “rắn” - “rắn Hán”, có lẽ đúng hơn “heo Hán” vì phù hợp với tích Lưu Bang chém rắn trắng, sau đó diệt Tần phá Sở lập ra nhà Hán hơn? Tương tự câu thơ của Tôn Thọ Tường “Hiu hắt tro tàn nền đạo nghĩa” (Tự thuật, bài III, tr.128), nếu tác giả tham khảo văn bản trong Cours littérature Annamite của Trương Vĩnh Ký thì sẽ thay được hai chữ “nghi ngút” bằng hai chữ “Hui hút”, vừa gợi cảm vừa chính xác hơn so với hai chữ “Hiu hắt” vốn thích hợp với “gió” hơn là với “tro”… Bên cạnh đó, người ta cũng thấy hai tác giả dường như không có một nguyên tắc xử lý văn bản nhất quán, bằng chứng là lúc thì thừa nhận các đặc điểm ngữ âm địa phương đã ảnh hưởng tới thơ văn tiếng Việt ở Nam Bộ, như trong việc xướng họa bài Tự thuật IX:

Kể mấy mươi năm nước lễ văn
(Tôn Thọ Tường, tr.143)

Một đôi mươi uổng tính xăng văng
(Phan Văn Trị, tr.144)

Có khi lại không thừa nhận nên đã xử lý một cách gượng ép, sai lầm như trong bài Tự thuật IV:

Vào sông đánh cá há rằng oan
(Tôn Thọ Tường tr.131)

Một nhà danh giáo xáo tan oan
(Phan Văn Trị, tr.132)

Trái trời án nọ chẳng còn oan
(Bài học 4B, tr.133)

Đúng ra ba chữ “oan” trên đây theo thứ tự phải là ngoan, hoang, oan: phần đông người Nam Bộ trước đây thường đọc các từ hoan, hoang, oan, oang, ngoan, quan, quang ra một tiếng mài mại như “quang” duy nhất. Cách họa vần (và cả gieo vần) như trên vì vậy tuy không đúng với hệ thống âm chuẩn nhưng lại là một đặc điểm thực sự tồn tại trong thơ văn tiếng Việt ở địa phương.

Mặt khác, nếu như phần I, tự liệu chính của hai tác giả là QTHKL, thì trong phần II, tư liệu chính của tác giả là bản Nôm có chép bài Từ Thứ quy Tào và 10 bài liên hoàn họa Tôn Thọ Tường, được gọi là “mười bài họa B”, chúng tôi đã có dịp được đọc bản gốc của tài liệu đã được tác giả giới thiệu (tr.88). Đó là tập Thi văn hợp tập của gia đình Nguyễn Đình ở Bến Tre, hiện do chị Âu Dương Thị Yến cất giữ (anh Nguyễn Văn Y đã sao được tài liệu này trước 1975, và Tổ Cổ cận Ban Văn học Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh cũng sao được tài liệu này vào năm 1981).

Trước hết, có thể thấy ngay rằng hai tác giả đã tỏ ra nghiêm túc và thận trọng trong việc công bố tư liệu mới. Bài Từ Thứ quy Tào được giới thiệu là “không đề tên tác giả” và “chưa thấy chép ra ở sách Quốc ngữ” (tr.115-116) chẳng hạn, thật ra được chú rõ là “Tú tài Trọng Phủ (tức Nguyễn Đình Chiểu - CTT) soạn”. Và ít nhất cũng đã được Tổ Cổ cận Ban Văn học công bố cách đây 4 năm trong Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu (Ty Văn hóa thông tin Bến Tre xuất bản, 1982, tr.205). Ngoài ra hai tác giả còn phiên âm sai ba chữ khiến bài thơ có thêm một dị bản khá tối nghĩa: Quày ngựa phiên là “què ngựa” (câu 5), Vin rồng phiên là “Vênh rồng” (câu 6), vậy cũng cao phiên là “chẳng cũng cao” (câu 8)! Hiện tượng này cũng xảy ra ở mười bài họa B”: Bể ngàn phiên là “Phá ngần” (câu 3 bài I, tr.125), hán thực phiên là “hẳn thực” (câu 1, bài III, tr.130), Chống hầm phiên là “Chống cầu” (câu 4 bài V, tr.136), Ứa gan phiên là “ứ gan” (câu 5, bài VII, tr.140), Giựt kình phiên là “Nhát kình” (câu 3, bài X, tr.147)… Hơn thế nữa, việc công bố tư liệu có vẻ gấp gáp như vậy còn đưa hai tác giả tới chỗ tự mâu thuẫn. Mặc dù đã dành hẳn 10 trang sách để khẳng định rằng Phan Văn Trị quê ở Vĩnh Long (tr.46-54) nhưng về mấy chữ Gia Định Cử nhân Trị… trên đầu đề 10 bài thơ này, hai tác giả lại không hề đưa ra một lời thương xác! Thứ nữa, chữ “Trị” ở đây được viết theo chữ Hán là chấm thủy + thai (đài), khác xa với chữ “Trị” trong QTHKL viết là nhân đứng + trực. Thế thì vị “Gia Định Cử nhân Trị” này đã chắc đúng là Phan Văn Trị hay chưa? Khó có thể kết luận rằng những sai biệt quá rõ nói trên đã không được nhận ra, nhưng chính vì vậy mà người ta phải nghĩ rằng hai tác giả cố tình làm ngơ không nhắc đến hai chi tiết ấy. Hai cứ liệu văn bản này cũng chống lại kết luận vội vàng của tác giả Nguyễn Quảng Tuân trên báo Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh (số 399, ngày 20-9-1985), đến nay hai quyển sách lại nhắc lại ý kiến ấy dưới dạng một giả thiết (tr.123), nghĩa là có vẻ “thận trọng” hơn! Cách nghiên cứu văn bản và công bố tư liệu như vậy hiện nhiên đã tạo thêm một sự rắc rối về thơ văn Phan Văn Trị, và người ta có thể hoài nghi tính trung thực của hai tác giả trong việc công bố tác phẩm!

Trong sách cũng có không ít chú thích không chính xác, thậm chí đôi lúc còn kỳ quặc. Chẳng hạn “Cù dậy (dưới sông sâu)” được chú là “con rồng bò ra khỏi mặt đất” (tr.96), “Lợn Hán” được chú là “heo Hán” và hiểu ra là “cơ nghiệp nhà Hán” (tr.106), “(khói) tầu bay” (khói tầu chiến bay) được hiểu là “(khói) máy bay” (tr.124). Dưới sông trở thành mặt đất, lợn (heo) trở thành biểu trưng cho cơ nghiệp nhà Hán!, khói tàu chiến trở thành khói máy bay! Phải chăng có lẽ theo 2 tác giả, quân Pháp ngày đánh Gia Định đã có máy bay ?

Vấn đề Phan Văn Trị không phải mới lắm trong việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề không dễ. Mặc dù đã có cả một Hội thảo khoa học với vài mươi nhà nghiên cứu tham gia được tổ chức ở Hậu Giang, hiện chúng ta chưa xác lập được một “Niên biểu Phan Văn Trị” và một “Niên biểu tác phẩm của Phan Văn Trị”.

Phải nói rằng hai tác giả có cố gắng và nhiệt tình đi sâu vào đề tài nghiên cứu Phan Văn Trị. Nhưng dù sao cuốn Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm cũng mới ở kết quả còn có nhiều sai sót cần đính chính.

TB

VÀI Ý KIẾN VỀ QUYỂN CHỮ NGHĨA
TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN QUẢNG TUÂN

ĐINH TRẦN CƯƠNG

Là một độc giả yêu mến Truyện Kiều, tôi đã tìm đọc quyển Chữ nghĩa Truyện Kiều của Nguyễn Quảng Tuân (Nxb. KHXH, H, 1990). Qua lời nói đầu, tôi rất tán thành quan điểm của ông Tuân. Đọc nội dung sách, tôi tiếp thu được một lượng thông tin khá nhiều bổ ích. Tôi lại thấy ông Tuân đề xuất yêu cầu góp ý kiến và cũng thấy nhà xuất bản khoa học xã hội cho biết sẽ in Truyện Kiều của ông, tôi xin mạnh dạn góp vài ý kiến, mong ông cân nhắc xem có thể giúp ích gì cho quyển sách sắp xuất bản không. Về những điều tôi muốn bàn, đã có một số trùng với những điều đã trình bày ở Tạp chí Hán Nôm số 2/91. Dưới đây chỉ nói đến những điều chưa nói ở số Tạp chí trên.

1. Trang 61, câu 2494: “Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu”. Ông Tuân đã vạch thiếu sót của Trương Vĩnh Ký là không dẫn điển tích ở bài thơ Lũng Tây hành của Trần Đào để nói lên xuất xứ của chữ “Vô Định”. Ông Tuân dẫn bài thơ và sau khi dịch nghĩa thì ông viết: “Nguyễn Du đã dùng chữ “Vô Định” trong bài thơ trên để tả cảnh người chết vì chiến tranh, xương chất đầy đống bên sông. Sông Vô Định là con sông ở tỉnh Thiểm Tây và tỉnh Tuy Viễn Trung Quốc”. Tôi thấy giải thích như trên là nông cạn, chưa làm rõ được ý nghĩa của chữ “xương Vô Định”, lại nặng về chi tiết địa lý làm loãng ý nghĩa chính. Nếu chỉ cần nói ý nghĩa chết vì chiến tranh thì hà tất phải dùng đến bài thơ Lũng Tây hành. Giá ta nói xương “Xích Bích” cũng được. Trận Xích Bích là trận đánh nổi tiếng trong lịch sử, cũng được dùng phổ biến trong văn học Trung Quốc, hơn trận ở sông Vô Định. Nhưng Nguyễn Du đã dùng đến bài Lũng Tây hành là có dụng ý. Câu thơ đang nói đây là lời Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Chàng là người “Phong trần mài một lưỡi gươm, những phường giá áo túi cơm sá gì”. Chàng dùng gươm đao để lập sự nghiệp. Nếu lên án các trận đánh nhau, tức là lên án sự nghiệp của chàng. Dùng hình ảnh nhiều người chết vì chiến tranh thì chắc khó thuyết phục được Từ Hải. Ta thấy bài Lũng Tây hành nói: “Thương thay, nắm xương Vô Định… còn là người trong mộng của những thiếu phụ chốn phòng khuê”. Đây diễn tả nỗi mong chồng mà chồng đã phơi xương ở chiến trường. Đây là nỗi bất hạnh, nỗi đau thương của biết bao phụ nữ, do chiến tranh gây ra. Kiều phải lấy điều này để làm rung động từ Hải. Ta đã thấy Từ Hải cũng biết yêu, đã tìm cách đem lại hạnh phúc cho phụ nữ, biết quan tâm đến gia đình, thể hiện ở lời nói: “Xót nàng còn chút song thân, bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, cho người thấy mặt là ta cam lòng”. Vậy đánh vào điểm này chắc dễ kết quả hơn là đem đống xương người chết ra để thuyết phục chàng. Như thế, phải giảng chữ đống xương Vô Định là ngụ ý lòng mong chồng, là nỗi đau đớn của người phụ nữ mất chồng vì chiến tranh.

2. Trang 33 và 73, câu 1935: ở trang 33 ghi “Cửa thiền then nhặt lưới mau”, ở trang 73 lại ghi “Quan phong then chặt lưới mau” và ông Tuân giải thích là: câu này “tả cảnh Thúy Kiều bị giam lỏng ở Quan Âm Các. Hoạn thư cho canh phòng đóng khóa cửa cẩn thận, giữ gìn không cho sơ hở một chút (mặt lưới đã giăng kín) khiến Thúc Sinh và Thúy Kiều không thể gặp mặt nhau được”. Nếu hiểu là Thúy Kiều bị giam lỏng, tất nhiên phải hiểu mấy câu tiếp theo: “Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người” v.v… là hành động và tâm trạng của Kiều, như bản dịch ra tiếng Pháp của Nguyễn Khắc Viện: “Aveclesgens, elle bavardait, mais seule, pleurait, pleurait. De son oratoire, elle voyait le cabinet de Thuc. Un empan les séparait plus que fleuves et monts”, nghĩa là “Với mọi người, nàng tán chuyện, nhưng khi còn một mình thì khóc, khóc hoài. Từ chỗ gác kinh, nàng nhìn thấy buồng của Thúc. Một gang tay đã chia cách họ hơn là nhiều sông núi”.

Hiểu sai như vậy là do không chú ý đến đoạn trên đó Nguyễn Du đã nói về Kiều: “nhân duyên đâu nữa còn mong, khỏi điều thẹn phấn tủi hồng mà thôi. Phật tiền thảm lấp sầu vùi, ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương, lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên”. Nguyễn Du cho biết Kiều đã được nhà phật giải thoát cả thể xác và tâm hồn rồi, không mơ tưởng trần duyên nữa, lẽ nào còn tả nàng vờ vĩnh nói cười, hoặc khóc lóc mơ tưởng đến Thúc Sinh? Nếu muốn tả Kiều như vậy, thì nêu ra nhận xét như nói ở đoạn trên làm gì cho mâu thuẫn. Và nếu Hoạn Thư bao vây Kiều bằng “then nhặt lưới mau”, thì dễ gì Kiều trốn thoát khỏi Quan Âm Các một cách đơn giản, lại còn mang cả chuông vàng, khánh bạc đi một cách êm thấm. Ta biết rằng nhân buổi vợ đi “vấn an”, Thúc Sinh lẻn ra Quan Âm Các, liền bị “người đi vắng” quay trở lại bám theo bắt quả tang ngay. Cho nên đoạn này không phải nói về Kiều, mà nói Thúc Sinh bị theo dõi chặt. Chàng muốn đến gặp Kiều mà khó khăn quá, hơn là cách trở núi sông. Chàng phải vờ vĩnh nói cười trước mặt vợ, và khóc vụng một mình sau lưng vợ. Phân tích thế này ta còn thấy chữ “cửa thiền” là sai.

3. Trang 13 và 156: bàn về câu 20, do Trương Vĩnh Ký phiên âm là “Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang”, ông Tuân một mặt thừa nhận là có thể phiên âm như vậy cũng được, nhưng về ý nghĩa thì lại phê phán là sai, mà theo ông, đúng ra phải là “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Lý của ông là trong câu ấy Nguyễn Du muốn tả cái vẻ mặt phúc hậu của Thúy Vân”. Ông Tuân đã gặp lại một số học giả trước phỏng đoán về vẻ mặt phúc hậu. Tôi nói phỏng đoán vì người ta suy luận cho rằng Nguyễn Du muốn tả như vậy. Thực tế Nguyễn Du không nói ra mà ta chưa biết đúng hay sai, nên ông Tuân không chứng minh rõ được. Về điểm này ông Nguyễn Thiện Chí đã có bài bàn ở Tạp chí Hán Nôm số 2/90, không đồng ý với chữ “nét ngài” với các lý do.

- Vì Nguyễn Du có gọi gái điếm là ả mày ngài, nếu lông mày của Thúy Vân cũng là mày ngài, sợ bị đồng nhất với hàng đàn bà đĩ điếm.

- Cũng giống lông mày của Từ Hải (tôi bổ sung và theo ông Tuân, cả lông mày của Quan Vân Trường, hai vị này không thể tiêu biểu cho sự phúc hậu).

- Chữ “nét ngài” kết hợp với nở nang là mâu thuẫn về ngữ nghĩa, Nguyễn Du bậc thiên tài gọt giũa từ ngữ không sơ suất như vậy được (Điểm này ông Tuân cũng có ý kiến là tả như vậy thì “Thúy Vân đâu có đẹp gì”.

Ông Tuân tuy có dẫn chứng sách tướng để minh họa tướng phúc hậu, nhưng câu dẫn lại chỉ nói đến ngọa tàm vị, và ông giải thích là vị này ở dưới con mắt chứ không phải lông mày, vậy cũng không lấy được tướng pháp ra để tả sự phúc hậu. Xét qua những điểm nói trên thì thấy điều ông Tuân phỏng đoán và phân tích là chưa đủ tin cậy.

Theo tôi nên căn cứ vào cả đoạn thơ giới thiệu Thúy Vân và những tình tiết liên quan đến Thúy Vân để xét. Bắt đầu giới thiệu Vân, Nguyễn Du viết: “Vân xem trang trọng khác vời”. Nét đầu tiên của Vân được làm nổi lên là vẻ trang trọng chứ không phải vẻ phúc hậu. Ở một câu sau, lại tả Vân cười nói đoan trang. Trang trọng và đoan trang là đặc điểm chung nói lên tính cách đứng đắn của người đã lớn khôn, không còn là trẻ con nhí nhảnh nữa. Nguyễn Du nhấn mạnh điểm này vì câu chuyện sẽ đưa Vân ra thay chị để kết duyên với Kim Trọng. Vân là em rất có thể bị coi là trẻ con vì Kiều là chị mà cũng còn chưa tính gì đến chuyện chồng con. Nhưng để người ta coi là trẻ con thì câu chuyện đặt ra sẽ không ổn. Và đến khi Kim Trọng cưới nàng, Nguyễn Du không thể khen là “Trai tài gái sắc xuân dương vừa thì” được. Phong cách, tính nết của Vân đã được giới thiệu là trang trọng, đoan trang. Đó là một cách tả tổng quát. Nếu về thể chất, cơ thể, lại chỉ tả hai chi tiết là khuôn mặt và lông mày thì không cân đối. Khuôn mặt đầy đặn và lông mày nở nang lại không biểu hiện rõ được đó là người lớn hay trẻ con, như vậy là không thiết thực về ý tứ. Nét ngài là lông mày thanh nhỏ mà lại nở nang là lủng củng gợi ý thô xấu. Trong khi với các chữ “nét người nở nang” có thể nói lên vóc người đã lớn, lại rất có ý nghĩa, chữ người lại hợp vần rất sát với chữ vời ở câu lục trên. Còn chữ khuôn lưng hay khuôn trăng, tôi chưa đủ cơ sở để bàn.

4. Trang 67 và 183, câu 566: “đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa”. Ông Tuân nói kỹ càng về con chim quyên. Nhưng lại rút ra cách giải thích câu thơ là “tả cảnh cuối hè sang thu, tức là đúng vào thời gian chim quyên bay về đồng bằng từ trên núi xuống đồng bằng và kêu hót ở đầu cành”. Như vậy là sai. Trong chuyện nói đến cảnh này lúc tả Kim Trọng chia tay với Kiều đi Liễu Dương. Hôm đó gia đình Kiều đang đi dự lễ sinh nhật ngoại gia, mà tiết trời được Nguyễn nói rõ là “thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua”. Việc đây không phải cuối hè sang thu mà là cuối xuân sang hè. Thực ra câu thơ không chỉ dừng lại ở chỗ hè hay thu, mà ý nghĩa còn thâm thúy hơn thế. Nói “quyên nhặt” tức là cuốc kêu da diết, là ngụ ý nói lên lòng tiết xuân, ở đây là nỗi buồn tiếc của đôi tình nhân mới vừa tỏ tình yêu nhau đã phải sớm xa nhau (nghĩa tiếc xuân là lấy ở ý câu thơ của Lý Thương Ẩn trong bài Cầm sắt: “Vọng Đế xuân tâm thác đỗ quyên” nghĩa là lòng tiếc xuân của Vọng Đế gửi vào chim quyên). Nói “cuối trời nhạn thưa” là tả cảnh sang hè, chim nhạn là tin tức ở xa gửi về. Ở đây ngụ ý nói: thiếu nhạn đôi bạn khó lòng trao đổi tin tức với nhau. Như vậy mới thật đáng buồn, đúng như câu 565: “Buồn trông phong cảnh quê người”. Còn nếu thấy chim bay từng đoàn về và kêu hót thì có lẽ là vui, chứ buồn làm sao được?

5. Trang 117, Câu 2160: “Cái thân liệu những từ nhà liệu đi”. Ông Tuân bác bỏ ý kiến của hai ông Lê Văn Hòe và Lê Mạnh Liêu bênh vực chữ liều (dấu huyền) nhưng ông Tuân không phân tích rõ chỗ sai của hai ông kia. Ông Liêu có dẫn những câu trong Truyện Kiều như: “Thà rằng liều một thân con…”, “Cũng liều nhắm mắt đưa chân…”, “Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi…”, “Cũng liều một giọt mưa rào…”, “Cũng liều má phấn cho rồi ngày xanh…” để chứng minh rằng Kiều nhiều lần liều và liều từ nhà liều đi. Ông Tuân chỉ phê phán gọn một lời là “Cách giải thích thế xem ra cũng chưa ổn”. Theo ông Tuân thì phải lấy câu “Dao này thì liệu với thân sau này”, để làm căn cứ và để chứng minh rằng Kiều đã liệu từ nhà liệu đi. Nhưng theo trong Truyện Kiều thì việc lấy dao mà liệu với thân là ý của Kiều mới chỉ nảy ra khi đã ra trọ trong trú phường, chứ không phải từ ở nhà, lại nhân lúc Kiều thấy trên án có con dao. Nếu là tính liệu từ nhà thì Kiều đã phải thu xếp mang dao từ nhà đi mới phải. Hơn nữa nếu coi việc chuẩn bị dao là vấn đề cơ bản của sự tính liệu của Kiều thì ở trong trường hợp ta đang bàn đây, Kiều bị họ Bạc bán vào lầu xanh, Kiều sẽ sử dụng con dao, tức là tự tử mới phải. Trái lại Kiều chỉ đánh giá mình đã liều nhiều lần, thì lần này nữa “Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Rõ ràng là cái thân liều những từ nhà liều đi”, và bây giờ tiếp tục liều chịu ô nhục cho xong nợ hồng nhan.

6. Trang 124, câu 48: “Ngựa xe như nước áo quần như nên”. Ông Tuân bênh vực chữ nêm. Nhưng chữ nêm rõ ràng là lời thô, ý không đẹp. Nó gợi nêm rõ ràng là lời thô, ý ngột ngạt không phù với cảnh thoáng đãng, cảnh dập dìu tài tử giai nhân. Ngày xưa các mộ được chôn ở bãi tha ma rộng rãi nên những người tảo mộ không cần chen chúc nhau (Ngay mộ Đạm Tiên cũng chiếm riêng một khoảnh). Còn chữ nen, nếu giải thích là len chèn cũng chẳng khác gì chữ nêm, mà nếu giải thích len là xỉ (?) tức răng, cũng thật khó chấp nhận vì đem ví quần áo với hàm răng khít nhau cũng thật ngô nghê. Ông Tuân lại cho rằng Nguyễn Du nhân cách hóa quần áo cũng không ổn vì Nguyễn Du tả người đã nhắc đến tài tử giai nhân rồi, không cần mượn quần áo thay thế vào đấy nữa. Tôi xin giới thiệu để tham khảo là ở vùng quê tôi ở Hà Tĩnh, có giống cây nen, mọc hoang ở đồi núi xen với những cây cỏ như sim, mua, móc có quả nhỏ, khi chín thì màu tím, ăn được. Về mùa xuân ra hoa kết quả. Chắc là Nguyễn Du lấy hình ảnh này khi lá, hoa, quả nen xen lẫn nhau có màu sắc dịu dàng (không rực rỡ) để tả quần áo màu sắc nhã nhặn của những người đi tảo mộ.

7. Trang 128, bàn về chữ “Nghỉ” và “Nghĩ”.

Tôi rất đồng ý với ông Tuân khi ông viết “đối với người có tư cách, có học vấn, có địa vị trong xã hội, Nguyễn Du không bao giờ lại dùng chữ nghỉ”. Tôi vốn quê quán ở Hà Tĩnh và sống ở quê cũng khá lâu, xin bổ sung thêm là tiếng này chỉ được dùng trong câu chuyện thân mật hay suồng sã, trong nhóm nhỏ, trong đó có cả người nói, người nghe và người được gọi là “nghỉ” thường là bằng vai bằng lứa với nhau. Cho nên theo tôi, Nguyễn Du không gọi Vương Ông là nghỉ, mà đến Mã Giám Sinh, Sở Khanh cũng không gọi là nghỉ, vì Nguyễn Du không thể tự đặt mình và độc giả vào cùng vai lứa với Mã, Sở. Hơn nữa, nếu cho rằng ở câu 894 “Mái ngoài nghỉ (?)đã giục liền ruổi xe”, có thể dùng chữ “nghỉ” để chỉ Mã Giám Sinh, là không đúng ngữ pháp. Chữ “nghỉ” là đại từ nhân xưng, nên chỉ có thể dùng để chỉ nhân vật vừa mới được đề cập ở hai câu trên liền đó thôi. Còn trong trường hợp này ta thấy Mã được nói ở câu 868, cách câu 894 mấy chục câu và ở giữa chúng đã đề cập đến “Vương Ông mở tiệc tiễn hành đưa theo”. (Câu 872), Kiều giải lòng với mẹ (câu 876), rồi Vương Bà muốn vạch trời kêu lên (câu 892). Sau đó không nhắc đến Mã, mà lại lấy chữ “nghỉ” làm đại từ để chỉ Mã thì đó là điều không thể chấp nhận được. Xin giới thiệu bản Nôm Phúc Văn Đường ghi câu này là “Mái ngoài kia đã giục liền ruổi xe”. Còn ở câu 1188 nói Sở Khanh dở tuồng tháo lui, thì bản Nôm Quan Văn Đường ghi “nghĩ mới…” và bản Liễu Văn Đường ghi: “Thôi mới tìm đường tháo lui”.

8. Trang 142, câu 2672: “Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh”. Ông Tuân cho biết nhiều bản dùng chữ “vắng tanh” và nhiều bản khác dùng chữ “thủy tinh”, và ông nhận định “vắng tanh” là đúng, “thủy tinh” là sai. Ông dựa vào lời Kiều Oánh Mậu dẫn câu thơ của Đỗ Phủ “Ngư long tịch mịch thu giang lãnh”, nghĩa là “Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh”, và chữ vắng tanh là dịch chữ tịch mịch của Đỗ Phủ vấn đề là phải xem Nguyễn Du có dùng chữ của Đỗ Phủ không. Trong câu thơ Đỗ Phủ nói cá rồng vắng vẻ, vậy phải coi như là chúng ở đâu sâu xa kín đáo chứ không thấy ở đây. Còn câu thơ của Nguyễn Du là “trước hàm rồng cá” thì là rồng cá đang có mặt tại chỗ. Vậy là khác hẳn nhau, vả lại Nguyễn Du không nói rồng cá vắng tanh mà là “gieo mồi vắng tanh”. Phải xem “gieo mồi vắng tanh” có ý nghĩa gì. Có cách giải thích là Kiều gieo mình xuống lúc đêm khuya vắng tanh. Giảng thế cũng là sai vì trong truyện đã nói rằng Kiều thấy “Triều đâu nổi sóng đùng đùng, hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường” và khi Kiều “đem mình gieo xuống giữa dòng tràng giang” thì “thổ quan theo vớt vội vàng”. Vậy là xung quanh Kiều có người để cho nàng hỏi, và có người theo vớt nàng ngay sau khi nàng gieo mình. Rõ ràng không phải vắng tanh.

Về chữ “thủy tinh” thì nếu hiểu là tấm thân trong sạch của Kiều cũng sai. Chữ thủy tinh ở đây phải hiểu là loài yêu tinh hay quái vật ở dưới nước. Chúng ăn được thịt người như cá dữ hoặc bất kỳ sinh vật nào khác rỉa thịt người chết đuối. Tham khảo nguyên chuyện thì lời Tam Hợp Đạo Cô nói về số kiếp của Kiều có câu: “trong đám đao binh, làm bạn với Ma Vương hùm sói, dưới làn sóng nước làm mồi cho thủy tộc cá tôm”. Thủy tộc cá tôm được Nguyễn Du gọi là thủy tinh, cũng đúng nghĩa. Ta không sợ chữ này trùng với ý chữ rồng cá ở trên. Một là vì rồng được coi là vật thiêng liêng và không liệt vào loài ăn thịt người. Hai là chữ hàm rồng lại có nghĩa là nơi vực sâu có nước chảy xiết, hoặc theo mê tín thì đó là huyệt quý, đem mai táng cha ông vào đấy thì phát, con cháu được làm đế vương.

Vậy thì câu “trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh” có thể có nghĩa ràng mạch là: trước nơi vực sâu nước xiết, Kiều gieo mình xuống làm mồi cho quái vật dưới nước.

9. Trang 195, câu 2192: “Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân” mà cho rằng đây là câu mà Bình Nguyên Quân đã nói với Mao Toại, Cụ thể là câu “Người có tài năng như mũi dùi trong tay áo, đầu nhọn của nó tất phải tòi ra. Vậy sao lâu nay không thấy ông lộ ra có tài năng gì cả. Và ông Tuân phân tích như vậy trước hết là ông Tuân đặt Kiều đứng vào thế của Bình Nguyên Quân và Từ Hải ở thế của Mao Toại. Thật là ngộ nghĩnh hoàn toàn, không thỏa đáng, nếu xét về tư cách, vị trí, quan hệ của từng người. Sau đó là ông Tuân phân tích: “Câu nói ấy cho ta thấy Bình Nguyên Quân… không biết nhìn người như Thúy Kiều… còn thua Thúy Kiều vì nàng có con mắt tinh đời đoán được kẻ anh hùng còn đang lúc trần ai”. Ông Tuân lại cho rằng nếu chỉ đem câu thơ của Cao Thích ra giải nghĩa thì chưa đủ rõ (đây là nói câu chữ Hán: “Bất chi can đảm hướng thủy thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân”, nghĩa là “không biết đem gan mật ra hướng về ai cho phải, khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân”).

Thế là ông Tuân nhớ lầm đoạn đối đáp giữa Kiều với Từ Hải nên đem ý đảo ngược trình tự trước sau để phân tích. Kiều nói:

Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu.
Còn như vào trước ra sau,
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
Từ rằng: lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu (?) Bình Nguyên Quân.

Rõ ràng là Từ đã đề cập đến Bình Nguyên Quân trước khi Kiều đánh giá Từ Hải. Vậy căn cứ vào đâu để Từ Hải khẳng định rằng Kiều biết người hơn Bình Nguyên Quân? Chưa có sự đánh giá nọ đã đem so sánh với sự đánh giá kia là vô căn cứ. Ông Tuân đọc cả Truyện Kiều rồi thì biết rõ sự đánh giá này, cũng như có thể biết Từ Hải chết đứng, còn bản thân nhân vật thì không thể biết được. Vậy phải dựa hẳn vào câu thơ chữ Hán để giải thích. Kiều nói đến “Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu”, đó là nghĩa của vế trên câu thơ. Từ “hiểu” này ngụ ý nàng đang mong gặp người anh hùng hào hiệp, nên đọc luôn ý vế dưới “Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân”. Và Từ đề nghị luôn Kiều hãy xem chàng có đáng mặt anh hùng hào hiệp như thế không? Sau đó Kiều mới đánh giá “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Khi chưa có câu đánh giá này thì Từ Hải không thể liên hệ đến câu Bình Nguyên Quân nói với Mao Toại được.

Tôi trình bày mấy ý kiến thô thiển trên đây, nếu có sai lầm xin được nghe lời chỉ giáo.

TB

ĐỌC SÁCH
VỰC NGOẠI HÁN VĂN TIỂU THUYẾT LUẬN CỨ (NGHIÊN CỨU THẢO LUẬN VỀ TIỂU THUYẾT HÁN VĂN NGOÀI LÃNH THỔ TRUNG QUỐC)

PHẠM VĂN THẮM

Trong những năm gần đây, việc sưu tầm khảo cứu thể loại tiểu thuyết cổ viết bằng Hán văn của Triểu Tiên, Nhật Bản, Việt Nam đã được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Hàng loạt những bộ sưu tập về tiểu thuyết Hán văn ngoài lãnh thổ Trung Quốc đã được giới thiệu cùng bạn đọc, có thể kể đến như: Tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên, toàn tập, 1980; Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, tập 1, Học sinh thư cục Đài Loan, 1987; Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Việt Nam sắp in v.v… Trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu cuốn Vực ngoại tiểu thuyết Hán văn luận cứu do Hội Nghiên cứu văn học cổ điển Trung Quốc biên soạn, Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản tháng 2 năm 1989(1).

Cuốn sách này dày 186 trang, khổ 25x 15 được chia làm 2 phần. Phần 1 từ trang 1 đến trang 170, đăng 6 bài luận văn, trong đó 5 bài đề cập đến tình hình sưu tầm, chỉnh lý, khảo cứu tiểu thuyết Hán văn của Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và một bài đề cập tới tác phẩm Tiễu đăng tân thoại của Trung Quốc. Phần 2 từ trang 171 đến trang 186 đăng nội dung các cuộc tọa đàm về việc nghiên cứu, xuất bản các tác phẩm tiểu thuyết Hán văn ngoài lãnh thổ Trung Quốc với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Trước tiên cần khẳng định rằng cuốn Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết luận cứu đã cung cấp cho bạn đọc một cách nhìn khái quát về tình hình tiểu thuyết viết bằng chữ Hán của Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trên nhiều phương diện như tình hình tư liệu, cách phân loại, mối quan hệ giữa tiểu thuyết Hán Văn của mỗi nước với tiểu thuyết Trung Quốc.

1. Về tình hình tiểu thuyết Hán văn của Nhật Bản, ông Vương Tam Khánh trong bài viết của mình: Nhật Bản Hán văn tiểu thuyết nghiên cứu sơ cảo (Bước đầu nghiên cứu về tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản), đã đề cập đến 3 vấn đề chính. Phần đầu ông đưa ra danh mục tên sách thuộc thể loại tiểu thuyết gồm 75 tác phẩm, trong đó, tác giả trình bày sơ bộ về tình trạng văn bản của 31 tác phẩm đã được khắc in và một văn bản sao với các yếu tố: số quyển, tác giả, năm khắc in, nơi in, con chữ in, số chữ trong mỗi dòng, số dòng trong mỗi trang và phần khảo cứu ngắn gọn của tác giả. Theo ông, tác phẩm Nhật Bản thất phúc thần truyện do Ma Kha A Lại Da soạn, khắc in năm Nguyên Lộc 11 (1698) và tác phẩm Tùng bắc dạ đàm do Tín Thái Anh soạn, khắc in năm Chiêu Hòa 2 (1927) là hai tác phẩm mang niên đại sớm nhất và muộn nhất trong thể loại tiểu thuyết Hán văn của Nhật Bản. Còn lại 43 tác phẩm thuộc các triều đại từ thời Nại Lương đến thời Minh Trị trở về sau cần phải khảo cứu thêm về tình trạng văn bản của mỗi tác phẩm. Tiếp theo, ông Vương Tam Khánh trình bày mối quan hệ giữa tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản với nền văn học Hán văn của Nhật. Ông đưa ra 3 tiêu chí: nội dung, thể văn và tư tưởng làm chuẩn mực để phân loại tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản. Theo ông có loại tiểu thuyết truyền kỳ viết theo lối sử, truyện, loại này chiếm số lượng nhiều nhất, loại tiểu thuyết chương hồi, loại này số lượng không nhiều. Ông còn xếp những tác phẩm viết bằng Nhật văn, nhưng được dịch ra chữ Hán rồi lưu truyền sang Trung Quốc như tác phẩm Trung thần tàng (tr.22). Phần cuối bài viết, tác giả đi sâu phân tích những động cơ viết tiểu thuyết của người Nhật. Tác giả nêu 3 động cơ chính: viết tiểu thuyết để tự vui hoặc mua vui cho bạn bè, viết tiểu thuyết để giáo dục, viết tiểu thuyết làm sách giáo khoa dạy người học Hán văn (tr.24-25).

2. Về tình hình tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên, ông Lâm Minh Đức là người đã nhiều năm lưu tâm tới việc sưu tầm, chỉnh lý mảng tư liệu này. Trong bài “Hàn quốc Hán văn tiểu thuyết chi hưng suy cập kỳ nghiên cứu” (Sự thịnh suy của tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên và việc nghiên cứu thể loại này) Lâm Minh Đức trình bày kỹ ba vấn đề: Sự hình thành tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên (8 trang). Theo tác giả, có 2 nguyên nhân chính tác động trực tiếp tới sự hình thành và phát triển tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên, đó là: sự phát triển của nền văn học Triều Tiên với sự du nhập của văn tự Hán, sách vở, nghề in của Trung Quốc, cũng như người Triều Tiên đem khoa học kỹ thuật của Trung Quốc về nước bằng hai con đường sứ bộ và lưu học sinh. Tác giả dẫn ra 8 tác phẩm được đưa vào Triều Tiên từ rất sớm như Sơn hải kinh, Liệt nữ truyện, Sưu thần ký, Tam quốc diễn nghĩa, v.v… Tác phẩm Tam quốc chí du nhập vào Triều Tiên từ đời Tống, năm 1016 (tr.36-37). Vấn đề thứ hai, Lâm Minh Đức trình bày mối quan hệ mật thiết giữa tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên với tiểu thuyết Trung Quốc; những nét độc đáo và sắc thái dân tộc của nền văn học Hán văn Triều Tiên nói chung và tiểu thuyết Hán văn của Triều Tiên nói riêng. Tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên được chia ra làm 3 loại chính: loại tiểu thuyết bút ký dã đàm; loại tiểu thuyết truyện ngắn phổ thông; loại tiểu thuyết chương hồi. Mỗi loại đều có mối quan hệ mật thiết với cùng loại trong tiểu thuyết Trung Quốc. Loại tiểu thuyết chương hồi của Triều Tiên rất phát triển, về hình thức nghệ thuật, hoàn toàn chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Mở đầu mỗi hồi trong tác phẩm Ngọc lâu mộng đều dùng “thả thuyết”, “khước thuyết”, “thoại thuyết”… Hoặc câu kết của mỗi hồi trong tác phẩm “Hán Đường di sự” đều lấy câu: “vị tri như hà, thỉnh khán hạ văn phân giải hay “vị tri hạk văn như hà” và “tất cảnh như hà, hạ hồi tiện kiến” (tr.39). Vấn đề thứ ba, tác giả trình bày thực trạng văn bản tiểu thuyết Hán học của Triều Tiên bị suy giảm, trong đó phải kể đến sự hình thành và phát triển một trào lưu thực học. Như chúng ta đã biết, ở Triều Tiên vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, nền tảng xã hội, kinh tế của Triều Tiên lâm vào tình trạng sa sút. Các nhà trí thức Triều Tiên đặt vấn đề xem lại việc giáo dục học vấn và đề xuất một trào lưu mới, trào lưu học tập “thực sự cầu thị” (tr.49-50) để đưa xã hội Triều Tiên ra khỏi khó khăn. Từ đó người Triều Tiên có phần coi thường các văn bản Hán, ít quan tâm đến hiện trạng của mảng di sản văn hiến này. Phải đến những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu Hán học và tiểu thuyết Hán văn mới được tổ chức và xem xét lại. Các Trường Đại học và các Viện Nghiên cứu bắt đầu nghiên cứu và học tập Hán văn (tr.56-57).

Năm 1980 bộ Tùng thư tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên được xuất bản. Công việc nghiên cứu nền văn hiến Hán và tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên bắt đầu được lưu tâm đúng mức. Khi nghiên cứu thể loại tiểu thuyết Hán văn Triều Tiên, chúng ta tiếp cận một khái niệm tiểu thuyết phiên bản. Du Quyên Hoàn đã nghiên cứu tiểu thuyết phiên bản của Triều Tiên từ tiểu thuyết Trung Quốc và cho rằng: khái niệm phiên bản cũng có nghĩa như là cải biên (tr.65); khái niệm phiên bản không mang nghĩa phiên dịch. Du Quyên Hoàn đã phân tích sự khác nhau giữa các phương thức sáng tác, phiên dịch, phiên bản, mô phỏng, tá dụng (tr.66-67) rồi đi đến kết luận tiểu thuyết phiên bản là một loại dựa trên cơ sở của phương thức mô phỏng, tá dụng từ một tiểu thuyết của nước ngoài mà viết nên tác phẩm. Đây cũng là một hiện tượng đáng quan tâm trong lĩnh vực tiểu thuyết Hán văn của ba nước Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam.

3. Về thể loại tiểu thuyết Hán văn Việt Nam: Ông Trịnh A Tài đã đi sau phân tích khía cạnh văn bản, tác giả, mối quan hệ giống và khác nhau giữa thể loại diễn nghĩa lịch sử của Việt Nam với tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử của Trung Quốc. Để có một cách nhìn tổng quát thể loại diễn nghĩa lịch sử trong tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, ông Thịnh A Tài đã chia tiểu thuyết Hán văn Việt Nam ra làm bốn loại lớn:

1. Loại tiểu thuyết truyền thuyết thần thoại;

2. Loại tiểu thuyết truyền kỳ;

3. Loại tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử;

4. Loại tiểu thuyết bút ký (tr.97).

Trong loại diễn nghĩa lịch sử tác giả phân tích bốn tác phẩm Hoàng Việt xuân thu; Việt Nam khai quốc chí truyện; Hoàng Lê nhất thống chí; Hoàng Việt long hưng chí và rút ra kết luận: Về hình thức nghệ thuật, thể loại diễn nghĩa lịch sử Việt Nam giống với tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử Trung Quốc ở phần mở đầu và phần kết của mỗi hồi (tr.99-100). Sự khác biệt lớn giữa thể loại diễn nghĩa lịch sử Việt Nam với Trung Quốc ở chỗ: đội ngũ sáng tác và việc lựa chọn sự kiện lịch sử để miêu tả (tr.101-102).

Khi nghiên cứu tác phẩm cụ thể, Trần Ích Nguyên đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” trong nền văn học cổ Việt Nam. Với nguồn tư liệu tìm được trong Thư viện Đông Dương văn khố của Nhật Bản và Thư viện Quốc gia Bắc Kinh, tác giả trình bày kỹ về văn bản Truyền kỳ mạn lục khắc in năm 1712. Theo tác giả, ông Hà Thiện Hán người Đại An viết lời tựa Truyền kỳ mạn lục vào năm Vĩnh Định(2) sơ niên (1547). Đây có khả năng là sự ghi chép sớm nhất về tác phẩm này. Cũng trong bài viết, tác giả trình bày nguồn gốc ra đời của tác phẩm dựa trên 3 cơ sở: 1. Chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1347-1433) (tr.119); 2. Là sự cải biên thần thoại chí quái của Việt Nam (tr.126); 3. Là sự ghi chép có chọn lọc những truyền thuyết địa phương trong dân gian (tr.131-134). Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ từ khi ra đời đã có ảnh hưởng rất lớn tới thể loại tiểu thuyết Hán văn của Việt Nam. Nhiều người dựa theo bút phát của Truyền kỳ mạn lục để viết ra những tác phẩm có giá trị như Truyền kỳ tân phả; Tân truyền kỳ lục; Lan trì kiến văn lục v.v…

Phần cuối cuốn sách đăng bài bàn về ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại trong nền văn học Hán văn của Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tác giả Đinh Khuê Phúc cho biết sau khi Tiễn đăng tân thoại ra đời, nó không những có ảnh hưởng trong nước mà còn ảnh hưởng tới các nước trong khu vực có cộng đồng người sử dụng văn tự Hán. Tiễn đăng tân thoại du nhập vào Triều Tiên, người Triều Tiên mô phỏng bút pháp, thêm vào những nét phong tục của Triều Tiên mà cải biên thành Kim ngao tân thoại. Sau đó Tiễn đăng tân thoại cùng với Kim ngao tân thoại du nhập vào Nhật Bản để rồi sản sinh ra các tác phẩm Ca tỳ tử Vũ nguyệt vật ngữ. Ở Việt Nam tác phẩm Truyền kỳ mạn lục có chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại.

Đọc xong cuốn sách Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết luận cứu chúng ta biết được tiến trình công việc, cũng như những kết luận bước đầu về công việc sưu tầm, chỉnh lý và khảo cứu tiểu thuyết Hán văn của ba nước Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tuy nhiên chúng tôi cũng xin nêu một vài suy nghĩ của mình với hy vọng để bạn đọc tham khảo.

1. Ông Vương Tam Khánh và Trịnh A Tài trong phần mở đầu bài viết của mình, đã dẫn ra một danh mục các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ Hán của hai nước (Nhật Bản và Việt Nam). Người đọc cảm thấy băn khoăn không hiểu các tác giả đã dựa trên tiêu chí nào để xác lập danh mục này. Trong bài Việt Nam Hán văn tiểu thuyết trung đích lịch sử diễn nghĩa, ông Trịnh A Tài đã dẫn ra một số tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết Hán văn Việt Nam như: Tam vị đại vương sự tích; Tản viên sơn ngọc phả v.v… Nếu xếp như ông Trịnh A Tài thì số lượng tiểu thuyết Hán văn Việt Nam không chỉ dừng lại ở con số 64 tác phẩm, mà số lượng tác phẩm còn hơn nhiều.

2. Trong lịch sử phát triển của các nền văn học vùng Viễn Đông (Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam) chúng ta thấy có nét giống nhau về con đường phát triển của nền văn học thành văn cũng như sự hình thành của các thể loại văn học, đó là sự tiếp nhận truyền thống văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên sự hình thành của thể loại tiểu thuyết Hán văn trong các nền văn học thuộc vùng văn hóa Viễn Đông diễn ra ở trong mỗi nước trong giới hạn của nền văn hóa dân tộc. Việc nghiên cứu thể loại này lâu nay các nhà nghiên cứu thường vận dụng phương pháp lịch sử. Đã đến lúc cần phải sử dụng phương pháp so sánh để tìm hiểu mối quan hệ của thể loại tiểu thuyết Hán văn các nước ngoài lãnh thổ Trung Quốc cũng như với tiểu thuyết Trung Quốc. Bởi vậy cần tiến hành biên soạn một số sách công cụ như: niên biểu, danh nhân, địa danh, quan chức, v.v… của bốn nước trong vùng để phục vụ cho việc nghiên cứu, khảo dị, chú thích thể loại văn học này.

3. Các tác phẩm viết bằng Hán văn vốn không chấm câu. Ở Việt Nam việc chấm câu là do người đời sau thực hiện. Trong công tác chỉnh lý văn bản, các học giả đã chuyển lối chấm câu cổ xưa sang lối chấm câu hiện đại. Theo chúng tôi, cần giữ nguyên cách thức chấm câu của người mỗi nước nếu không, chúng ta sẽ nhận thấy có sự chênh nhau về mặt cảm thụ văn học giữa người nước ngoài đọc các tác phẩm viết bằng Hán văn của mỗi nước với người chính nước đó đọc các tác phẩm viết bằng Hán văn của họ(3).

4. Trong một thời gian dài hàng chục thế kỷ, người Việt Nam đã dùng văn tự Hán làm công cụ biểu đạt tâm tư tình cảm của mình và hình thành nên nền văn học viết bằng chữ Hán. Những truyền thuyết dân gian, sự tích anh hùng dân tộc, sự tích các danh nhân lịch sử được ghi chép lại, nhưng câu chuyện thường được pha trộn những yếu tố hoang đường, kỳ quái, chịu ảnh hưởng truyền kỳ đời Đường. Những sự kiện lịch sử thường được diễn nghĩa dưới dạng văn học v.v… Ở Nhật Bản và Triều Tiên cũng có hiện tượng tương tự như vậy. Khi đi sâu vào tính chât của từng thể loại, so sánh chúng với nhau, bên cạnh cái chung, chúng ta thấy có sự khác biệt mang mầu sắc dân tộc của từng nước. Thể loại tiểu thuyết chương hồi xuất hiện từ sớm trong nền văn học Trung Quốc, sau đó đã du nhập sang Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. So sánh tiểu thuyết chương hồi của ba nước, chúng tôi thấy rằng: về mặt hình thức nghệ thuật, tiểu thuyết chương hồi của ba nước đều giống nhau ở câu mở đầu và câu kết. Nhưng sự khác nhau là ở chỗ tiểu thuyết chương hồi của Nhật Bản số lượng không nhiều, bút pháp chưa thành thục(4). Ở Triều Tiên tiểu thuyết chương hồi rất phát triển, mỗi chương mỗi đoạn từ đầu đến cuối trình bày một câu chuyện rất ly kỳ và khúc chiết(5). Còn ở Việt Nam các bậc văn sĩ lại chỉ dựa vào các sự kiện lịch sử để miêu tả theo hồi, theo chương. Rõ ràng tiểu thuyết chương hồi của Việt Nam có màu sắc riêng. Thể loại tiểu thuyết trong nền văn học cổ Trung Quốc ở buổi đầu vốn không có địa vị, người viết tiểu thuyết bị xem thường, không được liệt vào một “gia” nào cả. Hiện tượng này cũng du nhập vào Triều Tiên, Nhật Bản. Ở Triều Tiên có thời người ta coi tiểu thuyết là “dị đoan, là thuyết”, người viết tiểu thuyết bị liệt vào hạng “tỳ quan” (quan thấp hèn), động cơ viết tiểu thuyết của một số người là để tự vui hay mua vui cho bạn bè. Nhưng ở Việt Nam thì hoàn toàn khác, người viết tiểu thuyết phần lớn là các bậc văn sĩ muốn thực sự đóng góp cho xã hội. Truyền kỳ mạn lục từ xưa đã được coi là “thiên cổ kỳ bút”. So sánh tiểu thuyết Hán văn Việt Nam với tiểu thuyết Hán văn của vùng Viễn đông, chúng ta sẽ tìm thấy những nét đặc sắc riêng của tiểu thuyết Hán văn Việt Nam cũng như bản sắc tâm linh của con người Việt Nam trong quá khứ.

CHÚ THÍCH

(1) Cuốn sách do ông Trần Khánh Hạo làm việc tại Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tặng Viện Nghiên cứu Hán Nôm tháng 1 -1992.

(2) Vinh Định: niên biểu của triều Mạc.

(3) Xem thêm bài: “Đọc sách Tùng thư tiểu thuyết Hán văn”, tập 1- Tạp chí Hán Nôm số 2/1989, tr.94-95.

(4) Xem Vực ngoại Hán văn tiểu thuyết luận cứu, 1989, tr.22.

(5) Sđd, tr.39.

TB

BÀI HỊCH CỦA VĂN THÂN NGHỆ TĨNH NĂM TỰ ĐỨC GIÁP TUẤT

TỐ AM NGUYỄN TOẠI

Năm ngoái 1990, có xuất bản quyển “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885, dịch từ một quyển tiếng Pháp của ông Yoshiharu Tsuboi. Tác giả, người Nhật Bản, Giáo sư đại học ở Đông Kinh, đã viết sách này, nguyên từ một luận án Tiến sĩ đệ tam cấp, đề biện ngày 17.6.1982 tại Trường Cao học Khoa học xã hội bên Pháp. Trong sách, khi nói về vụ nổi dậy của Văn thân Nghệ Tĩnh vào năm Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27 (1874), do các Tú tài Trần Tấn và Đặng Như Mai lãnh đạo, tác giả có chép vào sách tờ hịch của Văn thân ngày mồng hai tháng năm, Tự Đức thứ 27, bằng chữ Hán, tìm thấy trong kho lưu trữ Archives dóutre mer AOM, tại thành phố Aix của Pháp. Tờ hịch được phóng ảnh và dịch ra tiếng Pháp. Trong quyển dịch ra tiếng Việt, tờ này đã được phiêm âm và dịch nghĩa, song có suyễn mậu. Đây là một sử liệu quý, các sử gia nước ta cho đến nay chưa đề cập tới. Bài hịch làm theo thể tứ lục, ý không chặt, lời không đẹp, nhưng có giá trị sử liệu lớn, nên xin phiên lại, dịch lại kèm vài chú thích, để tiện học giới cùng xem.

Phiên âm:

Tự Đức nhị thập thất niên nhị nguyệt sơ nhị nhật - Văn thân hịch tổng sao ký

A. Cái văn:

1. Thệ đồng cừu nhi bào trạch, ngô nho địch khái chi hùng phong; Tam đầu bút nhi nhung hiên, quân tử dụng quyền chi năng cử.

2. Nghĩa như năng vãng, chung quân do thả thỉnh anh; Đạo hữu khả hành, tổ Địch thượng văn kích tiếp.

3. Cái tang bồng hồ thỉ, nan tử sơ tâm; nhi nghĩa phủ nhân can, thiên hạ vô địch.

B. Thẩm tư Gia Tô nhập vu ngã quốc:

4. Ngữ kỳ thuật tắc xưng thiên xưng thánh, tủng cô ngu mông; Ngữ kỳ giáo tắc vô phụ vô quân, khuyển dương tộc loại.

5. Xả khúc trực dĩ ngôn cường nhược, mạn khoa bác khả phá sơn; Phế trung dũng nhi thiệp ba đào, lãng thuyết thuyền năng nhập thủy.

6. Tự Đinh Ty, duyên biên vi hoạn, phong đãn tứ kỳ xương cuồng; Kinh nhung thần phấn lữ nhi tiền, thú dĩ thư kỳ cuồng phệ.

7. Phụng Hoàng thượng phấn nhiên duệ đoán, phương dục hữu vi; Nại hà nhân tự nhĩ thân an, cẩu cầu vô sự.

8. Tấn Đại Phu chi sách, lập hỗ lợi nhi hại tùy; Tống Tướng quốc chi mưu, kiến thiết hòa nhi ngạch khởi.

C. Toại sử:

9. Tây huynh nam đệ, nhẫn cam thành hạ chi minh; Giáp quyển nhung tàng, thùy phấn quân trung chi dũng.

10. Dẫu chiên cừu vu quốc ấp, kê thê phượng tập, ngưu hỗn kí quần; Nhập tinh sú vu bang đỉnh, hổ bị khuyển khi, long vi hà hí.

11. Lục tỉnh chi thần dân hà tội, hàm oan nhi diện cách triều đình; Nhất phương nhi thủy hỏa thùy tô, tố khổ nhi thanh đằng vũ trụ.

12. Hạ xuân đài nhi đồ thán, sĩ dân cô giáp đạo chi hoài; li thiên nhật nhi âm hàn, phụ lão nhất cử phan chi vọng.

D. Huống hựu:

13. Trưởng ác bất thoan, vi hại thậm đại.

14. Sách tăng tuế tệ, dương tiều bản quốc cao chi; Sức cấu tạo đường, âm dụ ngã bang lê thứ.

E. Tư tháo ngã tinh: giảng dụy đạo đồ:

15. Phụ trệ mẫu khuyển chi phong, tự ô danh giáo; Chúa Lời Chi Thu chi thuyết, phục uế thính văn.

16. Dữ kì cảm nhĩ hoành hành, ngã diệc khởi nhiên an tọa.

17. Bỉ kì lâm thời thương thốt, đồ di hậu sự chi ưu; Hà như tảo cập đồ hồi; dụng hiệp tiên ưu chi nghĩa.

F. Phù

18. Khuyển Dương nan tín, cầm độc nan thân.

19. Mạo Đốn Hán dương, Kim Liêu Tống thỉ.

20. Ngã nhược khai môn nghinh khấu, mỗi thủ dĩ tùng; Bỉ tương vu mãng phục nhung, phệ tề hà cập.

G. Thinh quý biệt:

21. Mộc dục hưu phong, tao phùng thịnh thế.

22. Hoặc triều đình quan tước, dự tại giản ti; hoặc khoa mục trung nhân, tằng kinh nô cưỡng.

23. Hoặc viên tử ấm tử, quan thanh nhi ti lạp giai ân; Hoặc thí sinh, khóa sinh, thánh trạch nhi trương tương thức hóa.

H. Dĩ chi:

24. Phú gia vật lực, quân hoàng cực chi dụng phu; Tổng lý hương hào, tịnh hoàng ân chi phổ cập.

25. Hữu tư khả chấp, Chu Công phương thả ưng chi; Kiến nghĩa bất vi, Khổng Tử viết vô dũng dã.

26. Miễn dịch hàn thu chi tiết, dụng trinh kính thảo chi phong.

27. Chỉnh ngã bằng đồ, tiễn bỉ vũ dực.

28. Sử Tây tặc vô môn khả nhập, nhi dương di hà xứ đắc lai.

29. Lý Cương bãi triều nhi Thái học chi nho sinh kiến cổ; Bào Tuyên hạ ngục nhi bác sĩ chi tử đệ cử phan.

I. Huống:

30. Sự thuộc an nguy, Lự quan đắc thất.

31. Cổ kim cộng phẫu, Thiên địa bất dung.

32. Phàn hữu trung nghĩa chi tâm, sinh nhị tự hứa; Cẩu vi xã tắc chi lợi, tử thả bất từ.

33. Tuy kim nhật vi chỉ hành sự tự tri đắc tội ư Cửu trùng; Đệ hậu lai phục khuyết thính tru, do đắc tấu công ư Liệt Thánh.

K. Vô khả đồ ngôn, thủ vũ ngoại địch

Chí như kế tương an xuất, lánh hữu hậu ngôn. Cảm cáo đồng minh, nguyện phu minh giám.

Dịch nghĩa:

Tự Đức năm thứ 27 tháng 2 ngày mồng hai (19 - 3 - 1874)

Sao ghi: Hịch của văn thân

A. Vì nghe:

1. Thề cùng thù mà áo bào, áo trạch(1) đó là hùng phong của nhà nho ta giận quân địch; Tạm ném bút mà theo việc binh nhung(2), đó là việc dấy lên của người quân tử dùng quyền.

2. Theo nghĩa mà khá làm được, Chung Quân(3) còn xin cái dây. Theo đạo có thể thi ra, Tổ Địch(4) còn nghe đập mái chèo.

3. Vì cung dâu tên cỏ(5) là sơ tâm của người nam tử; Mà mật nghĩa gan nhân, thiên hạ không dịch được.

B. Huống này gia Tô vào nước ta:

4. Nói về thuật thì xưng là trời là thánh, điếc mù ngu tối; Nói về giáo thì không cha không vua, loài giống chó dê.

5. Bỏ cong thẳng mà nói mạnh yếu, ngạo mạn khoe đại bác có thể phá núi; Bỏ trung dũng mà vượt sóng, nói mẽ thuyền có thể lặn vào trong nước.

6. Từ năm Đinh Tỵ (1857), bờ cõi phải lo, đàn ong đã phóng tú rông rỡ; Trải việc vũ thần mạnh bạo dấn quân tiến lên loài thú đã bớt sủa bậy.

7. Vâng đức Hoàng thượng: phấn khởi quyết đoán sáng suốt, muốn cho được việc; Làm sao người ta lại tự mình trộm yêu, cẩu thả mong vô sự.

8. Sách lược của Đại phu nhà Tấn(6), năm lợi mà hại đi theo; Mưu kế của Tướng quốc nhà Tống(7), một hòa mà cái khó khởi ra.

C. Thanh ra:

9. Anh chỉ tây, em ở nam, nhẫn chịu lời thề ở dưới thành(8); Cuốn áo giáp cất binh khí, ai phấn khởi lòng dũng của quân binh.

10. Dẫn bọn áo chiên áo cừu(9) vào trong nước, gà đậu với đàn chim phụng, trâu lẫn với đám ngựa ký; Đem hôi tang vào nơi sân vua, hổ bị chó khinh, rồng bị tôm cợt.

11. Thần dân sáu tỉnh tội gì, ngậm oan mà mặt xa triều đình; Nước lửa một phương ai cứu, kể khổ mà tiếng vang vũ trụ.

12. Rời đài xuân mà lầm than, sĩ dân mất long mong đứng ở ven đường; Lìa mặt trời mà tối lạnh, phụ lão mất lòng mong rời gót, đón gót.

Đ. Huống lại:

13. Nuôi thêm tội áo không dừng, gây hại rất lớn.

14. Đòi tăng tiền bạc hàng năm, ngoài thì muốn tiêu hao mơ mầu của nước ta; Sức làm nhà đạo, trong thì muốn dụ dân nước ta.

E. Nay đến tỉnh ta, dạy dỗ dân đạo:

15. Cái thói cha lợn, mẹ chó(10), tự làm nhơ danh giáo; Cái thuyết Chúa Lời, Chi Thu(11), lại làm bẩn tai nghe.

16. Hắn dám làm ngang như thế; Ta há cứ vẫn ngồi yên.

17. Để đến lúc vội vã, chỉ để cái lo cho việc sau; Sao bằng sớm kịp kéo lại, để cho hợp với cái nghĩa phải lo trước(12).

18. Chó dê khó tin, muông thú khó thân.

19. Mạo Đốn(13), dê nhà Hán; Kim, Liêu, lợn nhà Tống.

20. Nhược bằng ta mở cửa đón giặc, cúi đầu mà theo; Chúng sắp phục binh nơi rậm, cắn rốn sao kịp(14).

G. Xin các vị:

21. Tắm gội gió lành, gặp được đời thịnh.

22. Hoặc là quan tước của triều đình, được kén vào việc(15) cơ quán; Hoặc là người trong khoa mục, đã từng được thưởng vàng tiền(16).

23. Hoặc là viên tử, ấm tử, tiếng nhà quan mà hạt gạo sợi tơ(17) đều là ơn vua; Hoặc là thí sinh khóa sinh, ơn thánh mà lễ văn để được giáo hóa(18).

H. Cả đến:

24. Nhà giàu có của, đều là hoàng cực mà rải đến; Tổng, lý, hương hào, đều là ơn vua rộng kịp(19).

25. Có lời được khen ngợi(20), Chu Công mới cho là phải; Thấy nghĩa không làm(21), Khổng Tử báo là không dũng.

26. Gắng theo tiết trời thu lạnh(22), để làm cho cái dáng của cỏ cứng(23).

27.Sắp đặt anh em bạn ta, cắt lông cánh của chúng.

28. Để giặc Tây không cửa mà vào, mà sợ ngoài biển xứ nào đến được.

29. Lý Cương(24) bị bãi triều mà nho sinh nhà Thái học nổi tiếng. Bào Tuyên(25) bị hạ ngục mà bác sĩ đệ tử giương cờ.

I. Huống:

30. Việc thuộc an nguy, Lo đến được mất.

31. Xưa, nay đều giận; trời, đất không dung.

32. Phàm có lòng trung nghĩa, đem cái sống ra tự hứa; May được lợi cho xã tắc, có chết cũng không từ.

33. Tuy ngày nay, làm việc mà trái chỉ nhà vua, tự biết là có tội với cửu trùng; Rồi sau này, cúi mình cửa khuyết mà chịu tội chết, còn được đem công tâu lên liệt thánh.

K. Không thể nói suông, để ngoại địch khinh cho.

Còn như mưu kế sẽ đưa ra thể nào, sẽ có lời sau. Dám cáo với các vị có cùng lời thề, nguyện tin sự soi sáng.

CHÚ THÍCH

(1) Đồng cửu, bào trạch: chữ Kinh Thi, Tần phong: “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào, vương vu hưng sư, tu ngã quân mâu, dữ tử đồng cừu (…) Dữ tử đồng trạch, vương vu hưng sư, tu ngã mâu kích = há bảo không áo, với người cùng áo bào, vua đem quân đánh, sửa cái qua cái mâu của ta, với người cùng chung một kẻ thù (…) Với người cùng áo trạch, vua đem quân đi đánh, sửa cái mâu, các kích của ta”. “Bào” và “Trạch” là hai thứ áo dùng trong quân.

(2) Đầu bút: ném bút. Lấy điển Ban Siêu đời Hán ném bút mà nói: “đại trượng phu nên học Trương Khiên, Phó Giới tử… lẽ nào cứ kéo dài việc nghiên bút”.

Nhung hiên: binh khí và xe, ý nói việc binh. Thơ Ngụy Trưng đời Đường: “Đầu bút sự nhung hiên = ném bút theo việc quân”.

(3) Chung Quân: tên người. Thỉnh anh: xin cái dây. Đời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt, Chung Quân mới 20 tuổi, bác sĩ đệ tử, xin đem cái dây sang trói Vua Nam Việt.

(4) Tổ Địch: tên người. Kích tiếp: đập mái chèo, Tổ Địch đời Tấn (317-420), qua sông giữa dòng đập mái chèo mà thề sẽ quét sạch giặc khôi phục vùng Trung nguyên (Tấn thư bản truyện).

(5) Tang bồng hồ thỉ: cung bằng dâu; tên bằng cỏ bồng. Nghĩa phủ can nhân: mật nghĩa gan nhân chữ “phủ” dùng thay chữ “đảm”, vì chữ “đảm” là quốc húy (tên vua Minh Mạng).

(6) Tấn đại phu: Ngụy Giáng nước Tấn làm đại phu, nói với Tấn hầu nên hòa Nhung (hòa với rợ Nhung), có năm điều lợi.

(7) Tổng Tướng Quốc: Tần Cối làm Tể tướng đời Cao Tông nhà Nam Tống, chủ hòa với nước Kim và giết tướng giỏi là Nhạc phi.

(8) Thành hạ chi minh: thề ở dưới thành, ý nói hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhượng ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp.

(9) Chiên cừu: áo dệt bằng lông, người Di ở Tây Bắc Trung Quốc thường mặc. Ý nói người Pháp cũng là một loài rợ.

(10) Giáp đạo: lấy ở sách Chu Lễ (Thu quan, Khanh sĩ): “Súy kỳ thuộc giáp đạo nhi rất tam công = sai thuộc hạ, ra hai bên đường, dẹp đường để tam công đi”. “Tất” là dừng việc đi lại cho sạch đường, chữ dùng để nói vua ra đi.

Cử phan: tức “cử ngọc chỉ, phan ngọc chỉ = cất gót ngọc, vin gót ngọc”. Tả truyện: Tấn Hiếu Công bảo Triển Hỉ: quả nhân nghe ông thân cất gót ngọc.

Cha lợn, mẹ chó (phu trệ mẫu khuyển): ý muốn nói đến giáo dân gọi linh mục là cha, gọi các nữ tu là mẹ.

(11) Chi Thu: sách cũ của giáo sĩ phiên tên Jesus là Chi Thu, sau lại phiên là Gia Tô, rồi Giê Su.

(12) Nguyên văn: tiên ưu chi nghĩa (nghĩa phải lo trước), do câu: “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu” của Phạm Trọng Yêm đời Tống, trong bài ký Nhạc dương lâu, nghĩa là lo trước cái lo của thiên hạ.

(13) Mạo Đốn: tên Thiên vu (vua) Hung Nô (210-174 nước Tây lịch) lúc đầu triều Hán. Kim liêu: nước Kim, nước Liêu, đều do chiến tranh với nước Tống.

(14) Nguyên văn: “Phệ tê hà câp” (cắn rốn sao kịp). Tả truyện: Sở Văn Vương đánh nước Thân, đi qua nước Đặng. Các cháu Đặng hầu xin giết vua Sở, Đặng hầu không cho, các cháu bảo: “làm mất nước Đặng là người này, không sớm tính đi, sau này phải cắn rốn” (ân hận).

(15) Nguyên văn: “Giản ti” (kén vào các chức).

(16) Thảng cưỡng: tiền vàng và xâu tiền (của Nhà nước).

(17) Dịch chữ: “ti lạp” là sợi tơ và hạt gạo.

(18) Nguyên văn: “Chương tương thức hóa” tức lễ văn để giúp vào việc giáo hóa (tạm dịch chưa rõ điển).

(19) Nguyên văn: “Hoàng cực chi dụng phu”, chữ Kinh Thư, thiên Hồng phạm: “Hoàng kiến kỳ hữu cực, liễm thời ngũ phúc, dụng phu tích quyết thứ dân = vua có được đức hoàn toàn tối cao, được hưởng năm phúc, đem chia cả cho nhiều dân”.

(20) Nguyên Văn: “Hữu tử khả chấp”, tức lời khen khá được Thiên Quân Trần trong Kinh thư: “Chung hữu từ vu vĩnh thế = các đời sau mãi mãi có lời khen người”. Thành Vương nhà Chu sai ông Quân Trần ra cai trị đất phương đông, hãy bảo làm dậy các lời rộng lớn của Chu Công, để được tiếng tốt.

(21) “Kiến nghĩa bất vi”: Thấy nghĩa mà không làm. Luận ngữ (Vi chính) có câu: “Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã = thấy nghĩa mà không làm, không phải là có dũng khí”.

(22) Nguyên văn: “Hàn thu chi tiết”, lấy ý ở câu: “Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bá chi hậu điêu dã = khi có lạnh của mùa đông trong năm, mới biết cây tùng cây bá rụng lá sau các cây khác” (Luận ngữ, Tử Hãn).

(23) Nguyên văn: “Kính thảo chi phong”, lấy ý ở câu thơ cổ “tật phong tri kính thảo = gió mạnh mới biết cỏ cứng”.

(24) Lý Cương: Khâm Tông nhà Tống (1126 - 1127) phong Lý Cương làm Thượng thư Tả thừa để cầm quân đánh nước Kim, vì Lý Cương chủ chiến. Quân Kim đánh vào gấp quá, sai vua quan nghị hòa, Lý Cương chống hòa nghị, vua bãi chức Lý Cương. Thái học sinh Trần Đông và mấy chục vạn dân kinh đô đến cửa khuyết xin vua tiếp tục dùng Lý Cương. Vua nghe theo. Lý Cương đánh lui quân Kim (Tống sử).

(25) Bào Tuyên: đời Hán Ai đế, Bào Tuyên lam Tư lệ, can vua rồi bị tội; Bác sĩ đệ tử tên Hàm cầm cờ phan đến nhà Thái học, gọi học trò cả nghìn người dâng thư lên vua, vua vì thế giảm tội cho Bào Tuyên (Hán thư: Bào Tuyên truyện).

Liệt thánh: chỉ các vua đời trước của triều đại.

TB

VỀ CUỐN XÃ CHÍ CỔ MỚI TÌM ĐƯỢC

ĐỖ THỈNH

Trước đây tôi được một cụ già thôn Hạ Yên Quyết (tên Nôm là làng Cót) xã Yên Hòa, huyện Từ Liêm, Hà Nội cho biết làng này có cuốn xã chí cổ lưu trữ ở đình làng. Nhưng trong thời gian chiến tranh chống Pháp, các cụ coi đình đã đem về nhà cất giữ nên cuốn xã hí đã bị thất lạc. Tôi đã đi hỏi nhiều người trong làng về cuốn xã chí này, nhưng chỉ tìm được bản dịch ra Quốc ngữ của cụ Hoa Bằng Thúc Trâm người làng đã quá cố.

Gần đây, nhân đợt đi sưu tầm thư tịch Hán Nôm ở làng Cót cùng với một số cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm(1), tình cờ chúng tôi đã tìm thấy cuốn xã chí ở nhà cụ Quản Đình Tình (xóm Đình), cuốn Thế phả họ Nguyễn ở nhà ông Nguyễn Minh Bằng (xóm Chùa) và nhiều tư liệu Hán Nôm khác.

Xã chí có tên là Bạch Liên khảo ký, sách chép tay, viết bằng chữ Hán, gồm 26 tờ khổ nhỏ. Sách không ghi tác giả và niên đại.

Về tác giả của Bạch Liên khảo ký, theo dịch giả Hoa Bằng thì ông Huệ Phủ Nguyễn Quang Địch nguyên Tri phủ Kiến An và phủ Hà Trung dưới triều vua Minh Mệnh (1820 - 1840) đã viết cuốn sách này vào khoảng năm 1833, còn đoạn cuối sách ghi tên những người thi đỗ từ năm 1870 trở đi là do người đời sau thêm vào(2). Thế phả họ Nguyễn(3) cũng nêu rõ: Bạch Liên khảo ký do Nguyễn Quang Định soạn, ông là người trong dòng học đã đỗ Tú tài và đỗ khoa tuyển Giám sinh. Năm 1872 được cử làm Tri huyện Hiệp Hòa. Năm 1828 thăng làm Tri phủ Bình Giang. Năm 1833 chuyển làm Tri phủ Kiến An, sau chuyển làm Tri phủ Hà Trung (Thanh Hóa). Năm 1835 chuyển làm Tri phủ Quảng Ninh, 3 tháng sau trở về làm Tri phủ Kiến An theo yêu cầu của dân chúng, vì nơi đây có nhiều trộm cướp. Năm Minh Mệnh 17 (1836) ông được thăng làm tổng đốc Hà Ninh. Vua ban chiếu khen ông là người “có tài nho phong quan thế, có đức tinh anh nhã khiết, mẫn cán sửa sang mọi việc, tặng nhũ phẩm…”. Thế Phả không thông tin cho chúng ta biết Nguyễn Quang Địch mất năm nào, nhưng qua sơ lược tiểu sử của ông, chúng tôi cho rằng Nguyễn Quang Địch không thể viết Bạch Liên khảo ký vào năm 1833 trong khi ông đang làm Tri phủ Kiến An, nơi “có nhiều trộm cướp” và ở xa quê nhà như cụ Hoa Bằng phán đoán. Có nhiều khả năng Nguyễn Quang Địch viết Bạch Liên khảo ký vào thời gian ông nghỉ hưu ở quê nhà, khoảng những năm cuối đời vua Minh Mệnh.

Về nội dung của bạch Liên khảo ký, sách chia làm 8 phần, xin giới thiệu sơ lược như sau:

Phần mở đầu, tác giả cho biết Hạ Yên Quyết xưa có tên chữ là Bạch Liên Hoa xã. Làng được hình thành từ xa xưa, nhưng đến thế kỷ thứ IX khi đắp xong thành Đại La làng mới ổn định. Lúc đầu làng có 4 dòng họ: Nguyễn, Hoàng, Quản, Doãn, sau mới thêm dòng họ khác. Khi tác giả viết Bạch Liên khảo ký, làng có 470 mẫu (Bắc bộ) ruộng, trong đó có 50 mẫu ruộng công.

Các phần sau giới thiệu sự tích các vị Thành hoàng, lai lịch đình, chùa, văn chỉ, phong tục tập quán, tế lễ, vào đám, khao vọng và các nhan vật khoa bảng, danh vọng trong làng v.v…

Đáng chú ý là xã chỉ giới thiệu di tích lịch sử chùa Ngọc Quán còn nhiều di vật đời Lê và quả chuông đúc thời Tây Sơn (1800). Làng có ngôi đình (dựng năm 1832) và 3 ngôi miếu (thờ 5 vị Thành hoàng, trong đó có 2 vị người địa phương, đặc biệt là cô gái họ Doãn bị thế lực cường hào ép duyên khi chưa thành niên, có sức khỏe ngày gặt mấy sào ruộng, lấy cả tre để gánh lúa, nhưng bị sét đánh chết). Về phong tục tập quán, làng có 3 mẫu ruộng công gọi là Tiến sĩ để biếu những người đỗ đại khoa nhằm khuyến khích học tập.

Phần Nhân vật khoa bảng chép tóm tắt tiểu sử các vi đỗ đại khoa (nhất, nhị, tam giáp Tiến sĩ) từ thời Trần đến Lê Trung hưng (khoảng những năm 1393 - 1660), người làng đã có 10 người thi đỗ. Người khai khoa là Hoàng Quán Chi đỗ nhất giáp cập đệ Thái học sinh (1393), các vị đỗ Hoàng giáp như: Nguyễn Như Uyên (1469) làm quan tới Tể tướng thời Lê Sơ, Nguyễn Nhật Trang (1595), Hoàng Bối đỗ liền hai khoa Tiến sĩ (1565 và 1568) v.v… Tiếp theo là danh sách những người trúng Tam trường thi Hội và thi Hương, thời Lê có 32 người, thời Nguyễn có 100 người. Ngoài ra còn ghi tên 11 người làm quan không phải do thi cử, như Nguyễn Quang Lãm làm Tham tri giám sự (đời Lê), tước Thái Nhân bá v.v…

Phải nói rằng Bạch Liên khảo ký là cuốn sách chỉ có giá trị khi nghiên cứu lịch sử văn hóa xã hội vùng ven thành Thăng Long thế kỷ XIX.

CHÚ THÍCH

(1) Các chị Duong Thị The và Phạm Thị Thoa. mượn cuốn xã chí về sao chép lạ i.

(2) Theo bản dịch của Hoa Bảng Hoàng Thúc Trâm.

(3) Tú tài Nguyễn Kỳ soạn năm Khải Định thứ 3 (1919).

TB

BẢN MỤC LỤC XÃ PHÚ KHÊ, HUYỆN HOẰNG HÓA TỈNH THANH HÓA

THANH HOẰNG KHÊ LÊ XUÂN HOÀ

Xã Phú Khê tên xưa là Phú Trừng trang, tên tục quen gọi là làng Kẻ Đừng, thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Phú Khê trước có 7 thôn: Hảo Thôn, Tự Đông, Tự Trung, Phú Trung, Trung Tây, Phú Thượng và Trịnh Thôn, nay thêm thôn Tân Đức. Phú Khê là xã lớn nhất tỉnh Thanh Hóa.

Năm Lê Cảnh Hưng 34 (1773), Bảng nhãn Lê Quý Đôn lúc này đang làm doanh điền ở Thanh Hóa, có soạn cho Phú Khê hai bản Mục lục, một bản chữ Hán và một bản chữ Nôm. “Mục lục” là bài văn nói về phong tục và việc tế tự trong làng.

Cứ tháng năm vào những ngày kỳ phúc trong tháng 2 âm lịch, các thầy tư văn con các ông Cử, Tú tới Nghề Thượng (đình làng) bình văn hai bản mục lục đó, phía trong đình chia hai dãy tràng kỷ cho các cụ Cử, cụ Tú trong làng ngồi nghe. Cụ thủ chỉ làng là bực văn thân ngồi cầm chầu điểm câu, nếu không biết dứt câu thì “cắc cắc” đọc lại, người vây xung quanh để nghe rất đông, trong đó có không ít các cô thôn nữ xinh đẹp chăm chú nghe, thỉnh thoảng có tiếng cười khúc khích, làm cho các thầy tư văn chưa vợ cảm động đỏ mặt.

Nhiều gia đình trong làng có các bản sao chép tay để ngâm nga và dạy truyền cho con cháu. Hai bản mục lục được viết trong vóc vàng diềm vóc đỏ, chỉ căng ra để đọc trong ngày lễ hội, xong rồi được cất vào trong hòm sơn son do các ông từ trông nom bảo quản.

Đây là một tài sản quý về văn hóa quê làng, văn chương dùng nhiều điển tích sâu xa, mục đích ca tụng và khuyến khích dân tình bảo tồn thuần phong mỹ tục.

Năm Canh Ngọ (1990) địa phương có nhờ tôi sao lại hai bản mục lục trên vào vải vàng diềm đỏ, dựa vào các văn bản còn lại trong nhân dân, đồng thời có phiên âm, dịch nghĩa cho dễ đọc, dễ hiểu. Nay xin giới thiệu toàn bộ để độc giả tham khảo.

I. BẢN MỤC LỤC CHỮ HÁN

Phiên âm:

Bản xã kỳ phúc nhập tịch tang cưu xướng ca

Lê triều Bảng nhãn Lê Quý Đôn cung soạn

(Dụng Thiên tự văn tập cú xướng tịch từ).

Thần tú liệt trương, ngưỡng đồ toàn ky huyền cán, Nhật Nguyệt danh trắc, hân quan luật lữ điều dương.

Duyệt dự thả khang,

Nhĩ hà nhất thể.

Cung duy thánh triều:

Ái dục lê thủ,

Thần phục nhung khương.

Thùy củng bình chương, hách hách hy huy lãng diệu,

Nhân từ ẩn trắc, dương dương không cốc truyền thanh.

Tả Quảng nội, nhi hữu Thừa ninh,

Tập quyền anh, nhi tụ phần điển.

Tọa triều vấn đạo, mỗi đàm tất thư bích kinh,

Lặc bi khắc minh, ái hữu sùng công mậu thực.

Xích bích phi bảo, đa sỉ thực ninh,

Hình đoan biểu chính, di quyết gia du.

Thu thu đông tàng, vụ tư giá sắt,

Hóa bị thảo mộc, lại cập vạn phương.

Ngã Phú Khê xã: dự tại thang mộc ấp trung dã,

Bối ấn diện lạc, khoa nhạn môn tử tái chi hùng,

Phù vị cứ kinh, hữu kê điền xích thành chi thắng.

Đại tiểu thượng hạ đẳng:

Tư phụ sự quân,

Nhiếp chức tòng chính.

Ngoại thụ phó huấn,

Nhập phụng mẫu nghi.

Văn tắc:

Điềm bút luân chỉ, cao quan bội liễn nhi trì dự đan thanh.

Võ tắc:

Bố xạ liên hoàn, khu cốc chấn anh nhi tuyên uy sa mạc.

Phú hỹ, hộ phong bát huyện

Thịnh tai, gia cấp thiên binh.

Kỳ vi sỹ dã:

Hạo hạo như bạch câu thực trường,

Ngang ngang tự minh phượng tại trúc.

Ngôn hồ an định, hằng thứ ky ư trung dung,

Dung chỉ nhược tư, mỗi kiên trì ư nhã tháo.

Kỹ vi nông dã: Lư hoa độc đặc chi thường nhiêu,

Khoáng viễn miên diễu chi tận tịch.

Thục tái Nam mẫu cần cần thuế thục cộng tân,

Tồn dĩ cam đường, miễn miễn lao khiêm cẩn sắc.

Ngôn hồ công tắc đắc năng mạc vong,

Điếu xảo nhiệm câu chi thiện mỹ.

Ngôn hồ Thương tắc tịch thậm vô cạnh,

Hải hàm hà đạm chi lịch thường.

Kỳ dư:

Nam hiệu tài lương,

Nữ mộ trinh khiết.

Quân hưởng thế lộc, sỹ phú võng cảm hủy thương,

Tranh khoa xa mã khinh phì, tịnh giai giai điệu.

Tư giả:

Tứ diên thiết tịch,

Tiếp bồi cử trường.

Tiên nhi tế tự chứng thường,

Thứ dĩ huyền ca tửu yến.

Lạc thù quý tiện,

Lễ biệt tôn ti.

Nhục tắc tự lan tư hinh,

Tửu tắc xuyên lưu bất tức.

Quả trân lý nại,

Thái trọng giới khương.

Nhân nhân thích khẩu xung trường, thăng giai nạp bệ,

Cá cá công tần nghiên tiếu, cổ sắt suy sinh.

Khởi đồ thích tạ hoan chiêu,

Tín nãi phúc duyên thiện khánh.

Phục nguyện:

Thiên địa huyền hoàng tăng kỳ hựu,

Đo ấp hoa hạ bố kỳ hòa.

Thành thích phân lợi tục chi công,

Quảng tế nhược phù khuynh chi hóa.

Lão thiếu tắc đốc sơ thành mỹ, thận chung nghi lệnh

Hiển đạt tắc cầu cổ tầm luân, tán lự tiêu giao.

Hảo tước tự mi, cô lâm cao nhị hạnh tức,

Thốn âm thị cạnh, nãi vinh nghiệp chi sở ki.

Nhất gia phu xướng phụ tùy,

Hạp cảnh thượng hòa hạ mục.

Võng đàm bỉ đoản,

Mị thị kỷ trường.

Tính tĩnh tình dật như ngọc xuất kim cương,

Đức kiến danh lập như kim sinh lệ thủy.

Phi duy:

Đồng khí liên chi,

Vĩnh tuy cát triệu.

Tương đổ thân thích cố cựu, giai tác nhân nhân,

Cố đáp thẩm tường, khể thủ tái bái.

Khả chi lễ dã, vị trợ ngữ yên.

Tư xướng.

Cảnh Hưng Lê Hiển Tông tam thập tứ niên, cát nguyệt, cốc nhật.

Bản dịch:

Bản Thúc ước mục lục xã Phú Khê do Bảng Nhãn Lê Quý Đôn soạn (Bản này dùng tập cú trong Thiên tự văn).

Tinh Tú phô bày ngắm thấy huyền vi vũ trụ;

Trời trăng tròn khuyết mừng xem quy luật hóa cơ.

Vui vẻ an khang

Xa gần một thể.

Kính nghĩ rằng: Triều nghi thánh chúa:

Yêu thương chăm sóc nhân dân,

Nhung khương thỏa tình thuần phục.

Rủ áo vui trăm họ thanh bình, huy hoàng rạng rỡ,

Lòng nhân tỏ một niềm thắm thiết, hang thẳm truyền vang.

Đây thông từ Quảng nội thư đường,

Đó đạt tới Thừa minh giảng viện.

Tụ hội anh tài,

Góp gom kinh điển.

Tài triều bàn lẽ đạo thường, nêu rõ gốc xưa Khổng Mạnh,

Bia đá khắc minh tráng lệ, ghi đầy đức cả công cao.

Ngọc kia chưa quý, có nhiều kẻ sĩ mới hay,

Dáng ấy mới cao, không ít mưu cao lưu lại.

Mùa thu, thu thập kết thành,

Mùa đông, bảo tàng hiệu quả.

Chăm lo cày cấy,

Tính liệu nông tang.

Đức hóa tràn ngập cỏ cây,

Công ơn lan ra mọi nẻo.

Xã Phú Khê ta nằm trong nôi Đế Vương sinh trưởng:

Lưng dựa ấn, mặt ngành sông, thế đất khoe cảnh trí anh hùng:

Đó hình này, kia dáng ấy, quê hương quả thanh danh thẳng tích.

Tất cả trẻ già trên dưới:

Trung hiếu hết lòng,

Đức tài thi thố.

Ra ngoài vâng lời thầy dạy,

Về nhà tuân phép mẹ khuyên.

Văn thời: Nhân luân điềm đạm, chức cả quyền cao, tiếng thơm lưu sử sách.

Võ thời: Thao lược tài ba, ngựa xe rong ruổi, hiển hách chốn sa trường.

Phú hậu thay! Dân cư bao phong tám cõi,

Phồn thịnh nhỉ! Gia đình đủ cấp ngàn quân.

Kẻ sỹ thời: Trắng xóa bạch câu, cây trúc xôn xao chim phượng.

Tấm lòng an định, luôn giữ đạo trung thường,

Chỗ đứng suy tư, vãn in điều nhã tháo.

Kẻ nông thời: Lừa la bê nghé chăm sóc béo to,

Đấy vắng hoang vu thảy đều khai phá.

Cầy cấy siêng làm, tô thuế đầy đủ lo toan,

Công đức đội ơn, khiêm tốn cần cù lao động.

Kẻ thợ thời: Học cái hay nhớ mãi,

Nghề tinh xảo trau dồi.

Nghề buôn thời: Rất mực cạnh tranh,

Đó đây đi khắp.

Biển rộng sông dài

Trải qua mặn nhạt.

Ngoài ra: Trai chuộng tài lương,

Gái ham trinh khiết.

Hưởng lộc đời, này nọ ai kẻ dám chê,

Đua sắc ngựa xe, giỏi hay mọi người đều tốt.

Này đây: bầy bàn thết tiệc,

Nâng chén chúc nhau.

Trước sau tế lễ phụng thờ,

Sau đó đàn ca tửu yến.

Vui vầy trên dưới,

Nề nếp tôn ti.

Thịt thơm phức hoa tan,

Rượu ngon tràn nước chảy.

Hoa quả đủ loài quý giá,

Cỏ cao lắm thứ trọng cao.

Ai nấy đều no dạ hân hoan, lên thềm xuống bậc,

Mọi người tỏ vui lòng hớn hở, dịp phách cung đàn

Đâu phải là cảm tạ mua vui,

Quả thật đúng phúc duyên thiện khánh.

Trời đất bao la, giúp thêm Phúc Lộc,

Xóm làng khắp chốn, bày tỏ Nhân Hòa.

Để nên công thuần phong mỹ tục, bỏ mọi phiền hà,

Mở rộng nếp, trợ khốn giúp nguy nêu cao giáo hóa.

Già trẻ chân thành đôn hậu, tốt đẹp thủy chung,

Hiển đạt tìm lẽ nhân luân, cao xa khảo cứu.

Hưởng thụ thuận đường,

Tước cao xứng đáng.

Chen vai tiếc từng tấc bóng, dựng xây âu để sự nghiệp quang vinh,

Mọi nhà chồng xướng vợ theo, mục đích giúp cho gia đình hòa thuận.

Đừng chê người kém,

Chớ cậy mình hơn.

Tính tình êm dịu như ngọc núi Kim Cương,

Danh đức như vàng sông Lệ Thủy.

Chẳng phải đó là: Đồng tâm chí khí, tốt lá liền cành.

Mãi mãi dài lâu, tốt lành bền bỉ.

Cùng nhau xem như thân thích cố cựu, tất thảy yêu thương.

Kể lể tận tường,

Cúi đầu làm lễ.

Trợ ngữ mấy câu,

Gọi là phải phép.

Cảnh Hưng, Lê Hiển Tông năm thứ 34 (Quý Tỵ 1773).

II. BẢN MỤC LỤC CHỮ NÔM(*)

Thời vừa vận mở dương tam, Rồng bay càn ngũ

Chúa Nghiêu Thuấn chín lần vòi vọi, áo rũ thong dong,

Dân Đường Ngu tám cõi hây hây, tiệc vầy ca vũ.

Áng tang cưu đã rộng phô trương,

Bảng thúc ước đem ra răn nhủ.

Đình ta nay: Tiếng nức cõi Thanh, danh từng đất Phú.

Mạch du long quanh quất một bầu, cõi mở vang vang,

Thủy dưỡng ấm phao tuôn bốn mặt, nước quanh xô xố.

Đất đình hay cấu khí anh linh,

Người mừng thấy rõ tài tuấn tú.

Văn quyền cao Thai Đẩu, kinh luân xa sánh nhị Trình(1)

Võ chức trọng việt mao, tài thao lược khá phen ngũ hổ(2)

Quan hai đường ắt đã nức danh,

Dân bốn nghiệp đều vui sở thú.

Sĩ thời: Nước một bầu Nhan(3),

Cảo nhiều níp Dũ.

Giá chẳng ngại cửa Trình đứng tuyết, xem xét tường trăm quyển nghìn chương.

Đào hằng vui sông Tứ hỏi nhân, tập tành lầu năm xe hai đầu.

Văn hoàng quyển đã lầu. Bảng thu vi sớm đỗ.

Nông thời: Cơm Hán cửa tô cháo Chu trăm mẫu.

Non Phú Xuân đủng đỉnh việc cày bừa, ưa thú thanh nhàn,

Nội Sằn đã nghêu ngao bề nông phố, vui lòng cần khổ.

Sánh Hậu Nguyên thóc nhận kho tàng(4)

So Trinh Quan của đầy thương khổ.

Công Thời: Phép biết vuông tròn, Nghề dùng chạm trổ.

Chước từng học Yển Sư vũ mộc, Kiện tâm tư ấy để nương long,

Khuôn chẳng sai Thâu Tử đốc thằng, ra tay thước khuông phù điện vũ.

Lương công danh đã nức thơm, chính cuộc ai nào dám đọ.

Thương thời: Vốn nghiệp đấu lường, nghề thông thương cổ.

Thế từng biết khi mua khi bán, đong đưa đà khắp chốn thị thành,

Vật hằng dời chốn có chốn không, lừng lẫy đã trải nơi chợ búa.

Cửa Đào Chu tiền chẳng có ngần(5)

Nhà Quách Huống vàng đà vô số.

Sang phong lưu, giàu cũng phong lưu,

Đất chế độ, người càng chế độ.

Thơ ngâm thất nguyệt, chốn chốn đều chứa để tằm tơ,

Lễ chấp tam bôi, nhà nhà đã chất nhiều là lụa.

Mừng thay vật thịnh của nhiều, vui bấy nhà no người đủ.

Vật sơn hải mâm đầy chồi chội, phô trương nhiều vẻ quý vẻ thanh.

Rượu thánh hiền tay chuốc vơi vơi, say sưa thỏa chén anh chén chú.

Lệ hằng lại giờ minh nhân, thánh thọ vâng vin phép cũ.

Trường là trường lẽ nhạc nên giữ chữ nghiêm trang,

Chốn là chốn y quan, phải ra lời răn nhủ.

Quản giáp tu xoang mới khôi hài, đào nương đặng điệu bề thơ phú

Hát cho hay, đàn cho ngọt, giáo phường ty cứ phép trò vè,

Ngồi có chốn, đứng có nơi, bàng quan khách há cho lỗ mỗ.

Phải giữ đạo trung thường, chớ có lời khinh vũ.

Như vậy lễ thờ thần mới kính, thần phúc cho hữu vĩnh thiêm tăng

Như vậy trường chúc thánh mới nghiêm, thánh tú hưởng vô cương vạn thọ.

Toàn đình vui hạc chúc rùa tâu, bàn xã hưởng dân khang vật phụ.

Nay ước.

Cảnh Hưng Hiển Tông tam thập tứ niên, cát nguyệt, cốc nhật.

Lê triều Bảng Nhãn Lê Quý Đôn soạn.

Khải Định lục niên, Cử nhân Tri huyện hưu trí Nguyễn Chi Viễn y sao.

CHXHCN năm 1990 (Canh Ngọ) cán bộ hưu trí Lê Xuân Hòa phụng sao.

CHÚ THÍCH

(*) Tôi đã cung cấp bản Mục lục chữ Nôm này cho ông Cao Hữu Lạng phiên ra chữ Quốc ngữ và đăng trong kỷ yếu Hội nghị chuyên đề về Lê Quý Đôn, do Sở VHTT Thái Bình ấn hành năm 1988. Đáng tiếc là bản phiên âm của ông Lạng không có chú thích. Nay tôi bổ sung phần này - LXH.

(1) Nhị Trình: Trình Di, Trình Hiệu (hai anh em nhà hiền triết đời Tống).

(2) Ngũ Hổ: năm dũng tướng đời Tam Quốc (Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu).

(3) Nước một bầu Nhan: sách luận ngữ có câu “Nhất dan tự, nhất biểu ẩm = một lẵng cơm một gầu nước”. Nhan Hồi là một đệ tử xuất sắc của Khổng Tử, an bần lạc đạo.

(4) Nội Sằn dã: Y Doãn là bậc hiền tướng. Khi hàn vi ông cày ruộng ở Hữu Sằn. Vua Thang biết tiếng cho đem lễ hậu đến đón mời. Ông đã giúp cho vua Thang làm nên nghiệp vương nhà Thương.

(5) Phạm Lãi sau khi giúp Việt Câu Tiễn trả thù được Ngô Phù Sai, khôi phục đất nước, đã từ bỏ quan chức lánh đến đất Đào, đổi tên là Đào Chu Công, làm nghề kinh doanh, nổi tiếng giàu có trong cả nước.

TB

BA BÀI THƠ CHỮ HÁN VỀ HÀ NỘI

TRƯƠNG CHÍNH
ĐINH XUÂN LÂM

Xin giới thiệu ba bài thơ hay bằng chữ Hán viết về cảnh và tình của Hà Nội xưa, ba bài thơ này trước đây chưa được công bố trên sách báo. Chúng tôi sưu tầm được trong cuốn Hồng Tiều thi tập, bản chép tay do cụ Phan Trọng Quảng là cháu nội của Phan Trọng Mưu, tác giả tập thơ, cung cấp. Phan Trọng Mưu (1853 - 1904), quê làng Đông Thái (nay là xã Châu Phong), huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đậu Tiến sĩ năm 1879, ông ra làm quan ngoài Bắc, đến khi phong trào Cần vương chống Pháp xâm lược bùng nổ (1885), ông tham gia phong trào. Trong tờ dụ của Đồng Khánh ban cho Hoàng Kế Viêm có nhắc các quan cựu thần như Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê Mô Khải, Nguyễn Nguyên Thành, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nha, Ngô Xuân Quýnh nếu ai về thú thì được phục nguyên chức… Song ông cùng bạn đồng liêu nhất thiết không chịu. Sau khi vua Hàm Nghi bị Pháp bắt (1888), rồi Phan Đình Phùng mất (1895), phong trào thất bại, ông chuyên tâm dạy học cho đến khi mất.

Bài 1:

Phiên âm:

Thăng Long thành hoài cổ
Thử địa phồn hoa kỷ độ kinh,
Niên niên hồi thủ bất thăng tình.
Ngưu Hồ(1) dĩ biến tam triều cuộc,
Long Đổ(2) không dư bách chiến thành,
Nùng Lĩnh phù vân kim cổ sắc,
Nhị Hà lưu thủy khấp ca thanh.
Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại,
Ưng vị giang sơn tẩy bất bình.

Tạm dịch:

THÀNH THĂNG LONG, NHỚ XƯA
Chốn này trải mấy độ phồn hoa,
Càng gẫm càng thêm nỗi xót xa.
Long Đổ thành trơ trăm trận đánh,
Ngưu Hồ sóng vỗ mấy triều qua.
Núi Nùng mây vẽ mầu kim cổ,
Sông Nhị dòng trôi tiếng khóc ca.
Cướp giáo bắt thù ai đó tá?
Nên vì non nước tuốt gươm ra!

Bài 2:

Phiên âm:

Đề Nhị Trưng miếu(3)
Khả lân lục thập ngũ dư thành,
Tận hạ quân giai tỉ muội binh.
Huyết chiến quyết thù phu chúa nghĩa,
Hùng tâm bất quý nữ vương danh.
Đồng tiêu(4) cố quốc tình vô hạn,
Thạch hóa(5) kim thân hận vị bình.
Vượng khí do tồn thiên cổ tại,
Tu mi hồi thủ lệ không linh.

Tạm dịch:

ĐỀ ĐỀN HAI BÀ TRƯNG
Tiếc thay sáu chục lẻ năm thành,
Đều thuộc Hai Bà đóng nghĩa binh.
Huyết chiến trả thù chồng nghĩa liệt,
Hùng tâm rõ mặt đáng trung trinh.
Cột đồng nước cũ tình vô hạn,
Tượng đá khôn khuây hận chửa bình.
Linh khí vẫn còn trơ vạn thuở,
Râu mày ngoảnh lại luống buồn tênh.

Bài 3:

Phiên âm:

Đề lý bát đế tự(6)
Diệp lạc bình tàn sự dĩ liêu,
Đặc lưu cổ miếu ỷ thiều nghiêu.
Hàn sơn thụ mật tàng triêu điểu,
Cô tháp vân thâm ngọa ngọ tiều.
Kim tượng hữu duyên lưu tĩnh địa,
Thạch bi vô tự nhận tiền triều.
Khả lân bát đế giang sơn tự,
Phân phó nhàn tăng quản tịch liêu.

Tạm dịch:

ĐỀ ĐỀN LÝ BÁT ĐẾ
Lá rụng bèo tan chuyện đã lâu,
Duy còn miếu cổ đứng cheo leo.
Cây dầy núi lạnh chim mai đậu,
Tháp vắng mây che tiều ngủ khoèo.
Tượng Phật may sao còn lại đấy,
Bia không đề chữ biết triều nào.
Khá thương tám vị thờ nơi ấy,
Phó mặc sư nhàn chốn quạnh hiu.

CHÚ THÍCH

Hồ Trâu (tức Hồ Tây) gắn liền với truyền thuyết con trâu vàng tìm mẹ.

Rốn Rồng, theo thuyết phong thùy xưa, thành Thăng Long đặt vào rốn một con rồng.

Đền thờ Hai Bà ở làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì (nay là phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội)

Cột đồng Mã Viện (đời Hán) chôn ở vùng biên giới, sau khi đánh bại nghĩa quân Hai Bà, để ghi chiến công của mình.

Theo truyền thuyết, Hai Bà khi thua trận đã nhảy xuống sông Hát tự vẫn và đã hóa thành đá.

Đền Lý bát đế (thờ tám vị vua đời Lý) ở xã Cổ Pháp (Đình Bảng), huyện Từ Sơn (nay là Viên Sơn) tỉnh Hà Bắc.

TB

BÀI PHÚ "BUÔNG THUYỀN TRÊN HỒ" CỦA PHAN HUY CHÚ

KIM ANH

Trong suốt cuộc đời làm quan không lấy gì làm thông đạt của mình, Phan Huy Chú (1782 - 1840) có hai lần được cử đi sứ nhà Thanh: lần thứ nhất vào năm 1825, lần thứ hai vào năm 1831. Mỗi chuyến đi như vậy ông đều có một tập khá dày gồm những bài thơ, phú, từ ghi lại các sự kiện xảy ra trong chuyến đi bằng những cảm xúc của mình trên suốt cuộc hành trình, tựa như một tập du ký với nhiều thể loại đầy hấp dẫn.

Hoa thiều ngâm lục là tập thơ phú ông làm trong chuyến đi sứ lần thứ nhất. Toàn tập có hai quyển: quyển thượng gồm một bài tựa, 161 bài thơ và ba bài phú. Quyển hạ gồm 114 bài thơ, 1 bài phú và 8 bài từ.

Phiếm hồ phú là một trong bốn bài phú khá hay ở quyển thượng của Hoa thiều ngâm lục(*). Bài Phú miêu tả phong cảnh và cảm xúc của tác giả khi đi qua hồ Động Đình - một thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài phú nói trên, một áng văn hay của Phan Huy Chú mà cho tới nay vẫn chưa được công bố.

Âm Hán Việt:

Phiếm hồ phú

Dư ký lịch bát quế chi nham khê,

Phù Tam Tương chi yên trúc;

Cùng Sở vọng vu Hoành Dương,

Diếu thương châu vu Nhạc Lộc,

Sơn xuyên chi lạc, hân hân bão quan,

Nhi hung thôn Vân Mộng do khiếm nhiên vi túc dã!

Cửu hạ tình minh

Yên thủy án trình,

Tái phiếm, tái du,

Trực lâm Động Đình.

Khóa ba lãng chi thương mang,

Lăng vân ái ư yểu minh.

Chỉ Quy Sơn nhi túng trạo,

Miện Ba Nhạc dĩ dương linh.

Hạo tân nhai kì vô tế

Hợp thượng hạ ư không thanh.

Phóng trung lưu chi nhất diệp

Diểu khách tứ hồ phù bình.

Thiên lý vân thiên,

Ỷ hạm khấu huyền.

Hồ sơn tứ cố,

Cổ ý du nghiên!

Nãi chiêu tùy giới giả nhi cáo chi viết:

Ba gian loa kế,

Nham tụ uất thông,

Tư nãi Thương Quân sơn chi thập nhị phong dã!

Dạo đài ngọc vũ

Đế nữ di tông.

Tưởng tiên cư chi hoàn bội,

Quýnh vân lãng kỳ không mông!

Viễn nhai Lộc Giác,

Thụ mộc phù sơ.

Thử hựu Đào Chu Công chi cố sở cư dã!

Ngũ hồ vân quốc,

Thiên địa cừ lư.

Diểu bá đồ chi vinh lợi,

Dư yên thảo vu hoang khư!

Ế vãng tích chi dĩ liêu,

Khái phương du kì nan vấn.

Muộn thanh nhạc hồ tiên châu

Yểu phồn hoa ư hải thẩn!

Duy lưu trĩ chi trường tồn,

Ái phong quang kỳ bất tận.

Liểu lãm cổ dĩ hưng hoài,

Khởi hạ trùng chi nghi thẩn!

Thẩn Động Đình chi thắng khái

Khởi bình tích chi bão văn,

Tằng hồ sơn chi nhập mộng.

Hỉ câu lạc chi vấn tân,

Tứ tráng quan dĩ khoát mục,

Duyệt giai cảnh dĩ di thần,

Tăng giang hồ chi kỳ khí,

Đổ thiên địa chi đại văn.

Giác tư dư kỳ kham tiện,

Hạp tràng vịnh ư nam huân!

Ư thị mệnh tôn khai chước,

Huy bút nhàn nga.

Ngưỡng ngoạn thanh vân,

Phủ ngoạn lục ba.

Ngâm tình thai đãng,

Trùng kế dĩ ca.

Ca viết:

Thủy bạo diểu hề sơn vi mang,

Khách chu phiếm hề hồ trung ương;

Ngư long thiếp hề vân hà tường;

Ngưỡng thần trạch hề tưởng linh quang,

Yểu dư tư hề đối tiêu tương.

Ca khúc ký hoàn,

Tà dương dục trụy.

Lương phong từ lai,

Vi ba sạ khởi.

Nãi cổ trạo thanh,

Thôi bàng tử,

Độ Biển Sơn,

Du Mã thủy,

Lâm Thanh cảng vu Ba Lăng,

Bạc dư chu hề ngạn chỉ.

Dịch: Bài phú Buông thuyền trên hồ(1)

Ta đã trải sông núi miền Bát Quế(2),

Buông thuyền xem mây trúc chốn Tam Tương(3),

Trông khắp đất Sở ở Hoành Dương(4)

Ghé nhìn bãi sông nơi Nhạc Lộc(5),

Thú vui sơn thủy sớm sớm xem Nom,

Mà cảnh Vân Mộng chứa trong lòng vẫn thiếu(6)!

Chín tuần hạ quang tạnh

Mây nước liền đường,

Nào thả, nào bơi,

Thẳng tới Động Đình(7).

Cưỡi sóng nước mênh mang,

Vượt khói mây mờ mịt.

Chỉ đảo Quy Sơn(8) để buông chèo,

Trông hòn Ba Nhạc(9) mà tiến tới.

Bờ bến mênh mông xa vời

Trên dưới hòa trộn một mầu xanh trong suốt.

Buông chiếc lá giữa dòng

Lòng khách man mác như cánh bèo trôi nổi.

Trời mây nghìn dặm,

Tựa khoang gõ dầm.

Ngoảnh nhìn bốn phía nước non,

Chạnh buồn lòng hoài cổ!

Bèn vời kẻ tùy tùng mà bảo:

Giữa làn sóng cuộn tròn râu ốc,

Núi hang rậm rạp,

Ấy là mười hai ngọn Tương Quân Sơn(10) đó!

Đài dao điện ngọc

Là dấu cũ của Đế nữ(11).

Tưởng đến vòng ngọc của khác tiên,

Tuyệt mù mây sóng mênh mông!

Trạm Lộc giác(12) ở bờ xa kia,

Um tùm cây cối

Là chốn ở cũ của Đào chu Công(13) đó!

Ngũ Hồ(14) là quê hương của mây,

Đất trời là ngôi nhà lớn.

Mờ xa rồi những vinh lợi của nghiệp Bá(15).

Chỉ còn lại làn khói trên bãi cỏ nơi gò hoang!

Ôi! dấu xưa đã vắng,

Giận vì buổi đi chơi này khó hỏi được ai.

Buồn bởi tiếng nhạc nơi cõi tiên

Chỉ còn là cảnh phồn hoa lờ mờ của loài hài thẩn!

Riêng nước non là trường tồn,

Rực rõ phong quang bất tận.

Buồn bã xem xét dấu xưa mà dậy nỗi cảm hoài,

Há phải loài sâu mùa hạ đâu để tự cười!

Phương chi thắng cảnh ở Động Đình

Ngày xưa đâu được nghe nhiều,

Mà cảnh hồ và núi đã từng vào trong mộng.

Mừng nay được ruổi ngựa đến tận nơi để hỏi bến,

Thả hồn trước cảnh tráng quan để rộng tầm nhìn,

Trải xem mọi cảnh đẹp mà tinh thần khoan khoái,

Lại thêm khí lạ của sông hồ

Thấy được đại văn của trời đất.

Mới hiểu buổi đi chơi này thật đáng ngợi ca,

Lẽ nào không uống rượu ngâm thơ trước ngọn gió nam!

Rồi sai mở rượu rót uống,

Vẩy bút ngâm chơi.

Ngước trông mây xanh,

Cúi nhìn sóng biếc.

Nguồn thơ khoáng đạt,

Lại tiếp lời ca.

Ca rằng:

Nước mêng mang chừ non xa mờ,

Thuyền khách buông chừ giữa hồ;

Rồng cá thiếp ngủ chừ mây ráng bay,

Trông ơn thần minh chừ tưởng tới linh quang,

Mờ dẫn nỗi nhớ của ta chừ đối với cảnh Tiêu Tương.

Khác ca đã hết,

Tà dương bóng dục.

Gió mát nhẹ tới,

Sóng nhỏ vụt nổi.

Bèn gõ nhịp chèo,

Đóng chiếc mui,

Qua Biển Sơn(16),

Vượt Mã Chủy(17),

Tới Thanh Cảng ở Ba Lăng(18),

Thuyền ta ghé bên bờ cỏ chi(19).

CHÚ THÍCH

(*) Hoa thiều ngâm lục: ký hiệu A. 2041 Thư viện Viện Hán Nôm. Sách cỡ 30x 20; 180 trang; chữ viết chân; có ghi niên đại năm Bính Tuất (1826). Phiếm hồ phú được chép ở quyển thượng từ trang 68 đến trang 70.

(1) Bài phú này làm theo thể “Khách hữu”, cách viết giống như Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu.

(2) Bát Quế: Đây chỉ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Thơ Dương Vạn Lý có câu: “Lai tòng bát Quế, Tam Tương ngoại” = “Từ ngoài Bát Quế, Tam Tương tới”.

(3) Tam Tương: Tên 3 con sông đẹp nổi tiếng Trung Quốc là Tiêu Tương, Li Tương và Chủng Tương.

(4) Hoành Dương, Nhạc Lộc: Tên những vùng có phong cảnh đẹp ở Hồ Bắc, Hồ Nam.

(5) Vân Mông: Tên một cái đầm lớn ở tỉnh Hồ Nam, Tư Mã Tương Như có câu: “Thôn nhược Vân Mộng giả, bát cửu ư kỳ hung = nuốt trung tám chín cái đầm to như đầm Vân Mộng vào trong bụng”, câu này lấy ý từ đó.

(6) Động Đình: Tên một hồ lớn ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

(7) Quy Sơn, Ba Nhạc: Tên hai gò đảo trên hồ Đồng Đình.

(8) Quy Sơn, Ba Nhạc: Tên hai gò đảo trên hồ Đồng Đình.

(10) Quân Sơn: Tên núi ở giữa hồ Động Đình, nơi lưu giữ dấu tích của Đế nữ, tức Nga Hoàng và Nữ Anh, vợ vua Thuấn.

(11) Chỉ Nga Hoàng và Nữ Anh.

(12) Trạm Lộc Giác: ở trên núi bên bờ Động Đình (theo nguyên chú).

(13) Đào Chu Công: Tức Phạm Lãi. Sau khi giúp Việt Câu Tiễn diệt được Ngô Phù Sai, Phạm Lãi đổi tên là Đào Chu Công, đến ở hồ Động Đình.

(14) Ngũ hồ: Năm cái hồ lớn ở Trung Quốc: Tây hồ, Thái hồ, Động Đình hồ, Sào hồ và Phan Dương hồ.

(15) Nghiệp Bá: Chỉ sự nghiệp của Sở Bá Vương (Hạng Vũ).

(16) Biển Sơn, Mã Chủy: Tên núi ở ven hồ Động Đình (theo nguyên chú).

(17) Biển Sơn, Mã Chủy: Tên núi ở ven hồ Động Đình (theo nguyên chú).

(18) Ba Lăng: Tên một cảng sông thông vào hồ Động Đình.

(19) Có chỉ: Một loại cỏ thơm.

TB

SỨ TRÌNH TIỆN LÃM KHÚC - TÁC PHẨM THƠ CHỮ NÔM CỦA LÝ VĂN PHỨC

DƯƠNG THỊ THE

Theo Lý thị gia phả Tự thuật ký do Lý Văn Phức soạn thì tổ tiên Lý Văn Phức là người Trung Quốc, vì lánh nạn, sang Việt Nam ngụ cư tại làng Hồ Khẩu, sang Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Ba Đình, Hà Nội). Từ đó về sau con cháu trở thành người Việt.

Lý Văn Phức tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh ngày 1 tháng 10 năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785). Năm Gia Long thứ 18 (1819), ông đỗ cử nhân và được bổ nhận Hàm Lâm biên tu, rồi lên Lễ bộ Thiêm sự, đến Hộ Bộ Hữu thị lang, thự Hữu tham tri, vì mắc tội bị cách chức. Sau đó lại làm Nội vụ phủ tư vụ, lên Binh Bộ chủ sự, thự Công Bộ Hữu Tham tri. Được đặc cách bổ làm lễ Bộ Hữu tham tri, sung chức Chánh sứ, đi Yên Kinh Bắc kinh. Sau lại bị phạt nhưng ngay sau đó lại được thăng làm Quang lộc tự khanh. Năm 1849, sau chuyến đi Tân Gia Ba về, ông bị ốm rồi mất, hưởng thọ 64 tuổi.

Lý Văn Phức viết nhiều tác phẩm bằng chữ Hán như: Tây hành ký; Mân hành tập vịnh; Tiên thành lữ thoại; Việt hành thi thảo; Việt hành tục ngâm; Kinh hải tục ngâm; Chu nguyên tạp vịnh; v.v... Ông cũng viết nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm, đặc biệt là thơ. Nổi tiếng là Nhị thập tứ hiếu diễn âm, rồi đến Sứ trình tiện lãm khúc; Tự thuật ký; Phụ châm tiện lãm; Bất phong lưu truyện; Chu hồi trở phong thán…

Do khuôn khổ bài viết, ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một tác phẩm thơ bằng chữ Nôm do ông sáng tác, bị lược chuyện các tác giả Việt Nam(1) bỏ sót. Hơn nữa, tác phẩm này cũng chưa hề được công bố. Đó là Sứ trình tiện lãm khúc.

Hiện nay, tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được 3 văn bản Sứ trình tiện lãm khúc:

- Bản thứ nhất ký hiệu AB.400, sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x17cm. Không có tựa, không ghi niên đại sáng tác, nhưng có ghi tên tác giả “Lý Văn Phức Lân Chi soạn”. Văn bản bao gồm 616 câu thơ Nôm song thất lục bát.

- Bản thứ hai ký hiệu AB.274. Sách chép tay, 24 tờ, khổ 30x27cm. Không có tựa và niên đại sáng tác, nhưng có tên tác giả “Lý Văn Phức Lan chi soạn”. Văn bản này gồm 612 câu thơ Nôm song thất lục bát.

- Bản thứ ba đóng gộp vào sách Hồi kinh nhật trình. Sách chép tay, chữ đẹp, ký hiệu VNv.217, khổ 24x 15cm. Có ghi tên tác giả và năm sáng tác ở cuối bài tựa: “Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi trứ” (Chánh sứ Lý Văn Phức Lân Chi soạn). “Thiệu Trị nhân niên, xuân nguyệt chi thư” (Viết năm Thiệu Trị thứ hai, tháng xuân (1841)). Nội dung bài tựa nêu lý do, xuất xứ của tác phẩm. Sứ trình tiện lãm khúc: “Lúc đi sứ Yên Kinh, ghi chép đầy đủ các việc lớn nhỏ cùng phong cảnh trên đường. Khi về rảnh rỗi thâu tóm hết thảy, diễn thành thơ Nôm…”. Có lẽ vì vậy tác phẩm có tên Sứ trình tiện lãm khúc (khúc ngâm cuộc hành trình đi sứ để tiện xem).

Qua các bài nêu trên, cùng nội dung bài tựa, ta thấy Sứ trình tiện lãm khúc là tác phẩm Lý Văn Phức sáng tác sau chuyến đi Yên Kinh do ông làm Chánh sứ.

Đối chiếu so sánh cả ba văn bản Sứ trình tiện lãm khúc nêu trên, ta thấy bản mang ký hiệu VNv.217 có nhiều yếu tố gần với nguyên tác hơn. Do vậy, chúng tôi đã chọn bản VNv.217 làm bản nền cho việc phiên âm, chú thích tác phẩm.

Sứ trình tiện lãm khúc (Viết tắt là STTLK) gồm 620 câu thơ Nôm, song thất lục bát, do Lý Văn Phức sáng tác năm 1841. Tác phẩm phác họa cho chúng ta một bức tranh tuyệt đẹp và đa dạng về cảnh vật thiên nhiên, núi sông, cây cỏ, v.v… trên đường đi sứ mà tác giả được mắt thấy tai nghe:

Dòng sông khúc thẳng khúc quanh,
Sóng êm hò lái gió thanh đưa buồm,
Núi ai nhuộm đỏ lòm sắc đá,
Đủ trống cờ nhân mã binh đao,
Sườn non ai vẽ được nào,
Truyền rằng binh mã Hoàng Sào phải không.

STTLK giới thiệu được khoảng trên 100 di tích có giá trị, liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc trên suốt chặng đường dài 8000 dặm từ Hà Nội tới Yên Kinh. Thí dụ:

Tam Thanh động thiên thành như tạc,
Vọng phu sơn ai tạc cho nên,
Hãy còn dấu cũ tiên hiền,
Nền dinh Lộc Mã, cảnh chiều Nhị Thanh

Đáng chú ý là STTLK giới thiệu một cách tỉ mỉ nghi thức bang giao đương thời giữa Trung Quốc với Việt Nam từ cách xưng hô, nghi lễ đón tiễn; đến các hình thức, chế độ đón tiếp sứ thần…

STTLK còn cho biết một số tập tục của nhân dân ở nhiều địa phương mà tác giả đi qua.

Với khả năng sử dụng tiếng Việt thành thạo, tài làm thơ điêu luyện, cách quan sát cảnh vật sắc sảo, tinh tế, Lý Văn Phức đã thực hiện thành công ý đồ thuật lại chọn vẹn chuyến đi sứ dài 8000 dặm với thời gian một năm của đoàn sứ bộ Việt Nam do tác giả làm chánh sứ năm Thiệu Trị thứ nhất (1840).

Dưới đây chúng tôi xin trích giới thiệu một số đoạn tiêu biểu của tác phẩm trường thi Sứ trình tiện lãm khúc để bạn đọc phần nào hình dung được giá trị của nó(*).

Năm Thiệu Trị rồng bay Tân Sửu(2),
Vâng thánh triều giữ đạo giao lân(3);
Điện phong ban xuống chiếu văn,
Hành tùy mười bảy sứ thần ba viên.

5. Đồ thưởng tứ Ơn trên nhuận thấm,
Lãnh quốc thư vật phẩm chỉnh tề;
Tháng hai lĩnh mệnh đan trì(4),
Gió xuân đưa bước vó kỳ nhẹ thênh.
(………………)

45. Rồi chỉnh bái(5) quan binh thượng lộ(6)
Qua Kỳ Cùng với phố Kỳ Lừa;
Đồng Đăng lịch sự tiếng xưa,
Dừng xe tạm yết đưa tờ thông danh(7).
Rồi thấy thiếp Thái Bình Tri phủ,

50. Định mồng mười giờ Ngọ(8) khai quan(9)
Tỉnh quan cùng Hầu mệnh quan,
Cùng nhau võng giá một đoàn tới nơi.
Sửa áo mão bên đài Ngưỡng Đức,
Sắp quân ra Nam Bắc hai đường;

55. Đến giờ súng phát rầm vang(10*),
Mặt giao tân chủ lệ thường tòng nghênh.
Đài Chiêu Đức(11*) lễ thành tham yết,
Cửa Nam Quan bái biệt phân chia;
Tang bồng là chí nam nhi(12*),

60. Non sông ngoảnh lại bước đi lại bước đi lại dừng.
Qua Tiền Ải(15*), trông chừng Mộ Phù(16*),
Cõi Tân Thiêm(17*) tới Thụ Hàng Thành(18*);
Đến đâu đường tấn(19*) quỳ nghênh,
Thường ngày cung ứng nặng tình địa phương(20*).

65. Ninh Minh giang(21*) trực thuyền đi thủy,
Vật thường hành chỉnh bị chu toàn(22*);
Hiệu cờ cho đến hiệu đèn,
Khắp trong mười bảy chiếc thuyền sắm tân(23*).
Lại biện lễ giang thần đảo cát(24*),

70. Rồi treo cờ phát hiệu khai hành(25*);
Dòng sông khúc thẳng khúc quanh,
Sóng êm hò lái, gió thanh đưa buồm.
Núi ai nhuộm đỏ lòm sắc đá,
Đủ trống, cờ, nhân mã, binh đao;

75. Sườn non ai vẽ được nào,
Truyền rằng “Binh mã Hoàng Sào(26*) phải không?
Kìa Sa mão, nọ chồng bút giá(27*),
Khéo khen ai sắp đá nên xinh;
Bên sông ba mặt quanh thành,

80. Nhìn xem phủ trị Thái Bình rất đông.
Đưa một lá thiếp hồng(28*) vấn hảo,
Mật thổ ngơi, lấy thảo đem thành(29);
Một niềm bái tạ ninh ninh,
Tống đồ thực vật vẹn tình chủ nhân(30).
(…………………)
Non Bạch Thạch động Thiên Song viễn,
Quế Kinh Sơn thổ sản gọi là;

115. Huyện Nam Bình cách chẳng xa,
Tướng quân Đào Khản(31) quê nhà ở đây.
Đời Nam Hán nhớ thày Lương trạng,
Thân miếu đường về dưỡng từ thân;
Lộc triều tha thuế phương dân,

120. Miếu thờ một quận cảm ơn đến rày.
(…………………)

125. Nhớ Đông Hán Sĩ Vương(32) sự cũ,
Nhậm Nam Giao Thái thú quan ngoài;
Văn minh mở một phương trời,
Một phen công đức muôn đời khói hương.
(…………………)

240. Nào non Hồi Nhạn là đâu(33*)
Bẩy mươi hai đỉnh, ấy đầu Hành Sơn(34*)
Núi Thạch Cổ(35) trên ngàn giang khẩu,
Ngọc Long(36) xưa còn dấu cổ cư;
Đời Đường mới cải Viện thư,

245. Lịch triều nhân đó để thờ tiên nho(37*)
Bà Xiếu Mẫu(38) nhớ xưa đời Hán,
Còn miếu thờ “Nhất phạn thiên kim”(39)
Giang đình tiên động trải xem,
Tới Hành Sơn huyện lại tìm tích xưa.

250. Chốn Lý Bí đọc thư thuở trước(40),
Đỉnh Yên Hà như gác như am;
Lại đi khỏi huyện Tương Đàm,
Đến Trường Sa phủ, Hồ Nam tỉnh thành.
Miếu Giả Nghị bên kênh Tương Thủy,

255. Đường Độc Tinh(41*) xót kẻ Hoài sa(42)
Dòng Tương chảy xuống Mịch La(43)
Nước xanh lai láng bóng tà đìu hiu.
(……………………)
Nghe khói bắc đường tan khí lạnh,
Ngắm non nam như ngảnh mặt cười;
Gặp ngày mười một tháng hai,
Ninh Minh đây đã đến nơi Châu Thành.

605. Rũ mùi tuyết cuốn thênh rèm võng,
Phất hơi sương thẳng chống ngọn cờ;
Đến đài Chiêu Đức chốn xưa,
Khấn quỳ là lễ, tiễn đưa là tình.
Trà biệt thoại rót, dừng xa mã,

610. Súng hỉ âm mở khóa quan san;
Cách xuân hợp mặt y quan,
Đường xuân phơi phới, một đoàn thênh thênh.
Vâng đại giá ngự thành Hà Tỉnh,
Thảm quy yên phụng mệnh đan trì;

615. Sức mình hèn mọn có chi,
Việc nên, muôn đội đức uy chín lần.
Giọt vũ lộ(44) nay nhuần mai thấm,
Thú ban du trong ấm ngoài êm;
Tung hô ba tiếng trước thềm,

620. Đài xuân vui vẻ, âu kim bình vàng.

CHÚ THÍCH

(1) Lược truyện các tác giả Việt Nam, Nxb. KHXH tái bản năm 1917, mục 485. Lý Văn Phức, tr.390.

(2) Rồng bay: Kinh dịch có câu “Phi long tại thiên, đại nhân tạo dã” (rồng bay ở trên trời, là bậc đại nhân được sinh ra). Đây ý nói việc vua lên ngôi. Rồng bay Tân Sửu tức năm Tân Sửu (1841), năm vua Thiên Trị lên ngôi.

(3) Giữ đạo giao lân: Giữ đạo giao hảo xóm giềng.

(4) Đàn trì: Thềm son. “Mệnh đan trì” tức mệnh nhà vua.

(5) Chính bái: Nghiêm chỉnh bái tạ.

(6) Thượng lộ: Lên đường.

(7) Tờ thông danh: Tờ ghi tên cho đi lại.

(8) Giờ Ngọ: Từ 11h đến 13h trưa.

(9) Khai quan: Mở cửa biên giới.

(10) Lệ đón sứ thần: Khi mở cửa khẩu, quân hai bên phải chỉnh tề đội ngũ. Rồi bắn pháo chào mừng .

Từ đây trở xuống các chú thích có dấu (*) là của nguyên tác.

( 1*) Đài Chiêu Đức ở phía Bắc của khẩu.

( 2*) Tang bồng là chí nam nhi: “tang”: cây dâu; “bồng” là cây cỏ bồng. Đời xưa dùng cây dâu làm cung; cỏ bồng làm tên. Cung tên là chỉ việc của con trai. Đây nói chí nam nhi là chí tung hoành cung kiếm.

( 3*) Tiền Ải: Tên đường.

( 4*) Mộ phủ: Tên công quán.

( 5*) Tân Thiêm: Tên đường.

( 6*) Thụ Hàng Thành: Tên công quán.

( 7*) Đường tấn: Ở Trung Quốc trong đất liền có lệ cứ 15 hoặc 20 dặm đặt một đường hoặc một tấn, hễ thấy sứ thần đi qua, phải bắn pháo, gõ la, quỳ đón.

( 8*) Công quán theo lệ, phải tiếp đoàn sứ thần 3 bữa ăn trong ngày.

( 9*) Ninh Minh giang: Sông Ninh Minh.

(20*) Ý nói các địa phương có đoàn đi qua đều phải tiếp đón thật chu đáo.

(2 *) 17 thuyền sắm tân: Gồm thuyền sứ 7, thuyền trường 8, và thuyền thông sự 2.

(22*) Biện lễ giang thần: Tế thần sông. Đảo cát: lễ cầu may. Lễ vật do địa phương lo.

(23*) Phát hiệu khai hành: Phát hiệu lệnh bắt đầu đi.

(24*) Binh Mã Hoàng Sào: Tức Hoàng Sào Binh Mã, tên ngọn núi.

(25*) Sa mão, bút giá: Hình núi giống như chiếc mũ, gác bút.

(26*) Lá thiếp hồng: Thiếp bằng giấy hồng. Trên thiếp ghi họ tên bồi thần.

(27) Lấy thảo đem thành: Lấy lòng thảo lòng thành.

(28) Ý nói phải đón tiếp chu đáo để chọn vẹn tình nghĩa của phía chủ nhà.

(29) Đào Khản: Đời người Tấn, được người đương thời coi như Khổng Minh.

(30) Sĩ Vương: Tức Sĩ Nhiếp, người Đông Hán, từng làm thái thú quận Giao Chỉ.

(3 *) Hồi Nhạn: Tên ngọn núi đầu tiên trong 72 ngọn núi ở Hành Sơn.

(32*) Hành Sơn: tên huyện.

(33) Tên núi, tại tỉnh Hồ Nam.

(34) Ngọa Long chỉ Chư Cát Khổng Minh (Gia Cát lượng).

(35*) Tiên nho: Chỉ các vị Chu Tử, Hàn Tử, Châu Tử và Hoàng Tử.

(36) Bà Xiếu Mẫu: Người giúp Hàn Tín lúc còn hàn vi.

(37) “Nhất phạn thiên kim”: “bát cơm ngàn vàng”, tích Hán Tín người thời Hán, lúc còn hàn vi, được bà Xiếu Mẫu cho ăn bát cơm. Khi Hàn Tín thành đạt vẫn nhớ ơn bà, trả bà ngàn lượng vàng.

(38) Tức thư viện Hành Sơn.

(39*) Độc Tinh: Tên nhà thơ Khuất Nguyên.

(40) Hoài sa: Tên một tác phẩm trong Cửu chương (Sở tử của Khuất Nguyên.

(41) Mịch La: Tên sông, nơi Khuất Nguyên trầm mình.

(42) Vũ lộ: mưa móc. Đây ý nói ơn trạch.

TB

SỰ TÍCH THÁNH TẢN VIÊN DIỄN CA

NGUYỄN ĐĂNG

Sự tích thánh Tản Viên là một truyền thuyết dân gian của ta có tự lâu đời. Đặc biệt là truyền thuyết này được cố định trên văn bản cũng rất sớm. Ngay từ đời Trần, Lý Tế Xuyên đã đưa vào trong sách Việt điện u linh tập. Trần Thế Pháp và Kiều Phú cũng chép trong Lĩnh Nam chích quái. Đến Ngô Sĩ Liên lại ghi vào Đại Việt sử ký toàn thư (phần Ngoại kỷ). Từ đó về sau thường thấy sao chép truyền thuyết này. Như Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú), Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam quốc sử diễn ca… và các sách truyện ký, dã sử, giai thoại. Trong dân gian Việt Nam, thánh Tản Viên được coi là một trong bốn vị thánh bất tử(1), của nước Nam. Ở nhiều địa phương đã tôn thờ thánh Tản làm Thành hoàng làng và lập miếu thờ phụng rất uy nghi. Chỉ tính riêng mấy tỉnh phía Bắc như: Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Thanh Hóa,… đã có 292 nơi thờ. Mỗi làng đều có ngọc phả riêng, ngoài những điểm chung về hành trạng, ở mỗi bản ngọc phả còn có đoạn giải thích rõ lý do thờ cúng và nghi lễ cúng tế. Trong số các sách và số ngọc phả kể trên, tuyệt đại đa số được biên soạn bằng Hán văn. Thỉnh thoảng mới tìm thấy một bản ngọc phả chép câu đối Nôm hoặc bài thơ Nôm. Trong một chuyến đi thực tế về xã Vật Lại, huyện Ba Vì (nay thuộc tỉnh Hà Tây), chúng tôi phát hiện ra một bản ngọc phả thánh Tản Viên chép bằng chữ Nôm, diễn ca theo lối thơ lục bát (từ đây trở xuống gọi là Bản diễn ca). Bản diễn ca dày 16 trang, gồm 466 câu lục bát.

Đây là một Bản diễn ca thần tích khá cổ, chưa rõ tác giả là ai? Thể thơ lục bát dùng trong văn bản khá cổ kính, rất gần với thể thơ trong Thiên nam ngữ lục, Thiên nam minh giám,… Trong văn bản không chỉ dùng nhiều từ Hán Việt, mà còn dùng nhiều từ cổ, như: Thừa lưa, chỉn, hối, ở ca, v.v… Từ “Song viết” cũng thấy xuất hiện một lần ở câu:

Sơn hào song viết thừa lưa,
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu.
(Câu 31, 32)

Đặc biệt chữ “viết” có dùng dấu nháy.

Về nội dung truyền thuyết, cơ bản giống với các bản ngọc phả thánh Tản Viên khác. Nhưng cũng có một vài chi tiết hơi khác. Chẳng hạn Bản diễn ca cho rằng Thủy Tinh đối đầu với Sơn Tinh, cũng vẫn là Hoàng tử con vua Thủy Tề được Sơn Tinh cứu nạn ngày trước. Sau này khi đánh nhau, Sơn Tinh giải thích:

Chàng đà ra dạ tương tranh,
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa.

(Câu 393 - 394)

Hoặc đoạn chép việc các loài thủy tộc bắt nhầm phải mẹ đức thánh Chèm (chỉ Lý Ông Trọng), nên bị đức thánh Chèm trừng trị:

Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.

(Câu 431 - 434)

Như trên đã nhắc tới, Bản diễn ca còn dùng nhiều từ Hán Việt và từ cổ, hơn nữa có một số đoạn câu thơ chưa được chải chuốt. Nhưng nhìn chung, có thể ghi nhận đây là một bản diễn ca lịch sử có giá trị. Tuy chưa xác định rõ niên đại, song qua phân tích trên, có thể đoán định Bản diễn ca được biên soạn vào cuối đời Lê. Cùng với Thiên nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám,…Bản diễn ca cũng cung cấp thêm một số tư liệu quý. Do vậy nó xứng đáng được đông đảo bạn đọc và những ai quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến.

Toàn văn Bản diễn ca như sau:

TẢN VIÊN SƠN TRUYỆN CỔ TÍCH

Trước bày Đại Việt Hùng Vương
Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa.
Đâu đâu hát thái bình ca
Phong đăng bách cốc(2) nhà nhà đủ no.
5. Có người là con học trò
Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.
Phòng văn án tuyết(3) đêm ngày
Gạo châu củi quế(4) thiếu rày lấy đâu.
Đọa tài khắp một tay thâu
10. Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng.
Tuổi vừa được chốn xuân nồng
Thất gia chưa có dụng phòng chốn nao.
Lên chơi rừng quế nguồn đào
Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn.
15. Chim kêu vượn hót làm đàn
Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.
Bốn bề non nước cực thiêng
Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường
Cảnh thanh kì lạ khác thường
20. Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.
Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh
Dường bằng một cảnh hồ thanh ngất trời.
Hình hô một cảnh lâu đài
Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.
25. Quần sơn chầu lại nên hàng
Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.
Cảnh thanh đắc ý mừng thay
Lập làm lều tiện(5) tháng ngày náu chơi.
Lân la chiếu đất màn trời
30. Làng Nhan cửa Khổng(6) chẳng đời chí xưa.
Sơn hào song viết(7) thừa lưa(8)
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu(9)
Ngày ngày bẻ được củi mau
Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.
35. Đèn trăng quạt gió vẫn chơi
Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.
Một ngày lên đỉnh Cao sơn
Nhìn xem sắc mộc thiên ban lạ dường.
Cây cao chót vót sơn trường
40. Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.
Tần Hoàng(10) xưa có sắc phong
Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.
Hương xuân ngát nức tư bề
Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường.
45. Chữ rằng: trừ mộc khử ương(11)
Tay cầm thiết phủ(12) chém thương tồi tàn.
Ngả cây tiếng dậy lâm san
Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.
Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung
50. Để khô làm củi dành phòng bán mai.
Ai hay là sự bởi trời
Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.
Thấy sao Thái bạch tử vi
Thần thông hiển hiện một khi nên người.
55. Một ông lão tử tám mươi
Tây cầm tích tượng bởi trời sẩy sa(13).
Thấy cây tươi tốt dầm dà
Nguyễn Lang hoài chém tồi pha(14) thương này.
Xăm xăm tích trượng cầm tay
60. Gõ vào cây ấy một giây lạ dường.
Tự nhiên cây ngọn hồi dương
Dựng nên cây tốt tán trương xanh rờn.
Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,
Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.
65. Gẫm rằng sự lạ qua ưa(15)
Cây này đã ngả hôm qua tan tành.
Một giờ ngọn lại tươi xanh
Thấy âu là có thần linh hộ trì.
Cây sao quái gở nhiều bề
70. Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.
Tay cầm phủ việt lại pha
Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.
Một bên đứng nép hòa rình
Thấy ông Thái bạch kim tinh đến gần.
75. Liền hối(16) tích trượng chân nhân
Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.
Dựng nên đột ngột xanh cao
Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.
Tán xanh cây tốt dầm dà
80. Thấy ông Thái bạch tuổi già lu khu.
Thấy trời có ý tựa cho
Nguyễn Lang thất ý liền lo lời này.
Ắt là Trời, Phật tới đây,
Đè ông liền cướp được rày mừng sao.
85. Phật trên một tiếng cả cao:
“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng.
Đây hòa cứu tử độ sinh
Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.
Cứu dân hộ quốc gần xa
90. Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.
Nói thôi dạy phép thần thông
Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.
Ác vàng xế bóng non đoài
Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.
95. Ngày sau gánh củi bên hà(17)
Mục đồng kính nhưỡng(18) âu ca chơi bời.
Vo ve tiếng địch(19) vừa vui
Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.
Nam thanh nữ tú làm bày.
100. Khi ca khi nói khi cười khi không.
Bảo nhau đã nức dậy đường
Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.
Ngựa bò cờ nón voi trâu
Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường
105. Thuở ấy Thủy Tề Long vương
Có một nam tử là chàng Tiểu Long.
Phù sinh thơ dại trẻ trung
Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.
Trường giang tới bãi Tiêu Tương,
110. Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.
Miên man lễn bãi đầu doi(20)
Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.
Thế gian ai biết thủy quân
Làm chi ai biết tiên nhân Thủy tề.
115. Tay cầm dùi mít liền bè
Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:
“Đánh rắn đánh cho dập đầu
Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”
Để lên bãi cát nằm co
120. Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.
Tình cờ đem để có nơi
Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.
Đông tây vắng vẻ bằng tờ
Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.
125. Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương
Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.
Nguyễn Lang tích trượng cầm tay
Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.
Gậy thiên thần mới cho tao,
130. Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.
Ngày xưa người chữa được cây
Bây giờ ta chữa rắn này thế nao.
Bèn cầm tích trượng gõ vào
Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.
135. Rắn lại trương cất đầu lên
Hoàn hồn uốn khúc lại yên vẹn toàn.
Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn
Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.
Thần thông phút đến Thủy tề
140. Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:
“Con sao ba bốn hôm nay
Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”
Tiểu Long lén lén tâu vào:
“Đi chơi lạc đến ngòi Tào(21) thương thay.
145. Lân la đến chốn Sơn Tây(22)
Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.
Một nơi là một khoe thanh
Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.
Cảnh kỳ dư ngất xuân đài
150. Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.
Chơi xuân đồng mục(23) có đàn,
Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.
Lốt thiêng trái dáng chân nhân
Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy.
155. Trẻ trung thơ dại chẳng hay
Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.
Có người là Tản Viên Sơn
Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.
Thần thông tích trượng cầm tay
160. Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.
Tài hiền tướng mạnh qua ưa
Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.
Mới hay phúc bởi hoàng thiên
Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.
165. Lại xem thấy mặt mẹ cha”.
Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.
Mừng con mở tiệc đền rồng
Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.
Sai tam bộ sứ Thủy tiên,
170. Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.
Tiểu Long quỳ lạy trình qua:
“Tôi là thủy tộc kênh hà Long Vương.
Mục đồng ngày ấy làm thương(24)
Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.
175. Cha tôi thỉnh xuống một giây
Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.
Dầu cha cho bạc cho vàng
Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.
Thái hoa thung thúc(25) đã đầy
180. Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.
Ước chi được nấy chẳng ngoa
Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.
Dặn dò mọi nỗi vân vi
Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.
185. Vừa khi vua ngự đền rồng
Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.
Khắp đầy đài các cung cao.
Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.
Long Vương cao ấy phán rằng:
190. “Người tiên thói ở ra lòng thế bay”
Tiểu Long được đội ơn này
Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.
Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người
Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.
195. Vàng thì muôn nén lấy đi,
Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.
Lưu li hổ phách hô san
Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.
Báu yêu thức tốt dư trăm
200. Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.
Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:
“Của vua châu báu vàn muôn kênh hà.
Song le tôi khí chật nhà
Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy”.
205. Long Vương lòng chẳng thiết(26) thay
Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.
Tiểu Long đến trước tâu vua:
“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.
Long Vương nghe nói ngùi ngùi
210. Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.
Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng
Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.
Tiểu Long vừa bước đưa qua
Trượng phu bốn bể một nhà anh ba
215. Dặn dò sau trước một bề
Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.
Giang sơn đối mặt bái từ
Người lên non Tản người về Thủy cung.
Nguyễn Lang được phép thần thông,
220. Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.
Ước nên đài các đông tây
Ước nên châu báu chưa đầy chân chan.
Ước nên thiên hạ bình an
Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.
225. Ước nên phong vũ thuận hòa
Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.
Ước nên thọ khảo muôn thu
Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.
Ước chi được nấy lạ lùng
230. Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.
Thuở ấy Thủy tề giang hà
Nhường con lên trị quốc gia bấy chầy.
Sơn quân thấy vậy mừng thay
Bạn xưa chẳng phụ thường hay đi về.
235. Thuở ấy Hùng vương cung phi
Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.
Tuổi vừa mười bốn phi phương
Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương(27) ai tày.
Má hồng đa ngọc hây hây.
240. Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.
Nương long chúm chím tuyết sương
Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.
Tốt thay điệu điệu lưng ong,
Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.
245. Thong dong ngọc thốt miệng cười
Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.
Nết na tư chất khác thường
Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.
Càng nhìn càng một hữu duyên,
250. Hà sơn khả ví hương tiên khôn bằng.
Da ngà tóc phượng khác hằng
Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.
Một nơi là một lạnh lùng
Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.
255. Tiếng đồn dậy khắp lân bang
Đã nên một gái mọi dường con cha.
Đầu cài trâm hốt ngọc hoa
Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.
Tiếng đồn mọi quận mọi thành.
260. Thục vương muốn kết ả anh một nhà.
Song le chẳng gả chồng xa
Hùng Vương làm hội quốc gia bấy chầy.
Khắp hòa thiên hạ đông tây
Mặc cho con kén ai nay có tài.
265. Dậy đường đồn nức mọi nơi
Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.
Ai ai cũng đến cửa son
Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.
Chưa lòng kết tóc phu thê
270. Thế gian cùng đến đều thì ước ao.
Long Vương lên đỉnh án cao
Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy.
Đôi người khấp khởi mừng thay
Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la(28)
275. Tiệc bày mỹ vị xướng ca
Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.
Chả lân thịt phượng khắp bày
Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.
Vang lừng một đám phong quan
280. Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.
Hùng Vương làm hội tháng trời
Tiếng đồn vang nức đòi nơi xa gần.
Long Vương cùng chúa Sơn quân
Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.
285. Vội vàng mở tiệc tưng bừng
Đôi vua về núi tếch rừng một khi.
Trường An(29) thẳng tới làm kỳ
Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.
Xăm xăm tới trước tâu bày:
290. “Đôi tôi kén rể phen này xứng chăng ?
Chúng tôi tú pháp(30) tài năng
Ngõ(31) đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.
Long Vương phun nước liền mưa
Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.
295. Thuở ấy thủy tộc thủy tiên
Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.
Đặt bày muôn khóm thụy tinh
Một dây liền mọc lá cành nở ra.
Nên cây tươi tố dầm dà
300. Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.
Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân
Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.
Đòi nơi lá rụng hoa rơi,
Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.
305. Gõ vào ngay cây cam đường
Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.
Quả hoa lại kết liền chi
Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.
Chồi là lá ngọc cành vàng
310. Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.
Đôi người thi phú đều hay
Hung Vương mới nói lời này phán ra:
“Cây cao hòa có một hoa
Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao
315. Đôi người dạ cũng đều yêu
Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai.
Song le duyên phận mặc trời
Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.
Nhân vì nhà có một con.
320. Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.
Mặc ai sính lễ việc dùng
Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ(32)
Ấy là phận đẹp duyên ưa
Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.
325. Đôi vua bái tạ trước ngai
Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.
Sơn quân sách ước cầm tay
Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.
Trâu bò gà lợn đến tuôn
330. Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.
Mời khuyên yến ẩm đền rồng
Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.
Long Vương sau đến lỡ tin
Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.
335. Bèn liền chốc ý phân tây
Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.
Thời vừa tháng bảy đầu thu
Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.
Tiết sang vừa chịu lệnh trời
340. Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.
Thuở ấy Thủy Tề Long Vương
Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.
Vãng lai tin tuyệt đi về
Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.
345. Nẻo hòa dạ khác thì vong(33)
Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.
Hận rằng lên đánh Tản Viên
Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.
Kình nghê sấu vực giương vây
350. Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.
Nước dâng lai láng đầy ngàn
Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.
Nhị hà dòng nước mênh mông
Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.
355. Đua nhau thừa tướng trường xà
Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.
Giương vây vùng vẫy tiến ngàn
Uy ra điện chớp sấm ran lôi đình.
Tam đầu cửu vĩ tiên binh(34)
360. Đến Từ Liêm huyện sự tình nghỉ ngơi.
Thấy bà lão mẫu tốt tươi
Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.
Long Vương thử triệu niên nga(35)
Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.
365. Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm(36)
Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.
Mình cao nghìn trường chỉn ghê
Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.
Bởi về thấy vắng mẹ già
370. Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.
Ông Chèm báo oán Long Vương
Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
Thuở ấy Long tộc Thủy tề
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
375. Sơn quân cùng chúa Thủy tiên
Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:
“Ấy vua Thủy tộc đi đâu
Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.
Hay là chàng có lòng nào
380. Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”
Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì
Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.
Hơn lòng lấy cướp vợ nhau
Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.
385. Thấy chàng làm chúa Sơn quân
Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.
Bạn xưa sao chẳng thực thà
Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.
Nhọc lòng văn vũ triều đình
390. Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người”.
Sơn quân hòa nói hòa cười:
“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.
Chàng đã ra dạ tương tranh
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.
395. Ắt là sơn thủy nên xa
Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.
Sơn quân những tướng hùng uy
Khỉ hươu hùng hổ làm vì tiến ra.
Chư quân đối địch giang hà
400. Hươu Tần Khỉ Sở rày đà nên công.
Long Vương đội lấy lốt rồng
Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.
Phong vân một trận lạ dường
Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.
405. Cá mừng gặp hội rồng mây
Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.
Đua nhau những trí anh hùng
Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.
Đôi bên giao chiến vội vàng
410. Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.
Đanh nhau vừa được ba giờ
Long Vương hóa phép giục ba quân vào.
Biến làm đội rác râu tào
Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.
415. Sơn quân gẫm được sự lòng
Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.
Đôi bên đều cũng uy nghi
Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.
Bảo nhau chém rác quân tào
420. Đều thì có máu, đều thì lạ thay.
Trúc tên bắn phải mưa bay
Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơi.
Vốn xưa đã được sách trời
Thủy Tinh thua xuống thửa nơi giang hà.
425. Ba quân hồi khải hoàn gia,
Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.
Thủy quân nẻo cũ quen về
Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
Tiên binh xung lưới ông Chèm
430. Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trả ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
435. Bủa vây mọi khúc biên giang
Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
Long Vương mất vía rụng rời
Đường về chẳng được mắc người khôn qua.
Long Vương hải tàng(37) còn xa,
440. Mở rèm cửa Hát(38) luồn qua chu kiều,
Năm năm thường một neo chèo
Đem quên lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân thấy bạn chăng hiền
Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.
445. Chước chi tao ước được mày
Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.
Long Vương thủy tộc ba đầu
Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.
Song le mạnh chẳng qua trời
450. Sách thiêng chư tưởng rụng rời hồn kinh.
Tự nhiên lên núi nộp mình
Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.
Đều thì cá rắn chỉn ghê
Mình dài trăm thước uy nghi lạ lùng.
455. Rắn thiêng hóa phép nên rồng
Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây(39).
Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời
Tùy hàng bầu bạn mong hoài lại tha.
Hiện nên tướng cả lòng xà
460. Cúc cung bách bái nằm ca(40) tiền đường.
Thuở ấy Sơn quân phán rằng
Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân
Đều hay hộ quốc cứu dân
Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.
Lại đi đánh trả Thủy tiên
466. Sơn quân có đức hoàng thiên hộ trì.

CHÚ THÍCH

(1) Tứ bất tử: Đức Thánh Tản, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh mẫu Liễu Hạnh.

(2) Phong đăng bách cốc: Được mùa, nhiều thóc lúa.

(3) Án tuyết: Nơi học hành.

(4) Gạo châu củi quế: Gạo như ngọc, củi như quế.

(5) Lều tiện: Con lề nhỏ.

(6) Nhan: Nhan Uyên; Khổng: Khổng Khâu. Hai nhân vật tiêu biểu cho Nho học.

(7) Song viết: Chưa rõ nghĩa?

(8) Thừa lưa: No đủ, sung túc.

(9) Trí mầu: Khôn ngoan, thông tuệ.

(10) Tần Hoàng: Vua nhà Tần, tương truyền Tần Thủy Hoàng ban sắc phong cho cây tùng chức Đại phu.

(11) Trừ mộc khử ương: dẹp trừ ma mộc, loại bỏ tai ương.

(12) Thiết phủ: Rìu sắt.

(13) Sảy sa: Chợt sa xuống.

(14) Pha: Phá tan.

(15) Qua ưa: Rất tốt đẹp.

(16) Hối: gọi.

(17) Bên hà: bên sông.

(18) Kích nhưỡng: Một trờ chơi dân gian thời cổ, thường tổ chức trong các ngày hội. Theo truyền thuyết, đời Nghiêu Thuấn thiên hạ thái bình, dân chúng khắp nới tổ chức lễ hội, có cả trò chơi kích nhưỡng.

(19) Tiếng địch: Tiếng sáo thổi.

(20) Đầu doi: Đầu bãi sông bồi.

(21) Ngòi Tào: Tức Tào Khê, nơi trụ trì của Lục tổ Huệ Năng, của Thiền Tông. Về sau dùng để chỉ khung cảnh Tiên Phật kỳ diệu.

(22) Sơn Tây: Tức tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản.

(23) Đồng mục: Trẻ chăn trâu.

(24) Làm thương: Làm cho tổn thương.

(25) Thái hoa thung thúc: Từng tấm lụa hoa.

(26) Thiết: Tha thiết, đằm thắm.

(27) Thọ Dương: Tên một vị Công chúa đời Tống của Trung Quốc, có nhan sắc tuyệt mỹ.

(28) Ỷ la: Vóc lụa.

(29) Trường An: Chỉ Kinh đô của đất nước.

(30) Tú pháp: Pháp thuật kỳ lạ.

(31) Ngõ: Dường như, có lẽ là.

(32) Đến sơ: Đến sớm.

(33) Vong: Quên.

(34) Tiên binh: Quân đi trước.

(35) Niên nga: Chưa rõ nghĩa?

(36) Vua Chèm: Tức Lý Ông Trọng.

(37) Hải tàng: Cung điện ở Biển.

(38) Cửa Hát: Cửa sông Hát

(39) Dây dây: Rõ ràng.

(40) Ca: Ở, tại.