TB

BẢN ĐỒ CỔ VIỆT NAM

TRẦN NGHĨA

Khái niệm "bản đồ cổ" ở đây được hiểu như là loại bản đồ vẽ theo lối truyền thống, trước khi khoa bản đồ học chính thức thành lập.

Bài viết này là kết quả của việc kiểm kê, phân loại, từ đó nêu lên một vài nhận xét về những tấm bản đồ cổ Việt Nam hiện sưu tầm được không ngoài mục đích góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử bản đồ nước ta.

I. Các nguồn tư liệu.

Chúng ta hiện có bao nhiêu bản đồ cổ? Thoạt nhìn vào cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp, ta thấy hơi thất vọng: 1 cuốn Thiên tải nhàn đàm với 44 tờ bản đồ; 1 cuốn Bản quốc dư đồ với 48 bản đồ; 1 cuốn Bản quốc dư đồ bị lãm với 2 bản đồ; và 1 cuốn Bản quốc dư địa đồ lược với 1 bản đồ (Xem Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, t.1, Thư viện Quốc gia xuất bản, Hà Nội, 1970, phần Địa lý, tr.317-384). Chỉ có chừng ấy thôi ư, một đất nước mấy nghìn năm văn hiến?

Thực ra, tình hình không đến nỗi bi đát như vậy. Qua điều tra sợ bộ, đã có thể phát hiện hơn mấy mươi cuốn sách với hàng nghìn trang bản đồ, chỉ tính riêng trong phạm vi kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nếu kể cả số sách có mang bản đồ cổ Việt Nam hiện tản lạc ở nước ngoài, như tại Pháp chẳng hạn, một nước từng thiết lập Học viện Viễn đông Bác cổ ở Hà Nội từ đầu thế kỷ, thì khối lượng bản đồ vẽ theo lối truyền thống còn phong phú hơn nhiều.

Hãy xem bảng thống kê sau đây về các nguồn tư liệu có ở Viện Hán Nôm và ở Pháp, trong đó phần lớn là các tập atlas, và trữ lượng bản đồ thuộc từng nguồn.

TT Tên sách Ký hiệu i, m Tác giả Niên đại Số lượng bản đồ Đặc điểm
Cả nước Địa phương
1 An Nam hình thắng đồ A.3034 m (viết tay) đời Lê 1 nhiều trang liên hoàn Bđ.cả nước; Bđ.Trung Đô (Thăng Long); Bđ.13 thừa tuyên; Bđ.thủy bộ từ Thăng Long đi
2 An Nam quốc Trung Đô tính thập tam thừa tuyên hình thế A.2531 m đời Lê (1490?) 1 15 Chiêm Thành; Bđ. đi sứ từ Thăng Long đến Yên Kinh.
Bđ. Thăng Long; Bđ.13 Thừa tuyên; Bđ.toàn quốc; Bđ. Tam chi
3 An Nam thông quốc bản đồ VHv.1358/2 m đời Lê (có thơ Thiệu Trị) 0 104 trang vẽ liên hoàn Màu. Đường thủy, bộ từ Bắc vào Nam; từ Thăng Long đi Chiêm Thành, Cao Miên
4 Bản đồ các hải cảng (Portulan) Paris.BN.G
FF.3677
m ?
1 24 Màu.24 hải cảng VN, trong một tập Bđ. hải cảng nhiều nước.
5 Bản quốc dư địa đồ lược Việt Nam địa đồ, quốc hiệu, sơn thủy, bảo hóa cựu lục) A.2584 m đời Nguyễn 1 0 Bản đồ cả nước, có ghi tên các tỉnh, núi lớn, sông lớn.
6 Bản quốc dư đồ A.1106 m đời Nguyễn 1 1+28+18 Bđ cả nước. Bđ Đông Nam Á; Bđ 28 tỉnh; Bđ. phủ, huyện.
7 Bản quốc dư đồ bị lãm (= Bản quốc dư đồ sơn xuyên địa thế vị trí sản vật điền thổ bị lãm) A.2026 m đời Nguyễn (1841) 0 2 Bđ 16 tỉnh Miền Bắc.
Bđ 14 tỉnh miền Nam.
8 Bắc hành đồ bản A.821 m đời Lê 0 186 trang vẽ liên hoàn Màu: đen, đỏ, xanh. Đường đi từ Thăng Long đến Yên Kinh.
9 Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ A.590 m Sử quán triều Nguyễn đời Nguyễn (1861) 0 50 Màu: đen, đỏ. Bđ các tỉnh, phủ từ Thanh Hóa ra Bắc
10 Bắc sứ đồ tập Paris.SA. HM 2182 m ? 0 185 trang bản đồ liên hoàn Bđ đường đi sứ Trung Quốc
11 Bắc sứ trình đồ A.3035 m ? 0 188 trang
Bđ.liên hoàn
Màu: đen, đỏ. Đường đi sứ từ đài Chiêu Đức (bên kia Hữu Nghị quan) đến Yên Kinh.
12 Đại Nam cương giới hội biên Paris.SA.
MS b.30
m Hoàng Hữu Xứng, Nguyễn Hữu Độ v.v. đời Nguyễn (1886) 188 trang Bđ.
liên hoàn
Bđ phủ Thừa Thiên; Bđ các tỉnh.
13 Đại Nam nhất thống chí A.853/1-8 i (in) Cao Xuân Dục v.v.. đời nguyễn (1909) 1 16 Bđ. Kinh sư; Bđ.toàn kỳ;
Bđ các tỉnh
14 Đại Nam nhất thống chí A.69/1-12 v.v.. m Quốc sử quán đời Nguyễn 1 31 Màu. Thành trì ở các tỉnh (tỉnh lỵ)
15 Đại Nam nhất thống dư đồ A.3142,
A.1600
m Quốc sử quán đời Nguyễn (1861) 1 75 Bđ.toàn quốc; Bđ các tỉnh, phủ.
16 Đại Nam toàn đồ A.2959 m đời Nguyễn 1 29 Màu: xanh, đỏ, đen. Bđ cả nước; Bđ 32 tỉnh
17 Địa chí A.343 m đời Nguyễn
(?)
0 38 trang
Bđ liên hoàn
Đường bộ, đường thủy từ Quảng Đức (Hà Nội) đi Nha Trang.
18 Địa đồ A.589 m đời Nguyễn 1 8 Bđ cả nước; Bđ phủ Vĩnh Tường; Bđ phủ Thừa thiên; Bđ trấn thành Quảng Bình; Bđ.Kinh thành.
19 Đồng Khánh địa dư chí lược (=Đồng Khánh địa dư chí) A.537/1-24 m Quan chức các tỉnh thời Đồng Khánh đời Nguyễn Tất cả các tỉnh, phủ, huyện Màu Bđ cỡ lớn (… 2 trang sách), vẽ trên lụa.
20 Gia Cốc xã bản đồ A.1895 m đời Nguyễn
(1841)
0 1 Bđ xã Gia Cốc, Gia Lâm, Hà Nội
21 Giao Châu chí Paris.SA.
HM 2240
m đời Lê Thiên Nam tứ chí lộ đồ. Trung Đô. Thập tam xứ phủ huyện châu tổng lục. Trung Đồ chí Nghệ An La Hà đồ nhật ký tổng lục.
22 Giao Châu dư địa chí VHt.30
A.2716
m Trương Phụ (?)
Mộc Thạnh (?)
đời Lê (theo Đàm Nghĩa An 1810) 1 nhiều trang Bđ Giao Châu. Các nước lân cận. Thành Thăng Long.13 xứ. Đường thủy bộ từ Thăng Long đến Cao Miên.
23 Hoàng Hoa đồ phả A.1579 m Ngô Thì Nhậm đời Tây Sơn 0 156 trang Bđ liên hoàn Phong cảnh dọc đường từ Thăng Long đến Yên Kinh
24 Hồng Đức bản đồ ( = Nam Việt bản đồ; Đại Nam bản đồ) VHb.41, A.2499, A.1603 v.v.. m Đời Lê (sau Hồng Đức) 1 1+13 Theo cụ Lê Thước, đây là Bđ vẽ sau niên hiệu Hồng Đức (Yên Bang - Yên Quảng; Tân Bình Tiên Bình; Vuơng Phủ - Trung Đô.
25 Kiền khôn nhất lãm A.414, v.v.. m Phạm Đình Hổ đồ lại đời Nguyễn 1 87 Cả nước.Thăng Long.13 thừa tuyên. Đường đi từ Thăng Long đến Yên Kinh. Các nước Xiêm La, Miến Điện, Ai Lao, Cao Miên. Tỉnh Cao Bằng, Sông ngòi, đê điều miền Bắc.
26 Kiêu Kỵ xã bản đồ A.1896 m đời Nguyễn (1820) 0 1 Bđ xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội.
27 Nam Bắc Kỳ hội đồ A.95 m đời Nguyễn 1 13+26 Bđ cả nước. 13 tỉnh từ Quảng Bình trở vào. Các đạo, phủ, huyện trực thuộc các tỉnh trên.
28 Nam quốc địa dư VHv.2742 m Đặng Xuân Bảng (1828-1910) đời Nguyễn 1 2 Bđ toàn quốc. Bđ Bắc Kỳ. Bđ Nam Định
29 Nam quốc địa dư chí lược VHv.1723 i Lê Doãn Thăng đời Nguyễn (1919) 2 5
30 Nam Việt địa dư trích lục A.2139 m đời Nguyễn 1 0 Bđ cả nước, có ghi tên các tỉnh. Núi lớn. 3 sông lớn: Nhĩ Hà, Sông Gianh, Cửu Long.
31 Như Thanh đồ A.3113 m Phạm Văn Trữ đời Nguyễn
(1882)
0 42 trang liên hoàn Bđ đi sứ TQ, từ Nam Quan đến Yên Kinh.
32 Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên (= Quỳnh Đôi hương biên) VHv.1379 m Hồ Phi Hội đời Lê (?) 0 1 Bản đồ sông, núi, làng Quỳnh Đôi.
33 Sơn Tây dư đồ VHv.1366 m đời Nguyễn 0 3 Bđ phủ Vĩnh Tường. Bđ phủ Lâm Thao. Bđ phủ Đoan Hùng
34 Sơn Tây Thụy Khuê xã bản đồ A.2964 m đời Nguyễn 0 1 Bđ cỡ lớn, vẽ trên giấy bóng mờ.
35 Sứ trình đồ VHv.1378 m đời Nguyễn (?) 0 96 trang liên hoàn Màu. Bđ đi sứ TQ, từ Chiêu Đức đài đến phủ Hà Gian (TQ)
36 Sứ trình đồ bản A.1399 m đời Nguyễn (?) 0 160 trang liên hoàn Bđ đi sứ TQ, từ Hà Nội đến Yên Kinh.
37 Sứ trình đồ họa Paris.SA. HM.2196 m đời Nguyễn (?) Bđ đi sứ TQ, từ Lạng Sơn đến Yên Kinh
38 Sứ trình quát yếu biên VHv.1732 m Lý Văn Phức đời Nguyễn (1841) 0 164 trang liên hoàn Màu: đen, xanh, đỏ, vàng. Bđ đi sứ TQ, từ Nam Quan đến Yên Kinh.
39 Thanh Hóa tỉnh đồ bản VHv.1364 m đời Nguyễn 0 67 tổng 1 châu Bđ các tổng, châu thuộc tỉnh Thanh Hóa.
40 Thiên hạ bản đồ A.2628 m đời Lê 0 76 trang liên hoàn - Toản tập An Nam lộ (40 tr.Bđ, từ Tam Chi đến Thạch Bi). - Từ Phụng Thiên đi Khâm Châu, Niệm Châu (12 tr.Bđ). - Từ Phụng Thiên đi Quảng Tây (9tr.Bđ). - Từ Phụng Thiên đi Bắc Quan môn (15 tr.Bđ).
41 Thiên hạ bản đồ tổng mục lục đại toàn A.1362 m đời Lê 0 1 Bản đồ Chiêm Thành
42 Thiên Nam lộ đồ A.1081 m Nhữ Ngọc Hoàn đời Lê (1771) 104 trang Bđ liên hoàn Bđ Trung Đô; Bđ 13 thừa tuyên. Bđ 4 trục đường lớn từ Trung Đô đi Chiêm Thành; đi Châu Khâm, đi Quảng Tây, đi Nam Quan.
43 Thiên Nam tứ chí lộ đồ thủ A.73 m Đỗ Bá Thị, tên chữ là Công Đạo soạn. Phạm Đình Hổ biên tập. đời Lê 5 73 trang Bđ vẽ liên hoàn Bđ đường bể đi từ Thăng Long đến Bố Chính, La Hà. Đường thủy từ Thăng Long đến Nghệ An. Đường biển từ biên tập Cửa lạc đến Chiêm Thành (Phố Trì).
44 Thiên tải nhàm đàm A.584 v.v.. m Đàm Nghĩa Am biên tập đời Nguyễn
(1810)
Giao Châu địa dư chí. Thiên Nam hình thắng lươc thuyết.
45 Thủy lục trình đồ Paris.SA.
MS b.19
m đời Nguyễn Bđ thủy, bộ từ Kinh đô (Huế) đến các địa phương trong nước (Vào Nam: 73 trạm; ra Bắc: 70 trạm)
46 Tiền Lê Nam Việt bản đồ mô bản Paris. EFEO VIET/A.
Géo.4
m Phạm Đình Hổ đời Lê đời Nguyễn (1839) 2 Màu.Bđ cả nước. Bđ Thăng Long. Bđ 13 Thừa tuyên. Một số Bđ vẽ thêm.
47 Toản tập Thiên Nam địa đồ A.1174 m đời Lê 0 75 trang Bđ liên hoàn Bđ từ Kinh Thành (Thăng Long) qua Sơn Nam, Thanh Hóa, Nghệ An tới Chiêm Thành. Từ Long Thành (Thăng Long) tới các tỉnh phía Đông, phía Tây, phía Bắc.
48 Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư Paris.SA.
HM 2241
i đời Lê (sao lại 1741) Bđ Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thuận Hóa, Quảng Nam.
49 Yên thiều nhật trình A.2381 m đời Nguyễn (?) 0 163 trang Bđ liên hoàn Màu. Bđ đi sứ, từ đài Chiêu Đức đến Tứ dịch công quán (Bắc Kinh).

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang tàng trữ 27 tập Atlas (1. An Nam hình thắng đồ; 2. An Nam quốc Trung đô tính thập tam thừa tuyên hình thế đồ họa; 3. An Nam thông quốc bản đồ; 4. Bản quốc dư đồ; 5. Bắc hành đồ bản; 6. Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ; 7. Bắc sứ trình đồ; 8. Đại Nam thống nhất dư đồ; 9. Đại Nam toàn đồ; 10. Địa chí; 11. Địa đồ; 12. Giao Châu dư địa chí; 13. Hoàng hoa đồ phả; 14. Hồng Đức bản đồ; 15. Kiền khôn nhất lãm; 16. Nam Bắc Kỳ hội đồ; 17. Như thanh đồ; 18. Sứ trình đồ; 19. Sứ trình đồ bản; 20. Sứ trình quát yếu biên; 21. Thanh Hóa tỉnh đồ bản; 22. Thiên hạ bản đồ; 23. Thiên Nam lộ đồ; 24. Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư; 25. Thiên tải nhàn đàm; 26. Toản tập Thiên Nam địa đồ và 27. Yên thiều nhật trình) và 14 bộ hoặc cuốn sách có xen kẽ bản đồ (1. Bản quốc dư địa đồ lược; 2. Bản quốc dư đồ bị lãm; 3. Đại Nam nhất thống chí; 4. Đại Nam nhất thống chí (bis); 5. Đồng khánh địa dư chí lược; 6. Gia Cốc xã bản đồ; 7. Kiêu Kỵ xã bản đồ; 8. Nam quốc địa dư; 9. Nam quốc địa dư chí lược; 10. Nam Việt địa dư trích lục; 11. Quỳnh Đôi hương biên; 12. Sơn Tây dư đồ; 13. Sơn Tây Thụy Khuê xã bản đồ; 14. Thiên hạ bản đồ tổng mục lục đại toàn). Ở Pháp có 8 tập Atlas thuộc các Phòng Hán Nôm ở Thư viện Quốc gia Paris (Bản đồ các hải cảng), Thư viện Học viện Viễn đông Bác cổ (Tiền Lê Nam Việt bản đồ mô bản), Thư viện Hiệp hội châu Á, sách do gia đình H.Maspéro cung hiến (Bắc sứ đồ tập; Giao Châu chí; Sứ trình đồ họa; Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư) và các nguồn khác (Đại Nam cương giới hội biên; Thủy lục trình đồ), trong đó, trừ tập Bản đồ các hải cảng do người nước ngoài vẽ, số còn lại đều do người Việt Nam vẽ.

Trong các nguồn tư liệu vừa kể, có 14 tác phẩm thuộc đời Lê, 1 tác phẩm thuộc đời Tây Sơn, 30 tác phẩm thuộc đời Nguyễn, và 4 tác phẩm chưa rõ niên đại.

Về tác giả, trừ một số ít sách có ghi tên người vẽ hoặc biên tập thuộc đời Lê như Nhữ Ngọc Hoàn, Đỗ Công Đạo; thuộc đời Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm; thuộc đời Nguyễn như Đàm Nghĩa Am, Lý Văn Phức, Phạm Đình Hổ, Đặng Xuân Bảng, Phạm Văn Trữ, Hoàng Hữu Xứng, Cao Xuân Dục, Lê Doãn Thăng... còn thì hầu hết đều khuyết danh.

Về loại hình văn bản, sách in chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với số sách viết tay (3/46).

Về phương diện đăng tải, các bản đồ chủ yếu được vẽ trên giấy bản, một số ít vẽ trên lụa (Đại Nam nhất thống chí A.69/1-12) hoặc trên giấy bóng mờ (Sơn Tây Thụy Khuê xã bản đồ).

Về mực vẽ, có một số bản đồ màu, như An Nam thông quốc bản đồ, Bản đồ các hải cảng, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí lược, Sứ trình đồ, Tiền Lê Nam Việt bản đồ mô bản, Yên Thiều nhật trình, Bắc Kỳ đồ bản (đen, đỏ), Bắc sứ trình đồ (đen, đỏ), Bắc hành đồ bản (đen, đỏ, xanh), Đại Nam toàn đồ (đen, đỏ, xanh), Sứ trình quát yếu biên (đen, đỏ, xanh, vàng).

II. Chủng loại bản đồ

Những bản đồ vẽ theo lối truyền thống của ta không những phong phú về số lượng, mà còn đa dạng về chủng loại.

Nếu xét từ cấp độ thông tin, có bản đồ khu vực, bản đồ cả nước, và bản đồ địa phương.

Bản đồ khu vực ở đây tức bản đồ Đông Nam Á (trong Giao Châu chí, Bản quốc dư đồ, Kiền khôn nhất lãm), bao quát một vùng đất khá rộng, gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Tây Inđônêsia, Đông Ấn Độ và Nam Trung Quốc. Trên bản đồ có ghi những con sông lớn, những hòn đảo lớn, những vùng biển quan trọng.

Cũng thuộc cấp khu vực, còn có bản đồ giao thông liên quốc gia và bản đồ cấu tạo địa hình thuộc vùng Bắc Việt Nam - Nam Trung Quốc. Về đường giao thông liên quốc gia, có thể kể những bản đồ vẽ đường đi từ Hà Nội đến Cao Miên (An Nam thông quốc bản đồ, Giao Châu dư địa chí), từ Hà Nội đi Khâm Châu, Niệm Châu, Quảng Tây (Thiên hạ bản đồ, Thiên Nam lộ đồ), từ Việt Nam đi Bắc Kinh (Bắc hành đồ bản, Bắc sứ trình đồ, Hoàng Hoa đồ phả, Như Thanh đồ..). Về cấu tạo địa hình, có bản đồ "Tam chi" (Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, An Nam quốc Trung Đô tính thập tam thừa tuyên hình thế đồ họa), phác thảo những nếp nhăn lớn trên bề mặt mảng địa cầu Nam Trung Quốc - Bắc Việt Nam. Ta hãy đọc đoạn văn thuyết minh cho bản đồ "Tam chi": "Đất An Nam nằm về phía Nam Trung Quốc, men theo biển hướng về Đông, hình giống như đai áo, trên rộng, dưới hẹp. Mạch đất khởi phát từ Côn Luân, lấy Hắc Thủy của Vân Nam làm giới tuyến. Khi tới Ngũ Linh, địa mạch tách ra làm 3 nhánh đi vào nước ta (...). Nhánh trung tâm đột ngột nhô lên, từ Quảng Tây, Tiểu Côn nhằm hướng Thiếu Tổ băng tới, muôn dặm quanh co, bỗng vươn mình thành dãy Tam Đảo, rồi tỏa rộng ra. Ấy là miền đất Thái Nguyên, Kinh Bắc, Tiếp Sơn Nam, Hải Dương. Nhánh bên ta trước hết thu mình lại thành một vùng núi che chắn, ngoằn ngoèo, xoắn xít, rồi cuồn cuộn ruỗi dài đến Khâm Châu, Niệm Châu, khoá trái cửa thành. Chợt một ngọn vút cao tận mây, gọi là "đỉnh sao" chênh vênh, "thành xây" chất ngất. Nào núi Yên Tử, nào đỉnh Khiên Phụ, chạy sang Tây đến núi Cổ Phao và dừng lại ở sông Lục Đầu uốn khúc. Ấy là miền đất Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương. Nhánh bên hữu rẽ qua núi Tháp Thiên của Ai Lao, trùng trùng điệp điệp, thác đổ ầm ầm, nhấp nhô muôn dặm, đến nước Chiêm Thành, trở nên thành quách. Trong nhánh này, các núi Tản Viên, La Tượng xúm xít, nước trăm sông dồn đổ về. Ấy là miền đất Tuyên Quang, Hưng Hòa, Sơn Tây, Sơn Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam".

Nếu xét từ đối tượng phục vụ, lại có thể chia các bản đồ trên thành 3 nhóm.

Nhóm thứ nhất gồm các bản đồ hình thế, dùng cho việc quản lý hành chính hoặc học tập, như Bản quốc dư đồ, Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ... Ở loại bản đồ này, người vẽ thường quan tâm đến các chi tiết như cương vực, ranh giới các tỉnh, phủ, huyện, sông, biển, núi, thành trì, nơi đô hội...

Nhóm thứ hai gồm các bản đồ đường giao thông, nhằm hướng dẫn người đi đường, hoặc phục vụ cho các hoạt động quân sự, như Thiên tải nhàn đàm, Thủy lục trình đồ... Ở loại bản đồ này, người vẽ thường ghi tên các trạm đường, độ dài từng cung đường, các cửa sông, cửa biển, đặc biệt là những nơi "hùm beo đi thành bầy", vùng núi "mỗi năm dụ được tới 40 thớt voi", chùa tháp "mỗi năm vào độ tháng tư, cá về đây triều hội" (Thiên tải nhàn đàm), cùng tình hình phố chợ, thôn xóm dọc đường đi, những thông tin không bao giờ thừa đối với người vào Nam ra Bắc. Các nhà quân sự cũng cần biết "những miền đất hiểm trở, xa xôi, không dễ chinh phục", trong khi "số trời phân hợp thất thường", có một tấm bản đồ giúp vào việc "trù biên" (lo liệu việc biên giới) là hết sức quan trọng (Nam hành trình lục, trong Giao Châu dư địa chí).

Nhóm thứ ba gồm các bản đồ giao thương (như Bản đồ các hải cảng), bản đồ du lịch (như Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư...), bản đồ đi sứ (như Hoàng Hoa đồ phả, Yên Thiên Nhật trình...). Khác với 2 loại trên, loại thứ ba này đi giữa "bản đồ", hiểu theo nghĩa nghiêm túc của nó, với "tranh vẽ". Làm sao gây cho người xem nhiều hồi hộp, hứng thú và niềm khao khat được đến tận nơi tận chỗ trên từng địa điểm của đồ bản, đấy là mục tiêu mà tác giả nhe nhắm. Cho nên không có gì là lạ khi thấy trên bản đồ hiện lên những cảng khẩu tấp nập đông vui, những tòa kiến trúc nguy nga lộng lẫy, những làng quê, phố chợ, chùa tháp... ẩn hiện giữa nước biếc non xanh, có kèm theo những sự tích, những vần thơ đề vịnh của nhiều danh sĩ... Tóm lại, làm cho người xem bản đồ đạt tới hiệu ứng "ngọa du", tức dẫu nằm một chỗ, mà vẫn cảm thấy như chính mình đang đi tham quan du lịch trên thực địa (Thiên Nam tứ chí lộ đồ dẫn).

III. Đôi điều nhận xét

1. Về nội dung: các bản đồ vẽ theo lối truyền thống trên đại thể không cách bức lắm với bản đồ hiện đại. Có cương vực, bờ cõi, đơn vị hành chính; có núi, sông, biển, hải đảo; có động vật, thực vật; có trục lộ giao thông, trạm đường, bến cảng... tóm lại, một phác họa tuy còn đơn giản, về mô hình môi trường sống. So với 5 yếu tố cấu thành môi trường địa lý hiện đại - khí quyển, sinh quyển, thủy quyển, thạch quyển, địa quyển - thì còn thiếu mỗi một "khí quyển". Nhưng thay vào đó là quan niệm về "tinh dã" có thể hiểu như "vùng trời", theo nghĩa "đất nào sao ấy"; và thuyết "phong thủy", "ngũ hành", một thứ quan niệm về môi trường mang tính duy vật thô sơ. Ở đây có mối quan hệ giữa truyền thống và đổi mới cần được tiếp tục nghiên cứu.

2. Về cách trình bày, có mấy điểm đáng chú ý

Trước hết là cách xác định tọa độ. Hầu hết các bản đồ vẽ theo lối truyền thống đều bị chi phối bởi quan niệm "tam tài" và "5 phương 8 hướng", do vậy phía trên của bản đồ không cứ phải là hướng Bắc, dù người phương Đông chúng ta sớm phát hiện tầm quan trọng của "Bắc thần" tức sao Bắc đẩu trong việc định vị. "Tam tài" - Thiên, Địa, Nhân - đặt con người vào trung tâm vũ trụ. Nếu các sao đều xoay quanh Bắc đẩu, thì môi trường sống phải phục vụ con người, đất nước phải coi trọng thủ đô, địa phương hướng về các lỵ sở... Thủ đô, lỵ sở, các trục đường nối liền thủ đô với lỵ sở... do vậy đã trở thành tâm điểm hoặc đầu mối của phần lớn các bản đồ. Còn hướng trên của bản đồ có thể là Đông, là Tây, là Nam, hay là Bắc, cái đó dường như không hệ trọng. "5 phương 8 hướng" - Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung ương và Đ, T, N, B, ĐN, TN, ĐB, TB - đã đưa tới những tấm bản đồ thậm chí hương trên là phương hướng phụ (bàng phương) chứ không phải phương hướng chính (chính phương). Có thể thấy quan niệm "tam tài" và "5 phương 8 hướng" đã tạo ra ở các bản đồ cổ một kiểu định tọa độ khá đặc biệt.

Thứ hai là lối vẽ theo đơn nguyên và lối vẽ liên hoàn. Lối vẽ theo đơn nguyên dành cho loại bản đồ hình thế hoặc hành chính. Lối vẽ liên hoàn dành cho loại bản đồ đường đi hoặc giao thông nói chung.

Thứ ba, kích thước thể hiện trên bản đồ hoàn toàn do ước phỏng. Các khoảng cách thường được đo bằng ngày đường; vị trí các địa điểm thường được xác định bằng trật tự không gian. Một số bản đồ chỉ có ý nghĩa về nơi chốn mà không liên quan gì tới địa hình cả.

Thứ tư, bên cạnh nhiều bản đồ vẽ theo kiểu nhìn từ trên xuống, có một số bản đồ vẽ xen kẽ theo kiểu nhìn ngang.

Thứ năm, qua các bản đồ từ Lê đến Nguyễn, có sự quá độ từ tranh vẽ sang dần tuyến hình học.

3. Về giá trị kho bản đồ cổ, một mặt có thể nói đây là biểu tượng của truyền thống xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Cái mà ngày nay gọi là "bản đồ", thì người xưa gọi là "dư đồ". Chữ "dư' trong Đại Nam nhất thống dư đồ còn được viết theo kiểu TRIỆN, một lối viết cổ xưa, gồm 2 đôi bàn tay vin đỡ một cỗ xe 2 bánh:

"Dư" vừa là vật chở (chiếc xe), vừa là chuyển dịch, phát triển (xe lăn đi), đồng thời lại có nghĩa là bảo vệ, kiến tạo 4 bàn tay đỡ 4 góc xe). "Dư đồ", bản đồ đất nước, mang tất cả những nội dung đó. Có hiểu được như vậy, ta mới thông cảm hết với nỗi đau xót của thi sĩ Tản Đà khi nhìn cảnh đất nước bị ngoại bang giày xéo:

Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười.
Biết bao lúc trước công vờn vẽ,
Mà đến bây giờ rách tả tơi...

(Vịnh bức dư đồ rách)

Có thể nói những tấm bản đồ cổ được tô vẽ bởi huyết hãn của biết bao thế hệ cha ông trong quá trình kiến tạo, mở mang và gìn giữ đất nước.

Mặt khác, nhưng bản đồ theo lối truyền thống còn là một trong các cứ liệu để quan sát những biến động của địa hình; đồng thời là nguồn tư liệu quý để biên soạn một bộ từ điển địa danh rất cần cho khoa bản đồ học mà hiện nay chúng ta chưa có.

CHÚ THÍCH

* Tham luận trình bày ở Hội thảo khoa học Quốc gia về Lịch sử bản đồ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 500 năm tập "Bản đồ Hồng Đức", H.1990.

TB

VỀ VIỆC BIÊN SOẠN CUỐN LỊCH
2000 NĂM CỦA VIỆT NAM

LÊ THÀNH LÂN

Trong nhiều năm, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên nhiều phương diện để đi đến biên soạn một cuốn lịch 2000 năm cùng với niên biểu của Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu đã và sẽ được công bố dần, nhằm tranh thủ ý kiến giới nghiên cứu, với hy vọng rằng khi viết thành sách, sẽ bớt được các thiếu sót. Trong bài này, chúng tôi hệ thống hóa lại và thông báo các kết quả nghiên cứu đó.

Việc nghiên cứu sâu về lịch pháp, về các loại lịch vĩnh cửu, về cách trình bày và tích niên lịch, về lịch sử lịch, nhất là lịch sử lịch Việt Nam có một tầm quan trọng đặc biệt. Trước hết, bản thân lịch vừa là một sản phẩm văn hóa, vừa là một sản phẩm khoa học sớm được sáng tạo trong lịch sử và được cải tiến, hoàn chỉnh không ngừng. Trong một chừng mực nào đó, lịch phản ánh một vũ trụ quan, phản ánh trình độ khoa học, nhất là thiên văn, địa lý, y học, sinh học và nông nghiệp của một dân tộc, của một nền Văn hóa. Nó được làm ra do nhu cầu của cuộc sống, sinh hoạt Văn hóa (lễ tiết), lao động, sản xuất (nuôi, trồng) của mỗi vùng dân cư. Mặt khác, lịch còn là một phương tiện của các nhà sử học để ghi chép, nghiên cứu lịch sử, bởi vì xét cho cùng, mỗi sự kiện lịch sử đều xảy ra tại một không gian, một thời gian xác định. Một khía cạnh rất quan trọng được đặt ra là: Từ xa xưa, Việt Nam có một lịch riêng hay không ? Diện mạo của lịch đó ra sao? Câu trả lời đã là khẳng định hay mới chỉ là giả định?

Từ thời Trần, có lẽ Trần Nguyên Đán đã có những khảo cứu sâu sắc về lịch trong cuốn Bách thế thông kỷ(1), đáng tiếc cuốn sách này đã thất truyền. Ở thời Lê mạt, trong Vân đài loại ngữ(2), Lê Quý Đôn cũng bàn qua về Lịch pháp.

Gần đây, năm 1982, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết chuyên khảo Lịch và lịch Việt Nam(3), tổng kết những kết quả nghiên cứu nhiều năm của giáo sư, bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ bốn mươi. Đây là một tác phẩm rất cơ bản về lịch sử của lịch và lịch pháp vừa mang tính lý luận sâu sắc vừa có nhiều chỉ dẫn cụ thể. Cuốn sách này đã khêu gợi và là chỗ dựa chính cho công việc nghiên cứu của chúng tôi. Theo hướng đó, chúng tôi đã thu được nhiều kết quả khả quan.

Để có một hiểu biết chắc chắn về lịch, chúng tôi đã phải tìm hiểu một cách khái quát về thiên văn học, về quan niệm và cách nhìn của người xưa cả ở phương Đông lẫn phương Tây về bầu trời sao, về hệ mặt trời, về nông nghiệp, y học và sinh học(4)(5). Nhờ đó, chúng tôi đã phân loại và nhận thấy ở Việt Nam từng dùng 7 loại lịch khác nhau:

1. Dương lịch (lịch mới-lịch Gregorien).

2. Âm lịch thuần túy (điều này là có thể).

3. Âm - dương lịch mà ta thường gọi một cách đơn giản là "Âm lịch".

4. Lịch tiết khí (thực chất là một loại lịch mặt trời)(6).

5. Tuần lễ với chu kỳ 7 ngày.

6. "Lịch sao" - năm, tháng, ngày có chu kỳ 28 gọi theo 28 chòm sao trên hoàng đới (Nhị thập bát tú)(7).

7. Lịch can chi - năm, tháng, ngày, giờ gọi theo 10 can và 12 chi với chu kỳ 60(8).

Về các loại lịch đó cho đến nay vẫn còn những điều thú vị và bổ ích cần được trình bày một cách cặn kẽ và hệ thống. Bởi vì đến như âm lịch là loại lịch thông dụng ở Việt Nam mà trong một cuốn Tự điển mới xuất bản gần đây còn có định nghĩa thiếu chính xác về nó(9).

Như đã nêu trên, việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam có một ý nghĩa lớn. Cư dân Lạc Việt, với nền kinh tế lúa nước, chắc chắn đã sớm quan tâm và có một giải pháp riêng về lịch pháp góp phần vào Văn hóa chung giao lưu trong khu vực(10). Người Việt thường có một nét riêng trong việc làm và dùng lịch. Hệ thống 12 con vật biểu tượng của 12 chi ở Việt Nam có khác với các nước khác trong khu vực, chẳng hạn trong khi các nước khác coi Mão là thỏ thì Việt Nam coi là Mèo. Trong số 24 khí, trừ 8 ngày phân mùa, còn 16 ngày, thì có đến 14 ngày được gọi tên theo hiện tượng thiên văn, khí hậu, thời vụ ở Việt Nam, chẳng hạn thay vì Tiểu tuyết (tuyết nhỏ) và đại tuyết (tuyết lớn) ta gọi là hanh heo và khô úa, đúng với thời tiết ở ta(11).

Năm 1944, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã nêu ra ý kiến là: Lịch triều Lê khác lịch triều Thanh, đến năm 1982 giáo sư đã phục tính lịch triều Lê(12). Năm 1986, do được đọc cuốn Bách trúng kinh(13) (do Học viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội sưu tầm được và để lại) chúng tôi khẳng định rằng đây là cuốn lịch triều Lê, khác hẳn lịch Trung Quốc(14); đến năm 1987, chúng tôi hoàn thành việc khảo cứu cuốn lịch này và nghiên cứu so sánh mà dẫn ra 73 lần lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc trong vòng 162 năm, từ năm 1624 đến năm 1785(15). Cuốn Bách trúng kinh trở thành một di sản văn hóa quý của dân tộc, vì đến nay nó là cuốn lịch duy nhất có giá trị về văn bản học (2 phần 3 số trang ở đầu cuốn lịch được in bằng mộc bản) mà ta có trong tay để khẳng định lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc. Cuốn lịch này không phải là cuốn Bách trúng kinh mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn thấy ở Hà Nội năm 1944. Ông viết đó là "một sách viết cũ" một tư liệu lịch tính mang tên Bách trúng kinh chép sóc nhuận cho những năm từ 1624 đến 1799".

Hệ quả tất nhiên là một vài bản dịch các cuốn cổ sử có ghi chú thêm ngày tháng dương lịch căn cứ theo lịch Trung Quốc đã phạm sai sót, chẳng hạn như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư - Phần tiếp, tập 1. Bản kỷ tục biên(16) mà chúng tôi đã đính chính lại(17), cũng như cuốn Lịch triều tạp kỷ(18) mà chúng tôi đã đính chính. Đặc biệt, chúng tôi nhận thấy thời điểm xảy ra một vài sự kiện lịch sử có tầm quan trọng trước đây vẫn hiểu lầm hoặc không lý giải được thì nay đã xác định được, như trận giải phóng Thuận Hóa của nghĩa quân Tây Sơn(19), ngày mất của vua Quang Trung(20) ngày mất của Ngô Thì Nhậm(21).

Như vậy, việc giám định cuốn Bách trúng kinh đã giải quyết được một bước cơ bản lịch thời Lê - Trịnh, còn lịch các thời Lý, Trần, Tây Sơn và Nguyễn, mỗi thời có một cái khó riêng, nhất là lịch Lý, Trần, ta chưa tìm thấy cuốn lịch nào của thời đó. Chúng ta còn có trong tay cuốn Lịch đại niên kỷ Bách trúng kinh(22) (cũng do Học viện Viễn đông Bác cổ sưu tầm được và để lại) ghi lịch từ năm 1740 đến năm 1883, gồm lịch cuối Lê, lịch Tây Sơn và lịch đầu Nguyễn, nhưng đáng tiếc cuốn lịch này ít giá trị về mặt văn bản học: nó được chép bằng tay và có nhiều lỗi. Chúng tôi đã vận dụng lý thuyết mà sửa sai, phân tích các thông tin nội tại để phát hiện những chỗ sai sót và đính chính lại(23). Kết quả chúng tôi đã đính chính được 74 lỗi. Riêng 2 năm Mậu Dần (1758) và Quý Sửu (1793) ghi chép quá lung tung (lỗi quá lớn) không thể sửa lại được. Sau khi sửa, đoạn đầu từ năm 1740 đến năm 1785 hoàn toàn trùng với cuốn Bách trúng kinh, đoạn sau từ 1812 đến năm 1883 - là đoạn lịch Nguyễn mà theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có thể trùng với lịch Trung Quốc - chỉ có một ngày sóc khác với Trung Quốc. Kết quả so sánh hai giai đoạn trên càng củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào phương pháp hiệu đính lịch theo lý thuyết mà sửa sai mà chúng tôi đã vận dụng. Kết quả này thêm một chỗ dựa nữa để khảo cứu tiếp lịch triều Tây Sơn và lịch triều Nguyễn.

Một vấn đề có liên quan chặt chẽ đến lịch và niên biểu: các cuốn niên biểu đã được ấn hành có những nhược điểm sai sót nhất định. Theo chúng tôi(24), trong một niên biểu, giữa các bảng, giữa các cột trong một bảng cần có sự nhất quán về hình thức; trong hoàn cảnh của Việt Nam - các thời độc lập và các thời ngoại thuộc xen kẽ nhau - cần có hai cột riêng gặp nhau: một cột ghi các sự kiện của Việt Nam (các triều vua, các cuộc khởi nghĩa, các phong trào...) và một cột ghi các triều đại thống trị ngoại bang(25). Về nội dung, cặp danh từ chính triều và đồng triều nói về quy mô của vùng đất cai quản cần thay thế cho cặp danh từ chính triều và nhuận triều (ngụy triều) vẫn thường dùng trong các niên biểu. Cũng vì vậy mà niên biểu của nhà Mạc cần được sắp xếp như các triều đại khác, không thể chép thành thế phả như chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Đi sâu vào từng triều đại còn có những vấn đề cần được thảo luận thêm: Trịnh Cối phải được đưa vào thế phả họ Trịnh, Nguyễn Phúc Dương phải được đưa vào thế phả họ Nguyễn, trong thực tế không có các niên hiệu Dục Đức, Hiệp Hòa; năm sinh và năm lên ngôi của Mạc Mậu Hợp cần xác định lại... Chúng tôi mong có dịp nào đấy bàn kỹ từng vấn đề trên, nhất là làm lại thế phả họ Trịnh và họ Nguyễn.

Nhân việc nghiên cứu niên biểu triều Tiền Lý, bên cạnh việc xác định ngày mất của Lý Nam Đế, chúng tôi đoán định rằng quê hương của Lý Nam Đế là vùng thị xã Sơn Tây và huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội ngày nay(26). Có lẽ chúng tôi vẫn còn phải tiếp tục tranh luận với các trường phái khác cho rằng quê Lý Nam Đế ở tỉnh Thái Bình, đặc biệt là trường phái mới lên tiếng cho rằng quê ông ở Hà Bắc mà đại diện là Đinh Văn Nhật và Minh Tú(27).

Kết quả nghiên cứu lịch sử của chúng tôi không chỉ nằm trong địa hạt của khoa học xã hội mà còn trong Y học cổ truyền: đó là các bảng lịch và các bảng tìm huyệt theo thời châm. Một phần các kết quả này đã được công bố(28-30), và đang được công bố tiếp(31).

Trên đây là các kết quả thuộc về nội dung của cuốn lịch. Dưới đây, chúng tôi bàn tiếp về hình thức - một vấn đề quan trọng hàng đầu. Trần Viên (Trung Quốc) cần 1000 trang để in lịch 2000 năm(32). Tiết Trọng Tam và An Dương Đi (Trung Quốc) cần 400 trang, nhờ có một kỹ thuật in cao(33). Nguyễn Trọng Bính (Việt Nam) đã rút gọn phần lịch trong 260 trang, nhưng đáng tiếc là quy tắc soạn thiếu nhất quán, khó tra cứu, gần như không sử dụng được, hơn nữa có quá nhiều lỗi, chẳng hạn trang kép 306 - 307 có 11 lỗi(34).

Chúng tôi đã thu gọn lại, triển vọng chỉ cần 100 trang cho 2000 năm, bao gồm 4 loại lịch: dương lịch, âm lịch (Việt Nam và Trung Quốc), can chi và tuần lễ. Phương án mà chúng tôi đưa ra từ năm 1984(35) và gần đây chúng tôi có cải tiến cho dễ dùng hơn(36) đã ứng dụng những thành quả mới của toán học. Chúng tôi coi tờ lịch là một "cơ sở dữ liệu", cần phải nén thông tin lại, dùng một số lượng tối thiểu các tín hiệu, bố trí cho gọn gàng, dễ tra cứu. Mấu chốt của giải pháp này là ghi lại các ngày của các lịch khác nhưng lại coi đó là "ngày không" của tháng dương lịch về sau, khi dùng lịch chỉ cần làm một phép cộng hay một phép trừ nhẩm. Hai là xác lập công thức đến tính đổi giữa các loại lịch khác nhau(37). Ba là lập chương trình cho máy tính theo các công thức đó để in ra các trang lịch. Sau đó chuyển kết quả máy tính sang chế bản in La-de, không cần qua khâu xếp chữ. Bằng máy tính điện tử EC - 2022 đặt tại trường Đại học Bách khoa - Hà Nội, chỉ cần 10 phút là tính toán và in xong lịch 2000 năm(38). Hiện nay, chúng tôi dự định sẽ dùng máy vi tính để cho hình thức của tờ lịch in ra được gọn và đẹp hơn. Bằng phương pháp của chúng tôi, dễ dàng đưa thêm vào các lịch của Trung Quốc (thế kỷ thứ III có 3 lịch: Ngụy, Thục, Ngô), Lịch Hồi (âm lịch thuần túy ), "lịch sao" (nhị thập bát tú), ngày Julien. Được như vậy thì cuộn lịch sẽ vượt xa ra ngoài khuôn khổ lịch Việt Nam.

Đầu năm 1989, vận dụng toán đồ đồng dư tham khảo ở cuốn Số học giải trí bằng tiếng Pháp(39), chúng tôi đã làm ra đồ hình lịch can chi vĩnh cửu(40), đồ hình "lịch sao" vĩnh cửu(41) cũng như bảng xác định huyệt thời châm theo Linh quy bát pháp(42). Gần đây, do nhận thấy bảng tra tuần lễ theo 4 thông số nêu trong cuốn Lịch sử và niên đại học bằng tiếng Nga cũng là một cách vận dụng lý thuyết toán học đồng dư, chúng tôi lại chuyển các toán đồ trên thành dạng bảng tra 4 thông số. Bảng xác định huyệt chúng tôi đã gửi cho Tạp chí Y học dân tộc cổ truyền(43). Bảng lịch can chi và "lịch sao" tới đây chúng tôi sẽ tiếp tục công bố.

Hy vọng vào một dịp khác, chúng tôi sẽ trình bày một cách hệ thống cơ sở toán học cũng như các thủ thuật vận dụng lý thuyết toán đồng dư vào các trường hợp cụ thể để có được kết quả trên.

Như vậy là những tờ lịch này được làm ra trên một cơ sở toán học rất chặt chẽ, nên kết quả rất hiển nhiên, rõ ràng, hệ thống, thông tin được cô đọng ở mức độ cao, gọn gàng, dễ tra cứu. Chúng đều có dạng bảng tĩnh (gọn, dễ dùng, khó sai lệch), khác với nhiều loại lịch vĩnh cửu có dạng động của cơ cấu quay hay kéo.

Trên đây, chúng tôi trình bày hệ thống lại các kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Có những kết quả hiện chưa kịp tổng kết, khi nào có điều kiện, chúng tôi sẽ trình bày cặn kẽ hơn.

CHÚ THÍCH

(1) Theo Hồ Nguyên Trừng trong Nam ông mộng lục, Thơ văn Lý - Trần. Tập III, Nxb. KHXH, H. 1978, tr.726.

(2) Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ, tập I, Nxb. Văn hóa, 1962

(3) Hoàng Xuân Hãn: Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xã hội, số 9, tháng 2 - 1982, tr.54 -74.

(4) Lê Thành Lân: Bàn về lịch, Tìm hiểu âm lịch nước ta, Nxb. KHKT, 1985, tr.54-74

(5) Lê Thành Lân: Lịch thế giới, lịch Việt Nam. Lịch Văn hóa tổng hợp 1987 - 1990; Viện Văn hóa, 1987, tr.18-23.

(6) Lê Thành Lân: Lịch mặt trời Việt Nam; Almanach Thanh niên, 1990, tr.192-197. Xem thêm Lê Thành Lân: Đầu năm, tìm hiểu về lịch mặt trời Việt Nam. Báo Nhân Dân chủ nhật, số 1, 12-2-1990.

(7) Lê Thành Lân: "Lịch sao" và tuần lễ - sự gặp nhau giữa đông và tây; Sách lịch Sự thật, 1991, Nxb. Sự thật, 1991.

(8) Lê Thành Lân: Đồ hình lịch can chi vĩnh cửu; Tạp chí Hán Nôm số 1 (6)-1989, tr.78-85.

(9) Nguyễn Lân: Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả cho rằng âm lịch được soạn theo chuyển động của mặt trăng xung quanh Trái đất. Viết như vậy chưa được chính xác, vì chu kỳ của nó chỉ là 27,321661 ngày. Đúng ra là âm lịch được soạn theo sự thay đổi pha sáng tối của mặt trăng, với chu kỳ 29,530588 ngày.

(10) Xem chú thích (5)

(11) Xem (6).

(12) Xem chú thích (3)

(13) Bách trúng kinh, bản A.2873 ở kho sách Hán Nôm, Viện Hán Nôm.

(14) Lê Thành Lân: Năm mới, giở cuốn lịch cổ triều Lê; Nhân dân số xuân Bính Dần (1886).

(15) Lê Thành Lân: Lịch thời Lê - Trịnh; Lịch sử quân sự, số 21 (9) 1987, tr.18-31.

(16) Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Bản kỷ tục biên, Nxb. KHXH, H. 1982.

(17) Lê Thành Lân: “Hiệu đính một số ngày tháng có trong bản dịch cuốn Đại Việt sử ký toàn thư”. Phần tiếp, tập I - Bản kỷ tục biên. Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1986, tr.75-80.

(18) Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ, Nxb. KHXH, H. 1975.

(19) Lê Thành Lân: Lịch trình giải phóng Thuận Hóa của nghĩa quân Tây Sơn; Nghiên cứu lịch sử (Bình Trị Thiên - Huế). Số I. 10-1987, tr.40-41. Xem thêm Lê Thành Lân: Những ngày tháng mới xác định lại có liên quan đến triều Tây Sơn; Báo Nhân dân số 12628, ngày 10-2-1989.

(20) Lê Thành Lân: Một vấn đề lịch sử cần xác định lại: Nguyễn Huệ - Quang Trung và ngày mất của ông; Báo Nhân dân số 12116, ngày 13-9-1987.

(21) Lê Thành Lân: Bàn về ngày mất của vua tôi Quang Trung; Lịch sử quân sự, số 28 (4-1988), tr.50-55. Xem thêm Lê Thành Lân: Xem lại lịch nhà Nguyễn và cái chết của Ngô Thì Nhậm; Báo Người Hà Nội, số 8 (141), ngày 24-2-1990.

(22) Lịch đại niên ký Bách trúng kinh bản A.1237, Kho sách Hán Nôm, Viện Hán Nôm.

(23) Lê Thành Lân: Đọc và hiệu đính cuốn Lịch đại niên ký Bách trúng kinh; Tạp chí Hán Nôm, số 2 (3), 1987, tr.40-48.

(24) Lê Thành Lân: Vài ý kiến về biên soạn niên biểu Việt Nam; Nghiên cứu lịch sử, số 6, năm 1986, tr.61-68.

(25) Lê Thành Lân: Các giai đoạn lịch sử Việt Nam; Lịch sách kiến thức phổ thông, 1988, Nxb. KHKT, tr.35-38.

(26) Lê Thành Lân: Quê hương và ngày giỗ của Lý Nam Đế; Lịch sử quân sự, số 35 (11-1988), tr.36-45. Xem thêm Lê Thành Lân và Nguyễn Thị Trường: Quê Lý Nam Đế ở đâu ? Báo Hà Nội mới, Số 7316, ngày 23-10-1988.

(27) Minh Tú: Vùng quê Lý Nam Đế; Hà Nội mới chủ nhật, số 12, ngày 18-6-1989.

(28) Lê Thành Lân: Lịch 14 năm cuối thế kỷ và lịch thời châm; Lịch Văn hóa tổng hợp 1987-1990; Viện Văn hóa, 1987, tr.18-23.

(29) Lê Thành Lân: Lịch thời châm; Lịch sách kiến thức phổ thông 1988, Nxb. KHKT, tr.139-141.

(30) Lê Thành Lân và Nguyễn Thị Trường: Lịch can chi thế kỷ và đồ hình thời châm, Sách lịch kiến thức phổ thông 1990, Nxb. KHKT, tr. 253-270.

(31) Lê Thành Lân: Thời châm. Linh quy bát pháp. Bài gửi tạp chí Y học dân tộc cổ truyền.

(32) Trần Viên: Trung Tây Hồi sử nhật lịch, Trung Hoa thư cục xuất bản, 1962.

(33) Tiết Trọng Tam, An Dương Di: Lưỡng thiên niên Trung Tây Lịch đối chiếu kiểu, Bắc Kinh, 1959.

(34) Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Linh, Bùi Viết Nghị: Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử. Nxb. KHXH, 1976. Xem thêm Lê Thành Lân: Nhìn lại những kết quả bước đầu trong việc nghiên cứu lịch Việt Nam; Thông tin khoa học xã hội, Số 1, 1986.

(35) Lê Thành Lân: Lịch cuối thế kỷ 20; Tuần tin tức, Số 88 + 89, 12-1-1985.

(36) Lê Thành Lân: Lịch 11 năm cuối thế kỷ XX; Sách lịch Sự thật 1990; Nxb. Sự thật, tr.219-225.

(37) Lê Thành Lân: Một vài công thức đổi giữa dương lịch và lịch theo hệ đếm can chi; Lịch Văn hóa tổng hợp 1987-1990, Nxb. Văn hóa, 1988, tr.18-25.

(38) Lê Thành Lân: Vận dụng toán học và máy tính vào việc biên soạn lịch; sắp công bố trên tạp chí Khoa học tính toán và điều khiển.

(39) E.Fourrey: Récréations Arithmétiques, Paris, Librairie, Vuibert, 1933.

(40) Xem (34)

(41) Lê Thành Lân và Trần Xuân Thảo: Đồ hình lịch vĩnh cửu (Dương lịch - Tuần lễ - Lịch sao), Sách lịch Sự thật 1990, Nxb. Sự thật, tr.215-219.

(42) Xem (30)

(43) Xem (31)./.

TB

MỘT BẢN THẢO VỪA HOÀN THÀNH: BẢNG TRA DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGÔ ĐỨC THỌ

Trên đất nước Việt Nam ta có rất nhiều kỷ vật có giá trị như những sợi dây bền vững gắn bó hiện tại với truyền thống lâu đời của dân tộc. Trong những kỷ vật đó có các đền, miếu, đình, chùa, quán Đạo giáo (trong bài viết có khi chỉ gọi gọn là "Đền chùa") vốn là những nơi thờ cúng có từ lâu đời trong dân gian. Nói chung, các đền chùa đó là di tích của nền văn hóa cổ của nước ta. Ngoài giá trị kiến trúc, nghệ thuật của bản thân các công trình, sự tạo thành và tồn tại của các đền chùa gắn liền với một hệ thống sự tích, thần thoại, truyền thuyết v.v.. phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, lịch sử của nhiều bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu lai lịch các đền chùa Việt Nam không những cần thiết đối với những người quản lý, tham quan di tích, mà còn là hứng thú của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và khoa học xã hội.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, giữa muôn vàn công việc bộn bề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65 (ngày 23-11-1945) đặt các công trình kiến trúc đền, miếu, đình, chùa dưới sự bảo vệ của Nhà nước. Để hoàn chỉnh thêm Sắc lệnh đó, ngày 31-3-1984 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã ký lệnh ban hành Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh trong đó quy định rõ: "Di tích lịch sử văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như có giá trị văn hóa khác, hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa, xã hội". Pháp lệnh đó cũng cho biết nhà nước khuyến khích các tập thể và cá nhân có những sáng kiến, phát hiện, hoặc công trình nghiên cứu khoa học nhằm góp phần thực hiện chính sách quan trọng này.

Hàng ngàn năm lịch sử đã trôi qua, thật khó biết chính xác đã có bao nhiêu đền chùa từng tồn tại trên đất nước ta. Ngay cả hiện nay, tuy là đương đại, cũng khó có điều kiện để thống kê đầy đủ các đền chùa trong cả nước. Nếu mỗi đền miếu đình chùa đều có một bản ghi thuật tóm tắt, hoặc một chuyên khảo, giới thiệu các mặt liên quan, thì điều đó sẽ đáp ứng được yêu cầu của đông đảo người đọc trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu nghiên cứu lịch sử văn hóa văn minh Việt Nam. Cần cho hôm nay và cho cả mai sau.

Tuy vậy, những tư liệu gốc hoặc gần với tư liệu gốc viết bằng chữ Hán chữ Nôm đã bị hủy hoại, mất mát nhiều. Số còn lại phần lớn chưa được sưu tập, công bố. Sự hiểu biết cụ thể và lai lịch của các đền chùa do đó không tránh khỏi những nhầm lẫn, thiếu sót hoặc thiếu căn cứ.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm là nơi lưu giữ một khối lượng đáng kể các văn bản tài liệu cổ viết về các đền miếu đình chùa trên toàn cõi đất nước. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào sưu tập, xử lý để giới thiệu những thông tin đó một cách tập trung, có hệ thống theo từng đề mục đền chùa, giúp cho các nhà nghiên cứu văn hóa, khoa học xã hội và nói rộng ra là những người có yêu cầu tìm hiểu các di tích lịch sử, văn hóa thuận tiện tra cứu khi cần thiết.

Trong tình hình đó, nhóm nghiên cứu chúng tôi gồm 6 cán bộ thuộc Ban Văn bản học của Viện Hán Nôm, tự đặt cho mình nhiệm vụ sưu tập, khai thác để thông báo những thông tin từ nguồn thư tịch Hán Nôm liên quan đến các đền chùa ở nước ta. Phương pháp làm việc của chúng tôi là: Trước hết điều tra và lên một danh mục cơ bản các thư tịch Hán Nôm có viết về đền chùa. Tiếp đó, từng đơn vị đền miếu đình chùa trong mỗi thư tịch Hán Nôm đều được người biên soạn dùng ngôn ngữ thông tin, theo một ma-két không quá gò bó, nhưng định hướng trước để tóm tắt những nội dung chủ yếu sau đây:

a, Tên gọi di tích (tên chính thức bằng chữ Hán và các tên quen dùng khác).

b, Địa điểm (làng, xã, huyện, tỉnh, theo tên cũ ghi trong tư liệu Hán Nôm), nếu xác định được thì có quy đổi ra địa danh hiện nay.

c, Niên đại hưng tạo, trùng tu, người chủ trương tu tạo, đặc điểm kiến trúc (nếu có).

d, Tiểu sử, sự tích, truyền thuyết liên quan đến các đối tượng thờ cúng (nhân vật lịch sử, nhân vật truyền thuyết) và những người trụ trì có danh tiếng.

đ, Nghi thức hội lễ, lệ kiêng húy v.v.. liên quan đến di tích.

e, Xuất xứ tư liệu đã sử dụng.

Với phương pháp tóm tắt, tổng hợp thông tin như vậy, chúng tôi hy vọng cung cấp những thông tin chủ yếu nhất về lai lịch các đền miếu, đình chùa đã được người xưa ghi lại trong các thư tịch Hán Nôm.

Tiếp sau bước lược thuật tư liệu riêng biệt, chúng tôi thực hiện công tác xử lý tư liệu (xếp thứ tự A, B, C theo tên di tích) để tổng hợp thông tin. Trước hết xác định các thông tin đồng nhất qua các phiếu chi báo riêng biệt. Tiếp đó, xử lý đến những thông tin có nội dung khác biệt, cũng không ngoài mục đích quy nạp thêm những thông tin về cơ bản là đồng nhất mà dị biệt là do các trình bày hoặc chỉ ở những chi tiết chủ yếu. Loại trừ những trường hợp có thể giải thích được là do sai lầm của truyền bản, số còn lại được coi là có sự khác biệt về nội dung thông tin, khi soạn tin tổng hợp chúng tôi sẽ thể hiện bằng cách coi đó là "một thuyết khác", hoặc "có tài liệu khác nói" (khi cần thiết có dẫn tên tư liệu).

Trong quá trình làm việc, nhóm biên soạn đã sử dụng nguồn thư tịch Hán Nôm tập trung vào những môn loại có nhiều ghi chép về các di tích lịch sử văn hóa. Đó là những công trình, tác phẩm có danh tiếng trong lịch sử thư tịch Việt Nam: các bộ quốc sử như: Đại Việt sử lược (của Trần Tấn, Hoặc Phổ, đời Trần), Đại Việt sử ký toàn thư (của Ngô Sĩ Liên và các sử thần Quốc sử viện triều Lê), Đại Việt sử ký tiền biên (của Ngô Thì Sĩ), Đại Việt sử ký tục biên (bản chỉnh lý của Ngô Thì Nhậm). Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Đại Nam thực lục tiền biên, Chính biên (của Quốc sử quán triều Nguyễn); các sách địa dư chí toàn quốc như Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (của Lê Quang Định), Hoàng Việt địa dư chí và phần Địa dư chí trong Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú), Đại Nam nhất thống chí (của Quốc sử quán triều Nguyễn), Đại Việt địa dư toàn biên (của Nguyễn Văn Siêu), Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí (Sử quán triều Đồng Khánh) v.v.. Địa chí từng miền, tỉnh, phủ, huỵên, xã có nhiều cuốn biên soạn công phu như Ô Châu cận lục (của Dương Văn An đời Mạc), Bắc Thành địa dư chí lược (của Lê Chất, nguyên Tổng Trấn Bắc Thành), Nam kỳ địa dư chí (của Duy Minh Thị), Hà Nội địa dư (của Dương Bá Cung), Bình Định tỉnh chí (của Phạm Thế Hiển), Thanh Hóa tỉnh chí (của Nhữ Bá Sĩ), Nghệ An ký (của Bùi Dương Lịch), Vĩnh Lộc huyện chí Can Lộc huyện phong thổ chí (của Lưu Công Đạo) v.v.. Cũng có những cuốn ít nổi tiếng hơn, nhưng soạn giả là người địa phương, có công trong việc điều tra sưu tầm tại thực địa, do đó ghi chép được những tư liệu đáng quý, như các cuốn Phú Thọ tỉnh địa dư, Lục Nam huyện chí, Kim Anh huyện chí, Hoàn Long huyện chí v.v.. Những tác phẩm có giá trị khác thuộc các môn loại truyện ký như Thiền uyển tập anh (định bản đời Trần), Đại Nam thiền uyển truyền đăng lục, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Đại Nam liệt truyện Tiền biên, Chính biên (của Quốc sử quán triều Nguyễn), Nhân vật chí, Lãm cổ ký, các tập thần tích ngọc phả như Bách thần lục, các tập Khai sách có ghi đền chùa ở các địa phương thuộc Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương v.v.. Các sách có nội dung tổng hợp như Kiến văn tiểu lục (của Lê Quý Đôn), Thoái thực ký văn (của Trương Quốc Dụng) và các thi văn tập như Lã Đường thi cảo di tập (của Thái Thuận), Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh (của Trịnh Căn), La Thành bách vịnh (của Trần Bá Lãm), ngoài phần thơ chữ Hán và chữ Nôm đề vịnh, cũng cung cấp không ít thông tin đáng quý về di tích.

Với hơn 150 thư tịch thuộc "Danh mục tài liệu cơ bản" và các tư liệu tham khảo khác ngoài danh mục ấy, thu được gần 20.000 phiếu lược thuật, chúng tôi đã xử lý, tổng hợp, biên soạn được 1202 đơn vị di tích, bao gồm: Đền, miếu: 605; Đình: 132; Chùa (am, viện, tháp): 454; Đạo quán: 11, thuộc nhiều địa phương nước ta: Phía Bắc từ Hà Tuyên (1 di tích), đến Hà Tiên bên bờ vịnh Thái Lan (5 di tích). Các địa phương có nhiều di tích là: Hà Nội 219, Hải Hưng 143, Hà Bắc 137, ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế 105, Hà Nam Ninh 104, Thanh Hóa 85, Thái Bình 63, Nghệ Tĩnh 63 v.v.. Tất cả được xếp thứ tự A, B, C theo tên gọi di tích. Mỗi mục từ, tùy theo tư liệu cho phép, được trình bày để thể hiện những nội dung chủ yếu theo ma-ket đã kê trên, đặt tên sách là Bảng tra di tích lịch sử văn hóa Việt Nam (Tổng hợp tư liệu thư tịch Hán Nôm).

Qua tập tra cứu này người dùng sách có thể tìm hiểu hệ thống các di tích lịch sử văn hóa (trong đó có nhiều di tích đã được nhà nước xếp hạng, một số khác đang tiếp tục được xem xét để xếp hạng) liên quan đến nhiều nhân vật và sự kiện trong lịch sử nước ta. Nếu thời kỳ từ Hùng Vương đến trước sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chủ yếu là các nhân vật truyền thuyết, thì phải chăng qua lớp sương mù của huyền thoại có phần nào ký ức của nhân dân về một Hùng Công, Dũng Công, Lược Công (đình Cao Hải) giúp vua Hùng đánh quân Thục; tướng Cao Lỗ (đình Ái Mộ), tướng Đinh Tuấn (đền Noa Cả đại vương) giúp An Dương Vương chống cuộc xâm lăng của Triệu Đà? Các ký ức đó có phần còn đậm nét hơn nữa đối với các nữ tướng của Hai Bà Trưng, như với bà Lê Chân (đền An Biên), bà Tiên La (đền Bát Nàn), bà Vĩnh Huy (đình Cổ Châu), bà Bảo Châu (cũng gọi là nàng Sen, đền Cao Bà) v.v.. Các nhân vật trong thời Bắc thuộc có đền thờ Bà Triệu, Tiền Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục. Từ các vị này trở đi, các nhân vật lịch sử là anh hùng cứu quốc, danh nhân văn hóa là đối tượng chủ yếu được nhân dân kỷ niệm tôn thờ. Qua bao năm tháng vật đổi sao dời, đền Lý Ông Trọng ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, không còn nhiều di vật cổ xưa nữa, nhưng đó chính là ngôi đền được sử sách ghi nhận niên đại hưng tạo sớm nhất trong lịch sử nước ta, khoảng năm 866-874, trong thời gian Cao Biền làm Tiết độ sứ ở Giao Châu (Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ 1,8a).

Thời kỳ độc lập, từ thế kỷ X trở về sau có đền miếu lăng mộ vua các triều mà tiểu sử hành trạng đã được sử sách ghi chép, trong đó có lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội); lăng và miếu thờ Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành ở Trường Yên (Gia Viễn, Hà Nam Ninh), miếu Lý Bát Đế (Đình Bảng, Từ Sơn, Hà Bắc) v.v.. Nhưng chiếm số lượng nhiều nhất vẫn là di tích kỷ niệm những nhân vật lịch sử có công trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược và có cống hiến đáng kể đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa của nước ta: Danh nhân đời Lý có các đền thờ Lý Thường Kiệt, Lê Văn Thịnh, Đỗ Kính Tu, Tô Hiến Thành, Đỗ Thế Diên, phò mã Vũ Thành, An Biên tướng quân Hoàng Lục. Văn thần võ tướng đời Trần có các đền thờ các vị: Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Đỗ Thiên Hứ, Đỗ Trung, Nguyễn Hiền, Đoàn Nhữ Hài, Chu Văn An, Đào Sư Tích, Trương Hán Siêu v.v.. Một số vị có công bình giặc Nguyên chưa được ghi trong chính sử như Phạm Sĩ, Trần Tuấn Sơn, Trần Quốc Thành, phò mã Nguyễn Chế Nghĩa. Các công thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có đền thờ Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Khôi, Trịnh Khả, Trình Thanh, Nguyễn Tông Vĩ, Tô Quang, Dương Trực v.v.. Đền thờ các nhà khoa bảng có nhiều đóng góp trên lĩnh vực văn hóa giáo dục như Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đàm Thận Huy, Lương Như Hộc, Nguyễn Thiệu Tri, Vũ Duệ v.v.. Danh nhân Văn hóa thời Mạc có đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; thời Lê Trung hưng có đền Nguyễn Cảnh Hoan, Nguyễn Mô, Hoàng Đình Ái, Nguyễn Quán Nho, Lê Trọng Thứ v.v.. Những nhân vật lịch sử nổi tiếng thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong có đền thờ Nguyễn Hữu Kính, Trần Đức Hòa, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến v.v..

Vượt lên ý nghĩa tín ngưỡng, thờ cúng bình thường chúng ta có thể thấy những di tích kỷ niệm các nhân vật có công với nước với dân đã trở thành những "pho sử lộ thiên" có tác dụng thường xuyên nhắc nhở giáo dục tinh thần yêu nước của người Việt Nam ta từ thế hệ này qua thế hệ khác. Có thể coi đó là một cách làm xuất sắc mà cha ông ta đã gắn bó hài hòa giữa tập tục tín ngưỡng của đông đảo quần chúng với việc giáo dục lịch sử. Phải chăng sự quan tâm chú ý một cách kiên trì như vậy rốt cuộc đã động viên được mọi truyền thống lịch sử dồn cho sức mạnh của dân tộc để chống đồng hóa và đánh thắng giặc ngoại xâm ?

Cũng liên quan đến các di tích đền miếu, một đặc điểm chung đáng chú ý là: trong những sự tích truyền thuyết liên quan đến di tích, bao quanh "cái lõi hiện thực", thường có những lớp huyền thoại hoang đường, tức là những yếu tố phi hiện thực. Đó là sản phẩm tất yếu gắn liền với thế giới quan thần linh chủ nghĩa tồn tại trong xã hội phong kiến. Nếu ngày nay các tập tục mê tín như đồng bóng, chữa bệnh bằng tàn hương nước lã cần phải bài trừ, thì các truyền thuyết hoang đường đã ngưng đọng trong ký ức dân gian, về tính chất và loại hình có thể xem là tương đồng với các kho tàng thần thoại truyền thuyết của nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nếu tách rời các huyền thoại truyền thuyết với những di tích từ đó nó đã sản sinh hoặc gắn bó thì di tích khác nào như bị trơ trụi, khô cứng, chỉ còn lại cái vỏ tường mái mà nhiều trường hợp cũng không phải là cổ kính lắm. Những tư liệu Hán Nôm cung cấp trong tập tra cứu này rải rác sẽ gợi lên những mô-típ đáng chú ý đối với các chuyên gia nghiên cứu văn hóa dân gian. Chẳng hạn mô-típ về sự thụ thai và sinh nở thần kỳ có những dạng như: bà mẹ cảm tinh giao long mà sinh ra Trương Hát (thần tích đình Dục Quang), chiêm bao cầm chiếc râu rồng rồi có mang (thần tích đình Đại Vi), chiêm bao thấy sao Vũ Khúc rồi sinh ra Triệu Quang Phục (thần tích đền Cự Trình), các anh em cùng bọc sinh đôi, sinh ba v.v.. Mô-típ khúc gỗ hay phiến đá nổi trên sông báo tin cái chết của những nhân vật linh thiêng: phiến đá trắng trôi về cửa sông Cấm (Hải Phòng) báo tin cho dân làng dựng đền thờ bà Lê Chân, cũng phiến đá trắng dạt vào bãi sông Hồng báo cho dân phường Đồng Nhân (Hà Nội) dựng đền thờ Hai Bà Trưng, cây gỗ trầm hương trôi đến xã Lương Xuân, huyện An Hải thì dừng lại, dân bản xã vớt gỗ tạc tượng thờ Ngô Quyền v.v..

Nguồn tư liệu thư tịch Hán Nôm giới thiệu trong tập tra cứu này cũng phản ánh những thông tin tổng quát về hệ thống chùa Phật giáo và quán Đạo giáo ở nước ta.

Căn cứ theo Đại Nam nhất thống chí (Sơn Tây) thì quán Thông Thánh ở xã Bạch Hạc, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú dựng vào khoảng niên hiệu Vĩnh Huy (650-655) thời thuộc Đường là ngôi quán Đạo giáo có sớm nhất ở nước ta. Gần đây một Đạo quán khác là Linh Tiên quán ở xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội, được giới nghiên cứu biết đến vì ở đó phát hiện được những tấm ván in có niên đại đầu thế kỷ XV. Nhưng đọc văn bia Linh Tiên quán tu tạo bi ký do Hiền cung đại phu Nguyễn Chấp Trung soạn năm Hoằng Định thứ 18 (1617) chúng ta còn nhận được thông tin, dù chưa được xác nhận, về gốc tích cổ xưa hơn nữa của ngôi quán này.

Về Phật giáo, qua tập tra cứu này, bạn đọc có thể tìm hiểu những ngôi chùa cổ nổi tiếng trong lịch sử truyền thừa ở nước ta. Chùa Pháp Vân (tức chùa Dâu, Thuận Thành, Hà Bắc) hiện còn, sử ghi dựng vào năm Đại định thứ 22 (1161) đời Lý Nhân Tông (Toàn thư, BK3, 6b). Đúng ra đó chỉ là năm trùng tu hoặc dựng lại chùa. Còn các thư tịch khác như Cổ Châu Pháp Vân tự thực lục, Thiền uyển tập anh v.v.. cho biết lịch sử của nó cổ xưa hơn nhiều: chùa khởi tạo khoảng cuối thế kỷ II - đầu thế kỷ III, khi Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu (năm 187-226), là một trong những cơ sở truyền thừa ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu nổi tiếng đương thời. Đến năm 580, thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) người Ấn Đồ đến trụ trì tại đây, mở ra một thiền phái mang tên ông trong lịch sử Phật giáo mà các thế hệ sau từng có nhiều nhà Thiền học nổi tiếng như thiền sư Vạn Hạnh (chùa Lục Tổ), tăng thống Huệ Sinh (chùa Vạn Tuế), thiền sư Viên Học, quốc sư Viên Thông v.v.. Chùa Kiến Sơ ở hương Phù Đổng (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội) do thiền sư Cảm Thành (?-860) cất dựng, lại là tổ sơn của một thiền phái khác mang tên thiền sư Vô Ngôn Thông (?-826). Dòng thiền này xác lập muộn hơn, nhưng có con đường riêng để phát triển ảnh hưởng ngày một sâu rộng, càng về sau càng có thế lực hơn. Chỉ kể từ thời độc lập, thiền phái này đã có những nhà tu hành và nhà Thiền học nổi tiếng như Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu (933-1011), Thiền lão, Viên Chiếu (999-1090), Cứu Chì, quốc sư Thông Biện (?-1134), đại sư Mãn Giác (1052-1096), Đạo Huệ (?-1172), Bảo Giám (?-1173), Thường Chiếu (? - 1203). Thiền sư Hiện Quang thuộc thiền phái này là người đầu tiên đến trụ trì ở núi Yên Tử, mở đầu cho dòng Thiền Yên Tử sẽ phát huy ảnh hưởng rực rỡ dưới triều Trần với ba vị Tổ Trúc Lâm là Điều Ngự Trần Nhân Tông (1258-1308), Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang tôn giả (1254-1334). Dưới thời Trần và nhiều thế kỷ tiếp sau, ngọn núi Yên Tử với hệ thống các chùa Vân Yên (sau đổi là Hoa Yên), Vân Tiêu, Long Động v.v.. là chốn hướng tâm của nhiều thế hệ tăng ni, Phật tử trong cả nước.

Từ thế kỷ XV trở về sau, Nho giáo chiếm địa vị được tôn trọng trong ý thức hệ chính thống, nhưng chúng ta vẫn thấy Phật giáo có ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Nhiều chùa chiền bị phá hủy hoặc hư hại trong kháng chiến chống quân Minh và trong chiến tranh Lê - Mạc dần dần được trùng tu, khôi phục (như các chùa Phổ Minh, Phúc Lâm Hoằng Thệ, Quảng Nghiêm v.v..). Khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII có thể nói là lại có một phong trào phục hưng Phật giáo. Nhiều chùa cổ được trùng tu, nhiều chùa mới được xây dựng. Và từ những thiền viện đó, tư tưởng từ bi hỉ xả của Phật Thích Ca, tư tưởng nhập thế tích cực của các bậc cao tăng nước ta càng có điều kiện đi sâu vào đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân, tạo thành một yếu tố sâu đậm trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Qua bao nhiêu biến thiên của thời đại, những ngôi chùa có lịch sử lâu đời, như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Kim Liên v.v.. ở Hà Nội, chùa Phật Tích, chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa Ninh Phúc (Bút Tháp), chùa Vĩnh Nghiêm v.v.. ở Hà Bắc, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Hương Tích v.v.. ở Hà Sơn Bình, tháp Bình Sơn ở Vĩnh Phú, chùa và tháp Phổ (tức chùa Keo) ở Thái Bình, hệ thống chùa Yên Tử ở Quảng Ninh, chùa Giác Lâm ở thành phố Hồ Chí Minh v.v.. là những chùa đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử Văn hóa. Còn hàng trăm ngôi chùa cổ và các đền miếu, đạo quán khác ở nhiều địa phương: Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế v.v. cũng sẽ được các cơ quan quản lý văn hóa nghiên cứu để lần lượt xếp hạng di tích.

Sau khi hoàn thành bản thảo, nhóm biên soạn chúng tôi nhận thấy nói chung công trình được thực hiện theo mô hình thiết kế. Tuy vậy, thực tế các tư liệu thư tịch Hán Nôm viết về đền miếu đình chùa phân bố không đều nhau, lượng thông tin nhiều ít cũng chênh lệch, không ít mục từ chỉ có thể trình bày được vài ba yếu tố, chứ không có đủ các nội dung mong muốn, một số chỉ báo quá rời rạc đã phải tạm để ra ngoài công trình. Vả lại, trong quá trình biên soạn công việc cũng tương đối bề bộn, các chỉ báo tư liệu rất đa dạng, mà phạm vi hiểu biết, điều kiện tham khảo của chúng tôi có hạn, cho nên trong việc trình bày các mục từ không tránh khỏi có sai lầm thiếu sót. Hiện nay chúng tôi đang chuẩn bị đưa in, nhằm cung cấp cho người đọc có thêm tài liệu tra cứu, tham khảo.

12-1990

TB

ANH EM HỌ NGUYỄN LÀNG KIM ĐÔI

LÂM GIANG

Năm Hồng Đức thứ 25 (1494), Lê Thánh Tông lập Hội Tao đàn, gồm 28 hội viên và 2 là Tao đàn sái phu. Trong Hội, có hai cặp hội viên có quan hệ ruột thịt với nhau:

- Ngô Luân đỗ đồng Tiến sĩ khoa Ất Mùi, Hồng Đức thứ 6 (1473) là anh ruột Ngô Thầm đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu, Hồng Đức thứ 24 (1493), người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn (nay là Tiên Sơn, Hà Bắc).

- Nguyễn Nhân Bị là anh con ông bác với Nguyễn Xung Sác là em con ông chú, người làng Kim Đôi(*).

Lần này chúng tôi chỉ xin giới thiệu mấy nét về họ Nguyễn làng Kim Đôi, một dòng họ có tiếng đỗ đạt nhiều vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Sau nữa là tiểu truyện và trích dịch một số bài thơ của hai hội viên Tao đàn Nguyễn Nhân Bị và Nguyễn Xung Sác, nhằm cung cấp một ít tư liệu để bạn đọc hiểu thêm về Hội Tao đàn nói chung và hai hội viên Tao đàn thuộc dòng họ Nguyễn làng Kim Đôi nói riêng.

Họ Nguyễn làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng (nay là huyện Quế Võ, Hà Bắc) là một danh gia vọng tộc, tổ tiên vốn người Lạc Thổ, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Yên Dũng, Hà Bắc). Tương truyền, đời trước tích âm đức, nhặt được vàng của người khách đánh rơi, trả lại toàn bộ, mặc dù người ấy xin biếu một nửa không nhận, do đó, người khách tìm cho một ngôi đất quý để mộ tổ. Từ đấy, nối đời xuất hiện danh nho. Mở đầu cho sự hiển đạt của dòng họ là Nguyễn Nhân Bị, anh con ông bác và Nguyễn Nhân Thiếp, em con ông chú, cùng đỗ khoa Bính Tuất, Quang Thuận thứ 7 (1466).

Sự đỗ đạt của anh em họ Nguyễn làng Kim Đôi thịnh vượng nhất vào thời Lê Thánh Tông, gồm 11 người. Có khoa như khoa Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27 (1496), có 30 Tiến sĩ, thì huyện Võ Giàng chiếm 6, riêng họ Nguyễn làng Kim Đôi chiếm 4, đó là Nguyễn Viên, Nguyễn Kính, Nguyễn Đạo Diễn, Nguyễn Củng Thuận. Và trong dòng họ có tới 4 người làm quan đến Thượng thư như: Nguyễn Nhân Thiếp, Nguyễn Viên, Nguyễn Kính, Nguyễn Lượng. Trước sự thịnh đạt của dòng họ Nguyễn làng Kim Đôi ấy, Lê Thánh Tông phải thốt lên: "Anh em họ Nguyễn làng Kim Đôi, áo đỏ, áo tía đầy triều"(1). Đến khi lập Hội Tao đàn, Lê Thánh Tông bèn chọn hai anh em ruột Nguyễn Nhân Bị và Nguyễn Xung Sác cùng tham gia Hội. Trước khi tìm hiểu hai hội viên Hội Tao đàn, xin điểm qua những người đỗ đạt trong dòng họ.

Dòng trưởng:

- Nguyễn Củng Thuận, con anh cả (không rõ tên), 25 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27 (1496), làm quan đến Tả thị lang(2).

- Nguyễn Dũng Nghĩa, con trai Nguyễn Nhân Bị, đỗ khoa Quí Sửu, Hồng Đức thứ 24 (1493), làm quan đến Giám sát ngự sử(3).

- Nguyễn Đạo Diễn, con Nguyễn Xung Sác, 29 tuổi, đỗ đồng Tiến sĩ khoa Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27 (1496), làm quan đến Hiến sát sứ(4).

Dòng thứ:

- Nguyễn Nhân Thiếp, 25 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất, Quang Thuận thứ 7 (1466), làm quan đến Thượng thư bộ Lại(5).

- Nguyễn Nhân Dư, em ruột Nguyễn Nhân Thiếp, 17 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, Hồng Đức thứ 3 (1472), làm quan đến Hiến sát sứ(6).

- Nguyễn Nhân Dịch, là em ruột Nguyễn Nhân Dư, 18 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Ất Mùi, Hồng Đức thứ 6 (1475), làm quan đến Hiệu thảo(7).

- Nguyễn Viên là con Nguyễn Nhân Thiếp, 21 tuổi đỗ Bảng nhãn khoa Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27 (1496), làm quan đến Thượng thư(8).

- Nguyễn Kính là em ruột Nguyễn Viên, 18 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27 (1496), hai lần đi sứ, làm quan đến Thượng thư(9).

- Nguyễn Hoằng Khoản, là con Nguyễn Nhân Dịch, 20 tuổi đỗ đồng Tiến sĩ khoa Canh Tuất, Hồng Đức thứ 21 (1490)(10).

- Nguyễn Đức Lượng là con Nguyễn Kính, 27 tuổi đỗ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất Quang Bảo thứ 9 nhà Mạc (1556) có đi sứ, làm quan đến Thượng thư bộ Hộ(11).

Để tiện việc theo dõi, xin tóm tắt lại như sau (những chữ số trong ngoặc đơn là năm thi đỗ):

Dòng trưởng:

Anh cả (không rõ tên)
Nguyễn Nhân Bị
(1466, 1491)
Nguyễn Xung Sác
11 (1469)
Nguyễn Củng Thuận (1496) Nguyễn Dũng Nghĩa (1493) Nguyễn Đạo Diễn (1496)

Dòng thứ:

Nguyễn Nhân Thiếp (1466) Nguyễn Nhân Dư (1472) Nguyễn Nhân Dịch (1475)
Nguyễn Viên (1496) Nguyễn Kính (1496) Nguyễn Hoằng Khoản (1490)
Nguyễn Đức Lượng (1536)

Hiện tượng nhiều người thi đỗ trên đây của anh em nhà họ Nguyễn làng Kim Đôi, còn là nhờ sự dạy bảo của thầy Trần Bá Linh ở Thị Cầu. Thầy đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3 (1442), từng đi sứ phương Bắc, làm quan đến Hình viện tri đông đạo quân dân bạ tịch. Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Xung Sác, Nguyễn Nhân Thiếp, Nguyễn Nhân Dư, Nguyễn Nhân Địch đều là học trò do thầy Trần Bá Linh trực tiếp dạy bảo(11). Vì vậy, thầy trò anh em họ Nguyễn làng Kim Đôi nức tiếng một thời. Và, khi lập Hội Tao đàn, Lê Thánh Tông đã chọn hai người thuộc dòng trưởng là Nguyễn Nhân Bị và Nguyễn Xung Sác tham gia.

NGUYỄN NHÂN BỊ (1448 - ?)

Nguyễn Nhân Bị sinh năm Mậu Thìn, Thái Hòa thứ 6 (1448), không rõ năm mất. 19 tuổi, đỗ đồng Tiến sĩ, khoa Bính Tuất, Quang Thuận thứ 7 (1466). Khoa ấy có 27 người đỗ, trong đó có Đỗ Nhuận sau có tham gia Hội Tao đàn. Nhân Bị lúc nhỏ rất dĩnh dị, thường tự phụ rằng mình sẽ đỗ thủ khoa. Đến khi không được như ý, bèn xin về quê học lại. Đến khoa Tân Sửu, Hồng Đức thứ 12 (1481), Nhân Bị đi thi lần thứ hai, nhưng cũng chỉ đỗ đồng Tiến sĩ. Khoa này có 40 người đỗ, trong đó có Lưu Hưng Hiếu, Ngô Văn Cảnh sau có tham gia Hội Tao đàn. Lúc này Nhân Bị đã 34 tuổi, các em trong nhà, trong họ đều thành đạt, quyền cao chức trọng, nên không từ chối quan chức nữa. Nhân Bị làm quan đến Hàn lâm hiệu lý, thăng đến Binh bộ Thượng thư(12).

Nguyễn Nhân bị để lại tác phẩm không nhiều, hiện còn có một số sáng tác như sau:

- Được chép trong Quỳnh uyển cửu ca có 9 bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông.

- Chùm thơ ba bài, đồng tác giả, trong đó có đủ ba bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông: Họa Ngự chế Tư gia tướng sĩ, Họa Ngự chế Anh tài tử, Họa Ngự chế Lục Vân động.

Sau đây xin trích dịch hai bài thơ của Nguyễn Nhân Bị trong chùm thơ ba bài để bạn đọc cùng tham khảo:

Phụng họa Ngự chế: Tư gia tướng sĩ
Nhân sinh bách tuế dữ ưu câu,
Huống phục thiên nhai chích ảnh cô.
Hạo đãng giai kỳ sầu tự hải;
Sâm si viễn mộng tứ như thu.
Tây hà thủy bạc ngư thư đoạn;
Bắc tái vân thâm nhạn tín vô.
Tá vấn qui kỳ hà nhật thị,
Oanh hoa xuân noãn đế vương châu.

Dịch nghĩa:

Vâng họa bài: Tướng sĩ nhớ nhà của Đức Vua.
Người ta sống đến trăm tuổi, đều phải lo âu,
Huống hồ phải ở nơi chân trời cô đơn chiếc bóng.
Ngày hội ngộ xa vời, nỗi buồn mênh mang như bể;
Giấc mộng phương xa dằng dặc, nỗi niềm man mác tựa thu.
Sông tây nước nông, thư cá đứt đoạn;
Ải bắc mây dày, tin nhạn bặt tăm(13).
Xin hỏi ngày về là ngày nào đây?
Ấy là lúc mùa xuân oanh ca hoa nở khắp kinh đô(14).

Dịch thơ:

Đời người đầy ắp nỗi lo sầu,
Huống ở chân trời chiếc bóng côi
Hội ngộ xa vời sầu tựa bể;
Mộng quê dằng dặc tứ như thu.
Sông tây thư cá nào tìm được;
Ải bắc tin nhà chẳng thấy đâu.
Thử hỏi ngày nào về được nhỉ?
Ấy khi hoa nở khắp kinh châu.

Lâm Giang dịch

Phụng họa Ngự chế: Lục Vân động
Ỷ không thạch bích tủng toàn ngoan,
Quang lãng hồ thiên thế giới khoan.
Vân hữu bán gian tàng Phật ốc;
Trần vô nhất điểm đáo Thiền quan.
Y y sơn sắc yên hoa bạc;
Húng húng giang thanh dạ khí hàn.
Trúc viện tăng quí xuân trú tĩnh,
Lạc hoa đề điểu tịch dương nhân.

Dịch nghĩa:

Vâng họa bài: Động Lục Vân của Đức vua.
Vách đá dựa tầng không cao chót vót lởm chởm,
Một bầu trời rộng sáng trong thế giới bao la.
Có nửa khoảnh mây che ngôi chùa Phật;
Không một hạt bụi vương chốn cửa Thiền,
Sắc núi xanh xanh, hoa khói mờ nhạt;
Tiếng sóng ào ào, khí đêm lạnh lùng.
Nhà sư quay về trúc viện, ngày xuân yên tĩnh.
Hoa rụng, chim hót, bóng tịch dương nhởn nhơ(15).

Dịch thơ:

Vách cao lởm chởm dựa tầng không,
Rộng sáng bầu trời bát ngát trong.
Mây có nửa gian che cửa Phật;
Bụi không một hạt phủ tòa hồng.
Xanh xanh sắc núi mờ hoa khói;
Cuồn cuộn sóng xô, khí lạnh lùng.
Xuân tiết sư ông về trúc viện,
Hoa rơi chim hót nắng chiều rong

Tường Luân dịch

NGUYỄN XUNG SÁC (1451-?)

Nguyễn Xung Sác sinh năm Tân Mùi, Thái Hòa thứ 9 (1451), không rõ năm mất. 19 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, Quang Thuận thứ 10 (1469). Khoa ấy có 22 người đỗ, trong đó có Thân Nhân Trung sau tham gia Hội Tao đàn. Trước tên là Nguyễn Nhân Phùng, Lê Thánh Tông đổi là Nguyễn Trọng Ý, sau lại đổi là Xung Sác (có sách chép là Trọng Sác, Xung Ý), làm quan đến Hàm lâm viện thị độc Chưởng viện sự, kiêm Lễ bộ Hữu thị lang(16). Không rõ sau khi đậu Tiến sĩ được bổ chức quan gì, còn chức Hàn lâm viện thị độc Chưởng viện sự thì cuối năm Hồng Đức thứ 14 (1483) mới được nhận(17). Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), Nguyễn Xung Sác lại kiêm Tú lâm cục tư huấn, tham gia soạn bia tiến sĩ tại Văn Miếu(18). Đến cuối năm Hồng Đức thứ 22 (1491), Nguyễn Xung Sác được bổ Hàn lâm viện thị độc Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Lễ bộ tả thị lang(19). Năm Hồng Đức thứ 25 (1494) tham gia Hội Tao đàn, đứng thứ 5 trong số 28 hội viên.

Theo Đại Việt lịch đại tiến sĩ khoa thực lục (A.2040 tờ 17a), Nguyễn Xung Sác làm quan đến Lễ bộ tả thị lang kiêm Hàn lâm viện, sau mắc lỗi bị biếm xuống Tế tửu.

Theo Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (A.132/2 tờ 18a), Nguyễn Xung Sác là người giỏi thơ Nôm, bài Tiêu Tương bát cảnh hiện chép trong Hồng Đức quốc âm thi tập là của ông.

Về trước tác, Nguyễn Xung Sác để lại khá nhiều, nhưng nằm rải rác ở các sách. Chính tác giả và con cháu cũng chưa có điều kiện tập hợp các sáng tác ấy thành thi tập, văn tập, hoặc thi văn tập. Cũng vì vậy, không tránh khỏi sự thất lạc. Hiện tập hợp được một số sáng tác như sau:

1. Quỳnh uyển cửu ca, đồng tác giả, trong đó có đủ 9 bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông.

2. Chùm thơ ba bài, đồng tác giả, có đủ ba bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông.

3. Văn minh cổ xúy, đồng tác giả, trong đó có đủ 6 bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông: Họa Ngự chế Bái yết sơn lăng cảm thành, Họa Ngự chế Thiên Vực giang hiểu phát, Họa Ngự chế Truy hoài Thánh Tổ huân nghiệp, Họa Ngự chế Hạnh Kiến Thụy đường, Họa Ngự chế Trú Thúy Ái châu.

4. Cổ kim bách vịnh, đồng tác giả, họa thơ Lê Thánh Tông. Hiện sách này chưa thấy, tên sách ghi trong Đại Việt sủ ký toàn thư(20).

5. Thứ vận tống Đàm Hiệu thư Văn Lễ Bắc sứ.

6. Họa Ngự chế Quan giá đình trung thu ngoạn nguyệt. Hiện chưa thấy bài thơ này. Tên bài thơ chép trong Đại Việt sử ký toàn thư(21).

7. Tiêu Tương bát cảnh (thơ Nôm).

8. Bài văn bia: Hồng Đức nhị thập niên, Tân Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký.

9. Các đoạn văn bình (cẩn ngôn) thơ Lê Thánh Tông:

TT Tác phẩm của
Lê Thánh Tông
tờ Tên bài thơ bình Số chữ
bình
Ghi chú

1

Quỳnh uyển cửu ca chép trong Minh lương cẩm tú
(A.1413)
15a
30b
37a
42b
53a
60b
Bách cốc phong đăng;
Quân minh thần lương
Dao tưởng anh hiền
Kỳ khí
Văn nhân
Mai Hoa
308
360
150
260
150
130
lời "cẩn ngôn"
- nt -
lời bình
- nt -
- nt -
- nt -
2 Minh lương cẩm tú (A.254) 7a Tư gia tướng sĩ 280 - nt -

Sau đây xin trích dịch ba bài thơ của Nguyễn Xung Sác, trong đó, hai bài rút trong tập Văn minh cổ xúy, một bài viết tặng Đàm Văn Lễ khi sứ phương Bắc, hiện chép trong Toàn Việt thi lục.

Phụng họa Ngự chế: Bái yết sơn lăng cảm thành.
Để lý quang hồi chính diệm nghiên,
Xuân hoa như hải liễu như yên.
Quân nhân tế vũ phùng sơn tế;
Mạc mạc hương vân lạc giản biên.
Tổ luyện xuyên hồi thiên lý túc;
Tinh kỳ phong động vạn thiên huyền.
Vi thần điêu hộ Tây Kinh tất,
Hoa cái chiêm y chỉ xích thiên.
(Văn minh cổ xúy)

Dịch nghĩa:

Vâng họa bài: Lễ ở sơn lăng xúc cảm thành thơ của Đức vua.
Quê hương nhà vua đẹp rực rỡ trong ánh nắng,
Hoa xuân như biển, tơ liễu như khói.
Mây thơm lặng lặng tỏa xuống bên khe.
Suối đổ về như giải lụa, muôn dặm nghiêm túc;
Gió lay động quạt cờ, ngàn vạn chiếc treo cao.
Kẻ bầy tôi may được theo hộ giá đến Tây Kinh;
Nương bóng lọng hoa gần trong gang tấc(22)

Dịch thơ:

Nắng hồng rực rỡ dọi quê vua,
Tựa biển hoa xuân, liễu rủ tơ.
Mưa nhỏ dăng dăng viền hốc núi;
Mây thơm lặng lặng tỏa bên bờ.
Dặc dài giải lụa dòng quanh quất,
Bát ngát tinh kỳ gió phất phơ.
Hộ giá Tây Kinh may được dự,
Gần trong gang tấc cạnh tàn vua.

Lâm Giang (dịch)

Phụng họa Ngự chế: Trú Thúy Ái Châu
Thúy hoa dao duệ vũ sơ tình,
Đáo xứ thần dân hỷ bái nghênh.
Quản thược thanh trung Chu lễ nhạc;
Y quan hội thượng Hán văn minh.
Chí nhân đãng đãng tam vương trị;
Đại hiếu nguy nguy vạn cổ danh,
Nhất niệm kỳ khăng thân giới sắc,
Canh ca hỷ khởi bảo thăng bình
(Văn minh cổ xúy)

Dịch nghĩa:

Vâng họa bài: Dừng lại châu Thúy Ái của Đức vua.
Lọng hoa màu biếc phấp phới, cơn mưa vừa tạnh,
Khắp nơi thần dân vui mừng nghênh đón.
Tiếng đàn sáo vang lừng như lễ nhạc nhà Chu,
Các quan mũ áo tề chỉnh tựa văn minh nhà Hán.
Đức nhân nghĩa mênh mông thời thịnh trị tam vương(23);
Lòng chí hiếu vòi vọi muôn thuở nổi danh.
Luôn luôn suy nghĩ ban sắc lệnh răn giới,
Vua tôi mừng vui nối nhau ngợi ca thời thanh bình(24).

Dịch thơ:

Sau mưa phấp phới lọng hoa xanh,
Khắp cõi thần dân tới đón nghênh.
Đàn sáo vang lừng Chu lễ nhạc;
Áo xiêm tề chỉnh Hán văn minh.
Mênh mông đại nghĩa thời bình trị;
Vòi vọi tấc lòng hiếu nổi danh.
Sắc chỉ ban ra răn giới lệnh,
Vua tôi ca ngợi buổi thanh bình.

Lâm Giang (dịch)

Thứ vận: Tống Đàm Hiệu thư Văn Lễ Bắc sứ.
Sứ tinh sổ điểm xuất dao kinh,
Tráng chí hưu từ vạn lý trình.
Đằng dực thu cao thiên viễn đại;
Mai hoa xuân tảo nhật phân minh.
Lục Kinh cựu học quân vô thái;
Tứ hải đồng niên ngã hữu tình.
Lưu Lữ Nam lai quân Bắc khứ,
Vị tri thùy trọng hựu thùy khinh.

Dịch nghĩa:

Họa vần: Tiễn quan Hiệu thư Đàm Văn Lễ đi sứ phương Bắc.
Cờ sứ mấy lá đi ra khỏi kinh ngọc,
Tráng chí chẳng từ nan, hành trình vạn dặm.
Chim bằng cất cánh buổi cuối thu, trên bầu trời xa rộng;
Hoa mai nở buổi đầu xuân dưới nắng soi sáng phân minh.
Lục Kinh(25) nền học cũ, bác chớ quá lo,
Bốn bể đều là bạn bè, tôi có lòng mong mỏi ấy.
Họ Lưu, họ Lữ đến phương Nam(26), bác thì lên phương Bắc,
Chưa biết việc ai nặng hay việc ai nhẹ đây ?

Dịch thơ:

Rời khỏi kinh đô bóng sứ tinh,
Chí trai chẳng quản cuộc hành trình.
Chim bằng cất cánh trời thu rộng;
Hoa trắng đầu xuân nắng rõ rành,
Cựu học: Lục Kinh anh chớ ngại,
Bạn bè bốn bể giống đa tình.
Sang Nam Lưu Lữ, anh đi Bắc,
Chưa biết rằng ai trọng ai khinh?

Lâm Giang (dịch)

CHÚ THÍCH

* Xem Lâm Giang: Bước đầu tìm hiểu Hội Tao đàn. Tạp chí Hán Nôm số 2, 1987.

(1) Khoa Bảng tiêu kỳ (viết tắt: Tiêu kỳ) A.539, tờ 64a-66a.

(2) Tiêu kỳ: Sđd, tờ 64a-66a.

(3) Thiên Nam lịch triều đăng khoa bị khảo q.4, tờ 2a-66a.

(4) Xem (3)

(5) Đại Việt lịch đại tiến sĩ khoa thực lụ c (viết tắt Đại Việt) A.2040, tờ 15a. Thiên Nam Sđd, tờ 2a, Đăng Khoa lục A.2752, tờ 14a chép sai Nguyễn Nhân Thiếp 15 tuổi đỗ Tiến sĩ.

(6) Đại Việt, Sđd tờ 19b.

(7),(8),(9) Tiêu kỳ, Sđd, tờ 64a-66a.

(10),(11) Thiên Nam, Sđd, q.4, tờ 2a-66a.

(12) Tiêu kỳ, Sđd, tờ 42a-43b.

(13) Thiên Nam, Sđd.

(14) Thư cá, tin nhạn: Chỉ thư từ, tin tức nói chung.

(15) Lê Tuấn Anh dịch nghĩa.

(16) Lê Tuấn Anh dịch nghĩa.

(17) Toàn Việt thi lục A.132/2, tờ 18a.

(18) Toàn thư, bản Chính Hòa, H. 1985, tập 2, tr.491.

(19),(20) Toàn thư, Sđd, tr.494, 513.

(21) KHXH, H. 1985, tập 2, tr.417.

(22) KHXH, H. 1985, 1973, tập 4, tr.25.

(23) Lê Tuấn Anh dịch nghĩa.

(24) Tam Vương: Chỉ vua 3 đời, gồm vua Vũ nhà Hạ, vua Thang nhà Thương và các vua Văn Vương, Vũ Vương nhà Chu. Đây là ba thời rất thịnh trị trong cổ sử Trung Quốc.

(25) Lê Tuấn Anh dịch nghĩa.

(26) Lục kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Ngạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.

(27) Chưa rõ điển tích này.

TB

VỀ NHỮNG BÀI THƠ HÁN NÔM TỰ DỊCH CỦA NGUYỄN KHUYẾN

TẢO TRANG

1. Mối liên hệ mật thiết giữa hai thứ tiếng Việt, Hán và những bài thơ Hán Nôm tự dịch của Nguyễn Khuyến

Trong lịch sử văn học các nước, có thể nói ít thấy trường hợp xen kẽ, ảnh hưởng qua lại một cách mật thiết như giữa chữ Hán và chữ Nôm tại nước ta trước thế kỷ XX. Trong một khoảng thời gian khá dài, chữ Hán đã là thứ văn tự chính thức của các triều đình phong kiến Việt Nam, được dùng rộng rãi trong các văn kiện chính trị cũng như trong đời sống văn hóa xã hội. Nhưng ngay trong lúc đó, tiếng Việt vẫn phát triển mạnh mẽ và có một sức sống dồi dào, bản thân nó từng tác động ngược lại, khiến chữ Hán có những biến chuyển nhất định trong cách phát âm, và cả trong lối viết cũng như trong cách hành văn.

Tại Châu Á có ba nước đã diễn ra sự giao lưu mật thiết với nền văn hóa Trung Hoa, là Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Giữa những nước này, chữ Hán có thể coi như chuyển ngữ, và những nhà trí thức của bốn nước trên từng dùng "bút đàm" để trao đổi với nhau về mọi vấn đề. Nhưng xét về âm thanh - tức cách đọc chữ Hán, đã có một sự khác biệt lớn, không những giữa ba nước ngoài Trung Quốc, mà ngay trong nội địa Trung Quốc, giữa tỉnh này với tỉnh khác khiến không có khả năng hiểu lẫn nhau bằng tiếng nói. Ở Việt Nam, chữ Hán được đọc theo âm "Hán Việt", gần âm chữ Hán thế kỷ X. Do đó đối với người Việt, sự phân biệt âm thanh nặng nhẹ, thanh bằng, thanh trắc, sự ghép vần, được coi như chuyện rất thường, chỉ để ý học tập chút ít là nắm được. Còn đối với người Trung Quốc hiện đại, thường phải dùng những cuốn tự điển hay "thi vận" mới biết rõ chữ này thuộc vần gì và thanh nào.

Sự gần gũi về mặt âm thanh giữa tiếng Hán và tiếng Việt đã là tiền đề cho một mảng văn học khá độc đáo ở nước ta. Bên cạnh những bài thơ tiếng Việt làm theo niêm luật thơ Hán, có những bài thơ Hán làm theo thể thơ Việt thuần túy như lục bát...; những thể thơ kết hợp thể thơ thuần Việt với thể thuần Hán như thể ca trù, những câu đối toàn chữ Hán nhưng đọc lên lại có thêm nghĩa tiếng Việt, như câu đối đầu xuân mà nhiều người biết:

Tứ thời bát tiết canh chung thủy,
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.

Câu đối xuân rất đẹp, trong đó lại có thêm ý "bát tiết canh đôi bồ dục" là quà biếu để xin câu đối. Hoặc là cả những bài thơ đọc xuôi là chữ Hán, đọc ngược là Nôm, xuôi hay ngược đều có đủ ý tứ, hình ảnh và vần điệu, xứng đáng là những bài thơ tuy chưa được là tuyệt tác, nhưng không phải không có giá trị cả về mặt nội dung và hình thức, mặc dù dĩ nhiên không tránh khỏi có đôi chỗ gò bó.

Trong lịch sử văn học nước ta, có nhiều nhà thơ lớn từng để lại sự nghiệp sáng tác văn học Nôm và Hán phong phú ngang nhau. Về mặt này, có thể kể tới ba bậc thi hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến. Nguyễn Trãi, đỉnh cao văn học thế kỷ XV với áng "thiên cổ hùng văn" Bình Ngô đại cáo, những văn kiện đối đáp với bọn tướng lĩnh nhà Minh, tập thơ Ức Trai chữ Hán, nhưng cạnh đó là Quốc âm thi tập, viên ngọc sáng ngời ngay từ thời kỳ xa xưa. Nguyễn Du, ngoài tác phẩm bất hủ Truyện Kiều Văn tế thập loại chúng sinh, còn để lại những tập thơ chữ Hán nổi tiếng: Thanh Hiên, Nam Trung và Bắc Hành. Nguyễn Khuyến có Quế Sơn thi tập gồm khoảng trên 200 bài chữ Hán và gần 100 bài chữ Nôm. Riêng về khía cạnh kết hợp giữa 2 thể Hán và Nôm, Nguyễn Khuyến đã tạo cho mình một nét đặc sắc mà hai nhà thơ Ức Trai và Tiên Điền không có. Câu đối "Tứ thời bát tiết canh chung thủy" dẫn ở trên tương truyền là của ông. Và nhất là ông đã sáng tác cả một mảng thơ tiêu biểu cho sự liên kết mật thiết giữa hai loại tiếng Hán và Việt, đó là những bài thơ chúng tôi tạm gọi là "thơ liên kết Việt Hán", đi từng cặp một, cùng một nội dung nhưng làm thành 2 thể thơ Nôm và Hán, bài này như dịch bài kia. Tìm hiểu mảng thơ này đem lại nhiều điều lý thú: cho thấy tài bậc thầy của nhà thơ làm chủ ngữ ngôn thi ca ở cả hai khối Hán và Việt, đồng thời làm sáng tỏ thêm nhiều khía cạnh về tâm hồn cao đẹp của nhà thơ Quế Sơn.

Hiện nay theo tài liệu, thư tịch Hán và Việt có thể thống kê được 20 bài, tạm gọi là 20 bài "thơ liên kết" hoặc "thơ kép", tức một bài thành hai, một chữ Hán, một chữ Nôm và chung một nội dung. Phân loại theo đề tài, ta thấy như sau:

1/ Tả cảnh có 7 bài: 1, Trở về vườn cũ, tr.81/ Bùi viên điền trạch, tr.225(1); 2, Uống rượu vườn Bùi, tr.82/ Bùi viên độc ẩm, tr.236; 3, Vịnh mùa hè, tr.105/ Hạ nhật ngẫu hứng, tr.327; 4, Đến chơi nhà bác Đặng, tr.125/ Hạ nhật phỏng biểu huynh, tr.327; 5, Cáo quan về nhà, tr.148/ Mạn hứng, tr.304; 6, Chơi núi Long Đội, tr.101/ Úc Long Đội sơn (bài 1); 7, Nhớ cảnh chùa Đọi, tr.102/ Úc Long Đội sơn (bài 2), tr.385. Trong 7 bài thơ trên 5 bài đầu nói về nhà cũ và quê hương tác giả, 2 bài sau nói về núi và chùa Long Đội, một thắng cảnh ở huyện Duy Tiên, sát cạnh huyện Bình Lục, quê tác giả.

2/ Thù tặng có 8 bài: 1, Núi Lão huyện ta, tr.100/ Ngô huyện Lão Sơn, tr.379 (đầu đề tưởng như của thơ tả cảnh, nhưng lời dẫn ở bài thơ chữ Hán cho biết bài thơ được làm để tạ mối thịnh tình của bạn thân tặng áo để đi chơi núi. Tuy nhiên, trừ câu cuối, còn cả bài thơ là tả cảnh); 2, Thầy đồ ve gái, tr.109/ Thiền sư, tr.364 (châm biếm nhẹ nhàng, tương truyền được gửi tới một thầy đồ trẻ); 3, Tiễn người quen, tr.142/ Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tr.211 (lời dẫn bài chữ Hán cho biết bài được làm ngay trên tiệc rượu: tình lưu luyến thêm nỗi niềm cảm khái đối với thời cục); 4, Tặng người làng ra làm quan, tr.128/ Tặng đồng hương Lê tú tài..., tr.326 (đầu đề bài tiếng Việt không hợp, bài chữ Hán có lời dẫn cho biết Lê tú tài đương làm trợ tá phủ Nho Quan, chuyển về làm tùy phái - một viên quan giúp việc ở tỉnh đường, ông muốn xin thôi, nhà thơ khuyên nên tiếp tục làm việc. Tưởng nên sửa đầu đề "Tặng người làng, khuyên tiếp tục ra làm quan". Lời thơ có giọng hơi đùa cợt, nhưng thông cảm với hoàn cảnh sinh sống của nhân vật; 5, Nói chuyện với bạn, tr.126/ Thoại cựu, tr.369 (trao đổi tâm tình với bạn học cũ, cùng nhớ lại thầy dạy, thương cảm về tuổi già và thời cục không vừa ý mình); 6, Tặng lại người cho hoa trà, tr.137/ Sơn trà, tr.408 (giọng đả kích kín đáo nhưng thấm thía); 7, Cảm hứng, tr.147/ Ký hữu, tr.248 (gửi cho bạn trước cùng làm quan ở trong triều, biểu lộ niềm cảm khái đối với thời cục. Đầu đề bài tiếng Việt "Cảm hứng" e không thật sát, câu 1-2 là lời thơ gửi bạn); 8, Khóc Dương Khuê, tr.129/ Vãn đồng niên Tiến sĩ Dương Thượng thư... tr.404 (Tình bạn bè thắm thiết).

3/ Tâm sự, mối cảm hoài đối với thời thế có 5 bài:

1, Lời gái góa, tr.91/ Ly phụ hành, tr.335 (tỏ tấm lòng kiên định không chịu hợp tác với bọn bán nước và cướp nước); 2, Lời vợ anh phường chèo, tr.98/ Ưu phụ từ, tr.336 (đả kích bọn "vua chèo quan chèo" không nhận thấy rõ thực chất thân phận mình); 3, Kẻ trộm mất trộm, tr.108/ Đạo thất đạo, tr.363 (phê phán gián tiếp bọn quan lại sách nhiễu dân, lại bị bọn khác sách nhiễu lại); 4, Ngày xuân dạy các con trai, tr. 87/ Xuân nhật thị chư nhi, tr.245 (khuyên dạy các con, đồng thời tỏ tâm sự cảm khái đối với thời vận); 5, Di chúc, tr.150/ Di chúc, tr.418 (lời trăn trối, niềm tâm sự trước khi mất). Đáng tiếc rằng bản tiếng Việt có nhiều chỗ ngờ không phải là của chính nhà thơ (Xin xem phần sau).

Ngoài 20 bài trên, tập TVNK, tr.172, có chép bài thơ Nôm lục bát "Mừng cụ Đặng Tự Ý 70 tuổi", kèm ghi chú: "đây là bài dịch bức trướng do chính Nguyễn Khuyến viết, có thể là bút tích duy nhất của tác giả còn giữ được". Sách ghi bức trướng viết năm 1885. Tiếc rằng sách không chép nguyên văn, nên không thể nói sâu hơn về bài thơ này.

Về thể loại, có 18 bài thơ chữ Hán (14 bài Đường luật 8 câu 7 chữ, 2 bài thể ngũ ngôn Khóc Dương Khuê Di chúc, 2 bài thể Cổ thi Ly phụ hành Ưu phụ từ. Có 2 bài thuộc thể "ca trù" là thể thơ đặc biệt Việt Nam Bùi viên cựu trạch ca Bùi viên đối ẩm trích cú ca. Đối với thơ Nôm thì 18 bài thơ Hán thể Đường luật đều kèm theo 17 bài thơ Nôm cũng thể Đường luật, trừ một bài chữ Hán Dữ bản huyện Nguyễn nguyên doãn Trần đồng ẩm tức tịch thư tiễn được dịch theo thể song thất lục bát, là thể thơ đặc biệt Việt Nam. Thể song thất lục bát này cũng được dùng để dịch 2 bài cổ thi Ly phụ hành Ưu phụ từ và 2 bài ngũ ngôn Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dương thượng thư Di chúc. Như vậy về mặt thể thơ, ta thấy ở ngay thơ Hán cũng có 2 bài dùng lối thơ đặc biệt Việt Nam là thể ca trù, còn thơ Nôm thì ngoài 2 bài ca trù tương ứng với 2 bài ca trù chữ Hán, ta có 5 bài thể song thất lục bát là thể thơ tiếng Việt thường dùng diễn tả những tình cảm sâu lắng của tâm hồn.

Về thời điểm xuất hiện 20 bài "thơ liên kết" Việt Hán nói trên, xét về nội dung, chúng ta thấy chúng đều được sáng tác sau khi Nguyễn Khuyến cáo quan về hưu ở quê nhà, như trường hợp đại bộ phận những bài thơ trong Quế Sơn thi tập. Có bài có thể xác định cả năm tháng. Như bài Viếng Dương Khuê vào năm 1902 (Dương Khuê sinh năm 1839 mất năm 1902), bài Di chúc vào năm 1898, nếu ta tin rằng câu "ngã niên trị bát bát" cho phép khẳng định tác giả lúc này 64 tuổi, theo lối tính tuổi cổ truyền. Những bài khác khó xác định thời điểm cụ thể về năm tháng, nhưng đều có những từ "thời loạn", "tuần dương cửu", "ngày loạn", "thương hải tang điền"... cho thấy chúng được làm sau khi nhà thơ đã về hưu, tức sau năm 1884, trong lúc cục diện đất nước đang có những biến chuyển lớn: triều đình Huế ngày càng hèn nhát bất lực trước sự lấn át của thực dân Pháp. Thời kỳ này, ngoài 2 năm bị vời ra dạy học ở nhà Hoàng Cao Khải (1891-1893), nhà thơ đã sống 13 năm trong cảnh nghỉ hưu ở quê nhà, vừa dạy học, vừa sống hòa với thôn xóm họ mạc, khiến tri thức sách vở uyên bác của ông được bổ sung bằng kho tàng hiểu biết phong phú nhiều mặt của quần chúng, làm nảy sinh những sáng tác có nhiều vẻ đẹp mới.

20 bài thơ, thành 40 bài, tức 20 cặp, mỗi cặp gồm một bài Hán, 1 bài Việt. Có phải tác giả đã làm bài chữ Hán trước rồi dịch ra tiếng Việt sau? Đầu tiên, người ta dễ nghĩ như vậy. Một nhà nho, từ nhỏ từng theo học chữ Hán, từng đi thi nhiều khoa bị hỏng, nhưng đến năm 31 tuổi đã đỗ giải nguyên, đứng đầu khoa thi Hương, kỳ thi Hội lại hỏng 2 khoa, đến khoa thứ 3, năm 1871, tuổi 36, mới lại đỗ đầu hai kỳ thi Hội thi Đình, giành được học vị cao quí Nhị giáp Tiến sĩ Tam nguyên lừng lẫy một thời. Một người như vậy nhất định phải sở trường thơ chữ Hán, còn thơ Nôm thì chỉ là thứ vui tiêu khiển khi nhàn rỗi. Cũng vì thế mà trong sách TVNK, mặc dầu ở phần tiểu sử, khi nói về "hiện tượng" có một số bài "vừa bằng chữ Hán, lại bằng chữ Nôm", từng nhận định "những bài Hán và Nôm này khớp với nhau một cách tài tình đến nỗi có trường hợp khó mà nhận ra được bài thơ nào đã làm ra trước bài nào", nhưng ở trong phần thơ văn, gặp trường hợp bài thơ trong mảng 20 bài thơ Hán - Việt, nếu là thơ Nôm thì ghi chú ở cuối "tác giả tự dịch bài..." (ghi đầu đề bài chữ Hán), nếu là thơ Hán thì ghi chú "có bài dịch thơ của tác giả ở phần thơ Nôm", tức là coi những bài thơ Hán đều là nguyên tác, còn những bài thơ Nôm chỉ là bản dịch. Nói chung điều này là đúng. Và ở nhiều trường hợp chắc chắn như vậy. Như bài Bùi viên đối ẩm, (Sđd, tr.226) do những câu thơ cổ chữ Hán ghép lại, nhất định phải lấy chữ Hán làm sơ tác, bài Nôm chỉ là dịch theo. Hoặc bài Viếng Dương Khuê (tr.404) với quan niệm các nhà nho xưa coi chữ Hán có tính cách trân trọng hơn tiếng "nôm na mách qué", bài viếng chính thức chắc chắn phải là bài chữ Hán, có thể được đọc trước bàn thờ người đã khuất. Nhưng đối với nhiều bài khác, có lẽ không nên quan niệm cứng nhắc rằng bài Nôm chỉ là bản dịch bài chữ Hán, ở ngay những bài chữ Hán có lời dẫn về trường hợp sáng tác (thí dụ bài Ngô huyện Lão sơn, tr.379). Vì nhà thơ hoàn toàn tự chủ, có thể viết bài Hán trước bài Nôm, hay ngược lại. Nhà thơ không bị gò bó vì "nguyên tác" hay "dịch bản" cả hai đều do tay mình, có thể bài đầu đã hình thành, khi chuyển sang dạng chữ khác, lại thấy thêm ý mới, khiến sửa lại bản tiếng trước cho hợp với bản tiếng sau. Quá trình này có thể lặp lại nhiều lần đối với mỗi bài thơ kép ở hai dạng Nôm và Hán. Với cách làm như vậy, khó mà nói rằng bài nọ dịch từ bài kia, có thể coi cả hai bài được sáng tác song hành dưới hai dạng chữ, được xếp cho ăn khớp với nhau, cả về nội dung lẫn hình thức, nhằm thể hiện đạt mức trung thành cao nhất tâm trạng của nhà thơ qua hai ngôn ngữ khác biệt.

2. Một số nhận xét sơ bộ qua việc đối chiếu hai bản Hán và Nôm trong những bài "thơ liên kết" Việt Hán của Nguyễn Khuyến

A- Nhận xét đầu tiên và trội hơn cả, đối với những người từng làm quen với thứ văn chương cả Việt lẫn Hán, là việc đọc những bài thơ liên kết của Nguyễn Khuyến, qua hai dạng Hán và Nôm, đều đem lại những hứng thú ngang nhau. Qua hai bản, người đọc không hề cảm thấy có sự nhàm chán mặc dầu có sự lặp lại cả tình lẫn cảnh.

Có thể lấy một ví dụ: bài Trở về vườn cũ (tr.81) đi đôi với bài chữ Hán Bùi viên cựu trạch (tr.225). Cả hai bài Nôm và Hán đều là theo thể ca trù, ở cả hai, giọng thơ khoáng đạt, có niềm vui được về chốn vườn cũ ở quê hương, tuy vẫn phảng phất tự buồn nản đối với thời cục.

Bản chữ Hán mở đầu bằng câu:

Bùi viên ngõ cựu trạch,
Tứ thập niên, kim nhật phú qui lai.
Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,
Phiêu nhiên hữu khâu hác lâm tuyền chi lạc thú.

(Vườn Bùi nơi nhà cũ của ta,
Bốn mươi năm, nay mới ngâm ngợi bài thơ "quay về".
Đây tùng, đây cúc, đây mai,
Phơi phới thú ẩn dật nơi núi khe rừng suối).

Sách TVNK ghi chú (tr.81): "Xứ vườn Bùi tức là cả thôn Vi + Hạ". Nhưng theo trí nhớ tôi, năm 1947 trong kháng chiến chống Pháp, khi về thăm Vi + Hạ, thì được cho biết: "Vườn Bùi" chính là nơi dựng nhà thờ, và là nơi nhà thơ sống trước khi mất, đất này vốn của tiên tổ, khi Nguyễn Khuyến 9, 10 tuổi do hoàn cảnh gia đình, đất vườn đã chuyển sang người khác, sau mới thu hồi lại, và khi ông về hưu mới quay lại chốn này. Câu 2 của bài chữ Hán "Phú qui lai" nhắc tích Đào Tiềm làm bài "Qui khứ lai từ" khi từ quan về. Câu sau nói tới những cây tùng, cúc và mai là những cây hình dáng, hương sắc thanh cao, bầu bạn với những cao sĩ ẩn dật. Không hẳn vườn Bùi lúc này có những cây trên, nhưng chúng vẫn có mặt trong thơ với tính cách tượng trưng, gợi ý. Người quen sống trong không khí văn thơ chũ Hán, với chữ dùng phần lớn là "ước lệ", "biểu tượng", không hề thấy chối, cũng như khi đọc các cụ vịnh "tuyết" tuy đang ở xứ nóng, hoặc ví người đẹp như "mẫu đơn, hải đường" mà chẳng cần biết rõ những hoa đó hình dáng màu sắc thế nào. Có thể mới chuyển sang câu sau: "Phiếu nhiên hữu khâu hác lâm tuyền chi lạc thú" (Phơi phới thú ẩn dật nơi núi khe rừng suối). Trang trọng, uẩn súc, gợi cảm bằng cách nhắc nhở những hình tượng văn chương cũ đã làm ngây ngất tâm hồn qua nhiều thế hệ, đó là thú cám dỗ của thơ Hán.

Sang bản tiếng Việt, cũng từng nẩy ý, và cũng theo điệu ca trù, nhưng giọng văn có khác:

Vườn Bùi chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây.
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.

Ở câu 2, từ lấp láy "lụ khụ" gợi hình tượng già nua, chậm chạp. Một bản khác chép "lẩn thẩn" cũng gợi ý già lão, nhưng nhấn mạnh về tinh thần, tính dớ dẩn thiếu sáng suốt. Sáng tiếng Việt, không cần dùng điển tích, không cần nhắc đến bài "Qui khứ lai từ", không cần những hình tượng ước lệ "tùng, cúc, mai", nhưng lại có nhiều thú vị khác. Đây là văn tả thực. "Mấy chồi cây" đúng với cảnh trước mắt. Vườn Bùi sau 40 năm mới thấy nhà thơ trở về, không thể có tùng, cúc, mai là những loại cây đòi hỏi sự chăm sóc của con người.

Giá trị bản chữ Hán hay có giọng chải chuốt, hàm súc, gợi nhiều hình ảnh đẹp của những áng thơ văn cổ. Bản tiếng Việt với từ ghép gợi cảm, phác thực và sinh động, tả tuổi già mệt mỏi, buồn nản nay vui được về chốn cũ của gia đình, cây cối xanh tươi tạo thành một cảnh yên tĩnh ẩn dật lý tưởng.

Giữa 2 bản, bản nào đã được làm trước? Có nhiều khả năng là bản Nôm, vì đều theo thể hát nói là một thể loại đặc biệt Việt Nam (tuy rằng thể loại này cũng không phải thuần túy của tiếng Việt mà là kết hợp giữa thể loại thuần Việt và thể loại chữ Hán). Dù sao cũng không thể khẳng định rằng bản Việt dịch từ bản Hán. Nếu không phải là ngược lại, chính bản Hán là dịch từ bản Nôm, thì chí ít cũng phải nói cả hai bản đều xuất phát từ một nguồn cảm nghĩ, và có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Và tác giả đã thành công ở cả hai bản, gây được hứng thú sâu đậm ngang nhau cho những người muốn thưởng thức văn Việt hay văn Hán.

Nhiều thí dụ khác có thể tìm thấy ở những bài thơ tả cảnh. Nguyễn Khuyến vẫn nổi tiếng là nhà thơ đã ghi lại được nhiều cảnh đẹp của quê hương, của làng mạc Việt Nam nói chung.

Trong bài thơ liên kết Đến chơi nhà bác Đặng/ Hạ nhật, phỏng biểu huynh Đặng Thai, qui tác (tr.327), có câu:

Ngọa thụ bì ngưu khư thử khí,
Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh.

(Nằm gốc cây, trâu mỏi thở hơi nắng nóng,
Cách ao, chó nhỏ sủa theo tiếng người).

Bản Nôm (tr.125)

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

Đúng là cảnh thực. Bức tranh qua 2 bản, nếu vẽ ra, chỉ là một chi tiết vụn vặt có đôi chút khác: trâu mệt mỏi (bì ngưu) và trâu già; nằm gốc cây (ngọa thụ) và gốc bụi; cách ao (cách trì) và bên ao, nhưng xét kỹ những chỗ khác biệt không đáng kể, có thể coi như không có. Ở cả hai bản, cảnh vật đều rất sinh động, và rất quen thân ở nông thôn.

Những câu tả cảnh trong thơ liên kết Việt Hán của Nguyễn Khuyến khá nhiều, nhưng không phải lúc nào 2 bản cũng thật ăn khớp nhau như trường hợp vừa trình bày. Trong bài thơ liên kết Vịnh mùa hè/ Hạ nhật ngẫu hứng, ở 2 câu 5 và 6:

Bản Nôm:

Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa
(tr.105)

Bản Hán:

Phu chiểu lục tần khiêu nhất lý,
Đương môn thuý trúc vũ song hồ.

(Một cá chép nhảy vượt đám rau tần biếc phủ trên ao,
Đôi bướm múa trong khóm tre xanh trước cửa).

Cảnh thôn dã thân quen. Ở câu thơ Việt, tả cá dưới ao nhảy vọt, vượt khóm rau phủ mặt nước; bướm bay qua lá trúc lượn quanh rèm. Câu Hán cũng có cả cá có bướm có rau có trúc nhưng thêm ý một chép và đôi bướm (bướm lượn có đôi nhất định phải đẹp), và thêm màu: rau tần biếc, bụi tre xanh.

Hai dạng câu, mỗi dạng đẹp một vẻ.

Câu thơ Hán dành chữ đầu tả cảnh tĩnh: rau tần biếc phủ trên ao, lá trúc xanh trước cửa. Cảnh tĩnh và có màu sắc để làm nổi cảnh động: một chép nhẩy và đôi bướm múa lượn. Cảnh thật đẹp và hữu tình. Bản tiếng Việt cũng có những cảnh đó, nhưng lược bỏ "lục tần" và "thúy trúc". Tự điển giảng "rau tần" là một loại bèo lớn, nhưng có ai biết rõ đó là thứ rau gì tiếng Việt, còn "thúy trúc" là chữ liền, dùng đã xói mòn trong văn cổ (thanh tùng thúy trúc, thúy trúc hoàng hoa), bản Nôm đã gạt bỏ những thứ rườm rà đó để làm nổi bật cái "động" ở nơi cá và bướm:

Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.

Với 4 động từ: vượt và lên, len và lượn, với 3 thanh "nhập" ở câu trên: vượt, mặt, nước (đặt sát nhau, tả động tác nhảy vọt bất thần của cá), với 2 âm thanh êm nhẹ ở câu dưới (3 âm "lờ": len, lá, lượn, tả động tác lẹ làng nhịp nhàng của bướm), hình ảnh và nhạc điệu quyện hòa, cảnh thật đẹp và nên thơ.

Nếu phải chọn và xếp hạng, dĩ nhiên bây giờ chúng ta có khuynh hướng xếp ưu tiên câu tiếng Việt, nhưng đối với các bậc đàn anh sành chữ Hán, thì rất có thể thái độ lại khác.

Về tả cảnh, không thể không kể đến 2 bài thơ nổi tiếng: Về núi và chùa Long Đội. Chơi núi Long Đội/ Ức Long Đội sơn và Nhớ cảnh chùa Đọi/ Ức Long Đội sơn II.

Bài thứ nhất nói về cảnh chùa và núi Long Đội. Chùa trên núi cao, có bia cổ từ bao thế kỷ trước (bia thời Lý). Chùa bên cạnh sông, ba mặt là làng mạc. Chùa là một danh lam nên có nhiều tượng, chùa ở trên cao và cách biệt nên cảnh thanh vắng, chỉ có một vị sư trụ trì. Mọi chi tiết trên được tả ở 2 dạng Hán và Việt trong bài thơ liên kết:

Bản Hán:

Bình không tĩnh phạn dao tinh nhật,
Lịch đại tàn bi chứng hải tang.
Bình dã thiên thôn tam diện hợp,
Không sơn vạn Phật nhất tăng tàng.

(tr.384)
(Chùa yên tĩnh, cao ngất lưng trời, làm rung động tinh tú.
Bia tàn bao triều đại chứng tỏ bể dâu.
Nghìn thôn xóm chốn đồng bằng ba mặt hội họp,
Muôn vị Phật trên núi vắng, ẩn náu một nhà sư).

Bản Việt:

Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,
Mảnh bia thuở trước bể dâu đầy
Le te nghìn xóm quanh ba mặt,
Lố nhố muôn ông lẫn một thầy.

(tr.101)

Cùng một cảnh, cách nhìn ở mỗi bài "không thật giống nhau. Bản Hán nhấn mạnh tầm cao của chùa, làm rung động cả mặt trời và các vì sao. Bản Việt nhấn mạnh mặt vắng lặng, chùa cao in bóng lưng trời càng làm tăng thêm vẻ hiu quạnh đó.

Trong bốn câu trên, ở 2 dạng Hán và Việt, 2 câu trước tả cảnh chùa theo chiều cao của trời và chiều sâu của quá khứ, càng làm tăng vẻ u tịch của chùa, 2 câu sau tả cảnh chùa theo chiều rộng, chung quanh ba mặt là làng xóm, giữa là chùa với rất nhiều tượng Phật, càng làm tăng vẻ cô đơn của nhà sư. Cùng một cảnh, nhưng giọng văn giữa 2 dạng có khác. Bản Hán vẫn trang nghiêm hơn, bản Việt giọng hơi bông đùa, có lẽ biểu hiện thái độ thường thấy của nhiều nhà nho đối với đạo Phật, kế tục khuynh hướng bài Phật có tự Trương Hán Siêu, Lê Quát đời Trần:

Le te hàng xóm quanh ba mặt
Lố nhố muôn ông lẫn một thầy.

Ở bài 2

Nhớ cảnh chùa Đội/ Ức Long đội sơn II M ta đọc 4 câu giữa:

Bản Hán:

Cổ tự tứ lân duy mộc thạch,
Hàn tăng nhất tháp cộng vân yên.
Kỷ tằng trúc ảnh nghi vô lộ,
Hữu khách tang gian lập đãi thuyền.

(tr.385)
(Chùa cổ bốn bên chỉ cây và đá,
Sự nghèo một giường giữa khói và mây.
Bóng trúc dày mấy tầng, ngờ không lối vào.
Bãi dâu có khách đang đứng đợi thuyền).

Bản Việt:

Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,
Sư cụ nằm chung với khói mây
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây

(tr.102)

Cả hai dạng đều diễn đạt cảnh và ý như nhau, lời văn trang nghiêm và gợi cảm ngang nhau. Riêng ở bài tiếng Việt câu "Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy" ý không được rõ bằng câu tương ứng ở bài chữ Hán, nhưng ở câu sau "Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?", dùng từ phiếm chỉ "thuyền ai" và đưa lên đầu câu, cho thấy rõ vẻ nóng ruột mong chờ của khách, hơn là trong câu chữ Hán.

Cảnh tuy chỉ nhớ lại trong tâm trí nhưng hiện ra trước mắt thật sinh động. Nó còn bao trùm cả không gian rộng lớn lên đến trời cao, cả thời gian xa xưa chồng chất dâu bể và niềm cô quạnh của đời sống và tâm hồn qua hoàn cảnh của nhà sư già, của khách lỡ bước đợi thuyền bên sông. Trong văn học, ít có bài thơ gợi cảm sâu sắc đến như vậy, và cả dưới hai dạng Hán và Việt đều gây niềm hào hứng ngang nhau.

Bên cạnh những bài thơ tả cảnh, những bài tả tình trong mảng thơ liên kết Việt Hán dồi dào hơn, và cũng biểu lộ ở nhà thơ một kỹ thuật vững chắc, khiến cả hai bài thường có giá trị ngang nhau, mỗi bên một vẻ, mười bên vẹn mười.

Có thể lấy ví dụ ở bài Ngày xuân dạy các con/ Xuân nhật thị chư nhi. Bài chữ Hán viết ở câu giữa:

Đương thế thi thư hà sở dụng,
Lão lai quan đới thượng đa tàm
Loạn ly xuân sắc chân vô lại,
Cửu khổ nhân tình cửu bất kham.

(tr.245-246)
(Đời nay, văn chương còn dùng làm gì,
Tuổi già mũ đai càng đáng thẹn.
Trong cảnh loạn, sắc xuân thật trơ trẽn,
Lòng người đau khổ đã lâu không chịu được)

Bản Nôm lặp lại đầy đủ mọi ý của bản chữ Hán, giọng tha thiết và đau xót, với những từ lấp láy có một sức gợi cảm mạnh mẽ:

Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.

(tr.87)

Sách TVNK (tr.244-246) chép hai bài Xuân nhật thị chư nhi. Bài 1 đại ý nhân tiết xuân nói các con rõ nếp nhà thanh bần, hiếu học, cảnh nhà vui trong ẩn dật, và kết thúc bằng câu khuyên:

Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút nghiễn vô hoang, đạo thúc sơ.

(Các con nối chí cha, cần nhớ,
Chăm bút nghiên, thêm lúa đậu rau).

Bài 1 này không có bản Nôm. Bài 2 có bản Nôm là một bài giọng bi tráng hơn, nói về thời thế và cách ứng xử, có 4 câu trích dẫn ở trên. Riêng câu kết là một lời nhắc nhở tha thiết và cũng lên án nghiêm khắc:

Đối thử quang âm hà dĩ úy ?
Chư nhi do tự tửu ca hàm.

(Đối với bóng quang âm ấy, làm thế nào để đền đáp?
Thế mà các con vẫn say mê chén rượu lời ca).

Bản chữ Nôm:

Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa.

Dùng từ láy "lẩn thẩn" (đây có nghĩa: lần lữa, thiếu suy nghĩ) và dùng dạng câu hỏi, một lời chất vấn nghiêm nghị. Giọng thơ mạnh hơn bài chữ Hán. Hai bài thơ chữ Hán chung một đầu đề nhưng chỉ có một bài có bản chữ Nôm. Rất có thể hai bài chữ Hán được làm ở hai thời điểm khác nhau. So sánh nội dung hai bài này, có thể nêu ra một ức đoán: tác giả đã viết những bài thơ liên kết Việt Hán ở những trường hợp có những xúc cảm sâu sắc, mà muốn có thêm một sức tác động đối với người đọc bằng cách dùng cả 2 dạng văn tự để diễn đạt một nội dung.

Nói tới thơ tình cảm của Nguyễn Khuyến, không thể không nhắc tới bài thơ Khóc Dương Khuê. Thơ Hán làm theo thể cổ phong ngũ ngôn, dịch sang tiếng Việt theo thể song thất lục bát. Có nhiều khả năng bài chữ Hán được viết trước, coi như bài văn đọc trong lễ tang, và có tính cách trang trọng, sau mới được chuyển sang tiếng Việt.

Đầu đề đầy đủ bài chữ Hán: Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư (Viếng bạn cùng đỗ Tiến sĩ người Vân Đình, Thượng thư họ Dương). Dương Khuê kém Nguyễn Khuyến 4 tuổi, hai người cùng đỗ cử nhân năm 1864 tại trường thi Hà Nội, nhưng Dương Khuê ngay khoa thi Hội sau đó là năm 1868 đã đỗ Tiến sĩ. Hai người chơi với nhau rất thân, tuy rằng cuối đời, mỗi người đã đi con đường khác. Trong khi Nguyễn Khuyến quyết tâm cáo từ về hưu, thì Dương Khuê ra làm tham tá hàm Thượng thư ở nha Kinh lược, một tổ chức do thực dân Pháp nặn ra để thâu tóm nốt những quyền hành nhỏ nhoi còn để lại cho Nam triều đối với Bắc kỳ.

Bản tiếng Việt đầu đề giản dị: "Khóc Dương Khuê". Việc dịch thật là sát, nhưng cũng như nhiều bài khác, bản Hán nặng về điển tích, bản Nôm thanh thoát, và giọng thương cảm hơn.

Ngay 2 câu đầu, bản Hán viết:

Dĩ Hĩ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.

(tr.404)
(Thôi thế là xong, Bác Dương,
Nhìn trời mây cây cối, lòng những bùi ngùi).

"Đại niên" (bậc tuổi cao) là lời tôn xưng, vì Dương Khuê còn kém tuổi Nguyễn Khuyến. "Vân thụ" (trời mây cây cối), lấy điển "Xuân thiên thụ, nhật mộ vân" (cây ngày xuân, mây chiều tối) trong bài thơ Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch, vẫn thường dùng để tả nỗi nhớ mong giữa bạn thân. Chuyển sang tiếng Việt:

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

(tr.129)

rõ ràng có sức truyền cảm mạnh mẽ, hai chữ "thôi" nhắc đi nhắc lại, những từ lấp láy "man mác", "ngậm ngùi" đầy gợi cảm, nhất là vứt bỏ điển cũ, "vân thụ" chuyển thành "nước mây man mác", tả cảnh "sông dài trời rộng" hay "trời cao biển rộng", hình tượng nỗi đau buồn vô cùng khi vĩnh biệt bạn thân.

Nhiều đoạn khác cũng tương tự:

Hữu thời đối quân ẩm,
Đại bạch phù bát diên.

(Có lúc cùng nhau uống rượu,
Chén rượu lớn tràn đầy tám phương)

Bản Nôm:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Câu tiếng Việt hay hơn. "Rượu ngon cùng nhắp", "nhắp", hình tượng và trang nhã hơn "ẩm" chỉ là "uống". Thêm: rượu phải là rượu ngon, rượu quỳnh tương, và "bầu xuân" "ăm ắp" uống rượu và uống cả hơi mạnh của trời xuân, trong đó có tình bạn thắm thiết.

Ở cuối bài, tả nỗi tiếc thương khi vĩnh biệt bạn, giữa 2 bản có chỗ khác nhau đôi chút. Bản chữ Hán: "Công ký khí dư khứ, Dư diệc bất công liên; Lão nhân khốc vô lệ, Hà tất cưỡng nhi liên" (Bác đã bỏ tôi đi, tôi cũng không thương Bác, Tuổi già khóc không có nước mắt, Can chi gượng cho giọt lệ tràn trề).

Sang tiếng Việt, ta thấy:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan

Dĩ nhiên, khó nói bản nào hay hơn bản nào. Bản chữ Hán súc tích, lời ít ý nhiều, cuối bài quá đau xót nên tưởng như biến thành tàn nhẫn: "Bác đã bỏ tôi đi, tôi cũng không thương Bác". Bản tiếng Việt, nỗi thương cảm tưởng nhẹ nhàng hơn nhưng càng thấm thía, sâu lắng hơn. Trong văn học chữ Hán, không hiếm những bài văn thơ khóc bạn với giọng đau thương xé lòng, còn để âm vang qua nhiều đời sau. Nhưng về thơ Nôm, phải kể bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến là bài tiêu biểu bậc nhất. Chúng ta sung sướng nhận thấy với sáng kiến làm lối thơ "liên kết Việt Hán", Nguyễn Khuyến đã để lại một áng văn chương khóc bạn sẽ mãi mãi ghi lại mối tình bằng hữu tương kính tương thân đáng quí thời xưa.

B- Giá trị nghệ thuật, giá trị truyền cảm ngang nhau, và ở mặt nào đó bổ sung lẫn cho nhau giữa bản Nôm và bản Hán trong những bài thơ liên kết, đặc điểm vừa trình bày ở trên liên can chủ yếu đến tình cảm người đọc. Bên cạnh cái đó, còn có một khía cạnh khác, có tính cách lý trí hơn, khô khan hơn, nhưng không kém phần quan trọng vì đi vào ý nghĩa câu thơ, đó là sự hỗ trợ giữa hai bản để hiểu ý thơ thêm sâu sắc và đầy đủ. Chúng ta đều biết thơ cổ thường lời lẽ cô đọng, hoặc dùng lối văn ngắn gọn, súc tích, nói ít để hiểu nhiều, hoặc mượn điển tích trong sách vở cũ hay ngay cả trong kho tàng văn học truyền miệng của quần chúng. Do đó, văn cổ thường đi đôi với chú giải, và khoa "huấn hỗ" chuyên giải thích văn cổ đã ra đời, với những qui tắc khá chặt chẽ của nó. Thơ Nguyễn Khuyến nói chung dù Hán hay Nôm không thuộc loại quá nhiều điển tích, nhưng cũng không tránh khỏi những chỗ đòi hỏi sự suy nghĩ và vốn hiểu biết tối thiểu để nắm được ý nghĩa đầy đủ và trong trường hợp này, việc tồn tại song song hai bản Hán và Nôm để thể hiện chung một nội dung, rõ ràng là một điều may mắn hiếm có để giải quyết những chỗ khó hiểu trong thơ. Thí dụ để minh họa điều này khá nhiều:

Bài Vịnh mùa hè? (TVNK, tr.105) có câu:

Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu,
Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ.

Bản chữ Hán "Hạ nhật ngẫu hứng":

Uyên Minh ngâm hứng đa qui tửu,
Tử Hậu hoàn khê tẫn vị ngu

(tr.293)
(Hứng thơ của Uyên Minh - tức Đào Tiềm - phần lớn do rượu mà có;
Khe suối quanh nhà Tử Hậu - tức Liễu Tông Nguyên - cũng mang tiếng ngu).

Câu thơ nhắc tới Đào Tiềm có bài văn nổi tiếng "Ngũ liễu tiên sinh truyện” là một thiên tự truyện tuy nói về một nhân vật nhàn tĩnh ít nói, không ưa danh lợi, tính thích uống rượu, gặp bạn uống thật say mới thôi, mà thường làm văn thơ để vui với chí hướng của mình. Câu sau nói về Liễu Tông Nguyên, tên chữ là Tử Hậu, có bài Ngu khê thi tự kể việc sau khi không được lòng bọn quan trên, bị giáng chức, đầy tới tỉnh Hồ Nam, ông đã chọn chỗ ở bên một dòng suối, đặt tên là "khe Ngu độn" (Ngu khê), tự coi mình là khờ dại, vì đã có những hành vi được coi như trái ngược với đời. Dựa trên bản chữ Hán, câu thơ Nôm:

Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu,
Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ.

Ý nghĩa sáng rõ thêm: tác giả tự ví mình như Đào Tiềm, câu thơ ngâm ra miệng đều do rượu mà có (hoặc đượm mùi rượu) và như Liễu Tử Hậu, ngòi khe vòng quanh chỗ ở là "suối dại khờ". Hiểu như trên theo ý điển tích cũng được, nhưng nếu gạt bỏ điển cũ, câu thơ vẫn có ý nghĩa của nó. Thơ vịnh hoa Đào hào hứng ngâm lên, được câu nào hay là do được làm khi uống rượu; khe suối vòng quanh xóm nơi ở có trồng cây liễu, cũng (cùng với chủ nhân) mang tiếng khờ dại với đời.

Như vậy có thể nói hai dạng chữ của bài thơ liên kết Việt Hán có tác dụng giúp ích cho việc hiểu thêm nghĩa của nhau, nhưng không nhất thiết phải câu nệ, và có thể hiểu rộng ra một cách độc lập, tách rời điển tích thường thấy ở bản chữ Hán.

Có thể đưa ra một thí dụ khác ở bài thơ liên kết Cáo quan về nhà/ Mạn hứng (TVNK, tr.83 và 304). Bản chữ Hán Mạn hứng có 2 câu 5 và 6:

Bố ương nô lão tri hòa cước,
Định cốc nhân hồi dẫn đẩu niên.

(Người đi cấy biết thành thạo chân lúa(2)
Kẻ bán thóc về, luận bàn tuổi đẩu)

Đây là trường hợp nếu không có bản Nôm thì khó mà hiểu nổi. "Hòa cước" (chân lúa), "đấu niên" (tuổi đẩu), không thể tìm thấy nghĩa trong các từ điển Trung Quốc. Bản Nôm mách chúng ta:

Thửa ruộng rạch ròi chân xấu tốt,
Đấu lương đo đến tuổi non già.

Như vậy "hòa cước" - chân lúa - có nghĩa "chân ruộng lúa", chỉ độ phì nhiêu và năng suất của đất; "đẩu niên" - tuổi đấu - tức dung lược tính bằng bát, mỗi bát là một tuổi.

Bằng phương thức thể thơ liên kết Việt - Hán, nhà thơ đã có dịp sáng tạo nhiều từ mới trong thơ Hán. Thí dụ, ngoài hai từ "hòa cước" "đấu niên", ở mấy bài thơ liên kết khác còn có từ "thiền sư" - "thiền" có nghĩa "con ve sầu" để gọi thầy đồ ve gái, hoặc từ "xuyên điệp" danh từ "xỏ lá" có nghĩa "xỏ xiên, chửi xấu nết" trong tiếng Việt.

C- Ở một số trường hợp đặc biệt, việc so sánh 2 bản Hán và Nôm trong bài thơ liên kết có tác dụng giúp cho việc phiên âm chữ Nôm được chính xác hơn. Đây chủ yếu là vấn đề thuộc văn bản học. Chúng ta tiếc chưa có điều kiện làm công tác văn bản thật chu đáo, nhưng xin cứ mạnh dạn nêu ra để trưng cầu ý kiến, và mong sẽ có dịp đi sâu hơn.

Trong bài Trở về vườn cũ, TVNK, tr.82, chép:

Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân.

Hai cây này tương ứng với 2 câu trong Bùi viên cựu trạch ca (tr.225):

Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú,
Ôn công tôn tửu lạc dư xuân.

Dịch: Bành Trạch - tức Đào Tiềm - gẩy "tố cầm", ngâm câu thơ cũ; Ôn công - tức Tư Mã Quang - nhấp chén rượu vui thú xuân thừa. "Tố cầm" có nghĩa "đàn không dây" hoặc "đàn mộc mạc, không trang sức". Như vậy "cầm xoang" nên phiên âm là "cầm suông", dịch chữ "tố cầm" và đối với "rượu nhạt" ở câu sau:

Một trường hợp khác: bài Tiễn người quen (TVNK, tr.142) chép:

Bến Tầm Dương đọc câu giang thượng,
Thơ Kiến Nam còn thoảng làm chi?

Hai câu này tương ứng với hai câu trong bài Dữ bản huyện doãn Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn (Sđd, tr.211)

Tống khách trùng ngâm giang thượng cú
Ưu thời nan bổ Kiến Nam thiên

(Đưa khách lại một lần ngâm câu giang thượng,
Lo đời khó nối tiếp tập thơ Kiến Nam).

Câu trên nhắc tới bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, mở đầu bằng câu "Tiêu tương giang đầu dạ tống khách". Câu sau nhắc tới tập thơ Kiến Nam của Lục Du, có nhiều bài cảm khác đối với thời vận suy bại đương thời của nhà Tống. Dựa trên bản chữ Hán, chữ "thoảng" có lẽ phiên âm sai. Đúng ra phải đọc: "Thơ Kiến Nam còn thống làm chi? "Thống" có nghĩa "câu thơ cuối bài hát", câu thơ nối tiếp bài thơ trước, đây chỉ việc làm thơ nối tiếp theo sau.

Trên đây là 2 trường hợp đặt nghi vấn về cách phiên âm chữ Nôm dựa trên sự so sánh 2 dạng Nôm và Hán trong thơ liên kết Việt-Hán của Nguyễn Khuyến. Như trên đã nói, đây là vấn đề văn bản, cần đi sâu xem xét cách viết trong các văn bản cũ để quyết định. Vấn đề văn bản cũng được đặt ra đối với một bài thơ liên kết Việt-Hán nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: bài Tạ lại người cho hoa trà / Sơn trà (TVNK, tr.137, tr.408). Trường hợp làm thơ mọi người đều biết: nhà thơ tạ lại người tặng vào dịp Tết chậu hoa trà, loại hoa có sắc không hương. Việc tặng coi như có ác ý, hoặc vì biết nhà thơ hỏng mắt, hoặc muốn thử xem nhà thơ có thực lòa không, hay đó chỉ là một cớ từ chối không chịu ra làm quan, cộng tác với Pháp.

Ở cả hai dạng Nôm và Hán, lời thơ đều rất thanh thoát, khó quyết đoán bản nào dịch tự bản nào. Người tặng hoa trà tương truyền là Chu Mạnh Trinh nổi tiếng giỏi cả Nôm lẫn Hán, nên làm liên kết cả hai dạng thơ là rất thích đáng. Bản Nôm ghi 2 câu 6-6:

Mưa bụi những kinh phường xỏ lá,
Gió to luống sợ lúc rơi già

(tr.138)

Hai câu tương ứng ở bản chữ Hán:

Tầm thường tế vũ kinh xuyên điệp,
Tiêu sắt thần phong cán lạc đà

(tr.408)
(Mưa nhỏ tầm thường kính xuyên tầng lá
Gió sớm hiu hắt oán làm rụng đài hoa).

Bài này, trong tập Tam nguyên Yên Đổ thi ca, bản in Liễu Văn Đường, Khải Định thứ 10 (1925), ghi Bài thơ đưa cho quan án sát Chu Mạnh Trinh, chép 2 câu Hán và Nôm hơi khác:

Hán:

Triệu phong chỉ khủng xuyên kiều diệp,
Mộ vũ thiên nghi lạc lục dà.

(Gió sớm chỉ sợ xuyên qua lá mởn,
Mưa chiều riêng hãi làm rụng đài xanh).

Nôm:

Giớ sớm chỉn e phường xỏ lá,
Mưa chiều luống sợ lũ dơi già

Chữ Nôm "dơi" (viết bộ "trùng" bên chữ "giai" là "đều"), chỉ con dơi. Tôi được nghe một cụ giải thích "xỏ lá" và "rơi già" coi như đều có hai nghĩa "xuyên diệp" là xỏ lá (cả nghĩa đen là xuyên qua lá và nghĩa bóng là đốn mạt) và thêm nghĩa đầu sỏ bọn lèo lá, xu nịnh người trên, bức hiếp người dưới): còn "rơi già" có nghĩa "rụng đài, rụng cuống" và cũng là "dơi già" lấy ý dơi là loài vật "phi cầm phi thú" nhận là thú là chim đều được, lại chỉ xuất hiện về đêm, nên tượng trưng bọn hiểm độc, ăn ở hai lòng. Câu thơ lấy cả hai nghĩa, ngờ Chu Mạnh Trinh làm việc với tên Việt gian Lê Hoan, có ý đồ thử xem Nguyễn Khuyến có thật lòa không hay là lấy cớ đó để từ chối không chịu ra làm quan. Thoại trên có thật đúng với sự thực lịch sử hay không, vấn đề cần đi sâu thêm mới quyết đoán được. Trên đây chỉ là một gợi ý để thấy tầm quan trọng của công tác văn bản trong việc nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến (Sách TVNK không nói tới cuốn Tam nguyên Yên Đổ thi ca, bản in gỗ của Liễu Văn Đường. Sách "Giai thoại về Nguyễn Khuyến của Bùi Văn Cường (Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xuất bản năm 1979) chép bài thơ Nôm ở tr.87 ghi "gió to, luống sợ lúc dơi già" (dơi là con dơi) và ghi chú cuối trang Văn đàn bảo giám ghi câu 6: Gió to luống sợ lũ dơi già).

D- Một điểm cuối cùng: việc bước đầu đi sâu đối chiếu hai dạng Hán và Nôm trong mấy bài thơ liên kết Việt- Hán của Nguyễn Khuyến đã dẫn tới sự nghi ngờ có phải cả hai bài là cùng một tác giả hay không.

Trường hợp thứ nhất: Bài Chơi núi Long Đội/ Úc Long Đội sơn (TVNK, tr.101, 184). Rõ ràng là hai bài dịch lẫn nhau, trừ câu đầu, hay đúng hơn, một chữ của câu đầu. Bản chữ Hán: "Nhị thập niên tiền phỏng thượng phương. Thử thời cảnh sắc vị tương vương" (Hai mươi năm trước lên thăm cảnh Phật, Cảnh sắc lúc đó nay vẫn chửa quên). Bản Nôm: "Hai mươi năm cũ lại lên đây, Phong cảnh nhà thiền vẫn chửa khuây". Bản sau ý khác hẳn bản trước: không phải nhớ lại chuyến đi thăm chùa 20 năm trước, mà là việc lại lên đây". Có phải vì thế mà bản Nôm không ghi "nhớ cảnh chùa Đọi" như bản chữ Hán mà đã đổi là Chơi núi Long Đội. Đọc bài thơ Nôm thấy việc tả cuộc đi chơi núi Long Đội không có điều gì bất hợp lý, vì mọi câu khác trong cả hai bài có thể hiểu là tả việc đi chơi năm trước qua trí nhớ hay là tả cuộc đi chơi hiện tại đều thích hợp. Tuy nhiên, rõ ràng bài Nôm và bài Úc Long Đội sơn I chỉ là một, và nếu Nguyễn Khuyến từng đến chơi lại núi một lần nữa thì không khi nào lại dịch bài chữ Hán Nhớ núi Long Đội để làm bài thơ tả cảnh đi chơi hiện tại. Cần đi sâu vào văn bản để giải quyết chỗ bất hợp lý này.

Trường hợp thứ hai: Bài Di chúc mà nhiều sách đều chép bản dịch Nôm là của Nguyễn Khuyến. Riêng TVNK, tr.150, đặt nghi vấn: theo ý kiến một số cụ già ở địa phương thì bản dịch là của Trần Tán Bình là môn sinh, dịch trong buổi lễ đưa ma thầy dạy học.

So sánh hai bản Nôm và Hán, chúng tôi nghĩ chắc chắn bản dịch Nôm không thể là của nhà thơ. Ngay câu đầu tiên:

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục,

đã cho phép khẳng định rằng không phải của tác giả bài chữ Hán, vì ông sinh năm 1835, mất năm 1909, thọ 75 tuổi, nếu tính tuổi theo lối cổ truyền. Câu chữ Hán là "ngã niên trị bát bát" phải hiểu là "tám lần tám" tức 64 tuổi, và di chúc được làm vào năm 1898, như thường được tính, cộng thêm tuổi mụ. Nếu là tác giả tự dịch, thì không khi nào có sự nhầm lẫn thô bạo đến như thế. Và nếu là của Trần Tán Bình đã dịch trong trường hợp ghi trong sách TVNK thì cũng đáng ngờ, vì là môn sinh và dịch ngay trong tang lễ, không thể nào lại không biết rõ tuổi thầy để đến nỗi dịch tuổi chênh lệch quá lớn như vậy. Một cách hiểu khác câu "ngã niên trị bát bát": "bát bát" có nghĩa là tuổi già (Từ nguyên Trung văn đại từ điển). Rất có thể tác giả định nói tuổi già, nhưng dùng từ "bát bát", để tương ứng với từ "cửu cửu" ở câu sau, đều là những con số. Dù hiểu cách nào thì dịch câu trên là "Kém hai tuổi xuân đầy chín chục" cũng không sát.

Phần khác giọng thơ nhiều chỗ thiếu trang trọng. Tác giả gọi con là "mày"

Ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ,
Hóa bây giờ cho bố làm nên.

Nguyên văn "Khởi phi tiên khảo danh, bất tố dĩ lưu hậu" (há chẳng phải danh cho ta, không làm để lưu về sau), ý kín đáo, lời thanh hơn nhiều. Câu chữ Hán:

Ta tai ngô học thiển, Khôi nhiên chiếm long thủ (Than ôi, ta học nông cạn, thế mà nghiễm nhiên chiếm đầu rồng). Chuyển thành tiếng Việt:

Học hành cũng chẳng hay chi cả,
Cưỡi đầu người kể đã ba phen.

"Chiếm long thủ" (chiếm đầu rồng chuyển thành "cưỡi đầu người”). Dịch dễ hiểu, không dùng điển, nhưng giọng kệch cỡm, thiếu đức tính khiêm nhường của những nhà nho quen sống trong khuôn phép như Nguyễn Khuyến. Hai câu: "Vu công bát cửu nhân, suy tống liệt tả hữu" (thợ kèn tám chín người, thổi đưa hai hàng bên trái bên phải), dịch:

Lại thuê một lũ phường kèn,
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.

"Một lũ", "dăm thằng", giọng văn thật khinh miệt. Dĩ nhiên cũng có thể có sự gò ép trong việc ghép vần thơ. Dù sao ta vẫn thấy xa lạ đối với tác giả những câu thơ rất trung hậu đối với mọi người như:

Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông từ xóm chợ lại cùng ta.

(bài Lên lão, TVNK, tr.87-88)

Bên cạnh những câu giọng văn ngạo mạn, còn có đoạn thể văn quá dễ dãi, như:

Cỗ đừng to lắm, con ơi,
Hễ ai chạy tới, con thời mời ăn.
Tế đừng có viết văn đọc,
Trướng đừng dùng gấm vóc mà chi.
Minh tinh con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ, con thì không nên.

Những chữ đệm "thôi", "mà, thì" có giọng vần vè hơn là giọng thơ, không xứng với tài thơ Nôm kiệt xuất của nhà thơ Yên Đổ.

Xét cho thật công bằng thì 2 câu kết dịch thực đáng giá. Nguyên văn: Viên đề mộ thạch bi: Hoàng Nguyễn cố hưu tẩu (Rồi đề bia đá ở mộ "ông già về hưu xưa thuộc triều vua Nguyễn") Dịch:

Đề vào mấy chữ trong bia,

Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu". "Tẩu" là "ông già", dịch là "quan" chưa thật hay, vì có thể trái với ý muốn của tác giả, không muốn nêu chức tước mình. "Quan chẳng quan thì dân", như ông từng viết trong câu đối "thủ quê". Nhưng "cố hưu" dịch thành "cáo về đã lâu" lại rất đắt, tỏ rõ thái độ phản kháng của Nguyễn Khuyến đã cáo về hưu ngay từ năm 1884 sau khi Tự Đức mất, triều đình Huế ngày càng có thái độ đầu hàng thực dân Pháp.

3. Mấy dòng kết luận.

Điểm qua 20 bài "thơ kép" Nôm - Hán của Nguyễn Khuyến, trừ bài Di chúc còn phải tranh luận không chắc do chính tác giả tự dịch, còn thì bài nào cả Nôm lẫn Hán đều thanh thoát, tuy đôi lúc cũng thấy sự ngượng nghịu gò bó khó tránh ở những bài thơ dịch. Bản Nôm và bản Hán cùng một nội dung và trình tự diễn đạt, nhưng vẫn có những khía cạnh khác nhau, và hiệu lực truyền cảm ngang nhau. Nói chung, bản chữ Hán trang trọng hơn, bản Nôm thường giàu hình tượng và gợi cảm nên có sức truyền đạt sâu sắc hơn.

Dùng cách sáng tác song hành Nôm/Hán, nhà thơ đã tự cho mình một phương tiện đầy hiệu lực để biểu hiện ý nghĩ tâm tình qua hai thứ tiếng, đảm bảo kết quả dễ được hoàn chỉnh. Cách làm này cũng có thêm nhiều hiệu lực vì diện người đọc được mở rộng, thỏa mãn cùng một lúc nhiều đối tượng những người biết hay không biết chữ Hán, những người biết chữ Hán nhưng coi thường Nôm, những người thích cả Nôm lẫn Hán.

Bên cạnh những bài thơ đầy tình cảm nồng hậu, tính nhân đạo sâu sắc (như các bài Khóc Dương Khuê, Tặng người quen), bên cạnh những bài ca ngợi cảnh đẹp đất nước, nhất là cảnh nông thôn êm đềm, đậm đà màu sắc thân quen của miền châu thổ sông Hồng, còn có nhiều bài thơ có tính cách thời sự, tả nỗi đau buồn vì thời cục hỗn loạn, đồng thời thể hiện một thái độ tích cực hơn nhằm tác động đến nền phong hóa đương thời, như biểu dương cái hay (thái độ kiên định của người đàn bà góa, lời khảng khái của người vợ phường chèo chê trách chồng), đồng thời đả kích cái dở (mụ tá ơm làm mối, anh phường chèo hợm hĩnh, kẻ trộm lấy cắp lẫn nhau sau khi đánh cắp của thiên hạ).

Những bài trên có một nội dung tư tưởng yêu nước sâu sắc, được thể hiện bằng một nghệ thuật bậc thầy cả về hai mặt Hán và Nôm, thêm vào đó là uy tín của tác giả, một vị đại khoa tam nguyên, một nhà chí sĩ kiên nghị, đầy khí tiết. Chúng đã được truyền tụng rộng rãi, có một công chúng đông đảo, do đó đã có một sức thuyết phục sâu sắc, một ảnh hưởng không nhỏ đối với mọi tầng lớp đương thời. Như vậy, làm thơ kết hợp Nôm-Hán là một sáng kiến của nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ, nhằm thỏa mãn một đòi hỏi sáng tạo của nghệ thuật, đồng thời cũng đáp ứng một yêu cầu của thời cục, biểu hiện ý chí son sắt bảo vệ khí tiết của kẻ sĩ ứng phó với vận nước trước mắt.

Có khi nói toàn bộ những bài thơ liên kết Nôm - Hán đều được làm sau khi tác giả về hưu, sống hòa mình vào cuộc sống nơi quê hương, một làng ở vùng đồng bằng sông Hồng, đã tự tạo được một nền văn hóa dân gian hết sức phong phú, mà tiêu biểu là thôn Liễu Đôi, cũng nằm trung khu vực này, và được giới dân tộc học nhắc tới nhiều trong thời gian gần đây.

Chính do sự tiếp xúc hàng ngày với quần chúng nơi thôn dã, sự đồng cảm với những lo âu về đời sống của đại chúng cũng như những day dứt về thời vận của đất nước, mà nhà thơ Nguyễn Khuyến trong sáng tác đã đạt tới sự hài hòa giữa văn chương bác học mà ông tiếp nhận qua sách vở và văn học dân gian đậm màu sắc dân tộc, chỉ tìm thấy trong sự hoà bình vào cuộc sống của quần chúng lao động. Ở ông, vì đã thấy "sách vở ích gì cho buổi ấy", nên ông đã hòa mình vào những người "thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt", và qua những cảm nghĩ, cách nhìn nhận, cách ăn nói của đại chúng ở nông thôn, ông đã kết hợp tài tình vốn tri thức tinh hoa của văn chương bác học chữ Hán với kho tàng phong phú của tâm hồn dân Việt, cả về nội dung và hình thức biểu hiện giàu đẹp của nó, để có được những bài thơ liên kết Hán-Nôm, một mảng đặc thù và cũng rất đặc sắc trong nền văn học Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Đầu đề và số trang, ghi theo sách Thơ văn Nguyễn Khuyến (TVNK), Nxb. Văn học, H. 1971. Đầu đề nào quá dài, trong bài này được ghi ngắn lại.

(2) TVNK dịch "Người làm ruộng già gieo mạ hiểu biết chân lúa xấu tốt". Nhưng "bố ương" - người cấy mạ, "lão tri" đi với "hồi dẫn", nên có nghĩa: "biết thành thạo"./.

TB

TÀO THÁI HẦU LÀ AI?

ĐỖ THỈNH

Trong các bộ lịch sử nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư (Bản Kỷ tục biên, 1676-1740, tập I), Việt sử thông giám cương mục(1) khi chép về sự kiện các quan đại thần triều Lê Ý Tông là Nguyễn Quý Kính, Nguyễn Công Thái, Trương Khuông, Nguyễn Đình Hoàn v.v.. vào tháng giêng năm Canh Thân (1740) đã đứng ra phế truất chúa Trịnh Giang vì “Trịnh Giang hoang dâm càn dỡ, bọn hoạn quan chuyên quyền, mọi việc ngang trái rối loạn, trộm giặc nổi dậy khắp nơi, dân chúng trong kinh ngoài trấn nôn nao lo sợ”(2) và đưa Trịnh Doanh (em ruột Trịnh Giang) lên ngôi chúa. Các quan đại thần có “mật hẹn với Tào thái hầu (sót họ tên)… đưa sắc văn và chỉ dụ của vua đến…”(3).

“Tào thái hầu” chỉ là tước, chưa phải họ và tên. Vậy tên họ đích thực của người này là gì, theo tôi, cho đến nay nhiều người vẫn chưa biết!

Cách đây mấy năm tôi về công tác ở cơ sở đã được cụ Nguyễn Đình Kỷ 77 tuổi (nay đã mất) ở xóm Dinh, thôn Quán La, Xã Xuân La, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội cho xem Gia phả họ Nguyễn Đình (chữ Hán) soạn năm Gia Long thứ nhất (1802) và bản dịch ra chữ quốc ngữ (đánh máy). Theo Gia phả thì dòng họ này quê gốc ở xã Hương Duệ, huyện Hỳ Hoa (Hà Tĩnh) sau di cư ra phủ Thiệu Hóa (Thanh Hóa) đến đời thứ 8 là Nguyễn Đình Đống làm quan võ triều Lê - Trịnh đến chức Phụ quốc Thượng tướng quân, sau thăng Thiếu phó Quốc sư, được ban thực ấp ở làng Quán La ven Hồ Tây. Ông xây dựng dinh thự ở đấy, nên đến nay, nhân dân địa phương vẫn gọi là Xóm Dinh.

Nguyễn Đình Đống có 6 người con trai thì đã có 2 người tham gia vào vụ phế Trịnh Giang, phù Trịnh Doanh này. Người con cả là Nguyễn Đình Hoàn lúc đó đang giữ chức Tả đô đốc. Nhưng vì lúc ấy, phần lớn quân đội đã bị Chưởng phủ sự (đứng đầu quan hàng võ) Hoàng Công Phụ điều động đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Hải Dương cả, nên Nguyễn Đình Hoàn phải chỉ huy Hương binh (dân quân ở các làng ven Kinh thành) đánh tan bọn Hoạn quan chỉ huy quân cấm vệ kéo đến đàn áp.

Người con thứ hai của ông Đống là Nguyễn Đình Thạch, tên tự là Tào, tức Tào thái hầu lúc đó đang làm chức Tư lễ giám được ban tước hầu. Theo Gia phả: Nguyễn Đình Thạch đỗ tạo sĩ, vốn là quan võ, trong cuộc nổi dậy này đã cùng anh chỉ huy hương binh chém lại viên quan nội giam (hoạn quan) bảo vệ Cung Thưởng từ nơi Trịnh Giang ở là Quận Bào và Quận Thực (tước Quận công). Sau đó Nguyễn Đình Thạch được phong tước Quận công nên trong gia phả có chỗ chép Tào Quận công, và chuyển sang hàng võ làm Hữu đô đốc, sau đó thăng dần lên. Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, đại tư mã, thư phủ sự (chức thứ hai hàng võ trong triều). Vợ Tào Quận công là Nguyễn Thị Y con gái Thượng tướng quân, hữu đô đốc đồng tư Nguyễn Hữu Tế (quê ở xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm). Ông có 7 người con trai, con cả là Vũ Trung hầu, chức Tả đô đốc, 2 người con thứ hai và thứ ba đều được tước bá (Thân Võ bá, Khoát Võ bá) và đều là tướng.

Việt sử thông giám cương mục (tập 17, tr.45) đã nhận xét về gia đình “Nguyễn Đình Hoàn là nối đời làm tướng võ…”.

Nhân đây cũng xin cung cấp thêm tư liệu chắc cũng ít người biết vì tuy sử cũ(4) chép nhưng không ghi tên. Đó là Vạn Trung hầu Nguyễn Đình Phấn em ruột Nguyễn Đình Thạch có người con gái là Nguyễn Thị Kim lấy vua Lê Chiêu Thống. Sau khi ông vua này chạy sang nhà Thanh, bà hoàng phi này cắt tóc đi tu ở làng Tỳ Bà (Bắc Ninh), đến năm Giáp Tý (1804) hài cốt Lê Chiêu Thống được mang về quê, bà Kim về Thăng Long để tiếp đón.

Tôi không nói về tính chất và ý nghĩa của các sự kiện trong lịch sử mà chỉ cung cấp tư liệu về một số nhân vật lịch sử để các nhà nghiên cứu và bạn đọc tham khảo.

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt sử ký toàn thư (Bd.), Nxb. KHXH, H. 1982 (tr.239-241), Việt sử thông giám cương mục (Bd.), Nxb. Sử học, H. 1960 (tập 17, tr.41-42)

(2) (3) (Sđd, tập 17).

(4) Việt sử thông giám cương mục (Sđd, tập 20, tr.67)./.

TB

THỬ TÌM HIỂU ĐỊA DANH BINH HIỆP

PHẠM THỊ THOA

“Binh Hiệp” là một địa danh cổ đã được sử sách ghi chép lại:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép: “Giáp Tuất, năm thứ tư (Tống Gia Định năm thứ 7), xuân, chính nguyệt, Trần Tự Khánh quân chí Triều Đông, thỉnh quân môn tạ tội, phục thỉnh nghênh xa giá. Đế dũ nghi chi, nãi dữ thái hậu cập ngự nữ như Lạng Châu Trĩ Sơn. Tự khánh văn thừa dư bá thiên, ngự nữ vi Thái hậu sở khổ, phục phát binh thỉnh nghênh như sơ. Đế vị chi tín, phục dữ Thái hậu cập ngự nữ như Binh Hiệp huyện(2).

Dịch nghĩa: “Giáp Tuất năm thứ tư (1214) (Tống Gia Định năm thứ 7), mùa xuân, tháng giêng, Trần Tự Khánh mang quân đến bến Triều Đông, thân đến quân môn tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua lại càng ngờ, bèn cùng Thái hậu và ngự nữ chạy sang Trĩ Sơn ở Lạng Châu. Tự Khánh nghe tin xa giá xiêu dạt, mà ngự nữ thì lâu nay bị Thái Hậu làm khổ, lại đem quân đến xin đón xa giá như trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng với Thái hậu và ngự nữ chạy sang huyện Binh Hiệp”.

Cũng sự kiện lịch sử trên, huyện Binh Hiệp còn được ghi trong các sách: Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB)(3) và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM)(4).

Sách KĐVSTGCM do Sử quán triều Nguyễn biên soạn. Các soạn giả đã tham khảo nhiều sách, bổ sung chỗ thiếu, đính chính chỗ sai, nhưng khi gặp địa danh này cũng chỉ chua: “Binh Hiệp huyện thất tường” (huyện Binh Hiệp chưa rõ ở đâu). Các dịch giả đời sau cũng chú: “Huyện Binh Hợp chưa rõ ở chỗ nào”(5).

Bản dịch ĐVSKTT chú: “Huyện Binh Hợp có lẽ là huyện Phượng Sơn chép lộn thành”(6).

Qua các tư liệu trên, chúng ta thấy huyện Binh Hiệp có từ thời Lý trở về trước và địa danh này đã được thay đổi muộn nhất cũng vào trước năm 1856, tức là trước khi biên soạn KĐVSTGCM (1856-1884).

Vậy qua một thời gian dài biến thiên của lịch sử, địa danh này được thay đổi thế nào và nay ở đâu, đó là vấn đề mà bài viết này sẽ đi sâu giải quyết.

Để xác định địa danh cổ, chúng tôi theo hướng tìm hiểu tư liệu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm hiện còn lưu giữ ở các địa phương. Theo hướng này, vừa qua, chúng tôi phát hiện được một tấm bia có khắc địa danh Binh Hiệp. Bia dựng tại chùa Miếu, thôn Mỹ Giang, xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, ngoại thành Hà Nội. Bia hai mặt, khổ 76x130cm, với khoảng 1200 chữ Hán khắc chân phương. Trán bia chạm hai con rồng chầu vào khung hình chữ nhật. Trong khung khắc năm dòng chữ tiêu đề bia, viết theo cột dọc, mỗi dòng hai chữ, được phiên âm: “Đại Việt quốc Binh Hiệp hương Thiệu Long tự bi” (Văn bia chùa Thiệu Long, hương Binh Hiệp, nước Đại Việt), diềm được trang trí hình hoa sen.

Về nội dung: toàn bộ bài văn bia được viết theo thể biền ngẫu, đối câu đối ý. Bia ghi việc ông Tiết cấp nhập nội thái tử Đỗ Năng Tế lập nhiều công, được Kiến quốc đại vương giao trông coi hương Binh Hiệp làm ấp thang mộc. Đỗ Năng Tế đã cùng vợ là Đặng Ngũ Nương bỏ tiền của tìm đất dựng chùa Thiệu Long. Chùa được dựng xong ngày mồng 8 tháng 3 năm Kiến Trung thứ nhất (1225). Bia không đề ngày tháng năm dựng, nhưng qua hình thức và nội dung, cũng có thể đoán định được niên đại của nó. Về hình thức hai con rồng được chạm khắc trên bia mang hình dáng con rồng thời Trần. Mặt khác, ngay trên tiêu đề bia cũng cho ta thấy “Đại Việt” là quốc hiệu của nước ta thời Lý, Trần, Lê. Nhưng bia không thể dựng thời Lý vì qua nội dung, chúng ta thấy chùa Thiệu Long được dựng xong ngày mồng 8 tháng 3 năm Kiến Trung thứ 1 (1225). Vậy bia chỉ có thể được dựng sớm nhất cũng vào năm đó.

Xét về đơn vị hành chính, từ cuối thời Trần đến thời thuộc Minh, nước ta đã chia thành lộ, trấn. Lộ hay trấn thống hạt phủ, phủ thống hạt châu hay huyện, huyện thống hạt tổng, tổng thống hạt xã. Đến thời Lê chia nước thành các đạo, dưới mỗi đạo có lộ, trấn, phủ, châu, huyện, tổng, xã. Từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) về sau chia nước thành tỉnh, tỉnh thống hạt huyện, huyện thống hạt tổng, tổng thống hạt xã, xã thống hạt thôn, hương (làng), xóm, trại, vạn v.v… không còn đơn vị hành chính hương như thời Lý, Trần nữa. Ở thời Lý, Trần hương là đơn vị hành chính ngang với huyện, như hương Long Đàm thời Trần là huyện Thanh Trì, hương Thanh Oai, là huyện Thanh Oai, hương Cổ Lỗi là huyện Siêu Loại, hương Bàng Hà là huyện Bàng Hà v.v…

Vậy bia chỉ có thể dựng vào thời Trần.

Các cứ liệu trên cho ta thấy huyện Binh Hiệp thời Lý phải chăng cũng chính là hương Binh Hiệp thời Trần. Nếu đúng như vậy thì cho đến nay địa danh này còn gồm những vùng đất nào? Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã tìm đọc bia, chuông, thần phả, ngọc phả của xã Tam Hiệp, nơi dựng tấm bia có địa danh Binh Hiệp và những vùng phụ cận thì thấy:

1, Bia Tân tạo Kim Hoa tự bi dựng ngày mồng 1 tháng 3 năm Diên Thành thứ 2 (1579) có ghi tên các địa danh Thuấn Nhuế, Khánh Hiệp tổng Thương Hiệp, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai.

2, Bia Tân tạo từ miếu bi dựng ngày mồng 10 tháng 7 năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680) có ghi tên các địa danh Giáp Văn, phường Lữ Tân, xã Thượng Hiệp, tổng Thượng Hiệp, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Đoài.

3, Bia Tân tạo Kim Hoa tự bi dựng ngày 27 tháng 1 năm Chính Hòa 13 (1692) có ghi phường Lữ Tân, tổng Thượng Hiệp, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai.

4, Bia Hậu thần bi ký dựng năm Cảnh Hưng 29 (1768) có ghi các địa danh Giáp Do, thôn Thượng, xã Thượng Hiệp, tổng Thượng Hiệp, huyện Đan Phượng.

5, Chuông chùa Tổng Kim Hoa tự chung đúc năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798) có ghi địa danh tổng Thượng Hiệp, huyện Đan Phượng.

6, Bia Nhất thôn ký kỵ dựng ngày 20 tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) có ghi địa danh thôn Mỹ Giang, xã Khánh Hiệp, tổng Thượng Hiệp, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai v.v…

Những địa danh được khắc trên bia, chuông chúng ta thấy đều là tên thôn, xã của hai tổng Thượng Hiệp và Hạ Hiệp ở thời Lê. Hai tổng này còn tồn tại mãi đến thời Nguyễn sau này và cho đến nay những xóm thôn vẫn còn mang tên đất cổ đó.

Như trên chúng tôi đã trình bày, từ cuối thời Trần về sau không còn đơn vị hành chính hương nữa. Vậy giả thiết đến thời điểm này hương Binh Hiệp đã bị giải thể, vùng đất đó được chia làm hai tổng Thượng Hiệp và Hạ Hiệp, thì hai tổng này ở thời thuộc Minh thuộc châu Từ Liêm, thời Lê, thuộc huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây. Đến năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) đổi thuộc về huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai(7). Nếu giả thiết trên là đúng thì huyện Binh Hiệp thời Lý hay hương Binh Hiệp thời Trần đến nay là vùng đất có các xã: Tam Hiệp, Tam Thuấn, Hiệp Thuận, Liên Hiệp, thuộc huyện Phúc Thọ, ngoại thành Hà Nội.

CHÚ THÍCH

Chữ 合 có hai âm Hiệp và Hợp.

Xem ĐVSKTT, quyển 4, tờ 28, ký hiệu Thư viện Hán Nôm A.3/2.

Xem ĐVSKTB quyển 3 tờ 41a ký hiệu Thư viện Hán Nôm A.2/1-7.

Xem KĐVSTGCM chính biên, quyển V, tờ 36, ký hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm VHv.2632.

Xem KĐVSTGCM, bản dịch Nxb. Văn Sử Địa, H. 1972, tr.383.

Xem ĐVSKTT, Nxb. KHXH, H. 1972, tr.352.

Xem Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Sơn Tây, Nhà xuất bản Nha văn hóa, năm 1966, tr.17./.

TB

CHỮ NÔM TRONG CÁC TÁC PHẨM
HÁN VĂN CỦA LÊ QUÍ ĐÔN

ĐINH CÔNG VĨ

Từ các bậc túc học tiền bối đến giới học thuật ngày nay, từng có những lời bàn, lời giới thiệu về tác phẩm Nôm của Lê Quí Đôn. Song ngay ở các tác phẩm viết bằng chữ Hán rất nổi tiếng của ông như Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Bắc sứ thông lục(1) cũng có bao nhiêu vấn đề đầy sức hấp dẫn về chữ Nôm, lại không mấy người chú ý đến. Trong bài này, chúng tôi muốn tìm hiểu phần chữ Nôm trong các tác phẩm Hán văn vừa kể trên một vài khía cạnh.

1. Trong tác phẩm chữ Hán của mình, Lê Quí Đôn đã thể hiện những quan niệm gì về chữ Nôm?

VĐLN, tác phẩm “tinh túy nhất” của Lê Quí Đôn đã thể hiện những quan niệm của ông về một trong những tiền đề quan trọng nhất của chữ Nôm là tiếng Việt. Với tiếng Việt, ông nêu lên nhiều suy nghĩ hơn cả về hai trọng điểm: phương ngôn và từ nguyên.

Việc suy nghĩ nghiên cứu để đi đến hiểu phương ngôn Việt của ông không tách rời việc nghiên cứu các phương ngôn nước ngoài có liên quan trực tiếp đến nước ta. Đó là cơ sở rất tốt để ông hiểu sâu hơn tiếng Việt và sau đó là chữ Nôm Việt trong quan hệ đối chiếu với bên ngoài.

Thấy sự gắn bó giữa dân tộc Việt với một số chủng tộc lớn hơn đã chiếm vùng đất rộng từ lưu vực sông Dương Tử trở về Nam về mặt ngôn ngữ, ông đã đưa ra những trường hợp cụ thể về mối liên quan đó ít nhiều ảnh hưởng tới nước ta. Ở VĐLN - Âm tự, điều 35, ông cho biết: “Sách Thử phác chép: “Người Chiết Giang gọi phụ cha (chắc da phiên) người đất Ngô gọi bố cha (chính xa phiên) từa tựa như tiếng nước ta”.

Trực tiếp nhất với chúng ta là vùng Lĩnh Nam, nên Lê Quí Đôn đi sâu hơn vào vùng này. Ở VĐLN - Âm tự, điều 36, ông ghi: “Phong tục Lĩnh Nam xưng hô không dùng hàng đệ (thứ bực trong nhà), chỉ lấy tên con trai, con gái mà gọi tên bố mẹ…”. Những cách xưng hô “nhập gia tùy tục” nom ra gần với chúng ta đó, không thể dùng tiếng phương Bắc diễn tả đủ mà phải dùng tiếng địa phương ghi bằng chữ địa phương. Với ta nó ghi bằng chữ Nôm.

Ở nước ta, tiếng Hán trong quá trình sử dụng ngày càng Việt hóa hơn, nôm na hơn, âm môi mới dần chuyển sang âm môi răng, ầm đầu lưỡi dần chuyển sang âm mặt lưỡi. Nhưng lẻ tẻ có khi vẫn giữ nguyên âm đọc thời thượng cổ nên có một số trường hợp ta tưởng đọc theo nghĩa mà không thấy được chúng bắt nguồn từ âm Hán cổ. Cách đây hai thế kỷ, Lê Quí Đôn đã biết được điều đó phần nào. Trong VĐLN - Âm tự, điều 54, ông đã cho thấy: “Theo Hán thư, chữ và âm đọc là doanh, là thứ đồ dùng bằng tre; nay quốc tục nói lái là “cư thành” (nó nhập vào nước ta thời Đường, vì chữ này đời Đường đọc là lam, khi đọc là lang, khi đọc là cư).

Dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho thấy âm Hán Việt của chúng ta ngày nay hình thành cuối Đường, thì chữ Nôm Việt không thể xuất hiện trước cái mốc ấy(2). Việc tìm hiểu các từ nguyên Việt vốn có từ thời Đường do vậy là rất cần thiết với các nhà nghiên cứu. Lê Quí Đôn đã có một số suy nghĩ về điều này trong VĐLN - Âm tự, điều 25: “Đường thi có câu: ‘Môn tiền sinh lỗ quì’ (trước của mọc lúa quì). Sơn đường tứ khảo viết Mạ gieo trồng mà tự sinh gọi là lỗ. Nay tiếng ta gọi hòa là lúa. Chữ Nôm cũng viết chữ lúa ấy”.

Với bản thân chữ Nôm, trước Lê Quí Đôn, Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa đã có ý kiến đề cập tới. Gần gũi với ông, Ngô Thì Nhậm trong Tự học toản yếu, khi làm tự điển Hán Nôm, cũng nói tới chữ Nôm… Nhưng chỉ đến Lê Quí Đôn, chữ Nôm mới được nghiên cứu một cách tập trung trên một số mặt cơ bản. Ông thấy âm vô cùng mà chữ có hạn. Chữ Hán không ghi âm nên nó bảo thủ hơn so với nhiều chữ ghi âm khác. Nó không đủ khả năng ghi chép tất cả các tín hiệu có mặt trong tiếng Việt. Cần sáng tạo ra một thứ chữ gần với tiếng Việt, dể hiểu, dễ nhớ hơn chữ Hán, tức chữ Nôm. Ông ghi lại những lời trong Thi thoại của Thái Khoan Phu: “Âm của ngũ phương không giống nhau (…) văn tự từ đời xưa có thể không theo nó (…), nên văn tự mỗi nơi một khác”(3).

Lê Quí Đôn còn nêu lên những quan niệm về văn tự phương Nam, nhất là các vùng đất sát nước ta, đặt chữ Nôm trong mối liên hệ với các văn tự thân thuộc đó. Theo ông, “tiếng Việt ít chính âm, viết nhiều tục tự, tùy tục đặt ra chữ, như chữ 憹 (ngồi yên) gọi là ổn (…). Nay ở Quàng Đông, Quảng Tây chuyển đệ công văn cũng dùng chữ 憹. Đó là tùy theo thổ tục mà viết”(4). Dẫn sách Quế hải ngu hành chí ông cho thấy: “Tục ngoài biên thường hủ lậu, khi viết điệp (sớ điệp), tố (tố tụng), khoán ước, họ đều dùng chữ thổ, nghĩa là chữ địa phương. Lối chữ ấy tuy quê kệch, nhưng bên hữu từng chữ đều có ý phụ nhau”(4). Chữ Nôm ta cũng vậy. Người Việt hay người Trung Hoa muốn lấy chữ Hán phiên âm tiếng ta, đều đặt ra cách viết của mình. Theo Lê Quí Đôn “Vì quốc âm ta không có chính tự, chỉ mượn chữ phương Bắc “cá nháy” bên cạnh, thuận mồm mà đọc, không có bốn vận bình, thượng, khứ, nhập nên người phương Bắc không tìm được âm thanh tương ứng, biên chép dễ sai…”(5).

KVTL - Thể lệ thượng, về phong tục, ghi lời sứ Nguyên Trần Cương Trung ở xứ Giao Châu thi tập, Lê Quí Đôn nhận xét: “Còn như ngữ ngôn, trong nước không có chính âm, chỉ có tiếng mà không có chữ, bấy giờ họ (chỉ Trần Cương Trung) dùng chữ Trung Hoa để viết ra, cho nên sai khác như thế”. Để dễ hiểu Lê Quí Đôn, ta có thể lấy cái tên nước Pháp “France” làm ví dụ: Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa phiên âm là Phất lang quốc ở câu thơ: “ở Phất lang quốc dệt nên giống này”. Còn ở VĐLN, Lê Quí Đôn lại ghi là Phất lang sát.

Về châu Âu la ba (Europe): “Những nước lớn nhất là Tây bá ni á, Phất lang sát, Đại lỵ á…(6). Theo Lê Quí Đôn giải thích trong KVTL - Thể lệ thượng, về phong tục là: “Họ chỉ dựa vào tiếng gần giống với chữ Hán để viết ra đấy thôi, nên đọc theo chính âm thì không đúng như thế”. Lê Quí Đôn cho thấy nhiều trường hợp chữ Nôm từ thời ông trở về trước bị ghi sai lạc như: miệng ghi là mãnh (âm Hán Việt), đất ghi là đắc hay đát (âm Hán Việt). Theo ý ông, có thể trời được ghi là lôi tức, “sấm”. Ý đồ của ông, hướng ta hiểu “trời” theo âm Blời trời. Điều đó cho thấy: người xem sách Nôm không thể tìm nghĩa theo chữ mà phải theo âm và là âm na ná; điều đó cũng phần nào phản ánh mối tương quan lịch sử giữa bl và tl và tr là hiện tượng thường thấy trong các văn bản Nôm từ thế kỷ XVII trở về trước, trước “Lê Quí Đôn một thế kỷ. Nó cũng phù hợp với một vài dẫn liệu mà Từ điển của A.de Rhodes năm 1651 có ghi là: “trời: blời”.

2. Trong tác phẩm Hán văn Lê Quí Đôn sử dụng chữ Nôm ra sao?

Ở loại tác phẩm này, Lê Quí Đôn thường sử dụng chữ Nôm vào hai trường hợp sau:

a, Sử dụng chữ Nôm vào khoa học nông nghiệp:

Công việc này nổi bật nhất ở bộ bách khoa VĐLN. Ở đây, Lê Quí Đôn có nói tới hàng trăm giống lúa mà trong đó có 70 giống lúa là của nước ta. Với lúa Việt, phải ghi bằng chữ Việt mới chuẩn xác. Nên trên những trang sách dày đặc chữ Hán của Lê Quí Đôn, ta lại gặp hàng loạt tên lúa ghi bằng chữ Nôm như: Chiêm hom, bát ngoạt, dự dội v.v.. Ngày nay nhiều giống lúa như tám xoan, lúa thông (ở Ninh Bình, Thanh Hóa); chiêm bầu (ở Vĩnh Phúc, Thái Bình); nếp vải (ở Thái Bình, Hải Dương); nếp hoa vàng (ở Hà Bắc, Hà Nam, Thanh Hóa) đã có tên ở VĐLN. Những chữ Nôm ghi trong đó cho ta thấy các loại lúa này có từ lâu đời ở nước ta, được truyền lại cho đến ngày nay mà trong đó Thái Bình, quê hương nông nghiệp nổi tiếng của Lê Quí Đôn được thừa hưởng.

Trong điều kiện sản xuất riêng lẻ, có nhiều giống lúa nối tiếp, xen kẽ nhau, tình trạng giống rất phức tạp: có khi cùng một giống nhưng mỗi địa phương gọi một khác, hay nhiều giống lúa các địa phương lại gọi cùng một tên… Có lẽ vì thế mà Lê Quí Đôn dùng nhiều tên lúa Nôm khác nhau theo cách gọi của nhiều vùng khác nhau trên nước ta để chỉ nhiều loại lúa đặc thù. Để làm nổi bật sự khác biệt của từng tên lúa Nôm, giúp người đọc dễ phân biệt, ông ghi rõ đặc tính sinh học bằng chữ Hán phản ánh đúng tính chất sự vật ghi bằng chữ Nôm đó (trong mối liên hệ với các từ Nôm khác) như “lúa thông hay gié sớm, gié sùng, gié đen cây nhỏ mà yếu”, “lúa tám cánh hay tám quảng cây cao quả sai” (VĐLN - Phẩm vật, điều 159).

Khi tiếng Hán còn đóng khung ở phương Bắc, phía lưu vực sông Hoàng Hà, Vị Hà thì tiếng Hán chưa thể có nhiều những từ nêu tên gọi những sản vật mà chỉ phương Nam, nhất là vùng đất nhiệt đới mới có. Người Hán về sau khi cần ghi tên động, thực vật… ở các vùng đất mới đó, phải mượn chữ Hán để phiên âm địa phương. Những thư tịch cổ ghi chữ Hán được Lê Quí Đôn đọc và dẫn trong VĐLN mục Phẩm vật đã phần nào phản ánh được các tên gọi Nôm đó của tổ tiên ta có từ thời xa xưa mà người Bắc ghi chép được.

“Sách Bắc hộ lục dẫn sách Nam Việt chí rằng: cây cổ độ người Nam gọi là vả (viết á phiên). Sách Phi tuyết lục chép: Nước An Nam có thứ quả sắc hồng gọi là lộ đô tủ, tức tục gọi là quả nhót…

VĐLN - Phẩm vật, điều 159, Lê Quí Đôn tìm thấy chín giống lúa nguyên ghi trong một tác phẩm của Quách Nghĩa Cung đời Tấn là: lúa hổ Chưởng đạo (bàn tay hổ), tử mang gạo (râu tía), xích khoáng đạo (lụa đỏ), thiền minh đạo (chín vào vụ ve kêu), thất nguyệt (chín vào tháng 7), cái hạ bạch, thanh vu, lũy tử, bạch mạc. Đấy có thể là những loại lúa rất lâu đời, nhưng do không phổ biến ở phương Nam và lâu dần người phương Bắc cũng chỉ ghi bằng chữ Hán, không có chú âm phương Nam. Lê Quí Đôn tiếp nhận, không chú thêm chữ Nôm. Ở phẩm vật, điều 213), Lê Quí Đôn có ghi lời cầu nguyện của dân miền núi Mỹ Lương về “cây bùng, cây báng”. Song ông lại ghi cây cối Việt, lời địa phương Việt bằng tiếng Hán. Cả hai trường hợp đó, có thể sẽ phù hợp với một công chúng đông đảo thời ấy thạo chữ Hán khi đọc tác phẩm của Lê Quí Đôn. Đồng thời cũng phù hợp với những người ở địa phương khác không biết tiếng địa phương đó mà biết chữ Hán. Song, giá như Lê Quí Đôn chú thêm bên cạnh chữ Hán những chữ Nôm của địa phương đó thì sẽ phản ánh đúng sự thực hơn, tiện cho người sau tìm hiểu hơn.

Như vậy, việc sử dụng chữ Nôm vào các tác phẩm khoa học viết bằng chữ Hán là khó có thể thay thế được. Đó là điều mà bản thân chữ Hán không diễn tả hết, chữ Nôm phải phát huy thế mạnh của mình. Đó cũng là do yêu cầu khách quan khoa học của một tác phẩm, do nhu cầu của cuộc sống Việt mà trong đó những tiếng thường ngày của dân gian ngày càng vang vọng vào tác phẩm, cần thể hiện trên giấy mực. Chính vì thế mà nhà khoa học ngoài việc đọc sách, dẫn thư tịch cổ, còn cần lao vào cuộc sống, nhanh chóng ghi lại những tiếng thông tục của dân gian bằng chữ Nôm trên nhiều vùng khác nhau. Là người có điều kiện công cán, đi khắp nước ta, Lê Quí Đôn đã góp phần trọng yếu vào việc đó. Khi trấn thủ Thuận - Quảng, chỉ trong 6 tháng, cùng với việc hoàn thành tác phẩm PBTL, Lê Quí Đôn đã ghi được hàng loạt tên gọi của người Thuận - Quảng với nhiều nông sản chỉ có ở đó. Như: “Tục Thuận Hóa gọi cây ý dĩ là bo bo, hạt vừng là mè, xoài lớn là xoài voi, nhỏ như xoài cơm. Các loại chuối đều có tên gọi khác nhau ở bốn trấn. Chuối bụt gọi là nanh lợn”.

Cùng với giới tự nhiên vọng vào tác phẩm đòi hỏi chữ Nôm, thế giới nhân tạo với những sinh hoạt thông tục nhất cũng tràn vào đấy, cần chữ Nôm thể hiện. Lê Quí Đôn đã đáp ứng điều đó. Trong VĐLN - Phẩm vật, điều 18 và 22, ông đã mạnh dạn ghi tên các phương tiện sinh hoạt dân gian bằng chữ Nôm như: cái vựa thóc, cái nong, cái sàng, các loại đòn gánh, cái cuốc v.v…

Lê Quí Đôn là một trong những tác gia Hán học đã sớm sử dụng chữ Nôm vào các công trình khảo cứu khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Nước ta là một nước nông nghiệp, chữ Nôm được Lê Quí Đôn sử dụng chủ yếu cũng là vào khoa học nông nghiệp, đã góp phần phản ánh nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước cực kỳ phong phú của nước ta từ thời xưa.

b, Sử dụng chữ Nôm vào báo cáo chính trị:

Giữa BSTL, một tác phẩm Hán học rất trang trọng của Lê Quí Đôn viết về quan hệ ngoại giao giữa hai nước Trung Việt, lại hiện lên một bài khải Nôm do Lê Quí Đôn viết gửi về báo cáo cho người đứng đầu cung đình. Những sự kiện nổi bật trong chuyến đi sứ, đặc biệt là sự kiện đấu tranh bảo vệ quốc thể, chống lại thái độ coi thường sứ thần ta là “di quan” của một số quan lại nhà Thanh… đều được Lê Quí Đôn trình bày trong tác phẩm Nôm này. Có thể nói rằng Lê Quí Đôn là người đã phát huy hết sức mạnh tiếng nói và chữ viết dân tộc (chữ Nôm) để sử dụng vào công việc chính trị một cách công hiệu. Ông là người đã mạnh dạn đem thứ văn xuôi phi biền ngẫu đó dùng vào nơi tôn nghiêm nhất, để diễn đạt những vấn đề chính trị có tầm quốc gia, mà 28 năm sau đó, ta còn thấy vua Quang Trung viết chiếu bằng chữ Nôm.

Làm được những điều trên giữa thế kỷ XVIII, một thế kỷ phát triển rực rỡ của văn thơ Nôm ở nước ta, Lê Quí Đôn tỏ ra xứng đáng với thời đại, đồng thời ông cũng gặp gỡ với các hậu thế của mình trong quan niệm về tầm quan trọng của chữ Nôm.

CHÚ THÍCH

(1) Số sách này đều hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với các ký hiệu như sau:

1, Vân đài loại ngữ (viết tắt VĐLN): A.141, A.1285.

2, Kiến văn tiểu lục (viết tắt KVTL): A.32

3, Phủ biên tạp lục (viết tắt PBTL): A.184/1-2

4, Bắc sứ thông lục (viết tắt BSTL): A.179

(2) Xem Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt; Nhà xuất bản KHXH, H. 1979.

(3) VĐLN - Âm tự, điều 19.

(4) VĐLN - “Âm tự”, điều 21.

(5) VĐLN - “Âm tự”, điều 20.

(6) VĐLN - “Âm tự”, điều 22.

(7) VĐLN - Khu vũ, điều 92: Âu la ba là châu Âu. Các tên tiếp theo, nay đọc là Tây Ban Nha, Pháp, Italia./

TB

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ VIỆC DỊCH MỘT SỐ BÀI THƠ TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

TRẦN ĐẮC THỌ

Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ra mắt bạn đọc lần đầu tiên vào năm 1960 và từ đó đến nay, riêng hai nhà xuất bản Văn hóa và Văn học đã in và tái bản đến 4 lần. Chưa kể những nhà xuất bản lớn như Nhà xuất bản Giáo dục đã in lại rất nhiều bản. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1975), nhiều tỉnh miền Nam cũng tổ chức in lại. Những bản in này chủ yếu dựa vào các bản dịch cũ của Viện Văn học năm 1960 và năm 1983.

Quá trình biên dịch tập thơ rất công phu, sửa đi sửa lại nhiều lần; từng câu từng chữ được cân nhắc kỹ càng. Trong số những người may mắn được tham gia vào công tác dịch nghĩa, dịch thơ, có nhiều vị là những “đại thụ” trong làng Nho, làng văn, làng thơ. Tất cả mọi người tham gia vào công việc này đều đã làm hết sức mình với tinh thần trách nhiệm cao. Nhưng, gần đây có dịp tiếp cận với nguyên bản tôi thấy còn nhiều điểm cần được trao đổi thêm. Tôi xin căn cứ vào bản dịch mới nhất, in năm 1990, là bản đã được chỉnh lý, bổ sung nhiều để làm khảo chứng.

Trong bài này, trước hết xin nêu ý kiến mấy trường hợp:

1. Không chép đúng nguyên bản, có hoặc không có chú thích “đã được tác giả đồng ý cho sửa”

- Trường hợp thứ nhất là bài Quả Đức ngục (Ngục Quả Đức) được tác giả ghi số 39 trong tập Nhật ký.

Bài ấy nguyên văn như sau (theo nguyên bản):

Giam phòng dã thị tiểu gia đình,
Sài, mễ, du, diêm tự kỷ doanh.
Mỗi cá lung tiền, nhất cá giáo,
Thành thiên chử phạm dữ điều canh.

Các bản đã in, cho đến nay đều chép chữ thứ 7 trong câu 3 là “táo” 灶 có nghĩa là cái bếp, trong khi nguyên bản viết rất rõ chữ “giáo” 窖 .

Tôi đồ rằng trong trường hợp này, tác giả đã dùng một chữ lóng trong tù. “Giáo” có nghĩa là một kiểu bếp tự tạo bằng cách đào xuống đất một ít, rồi kê bếp lên trên mà đun. Từ này cố nhiên không phổ thông, cho nên có thể tác giả đã đồng ý cho sửa. Ta đã biết nhà tù là một trong những nơi sử dụng nhiều tiếng lóng nhất, mà tác giả lại là một bậc thầy trong nghệ thuật hòa mình với quần chúng. Trường hợp này cũng giống như trường hợp tác giả đã dùng hai từ “cước áp” để chỉ cái cùm chân (hai bài thơ số 15 và 16). Từ “áp” không hề có nghĩa là cái cùm. “Áp” là cái cửa đập nước, cái hãm. “Cước áp” chỉ là hai từ lóng trỏ cái cùm; cho nên ở ngay bài thơ “Cước áp” thứ 2, trong câu thơ thứ 2 (bài số 16), tác giả đã đổi là “cước kiềm” để người đọc “ngoại đạo” khỏi ngỡ ngàng.

- Trường hợp thứ hai, bài Điệt lạc (Hụt chân ngã) được tác giả ghi số 56 trong tập Nhật ký.

Bài này nguyên văn như sau (theo nguyên bản):

Dạ nhưng hắc ám dĩ đăng trình,
Lộ hựu kỳ khu, thậm bất bình.
Điệt nhập thâm trình nguy hiểm thậm,
Hạnh năng được xuất liễu thâm trình.

Trong bài này, tôi thấy có hai điểm cần bàn: thứ nhất là cụm từ “thậm bất bình” đã được dịch nghĩa là “không chút bằng phẳng”. Có người còn dịch là “rất không bình thường”. Tôi nghĩ dịch là “Không chút bằng phẳng cũng không sai, tuy rằng câu thơ có hơi điệp ý (Đường gồ ghề tất nhiên là không bằng phẳng). Nhưng theo thiển ý, ý đó chưa phải là ý chính của câu thơ. Tác giả còn muốn ngầm tỏ nỗi bực của mình, vì đường cực xấu mà bắt ra đi từ lúc còn tối mịt, khiến cho tác giả bị sa xuống hố. Đây mới là ý chính của câu thơ, được che khéo bằng một ý khác mà không ai bắt bẻ được. Tác giả đã chơi chữ trong trường hợp này vì cụm, từ “thậm bất bình” là một cụm từ có hai nghĩa.

Câu thơ này kể ra cũng khó dịch, vì biết dịch theo ý nào cho phải, nhất là khi dịch thành thơ. Tôi đã được đọc nhiều bản dịch, nhưng theo thiển ý, có một câu thơ dịch của dịch giả Nguyễn Mỹ Tài: “Đường quá gồ ghề cực lắm thay!” có lẽ đạt hơn cả.

Điểm thứ hai trong bài Điệt lạc mà tôi muốn mang ra bàn là hai từ “thâm trình” trong câu 3 và câu 4. Nguyên bản viết rõ là “thâm trình” 深 埕 nhưng các bản đã công bố đều chép là “thâm khanh” 深 坑 và chú là hố sâu. Từ “trình” có lẽ là một từ địa phương. “Trình” theo Từ Hải (bản in năm 1956), có nghĩa là cái vũng nuôi trai bể (Sanh trình 蟶 埕 ). Loại vũng này có nhiều ở ven biển tỉnh Quảng Đông (ở Quảng Tây, từ Quế Lâm trở xuống đều nói tiếng Quảng Đông). Từ “trình” đã thành một thổ ngữ được dùng để trỏ những hố trên đường do nước mưa trên núi đổ xuống gây ra, ở những vùng có đường đi men theo chân núi.

Theo thiển ý, tác giả viết “thâm trình” trong nguyên bản là đúng; vì “trình” là loại hố không sâu, nên tác giả phải ghép thêm tính từ “thâm” là sâu vào từ “trình”. Sa xuống một cái “ổ gà” bình thường, không có gì nguy hiểm, mà phải là một cái “ổ gà” sâu.

Từ “Khanh” được dùng để chỉ một loại hố sâu hơn. Thường người Trung Quốc dùng từ “Khanh” để chỉ những loại hố như hố bom, hố cá nhân, hố phòng không… nghĩa là những hố đã có một chiều sâu đáng kể. Theo thiển ý, nếu ta chấp nhận từ “Khanh” e không phù hợp với thực tế. Ta nên nhớ mỗi khi tác giả phải giải đi, đều bị trói cả chân tay, có khi còn bị trói chặt (khẩn bang). Vậy thời, tác giả làm thế nào mà lấy đà để nhảy thoát ra khỏi một cái hố sâu. Đổi “thâm trình” ra “thâm khanh” là một việc làm trái với thực tế. Chưa kể, bình thường sa xuống một hố sâu, có thể còn bị thương nặng, phải có người kéo, đỡ mới lên được.

Tôi nêu những trường hợp trên để chúng ta cùng bàn xem có nên đổi “giáo” ra “táo” trong bài Quả Đức ngục đổi “trình” ra “khanh” trong bài Điệt lạc? Đổi như vậy, ta thay được một từ phổ thông vào một từ nói lóng (thể hiện ngôn ngữ trong tù), thay được một từ địa phương nhưng ta sẽ làm mất đi tính chất lịch sử của nó, mất đi cái bối cảnh mà tác giả đã lâm vào.

Trên tinh thần đổi mới trong văn học nghệ thuật, tôi đề nghị chúng ta nên khôi phục lại nguyên bản, có chú thích rõ ràng. Điều này sẽ rất bổ ích cho các nhà nghiên cứu sau này.

- Trường hợp thứ ba (bài số 128) Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động (Được lệnh trên cho đi lại ngoài phòng giam). Nguyên văn:

Cửu nhàn lưỡng cước nhuyễn như miên,
Kim khí hành hành lũ dục điên.
Phiến khắc dĩ văn ban trưởng hám
“Phản lai, bất chuẩn tái trì diên!”

Chữ thứ 2 trong câu 2 của nguyên tác “Kim thí hành hành lũ dục điên” đã bị sửa chữa thí mà không thấy chú thích có được phép của tác giả hay không? Tác giả viết chữ “thí” 譬, nhưng người dịch đã thay một chữ “thí” khác vào 試 và chú nghĩa là “thử”. Cả câu được dịch: “Hôm nay đi thử, lảo đảo mấy lần chực ngã”. Theo thiển nghĩ, tác giả không dùng chữ lầm. Trong bài thơ số 108 (Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ), tác giả đã từng viết “Thí vấn dư sở phạm hà tội ?” với chữ “thí” là thử viết rất chính xác. Người Trung Quốc khi muốn diễn tả ý “thử đi” họ không nói “thí hành hành” mà lại nói “thí thí hành” cũng như khi họ muốn diễn tả ý “thử xem”, họ nói “thí thí khan” mà không nói “thí khan khan”.

Thực tế ở đây, cũng không hề có chuyện đi thử. Tác giả bị giam giữ lâu trong một điều kiện vô cùng khắc nghiệt, suốt ngày chỉ ngồi bó gối một chỗ trong một kiểu “chuồng cọp” không sao duỗi được chân, vì buồng giam quá chật, chỉ có hơn nửa thước vuông chung cho bốn người (Xem bài thơ số 109 “Chính trị bộ cấm bế thất”). Do có lệnh trên, tác giả mới được phép ra ngoài buồng giam đi lại, để chóng phục hồi sức khỏe. Trong hoàn cảnh này, bất cứ ai được ra khỏi buồng giam là đi ngay xem sao, hà tất phải thử. Chẳng lẽ thử không được thì thôi không đi nữa! Người ta chỉ “thử” khi cần cân nhắc, đánh giá…

Tôi đồ chừng những người dịch trước có phần nào chủ quan, cho chữ “thí” mà tác giả dùng, chỉ có một nghĩa duy nhất là “thí dụ”. Hiểu như vậy, nghĩa câu thơ sẽ không ra sao, nên đã tự ý thay chữ “thí” là thử vào đấy.

Chữ “thí” mà tác giả dùng còn có nghĩa là “hiểu rõ”, cả câu thơ có nghĩa: “Nay (ta) mới hiểu rõ đi vài bước (hành hành) đã lảo đảo mấy lần chực ngã”. Câu này chẳng qua chỉ để chứng minh một nhận xét của dân gian trong câu thơ thứ nhất: “Nghỉ lâu, đôi chân người ta mất hết sức lực, mềm ra như bông”. Thế cho nên, tôi nghĩ ở đây ta phải phục hồi chữ “thí” của tác giả mới đúng.

Cũng trong bài thơ đã dẫn, tôi thấy còn một điểm nhỏ nữa trong phần dịch nghĩa cũng cần được trao đổi thêm. Hai câu 3 và 4 đã được dịch nghĩa:

Chốc lát đã nghe ban trưởng quát
Quay lại! không được rềnh ràng nữa.

Và được dịch thành thơ:

Chốc lát đã nghe ban trưởng quát
“Không rềnh ràng nữa, phải vào ngay!”.

Trước hết, tôi thấy ta không nên dịch “hám” là quát (Đúng ra, chữ này có âm Hán Việt là “hàm” có nghĩa là “kêu”; ta đã phần nào phiên theo âm bạch thoại, để đảm bảo niêm luật bài thơ). Bài thơ số 110 (Mông ưu đãi) cho ta biết tác giả đã được đối xử tốt. Theo tài liệu nghiên cứu của giáo sư Phan Văn Các, công bố trong Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1990, bài thơ Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động được viết sau bài Mộng ưu đãi đến hơn 4 tháng. Vậy không có lý do gì vị trưởng ban nào đó còn “quát” tác giả, vì từ “quát” có bao hàm ý mắng. Nếu cần bảo đảm luật bằng trắc cho câu thơ, thiết tưởng chỉ dịch là “hét” cũng đủ (hét có nghĩa kêu to).

“Phản lại” chỉ có nghĩa: “Quay lại!”. Cả câu 4 được tác giả đặt trong ngoặc kép, chứng tỏ tác giả đã nhắc lại nguyên văn câu nói của trưởng ban. Ta không hiểu sau khi có lệnh ưu đãi, tác giả bị giam giữ ra sao. Trong trường hợp này, theo thiển ý, dù rằng dịch thơ, cũng không nên dịch là “phải vào ngay!”, vì sai ý nguyên tác.

Tôi xin góp ý thêm một bản dịch thơ của tôi (tạm dịch):

Nghỉ dài, chân lả tựa bông mềm,
Vừa bước, xem ra muốn ngã liền
Chốc lát đã nghe ban trưởng hét:
“Lâu rồi, quay lại! Khẩn trương lên!”

Trường hợp thứ tư: bài Chính trị bộ cấm bế thất (Nhà giam của Cục chính trị) (bài số 109). Bài này có hai từ đã bị sửa mà chưa được sự đồng ý của tác giả. Đó là hai từ “xích” ở trong câu thơ thứ nhất của bài thơ (chữ thứ 2 và chữ thứ 6). Nguyên văn:

Nhị xích khoát hề, tam xích trường,

Tứ nhân trụ thử nhật bàng hoàng.
Yếu thân thân cước dã bất khả,
Nhân vị đa nhân, thiểu địa phương.

Tác giả viết rõ ràng xích 呎 là một đơn vị đo lường nước Anh. Nhưng ba chục năm nay, các bản đã công bố đều chép xích 尺 chỉ thước Trung Quốc (có lẽ do tác giả viết sai!). Thực ra, khi viết xích không có khẩu bên cạnh, tác giả tỏ ra rất cụ thể trong khái niệm đo lường.

Theo Từ Hải, một “xích” (có khẩu bên cạnh) là một foot, tức 12inches. 1 “xích” ở đây bằng 30, 479 xăng-ti-mét (trên báo chí, ta quen dịch là bộ hay bước). Sở dĩ tác giả không dùng từ “xích”) thước Trung Quốc) là do lúc bấy giờ ở Trung Hoa Dân quốc chưa thống nhất được đo lường trong cả nước. Có nơi một “xích” (Trung Quốc) là 0,40 mét, có nơi chỉ 0,30 mét.

Tác giả viết thế cốt để người đọc có một khái niệm chính xác về cái “chuồng cọp” dùng để giam giữ mình. Trong khi ấy, tất cả các bản dịch, cả dịch nghĩa lẫn dịch thơ đều chỉ biên đơn giản là thước. Mà có lẽ, người dịch cũng đinh ninh “xích” là một thước, tức là một mét, cho nên mới không có một lời giải thích nào. Sơ xuất này làm cho người đọc không thấy xúc động vì cảnh bị giam cầm quá tệ hại mà tác giả phải chịu đựng trong nhà giam của Cục chính trị.

Phải chăng cũng vì có sự hiểu lầm như vậy về từ “xích” mà những người dịch đã phạm luôn một sai lầm thứ hai, khi dịch nghĩa hai từ “bàng hoàng” ở câu thơ thứ 2 (tứ nhân trụ thử nhật bàng hoàng). Có người dịch “bàng hoàng” là quanh quẩn, có người dịch là luẩn quẩn (?!). Hai từ “bàng hoàng” ở đây không có nghĩa ấy, mà nó chỉ tâm trạng.

Nếu hiểu chính xác từ “xích” (có khẩu) thì buồng giam tác giả chỉ vẻn vẹn có: (30,479x) x (30,479 x3) = 0,567 mét vuông.

Mà giam những 4 người. Cho nên ở câu thơ thứ 3, tác giả đã nói “muốn duỗi chân một tí cũng không được”. Ta thử tưởng tượng bốn người bị giam trong một cái chuồng rộng khoảng nửa thước vuông thì làm sao mà không “bàng hoàng” trước sự đối xử tàn tệ và bất ngờ như vậy của một cơ quan mang tên là Cục chính trị.

Dịch “bàng hoàng” là “quanh quẩn”, “luẩn quẩn”, ta đã phản lại tác giả, vì “quanh quẩn”, “luẩn quẩn” có bao hàm ý: phạm nhân vẫn còn có thể đi lại trong một phạm vi hẹp.

(Trong lần tái bản năm 1990, Viện Văn học đã sửa lại là “xích” (có khẩu), nhưng không có chú thích và cũng không sửa phần dịch nghĩa, dịch thơ).

Ở đây, tôi cũng xin góp một bản dịch thơ của tôi:

Phòng giam cấm của Cục chính trị
Hai bước rộng, ba bước dài
Bàng hoàng chen chúc bốn người ở trong
Duỗi chân một tí không xong
Vì chung khám hẹp, người đông thế này!

2. Trường hợp chép đúng văn bản, nhưng khi dịch nghĩa lại bỏ không dịch những từ rất quan trọng (có khi chỉ một từ thôi) hoặc dịch chưa được sát, làm sai lạc hẳn ý bài thơ

Tôi coi trọng việc cố gắng làm sao có một bản dịch nghĩa thật chính xác tập thơ Ngục trung nhật ký để từ đó ta sẽ có nhiều bản dịch thơ hay sau này, vì không phải ai ai cũng có thể thưởng thức được thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho đến nay, những bài thơ chữ Hán được truyền tụng, được nhớ nhiều nhất vẫn là những bản dịch thơ hay. Chứng cớ là có nhiều người thuộc lòng Khúc ngâm chinh phụ của Đoàn Thị Điểm hơn là nguyên tác của Đặng Trần Côn. Những bản dịch thơ hay cũng rất cần cho các cháu học sinh, vì tập Nhật ký trong tù có trong chương trình học văn của học sinh, sinh viên. Đây là tôi chưa nói đến sự cần thiết cho những nhà nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở cả trong và ngoài nước.

Lần này, tôi xin dẫn chứng bằng bài Tẩu lộ (Đi đường), bài thứ 29, nguyên văn:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu.
Vạn lý dư đồ cố miện gian.

Tất cả những bản cũ đều dịch nghĩa:

Có đi đường mới biết đi đường khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác.
Lên đến đỉnh cao chót của rặng núi trùng điệp ấy,
Thì muôn dặm non sông đã thu cả vào tầm mắt.

Và dịch thơ:

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Từ “cố” trong cụm từ “cố miện gian” ở câu thứ tư của nguyên tác đóng một vai trò rất quan trọng, mà các bản dịch cũ từ trước đến nay, không hiểu sao, đều bỏ không dịch. “Cố” có nghĩa là quay đầu nhìn lại. Tác giả đang bị giải từ Tĩnh Tây (một địa điểm sát biên giới Việt Nam) đi Thiên Bảo, tức là đi từ phía Nam lên phía Bắc. Vì thế khi lên đến một đỉnh núi cao, không còn gì che khuất tầm mắt của mình, sau gần một tháng rưỡi bị giam trong ngục tối, tác giả mới có điều kiện quay đầu nhìn lại, tức là nhìn về phía Nam, phía quê hương đất nước mình. Đó là tấm lòng nhớ về cố quốc của một người xa quê hương, mà ta bỏ không dịch ý ấy, sao nên ?

Ta không cần khổ công tra cứu. Ngay trong Hán Việt từ điển Đào Duy Anh (do cụ Phan Bội Châu hiệu đính) đã chú thích cụm từ “cố miện sơn hà” là “tiếc mến nước cũ”. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu dịch “cố” là trông lại, đoái, chỉ về mối tình nhớ nhung không sao quên được. Điều này chứng tỏ cụm từ nói trên đã được quen dùng từ lâu trong văn tự Hán. Tác giả chỉ thay hai chữ “sơn hà” bằng bốn chữ “Vạn lý dư đồ” cùng nghĩa nhưng giàu chất thơ hơn. Hai câu thơ dịch:

“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Rõ ràng đã dịch sai ý nguyên tác. Chưa kể ở câu 1, có một điểm vô lý: tác giả là người bị giải, làm thế nào mà lên đến tận cùn g (hay đỉnh cao chót như ghi ở phần dịch nghĩa) vì lính giải bao giờ cũng chọn đường tương đối dễ đi nhất, không khi nào lại chiều theo sở thích của nhà thơ, chọn ngọn núi cao nhất mà leo lên.

Tôi xin phép tạm dịch hai câu thơ trên như sau, sát nghĩa hơn:

Đỉnh cao lên tới vừa xong
Non sông muôn dặm, chạnh lòng ngoái trông.

(Trong lần in lại năm 1990, Viện Văn học có ghi thêm ý “ngoái nhìn” vào phần dịch nghĩa; phần dịch thơ vẫn để nguyên).

- Một bài thơ nữa mà tôi muốn đề cập tới trong bài viết này là bài Bang (Dây trói), bài số 46 trong tập thơ. Đọc phần dịch nghĩa và dịch thơ của bài này tôi hơi ngỡ ngàng vì thấy không hợp với nguyên tác. Có điều, tại sao người dịch không tham khảo ý kiến những người hiểu biết hoặc đề đạt hỏi thẳng ngay tác giả. Tác giả có một kiến thức rộng lớn, am hiểu nhiều điều mà chúng ta không biết. Có hỏi, chắc tác giả cũng chẳng phiền trách.

Cả bài thơ nguyên văn như sau:

Hình tí trường long hoàn nhiễu trước,
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan;
Huân quan đích thị kim ti tuyến,
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Đã được dịch nghĩa:

Rồng dài quấn quanh cẳng chân và cánh tay
Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài;
Dây tua quan võ là tơ kim tuyến,
Còn của ta là một sợi thừng gai lớn.

Và dịch thơ:

Rồng quấn vòng quanh chân với tay,
Trông như quan võ đủ tua, đai;
Tua đai quan võ bằng kim tuyến,
Tua của ta là một cuộn gai.

Trong câu thứ nhất “Hình tí trường long hoàn nhiễu trước” đã bỏ từ “trước” không dịch nghĩa. Theo văn phạm chữ Hán hiện đại, từ “trước” đặt sau một động từ, chỉ một việc đã hoàn thành. Nghĩa đen cụm từ “hoàn nhiễu trước” là “đã vây chung quanh rồi” (hoàn nhiễu là một động từ kép có nghĩa “vây quanh”).

Câu 2 “Uyển như ngoại quốc vũ huân quan” được dịch “Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài”, đã thêm ý “dây tua” không hề có trong nguyên tác, mà lại bỏ không dịch từ “huân” nghĩa là có nhiều công trạng. Đáng lẽ câu ấy phải dịch “Giống hệt quan võ người nước ngoài có nhiều công trạng”.

Đến câu 3, ba chữ “Huân quan đích” mới ám chỉ những thứ đeo trên mình quan (võ) có công mà tác giả ví với rồng dài quấn vào chân tay tác giả (đích là tiếng bạch thoại; cả cụm từ có nghĩa “cái của những quan võ có nhiều công lao”). Những thứ này không thể là tua, thao,… như nhiều người đã dịch, vì quá ngắn không sao ví với rồng dài. Đai, lại càng không phải, vì quan võ ngoại quốc không mang cân đai.

Đây chỉ là những cái dây quàng bằng kim tuyến, to bằng cỡ ngón tay út, quàng tréo từ vai xuống thắt lưng, có giá trị như một thứ huân chương được tặng cho các sĩ quan, mỗi khi lập được một chiến công thực đặc biệt. Cả người Anh và người Pháp đều có chung một tên gọi là “cordon”. Không biết tác giả có ý chơi chữ trong trường hợp này không, vì dây thừng trói tác giả, tiếng Anh gọi là “cord” tiếng Pháp gọi là “corde”. Cả ba chữ “cordon”, “cord”, “corde” cùng có chung một nguồn gốc.

Tôi nghĩ có lẽ vì người dịch không hiểu nên phần dịch nghĩa cũng như dịch thơ trước đây đều thiếu chính xác.

Tôi xin tạm dịch như sau:

Dây trói
Chân tay rồng quấn vòng quanh chặt,
Hệt tướng nhiều công của nước ngoài
Tướng võ, dây quàng kim tuyến thực,
Dây quàng ta, cuộn lớn thừng gai.

3. Trong những tập thơ “Nhật ký trong tù” đã công bố, có bài dịch rất hay, nhưng cũng có bài làm người đọc phân vân, không biết dịch như thế đã trúng ý tác giả chưa.

Ta không thể quên tác giả là một người hiện đại, bôn ba khắp năm châu bốn biển. Thời thanh niên, tác giả giỏi về cổ văn Trung Quốc. Thời gian hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, tác giả lại giỏi cả tân văn tự, từng viết bài cho báo chí Trung Quốc. Theo tân văn tự, nhiều từ Hán đã được đơn giản hóa trong cách viết và có những nghĩa mới mà xưa chưa có. Trong Ngục trung nhật ký, không ít câu được tác giả viết bằng văn bạch thoại, có khi sử dụng ngôn ngữ trong tù, sử dụng cả tiếng địa phương. Cho nên, dịch được trúng ý tác giả, thiết tưởng không phải là một việc đơn giản.

Tôi xin đơn cử một ví dụ, bài Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu (Bị bắt giam ở phố Túc Vinh) ở ngay đầu tập thơ. Nguyên văn:

Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình;
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo
Bả nhân danh dự bạch hy sinh.

Hai câu 3 và 4 được dịch nghĩa:

Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của người.

Có người dịch:

Bịa đặt ra chuyện tình nghi là gián điệp,
Đem danh dự người vứt bỏ bằng không.

Và chú thích: chữ “bạch” đây, nguyên nghĩa là trắng, trắng tức là “hết cả” hay “bằng không”; “Bạch hy sinh” là vứt bỏ trắng, vứt bỏ sạch trơn…

Mấu chốt vấn đề là ở từ “bạch”. Theo chữ Hán hiện đại, từ “bạch” còn có nghĩa là vô ích. Thí dụ: “bạch mang” là phí công, vô ích; “bạch đáp” là vô ích; “bạch tử” là chết uổng. Vậy thời ở cụm từ “bạch hy sinh” tác giả dùng từ “bạch” theo nghĩa cũ hay nghĩa mới? Theo thiển ý, dùng với nghĩa mới không phải là không lô-gích. Tác giả mới bị tình nghi, yếu tố phạm pháp chưa rõ, luật pháp cũng chưa xét xử. Như vậy, làm gì đến nỗi “Đem danh dự người vứt bỏ bằng không”; Chẳng qua việc làm hồ đồ có dụng ý của những người nhân danh công lý của Trung Hoa dân quốc thời đó, đã làm cho tác giả lâm vào cảnh có thể bị hi sinh danh dự mà không mang lại lợi ích gì cho cách mạng, một sự hy sinh không có mục đích. Sau khi bị bắt, bị giải đi gần khắp tỉnh Quảng Tây, qua mấy chục phòng giam cực kỳ khổ ải, tác giả vẫn không thiếu những vần thơ hào hùng, đầy tự tin, kiên cường, luôn luôn thể hiện tinh thần “Bách chiết, bất hồi, hướng tiền tiến” (Bài thơ số 120); tác giả vững tin công lý rồi sẽ thắng: “Giá lưỡng cực chi gian, lập trước công lý thần” (Bài thơ số 10). Với những suy nghĩ như trên, tôi xin tạm dịch lại (theo nghĩa mới) như sau, để bạn đọc tham khảo:

Túc Vinh nỡ để ta mang nhục
Cố ý làm ta chậm lộ trình
Dựng chuyện tình nghi làm gián điệp
Buộc người, danh dự uổng hy sinh.

Có một bài thơ nữa cũng cần được nêu ra. Đó là bài Nạn hữu Mạc mỗ (bài thơ số 26), một trong 7 bài cuối cùng còn lại của Ngục trung nhật ký được đưa ra trong lần xuất bản năm 1990:

Nguyên văn như sau (theo đúng nguyên bản):

Phú gia tử đệ, bần gia giáo,
Đổ đảm như thiên, đảm tự châm.
Xa đại pháo tài chân vĩ đại,
Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Và được dịch nghĩa:

Con cái nhà giàu mà nghèo giáo dục,
Gan đánh bạc to như trời mà mật thì nhỏ như cái kim;
Cái tài huyênh hoang khoác lác thật là vĩ đại,
Ở tù nhưng vẫn tơ tưởng ăn nhân sâm.

Trước tiên, về phần sao chép văn bản và phiên âm Hán Việt, tất cả những người làm việc này, không hiểu sao lại tự ý thêm dấu phẩy vào sau chữ “tài” ở câu thứ 3: “Xa đại pháo tài chân vĩ đại”. Trong văn chữ Hán cổ, người ta không chấm câu. Việc ấy, người đọc, người học phải tự làm lấy (hoặc thầy dạy học làm cho, khi học trò còn nhỏ). Riêng tác giả Ngục trung nhật ký thì đã đánh dấu và chấm từng câu một, đủ cả dấu than (!), dấu hỏi (?) chấm phẩy (;), ngoặc kép (“…”) v.v… mỗi khi cần. Trong câu thơ thứ 3 đã dẫn ở trên, tác giả không đánh dấu phẩy ở sau chữ “tài”. Việc thêm dấu phẩy chứng tỏ người chép và dịch đã không hiểu câu thơ. Về điểm này, tôi sẽ xin trình bày như sau.

Trước hết, tôi xin nói về cụm từ “Xa đại pháo”. Cụm từ này không phải tiếng lóng, tiếng bạch thoại mà là một cụm từ thông dụng ở tỉnh Quảng Đông, dùng làm biệt hiệu, làm tên nhạo gán cho những kẻ có tính huênh hoang khoác lác. “Xa” ở đây không phải là danh từ, mà là động từ. “Xa” là kéo đi. “Xa đại pháo” có nghĩa đen là “kéo khẩu súng lớn đi bắn lung tung”.

Chữ “tài” ở đây, không phải là tài ba, tài năng. “Tài” là mới. Vì hiểu nhầm nghĩa chữ “tài” nên cụm từ này đã được dịch: “Cái tài huênh hoang khoác lác” hoặc “tài ba hoa khoác lác” và người dịch đã tự ý thêm một dấu phẩy sau chữ “tài” ở phần phiên âm (Đây là chưa kể có người đã dịch thơ cả câu thành “Ba hoa khoác lác thật tài!). Trong câu “Xa đại pháo tài chân vĩ đại”, “xa đại pháo” là chủ ngữ, “tài chân vĩ đại” là vị ngữ. Đặt dấu phẩy giữa chủ ngữ và vị ngữ là sai ngữ pháp và làm lạc nghĩa câu thơ. Cả câu nói trên có nghĩa: “Tính huênh hoang khoác lác mới thực là vĩ đại”.

Tôi xin góp thêm một bản dịch thơ của tôi để bạn đọc tham khảo:

BẠN TÙ HỌ MẠC
Con nhà giàu, lại nghèo gia giáo,
Lớn mật bạc, bài, bé lá gan.
Tính khoác lác sao mà vĩ đại !
Ở tù, vẫn muốn có sâm ăn.

Trên đây, tôi xin nêu một số bài thơ mà chủ quan tôi thấy ở phần dịch đôi khi còn có những điểm chưa ổn hoặc cần bàn thêm. Mong được đông đảo bạn đọc cùng tham gia trao đổi ý kiến.

Nếu có điều kiện, tôi sẽ xin nêu tiếp một số bài khác.

Tháng 9 năm 1990

TB

GÓP Ý KIẾN CHO SÁCH PHIÊN ÂM
CHÚ GIẢI CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA

ĐẶNG ĐỨC
NGỌC NAM

Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (CNNAGN)(1) là một quyển từ điển Hán Nôm, nếu không muốn nói là đầu tiên thì cũng là một trong những cuốn từ điển cổ nhất, xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ XVI đến XVII. Quyển từ điển này đã được chị Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú thích lần đầu tiên để làm tư liệu cho luận án PTS bảo vệ năm 1983, đến năm 1985 được Nhà xuất bản Khoa học xã hội in thành sách.

Phiên âm và chú thích từ điển CNNAGN, chị Trần Xuân Ngọc Lan đã bước đầu tạo điều kiện cho những ai muốn tìm hiểu nội dung phong phú của quyển từ điển quý hiếm này mà không đọc được chữ Nôm. Chị đã phiên âm nhiều chữ Nôm khó, giải mã nhiều chữ viết không rõ, hiệu đính nhiều chữ Nôm, chữ Hán viết sai, thể hiện một sự cố gắng lớn. Tuy nhiên, CNNAGN như đã nói ở trên, là một từ điển khá cổ, có nội dung nhiều mặt như một quyển từ điển bách khoa, lại bị sao chép lại nhiều lần, bản khắc gỗ cũng có bị khắc lại, kỹ thuật in ấn có nhiều hạn chế. Tất cả những tình hình này ảnh hưởng xấu đến văn bản, gây khó khăn cho công việc phiên âm, làm cho người phiên âm có những chỗ không đọc được, không phiên âm được, phiên âm sai, phiên mà không hiểu… Và những trường hợp đó không phải là ít, làm ảnh hưởng đến sự tìm hiểu nội dung của cuốn từ điển.

Vì vậy, để giúp sửa chữa bản phiên âm hiện có, chúng tôi xin góp ý một số ý kiến đầu tiên cho hai chương Thiên văn Địa lý.

1, Câu: THI TIÊN(2): chớp nháng(3) vi quang (tr.78, d.3). Chữ nháng được phiên âm từ chữ 紙

Xét từ cách đọc Hán Việt, chữ này [CHỈ](4) không thể phiên âm thành nháng, mà chỉ có thể phiên thành các từ Chỉ, Giấy, Dây. Ví dụ:

Ông nọ vì đâu xe chỉ đỏ/ HĐ - Nguyệt: 5/

XÍCH ĐỀ: tờ giấ y mảnh manh

/ CNNAGN - Văn tự bộ /

TĂNG SÁCH dây vó càng bền

/CNNAGN - Tát võng /

Vậy tại sao tác giả lại phiên âm thành nháng ? Chắc là vì trước nháng là chữ Chớp. Và trong Đại Nam quốc âm tự vựng có mục từ Chớp nháng có ý nghĩa gần phù hợp (chớp lửa sấm lòe ra) nên tác giả cứ viết theo mà không cần quan tâm đến mặt chữ Nôm.

Vậy thì khả năng cho phép phiên thành từ nào đã nêu trên?

Để trả lời, chúng ta phải xét nghĩa của mục từ THI TIÊN.

Vào những đêm tối trời, chúng ta thường thấy những lằn chớp nhỏ như sợi chỉ, nháng lên rồi vụt tắt như ngọn roi đánh vụt lưng trời. Chớp này có nhiều tên gọi như THI TIÊN, TỬ KIM XÀ, THẦN MẪU, THIÊN TIẾU. Mỗi tên đều căn cứ vào một khía cạnh nào đó về hình thức và mầu sắc của lằn chớp để đặt. Lằn chớp như cái roi, như con rắn, như sợi chỉ… Vậy ở đây nên phiên là Chỉ, vừa phù hợp về chữ Nôm, vừa phù hợp về nghĩa mà câu thơ cũng không bị lạc âm vận. Chúng ta phiên như sau:

THI TIÊN: chớp chỉ vi quang.

2, Câu - Ư / NÊ: lầm lội đợi phao đỡ vòng (tr.86, d.14).

Pha o phiên âm từ chữ 漂 ; Đỡ phiên âm từ chữ 乑;

Vòng phiên âm từ chữ 紝 ;

Trước tiên chúng tôi thấy từ phao, đỡ, chữ Nôm không viết như trên, mà viết: 拋 , 拖

Phao cho quyến gió rủ mây? A.B.C: 1173/

ĐỒNG LỘC: phao câu phơ phơ / Tát võng loại: 37 /

Sau là đỡ lúc đương xa dặm dài / NKL /

Còn các chữ Nôm 漂, 乑, 紝 thì thường phiên là pheo (kheo), đã, nhầm.

Trường hợp phiên âm thành kheo rất đặc biệt, bởi vì chữ này âm Hán Việt là PHIÊU. Nhưng chúng ta biết rằng PHIÊU thường được dùng để ghi âm từ Pheo (tre pheo). Sau đó âm pheo này được mượn để ghi âm từ kheo (cây trượng dài bằng tre hay gỗ, ở lưng chừng có đóng bậc ngang để đứng cao mà đi), khi mà từ đó còn giữ hình thức cổ của nó. Điều phỏng đoán này dựa trên quá trình diễn biến của phụ âm xát môi vô thanh/ F/ (chữ viết ph) trong quá trình phát triển của tiếng Việt. Theo Henri Maspé ro(5):

“… những chữ thuần túy Việt có thủy âm là F là rất ít: Từ điển Génibrel chỉ có độ 15 từ không dẫn xuất từ tiếng Hán; F có vẻ đang mất đi, nó có xu hướng đổi thành hữu thanh, đôi khi thành V”. Chúng tôi lại thấy thêm giữa phương ngữ Bắc bộ và Bắc Trung bộ có quy luật đối ứng ph , kh.

Ví dụ:

Bắc bộ Bắc Trung bộ
(chìa) khóa (chìa) phá(6)
(củ) khoai (củ) phai
(sức) khỏe (sức) phẻ
Khoe khoang Phe phang

Hiện tượng trên cho phép giả thiết có mối quan hệ về ngữ âm giữa hai phụ âm này.

Thêm vào đó làm mối quan hệ về nghĩa của pheo: cây tre, loại cây thân có đốt, có mắt tre ngang cứng chìa ra là pheo, vật dụng làm từ tre để đi, nhờ vào thân tre có mắt đâm ngang cứng, có thể đứng lên để đi. Về sau người ta có thể thay bằng gỗ và đóng bậc ngang để đứng thay vì mắt tre. Hai từ đồng âm này về sau đã khu biệt nhau về mặt âm thanh nhờ qui luật ngữ âm nêu trên: từ thứ nhất vẫn giữ âm đọc là pheo còn từ thứ hai chuyển thành kheo. Vậy theo giả thuyết này kheo chỉ là hình thức dẫn xuất về sau, còn vào thời điểm sáng tạo chữ Nôm, nó vẫn mang hình thức pheo. Chính vì vậy cuối thế kỷ XIX, từ kheo được ghi bằng chữ [KHIÊU] 跳 sát với ân hiện tại của nó. Trường hợp phiên 乑 thành đã lại rất thông thường; phiên 紝 thành nhầm vì âm Hán Việt là [NHẬM].

Cuối cùng, còn một chữ nữa trong câu trên cần xét đến, đó là chữ 待. chữ này tác giả phiên âm là đợi.

Thật vậy, nếu nhận diện chữ này với hình thức chính xác của nó như trên thì chỉ có thể phiên âm thành đợi hay đãi. Ví dụ:

Thâu canh trằn trọc đợi canh gà / HĐ - Tan canh: 8/

Dãi dầu kể mấy nắng mưa / PT231/

Nhưng xét về nghĩa thì không phù hợp. Vậy có thể chữ đó bị khắc sai. Và chữ đã bị khắc sai đó phải rất giống chữ được khắc ra. Ở đây chúng tôi phỏng đoán là 特 [ĐẶC]. Chữ này phiên âm là được. Thay được vào đợi thì nghĩa của câu thơ gợi nhớ đến điển cố về Ư NÊ: Bị vây ở Cai Hạ, Sở Bá Vương mở đường máu tìm về Giang Đông mưu việc phục thù. Chạy đến Âm Lăng thì lạc đường, hỏi thăm bác nông dân, bác ta nói lừa, chỉ chạy sang bên tả, đưa Hạng Vương đến vùng đầm lầy. Quân Hán đuổi kịp, Hạng Vương cắt đầu cho Vương Ế. Nội dung điển cố là chuyện Hạng Vũ lầm đường Trạch tả, lọt vào vùng đầm lầy, vùng tử địa. Còn nhà sư Hương Chân thì nói: dù có nhặt được kheo (phương tiện của người xưa dùng để đi trên đầm lầy, đồng cỏ) để đi, cũng không thoát khỏi. Với nội dung như vậy, câu trên được phiên âm lại như sau:

Ư NÊ: lầm lội được kheo đã nhầm

3, Câu - NHAI ÁO: đầu doi chảy đi

NHAI ỔI: hói nước quanh co uốn vào (tr.86, d.11,12).

Hói phiên âm từ chữ 澮

Nước phiên âm từ chữ 泳

Và tác giả giải thích “hói nước: dòng nước nhỏ, khe suối”.

Xét về cả hai phương diện ý nghĩa và hình dạng chữ Nôm, chúng tôi thấy phiên âm như trên cần được soát xét lại.

Chúng ta đều biết hai từ Hán NHAI ÁO 涯 澳 ) và NHAI ỔI ( 涯氵畏 ) ý nghĩa đối lập nhau. NHAI ÁO chỉ phần đất nhô ra sông, biển. Tương đương với từ này trong tiếng Việt có từ doi. Còn NHAI ỔI chỉ phần nước bị sông, biển lấn cong vào đất liền. Tương đương với từ này, trong tiếng Việt có từ vịnh. Về mặt chữ Nôm, chữ 泳 âm Hán Việt là [VĨNH] thường phiên âm Nôm thành vịnh. Ví dụ:

Nay doi mai vịnh nghề theo lưới chài / NT: 34/

Phiên thành vịnh thì chữ trước nó không thể là hói, hói vịnh là không thể giải thích được về nghĩa.

Sự thực là chữ 澮 trong bản Nôm viết không được rõ ràng. Các nét bị nhòe. Chúng tôi phỏng đoán chữ KHOÁI (cũng đọc là QUÁI) hay là chữ CỐI. Chữ CỐI thường được dùng để viết từ cuối hoặc làm âm phù cho từ cuối. Ví dụ:

Bữa chài cuối 會 bãi thuyền đôi chiếc / HĐ - trà thượng ra củ 3/

Trắc: lúa cấy sớm; TRỊ: cấy sau cuối 蠭 mùa / TML: 上 - 2a5/. ĐỂ (đáy) cuối 李會 / T3: 395/

Nếu phiên âm chữ trên thành cuối thì ý nghĩa cũng rất phù hợp: doi đối với vịnh đầu đối với cuối. Chúng ta có kết quả phiên âm như sau:

NHAI ÁO: đầu doi chảy đi,

NHAI ỔI: cuối vịnh quanh co uốn vào.

4, Câu - KHÊ CẢNG: giáp váng lạch, ngòi thông thu (tr.84, d.4)

Giáp phiên âm từ chữ 夾

Váng phiên âm từ chữ 匕

giáp được giải thích là chỗ hai vật gì kề nhau, hiệp lại; váng là vũng, ao, hồ.

Về phương diện chữ Nôm, chữ thứ nhất có thể có hai cách đọc là giáp hẹp. Đọc là giáp vì chữ có âm Hán Việt là GIÁP. Đọc là hẹp vì chữ còn một âm Hán Việt khác là HIỆP. HIỆP trong tiếng Hán có nghĩa là “hẹp”. Ví dụ “Kỳ địa đông tây hiệp nam bắc trường” / Hậu Hán Thư - Đông di truyện/ (đất ấy từ đông sang tây hẹp, từ nam đến bắc dài). Đây là một chữ Nôm mượn cả ý lẫn âm do sự chuyển đổi nguyên âm đôi iê sang (e) như thường xảy ra. Ví dụ: miêu - mèo; nghiêu - nghèo; thiêu - theo…

Trong câu đang xét, chữ này phải phiên âm theo cách đọc thứ hai là hẹp thì mới phù hợp với cách phiên âm chữ Nôm 上 đi liền sau đó mà như chúng ta thấy dưới đây.

Chữ Nôm đi liền này được tác giả nhận định là chữ viết sai của chữ 王 VƯƠNG, nên phiên âm thành váng, với nghĩa là “vũng, ao, hồ”. Từ này không tìm thấy trong các từ điển hiện có, mà chỉ có từ váng với nghĩa là màng mọng, đóng trên chất lỏng như váng cháo, váng mỡ, váng sữa”. Nhưng chữ lại được viết 往 chữ không phải vương. Có thể thấy nhận định của tác giả còn thiếu cơ sở thuyết phục.

Theo chúng tôi đây là chữ [CHỦY]: cái muổng. Trong chữ Nôm, người xưa hay dùng chữ này làm ký hiệu phụ đặt vào trong câu với nghĩa “như trên”, hoặc “lặp lại hoàn toàn như chữ đứng trước. Chữ này trong các bản Nôm in và chép tay, chúng tôi đúc kết lại được hai hình thức khắc sai, đó là VƯƠNG và THƯỢNG. Trong CNNAGN thường bị khắc sai thành THƯỢNG. Vậy GIÁP THƯỢNG tức là GIÁP THỈ tức là GIÁP GIÁP và phiên âm là hẹp hẹp. Từ đó chúng tôi phiên âm lại câu trên như sau:

KHÊ CẢNG: hẹp hẹp lạch ngòi thông thu.

Trên đây là những góp ý về mặt chữ Nôm, chưa đề cầp đến phần mục từ Hán, phần này những sai sót cũng không ít. Sau đây xin nêu ra một vài ví dụ:

1, Câu - THIỀM LUÂN: mặt trăng, hựu danh:

Thủy chuyển, ngọc hồ… (tr.80, d.22)

Thủy chuyển tên này không liên quan gì đến mặt trăng, lại có nghĩa là “nước xoáy”. Vậy nó là chữ gì mà bị nhận diện sai như vậy?

Chúng ta biết rằng, trong các tên gọi của mặt trăng, có tên Băng luân. Ví dụ:

Ngọc câu định thùy quải?

Băng luân liễu vô triệt/ Nguyệt hạ thi/

(Liềm ngọc vì ai móc? Bánh băng lại không lằn)

Có thể Băng luân bị khắc thành thủy chuyển vì chữ băng chỉ cần quên bỏ dấu chấm là thành chữ thủy. Còn chữ luân và chữ chuyển đối với người thợ khắc chữ Hán, nếu lơ đễnh cũng có thể khắc sai chữ này thành chữ kia.

2, Câu - Đặt nên bè nứa: BI SA (tr.87, d.2). Chữ là chữ bi, nhưng lại thêm trúc đầu, không thấy trong chữ Hán. Chỉ có chữ âm BAI trên trúc đầu, dưới chữ ti, có nghĩa là chiếc bè. Vậy có thể vốn là chữ BAI bị viết sai, chứ không phải là BI.

CHÚ THÍCH

(1) Trong bài viết này, chúng tôi có dùng các tài liệu được viết tắt như sau:

CNNAGN: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.

A: Kim Vân Kiều tân truyện. Thành Thái Giáp Thìn,

B: Kim Vân Kiều tân truyện. Trùng san năm Kỷ Mão.

C: Thúy Kiều truyện tường phú. Chiêm Văn Trị. 1966.

HĐ: Nguyệt / 5: Hồng Đức, bài Nguyệt, câu 5.

NKL: Ngọc Kiều Lê của Lý Văn Phức.

K: Kiều.

PT: 231: Phan Trần truyện, Tự Đức Đinh Mão, câu 221.

NT: 34: Ngư tiều vấn đáp, bản chép tay năm 1899, câu 34.

TML: 2a5: Thảo mộc loại, tập thượng, tờ 2a, cột 5, trong Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca.

T.395: Tam thiên tự, chữ số 395.

(2) Từ được viết hoa là mục từ Hán.

(3) Từ in nghiêng là từ đang được đề cập đến.

(4) Chữ viết trong ngoặc vuông [ ] là cách đọc Hán Việt.

(5) Henri Maspéro: Khảo sát về ngữ âm lịch sử tiếng Việt, các thủy âm. Bd.trường ĐHTH Hà Nội.

(6) Chữ viết ph trong phát âm phương ngữ, biểu hiện một âm môi, môi bật hơi gần giống cách phát âm mà Đơrôt đã miêu tả trong từ điển của ông./.

TB

VỀ TỪ "NGÀI" TRONG CÂU THƠ
TRUYỆN KIỀU

NGUYỄN THIỆN CHÍ

Truyện Kiều là một kiệt tác, là “quyển sách một ngàn tâm trạng”(1). Từ ngữ Truyện Kiều là những viên ngọc quý lấp lánh nhiều mầu sắc. Song, hiểu thật thấu đáo, thật chính xác chữ nghĩa Truyện Kiều không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn như đã có hàng chục bài viết tranh luận xung quanh từ “gươm đàn” trong “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” mà vẫn chưa ngã ngũ v.v..

So sánh các bản Truyện Kiều đã xuất bản, ta lại thấy nhiều từ trong một số câu thơ có sự khác nhau. Thẩm định từ nào đúng với bản gốc, đúng với ý định sáng tác thi hào Nguyễn Du, đúng với ý nghĩa câu văn, quả thật không đơn giản. Ở đây có một vấn đề liên quan đến công tác văn bản học, đòi hỏi sự nghiên cứu phải thật khoa học và hết sức công phu. Khó khăn hiện nay như ta đều biết, là chưa tìm được bản chữ Nôm do chính Nguyễn Du viết. Một khó khăn nữa là nhược điểm bản thân của chữ Nôm (một chữ có nhiều cách đọc, một âm có nhiều chữ viết khác nhau).

Bài viết này chỉ xin đề cập từ “NGÀI” trong câu thơ:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
(Từ điển Truyện Kiều Câu 20 - Đào Duy Anh)

Câu thơ trên, tác giả giới thiệu cho ta thấy cái vẻ đẹp ngoại hình của Thúy Vân. Đọc qua câu thơ, ai cũng có ngay cái ấn tượng là Thúy Vân đẹp, song điều cần đi sâu thêm để suy nghĩ là Thúy Vân đẹp như thế nào qua câu “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”.

Trước đây và hiện nay có những cách hiểu khác nhau ở vế cuối câu thơ: “nét ngài nở nang”.

Thiết tưởng việc tìm hiểu, lý giải từ ngài này cho thật chính xác, thật khoa học là một việc làm cần thiết.

Từ “ngài” trong câu thơ trên đã được các nhà nghiên cứu nghĩa giải như sau, xin dẫn ra đây 5 trường hợp tiêu biểu:

1. Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo và chú thích (in lần thứ nhất vào năm 1925):

“Ngài lấy từ điển tích Tướng thư:

Diện như mãn nguyệt, my nhược ngọa tầm = mặt như mặt trăng tròn, mà lông mi như con tằm nằm ngang. Đây là nói về cái tướng phúc hậu của cô Thúy Vân”.

2. Truyện Kiều do Nguyễn Văn Hoàn biên soạn, chú thích, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh Nguyễn Du, 1965, giải thích: “nét ngài: nét lông mày. Ngài: con ngài, tức con bướm tằm, ở đầu nó có hai cái râu dài, thanh, cong cong hình bán nguyệt. Lông mày người con gái trông giống cái râu dài, nên người ta thường tả là mày ngài”.

3. Truyện Kiều do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, 1972:

“Nét ngài: ngài tức con bướm tằm. Đây nói nét ngài là bởi chữ tầm my (mày tằm) hay ngọa tầm my (mày tằm nằm) = nét lông mày cong, đậm mà thanh, chỉ lông mày đẹp nói chung. Xem các câu 927, 1213, 2167. Câu này tả cái vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân”.

4. Từ điển Thúy Kiều của học giả Đào Duy Anh, 1974, giải nghĩa:

“nét ngài: nét lông mày. X. mày ngài. Vd.Nét ngài nở nang. Ngài: thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỉ dụ lông mày. Vd. Nét ngài nở nang 20, 927, 1213, 2167, 2274”.

5. Kiều - Nguyễn Du, Nxb. Văn học, H. 1979 (Văn bản cơ sở và chú giải Đào Duy Anh. Tham gia hiệu đính: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Hoài Thanh, Tuấn Đô) giải thích: “nét ngài nở nang: chỉ nét lông mày nhỏ mà dài như râu con ngài (nga my) là tướng đàn bà nhiều phúc về đường con cái”.

Trên đây, chúng tôi trích nguyên văn cách giải thích từ “nét ngài” của các nhà nghiên cứu, các học giả tiêu biểu qua 5 bản Truyện Kiều đã xuất bản theo thứ tự thời gian. Tựu chung lại, có hai cách lý giải chính:

- Về cách lý giải “lông mày giống như con tằm” (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, còn Đào Duy Anh giải thích nước đôi). Theo ước lệ phong kiến, khi tả về người con gái đẹp, thường là tả sự thanh mảnh, đường nét không có gì thô, từ vóc dáng, đi đứng, cử chỉ, nói năng, đến các bộ phận cơ thể và tay chân, lông mày… cũng vậy. Lông mày phải là lông mày lá liễu mới đẹp, lông mày như con tằm nằm ngang không thể là lông mày của người con gái đẹp được (câu 20). Còn lông mày như hình con tằm hoặc hình chữ nhất thường dành để tả đối với những bậc nam nhi tài học tuấn tú.

Trong Truyện Kiều có tất cả 5 trường hợp tác giả dùng từ “ngài” như sau:

Câu 20: như trên đã dẫn.

Câu 927: Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.

Câu 1213: Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.

Câu 2167: Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao

Câu 2274: Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.

Nếu giải thích lông mày Thúy Vân giống như hình con tằm, như vậy sẽ đồng nhất lông mày Thúy Vân với lông mày của Từ Hải và hạng đàn bàn đĩ điếm.

“Mày ngài” (câu 2167) chú thích của Thạch Giang là “lông mày to đậm như con tằm là tướng người anh hùng. Xem câu 2274” và chú thích “Kiều” của nhóm Đào Duy Anh, Thế Lữ, Xuân Diệu: “Mày ngài: khác với mày ngài ở câu 927, ở đây có lẽ là theo câu “my nhược ngọa tầm”, lông mày giống như con tằm nằm, của sách tướng xưa, chỉ lông mày to rậm”.

Như vậy, rõ ràng lông mày của Thúy Vân không thể nào giống với lông mày của một võ tướng như Từ Hải được.

Vấn đề này còn lại là lông mày của Thúy Vân có giống với lông mày ở câu 927 và 1213 không? Không thể nào giống được. Vì lông mày to rậm là thể hiện hạng đàn bà giang hồ, chỉ “ả gái điếm”, lông mày của Thúy Vân, con gái nhà khuê các làm sao có thể giống với lông mày của loại đàn bà con gái ăn chơi đàng điếm đĩ thõa được.

Vậy “nét ngài” trong “nét ngài nở nang” không thể hiểu là nét lông mày như con tằm nằm ngang được.

- Về cách lý giải “lông mày Thúy Vân giống như cái râu con tằm đã hóa bướm, có đường nét cong, thanh thanh hình bán nguyệt” (chú giải của Nguyễn Văn Hoàn, Thạch Giang, nhóm nhiều tác giả và phần nào trong Từ điển Truyện Kiều):

Thoạt nghe qua, cách giải thích này có thể chấp nhận được, đúng là lông mày người con gái đẹp theo quan niệm thời phong kiến. Ngày nay cũng vậy, các cô gái trang điểm thường phải nhổ tỉa lông mày nếu lỡ may trời đất sinh ra mình lông mày quá to hoặc rậm. Vì rằng lông mày to rậm là xấu xí, các vị tướng số chỉ nhìn qua đã kết luận ngay là hạng con gái đàn bà dâm đãng. Cách chú giải này cũng phân biệt được với nghĩa của từ “ngài” trong câu 927 (mấy ả mày ngài” và câu 2167 (râu hùm hàm én mày ngài).

Song, điều đáng phân vân, khó lý giải ở đây là “nét ngài” kết hợp với “nở nang”, có hiện tượng mâu thuẫn về ngữ nghĩa.

“Nở nang”: Từ điển Việt - Pháp, Génibrel giải thích là “s’ouvrir, s’épanouir, se ditater” tức là nở ra, to ra, xòe ra, loe ra làm trở thành to mập mạp hẳn lên. Đã là nét lông mày cong, dài, thanh như râu con bướm tằm thì không thể nào to, mập mạp được, sự kết hợp ngữ nghĩa “nét ngài + nở nang” trở nên khó hiểu.

Chắc rằng, Nguyễn Du bậc thiên tài gọt giũa từ ngữ, câu văn không thể có sự sơ xuất như vậy được.

Như vậy, “nét ngài” ở câu trên không thể hiểu là lông mày giống như hình cái râu con tằm đã hóa bướm.

Thế thì, “nét ngài” trong nét ngài nở nang nên hiểu theo nghĩa nào cho phù hợp với ngữ cảnh?

Có thể hiểu theo một nghĩa khác. Ở đây “ngài” tức là “người”, nét ngài nở nang nghĩa là nét người nở nang. Có 3 căn cứ sau đây:

a, Về mặt văn bản học: trong nhiều bản Kiều chép bằng chữ Nôm, đều viết “ngài” và “người” như nhau: 圤 hoặc 圡

Bản Kiều của Abel des Michels, Paris, Ernest Leroux éditeur, 1884, câu:

Vân xem trang trọng khác vời,
Tư phong đầy đặn nét ngài nở nang.

Chữ “ngài” viết là 圡.

Bản Kim Vân Kiều tân truyện, Phúc Văn Đường tàng bản, Khải Định Mậu Ngọ (1918), quý đông tân san, cũng câu trên:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Chữ “ngài” viết là 圤.

Ở nhiều bản Kiều , “người” đều viết là 圤 hoặc 圡 . Ví dụ:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Hay

“mỗi người mỗi vẻ…”

Đáng chú ý là bản Kiều quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký (Poeme Kim Vân Kiều truyện, PJB Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, Bản in nhà nước, 1875) viết:

Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang.

Như vậy, về chữ viết thời bấy giờ, “ngài” và “người” viết giống nhau. Mãi về sau mới có sự phân biệt trên văn tự “ngài” được viết có bộ trùng ở bên:猉.

b, Về bản thân tác giả:

Quê quán Nguyễn Du ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh (nay thuộc Nghệ Tĩnh). Ở Nghệ Tĩnh, cho đến nay, từ lớp người trung niên đến người già đều gọi người ngài trong những trường hợp như: mấy ngài (mấy người); hai ba ngài (hai ba người); con ngài (con người) v.v…

Đây là hiện tượng biến thể ngữ âm, có thể tìm thấy khá phổ biến ở phương ngữ Nghệ Tĩnh. Không riêng gì trường hợp ngài - người, mà xảy ra hàng loạt các từ khác, không riêng gì nguyên âm đôi ươ / wә / thành nguyên âm đơn a / я / mà xảy ra ở một số nguyên âm đôi khác. Có thể lập bảng so sánh:

Ngôn ngữ
phổ thông
Phương ngữ
Nghệ Tĩnh
Thí dụ
Nguyên âm đôi
uô/ uo
Nguyên âm đôi
âu / ∂u
Nguyên âm đôi
ươ / шә
Nguyên âm đơn
/o/ つ / nuốt
nguyên âm đơn
/u/u/
nguyên âm đơn
a/ я /
hạt lúa - hạt ló, đau ruột - đau rọt
lời - nót lời, ruộng muối - rọng mói
cậu (em của mẹ) - cụ, mua dầu - mua dù
quả bầu - quả bù, nước sâu - nước su
lửa - lả, ngứa - ngá, nứa - ná
uống nước - uống nác, cái lưỡi - cái lãi
tấm lưới - tấm lái, con người - con ngài

Đây là hiện tượng biến thể ngữ âm lịch sử(3)

c, Về mặt gieo vần: Một vấn đề đáng lưu ý về mặt gieo vần trong Truyện Kiều, nếu chỉ xét riêng cặp câu lục và câu bát gieo vần với nhau, qua thống kê của chúng tôi, kết quả như sau:

ơi gieo vần với ươi: 43 lần

ơi-ơi: 35 lần

ơi -ai: 13 lần

ơi -ôi: 12 lần

ơi-oai: 3 lần

ơi-ui: 1 lần

Như vậy, tần số gieo vần giữa ơi và ươi chiếm tỉ lệ cao nhất. Phân tích ở bình diện ngữ âm học, hiện tượng gieo vần giữa câu lục vời và câu bát người thuận hơn và xuôi tai hơn.

d, Về quy tắc kết hợp và ngữ nghĩa: từ “nét” cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, bên cạnh nghĩa “đường, vạch bằng bút” (ví dụ: nét gạch, nét bút), “nét” còn có nghĩa “dáng vẻ, kiểu”.

Trong Truyện Kiều, qua thống kê, chúng tôi thấy khả năng kết hợp của từ “nét” khá phong phú: nét bút, nét hoa, nét nguyệt, nét xuân sơn, nét thu, nét vàng, nét liễu, nét buồn.

Trong cung oán ngâm khúc có dùng “nét ngọc” (Tỏ mờ nét ngọc, lập lòe vẻ son).

Từ điển Génibrel (1884) có ghi hẳn thành tổ hợp: Nét người nở nang và giải thích: “Ses traits sont d’une beauté parfaite; c’est un fort belhomme = là con người đẹp, khỏe mạnh”. Như vậy: nét người nở nang tức dáng người nở nang, vóc người nở nang.

Về hình tượng nhân vật, Nguyễn Du tuy tả hai chị em Kiều đều đẹp, nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều quá “sắc sảo”, khiến tạo hóa cũng phải ghen tức, báo hiệu một điều chẳng lành cho cuộc đời Thúy Kiều về sau. Còn cái đẹp của Thúy Vân là cái đẹp của con người vô tư, phúc hậu, tạo hóa phải chịu nhượng bộ, cho nên cuộc đời của Thúy Vân xuôi chiều, êm ả. Vì vậy, nếu “nét ngài nở nang” là nét lông mày nở nang thì e rằng không hợp với ý đồ thể hiện con người phúc hậu của Thúy Vân.

Không phải không có lý khi Trương Vĩnh Ký phiên Nôm thành “nét người nở nang”. Như vậy, theo chúng tôi, câu thơ trên nên viết là:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét người nở nang.

CHÚ THÍCH

(1) Dẫn lời Phan Ngọc: “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”.

(2) Gái mày ngài, Femmes aux sourcils de ngài. Les Femes de mauvaise vie ont coutume de donner à leurs sourcils une certaine ressemblance avec cet aniamal (Như vậy, gái mày giống như hình con tằm là để chỉ hạng người con gái không ra gì - N.T.C. Theo từ điển Việt - Pháp, J.F.M. Génibrel Saigon, 1898.

(3) Xem thêm Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước, tr.197./.

TB

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ HAI BÀI "VĂN TẾ SỐNG HAI CÔ GÁI TRƯỜNG LƯU", "THÁC LỜI TRAI PHƯỜNG NÓN" CỦA NGUYỄN DU VÀ BÀI "THÁC LỜI GÁI PHƯỜNG VẢI" CỦA NGUYỄN HUY QUÝNH

NGUYỄN THẠCH GIANG
NGUYỄN HUY MỸ

Như mọi người đều biết, cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII ở vùng Nghệ An có hai làng khá nổi tiếng là làng Tiên Điền (nay thuộc huyện Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh) và làng Trường Lưu (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh) với các nhà văn, nhà thơ của hai họ Nguyễn. Ở làng Tiên Điền có Tiến sĩ Nguyễn Huệ (1705-1733), Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775), Tiến sĩ Nguyễn Khản (1734-1786), các nhà thơ Nguyễn Du (1765-1820), Nguyễn Thiện (1763-1786) v.v… Ở làng Trường Lưu có Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), các nhà thơ Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) v.v… Các nhà văn, nhà thơ của hai làng này đã sớm có quan hệ về gia đình và văn học với nhau, Nguyễn Huy Tự là con trai Nguyễn Huy Oánh và là con rể Nguyễn Khản. Hai bà vợ của Nguyễn Khản là hai chị em ruột, chị là Nguyễn Thị Bành (1750-1773); em là Nguyễn Thị Đài (1752-1819). Đặc biệt sự giao du về văn học đã có sớm, được thể hiện khá rõ ở ba bài Thác lời gái phường vải của Nguyễn Huy Quýnh (3), (4), Thác lời trai phường nón và Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du. Về thời gian sáng tác của hai bài sau có nhiều ý kiến không thống nhất (1), (2), (3), (4). Sau một thời gian sưu tầm, khảo cứu, chúng tôi xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến về ba bài trên.

Trước hết về ba bài này - trong các tài liệu đã dẫn đều khẳng định là của Nguyễn Du và Nguyễn Huy Quýnh, và các anh Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc (2), ông Hoàng Xuân Hãn (1), đều cho là được Nguyễn Du sáng tác trước lúc Nguyễn Du 19-25 tuổi. Theo ông Trương Chính (3), các bài đó được Nguyễn Du sáng tác vào lúc Nguyễn Du đã ngoài ba mươi (1796-1804). Cả hai ý kiến trên đều chưa được xác đáng. Muốn hiểu rõ thêm về thời gian sáng tác của hai bài của Nguyễn Du, ta hãy xem Nguyễn Huy Quýnh đã tặng Nguyễn Du bài Thác lời gái phường vải vào lúc nào.

Nguyễn Huy Quýnh sinh năm 1734 niên hiệu Long Đức thứ 3 đời vua Lê Thuần Tông (1732-1735) tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh.

Viễn tổ của Nguyễn Huy Quýnh là Nguyễn Uyên Hậu đậu khoa Ngũ kinh bác sĩ đời Lê Hồng Đức (1470-1497). Ông tổ chín đời là Nguyễn Hàm Hằng đậu Hương cống (Cử nhân) năm 15 tuổi, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt.

Ông tổ bốn đời là Nguyễn Công Ban đậu khoa Hoành từ đời Lê Chính Hòa (1680-1705) làm tới Giám sát ngự sử, lúc mất được thờ ở đình làng. Cha là Nguyễn Huy Tựu đậu Hương giải (đỗ đầu kỳ thi Hương) làm tới chức Tham chính Thái Nguyên lúc chết được phong hàm Công bộ Thượng thư. Anh là Nguyễn Huy Oánh đậu Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn (1748) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) làm tới chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc và có trứ tác nhiều sách Hán văn (Quốc sử toát yếu, Phụng sứ Yên đài tổng ca, Tiêu Tương bách vịnh, Thạc Đình di cảo v.v…). Nhà thơ Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa tiên gọi Nguyễn Huy Quýnh là chú, Nguyễn Huy Quýnh cũng là ông chú của nhà thơ Nguyễn Huy Hổ tác giả Mai đình mộng ký. Như vậy về mặt quan hệ gia đình Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du đều là bậc chú của Nguyễn Huy Tự, tức là Nguyễn Huy Quýnh ngang hàng với Nguyễn Du, mặc dù ông hơn Nguyễn Du 31 tuổi.

Về cuộc đời riêng của ông, qua một ít tài liệu như sách Nguyễn Thị Gia Tàng, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt sử thông giám cương mục ta biết: lúc còn nhỏ, ông nổi tiếng văn hay chữ tốt, 13 tuổi đầu Tú tài (hiệu sinh), 16 tuổi đậu Hương cống, sau đó thi Hội sáu lần, lần thứ sáu mới đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772) năm Cảnh Hưng thứ 33 (cùng khoa với Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống người xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu). Sau đó ông lĩnh chức Hàn lâm thị giảng. Năm Giáp Ngọ (1774) - Ất Mùi (1775) ông cùng anh là Nguyễn Huy Oánh đều dự việc bình Nam theo chúa Trịnh Sâm (1739-1782). Sách Cương mục chép lúc đóng quân ở Hà Trung, Trịnh Sâm sai ông đem thơ, 100 lạng vàng, 5000 lạng bạc vào cho Hoàng Ngũ Phúc ở Thuận Hóa (5). Sau đó ông chuyển sang ngạch võ, làm Đốc thị Thuận Hóa.

Ngày 15 tháng 5 năm Canh Tý (1780), trước hôm xảy ra vụ án Canh Tý, Trịnh Sâm sai ông làm Tả tư giảng cho Thế tử Trịnh Tông (1763-1786). Hôm sau, Tông bị giam lỏng ở kinh đô, còn phe đảng của Tông mỗi người lẩn trốn mỗi nơi (6). Ông cũng như Nguyễn Điều (1748-1786) Trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Khản sau này đều về quê, chỉ có điều là ông về quê ngay sau khi xảy ra vụ án Canh Tý, còn Nguyễn Khản và Nguyễn Điều mãi đến bốn năm sau (1784) mới về quê.

Ông mất năm 1785, thọ 52 tuổi. Tác phẩm ông còn lại Quảng Thuận đạo sử tập (có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (10), ký hiệu VHv.1375) gồm 88 trang có bản đồ, về lịch sử, địa lý của hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Ngãi, gồm phủ huyện, kho tàng v.v… Ngoài ra còn một số như: 4 tập Dân phong thi ca, 3 tập Văn phong thi ca, 1 tập Nam phương dư địa chí, 1 tập Lục thứ đình vi, bài ca Hi Tổ Nhân vương (Trịnh Cương, 1709-1729) v.v…

Năm 1924, cụ Phó bảng Ba Sĩ và cụ Giải nguyên Lê Thước đã giới thiệu bài thơ Thác lời gái Phường Vải của ông gởi tặng Nguyễn Du. Vậy ông viết vào lúc nào, chắc chắn là sau vụ án Canh Tý ông đã về quê, và đi lại với Nguyễn Du chính là ở giai đoạn này.

Vả lại Trường Lưu bấy giờ rất nổi tiếng với nghề chăn tằm dệt lụa, và do đó văn nhân tụ tập hát ví, hát phường vải. Vào thời gian ấy, từ Giáp Ngọ (1774), trấn Nghệ An dưới quyền cai trị của Hoàng Đăng Bảo rất thịnh vượng (Cương mục trang 18, tập 1,6). Tại làng Trường Lưu, Nguyễn Huy Oánh đã cáo quan về quê năm 1777 (Đinh Dậu) dựng thư viện chứa sách tới vạn quyển, trước sau dạy học trò mấy nghìn người (7), (8). Học trò của Nguyễn Huy Oánh đỗ đại khoa hơn ba mươi vị, làm quan tại triều hơn 50 vị, còn Cử nhân, Tú tài, Tri phủ, Tri huyện không kể xiết (8). Lúc đó Trường Lưu thật là thịnh vượng, ở đây có chợ, có thư viện, là nơi tụ tập qua lại của nhiều văn nhân.

Vả lại ai cũng rõ theo tiểu sử Nguyễn Du, sinh năm 1765, năm 11 tuổi cha mất (1775), năm 13 tuổi mẹ mất (1777) và năm Quí Mão (1783) Nguyễn Du đã ra thi ở trường Sơn Nam và đậu Tam trường lúc 19 tuổi. Chỉ từ sau năm 1784, sau vụ kiêu binh nổi lên phá nhà của Nguyễn Khản, Khản với em là Nguyễn Điều mưu tính trừ kiêu binh không được, mới rút về quê. Năm sau Tây Sơn kéo quân ra Bắc, Nguyễn Khản tự mình đem người nhà vượt biển ra Bắc để cứu viện. Đến tháng 9 Nguyễn Khản cảm bệnh ốm chết ở kinh đô. Còn Nguyễn Điều ở nhà xem xét tình thế trong hạt, rồi mất ở huyện Thanh Chương, Nghệ An vào tháng 7 năm 1786. Chắc lúc này Nguyễn Du không ở Nghệ An. Còn như từ 1786 đền 1789, Nguyễn Du đã kế chân cha nuôi giữ chức quan võ và cuối cùng chạy về quê vợ ở Sơn Nam. Mãi đến năm 1796, Nguyễn Du mới dời về Hồng Lĩnh và ở đây sáu năm, đến năm 1802 thì ra làm quan với nhà Nguyễn. Và Nguyễn Huy Quýnh cũng đã mất trước đó lâu rồi.

Mà thời gian lui tới Trường Lưu của Nguyễn Du lại không phải là ít, đến những gần hai năm:

Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,
Hai năm được mấy lần chung chạ.

Vả lại, theo bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh tặng Nguyễn Du:

Tảng mai Hầu trở về nhà,
Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng.

“Hầu” đây là Nguyễn Du, lúc nhỏ tập tước của cha là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, thường gọi là Du Đức Hầu. Vậy thì rõ ràng Nguyễn Du đã lên chơi và hát ví ở Trường Lưu lúc còn niên thiếu và được Nguyễn Huy Quýnh tặng bài thơ trên thông qua cô gái hát phường vải - hoặc cô phường vải đã tặng Nguyễn Du bài thơ trên dựa theo lời kể chuyện của Nguyễn Huy Quýnh, trước lúc Nguyễn Du ra Sơn Nam. Vậy thì ở đây ta thấy rõ Nguyễn Huy Quýnh làm bài thơ tặng Nguyễn Du chỉ có thể trước năm 1783, chính xác hơn là vào khoảng từ 1780-1783 trước lúc Nguyễn Du đậu tam trường và tập tước quan võ của cha nuôi.

Bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh theo thể lục bát, có nhiều câu chỉ đến địa điểm ở trên đường đi từ Tiên Điền đến Trường Lưu “Trương Hống, Đò Cài”… Cô phường vải tặng Nguyễn Du, theo lời thơ của Nguyễn Huy Quýnh, bài thơ trên nói lên tình cảm nhớ mong Nguyễn Du. Đặc biệt tác giả dùng những từ về các dụng cụ dệt vải để tả cảnh cô gái vì nhớ mong mà không muốn làm công việc của mình:

Khi lên để rối cho nhau,
Khi về trút một gánh sầu về ngay.
Xua buồn từ nớ lại hay
Nào ai mó đến xa quay xin thề.

Sau đó, Nguyễn Du đã đáp lại, cùng là một bài thơ lục bát, bài Thác lời trai phường nón, tức là trai làng Tiên Điền, làng này vốn có nghề làm nón, trả lời bài Thác lời gái phường vải là gái Trường Lưu. Đó cũng là bức thư tình và chan chứa tình cảm. Những câu:

Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa hỡi thế này,
Tiếng xa nghe vẫn rù rì bên tai.

đều là xuất phát tự đáy lòng của những người đang yêu, đang đợi chờ, đang mong nhớ.

Thể thơ lục bát rất được các văn sĩ Trường Lưu - Tiên Điền ưa chuộng. Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, Mai đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ, Thác lời gái phường vải của Nguyễn Huy Quýnh, Thác lời trai phường nón của Nguyễn Du đều là theo một thể thơ trên - thể thơ lục bát chữ Nôm. Vậy hai bài này được sáng tác vào khoảng 1780-1783 lúc Nguyễn Du 16-19 tuổi.

Còn bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu được sáng tác vào lúc nào?

Chúng ta hãy theo dõi lại câu chuyện từ đầu. Về câu chuyện hát ví và tình cảm của Nguyễn Du với hai cô gái Trường Lưu chúng tôi đồng ý với ông Hoàng Xuân Hãn và các anh Hoàng Đức Yên, Nguyễn Lộc là có thực. Tương truyền một số cụ già trong làng còn nhớ rõ những cảnh trong làng được Nguyễn Du nhắc đến trong bài, và hai nhân vật chính O Uy, O Sạ đến nay con cháu vẫn còn ở các làng khác.

Thời đó đã có O Uy, O Sạ cũng như sau này có O Liễu, O Đào cùng khá nổi tiếng trong làng phường vải.

Vậy thì bài thơ thứ ba này được sáng tác vào lúc nào? Có phải vào lúc Nguyễn Du ở lứa tuổi 19-25 (2) hay là sau 32 tuổi như ý cụ Trương Chính (3). Về điểm này chúng tôi đồng ý với cụ Trương Chính là bài này được Nguyễn Du sáng tác vào thời gian từ 1796 đến 1802, lúc Nguyễn Du dời về Hồng Lĩnh. Lúc này Nguyễn Du không còn là một chàng trai mười chín, đôi mươi nữa, mà tuổi đã ngoài ba mươi, tóc đã có sợi bạc, đã có vợ và có con rồi.

Theo bài này, gần hai năm Nguyễn Du thường lên hát ví ở làng Trường Lưu với bạn bè “quan họ”. Lúc đó ở làng Trường Lưu nhiều anh em bà con cùng lứa tuổi với Nguyễn Du như Nguyễn Huy Vịnh (1768-1818) nổi tiếng văn hay chữ tốt, tác giả cuốn Nguyễn Thị gia tàng, Nguyễn Huy Tá (sau làm Phó đốc học Quốc tử giám triều Nguyễn), Nguyễn Huy Hào (Tri huyện Tiên Lữ) v.v…

Nguyễn Du đã quen biết hai cô gái là O Uy, O Sạ, là hai cô gái khá nổi bật trong các cô gái hát ví ở Trường Lưu, vào hội cờ giêng hai, hai cô này thường được kén vào “con mã” nên càng được nhiều người chú ý.

Quang cảnh hát ví ở Trường Lưu thật là vui vẻ, tấp nập:

Quây ngoài sân thì trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa.

Léo trên giường thì, quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông lấy áo trùm đầu, cao bằng mãn tọa.

“Quan họ” ở đây là con em họ Nguyễn Huy bạn bè của Nguyễn Du, “Đội thế thần quan họ trong làng, cũng mang tới cân trà quá đá” và những cảnh:

Đêm đêm thường hát ví xôn xao,
Ai ai cũng trầu cau đãi đọa

Kéo dài những hai năm:
Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,
Hai năm được mấy lần chung chạ

Sau những đêm hát ví Nguyễn Du ra về, O Uy, O Sạ đã gởi gắm tình cảm của mình qua bài của Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du cũng đáp lại bằng tình cảm chân thành:

Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.

Ấy thế mà rồi, trai trong làng phá đám, cũng là trâu buộc ghét trâu ăn, cho nên tối đến là:

Trai trong làng rình bốn mặt chan chan,
Chó làng xóm sủa năm canh xa xả

Một hôm họ thổi tắt đèn, rồi đốt lói, một thứ pháo làm bằng ống tre, tộng thuốc súng vào và suýt nữa xảy ra ẩu đả:

Phụt ngọn đèn trước mắt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm.
Đùng tiếng lói sau nhà, đù mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.

Nếu không có sự phá đám của trai làng thì Nguyễn Du - cậu ấm con quan ở trong hoàn cảnh xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng không thể lấy những cô gái hát ví được...

Nguyễn Du hiểu điều đó, và chắc là O Uy, O Sạ cũng hiểu điều đó, họ có tình cảm với nhau, đó là tình cảm yêu thương của những đôi trai gái mới lớn lên mà thôi. Còn như chuyện có tình cảm với hai cô một lúc thì cũng chả có gì là lạ, chàng Kim của Nguyễn Du đã từng lấy hai cô Kiều, Nguyễn Huy Tự chẳng đã có cảm tình với cả hai cô gái của Nguyễn Khản đó sao, và những chuyện suýt ẩu đả như vậy đã để lại tai tiếng cho Nguyễn Du:

Ta đã đành mắc tiếng thày lay
Ả cũng hóa ra người đĩ thõa

và sau đó, vào dịp tháng sáu, cả hai O Uy, O Sạ đều lấy chồng, cũng không có gì là lạ, nơi hỏi cũng xứng đáng, một người là nông dân, một người là lính và Nguyễn Du tất nhiên lại trở về với con đường công danh, học hành của mình. Trong mấy câu tiếp, Nguyễn Du có ý hờn dỗi, trách móc hai cô và không ít thì nhiều cũng có ý châm biếm hai người chồng của hai cô: "tiếc người ấy gieo mình vào đồng lúa, túc túc gà; gẫm thằng kia là tướng giữ nương dưa, đùng đùng quạ".

Một đứa thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì,
Một đứa thì cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ há".

và Nguyễn Du về dùi mài kinh sử, đi thi và học ở phương Bắc cho một đến mười mấy năm sau:

Mười mấy năm sau, bên Tiên Điền:
Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên

(Ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan nát, đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau).

Ở đây Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Huệ, Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất cả, một số lưu lạc đi nơi khác, một số chống lại Tây Sơn và bị giết như Nguyễn Quýnh (1759-1791), một số theo Tây Sơn như Nguyễn Nễ (1751-1805) (anh cùng mẹ với Nguyễn Du).

Bên Trường Lưu Nguyễn Huy Quýnh đã mất (1785), Nguyễn Huy Oánh đã mất (1789), Nguyễn Huy Tự đã từng cầm cờ chiếu của vua Quang Trung đi gặp các thân sĩ trong vùng (9) và theo giúp vua Quang Trung làm tới chức Hữu thị lang Bộ binh (8) và đã ốm chết (1791), ở Trường Lưu nhiều người chống lại Tây Sơn (như Nguyễn Huy Hào, Tri huyện Tiên Lữ v.v...) làng mạc bị tàn phá, anh em "quan họ" ly tán khắp nơi. Chính vào thời gian này Nguyễn Du đã lên thăm lại làng Trường Lưu:

Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần,
Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khỏa.

Nhưng còn đâu là cái cảnh tình đẹp đẽ hồi xưa nữa, mà cũng con đường đó, lúc trước hăm hở bước đi bao nhiêu thì nay:

Đường cửa Trẹm mỗi ngày một ngái, bóng câu tiếng suối, núi giăng giăng, con mắt đã mòn;

Điếm trên làng càng ngắm càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thăm thẳm mặt người đã nhóa.

Hắt hiu gió trúc mưa mai,
Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.

Nhưng Nguyễn Du vẫn lên thăm, vì dẫu sao cũng còn ít nhiều bạn bè cũ:

Vì quan họ nên chúng ta mộ đứa, bạn hữu quen còn đến rủ bao nhiêu.

Và Nguyễn Du đã bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, tìm đến thăm người cũ thì:

Nói đến tên thì đã gọi mụ nọ mụ kia, may mắn bấy trồng sung ra vả.

Gần 20 năm rồi còn gì nữa (1780-1783 đến 1896-1802); O Uy, O Sạ nay đã thành mụ nọ, mụ kia (ở đây cần lưu ý bạn đọc là ở vùng Trường Lưu, Can Lộc tiếng "mụ" dùng để chỉ người đàn bà có con lớn gần thành vợ thành chồng chứ chưa lên đến chức bà). Và tiếng tăm "thày lay" của Nguyễn Du cũng chẳng còn vương lại bao nhiêu, nhà cửa của các O đã:

Cửa nhà mình đã bưng kín như buồng,
Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.

Phong cảnh ở đây chả khác gì phong cảnh cũ, nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, người xưa còn đâu:

Nhân duyên xưa, bẻ ngó lìa cành,
Phong cảnh cũ, vàng cây héo lá.

và Nguyễn Du nhớ lại:

Tưởng những lúc tắt đèn dạy chuyện, dứt câu này nối câu khác, trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;

Nhớ đến khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong, giọt bên chái như tầm như tã.

Nguyễn Du nhớ lại, hồi tưởng lại, Nguyễn Du làm bài văn này để nhớ lại O Uy, O Sạ kể chuyện tình cảm xảy ra gần hai mươi năm về trước lúc Nguyễn Du chưa tới hai mươi tuổi, và qua đó gửi gắm ít tâm sự. Đó là nội dung bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu.

Chỗ này xin nhắc lại là tương truyền sau khi bài văn này ra đời, Nguyễn Du không lên chơi Trường Lưu nữa vì hai câu:

Trai trong làng rình bốn mặt chan chan;
Chó hàng xóm sủa năm canh xa xả.

"Trai trong làng" đối với "chó hàng xóm" Nguyễn Du đã làm cho trai làng Trường Lưu (ngoài "quan họ") tức giận và hò hẹn nhau nếu Nguyễn Du còn lên chơi sẽ đón đánh. Vậy bài văn này được sáng tác vào quãng 1796-1902, sau hai bài trước gần 20 năm.

Cụ Trương Chính cho rằng lúc bé Nguyễn Du ít sống ở Tiên Điền. Theo ý chúng tôi Nguyễn Du sống ở Tiên Điền khá lâu, vì lẽ thứ nhất như đã trình bày ở trên, ở Tiên Điền và ở Trường Lưu lúc thời Nguyễn Du có trường học lớn của Tiến sĩ Nguyễn Huệ, của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Vả lại Nguyễn Nghiễm mất lúc Nguyễn Du còn bé (1775) mà trước đó hai năm, Nguyễn Khản đã thay cha (Nguyễn Nghiễm) giữ chức Tham tụng ở phủ chúa, cho nên chắc chắn là Nguyễn Nghiễm đã về quê vào những năm cuối của đời mình. Bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du sinh năm Canh Thân (1740), kém Nguyễn Nghiễm 32 tuổi, chắc là cùng với các con theo Nguyễn Nghiễm về quê ở Tiên Điền, chứ không ở lại kinh đô với Nguyễn Khản (Nguyễn Khản hơn bà Trần Thị Tần 6 tuổi), cho nên cũng như các vợ lẽ khác của Nguyễn Nghiễm: Nguyễn Thị Xuyên, Nguyễn Thị Xuân, Phạm Thị Diễm, Hồ Thị Ngạn, Hoàng Thị Thược chắc chắn hoặc là về quê nhà, hoặc là về Tiên Điền với Nguyễn Nghiễm vào khoảng cuối đời của Nguyễn Nghiễm. Vậy lúc bé Nguyễn Du sống và học ở quê nhà là hợp lý. Nguyễn Nghiễm không thể không biết tiếng Nguyễn Huy Oánh với "Phúc Giang thư viện", với hơn 30 vị Tiến sĩ là môn sinh, việc Nguyễn Du theo học ở đây hoàn toàn phù hợp với thời gian và hoàn cảnh. Vả lại Nguyễn Huy Oánh đi sứ năm Ất Dậu (1763) và mang về rất nhiều thơ, sách, bằng chữ Hán của Trung Quốc. Ta không loại trừ khả năng Nguyễn Huy Tự đã đọc Đệ bát tài tử Hoa tiên ký để sáng tác truyện Hoa tiên, cũng như khả năng Nguyễn Du đã đọc Truyện Vương Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân để sáng tác Truyện Kiều ở đây - lại tại Trường Lưu - ở thư viện Phúc Giang của Nguyễn Huy Oánh.

Trong bài văn trên, Nguyễn Du đã dùng rất nhiều tên, ranh giới miền đất núi Hồng sông Lam, phải là người sống khá lâu ở đây mới am hiểu tường tận như vậy để có thể vận dụng vào thơ văn được.

Thơ lục bát đạt tới đỉnh cao với Truyện Kiều, nhưng đồng thời với Truyện Kiều Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, Mai đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ, Hy tổ Nhân vương của Nguyễn Huy Quýnh cũng đều theo thể lục bát. Trước đó, đã có Phụng sứ Yên đài tổng ca của Nguyễn Huy Oánh cũng theo thể lục bát nhưng khác với các tác phẩm trên, tác phẩm sau cùng bằng chữ Hán. Những tác phẩm trên nhất định có ảnh hưởng đến Truyện Kiều.

Thứ nữa trong ba bài này phần lớn những câu ca dao tục ngữ ghép lại, đối nhau chan chát, có một câu lục bát vần bằng đối với một câu lục bát vần trắc.

Trong Truyện Kiều, nhiều lắm cũng chỉ tìm được dăm ba tiếng xứ Nghệ. Nhưng không vì thế mà khẳng định Nguyễn Du lúc bé sống ở Bắc, cho nên khi sáng tác rất ít dùng tiếng xứ Nghệ. Bởi vậy ngay những người xứ Nghệ khi viết văn cũng ít ai dùng tiếng xứ Nghệ, trái lại họ cố tránh đi, thỉnh thoảng thấy dăm ba tiếng là vì vô ý, chứ còn thì viết "tiếng kinh" cho lời văn được rộng rãi. Văn của Hoa tiên, của Mai đình mộng ký đều vậy. Nhưng ở ba bài này từ đầu chí cuối nhà thơ chủ yếu dùng toàn tiếng xứ Nghệ, làm cho ba bài này có phong vị riêng, người nơi khác đọc thấy trúc trắc, khó hiểu và không cho là hay, chỉ riêng người xứ Nghệ vùng Tiên Điền, Trường Lưu mới lấy làm thú vị. Âu cũng là một cách viết của Nguyễn Du, Nguyễn Huy Quýnh vậy. Chỗ này cũng xin nhấn mạnh, phải là những người sống lâu năm, từ bé ở xứ Nghệ, mới có thể làm được những vần thơ nhiều tiếng xứ Nghệ như vậy.

Đặc biệt ở hai bài Thác lời gái phường vải Thác lời trai phường nón, các tác giả dùng những từ nói riêng của hai nghề làm nón và dệt vải: xa, quay, cưỡi, bàn đạp, thoi, ác, trục, hoa, chẽ, giằng, quạng, vành xa, khổ go v.v... của nghề làm vải và lịp, tơi, vọt, sườn, hẹ móc, dang v.v... của nghề làm nón; và thông qua tả cảnh dệt vải, làm nón nói lên tình cảm của những đôi trai gái yêu nhau.

Qua những ý trình bày trên ta thấy bài thứ ba trong số ba bài này được Nguyễn Du viết vào khoảng cuối của những năm lưu lạc của mình ở quê, trước lúc ra làm quan với nhà Nguyễn, có nghĩa là gần năm 1802.

Tóm lại theo ý chúng tôi bài Thác lời gái phường vải của Nguyễn Huy Quýnh và Thác lời trai phường nón của Nguyễn Du được viết vào quãng từ năm 1780 (Canh Tý, Cảnh Hưng năm thứ 41) đến năm 1783 (Quý Mão, Cảnh Hưng năm thứ 44), vào lúc Nguyễn Huy Quýnh 47-50 tuổi và Nguyễn Du 16-19 tuổi. Câu chuyện tình ở mức "Cảm tính" giữa Nguyễn Du và O Uy, O Sạ là có thực. Còn bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu được Nguyễn Du viết vào quãng 1790-1802 (thậm chí vào những năm cuối của các năm đó) tức là bài sau cách hai bài trước quãng 16-22 năm, lúc Nguyễn Du 32-33 tuổi.

Có ý kiến mới đây cho rằng bài Thác lời gái phường vải là của Nguyễn Huy Phó (1765-1838) cùng thời với Nguyễn Du làm. Tác giả cho rằng vì hai lý do:

1, Nguyễn Huy Quýnh hơn tuổi Nguyễn Du nên không phải là bạn hát ví;

2, Hoặc có thể một người khác, có thể là Nguyễn Huy Phó, bởi vì ông nổi tiếng văn hay chữ tốt.

Theo ý chúng tôi, ý kiến trên không xác đáng bởi hai lẽ: Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du trong thứ bậc gia đình là cùng vị trí (đều là chú của Nguyễn Huy Tự và hai bà vợ của ông) vả lại khi đi hát ví thường không phân biệt lứa tuổi mà thường chú ý thứ bậc trong gia đình. Nguyễn Huy Phó không thể bẻ câu "Tảng mai Hầu trở ra về". Hai nữa theo gia phả, sau khi Nguyễn Huy Tự về quê, trong gia đình các con lớn đều đi các nơi lập nghiệp (Nguyễn Huy Phó tập tước của cha là Lại Lĩnh bá, đậu Giải nguyên triều Lê, lên Hưng Hóa, Nghệ An, con thứ Nguyễn Huy Vinh (1767-1818) lên Thanh Chương lập nghiệp. Trong thời gian đó Nguyễn Huy Phó không có ở quê. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin trình bày tóm tắt các ý kiến về ba bài trên: tác giả, thời gian sáng tác, nội dung câu chuyện, theo bảng 1 và biểu đồ thế thứ về quan hệ hai họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Huy Trường Lưu. Để tiện, chúng tôi lấy ký hiệu bài Thác lời gái phường vải là bài một, Thác lời trai phường nón là bài hai, bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu là bài ba:

Về thiời gian Về câu chuyện Về tác giả
Trương Chính 1796-1802
(cả 3 bài)
Hư cấu Nguyễn Du
và Nguyễn Huy Quýnh
Hoàng Xuân Hãn Trước 1789
(cả 3 bài)
Có thực
Hoàng Hữu Yên,
Nguyễn Lộc
Trước 1783
(cả 3 bài)
Có thực
Chúng tôi Bài 1,2: 1780-1783
Bài 3:1796-1802
Có thực

Họ Nguyễn Tiên Điền Họ Nguyễn Huy Trường Lưu
Nguyễn Huệ
(1705-1733)
Tiến sĩ
(dạy học)
Nguyễn Nghiễm
(1708-1775)
Tiến sĩ, Quận công Tả tướng
Nguyễn Huy Oánh
(1713-1789)
Thám hoa, Thượng thư (Phúc Giang thư viện, dạy học)
Nguyễn Huy Quýnh
(1734-1785)
Tiến sĩ
Đốc thị
Nguyễn Du
(1765-1820)
(Truyện Kiều)
Nguyễn Khản
(1734-1786)
Tiến sĩ
Quận công
Nguyễn Huy Tự
(1743-1791)
Hoa tiên
Nguyễn Thị Đài (1752-1819) Nguyễn Thị Bành
(1750-1773)
Nguyễn Huy Hổ
(1783-1841)
Mai đình mộng ký
Nguyễn Huy Vịnh
(1786-1838)
Nguyễn Thị gia tàng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Xuân Hãn: Nguồn gốc Truyện Kiều, Tạp chí Thanh Nghị - Số Xuân, tháng 2 -1943

2. Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, H. 1962,

3. Trương Chính: Hương hoa đất nước, Nxb. Văn học, H. 1979, tr.204.

4. Phan Dĩ Bảng, Lê Thước: Truyện cụ Nguyễn Du tác giả truyện Thúy Kiều, H. 1924.

5. Việt Sử thông giám cương mục, Tổ biên dịch Viện Sử học Việt Nam biên dịch và chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, H. 1958, tr.43 (tập 19).

6. Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, H. 1984.

7. Lịch sử Nghệ Tĩnh: Tập 1, Nxb. Nghệ Tĩnh, tr.192.

8. Bùi Dương Lịch: Nghệ An ký.

9. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Thư viện Quốc gia xuất bản, 1970, tr.378.

10. Quang Thuận đạo sử tập (VHv.1375) của Nguyễn Huy Quýnh.

11. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức: Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại), Nxb. KHXH, H. 1971.

12. Nguyễn Thị gia tàng (tài liệu chữ Hán).

13. Nguyễn Thám hoa gia phổ ký (tài liệu tham khảo)

14. Nguyễn Lộc./.

TB

CẦN PHẢI XÁC ĐỊNH LẠI GIÁ TRỊ
BÀI TỰA KIM VÂN KIỀU ÁN

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Các tác phẩm văn học cổ điển của ta có nhiều quyển cần phải xác định lại khoảng thời gian sáng tác. Việc xác định này phải dựa vào những tài liệu thật đúng đắn. Người chủ trương giả thuyết nào dù muốn bênh vực cho chủ trương của mình cũng phải chân thành, tôn trọng tính khoa học, không được cắt xén tài liệu để bóp méo sự thực đi.

Chúng tôi xin lấy ngay cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du ra làm một thí dụ để chứng minh.

Truyện Kiều, tức Đoạn trường tân thanh trước đây vẫn được nhiều người bằng vào sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập mà cho rằng Nguyễn Du đã được đọc sách Kim Vân Kiều truyện trong khi đi sứ sang Trung Quốc và sau khi trở về mới viết ra quyển Đoạn Trường tân thanh.

Nhưng từ khi Đào Duy Anh viết bài Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh vào lúc nào? đăng trên báo Đại Việt số 13 ngày 13 tháng 4 năm 1943 và tạp chí Tri Tân số 96, ngày 20 tháng 5 năm 1943, đồng thời cũng có in trong quyển Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư, Huế, 1943(1), thì giả thiết ấy đến nay được nhiều nhà nghiên cứu văn học tin theo.

Trong bài báo ấy, Đào Duy Anh đã bày tỏ những lý lẽ khiến ông nghi ngờ sách Đại Nam chính biên liệt truyện và gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, để tin theo bài Tựa sách Kim Vân Kiều án được Hoa Bằng dịch và cho đăng trên tạp chí Tri Tân số 85, ngày 4 tháng 3 năm 1943, tr.4 và 5.

Nguyên văn bài dịch của Hoa Bằng như sau:

"... Mỗ sinh không gặp thời, phải thất học, nhưng từng được nghe về Kim Vân Kiều quốc ngữ truyện: xưa nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu in bản Thực lục (?) đã lưu hành khắp chỗ, từ trước đến nay. Kíp đến quan Đông các (trỏ cụ Nguyễn Du) nước ta phu diễn ra quốc âm, truyền rộng ở đời, nhiều người đã được tai nghe mắt thấy. Chẳng những văn nhân tài tử mắt nhìn truyện ấy thì tâm thần vui tươi khoan khoái, mà đến cả hạng bố cu mẹ đĩ hễ miệng đọc thì cũng khoa chân múa tay. Bấy giờ tôi đương lênh đênh giang hồ, dâu bèo trôi giạt, sau khi đọc xong rồi, thì lại vô tâm không nghĩ đến.

Mùa đông năm Canh Dần (1830), tôi bị hạ ngục, suốt ngày ngôi ngây, không biết lấy gì để khuây khỏa. Nhân thường đọc Truyện Kiều Nôm, may cũng lĩnh hội được lời lẽ, rồi ngẫm kỹ về văn chương. Thiết tưởng trong 1575 câu thật là lời văn liền nối, tình tự tinh công, dẫu Bằng Quận công (Nguyễn Hữu Chỉnh) và Long lĩnh hầu (?) ngày xưa cũng khó lòng giữ riêng được cái hay ho tốt đẹp mà không san nhường? Như bọn tôi đâu dám tầm chương trích cú mà so sánh được?

Nhưng xét ra nhân vật trong truyện: hoặc đáng yêu vì tài, hoặc đáng khen vì nghĩa, hoặc đáng tiếc vì nết, hoặc đáng thương vì tình, lại có người tính xấu đáng làm gương răn, có kẻ lòng ác đáng ghét. Vậy thì lưỡi gươm ba thước giữ vô tư, há dung tội ai mà bàn sơ được? Cái án năm trăm năm còn để đó, vẫn phân xử chưa ổn thỏa rõ ràng!

Vậy theo luật lệ của quốc triều, tôi xin xét rõ chân tình khiến cho án các nhân vật khỏi đọng lại ở dưới ngàn năm. Bởi thế, tôi quên mình quê kệch, xin trình bày văn án ra đây để chuốc lấy trò cười"(2).

Đào Duy Anh đã căn cứ vào bài Tựa Kim Vân Kiều án trên để cho rằng:

1. Nguyễn Văn Thắng là người đồng thời với Nguyễn Du (đậu Cử nhân khi 23 tuổi, năm 1825, sau khi Nguyễn Du mất 5 năm) nên những lời ông nói về sách của Nguyễn Du rất có thể đáng tin.

2. Nguyễn Văn Thắng được đọc sách của Nguyễn Du lúc bị hạ ngục "mùa đông năm Canh Dần" (cuối năm 1830), ông đã gọi Nguyễn Du là "quan Đông các, ông chỉ có thể dùng danh hiệu ấy nếu bản Đoạn trường tân thanh ông được đọc (ông được đọc lần đầu tiên là năm 1830) có ghi ở trên tên tác giả Đông các học sĩ.

Ví dụ: Đông các học sĩ Nguyễn Du soạn.

Nếu có mấy chữ ấy thì ta có thể tưởng rằng, tưởng một cách có thể gọi là chắc chắn được, Nguyễn Du viết sự tích Thuý Kiều trong khi còn làm quan ở chức Đông các nghĩa là trước khi đi sứ.

3. Nguyễn Văn Thắng cho rằng: "Xưa nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu in bản Thực lục đã lưu hành khắp chỗ từ trước đến nay" ông nói từ khi quan Đông các phô diễn ra quốc âm thì được truyền rộng ở đời mọi người ai cũng thích đọc, thích xem.

Đào Duy Anh cho rằng "Nếu sách ấy mãi khi Nguyễn Du đi sứ mới đem về - năm 1814, cách khi Nguyễn Văn Thắng được đọc Đoạn trường tân thanh có 16 năm - thì hẳn chưa có thể "lưu hành khắp chỗ, từ trước đến nay" được.

Vì lẽ đó ông cho rằng Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã có ở nước ta trước khi Nguyễn Du đi sứ.

Qua ba lý do trên, Đào Duy Anh đã chủ trương giả thuyết Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh khi mới bắt đầu ra làm quan với nhà Nguyễn, khoảng từ 1802 đến 1809.

Ông cũng nêu các lý do để nghi ngờ các tài liệu khác.

Đối với sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép rằng: "ông (Nguyễn Du) giỏi quốc âm. Đi sứ Tàu về thì có Bắc hành thi tập Thúy Kiều truyện hành thế", ông Đào Duy Anh đã cho là:

- Sách Liệt truyện sơ tập soạn ở đời Tự Đức, sau năm Tự Đức thứ 5, tức là sau khi Nguyễn Du mất đến 30 năm cũng có thể chép sai.

- Sách Liệt truyện sơ tập không chép tân chính là Bắc hành tạp lục Đoạn trường tân thanh mà lại chép theo khẩu truyền là Bắc hành thi tập Thúy Kiều truyện: ông căn cứ vào hai lý do ấy để kết luận rằng: "Sách Liệt truyện tuy là quốc sử cũng không đủ cho ta tin. Ông còn nhấn mạnh thêm "Thực lục cũng còn có chỗ chép sai huống là Liệt truyện".

Đối với gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, ông Đào Duy Anh cũng nêu các lý do để nghi ngờ vì:

- Gia phả cũng là do người đời sau chép nên lòng tin chỉ có giới hạn.

- Gia phả có chép sai quyển Lê quí kỷ sự của Nguyễn Thu 阮亻收 mà cho là của Nguyễn Du 阮 攸 .

- Gia phả chỉ nói khi đi sứ về, Nguyễn Du có Bắc hành tạp lục thi tập, còn Đoạn trường tân thanh thì gia phả kê vào với các tác phẩm khác mà không nói làm vào năm nào.

Đào Duy Anh đã cho rằng Liệt truyện Gia phả chép không giống nhau: đó là một điều làm vững mối nghi ngờ của ông rằng cuốn Đoạn trường tân thanh không phải đã được viết ra sau khi đi sứ về.

Với những mối nghi ngờ ấy ông chủ trương giả thiết rằng cuốn Đoạn trường tân thanh được viết ra lúc Nguyễn Du mới ra làm quan với nhà Nguyễn, khoảng từ 1802 đến 1809.

Ông đã theo bài Tựa Kim Vân Kiều án của Nguyễn Văn Thắng để đưa ra giả thiết.

Nhưng nếu ông bảo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền có một điểm chép sai, thì ông có xem lại bài Tựa Kim Vân Kiều án có bao nhiêu điểm chép sai không? Nếu bài Tựa ấy có nhiều điểm chép sai thì tài liệu ông dùng có giá trị gì không? Chúng tôi xin nêu ra mấy sai lầm như sau:

- Sai lầm về nhà xuất bản: nhà Quán Hoa đường đã xuất bản cuốn Kim Vân Kiều truyện, chứ không phải nhà Ngũ Vân Lâu.

- Sai lầm về tên sách: sách gọi là Kim Vân Kiều truyện chứ không phải là Thực lục.

- Sai lầm về chức vị của Nguyễn Du: các bản Kim Vân Kiều tân truyện (Đoạn trường tân thanh) đều ghi Lễ tham Nguyễn hầu soạn, không có bản nào ghi là Đông các học sĩ Nguyễn Du soạn(3) cho dù Nguyễn Du có soạn cuốn Đoạn trường tân thanh lúc còn làm Đông các học sĩ thì cũng phải ghi chức tước của ông, khi in cuốn truyện. Khi Phạm Quí Thích cho in cuốn truyện ấy thì Nguyễn Du đã làm Tham tri Bộ Lễ rồi.

Cũng như bản Kim Vân Kiều án của Nguyễn Văn Thắng được soạn ra lúc ở trong tù, nhưng khi in đã đề là "Thanh Hóa Tham hiệp Nguyễn Văn Thắng soạn".

- Sai lầm về số câu trong truyện Đoạn trường tân thanh: Truyện của Nguyễn Du viết dài 3254 câu (hoặc 3256 câu) chứ không phải chỉ có 1575 câu như Nguyễn Văn Thắng đã nói. Nếu cho là 1575 liên thì 1575x2 cũng chỉ mới có 3150 câu.

- Sai lầm khi cho rằng bản Thực lục của nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu đã lưu hành khắp chỗ từ trước đến nay: sự thực thì bản Kim Vân Kiều truyện của Quán Hoa Đường đâu có lưu hành khắp chỗ như vậy. Chính ngay vua Minh Mạng mà còn phải viết rằng:

Thánh Thán bất phùng, hàn yên tán mạn(4).

(Thánh Thán không gặp, khói hương tàn lạnh).

Vì chưa được thấy cuốn Kim Vân Kiều truyện của Tàu nên vua Minh Mạng mới viết nhầm là "Thánh Thán trước" (Thánh Thán soạn).

Thực ra cuốn Kim Vân Kiều truyện là do Thanh Tâm Tài Nhân soạn, nhà Quán Hoa Đường xuất bản, nhưng mạo đề là "Thánh Thán ngoại thư" cho sách có giá trị lên.

Cuốn Kim Vân Kiều truyện là một cuốn sách rất tầm thường mà lại bị coi là dâm thư thì làm gì mà phổ biến sâu rộng được sang cả nước ta.

Ông Đào Duy Anh còn cho rằng "Có lẽ bấy giờ đã có bản của người mình phiên khắc nữa" (?).

Nếu có thì vua Minh Mạng làm gì mà không có kẻ đem dâng nạp.

Đào Duy Anh lại lầm lẫn khi nói rằng Nguyễn Văn Thắng "đã được đọc lần đầu" cuốn Đoạn trường tân thanh lúc bị giam ở ngục mùa đông năm Canh Dần - 1830.

Sự thực, theo bài Tựa Kim Vân Kiều án thì Nguyễn Văn Thắng đã được đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du từ khi còn "đương lênh đênh giang hồ dâu bèo trôi giạt", nhưng "sau khi đọc xong rồi lại vô tâm không nghĩ đến".

Khi bị giam trong ngục là lần ông đọc lại Truyện Kiều và lần này "suốt ngày ngồi ngây không biết lấy gì để khuây khỏa", ông mới ngẫm nghĩ về văn chương, lãnh hội được lời lẽ để viết nên bản Kim Vân Kiều án.

Ông Đào Duy Anh dùng bài Tựa bản Kim Vân Kiều án ấy làm tài liệu để bênh vực cho giả thiết của mình, nhưng đã cắt xén, bỏ qua các sai lầm mà chỉ căn cứ vào có mỗi một điểm là chức vụ của Nguyễn Du "Quan Đông các" để lập luận.

Nhưng mấy chữ "Quan Đông các" đó đâu phải là được ghi trên bìa truyện mà chỉ là lời nghe nói lại. Nguyễn Văn Thắng sự thực đã viết:

"Mỗ sinh không gặp thời, phải thất học, nhưng từng được nghe về Kim Vân Kiều quốc ngữ truyện: Xưa nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu in bản Thực lục (?) đã lưu hành khắp chỗ từ trước đến nay. Kíp đến quan Đông các nước ta phu diễn ra quốc âm, truyền rộng ở đời, nhiều người đã được tai nghe mắt thấy".

Những lời nghe nói lại ấy của Nguyễn Văn Thắng toàn là những điều sai (như đã nói ở trên) thì bài Tựa bản Kim Vân Kiều án còn có giá trị gì nữa.

Vì những lý lẽ vừa trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy giả thuyết của ông Đào Duy Anh cho rằng Nguyễn Du đã viết Đoạn trường tân thanh lúc làm Đông các học sĩ là không có cơ sở vững chắc. Ông đã bênh vực cho giả thuyết ấy và đã bác bỏ giả thuyết cho rằng "Nguyễn Du đã viết Đoạn trường tân thanh sau khi đi sứ về".

Ông nói rằng "Nếu sách ấy mãi khi Nguyễn Du đi sứ mới đem về - năm 1814, cách khi Nguyễn Văn Thắng được đọc Đoạn trường tân thanh có 16 năm- thì hẳn chưa thể lưu hành khắp chỗ, từ trước đến nay" được(5).

Điều nhận xét này của Đào Duy Anh cũng sai vì theo bài Tựa Kim Vân Kiều án thì Nguyễn Văn Thắng đã được đọc Truyện Thuý Kiều của Nguyễn Du từ trước khi bị hạ ngục năm 1830, lúc ông còn "đương lênh đênh giang hồ, dâu bèo trôi giạt". Nhưng lần ấy "sau khi đọc xong", ông "lại vô tâm không nghĩ đến".

Thành những lời nhận xét của Đào Duy Anh cũng không đúng đối với bài Tựa bản Kim Vân Kiều án.

Ông lại ngờ vực Đại Nam chính biên liệt truyện cho rằng có thể chép sai mà không đưa ra một lý do nào vững chắc cả.

Ông chỉ ngờ rằng sách chép sau khi Nguyễn Du mất đến 30 năm thì có thể sai.

Nhưng ông Lê Thước cho biết vị quan chép sử đó chết già tại chức thì cũng là người đồng thời với Nguyễn Văn Thắng. Nếu Truyện Kiều đã phổ biến rộng rãi trước khi Nguyễn Du đi sứ thì làm gì vị quan chép sử ấy không biết. Vậy Đại Nam chính biên liệt truyện vẫn là một tài liệu trung thực hơn cả. Không có sai lầm gì khi chép về Nguyễn Du.

Trong bài này chúng tôi chưa nói về giả thuyết Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh sau khi đi sứ về, mà sẽ để dành cho một dịp khác.

Chúng tôi chỉ muốn chứng minh ở đây là tài liệu mà ông Đào Duy Anh dùng, tức bài Tựa bản Kim Vân Kiều án không được chính xác, có nhiều sai lầm nên không đáng tin. Do đó giả thiết cho rằng Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh từ khi mới ra làm quan với nhà Nguyễn, hồi giữ chức học sĩ - Đông các là không hợp lý và không thể chấp nhận được.

CHÚ THÍCH

(1) Nêu ra giả thuyết Nguyễn Du đã viết Đoạn trường tân thanh từ khi mới ra làm quan với nhà Nguyễn, khoảng từ 1802 đến 1809.

(2) Nguyên văn bằng chữ Hán. Mộc bản có khắc nhiều chữ sai lầm. Tôi nay theo bản tân san năm Khải Định thứ 6 mà dịch thoát lấy ý, chứ không câu nệ từng chữ (Hoa Bằng).

(3) Ghi như vậy là sai: nếu thực là Nguyễn Du viết cuốn Đoạn trường tân thanh lúc làm Đông các học sĩ thì cũng phải ghi: Đông các học sĩ Nguyễn hầu soạn. Không ai ghi tên mà chỉ ghi tước thôi.

(4) Bài Tổng thuyết về Truyện Kiều.

(5) Ngay thời Minh Mạng quyển Đoạn trường tân thanh đã khó kiếm (Hoa Đường dĩ viễn, phá bích tiêu điều bản (Hoa Đường đã vắng, vách cũ tiêu điều) - Tổng thuyết về Truyện Kiều./.

TB

GÓP PHẦN ĐÍNH CHÍNH
THƯ MỤC VỀ VŨ PHẠM KHẢI

NGUYỄN VĂN HUYỀN
PHẠM VĂN THẮM

Chúng tôi có việc phải tìm hiểu, khai thác các tác phẩm của Vũ Phạm Khải (1807-1872), một tác giả nổi tiếng của quê hương Hà Nam Ninh, ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Theo dõi thư mục Hán Nôm (mục lục tác giả) do Ban Hán Nôm in rô-nê-ô năm 1977, hiện để tại phòng đọc Viện Hán Nôm, sau khi đọc kỹ các tác phẩm của Vũ Phạm Khải được giới thiệu trong đó, chúng tôi thấy bản thư mục còn một số sai lệch thuộc về tác giả này như sau:

1. Về bộ sách "Ngu Sơn văn tập", ký hiệu VHv.265/1-14: theo thư mục Hán Nôm (mục lục tác phẩm) bản in rônêô năm 1971, thì bộ này gồm 14 tập, nhưng thực tế ở thư viện chỉ có 13 tập. Đối chiếu với mục lục sách ở tập 1, quyển 1, thì bộ sách này gồm 18 quyển, thiếu tập 12. Số lượng tập và số lượng quyển không trùng hợp với nhau, vì có tập đóng gộp hai quyển như tập 5 gồm hai quyển 5 + 6, tập 8 gồm hai quyển 9 + 10, tập 9 gồm hai quyển 11 + 12. Tập 11 có quyển 14 (nguyên bản có số quyển 15, con số 15 được điền vào bằng bút mực). Vậy tập thiếu đó gồm hai quyển, mà đối chiếu với mục lục đó là quyển 15 và 16.

Xem tiếp các tác phẩm khác của Vũ Phạm Khải, chúng tôi thấy có tập Ngu Sơn văn tuyển, ký hiệu VHv.1792. Trang đầu sách có dòng chữ khắc gỗ màu đỏ: "Trường Đại học tổng hợp tặng, ngày 5-1-1960). Tờ thứ hai có ghi đầu đề "Ngu Sơn văn tuyển, quyển chi thập ngũ". Tờ thứ 40 có ghi "Quyển chi thập lục" (nguyên trước khi thập ngũ và được sửa lại là thập lục). Cả hai quyển này đều chép các trước tác thuộc thể Luận của tác giả, tương ứng hoàn toàn về thể loại và cả tổng số bài được ghi trong mục lục đã nói trên. Vậy thì đây đúng là quyển 15, quyển 16 mà ta thấy còn thiếu trong bộ Ngu Sơn văn tập, Ký hiệu VHv.265/1-14. Tập Ngu Sơn văn tuyển ký hiệu VHv.1792 chính là tập 12 trong số 14 tập của Ngu Sơn văn tập.

Bộ sách này có 18 quyển, đúng ra chỉ có 17 quyển là tác phẩm của Vũ Phạm Khải, ứng với điều đã được ghi trong Đại Nam thực lục, rằng năm 1873- sau khi ông mất - "Tú tài Vũ Kế Xuân dâng 17 quyển thơ văn của cha là Vũ Phạm Khải làm ra" (bản dịch, tập XXXII, trang 209). Còn quyển số 18 là các bài văn thơ câu đối của người đương thời thù tặng hoặc mừng, viếng tác giả được tập hợp lại như một phụ lục.

2. Về cuốn sách Lịch đại sử luận, ký hiệu A.175: thư mục Hán Nôm (mục lục tác giả) để vào mục do Vũ Phạm Khải biên tập. Đúng ra cuốn này mang tên đầy đủ là Ngự chế lịch đại sử tổng luận. Sách do chính Thiệu Trị biên soạn, tóm tắt và tổng luận về lịch sử cổ đại và trung đại Trung Quốc, có ý để cho các hoàng tử, hoàng thân và chư thần tham khảo, học tập. Đầu sách có bài tựa do các quan viên Nội các là Nguyễn Bá Nghi, Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải, Lê Chân soạn. Dù tán thành cách nói của thư mục, cho là Vũ Phạm Khải "biên tập" đi nữa (thực ra ông chỉ là một trong số người ở Nội các tham gia biên tập xuất bản bộ sách này) thì khi làm thư mục, cũng phải giữ đầy đủ tên sách như nó đã có: "Ngự chế lịch đại sử tổng luận".

3. Về cuốn Lịch đại chính hình thông khảo, ký hiệu A.1670. Cuốn này cũng được Thư mục Hán Nôm (mục lục tác giả) xếp vào phần biên tập của Vũ Phạm Khải cùng với cuốn lịch đại sử luận, mặc dù ngay dưới nhan đề ở đầu sách, đã có hàng chữ: "Đông Dương Vũ Phạm Khải hiệu biên". Xem kỹ suốt cả nội dung sách, không hề thấy dấu hiệu nào là do người khác làm mà ông chỉ là biên tập. Đã là toản tu Sử quán, Lang trung bộ Hình, việc biên khảo về luật và lệ ở các triều đại Việt Nam trước đó kể cũng đúng với chức trách lắm chứ! Vậy phải coi cuốn này là trước tác của chính Vũ Phạm Khải.

4. Về cuốn Dưỡng Trai tập ký hiệu A.429: cuốn này được Thư mục Hán Nôm - (mục lục tác giả) xếp vào loại "Có bài trong sách", theo chúng tôi hiểu là một hợp tuyển có tác phẩm của Vũ Phạm Khải hoặc là một tác phẩm của tác giả khác được ông viết tựa, bạt, bình hoặc được trích dẫn. Nhưng đối chiếu các tác phẩm trong đó với các tác phẩm khác của ông được chép trong các sách Ngu Sơn văn tập đã nói đến ở trên (Đông Dương văn A.2082, Phượng trì Đông Dương tiên sinh văn tập, VHv.1822. Tổ tiễn hợp tập A.317, Ỷ nghĩ tùng lục A. 432...) được thư mục Hán Nôm ghi là của ông thì hóa ra tất cả các tác phẩm trong sách được đối chiếu đều thấy có mặt trong sách đem đối chiếu. Riêng với Ngu Sơn văn tập, VHv.265/1-14 có thể coi là bộ tập đại thành hầu hết các tác phẩm đủ mọi thể loại của ông, thì tác phẩm trong Dưỡng Trai tập trùng hợp hầu hết, thậm chí có nhiều thể loại trùng hợp khít từng phần với thứ tự các bài ở sách trên. Vậy không còn nghi ngờ gì nữa, Dưỡng Trai tập đích thực là của Vũ Phạm Khải, phải đặt lại nó vào phần tác phẩm của ông.

Có điều là tại sao sách này lại có tên Dưỡng Trai tập? "Dưỡng Trai" là tên hiệu của Vũ Phạm Khải trong thời gian ông bị giáng chức, về quê phụng dưỡng và cư tang cha mẹ (1848-1865, 1859-1864). Phải chăng đó cũng là thời gian ông có điều kiện thư rỗi, tập hợp các tác phẩm đã viết của mình thành bộ sách này, tất nhiên là chưa đầy đủ. Dự đoán này được minh định thêm bằng sự thiếu vắng các tác phẩm ông viết ở giai đoạn sau, khi ông được cử làm Bố chính Thái Nguyên, góp phần chiêu an bọn phỉ Đặng Chí Hùng, từ đó dẫn đến tai tiếng và cái chết uất hận của ông (1870-1872).

Tất cả những điều nêu trên chỉ muốn đi tới một đề nghị, nếu có dịp làm lại thư mục Hán Nôm, xin đính chính, điều chỉnh lại những trường hợp trên./.

TB

MỘT BÀI HỊCH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC CUỐI THẾ KỶ XIX

TRƯƠNG CHÍNH
ĐINH XUÂN LÂM

Đó là bài Hịch văn thân ngày mồng 2 tháng 2 năm Tự Đức thứ 27 (đối chiếu Dương lịch là ngày 19.3.1874). Tư liệu này hiện được bảo quản tại Lưu trữ Quốc gia Pháp ở thành phố Aix (Aix en Provence) miền Nam nước Pháp, kho Hải ngoại (A.O.M), phông các Đô đốc (Fonds des Amiraux), số hiệu 11649(1). Đây không phải bản gốc, mà là bản sao, chữ Hán viết rất chân phương và đẹp. Cuối bài không đứng tên cá nhân, hay tổ chức nào. Nhưng căn cứ vào ngày viết bài hịch (19.3.1874) và đối chiếu với tình hình Việt Nam trước sau năm 1874 cũng như liên hệ nội dung tư tưởng bài hịch với thực tiễn phát triển của phong trào hồi đó, có thể khẳng định bài hịch này ra đời tại vùng Nghệ Tĩnh, gắn liền với cuộc khởi nghĩa của văn thân Nghệ Tĩnh do Trần Tấn và Đặng Như Mai lãnh đạo, bùng nổ mãnh liệt ngay sau khi triều đình Tự Đức ký hiệp ước năm Giáp Tuất (15.3.1874), tiến sâu thêm một bước nữa trên con đường khuất phục đầu hàng giặc. Nội dung bài hịch có điểm đáng chú ý. So với các bài kêu gọi ra đời trong giai đoạn đầu chống Pháp ở miền Nam (1859-1876), cũng như trong giai đoạn chống Pháp ở miền Bắc và miền Trung (1873-1884)(2), tuy các phong trào này đều nằm trong phạm trù phong kiến, mục tiêu hướng tới là bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập, nhưng do sự phân hóa kịch liệt của giai cấp phong kiến Việt Nam trước sự tấn công hung bạo của chủ nghĩa đế quốc Pháp nên mức độ chống phong kiến của các phong trào có biến đổi khác nhau qua các giai đoạn. Nếu như trong giai đoạn đầu kháng chiến ở miền Nam (1859-1862), tính chất chống phong kiến còn dừng lại ở mức độ oán trách "triều đình khí dân" ký hàng ước năm 1862 dâng 3 tỉnh đông Nam Kỳ cho giặc, thì đến giai đoạn thứ hai kháng chiến ở hai miền Bắc-Trung (1873-1884), tính chất đó đã được nâng lên một bước mới. Trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất năm 1874 đã khẳng định "phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây", cố nhiên đây tuyệt nhiên không phải là đánh đổ triều Nguyễn, mà chỉ chống lại bộ phận đầu hàng trong triều đình Huế do chính vua Tự Đức cầm đầu vừa ký thêm hàng ước năm 1874 nhượng đứt 3 tỉnh tây Nam Kỳ cho giặc.

Một điểm mới khác trong nội dung bài hịch này là thái độ chống công giáo vô cùng kịch liệt. Tất nhiên ở đấy phải kể tới sự phản ứng của tầng lớp văn thân sĩ phu mang nặng tư tưởng Nho giáo, nhưng riêng nguyên nhân đó không đủ giải thích sự bùng nổ quyết liệt của phong trào "Bình tây sát tả" thời kỳ này. Chỉ có thể giải thích hiện tượng đó bằng việc vạch rõ đến lúc này, lợi dụng thái độ nhu nhược đầu hàng của triều đình Huế, các giáo sĩ Pháp và một số giáo dân dưới quyền đã trắng trợn đẩy mạnh các hoạt động chống đối, tiếp tay đắc lực cho đội quân viễn chinh Pháp trong việc mở rộng đánh chiếm các nơi. Sự câu kết giữa quân Pháp với một số giáo dân lại còn được triều đình Huế dung túng, bao che, tiếp sức. “Bình Tây” là đúng, nhưng "Sát tả" thì hoàn toàn sai. Chính sách sai trái đó chỉ có lợi cho kẻ thù dân tộc vì việc không có sự phân biệt thích đáng đã gạt tất cả những người theo đạo Cơ đốc lúc đó về phía đế quốc. Chúng ta sẽ thấy đến thời kỳ Cần Vương (1885-1896), sai lầm đó đã được hạn chế, khắc phục về cơ bản những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào như Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân... đều nhận thức rõ và đã tránh được những sai lầm đáng tiếc trước đó.

Sau đây là phần phiên âm và dịch nghĩa bài Hịch văn thân nói trên để các nhà nghiên cứu văn học và sử học tham khảo.

Phiên âm:

Văn thân hịch tuyển sao ký

Tự Đức nhị thập thất niên nhị nguyệt sơ nhị nhật.

Cái văn: Thệ đồng cừu nhi bào trạch, ngô Nho địch khí chi hùng phong; tạm đầu bút nhi nhung nhiên, quân tử dụng quyền chi năng cử.

Nghĩa như năng vãng, Chung Quân do thả thỉnh anh; đạo hữu khả hành, Tổ Địch thượng văn kích tập.

Cái tang bồng hồ thỉ, nam tử sơ tâm; nhi nghĩa phủ nhân can, thiên hạ vô địch.

Thẩn tư Gia-tô nhập vu ngã quốc: Ngữ kỳ thuật, tắc xưng thiên xưng thánh, lủng ế ngu mông; ngữ kỳ giáo, tắc vô phụ vô quân, khuyển dương tộc loại.

Xả khúc trực dĩ ngôn cường nhược, mạn khoa bác khả phá sơn; ứng trung dũng nhi thiệp ba đào, lãng thuyết thuyền năng nhập thủy.

Tự Đinh Tị duyên biên vi hoạn, phong đản tứ kỳ xương cuồng; kinh nhung thần phấn lữ nhi tiền, thú dĩ thư kỳ cuồng phệ.

Phụng Hoàng thượng phấn nhiên canh đoạn, phương dục hữu vi; nại hà nhân tự nhĩ thâu an, cẩu cầu vô sự.

Tấn đại phu chi sách lập hỗ lợi nhi hại tùy; Tống tướng quốc chi mưu, kiếm nhất hoà nhi ngạnh khởi.

Toại sử Tây huynh Nam đệ, nhẫn cam thành hạ chi minh; giáp quyển nhung tàng, thùy phấn quân trung chi dũng.

Dẫn chiên cầu vu quốc ấp, kê thê phượng tập ngưu hỗn ký quần; nhập tinh xú vu bang đình, hổ bị khuyển khi, long vi hà hí.

Lục tỉnh chi thần dân hà tội, hàm oan nhi diện cách triều đình; nhất phương chi thủy hỏa thùy tô, tố khổ nhi thanh đằng vũ trụ.

Hạ xuân đài nhi đồ thán, sĩ dân cô hiệp đạo chi hoài; ly thiên nhật nhi âm hàn, phụ lão thất cử phan chi vọng.

Huống hựu: Trưởng ác bất thoan, vi hại thậm đại.

Sách tăng tuế tệ, dương tiêu bản quốc cao chi;

Sức yết đao đường, âm dụ ngã bang lê thứ.

Tư tạo ngã tỉnh, yết lệ đạo đồ; phụ thỉ mẫu khuyển chi phong, tự ô danh giáo; Chu lợi Giê-du chi thuyết, phục uế thính văn.

Bi kỳ cảm nhĩ hoành hành, ngã diệc khởi nhiên an tọa !

Dữ kỳ lâm thần thảng thốt, đồ di hậu sự chi ưu; hà như tảo cập đồ hồi, dụng hiệp tiên ưu chi nghĩa.

Phù! Khuyển dương nan tín, cầm độc nan thân.

Vị đốn Hán dương, Kim Tiêu Tống thỉ.

Ngã nhược khai môn nghênh khấu, miễn thủ dĩ tòng; bỉ tương vu mãng phục nhung, phệ tê hà cập!

Thỉnh quí liệt mộc tục hưu phong, tao phùng thịnh thế. Hoặc triều đình quan tước, dự tại giản tư, hoặc khoa mục trung nhân, tằng kinh hoa lục. Hoặc viên tử, ấm tử, quan thanh nhi ti lập giai ân;

Hoặc thí sinh, khóa sinh, thánh trạch nhi chương tương thức hóa. Dĩ chí phú gia vật lực, quân hoàng cực chi dụng phu. Tổng lý dương hào, tinh hoàng ân chi phổ cập.

Hữu từ khả chấp, Chu Công phương thả ưng chi; kiến nghĩa bất vi, Khổng Tử viết vô dũng giả.

Miễn dịch hàn thu chi tiết, dụng trinh kình thảo chi phong, chỉnh ngã bằng đồ, tiễn bi vũ dực.

Sử Tây tặc vô môn khả nhập, nhi dương di hà xứ đắc lai?

Lý Cương bãi triều, nhi Thái học nho sinh kiến cổ; Bào Tuyên hạ ngục, nhi bác sĩ chi tử đệ cử phan.

Huống sự thuộc an nguy; lự quan đắc thất.

Cổ kim cộng phẩn, thiên địa bất dung.

Phàm hữu trung nghĩa chi tâm, sinh nhi tự hứa.

Cẩu vi xã tắc chi lợi, tử thả bất từ.

Tuy kim nhật vi chỉ hành sự, dụng tri đắc tội ư cửu trùng;

Đệ hậu lai phục khuyết thính chu, do đắc tấu công ư liệt thánh.

Vô khả đồ ngôn, thủ vụ ngoại địch.

Chí như kế tương an xuất, lánh hữu hậu ngôn.

Cảm cáo đồng minh, nguyên phù minh giám.

Dịch nghĩa:

Hịch văn thân

Tự Đức ngày mồng hai tháng hai năm 27(3) Nghe nói:

Có chung kẻ thù cùng thề chiến đấu, vốn nhà Nho noi truyền thống hùng anh; thề quẳng nghiên bút mà cầm lấy gươm giáo, là quân tử phải ra tay hành động.

Việc đạo nghĩa, Chung Quân(4) cũng đội mũ tòng chinh; Tổ Địch(5) cũng vỗ chèo giết giặc.

Hồ thỉ tang bồng, ấy chí nam nhi; theo nghĩa theo nhân, thiên hạ vô địch.

Huống nay, đạo Gia-tô đã lọt vào bờ cõi.

Cầu nguyện thì xưng Trời xưng Thánh, thật là đui điếc ngu si;

Giảng rao thì vô phụ vô quân, đúng là loài dê loài chó.

Bỏ lẽ phải ỷ vào sức mạnh, hết khoe khoang đại bác phá núi phá thành;

Quên điều ngay cậy ở tài năng, lại huyênh hoang tàu đồng vượt sóng vượt gió.

Từ Đinh Tị(6) nước ta lâm nạn, chúng nó hoành hành;

Võ quan phấn phát tiến lên, bầy thú dữ phải thôi gào rú.

Thánh thượng một bề kiên quyết, hăng say giết giặc, ai dám cầu an.

Ngẫm mà xem:

Đại phu Tấn(7) chỉ lo mối lợi nên hại nước hại nhà;

Tướng quốc Tống(8) nhất thiết nghị hòa mới gay go rắc rối.

Tây anh, Nam em cam tâm thề thốt dưới thành;

Cởi giáp qui hàng, dũng khí đâu còn mà đánh?

Bọn di địch tràn vào khắp nước, gà phượng cùng đàn ngựa trâu lẫn lộn;

Giống hôi tanh xông chốn miếu đình, hổ bị chó khinh nhờn, rồng bị tôm đùa giỡn.

Lục tỉnh(9) có tội tình gì, phải ngậm oan tách khỏi triều đình.

Một phương chìm trong nước lửa, tiếng kêu khóc vang trời dậy đất.

Xa nền thịnh trị, rơi xuống bùn đen, sĩ dân đi vào ngõ tắc;

Khuất ánh mặt trời, sống trong u ám, phụ lão hết hướng vươn lên.

Huống chi:

Chúng nó hoành hành, ta càng tổn hại.

Vơ vét thuế má, ta phải kiệt quệ hao mòn;

Xây dựng nhà thờ, ta thành bầy chiêm nô lệ.

Truyền đạo chúa Giê-du Cờ-rít, gai mắt bẩn tai;

Coi mẹ cha như chó như heo, xỉ nhục danh giáo.

Chúng cứ nghiễm nhiên ngang ngược;

Ta há nhẫn nhục ngồi yên?

Buổi đầu chểnh mảng, sau phải âu lo;

Hãy sớm lo toan, tìm đường ngăn chặn.

Ai tin được bọn chó dê, ai thân được loài cầm thú?

Chúng là dê nhà Hán, lợn nhà Tống.

Ta mở cửa đón vào, cúi đầu nghe theo,

Chúng sẽ đóng khắp nơi, bấy giờ đã muộn.

Hỡi những ai từng sống an nhàn, gặp thời thịnh trị!

Hoặc là bậc chức tước trong triều, hay ở chốn nha môn,

Hoặc là hàng khoa giáp bảng vàng, đã từng bổ dụng,

Hoặc là viên tử ấm tử, tiếng tăm, lương bổng là của vua ban,

Hoặc là khóa sinh, thí sinh, tổng lý, phú hào, thảy đều chịu ơn mưa móc.

Lời nói phải lẽ, Chu Công(10) cũng hăng hái nghe theo,

Chuyện nghĩa không làm, Khổng Tử(11) cho là hèn nhát !

Lúc này cần người dũng cảm, cần kẻ kiên trinh,

Hãy siết chặt hàng ngũ.

Khiến giặc Tây không lối mà vào; cho bọn Dương di(12) không nơi mà đến.

Xưa Bào Tuyên(13) tống ngục, con em bác sĩ phất cờ!

Lý Cương(14) bỏ triều, nho sinh Thái học nổi trống.

Huống chi chuyện an nguy được mất, xưa nay phẫn nộ, trời đất không dung.

Phàm người trung nghĩa, sống phải biết liều mình;

Vì lợi ích nước nhà, chết cũng không từ chối.

Nay hành động không có chiếu chỉ, vốn biết có tội với cửu trùng(15);

Dù cúi đầu đành chịu chu di, vẫn có công dâng lên liệt thánh(16).

Không thể nói suông mà chịu lăng nhục;

Còn như mưu kế, thì sẽ tính sau.

Xin cùng thề thốt,

Nguyện hãy xét soi !

CHÚ THÍCH

(1) Gần đây, trong cuốn Đế quốc Việt Nam đối diện với nước Pháp và Trung Quốc (L'Empire vietnamien face à la France et à la Chine) của tác giả Yoshiharu Tsuboi cũng có giới thiệu tư liệu này trong phần phụ lục cuối sách (Nxb, L'Harmattan, Paris, 1987, tr.275-277). Nhưng chủ yếu là dịch thoát ý, nên không phản ánh được hết nội dung của bài hịch, đó là chưa nói có khi dịch sai ý.

(2) Như bài Hịch Quan Định ở miền Nam, bài Hịch sĩ phu kêu gọi chống Pháp ở miền Bắc, và Nghệ Tĩnh nghĩa dũng di văn ở miền Trung.

(3) Đối chiếu dương lịch là ngày 19-3-1874.

(4) Chung Quân: Người đời Hán Võ Đế, từng sang thuyết vua nước Nam Việt quy phụ nên bị Lữ Gia giết.

(5) Tổ Địch: Người đời Tấn, khi qua sông đã gõ mái chèo thề không đánh tan giặc thì không trở về.

(6) Năm 1858 dương lịch.

(7) Đại phu nhà Tấn (chưa xác định được tên) vì quá chú ý tới mối lợi nên đã để giặc ngoại xâm tràn vào.

(8) Tần Cối giữ chức tướng quốc nhà Tống là phần tử chủ hòa nên đã để mất nước vào tay quân Kim

(9) Chỉ Nam Kỳ hồi đó chia làm 6 tỉnh.

(10) Chu Công: tên là Đán, người đời Chu, định ra chế độ lễ nhạc, đặt ra nghi thức quan hôn, tang tế.

(11) Khổng Tử: tên là Khâu, người nước Lỗ là ông tổ đạo Nho.

(12) Dương di: Chỉ bọn xâm lược Pháp từ bên kia đại dương tới.

(13) Bào Tuyên: Đời Đông Hán có loạn đảng tranh, sau khi Bào Tuyên bị tống ngục thì các gia đình quyền quý nổi dậy chống giặc.

(14) Lý Cương: người đời Tống, chống giặc Kim

(15) Cửu trùng: chỗ ở của vua.

(16) Liệt thánh: Các vua đời trước của triều đại đang trị vì (đây là triều Nguyễn)./.

TB

THƠ ĐỀ HANG "HỔ GẦM" VÀ LỜI DẪN

LƯU ĐÌNH TĂNG

Động Hổ Gầm trong núi Hổ, huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh, náu mình giữa vùng bình nguyên bao la trù phú. Năm 1866, Huyện doãn huyện Vụ Bản Nguyễn Tuân Phủ dẫn thủ hạ đến thăm núi Hổ. Nhân nghe thấy tiếng động núi vang vọng như tiếng thú rừng gầm rú, ông bèn cho phát đường mở lối leo lên và tìm thấy động này. Cảm hứng trước cảnh thiên nhiên kỳ thú, huyện quan Tuân Phủ liền ngâm thơ đề vịnh, nhân tên núi mà đặt tên động là động Hổ Gầm, rồi sai thừa phái Ngô Thúc Hựu viết lời dẫn. Thơ và dẫn đều được khắc lên vách núi, hiện nay vẫn còn. Chúng tôi sao lục toàn văn và chuyển sang tiếng Việt để bạn đọc cùng thưởng thức một nét đẹp của đất Sơn Nam xưa. Toàn văn là:

Từ động ư tư thổ,
Danh động nhân sơn thủ,
Tiểu viên tủng kỳ bàng,
Huyền trân lưu phạn vũ.
Thiều nghiêu thúy lĩnh gian,
Trực dục khai môn hộ,
Ức tắc cửu bất thông,
Năng ngôn ưng cảm nộ.
Toạii sử phi mông tùng,
Tầm đắc nhai nhai cổ,
Thiên ngoại phục quần sơn,
Thử trung thùy tác chủ?
Ma nhai thạch khả san,
Tư sơn chân thị Hổ.

(Hương đình Nguyễn Tuân Phủ đề)

Nam Định vi danh hạt, bình nguyên ốc dã, nhất vọng thiên lý, phi lâm uất cương man, khê hác chi địa, toại vô danh sơn nhược động. Tự Đức Bính Dần, Vụ Bản Huyện doãn tùy sở hiếu du Hổ sơn, đắc kỳ động, danh chi viết: Hổ Khiếu. Động dĩ sơn danh, Khiếu dĩ động danh, Doãn kỳ hiếu hồ tai. Danh bất khả hiểu, cẩu hữu hiếu giả nội vô sở tổn ư kỷ, ngoại vô sở tổn ư nhân, tư diệc khả hiếu dã dĩ.

Doãn xuất vọng tộc, đăng dĩ bản... di kỳ sở hiếu ư thanh sắc, ngoạn hiếu hóa cụ, xa dư cẩu mã chi phụng tụ yên, hà cầu bất hoạch... chi ngoại ? Hoặc phần hương đàn cầm, vi kỳ, đầu hồ, do bất mãn kỳ sở hiếu ? Hựu tầm nhất tiểu sơn, đắc nhất tiểu động nhi lặc chi danh? Doãn dĩ động nhi truyền ư tư thổ, doãn kỳ chân năng hiếu danh hồ tai !

Thị động tại thông cù chi trắc, phi tuấn nham u tịch, nhân tích sở bất đáo giả. Đãn hiếu chi giả tiễn, tương chung ư đằng la kinh cức trung, tức tại kỳ bàng, mạc chi văn kỳ danh dã. Kim doãn đắc nhi hiếu chi, hiếu nhi danh chi. Trị sự chi hạ, dữ tân tá thời du tự động. Xuất nhi đăng cao phú thi dã, nhập nhi đối cửu đương ca dã.

Vân yên tước mật, Doãn phần hương dã,
Tùng phong sưu lưu, Doãn đàn cầm dã,
Thạch hưởng tung tranh nhi khanh ngân,
Doãn vi kỳ, đầu hồ dã.
Động chi thắng, Doãn chi lạc
Thành hữu tương đắc nhi tương thành chi.

Doãn chi hiếu chi khả dã. Doãn sơ lị Hải Dương Thủy Đường, du Long sơn đắc Lê Trạng chi độc thư xứ tắc bi chi, du Dương Nham động đắc Phạm Sư Mạnh “Vân Thạch thư thất" tứ đại tự, tắc mô chi. Nghi hồ du tư sơn nhi danh tư động dã. Ức dư tư chi: Sĩ nhi hiếu danh, hữu đạo giả bất vi dã. Nhiên hiếu danh thậm nhi công tùy chi, khả dĩ thí vu thời thùy vu hậu. Kỳ thị phú quí nhi dĩ giả hà như ? Doãn ư danh hiếu chi, năng tu chi, danh tương bất độc dữ thử động truyền. Nhược nhiên, danh khả hiếu hồ, bất khả hiếu hồ ? Hữu khả hiếu nhị bất khả hiếu hồ ?

Doãn ký danh thị động, đề chi thi, dư vị chi ký. Doãn Thanh Hóa, Hương Khê nhân, tính Nguyễn tự Tuân Phủ, hữu chính sự, năng văn chương. Tiên khảo, tích phụng sứ, danh văn thượng quốc.

Tạm dịch:

Động đây ở đất đây,
Gọi tên theo núi đó.
Núi con đứng kề bên,
Diệu huyền ngôi phạn vũ.
Hang thẳm giữa núi xanh,
Như là thông lối ngõ.
Tịt mít lối chẳng thông,
Nói vang như giận dữ.
Bèn cho mở lối lên,
Tìm ra hang động cổ.
Ngoài trời còn núi non,
Động này ai là chủ?
Mái đá núi đề thơ,
Núi này đích thị Hổ.
(Hương đình Nguyễn Tuân Phủ đề).

Nam Định là vùng đất vốn rất nổi tiếng, đồng ruộng mênh mông trông xa ngàn dặm, chẳng có núi non hiểm trở, khe suối hắt hiu, vì thế ai nghĩ rằng nơi đây lại có hang sâu động thẳm. Năm Bính Dần (1866) đời Tự Đức, Huyện doãn huyện Vụ Bản đến chơi Núi Hổ, tìm thấy hang động, bèn đặt tên là động Hổ Gầm. Tên động gọi theo tên núi, Gầm chỉ là riêng tên động. Thế thì có phải Huyện doãn ham danh hay không? Danh không thể ham muốn được, thế nhưng nếu như ham muốn mà bên trong không tổn hại thân mình, bên ngoài không làm tổn hại đến người khác thì cũng có thể ham được.

Huyện doãn vốn dòng dõi vọng tộc thế gia, thi đỗ làm quan, có thể ham muốn vào các việc vui chơi, nhã nhạc, sắc dục, hàng hóa, ngựa xe, cần gì phải tìm thú vui ở đâu khác nữa. Có khi lại thấy đốt hương, gảy đàn, đánh cờ, uống rượu, thế thì chẳng phải đã thỏa mãn hết mọi ham muốn rồi ư, sao lại đến chơi một ngọn núi nhỏ mà tìm ra một ngôi động nhỏ để khắc chữ đề tên ? Động nhờ Huyện doãn mà có tên, Huyện doãn nhờ động mà nổi tiếng khắp vùng, vậy thì Huyện doãn thực sự ham danh rồi chăng?

Ngôi động này nằm kề ngã tư, đường thông đi khắp ngả, đâu phải là nơi non cao vắng vẻ, không dấu chân người, thế nhưng rất ít người yêu thích nó, vì thế mà bị cỏ cây gai góc che khuất, dân ở ngay sát đấy cũng không biết đến tên động. Nay Huyện doãn tìm thấy mà sinh lòng yêu mến, yêu mến nên đã đặt tên cho động. Khi rỗi rãi, Huyện doãn thường dắt theo mấy người đến thăm động. Khi ra leo núi làm thơ, lúc vào xướng ca, uống rượu.

Khói mây nồng nặc, Huyện doãn đốt hương,

Thông reo xào xạc, Huyện doãn gảy đàn,

Đá núi va chạm lách cách ngân vang,

Huyện doãn lại đánh cờ uống rượu.

Hang động kỳ diệu, Huyện doãn sướng vui,

Quả là đôi bên tương đắc mà cũng tương thành vậy.

Thế thì việc Huyện doãn đặt tên cho động cũng là nên lắm.

Trước đây Huyện doãn từng làm quan ở huyện Thủy Đường tỉnh Hải Dương, đến thăm núi Rồng tìm được chỗ đọc sách của Lê Trạng nguyên, bèn cho dựng bia ghi lại. Có lần đến chơi động Dương Nham, Huyện doãn tìm thấy bốn chữ lớn "Vân thạch thư thất" của Phạm Sư Mạnh liền mô phỏng theo. Thảo nào mà nay đến chơi núi này, ngài bèn đặt tên cho động này. Tôi trộm nghĩ kẻ sĩ mà lại ham danh, thì người có đạo quyết không nên làm. Thế nhưng việc ham danh mà làm ra công tích, có thể lưu lại mãi cho đời sau, chẳng màng phú quý thì nên thế nào? Huyện doãn đối với danh là có ham muốn mà lại còn biết tự rèn, vậy thì còn được truyền mãi cùng hang động này. Như thế, danh nên ham muốn hay không nên ham muốn? Nếu có thể ham muốn mà không ham muốn có được không ?

Huyện doãn đặt tên cho động, lại đề thơ và sai tôi ghi lại. Huyện doãn là người vùng Hương Khê, Thanh Hóa, họ Nguyễn, tự là Tuân Phủ, giỏi chính sự, hay văn chương. Cụ thân sinh ra ngài trước kia từng đi sứ, tiếng tăm lừng lẫy thượng quốc./.

TB

HIỆN TƯỢNG STROOP TRONG
TIẾNG VIỆT

YASUO MORIKAWA

L.T.S Giáo sư Morikawa Yasuo, người Nhật Bản, từng hai lần sang Việt Nam để phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm nghiên cứu về hiện tượng Stroop trong tiếng Việt. Kết quả thực nghiệm được công bố trên Tập san Nghiên cứu học thuật. Khoa giáo dục, trường Đại học Waseda, số 37, tháng 12-1988, tr.29-33. Chúng tôi cho dịch lại bài này để bạn đọc tham khảo.

Stroop là hiện tượng mà khi gọi tên kích thích mầu, nếu kích thích được ghi bằng một thứ văn tự biểu thị một mầu sắc khác với nó thì cần nhiều thời gian hơn là khi nó được ghi bằng mầu hay bằng ký hiệu X (Stroop, 1935).

Những năm gần đây người ta đã dùng hiện tượng này để tiến hành nghiên cứu so sánh giữa chữ Hán với các văn tự âm tiết như chữ Hiragana, Katakana, Hanguru(1), và các văn tự biểu âm, như chữ An-pha-bê (Biederman, etal, 1979; Chen, etal, 1986, Fang, etal, 1981; Morikawa, 1981, 1987).

Qua thực nghiệm bằng tiếng Nhật Bản và tiếng Hán, hiệu quả Stroop của chữ Hán cho ta kết quả lớn hơn so với hiệu quả Stroop của các văn tự âm tiết và văn tự biểu âm. Về nguyên nhân của điều này, có giả thuyết tìm trong hình thái ghi chép của chữ Hán và giả thuyết tìm trong cường độ phản xạ. Giả thuyết đầu chú ý đến tính hai cấp độ của chữ Hán, cho rằng vì chữ Hán được xử lý trong quá trình giống như quá trình xử lý mầu sắc, nên lượng can thiệp nhiều hơn. Giả thuyết này tìm vùng xử lý ở bán cầu não phải, nên gọi là giả thuyết xử lý não phải. Giả thuyết sau cho rằng, vì tần số sử dụng chữ Hán lớn hơn so với chữ Hiragana, Katakana, chữ La-tinh (An-pha-bê), nên cường độ của chữ Hán mạnh, cản trở phản xạ mầu, lượng can thiệp lớn. Đây là giả thuyết cạnh tranh phản xạ. Để xác định xem nên áp dụng giả thuyết nào, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm bằng tiếng Triều Tiên, thứ tiếng có tần số sử dụng chữ Hán ít hơn chữ Hanguru, thứ văn tự âm tiết. Kết quả không thấy có sự khác biệt về thời gian phản xạ giữa chữ Hán và chữ Hanguru. Kết quả này xem ra có lợi cho giả thuyết cạnh tranh phản xạ. Nhưng vì chữ Hanguru được tạo ra theo mô hình chữ Hán, nên nó có cấu trúc hai cấp độ. Do đó có thể là chữ Hanguru cũng được xử lý ở não phải như chữ Hán. Cũng có thể vì vậy mà lượng can thiệp của chữ Hanguru trở nên lớn. Theo các nhà nghiên cứu trước nay, thì chắc chắn là chữ An-pha-bê được xử lý ở não trái (Kimura, 1961; Levy, etal, 1967; Moscovitch, 1979; Sperry, etal, 1969). Vì vậy nếu được tiến hành thực nghiệm bằng một thứ ngôn ngữ dùng cả chữ An-pha-bê lẫn chữ Hán, hơn nữa tần số sử dụng chữ Hán lại ít, thì có thể xác định được giả thuyết cạnh tranh phản xạ là đúng hay sai. Chúng tôi chọn tiếng Việt Nam là thứ ngôn ngữ đáp ứng được điều kiện này.

Việt Nam là nước bị Trung Quốc thống trị trên một nghìn năm, do đó chữ Hán được dùng như là thứ văn tự chủ yếu. Vào thế kỷ XVII một nhà truyền giáo người Pháp đã dựa vào chữ An-pha-bê để tạo ra chữ Quốc ngữ, và cùng với việc Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp thì thứ chữ này cũng ngày càng được sử dụng. Mặt khác, do triều Thanh bị diệt vong, từ năm 1904 chế độ "khoa cử", tức là việc dùng Hán Văn để thi tuyển quan lại, không được tiến hành ở Trung Quốc nữa, nhưng ở Việt Nam thì vẫn tiếp tục tới năm 1918. Sau đó việc giảng dạy chữ Hán còn được tiến hành tới nửa đầu những năm 1940 trong các trường sơ đẳng. Hiện nay chỉ có những người được đào tạo chuyên ngành về văn học Hán Việt, tức là văn học cổ điển, thì mới đọc được chữ Hán. Như vậy, nếu như hiệu quả Stroop của chữ Hán, thứ chữ có tần số sử dụng nhỏ, mà nhỏ hơn hiệu quả Stroop của chữ Quốc ngữ thì có thể nói kết quả có lợi cho giả thuyết cạnh tranh phản xạ.

Ở Việt Nam không đọc chệch chữ Hán theo ngữ âm nước mình như hiện tượng kinh(2) trong tiếng Nhật Bản. Âm chữ Hán được dùng với tính cách là âm Hán Việt, còn âm vốn có trong tiếng Việt Nam thì gọi là âm thuần Việt.

Do đó, việc phát âm phiếu X, điều kiện kiểm tra cách gọi tên mầu, được tiến hành bằng âm thuần Việt và âm Hán Việt tương ứng với chữ Quốc ngữ và chữ Hán. Âm Hán Việt của 紅 青 黃 綠 白 là hồng, thanh, hoàng, lục, bạch, còn âm thuần Việt là đỏ, xanh, vàng, lục, trắng.

Phương pháp

Người được thực nghiệm: người Việt Nam ở Hà Nội, 15 nam, 15 nữ. Tuổi 22-24, thuận tay phải. Đều làm việc ở các cơ quan nghiên cứu khoa học nhân văn - xã hội. Lần đầu tiên được thực nghiệm tâm lý học.

Tài liệu: dùng năm mầu đỏ, xanh, vàng, lục, trắng. Dùng tài liệu để viết tên mầu bằng thứ mầu quảng cáo, ngang 10 hàng, dọc 10 dòng, trên thứ giấy mầu xám 30x30cm. Trên các hàng cứ hai lần lại có một mầu và chữ viết giống nhau. Để các mầu và chữ giống nhau không lẫn lộn, chúng được đặt trong quasirandom. Số chữ là 100.

Dùng hai loại văn tự Quốc ngữ (Q) và chữ Hán (I), và 5 tờ phiếu: phiếu không phù hợp (incongruent) giữa tên mầu và chữ viết: 2 tờ (IQ, II), phiếu có viết chữ X bằng mầu dùng làm điều kiện kiểm tra: 1 tờ (X) và phiếu chữ đen: 2 tờ (BQ, BI).

Thủ tục

Điều kiện gọi tên mầu (Color Naming Condition).

Để luyện tập, người được thực nghiệm được phát phiếu X. Khi có tín hiệu "bắt đầu" thì đọc nhanh tối đa từ trái sang phải tên các mầu. Sau khi đọc âm thuần Việt và âm Hán Việt mỗi thứ một lần thì bước vào thực nghiệm chính thức. Tiến hành theo trình tự: âm thuần Việt phiếu X, âm Hán Việt phiếu X, phiếu không phù hợp chữ Hán, phiếu không phù hợp chữ Quốc ngữ, rồi lại theo trình tự ngược lại, tổng cộng là 8 lần, sau đó giải lao rồi bước vào điều kiện đọc chữ viết.

Điều kiện đọc chữ viết (Word Reading Condition).

Tiến hành theo trình tự phiếu chữ Hán đen, phiếu chữ Quốc ngữ đen, phiếu không phù hợp chữ Hán, phiếu không phù hợp chữ Quốc ngữ, rồi lại theo trình tự ngược lại, tổng cộng 8 lần.

Một nửa số người được thực nghiệm tiến hành trước thực nghiệm về điều kiện gọi tên mầu, một nửa khác tiến hành trước thực nghiệm về điều kiện đọc chữ viết. Lấy số giây cần thiết của một lần thực nghiệm làm trị số đo.

Kết quả

Số giây cần thiết và sự chênh lệch tiêu chuẩn trong mỗi điều kiện được nêu ở (biểu 1). Tiến hành phân tích riêng về hai yếu tố tài liệu (M) X người được thực nghiệm (S) theo từng điều kiện (biểu 2). Theo sự kiểm tra tương ứng thì thấy qua các điều kiện và tài liệu, có sự chênh lệch có ý nghĩa ở mức 1% trở lên giữa số trị đo của tất cả các nhóm.

Biểu 3 là sự phân tích riêng theo 3 yếu tố điều kiện (C) X tài liệu (M) X người được thực nghiệm (S).

Biểu I: Số trị trung bình và chênh lệch tiêu chuẩn về số giây cần thiết trong mỗi điều kiện

Điều kiện/ Tài liệu Chữ Quốc ngữ Chữ Hán Phiếu X (Q) Phiếu X (C)
Gọi tên màu
Không phù hợpM
ơ
I - X M
ơ
Đọc chữ viết
Không phù hợpM
ơ
Chữ đen M
ơ
I - BM
ơ

103,51
16,43
40,41
11,56

34,09
6,16
31,57
4,91
2,52
2,65

119,11
17,30
35,88
11,25

54,27
12,81
45,63
7,91
8,64
7,98

63,10
12,81

83,23
12,46

Biểu 2: Phân tích sự chênh lệch về số giây trong điều kiện gọi tên mầu và điều kiện đọc chữ viết

Nguồn Khác biệt Gọi tên mầu Đọc chữ viết
MS F MS F
Tài liệu (M)
Nguồn thực nghiệm (S)
M x S
Sai số
Tổng số
3
29
87
120
239
358362
130752
17959.8
7141.07
501.8320 +
18.3099 +
2.5149 +
1852.16
643532
32736.8
5084.31
347.4490 +
17.6749 +
2.7451 +

+ P.01

Biểu 3: Phân tích độ chênh lệch của những khác biệt giữa số giây cần thiết trong điều kiện Stroop và số giây cần thiết trong điều kiện kiểm tra

Nguồn Khác biệt MS F
Điều kiện
Tài liệu
Người được thực nghiệm
C x M
C x S
M x S
C x M x S
Sai số
Tổng số
1
1
29
1
29
29
120
120
239
636320
768.34
22373.1
170187
24696.1
9229.6
12175.3
678.23
938.2170 +
0.5556
3.2988 +
25.0931 +
3.6413 +
1.3609 +
1.7952 +

+ P < .01 + P< .05

Đối với lượng can thiệp, tức là đối với trị số đo của điều kiện kiểm tra tương ứng, được rút ra từ số trị đo của các điều kiện. Theo sự kiểm tra tương ứng thì thấy trong số các nhóm lượng can thiệp, chỉ có giữa lượng can thiệp Stroop của chữ Quốc ngữ và chữ Hán là không có sự chênh lệch có ý nghĩa, còn lại đều có sự chênh lệch có ý nghĩa ở mức độ 1% trở lên.

Nhận định

Điều kiện gọi tên mầu: về thời gian cần phiếu để gọi tên mầu thì thời gian cần thiết của phiếu chữ Hán và phiếu chữ Quốc ngữ đều lớn hơn của phiếu X âm Hán Việt và âm thuần Việt, hiệu quả Stroop được thừa nhận. Về thời gian cần thiết để gọi tên mầu thì phía chữ Hán lớn hơn, nhưng về lượng can thiệp, tức là thời gian cần thiết của phiếu X (điều kiện kiểm tra) được rút ra từ mỗi loại thì phía phiếu chữ Quốc ngữ lớn hơn. Tuy thế, không thấy có sự chênh lệch có ý nghĩa giữa lượng can thiệp của hai loại. Như đã nói ở trên, nếu lượng can thiệp của phía chữ Quốc ngữ, tức là phía có tần số sử dụng lớn, mà nhiều hơn thì giả thuyết cạnh tranh phản xạ được ủng hộ. Trái lại, nếu lượng can thiệp của phía chữ Hán mà nhiều thì kết quả đó có lợi cho giả thuyết xử lý não phải. Xem ra kết quả này có lợi cho giả thuyết cạnh tranh phản xạ. Nhưng nếu xét tới điều là chữ Hán gần như không được sử dụng thì thấy độ chênh lệch là khá nhỏ. Như trên đã nói không thấy có sự chênh lệch có ý nghĩa. Về điểm này sẽ xin đề cập sau.

Điều kiện đọc chữ viết: Về thời gian cần thiết của phiếu không phù hợp thì phía chữ Hán lớn hơn chữ Quốc ngữ. Thời gian cần thiết của cả hai đều lớn hơn thời gian cần thiết của phiếu chữ đen, tức là điều kiện kiểm tra, do đó hiệu quả Stroop ngược không được thừa nhận. Về lượng can thiệp tức là độ chênh lệch giữa phiếu không phù hợp và phiếu chữ đen thì chữ Hán lớn hơn.

Xem xét giả thuyết Dunbar: Kết quả về giả thuyết cạnh tranh phản xạ, Dunbar nói rằng phản xạ tên mầu không bị cản trở chậm đến mức như phản xạ chữ viết, do đó hiệu quả Stroop là nhỏ nhưng trong trường hợp đọc chữ viết, phản xạ tên mầu lại ưu tiên cho phản xạ chữ viết nên hiệu quả Stroop ngược trở nên lớn. Ta hãy xem xét kết quả thực nghiệm này theo quan điểm đó. Về phản xạ chữ đen thì phía chữ Hán chậm, có sự chênh lệch có ý nghĩa, giữa nó với chữ Quốc ngữ. Đối với chữ Hán thì lượng can thiệp Stroop là nhỏ, lượng can thiệp Stroop ngược là lớn.

Hơn nữa, theo giả thuyết này thì về phía phiếu X phản xạ phải nhanh hơn so với phía chữ đen. Đằng nào cũng cho ta kết quả ủng hộ cho giả thuyết của Dunbar.

Lý do không có sự chênh lệch về lượng can thiệp của chữ Quốc ngữ và chữ Hán: Về điểm này, có thể nghĩ đến hai giả thuyết. Một là sự đối chọi giữa cạnh tranh phản xạ và xử lý não phải. Đây không phải là giả thuyết về sự trái ngược nhau giữa hai thứ. Cả hai đều cùng phát huy tác dụng, nhìn bề ngoài có thể nghĩ là không có sự sai biệt.

Tiếp theo, ta chú ý tới điều là, về thời gian cần thiết của điều kiện phiếu không phù hợp thì phiếu chữ Hán dài hơn. Dù sao, sở dĩ lượng can thiệp của phía chữ Hán nhiều hơn là do thời gian cần thiết của phiếu X, tức là điều kiện kiểm tra, là dài hơn. Có thể nghĩ, phải chăng đó là do những người được thực nghiệm của Việt Nam đều học chữ Hán qua văn chương, do đó không quen nhìn X mầu để phát âm âm chữ Hán.

Để xem xét giả thuyết này, có thể so sánh lượng can thiệp của chữ Nôm, thứ chữ có hình thái của chữ Hán phát âm giống như chữ Quốc ngữ, và của chữ Quốc ngữ. Bởi vì thời gian cần thiết của phiếu X tức là điều kiện kiểm tra của hai loại, là giống nhau.

Chúng tôi dự định tới đây sẽ tiến hành thực nghiệm này.

Lời kết

Để kiểm tra hiệu quả bằng tần số sử dụng của chữ Hán và chữ An-pha-bê, cũng tôi đã dùng kích thích Stroop của chữ Quốc ngữ và chữ Hán trong tiếng Việt Nam để tiến hành thực nghiệm. Về thời gian cần thiết để gọi tên mầu thì chữ Hán lớn hơn thời gian cần thiết của điều kiện kiểm tra của phiếu X thì chữ Hán cũng lớn hơn, do đó lượng can thiệp, tức là sai biệt giữa hai loại, của phía chữ Hán là nhỏ hơn. Về điều kiện đọc chữ viết thì hiệu quả Stroop ngược của cả chữ quốc ngữ lần chữ Hán đều được thừa nhận. Về thời gian cần thiết thì cả ở phiếu không phù hợp, chữ đen, lẫn lượng can thiệp, phía chữ Hán đều lớn hơn.

Viễn Phố dịch

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN

GO ZHEN FENG

Thời kỳ Hậu Lê (1428-1788) của Việt Nam, xuất hiện nhiều nhân tài sử học, nhiều tác phẩm sử học nổi danh, đặc biệt có ba bộ sử nổi tiếng nhất, đó là: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, bản Hồng Đức; Đại Việt sử ký tục biên của Phạm Công Trứ, bản thời Cảnh Trị; Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Hi, bản năm Chính Hòa... Ba bộ sử này đã trở thành tác phẩm tham khảo có giá trị nhất đối với việc nghiên cứu xã hội phong kiến Việt Nam, chính vì thế được giới sử học hai nước Trung Quốc và Việt Nam coi trọng.

Bộ Đại Việt sử ký toàn thư gồm 15 quyển (bản), biên soạn năm 1479, có tác dụng đặt nền móng cho công tác biên soạn lịch sử Việt Nam, song tập sách này đến nay không còn đầy đủ. Bộ Đại Việt sử ký tục biên gồm 23 quyển khắc in năm 1665 là bộ chính sử được bảo tồn khá đầy đủ của Việt Nam. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bản khắc in năm 1697, là bộ quốc sử của Việt Nam được bảo toàn đầy đủ nhất, có giá trị nhất, hiện nay nhiều nhà sử học Trung Quốc thường thấy, chính là bộ "Toàn thư" này. Bộ "Toàn thư" của họ Ngô và họ Lê do có nhiều học giả đã nghiên cứu và có những kết luận thỏa đáng, cho nên trong phạm vi bài này, chỉ giới thiệu bộ "Tục biên" của họ Phạm, vì bộ sử này chưa được các nhà nghiên cứu đánh giá đầy đủ.

1. Lý do biên soạn và nội dung cơ bản bộ "Tục biên" của Phạm Công Trứ:

Phạm Công Trứ (1599-1675) là người thôn Liễu Xuyên, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng), xuất thân trong một gia đình nhà nho có quyền thế thời phong kiến. Tổ tiên ông đời đời làm quan. Từ nhỏ, ông đã được trời phú bẩm thông minh, học tập cần mẫn, đọc nhiều kể cả thư tịch Trung Quốc, văn chương xuất chúng, được nhiều người ngưỡng mộ. Phạm Công Trứ thi đậu Tiến sĩ (năm 1628) vào lúc quyền lực của nhà vua suy yếu, hữu danh vô thực, quyền hành thực sự nắm trong tay Trịnh Tráng và Trịnh Tạc. Họ Phạm đã từng giữ chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, một chức vụ quan trọng trong chính quyền Lê-Trịnh.

Vua Trần Tông và Huyền Tông ở ngôi trị vì, nhưng ham mê tửu sắc, suốt ngày trong cung cấm, quên hết công việc triều chính. Đặc biệt, Huyền Tông lên ngôi lúc 3 tuổi, chưa nắm được việc nước, năm 19 tuổi thì bị hại, mọi công việc đều do Trịnh Tráng và Trịnh Tạc điều hành. Các nhà sử học Việt Nam trước đây hoàn toàn phủ nhận vai trò của cha con họ Trịnh trong vấn đề dựng nước. Như thế là không thỏa đáng. Việc phê phán sự độc đoán của họ Trịnh là cần thiết. Song, cha con họ Trịnh phản đối việc tranh giành bá quyền của bọn cường hào, phản đối chia cắt đất nước, chủ trương ổn định để phát triển đất nước, thực hiện chính sách hữu nghị với Trung Quốc, điều này cần được khẳng định (tr.59).

Lúc bấy giờ, phần nhiều các nho sĩ trong triều, ngoài nội đều ngưỡng mộ họ Trịnh, họ giúp mưu hiến kế cho nhà Trịnh, vì thế được trọng dụng, Phạm Công Trứ cũng trong số đó, và khi ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên, đã qui công, ca ngợi Trịnh Tráng và Trịnh Tạc.

Lý do Phạm Công Trứ biên soạn bộ Đại Việt sứ ký tục biên là:

1, Phạm Công Trứ với tư cách là Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ trong chính quyền Lê-Trịnh, ông có học vấn uyên bác, tinh thông các thư tịch lịch sử bằng Hán văn, nên rất được họ Trịnh quý trọng. Bản thân Phạm Công Trứ cũng rất trông mong vào sự điều hành công việc tốt đẹp của họ Trịnh, nên ông rất hăng hái với học thuật, như viết sách lập ngôn, ca ngợi công tích của họ Trịnh. Do vậy họ Trịnh đã sai ông viết sử, năm đó là năm 1662.

2, Bộ "Toàn thư" do Ngô Sĩ Liên biên soạn gồm 15 quyển, mới ở dạng chép tay, chưa có bản in, cũng chưa được công bố trong cả nước, thậm chí bản thảo và bản chép của tác giả cũng không được bảo tồn hoàn chỉnh. Đặc biệt bộ sử này mới ghi chép về những năm đầu của Lê Lợi, tức Lê Thái Tổ (1418-1443); một số hoàng đế về sau, từ Thái Tông đến Huyền Tông, suốt 15 đời đều chưa được biên soạn chính thức. Mãi đến khi Trịnh Tác nắm quyền (tức là sau khi Huyền Tông kế vị) mới ra lệnh cho nhà sử học Phạm Công Trứ viết bổ sung thêm.

3, Phạm Công Trứ cho rằng sự tích của tất cả các vị vua của nước nhà cần được ghi chép lại, cùng với những việc làm tốt, xấu và cách trị nước của họ, lấy đây làm bài học trị dân, giữ nước lâu dài (xem lời tựa trong "Tục biên" của Phạm Công Trứ).

Về thời gian, nội dung cũng như tư liệu để biên soạn, có những điểm đáng chú ý sau đây: Đại Việt sử ký tục biên bắt đầu chép từ năm 1662, tức là lúc Lê Thần Tông lên ngôi, và hoàn thành vào năm 1665, tức đời vua Lê Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ 3.

Tham gia biên soạn "Tục biên" gồm 13 nho sĩ, do Tham tụng Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Phạm Công Trứ đứng đầu. Bộ "Tục biên" viết 3 giai đoạn lịch sử: 1522-1527; 1533-1541; 1619-1662.

Nếu so sánh với các bộ sử trước đó, có thể thấy:

1. Phạm Công Trứ vẫn kế thừa cách phân kỳ trong "Toàn thư" của Ngô Sĩ Liên (về phần ngoại kỷ và bản kỷ).

2. Tiếp thu cách chia giai đoạn trong Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh (gồm "Ngoại kỷ", từ Hồng Bàng Thị năm 258 trước Công nguyên, đến 12 Sứ quân (năm 945-967); "Bản kỷ" bắt đầu từ Đinh Tiên Hoàng (năm 968-980) cho tới Lê Triều (Cao Hoàng đế - Lê Lợi, năm 1428).

3. Họ Phạm lại chia "Bản kỷ" thành 3 phần nhỏ:

a, "Bản kỷ toàn thư", từ Đinh Tiên Hoàng (năm 968-970) đến Lê Thái Tổ (1428-1433).

b, "Bản kỷ tục biên", từ Lê Thái Tông (1434-1442) đến Cung Hoàng (1522-1527).

c, "Bản kỷ tục biên" từ Lê Trang Tông (1533-1548) đến Lê Thần Tông (1649-1662).

Bộ Sử của họ Phạm là sự tiếp thu phần nội dung "toàn thư" của họ Ngô và đặt cơ sở cho nội dung "Toàn thư" của Lê Hi sau này.

2. Mấy vấn đề liên quan tới "Tục biên" của họ Phạm:

Đọc lời tựa "Tục biên" của họ Phạm, thấy có mấy vấn đề cần chú ý sau:

1, "Ngoại kỷ toàn thư" và "Bản kỷ toàn thư" của họ Phạm được dựa trên cơ sở tác phẩm nổi tiếng của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh, đồng thời ông cũng tham khảo Việt giám khảo tổng luận của Lê Tung và Việt sử thi tập của Đặng Minh Khiêm, nhưng có sự khảo đính tỉ mỉ hơn. Ngoài ra, còn tham khảo sử ký Trung Quốc để biên soạn thành bản chính.

2, "Tục biên" của họ Phạm, những phần kỷ niên, phàm lệ và sách tham khảo đều theo sử sách chính thống của Việt Nam và Trung Quốc.

3, Bộ "Tục biên" gồm 23 quyển của họ Phạm được lưu giữ ở Trung Quốc là thuộc loại thiện bản. Nhưng việc đưa đi khắc in "bản ký tục biên" mới chỉ được 5, 6 phần. Điều này cho thấy quốc sử Việt Nam cũng chỉ khắc in, công bố 5,6 phần mà thôi. Cơ cấu toàn bộ bộ "Tục biên" đã được Lê Hi sử dụng, đưa vào "Toàn thư", đồng thời cũng tiến hành chú thích phần "Phàm lệ" trong "Toàn thư" của Ngô Sĩ Liên. Và đầu quyển "Tục biên" của họ Phạm có thêm phần "Lời tựa", việc này có tác dụng khá lớn đối với sự hoàn thiện, phát triển nền sử học Việt Nam. Chính vì lý do đó, tác phẩm sử học của Phạm Công Trứ được giới sử học sau này ca ngợi.

Thế Tăng lược thuật.

CHÚ THÍCH

* Đại Việt sử ký tục biên sơ thám. Bài viết của Go Zhen Feng, đăng trên Tạp chí Đông Nam Á (Viện khoa học xã hội tỉnh Vân Nam, Trung Quốc), số tháng 1-1989, tr.59-61./.

TB

TUYỂN DỊCH MỘT SỐ TRUYỆN TRUYỀN KỲ
ƯU TÚ ĐỜI ĐƯỜNG - TỐNG(*)

TRUYỆN VƯỢN TRẮNG (1)

Khuyết Danh

Cuối năm Đại Đồng nhà Lương(2), triều đình sai Bình Nam tướng quân Lạn Khâm đánh xuống phía Nam, tới Quế Lâm, phá tan quân Lý Sư Cổ và Trần Triệt. Viên biệt tướng Âu Dương Hột(3) tiến sâu tới tận Tường Lạc, dẹp yên các động, không vấp trở ngại gì.

Hột có người vợ thon thả trắng trẻo, rất xinh đẹp. Có kẻ nói với Hột: "Sao tướng quân lại đưa người đẹp qua đây? Đất này có thần linh, hay bắt thiếu nữ, nhất là những người xinh đẹp, lại càng khó thoát, tướng quân nên trông giữ cẩn thận".

Hột rất nghi sợ, đêm đêm cầm gươm đi quanh nhà, dấu vợ mình vào buồng kín, khóa cửa cài then rất kỹ, lại sai hơn mười người hầu gái canh giữ.

Đêm ấy, gió lạnh tối trời, đến canh năm vẫn yên ắng như tờ. Những người canh giữ mỏi mệt ngủ thiếp đi, bỗng như có vật gì kinh động. Khi tỉnh dậy thì vợ Hột đã biến mất mà cửa vẫn đóng như cũ, không hiểu ra bằng lối nào. Ra cửa nhìn thấy núi non hiểm trở, trong gang tấc cũng không nhận ra lối mòn, không biết chốn nào mà tìm. Đến sáng cũng chẳng lần được một chút dấu vết gì.

Hột rất đau xót, thề quyết không trở về nếu không tìm thấy vợ. Rồi chàng lấy cớ bị ốm, xin đóng quân lại, ngày ngày đi khắp nơi lùng tìm, chẳng quản gian nguy hiểm trở. Được hơn một tháng, bỗng tìm thấy chiếc giầy thêu của nàng trong rừng tre cách đó hơn trăm dặm. Chiếc giầy dẫu đã trải nắng dãi mưa dầm, vẫn nhận ra được. Hột lại càng đau xót, càng quyết chí lùng tìm. Chàng chọn lấy 30 tráng sĩ, mang theo gươm giáo lương thực, nghỉ đỉnh non cao, ăn nơi rừng vắng. Chừng mười ngày sau, cách nơi ở độ hai trăm dặm, có một ngọn núi đẹp hiện ra ở phía Nam. Đến chân núi, thấy suối sâu vòng quanh. Mọi người lấy gỗ làm bè vượt qua. Trên đỉnh núi, thấp thoáng sau bóng trúc xanh, lụa hồng phơ phất lại vẳng nghe tiếng nói cười. Mọi người bám cột làm dây trèo lên, chỉ thấy cây cao từng hàng, hoa đẹp điểm tô, phía dưới cỏ xanh biếc, êm như trải thảm, khí mát trong lành, ê m đềm lặng lẽ, thực khác hẳn cõi trần. Ở cổng đá hướng về phía đông, có mấy chục người con gái ăn mặc tươi tắn đẹp xinh, đùa nghịch hát cười, ra vào trong đó. Khi thấy người lạ các nàng chậm rãi dừng lại, lạnh lùng đứng nhìn. Khách tới nơi các nàng hỏi "Cớ sao lại tới đây?".

Hột đem chuyện mình kể lại. Nghe xong, các nàng nhìn nhau thở dài và nói "Cô ấy đến đây đã hơn một tháng, hiện giờ đang ốm nằm trên giường, cũng nên cho vào thăm".

Qua cổng đá có cánh làm bằng gỗ, phía trong có ba vòm to rộng như tòa nhà, quanh tường kê giường, trên giường đều trải gấm. Vợ Hột nằm trên chiếc sập đá, trải nhiều lớp gấm êm, thức ngon vật lạ bầy đầy phía trước. Hột tới gần, nàng quay lại vừa nhìn, đã vội vã xua tay ra hiệu cho chàng đi ra.

Những người con gái bảo chàng: "Chúng tôi cùng với vợ ngài, người tới đây lâu đã tới 10 năm. Nơi này là chỗ thần ở, sức nó có thể giết người, dẫu hàng trăm lực sĩ cầm gươm giáo cũng không làm nổi. May mà nó chưa trở về, ngài nên mau lánh đi. Ngài về lấy thêm 22 vò rượu ngon, 10 con chó béo và mấy chục cân đay đem đến đây chúng tôi sẽ cùng ngài mưu giết nó. Lần sau có đến thì phải đúng chính ngọ và phải thận trọng, chớ tới sớm quá. Hẹn ngài mười ngày sau tới đây".

Nói rồi giục chàng đi ra. Hột cũng vội vã lui về, đi tìm rượu ngon cùng chó béo, đay bền, đến ngày hẹn, lại ra đi.

Khi tới động, các cô gái bảo chàng: "Nó thích uống rượu, uống vào thường hay say, khi say lúc nào cũng hung hăng trổ sức, bảo bọn tôi lấy lụa trói chặt chân tay nó vào giường. Thế mà nó chỉ dẫy một cái là đứt hết. Có lần chúng tôi xoắn lại ba chao mà trói, thì nó hết hơi không cởi được. Nay đem đay dấu vào trong lụa mà trói, chỗ nào cũng cứng như thép, chỉ có cách dưới nách vài tấc, thấy nó phải thường xuyên che giữ, chắc là chỗ đó không chịu được gươm đao".

Các nàng lại chỉ ngọn núi phía bên và nói: "Kia là kho lương thực, ngài hãy nấp vào đó, yên lặng quan sát. Rượu thì đặt dưới vòm hoa, chó thì thả vào rừng. Đợi khi mưu kế chúng tôi làm xong, cho gọi thì hãy ra".

Chàng làm theo, nín thở chờ đợi. Đến chiều, có một quái vật như một giải lụa từ dưới chân một trái núi khác, xuyên tới như bay, lao thẳng vào trong động. Lát sau, có một chàng trai rất đẹp, cao hơn sáu thước, áo trắng, chống trượng cùng các nàng bước ra. Trông thấy chó, nó ngạc nhiên nhìn rồi quăng mình bắt lấy, xé ra nhai ngấu nghiến tới khi no. Các nàng tranh nhau dùng chén ngọc dâng rượu, nói cười rất vui vẻ. Uống vài vò, lại đỡ nó đi, vẳng lại tiếng cười đùa vui vẻ. Mãi lâu sau, các nàng ra gọi. Hột bèn cầm gươm bước vào, thấy một con vượn trắng lớn, bị trói bốn chân trên giường, co dúm lại nhìn mọi người, xin cởi trói cho, ánh mắt như chớp lóe. Hột đâm túi bụi, nhưng chỉ như đâm vào sắt vào đá, đến khi đâm xuống dưới nách lưỡi kiếm thụt sâu, máu trào xối ra, con vật mới than rằng: "Đây là trời hại ta, chứ đâu phải nhà ngươi giết được ta. Nhưng vợ ngươi đã có mang, chớ có giết đứa con ấy. Sau này gặp vua thánh, thế nào nó cũng làm vẻ vang dòng họ". Nói dứt lời thì chết.

Hột lục tìm kho tàng, thấy chất đầy vật báu, châu ngọc quí giá, bày la liệt trên án, trên bàn. Tất cả những chân trâu báu vật dưới trần, không thiếu thứ gì. Hương quí vài hộc, kiếm báu một đôi, con gái ba mươi người đều là tuyệt thế giai nhân cả. Người ở đây lâu đến mười năm cho biết, hễ ai nhác sút kém thì thế nào cũng bị đem đi không ai biết bỏ đi đâu.

Lại lùng bắt khắp chỗ, thì chỉ có một thân nó, mà không còn loài giống nào nữa. Ban ngày, nó tắm rửa, đội mũ, khoác áo kép trắng, mặc áo là trắng, không biết đến nóng lạnh là gì. Khắp thân mọc lông trắng dài đến mấy tấc. Hàng ngày nó thường đọc lại thẻ gỗ, chữ như linh triện trên bùa chú, không hiểu là thứ chữ gì. Đọc xong, lại xếp dưới bệ đá. Ban ngày tạnh ráo thì múa đôi kiếm, quanh mình như chớp bay, quầng sáng tròn như trăng rằm. Nó ăn uống không có giờ giấc cố định, thích ăn loại hạt hoặc hoa quả, rất thích chó, thường hay cắn và hút lấy máu. Mặt trời vừa quá ngọ, bỗng dưng biến mất, nửa ngày đi về nơi mây ngàn dặm, đến tối thế nào cũng quay về, đó là lệ thường. Nó muốn thứ gì là có ngay thứ đó. Ban đêm, nó lên từng giường đùa nghịch các nàng, đêm nào cũng đùa dỡn khắp lượt. Nó không ngủ bao giờ, nói năng rõ ràng, âm điệu sắc sảo nhưng dáng hình thì là loài vượn.

Đầu xuân năm nay bỗng nhiên thấy nó rầu rĩ nói: "Ta bị thần núi tố giác, sẽ bị tử tội. Ta cũng nhờ các thần che chở, may ra thì thoát được tội chết".

Ngày 16 tháng trước, bệ đá bốc lửa, cháy cả thẻ gỗ, nó buồn rầu ngẩn ngơ bảo: "Ta đã ngàn tuổi mà chưa có con, nay có con thì ngày chết đến rồi!".

Nói xong, nó nhìn các cô gái, nghẹn ngào hồi lâu, lại nói: "Núi này cách biệt hẳn thế gian, xưa nay chưa một ai tới, lên cao nhìn khắp, không hề thấy một người kiếm củi, phía dưới rất nhiều hổ báo sài lang. Nay kẻ nào đến đây, nếu không phải là trời mượn tay nó hại ta, còn ai nữa?".

Hột bèn thu lấy châu báu ngọc ngà cùng những người con gái đưa về, những người này, vẫn còn nhận biết được nhà cửa của mình.

Vợ Hột đầy năm sinh một con trai, rất xinh đẹp(4). Sau Hột bị Trần Vũ Đế giết hại, bạn chí thân của Hột là Giang Tổng(5) mến đứa con ấy thông minh hơn hẳn mọi người, giữ lại nuôi nấng, nên thoát khỏi tai họa. Đến khi trưởng thành, thì quả nhiên văn chương chữ nghĩa nổi tiếng một thời(6).

Hoàng Hưng dịch.

TRUYỆN CHIẾC GỐI(7)

Thẩm Ký Tế(8)

Năm Khai Nguyên thứ 7(9), có một đạo sỹ tên là Lữ Ông, đắc đạo thần tiên, trên đường đi Hàm Đan, vào nghỉ trong quán trọ. Ông vừa bỏ mũ, cởi đai, tựa vào hành trang ngồi nghỉ thì bỗng thấy một chàng trai trẻ tên là Lư Sinh. Chàng mặc áo vải ngắn, cưỡi con ngựa đen, đang đi làm đồng cũng vào nghỉ trong quán, ngồi cùng bàn với đạo sỹ, nói cười rất thoải mái. Lúc sau, Lư Sinh nhìn vào bộ quần áo cũ rích của mình than rằng: "Đại trượng phụ sinh ở đời không được thỏa chí, khốn khó đến mức này đây!".

Lữ Ông bảo chàng: "Tôi trông người cậu không thấy có khổ có lo gì, nói cười vui vẻ thoải mái, cớ sao lại than là khốn khó?".

Lư Sinh thưa: "Kiếp này tôi coi là sống thừa, đâu có chuyện thoả chí?". Lữ Ông hỏi chàng: "Sống như thế còn chưa thỏa chí thì thế nào mới là thoả chí?".

Sinh đáp: "Kẻ sỹ sinh ở đời, phải lập công danh, dự hàng khanh tướng, hưởng thực ấp, nghe nhạc vui, làm cho cả họ phồn vinh, nhà mình giàu có, như thế mới có thể gọi là thỏa chí. Tôi đã dốc chí học hành, đi khắp đó đây, cứ nghĩ rằng sẽ có ngày nắm dây ấn tía, ngồi ghế quan cao, thế mà nay tuổi đã lớn, vẫn phải lận đận chốn ruộng vườn, thế chẳng phải là khốn khó hay sao?".

Nói xong, Sinh thấy mắt mờ, buồn ngủ. Khi ấy chủ quán đang nấu nồi kê. Lữ Ông rút ra một chiếc gối ở trong túi ra đưa cho Sinh và nói: "Cậu gối lên chiếc gối của tôi, sẽ được vinh hoa thỏa chí như ý".

Chiếc gối ấy bằng sứ xanh, rỗng hai đầu. Sinh cúi đầu xuống nhìn, thấy lỗ rỗng lớn dần, sáng sủa, bèn bước vào rồi trở về nhà mình. Mấy tháng sau, chàng lấy người con gái họ Thôi ở Thanh Hà. Vợ chàng dung nhan rất xinh đẹp, tư chất trung hậu, khiến chàng rất vui. Từ đó, quần áo xe ngựa, mỗi ngày một nhiều. Năm sau Sinh thi đỗ Tiến sĩ, được ban mũ áo cân đai. Thi ứng chế xong, được bổ nhiệm hiệu úy Vị Nam, ít lâu sau, thăng giám sát ngự sử rồi Khởi cư xá nhân, tri chế cáo. Ba năm sau, Sinh ra coi Đồng Châu, rồi được thăng làm quan mục Thiểm Tây. Sinh tính ưa lập công, đào 80 dặm sông đào đem lại nguồn lợi cho dân quanh vùng, được dân chúng khắc bia ghi công đức. Sau đó, Sinh đổi làm tiết độ sứ Biện Châu, lĩnh chức Thái phỏng sứ đạo Hà Nam, được bổ làm quan kinh triệu.

Năm ấy, vua Thần Vũ đi đánh rợ Nhung, mở mang bờ cõi. Gặp khi bọn Tất Mạt La và Chúc Long Mãng Bố Chi nước Thổ Phồn đánh Qua Sa, tiết độ sứ Vương Quân Hoán vừa bị giết, khắp vùng Hà Hoàng rung động. Vua nghĩ đến tài tướng soái, cử Sinh làm Ngự sử trung thừa, Tiết độ sứ đạo Hà Tây, phá tan quân Nhung, chém 7 nghìn thủ cấp, mở đất 900 dặm, xây 3 thành lớn giữ nơi trọng yếu. Dân biên thùy dựng bia đá ở núi Cư Diên để ca ngợi Sinh. Đánh giặc xong, Sinh trở về triều, được ghi công ban thưởng, ân lễ rất lớn. Rồi Sinh được đổi làm Thị Lang bộ lại, thăng Thượng thư bộ Hộ kiêm Ngự sử đại phu. Bấy giờ, Sinh có uy vọng rất lớn, được lòng mọi người, bị các quan ghen ghét, phao tin hãm hại nên bị biếm làm Thứ sử Đoan Châu. Ba năm sau, Sinh được giữ chức Thường thị, không bao lâu được thăng chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự, cùng các ông trung lệnh họ Tiêu, Thị trung họ Bùi, nắm giữ quyền lớn hơn 10 năm. Mưu hay kế giỏi, giữ nước giúp vua, nổi tiếng là quan tể tướng tài giỏi. Sau Sinh bị các quan cùng hàng ghen ghét, vu cho là cấu kết với tướng ngoài biên, âm mưu phản nghịch. Vua ra lệnh bắt giam, bọn ngục lại kéo đến nhà, bắt Sinh đi gấp. Sinh kinh hoàng sợ hãi, nói với vợ con: "Nhà ta ở Sơn Đông, có 5 khoảnh ruộng tốt, đủ để chống đói chống rét. Việc gì phải khổ sở đi cầu quan chức? Nay đến nước này, thì dẫu mặc áo ngắn, cưỡi ngựa đen, thảnh thơi trên đường Hàm Đan cũng không được nữa rồi".

Nói xong Sinh rút kiếm tự vẫn, may được vợ cứu thoát. Những người liên can đều bị chết, chỉ có Sinh được Trung quan bảo đảm cho, được giảm tội chết, đầy ra Hoan Châu. Mấy năm sau, vua biết Sinh bị oan, lại cho giữ chức Trung thư lệnh, phong tước Yên quốc công, ban ân rất hậu.

Sinh có 5 con trai tên là Kiệm, Truyền, Vị, Thù, Ỷ đều rất có tài. Kiệm đỗ Tiến sỹ, làm Viên ngoại; Truyền làm Thị ngự sử; Vị làm Thái thường tự thừa; Thù làm Vạn niên úy; Ỷ có tài hơn cả, năm 28 tuổi làm Tả tướng. Các con đều lấy con cái nhà vọng tộc trong nước. Cháu nội hơn mười người, kẻ làm tướng soái nơi biên cương, người làm tam công chốn triều đường, ra vào nơi triều chính, nhởn nhơ chốn các đài, hơn năm mươi năm, vinh thịnh lừng lẫy.

Sinh vốn ưa xa xỉ, rất thích nhạc vui, thanh sắc chốn hậu đình, đều là những hoa khôi xinh đẹp bậc nhất cả. Trước sau được ban những ruộng tốt, lâu đài, người đẹp, ngựa hay không biết bao nhiều mà kể. Những năm sau đó, tuổi cao sức yếu, mấy lần xin đem thân tàn về quê hương không được. Khi ốm, người hỏi thăm lũ lượt trên đường. Thầy thuốc giỏi giang không ai không tới. Đến lúc sắp mất, Sinh dâng sớ nói rằng: "Thần sinh đất Sơn Đông, vui với vườn ruộng, may gặp vận thánh, dự hàng các quan. Đội ơn đặc biệt, chức lớn được ban. Ra thì cờ quạt, vào thăng tế thần. Trong ngoài lo giữ, đã được nhiều phen. Ân trời thẹn hưởng, Báo đáp chẳng nên. Tài hèn phận lớn. Lo như dẫm băng. Mỗi ngày một sợ. Già đến không hay. Nay đã ngoài tám mươi tuổi, chức vị đã tới Tam công. Đã đến lúc chuông điểm canh tàn, đã tới khi sức suy gân mỏi. Bệnh tình thêm nặng, giây phút sắp lìa. Đã không chút công lao để báo đền vua sáng, lại cô phụ ơn lớn, xin vĩnh biệt thánh triều. Lòng tôi xiết bao xúc động, quyến luyến. Xin dâng biểu trần tình".

Vua xuống chiếu rằng: Khanh đem đức lớn, giúp rập cho ta, ra coi phiên trấn, vào giữ yên hòa, Thanh bình hai kỷ, là nhờ ở khanh. Vừa rồi mắc bệnh, tưởng khỏi mau thôi, nào ngờ bệnh nặng, thương xót khôn nguôi. Nay ta sai Phiêu kỵ đại tướng quân Cao Lực sỹ tới nhà thăm hỏi, Khanh hãy gắng gượng thuốc men, vì trẫm tiếc giữ thân mình, hy vọng sẽ bình yên khỏi bệnh. Đêm ấy Sinh mất.

Lư Sinh ngáp dài tỉnh dậy, thấy thân mình đang nằm ở quán trọ, Lữ Ông ngồi bên cạnh, nồi kê vẫn chưa chín, mọi việc vẫn như cũ. Sinh đứng bật dậy, ngỡ ngàng: "Chả lẽ là giấc mộng?".

Lữ Ông bảo Sinh: "Cái thỏa chí của người đời cũng như vậy đó".

Sinh ngơ ngác lúc lâu, cảm tạ Lữ Ông rằng: "Ôi, bây giờ thì tôi đã hiểu hết cái điều vinh nhục, cái vận cùng đạt, cái việc được mất, cái lẽ sống chết rồi. Tiên sinh làm thế để ngăn dục vọng cho tôi. Tôi đâu dám không nhận điều dạy bảo!" Nói rồi, cúi đầu lạy tạ mà đi (10).

Xuân Huy dịch.

GIẤC MỘNG NAM KHA(11)

Lý Công Tá (12)

Thuần Vu Phần người Đông Bình, là một trang hiệp sỹ của đất Ngô, Sở, tính nghiện rượu, phóng túng, không giữ tiểu tiết, nhà rất giầu, nuôi nhiều hiệp khách. Phần do có võ nghệ, được bổ làm tỳ tướng quân Hoài Nam, nhưng vì say rượu trái ý chủ tướng, bị đuổi bỏ đi lang thang, uống rượu liền ngày. Nhà Phần cách quận Quảng Lăng mười dặm về phía đông. Phía nam nhà có một cây hòe cổ rất lớn, thân cành chằng chịt, bóng râm tỏa hàng mấy mẫu. Hàng ngày, Thuần cùng các hiệp khách thả sức uống rượu dưới bóng hòe.

Tháng 9 năm Trịnh Nguyên thứ 7, Thuần vì uống rượu quá say, bị ốm. Lúc ấy, có hai người bạn cùng ngồi, dìu Phần về nhà, nằm ngoài hiên phía đông nhà lớn. Hai người bạn bảo chàng: "Anh ngủ đi, chúng tôi đi cho ngựa ăn và rửa chân tay, đợi anh đỡ chúng tôi sẽ đi".

Phần cởi khăn làm gối, mờ mờ ảo ảo, mơ màng như trong giấc mộng, thấy có hai vị sứ giả mặc áo tía, quì xuống lạy chàng và thưa rằng: "Quốc vương nước Hòe An sai bọn tôi đến kính mời ngài".

Chàng vội xuống sập, sửa lại mũ áo, ra cửa, thấy cỗ xe bốn ngựa kéo, có bẩy tám người hầu chung quanh đỡ chàng lên xe, phóng ra khỏi cổng, chạy về phía cây hòe cổ. Tới nơi sứ giả liền cho xe chạy thẳng vào hốc cây. Phần thấy vậy, rất kinh lạ, nhưng không dám hỏi.

Được một lát, bỗng thấy núi chăng sông trải, gió mát thoảng đưa; dọc đường cây cỏ đua tươi, khác hẳn với cõi người ở. Đi được vài chục dặm, thấy tường thành san sát, ngựa xe nườm nượp trên đường. Những người ngồi quanh chàng, truyền gọi rất nghiêm. Những người đi cũng tranh nhau tránh ra hai bên. Xe chàng lại vào một tòa thành lớn, cửa son, lầu tầng. Trên lầu có bốn chữ vàng: Nước Đại Hòe An. Người gác cổng chạy ra lạy chào. Bỗng có một kỵ sỹ phóng ngựa tới truyền gọi: "Vương thấy phò mã từ xa tới, để ngài hãy tạm nghỉ ở quán Đông Hoa". Nói xong phóng ngựa đi, lát sau, thấy một cửa động mở ra, Phần xuống xe đi bộ vào. Bên trong hiên chạm, cửa son cây cao trái lạ, trồng từng hàng phía dưới. Trong nhà, bàn ghế trải gấm bọc đệm, bày la liệt thức ngon vật lạ, chàng mừng lắm, lại nghe có tiếng gọi: "Hữu tướng đã tới". Chàng xuống thềm đón tiếp, thấy có một người mặc áo tía, đeo thẻ ngà bước tới. Đôi bên chủ khách thi lễ xong, Hữu tướng nói: "Vua nước tôi không nghĩ nước mình xa xôi hẻo lánh, cho rước ngài tới để gửi gắm nhân duyên".

Phần trả lời: "Thân tôi hèn hạ, đâu dám mong được điều đó!". Hữu tướng nhân mời Phần cùng đi. Được khoảng trăm bước thì vào một cửa son, hai bên cửa bày đầy mâu kích phủ việt. Quan quân hàng trăm người, tránh dạt ra hai bên đường. Phần có người bày rượu là Chu Biền cũng thấy đi trong số ấy. Phần trong bụng rất mừng, nhưng cũng không dám hỏi. Hữu tướng dẫn Phần lên điện lớn, bên trong ngự vệ nghiêm túc, như một chốn chí tôn. Phần thấy một người to lớn nghiêm trang ở ngôi chính vị, mặc áo lụa trắng, đội mũ hao, cài trâm ngọc. Phần run sợ không dám trông lên. Người hầu xung quanh bảo Phần vái lạy. Vương nói: "Trước đây vâng lệnh hiền tôn, không chê nước nhỏ, nay cho thứ nữ Giao Phương hầu hạ quân tử".

Phần chỉ phủ phục mà thôi, không dám đáp lại. Vương lại nói: "Hãy tới phòng khách, tiếp tục cử hành nghi lễ".

Có lệnh cho Hữu tướng cùng đi với Phần trở về nơi ở. Phần ngẫm nghĩ mãi, cho là vì cha chàng là võ tướng nơi biên cương, mất tích trong nước giặc, không biết sống chết ra sao. Hay là cha đã theo về Bắc phiên, nên mới có chuyện này? Trong lòng chàng rất nghi hoặc, không biết là thế nào.

Đêm ấy có đủ các thứ sính lễ, tơ lụa, tiền bạc, ca kỹ, đàn phách, tiệc tùng, ngựa xe, lễ vật. Nhiều tiên nữ: người thì xưng là Hoa Dương Cô, người xưng là Thạch Khê cô, người xưng là Thượng Tiên Tử, người xưng là Hạ Tiên Tử, mỗi người lại có hàng ngàn thị nữ theo hầu, đều đội mũ phượng biếc, khoác áo ráng vàng, đeo hoa vàng rực rỡ lóa mắt, du ngoạn vui chơi trước cửa, tranh nhau đùa vui với chàng. Các nàng tiên phong thái yêu kiều, lời hay ý đẹp, Phần không sao ứng đối được.

Lại có một tiên nữ nói với Phần: "Ngày Tỵ bữa trước em theo Linh Chi phu nhân qua chùa Thiền Trí, ở viện Thiên Trúc xem hữu Diên múa điệu Bà La môn. Em cùng các tiên nữ ngồi ở sập đá cửa sổ phía bắc. Khi ấy chàng còn nhỏ, cùng bỏ ngựa đến xem. Chàng chạy đến chỗ chúng em làm quen, cười đùa vui vẻ. Em cùng cô Cùng Anh buộc khăn hồng treo lên nhành trúc, chàng còn nhớ không? Lại ngày 16 tháng 7, em ở chùa Hiếu Cảm, gặp Thượng Chân Tử, nghe pháp sư Khế Huyền giảng kinh quan âm. Trong lúc nghe giảng, em ném hai chiếc thoa Kim phụng, Thượng Chân Tử ném một chiếc hộp Thủy tê; Bấy giờ chàng đang ở chỗ thầy, trong chiếu giảng, xin xem thoa và hộp. Xem rồi tán thưởng không ngớt, ta thán hồi lâu, lại nhìn chúng em và nói: "Cả người cùng vật, đều không thấy có ở cõi thế gian!". Rồi chàng hỏi về dân chúng em, hỏi về quê quán chúng em. Chúng em cũng không trả lời. Nhưng ý tính lưu luyến, nhìn nhau chẳng nỡ rời nhau, chả lẽ chàng không nhớ hay sao?".

Phần trả lời: "Những kỷ niệm ấy còn nhớ mãi trong trái tim này, bao giờ quên được".

Các tiên nữ nói: "Ngờ đâu hôm nay lại trở thành thân quyến của chàng!".

Lại có ba người đội mũ đeo đai rất kỳ vĩ, tiến lên vái Phần và nói: "Chúng tôi vâng mệnh làm phụ tá cho phò mã". Trong số đó có một người Phần thấy quen. Phần trỏ người đó và hỏi: "Ông có phải là Điền Tử Hoa ở Bằng Tường không?".

Điền đáp "Vâng" Phần bước lên cầm tay kể lại chuyện cũ hồi lâu, rồi hỏi Điền: "Sao ông lại ở đây?".

Tử Hoa đáp: "Tôi đi du ngoạn, được quen biết ngài Hữu tướng Võ Thành Đoàn Hầu Công, nên ở đậu chốn này".

Phần lại hỏi: "Chu Biền ở đây ông có biết không?".

Tử Hoa đáp: "Chu Sinh là bậc quý nhân làm tới chức Tư Lệ, quyến thế rất lớn, tôi đã nhiều lần được ông ấy che chở".

Bỗng có lệnh truyền: "Phò mã có thể vào được rồi!".

Ba tráng sĩ lấy đai kiếm mũ áo thay cho chàng. Tử Hoa nói: "Không ngờ hôm nay được xem lễ lớn, xin đừng quên nhau nhé!".

Có đến mấy chục tiên nữ chơi những khúc nhạc du dương, điệu buồn tê tái, không thấy có ở thế gian. Lại có đến mấy chục người cầm đuốc dẫn đường, hai bên bình phong rực rỡ, lụa biếc long lanh, chăng suốt đến mấy dặm. Phần ngồi ngay ngắn trong xe, lòng phấp phỏng không yên. Điền Tử Hoa nói cười cho chàng khuây khỏa. Các tiên nữ khi trước, cũng đều cưỡi xe cánh phượng cùng đi. Đến một chiếc cổng đề là "Cung Tu Nghi", các nàng tiên cũng tấp nập hai bên cổng, bảo Phần xuống xe vái lạy, y như trên thế gian. Bỏ bình phong đi, thì thấy một thiếu nữ, tên là Kim Chi công chúa, tuổi khoảng 14, 15 trông tựa thần tiên vậy. Lễ giao hoan cũng rất rõ ràng.

Phần từ đấy tình nghĩa ngày một gắn bó, cuộc đời ngày một vinh hoa. Ra vào ngựa xe trang phục, yến tiệc đãi đằng chỉ kém vua thôi, Vua sai Phần cùng các quan sẵn sàng võ sỹ, mở cuộc săn lớn ở núi Linh Quy phía tây vương quốc. Núi non xinh đẹp, sông chằm bao la, cây rừng tươi tốt, cầm thú từng đàn, không thiếu thứ gì, đoàn quân đi săn đến tối mới trở về.

Một hôm, Phần thưa với Vương: "Hôm trước khi thần kết hôn, Đại Vương có nói vâng mệnh của cha thần. Cha thần trước giúp việc chủ tướng nơi biên ải, dùng binh bị thua không may hãm vào đất giặc. Từ đó tới nay thư từ đứt đoạn đã 17,18 năm rồi. Đại Vương đã biết chỗ cha thần, xin cho thần đến thăm một chuyến".

Vương vội bảo Phần: "Cụ nhà giữ chức ở đất Bắc, tin tức có luôn, ngươi hãy viết thư báo trước, chưa nên đi ngay".

Rồi Vương bảo vợ Phần làm lễ mừng, cho Phần xem thư mấy đêm để trả lời. Phần ngẫm nghĩ ý trong thư thấy đều là bút tích của cha mình khi còn sống. Những nỗi nhớ nhung, những điều dạy bảo trong thư tận tường khúc triết cứ như thuở năm nào. Trong thư còn hỏi Phần thân thích ai còn ai mất, quê hương khấm khá hay tiêu điều. Lại nói là đường xá xa xôi, gió sương cách trở, lời lẽ đau xót, giọng điệu bi thương, ông cũng không cho Phần đến thăm mình. Thư viết: "Năm Đinh Sửu cha sẽ gặp con". Phần cầm thư nghẹn ngào đau xót mãi không nguôi.

Hôm khác, vợ Phần nói với Phần: "Anh không muốn ra làm việc nước hay sao?".

Phần đáp: "Tôi phóng túng đã lâu, không quen việc nước".

Vợ chàng bảo: "Chàng cứ làm đi, em sẽ giúp chàng".

Rồi vợ chàng thưa với Vương, mấy hôm sau Vương bảo Phần: "Quận Nam Kha của ta công việc rối ren, viên thái thú ở đó bị cách chức, ta định nhờ tài năng của khanh, được thế thì mọi việc có thể ổn, khanh nên đi ngay cùng với con gái ta".

Phần kính nhận mệnh lệnh, Vương liền sai các quan sửa soạn hành lý cho quan thái thú, lại xuất ngọc vàng gấm vóc, hòm rương, đầy tớ, ngựa xe dàn trên đường lớn để tiễn đưa công chúa lên đường.

Phần thuở trẻ là trang du hiệp, chưa bao giờ có ước vọng cao xa. Nay được làm quan to, trong lòng rất mừng rỡ. Nhân đó, chàng dâng biểu nói: "Thần là đứa con thừa nòi nhà tướng, trước nay chẳng có võ nghệ gì. Nay liều giữ chức to, ắt làm hỏng việc triều đình, cảm thấy lo lắng, sợ không gánh vác nổi. Nay thần muốn rộng tìm, các bậc hiền triết, để giúp cho những điều khiếm khuyết. Kính thấy viên Tư Lệ Dĩnh Xuyên là Chu Biền, là người trung thực thẳng thắn, giữ luật pháp rất nghiêm, có tài giúp nghiệp lớn. Viên Xử sĩ đất Bằng Tường là Điền Tử Hoa là người thận trọng sâu sắc, hiểu ngọn nguồn việc trị nước. Hai người ấy thần quen biết đã mười năm, đã hiểu rõ tài năng của họ, có thể ký thác việc chính sự. Xin cho Chu Biền làm Tư hiến Điền Tử Hoa làm Tư công quận Nam Kha., Hy vọng như vậy sẽ khiến thần làm nên chính tích và kỷ cương không bị rối ren".

Vương sai làm theo mọi điều ghi trong biểu. Đêm ấy, Vương cùng phu nhân tiễn đưa ở phía Nam Đô thành. Vương nói với Phần: "Nam Kha là một quận lớn ở nước nhà, đất đai màu mỡ, dân giàu vật thịnh, nếu không dùng ân huệ thì không cai trị được đâu, hơn nữa, có hai ông Chu Biền, Điền Tử Hoa giúp việc, khanh hãy gắng lên để thỏa lòng mong đợi của cả nước".

Phu nhân dặn công chúa: "Thuần Vu Lang là người trực tính, hay uống rượu lại trẻ tuổi. Đạo làm vợ cốt ở tính nết dịu dàng. Con khéo thờ chồng thì mẹ không lo gì nữa. Nam Kha dẫu chẳng xa xôi gì, nhưng sớm hôm xa cách, nay phải xa con, mẹ ngăn sao nổi dòng lệ nhớ thương".

Sinh cùng vợ cúi đầu vái lạy rồi lên xe thúc ngựa vui vẻ lên đường, đi liền mấy hôm tới quận. Khắp quận từ quan lại, tăng đạo đến phụ lão, nhân dân nổi nhạc, phóng xe mang theo vũ vệ, trống chiêng, đua nhau đón rước. Tiếng người tiếng ngựa ồn ào, tiếng chuông, tiếng trống vang động, kéo dài suốt mấy mươi dặm. Dọc đường, thành cao quán lớn, khí lành bốc lên nghi ngút. Vào tới cổng thành lớn, trên cổng cũng có đề bốn chữ vàng: Quận thành Nam Kha. Trong cổng những biên son, cửa lớn, hun hút kéo dài. Phần xuống xe, thăm hỏi phong tục, chạy chữa vết thương đau khổ cho dân. Việc chính sự trao cho Chu Biền và Điền Tử Hoa, trong quận yên ổn. Phần giữ quận được hai mươi năm, rộng ban phong hóa. Trăm họ ngợi ca, dựng bia công đức, xây đền tế sống. Vương rất quý trọng Phần ban cho thuộc ấp lớn, tước vị cao lại cho vào đài các, giúp Vương trị nước. Chu, Điền cũng nổi tiếng trong việc chính sự, được phong ngôi cao chức lớn cả. Phần có 5 con trai, hai con gái, con trai được tập ấm ra làm quan, con gái gả cho vương tộc, vẻ vang lừng lẫy một thời, không ai sánh kịp.

Năm ấy có nước Đàn La đánh vào quận. Vương sai Phần rèn quân luyện tướng để ngăn giặc. Phân dâng biểu xin cho Chu Biền đem 3 vạn quân để chống giữ quân giặc ở thành Cao Đài. Biền võ dũng khinh địch, nên quân thua tướng bại, phải một mình một ngựa chạy trốn, ban đêm trở về thành. Giặc cũng thu hết lương thảo khí giới rồi rút. Phần bắt Biền bỏ ngục rồi xin chịu tội, Vương đều tha cho. Tháng ấy, Tư lệ Chu Biền phát nhọt ở lưng rồi chết. Công chúa vợ chàng bị ốm, mươi ngày sau cũng mất, Phần nhân đó xin thôi giữ quận, theo xe tang trở về quốc đô. Vương cho phép, lại lấy Tư công Điền Tử Hoa coi việc thái thú quận Nam Kha. Phần đau xót đưa đám, xe tang đi trên đường, con trai, con gái kêu khóc, quan lại dân chúng đến lễ điện, tranh nhau vịn xe tang, chặt đường nghẽn lối. Về tới quốc đô, Vương cùng phu nhân mặc áo trắng ra khóc ở ngoài thành đợi xe tang tới, ban tên thụy cho công chúa là Thuận Nghi công chúa. Dàn đủ nghi trướng cổ xúy chôn cất công chúa ở núi Bàn Long cách đô thành về phía đông 10 dặm. Tháng ấy con trai của viên cố Ty hiến là Vinh Hiển cũng rước xe tang về quốc đô.

Phần coi phiên trấn lâu năm, giữ mối hoà hiếu với người trong nước; nhà quyền quý họ giàu sang, đều quen thân khắp. Từ khi thôi giữ quận trở về đô thành, giao du tân khách, đi lại thất thường, uy vọng ngày một lớn. Vương cũng có ý nghi sợ. Bấy giờ có người dâng biểu nói rằng: "Điềm trời giáng xuống, cả nước kinh hoàng. Đô thành dời đổi, Tông miếu tan hoang. Ngoại bang gây hấn, hạ nẩy chân tường !". Bấy giờ các quan nghị bàn, cho là ứng với điềm Phần làm việc tiếm nghịch. Thế là Vương ra lệnh đoạt hết quân thị vệ của Phần, cấm Phần không được giao du, bắt phải ở nhà riêng. Phần tự đoán là mình giữ quận lớn nhiều năm, chưa hề có lầm lỗi gì, thế mà bị tung tin dèm oán, trong lòng nặng chĩu buồn lo. Vương cũng biết vậy, nên bảo Phần "Duyên lành mới được hơn hai mươi năm, chẳng may con gái ta mất sớm, không được cùng quân tử sống tới khi bạc đầu răng long, thực là đau xót !".

Phu nhân cũng giữ cháu ngoại nuôi nấng, lại bảo chàng: "Khanh xa nhà đã bao lâu rồi nhỉ? Cũng nên tạm trở về quê hương, thăm lại họ hàng thân thích. Các cháu hãy để ở đây, đừng lo nghĩ gì. Ba năm sau, ta sẽ sai người tới đón!".

Phần thưa: "Đây là nhà con rồi còn về đâu nữa !".

Vương cười nói: "Khanh vốn trên nhân gian, nhà không phải ở đây!".

Phần bỗng như mê ngủ, mơ màng hồi lâu mới nhớ lại việc xưa, thế rồi chàng xùi xụt xin trở về. Vương đưa mắt cho tả hữu để tiễn Phần. Phần lạy hai lạy rồi đi, lại thấy hai vị sứ giả mặc áo tía trước kia đi theo. Ra đến cửa ngoài, thấy xe mình rất xấu. Tả hữu, thân thuộc, đầy tớ... không một ai đưa tiễn, trong lòng buồn nản lạ lùng. Phần lên xe, đi được mấy dặm, lại ra khỏi thành lớn, rõ là con đường năm xưa mình tới, núi sông, đồng bãi, lại vẫn như xưa. Hai sứ giả tiễn đưa trông chẳng còn uy thế gì. Phần càng thêm lo buồn, hỏi sứ giả: "Bao giờ thì tới quận Quảng Lăng?".

Hai sứ giả ca hát tự nhiên hồi lâu mới đáp: "Lát nữa sẽ tới".

Lát sau, ra khỏi hốc, thấy làng xóm vẫn chẳng khác xưa, Phần buồn bã trong lòng, bất giác tuôn đôi dòng lệ, Hai sứ giả dìu Phần xuống xe, vào cửa lên thềm nhà, thấy mình nằm ở dưới hiên phía đông ngôi nhà. Phần rất kinh sợ, không dám tới gần. Hai sứ giả gọi họ tên chàng mấy tiếng, Phần mới tỉnh lại như xưa, chàng thấy đầy tớ cầm chổi đứng trước sân, một khách rửa chân ở bên sập. Mặt trời xế bóng chưa chưa lặn về tây, chén rượu để bên cửa sổ vẫn còn trong vắt. Giấc mộng mơ màng như đã qua cả một cuộc đời.

Phần xúc động nhớ lại giấc mộng, gọi hai bạn rượu kể lại cho nghe. Hai người nghe xong đều kinh hãi, cũng Phần ra khỏi nhà, tìm đến chỗ hốc cây hòe. Phần chỉ hốc cây nói: "Đây là chỗ trong mộng tôi đã vào".

Hai bạn rượu cho là chỗ cáo cầy thành tinh, tác yêu tác quái, liền sai đầy tớ mang rìu búa ra chặt quang cành rễ, cứ theo hốc mà đào, xung quanh rất rộng. Có một hang lớn, rất sáng sủa, bên trong có thể kê được một cái sập, phía trên đắp đất làm thành hình thành quách, đài, điện. Có mấy ổ kiến, quần tụ phía trong, giữa có một đài nhỏ, màu sắc như son, có hai con kiến lớn ở đó, con nào cũng cánh trắng, đầu đỏ, dài tới 3 tấc, hai bên có tới mấy chục con kiến lớn bảo vệ, các con khác không dám đến gần. Đấy là quốc vương loài kiến và chỗ ấy là thủ đô nước Hoè An. Lại hang tận cùng thẳng lên cành phía Nam độ bốn trượng, chính giữa chỗ ngoặt, có một thành đất nhỏ, trên có lầu nhỏ, đàn kiến cũng ở phía trong đó. Đấy chính là quận Nam Kha mà Phần đã trấn giữ. Lại có một cái hang nữa về phía tây hai trượng, trong trống rỗng, ăn sâu vào, hình thù kỳ lạ, bên trong có một chiếc mai rùa đã rữa, to như chiếc đấu, trải mưa dầm nhuần tưới, cỏ mọc um tùm, tốt tươi dầy đặc, phủ kín mai rùa. Đó là núi Linh Quy mà Phần đã tới săn bắn. Lại một hang ở tận cùng, cách hơn một trượng về phía đông, rễ to chằng chịt, trông như hình rồng, phía trong có tường đất cao hơn một thước, đó là núi Bàn Long, nơi Phần chôn cất vợ mình. Phần nhớ lại truỵên trước, bồi hồi xúc động, xem lại dấu qua, đều phù hợp những điều xảy ra trong mộng. Chàng không muốn hai bạn phá các hang ổ ấy, vội vàng sai đắp điếm lại như cũ. Đêm ấy mưa to gió lớn. Sáng ra xem lại hốc cây thì không thấy đàn kiến nữa, không hiểu chúng đi đâu. Lời người dâng biểu trước đây: "Cả nước kinh hoàng, đô thành dơi đổi". Bây giờ ứng ngiệm. Phần lại nhớ tới chuyện chinh phạt của nước Đàn La, nhờ hai bạn lùng tìm phía ngoài. Cách ngôi nhà độ một dặm về phía đông, có một con suối cạn, cạnh suối có một cây bạch đàn lớn, mây leo chằng chịt, trông lên không thấy mặt trời. Bên cạnh có một hốc nhỏ, cũng có đàn kiến quần tụ bên trong. Nước Đàn La chẳng phải đấy còn ở đâu nữa! Than ôi, đến loại kiến mà còn linh dị khôn cùng đến thế, huống chi là sự biến hoá linh thiêng của những loài cầm thú ẩn trong núi sâu rừng lớn! Bấy giờ, bạn rượu của Phần là Chu Biền và Điền Tử Hoa đều ở huyện Lục Hợp, đã mười ngày nay không qua lại với Phần. Phần vội sai đầy tớ cấp tốc tới thăm hỏi thì Chu Biền bị bại bệnh đã chết, Điền Tử Hoa cũng ốm liệt trên giường. Phần trạnh nỗi hư ảo phù du như chốn Nam Kha, tỉnh giấc mơ đời người ngắn ngủi, bèn gửi lòng cửa đạo, dứt bỏ tửu sắc. Ba năm sau, vào năm Đinh Sửu, cũng mất tại nhà, khi ấy Phần 47 tuổi, khớp với hạn trước.

Tháng tám năm Trinh Nguyên thứ 18 Công Tá từ đất Ngô đến Lạc Dương, tạm dừng ở Hoài Phố, bỗng thấy chàng Thuần Vu Phần liền tìm hỏi dấu cũ, trằn trọc nghĩ suy thấy mọi chuyện đều thực, mới chép thành truyện, cung cấp cho những người hiếu sự. Tuy là kể chuyện thần, chuyện quái, không phải là chuyện đứng đắn, nhưng mong rằng những kẻ ăn cắp ngôi vị trên đời lấy đó làm răn, các bậc quân tử đời sau, hãy coi Nam Kha là chuyện tình cờ chớ đem danh vị mà kêu rông giữa trời đất.

Tiền Tham quân Hoa Châu Lý Triệu(13) làm bài tán như sau:

Chức vị cực quí
Quyền nghiêng quốc đo.
Thức giả xem đó,
Tổ kiến khác chi!(14)

Hoàng Hưng dịch

TRUYỆN LIỄU NGHỊ(15)

Lý Triều Uy(16)

Vào khoảng năm Nghi Phụng(17), có một người học trò là Liễu Nghị. Đi thi không đỗ, định trở về bến Tương, nhớ tới người đồng hương còn trọ ở Kinh Dương, bèn tới để từ biệt. Đi được sáu dặm, thấy chim bay ngựa hý, nghị vội lánh vào bên đường, lại đến sáu bảy dặm nữa, dừng lại, thấy có một người con gái chăn dê bên đường. Nghị lấy làm lạ, ngắm nhìn thì đó là một trang tuyệt sắc. Nhưng khuôn mặt đăm đăm, khăn áo tồi tàn, cứ đứng trơ trơ như có ý đợi ai. Nghị hỏi cô gái: "Làm sao mà nàng chịu nhục như thế".

Ban đầu cô gái cười và cảm ơn, nhưng rồi cô khóc và rằng: "Tiện thiếp chẳng may, nay được bề trên hỏi đến. Nhưng dẫu căm giận thấu xương cũng có cách nào tránh được. Xin kể chàng nghe: Thiếp là con út của Long quân hồ Động Đình. Cha mẹ gả thiếp cho người con thứ của Long Xuyên. Nhưng chồng thiếp ham chơi bời, bị bọn nữ tì mê hoặc, ngày ngày bạc tình ghét bỏ thiếp. Sau đó, thiếp kể lại cho bố mẹ chồng. Bố mẹ chồng nuông con, không ngăn được. Đến khi thiếp kể lể nhiều, mất lòng bố mẹ chồng, nên họ đầy đọa đến nỗi này đây!".

Nói xong, xụt xùi rơi lệ đau buồn khôn xiết. Nàng lại nói: "Chẳng biết Động Đình cách đây bao xa, mênh mang trời rộng, tin không tới được, đứt gan đứt ruột, ai biết mà xót thương? Nghe tin chàng sắp về đất Ngô, nơi đó rất gần Động Đình, muốn nhờ chàng gửi hộ phong thư, không biết có được hay không?".

Nghị đáp: "Tôi là kẻ có nghĩa, nghe nàng nói, khí huyết sôi lên, giận mình không có cánh bay ngay tới đó, nói chi điều có được hay không. Nhưng hồ Động Đình rất sâu, tôi ở trên trần gian, làm sao mà nhắn tin được? Chỉ sự u minh khác nẻo, hai cõi chẳng thông, thì sẽ phụ lòng thành gửi gắm và cũng trái với ý nguyện của tôi. Nàng có cách gì có thể hướng dẫn cho tôi không?".

Cô gái vừa khóc vừa cảm tạ: "Thôi đừng nói lại lời gửi gắm trân trọng nữa. Nếu thiếp được trở về với cha mẹ dẫu chết vẫn tạ ơn chàng. Chàng không nhận lời thiếp chẳng dám nói, chàng đã nhận lời mà hỏi, thì Động Đình cũng như kinh ấp, chẳng có gì lạ!".

Nghị xin được nghe. Cô gái nói: "Phía nam Động Đình có cây quất lớn, người nơi đó gọi là Xã Quất. Chàng phải cởi bỏ chiếc đai này, lấy đai khác buộc lại, rồi gõ vào thân cây ba tiếng, sẽ có người trả lời, chàng nhân đó theo vào, không có trở ngại gì đâu. May gặp quân tử, ngoài những điều kể trong thư ra, xin gửi gắm cả những lời tâm huyết, muôn vàn lần ghi nhớ đừng quên".

Nghị đáp: "Xin tuân lệnh".

Cô gái bèn lấy bức thư trong áo, lạy hai lạy rồi trao cho Nghị, nhìn về phương đông mà khóc như không sao kiềm chế được; Nghị cảm thấy rất thương xót, bỏ thư vào túi lại hỏi rằng: "Tôi không biết nàng chăn dê để làm gì, chả lẽ thần cũng giết dê hay sao?".

Cô gái đáp: "Không phải là dê đâu, là vũ công đấy".

Nghị lại hỏi: "Vũ công là gì?" Nàng đáp: "Vũ công cũng như sấm sét ấy mà".

Nghị quay sang nhìn đàn dê, con nào con ấy gườm gườm giận dữ, ăn uống rất lạ, nhưng kích thước, lông sừng không khác gì dê. Nghị lại hỏi: "Tôi làm sứ giả, lần sau có về Động Đình đứng lánh nhau nhé!".

Cô gái đáp: "Chẳng những không lánh mà còn là thân thích của nhau nữa". Nói xong, Nghị từ biệt đi về phía đông, chưa được mấy chục bước, quay lại nhìn thì cả cô gái và đàn dê đều không thấy đâu nữa.

Đêm ấy, Nghị tới ấp từ biệt bạn mình. Hơn một tháng sau, về đến quê nhà. Rồi chàng tìm tới hồ Động Đình. Phía nam Động Đình quả nhiên có cây Xã Quất, Nghị bèn thay đai, gõ vào thân cây ba tiếng rồi dừng lại. Lát sau có một tên võ phu từ trong sóng bước ra, vái Nghị và hỏi: "Quý khách từ đâu tới ạ?".

Nghị không trả lời đúng câu hỏi, chỉ nói: "Đi yết kiến đại vương đây".

Võ phu rẽ nước chỉ đường dẫn Nghị đi, bảo Nghị: "Ngãi hãy nhắm mắt lại, lát nữa sẽ tới".

Nghị làm theo, tới ngay một cung điện. Bấy giờ mới thấy đài các nối nhau, muôn ngàn cổng cửa, cây quý cỏ lạ, thứ gì cũng có. Võ phu ngăn Nghị dừng lại ở một góc ngôi nhà lớn và nói: "Khách hãy đợi ở đây". Nghị hỏi: "Đây là chỗ nào?". Võ phu đáp: "Đây là điện Linh Hư".

Nhìn kỹ thì thấy ngọc ngà châu báu đều ở đây cả. Cột bằng ngọc trắng, gạch bằng ngọc xanh, giường bằng san hô, rèm bằng thủy tinh. Chạm lưu ly trên bậu cửa, gắn hổ phác trên tường nhà. Hoa lạ hương thơm, không sao tả hết. Nhưng mãi không thấy Vương tới, Nghị hỏi Võ phu: "Động Đình quân ở đâu?".

Võ phu đáp: "Vua chúng tôi đang ở các Huyền Châu" cùng Thái Dương đạo sĩ giảng bàn hoả kinh, lát nữa là xong".

Nghị hỏi Hỏa Linh là gì.

Võ phu đáp: "Vua chúng tôi là rồng, Rồng lấy nước làm thần, lấy một giọt nước có thể bao hàm chằm núi; đạo sỹ là thần, người lấy lửa làm thánh, khêu một ngọn đèn có thể đốt cháy A phòng(18). Thế nhưng linh ứng không giống nhau biến hoá diệu huyền cũng có khác. Thái Dương đạo sỹ tinh thông đạo người, vua chúng tôi mời ngài tới để nghe đạo".

Nói dứt lời thì cửa cung mở ra, bóng hợp theo mây, thấy có một người mặc áo tía, cầm ngọc xanh, võ phu đứng dậy nói: "Đấy là đức vua chúng tôi".

Rồi bước lên báo với Long quân.

Long quân nhìn Nghị hỏi: "Ông là người cõi nhân gian phải không?". Nghị thưa: "Dạ", nói rồi vái lạy, Long quân cũng vái lạy, bảo Nghị ngồi xuống dưới điện Linh Hư, rồi nói với Nghị: "Thủy phủ thâm u, quả nhân u tối, ngài chẳng quản xa xôi ngàn dặm tới đây, chắc có điều gì dậy bảo?".

Nghị đáp: "Nghị tôi là người cùng quê với Đại Vương, lớn lên trên đất Sở, du học ở đất Tần. Bữa trước thi hỏng, dạo chơi trên sông Kinh thủy, thấy ái nữ của Đại Vương chăn dê ngoài đồng, mưa dầm gió dãi, chẳng nỡ đứng nhìn, Nghị tôi bèn hỏi duyên do thì ái nữ nói: "Bị chồng bạc tình, cha mẹ chồng chẳng đoái tới nên đến nỗi vậy". Nói xong lệ tuôn lã chã, thực rất thương tâm. Rồi nàng nhờ Nghị tôi đưa thư, tôi nhận lời, bây giờ mới tới đây!". Nói rồi, Nghị cầm thư trao cho Long quân. Long quân xem xong, lấy tay áo che mặt mà khóc, nói: "Cha già có tội không xem xét kỹ, như điếc như mù, khiến cho con trẻ phòng khuê bị hại ở phương xa, ngài là người lạ trên đường, còn biết ra tay cứu giúp. Tôi thực chịu ơn sâu nặng, đâu dám phụ lòng tốt của ngài".

Nói xong, lại rầu rĩ than thở hồi lâu, các quan tả hữu đều rơi nước mắt. Lúc ấy, có viên hoạn quan hầu cạnh Long quân, Long quân đưa thư cho ông ta, bảo truyền vào cung.

Lát sau trong cung vang tiếng khóc. Long quân bảo tả hữu: "Mau bảo trong cung đừng khóc thành tiếng, sợ Tiền Đường nghe thấy".

Nghị hỏi: "Tiền Đường là ai?".

Long quân đáp: "Là em ruột của quả nhân, trước kia làm linh trưởng Tiền Đường nay đã nghỉ việc rồi".

Nghị lại hỏi: "Tại sao lại không cho ông ấy biết?".

Long quân đáp: "Vì ông ta dũng lực hơn người. Xưa kia vua Nghiêu bị nạn lụt chín năm liền, đều do ông ấy tức giận mà gây ra cả. Gần đây giận nhau với Thiên tướng, lấp cả 5 quả núi. Thượng đế thấy quả nhân có chút công đức xưa nay, liền giảm tội cho người em nhưng vẫn bị giam ở đây. Cho nên người ở Tiền Đường hàng ngày thường tới chầu hầu".

Chưa dứt lời, bỗng có tiếng thét lớn, trời rung đất lở, cung điện chao đảo, mây tuôn cuồn cuộn, lát sau có con rồng đỏ dài hơn ngàn thước, mắt sáng như chớp, lưỡi đỏ dài hơn ngàn thước, mắt sáng như chớp, lưỡi đỏ như máu, vẩy như son, bờm tựa lửa, cổ đeo vòng vàng, vòng mang trụ ngọc. Quanh thân rồng vô vàn sấm sét liên hồi, bão tuyết mưa băng trút xuống, rồi rồng bay vút lên trời xanh. Nghị sợ quá ngã lăn xuống đất, Long quân nâng chàng dậy và bảo: "Đừng sợ, không việc gì đâu" mãi lâu sau Nghị mới dần dần trấn tĩnh được.

Sau đó Nghị cáo từ rằng: "Xin được sống sót trở về để tránh lúc rồng trở lại".

Long quân nói: "Nhất định không như vậy nữa đâu. Nó đi thì như thế, nhưng khi nó về thì không thế nữa, xin cứ ở lại để tỏ lòng gắn bó".

Rồi sai rót rượu để khoản đãi Nghị. Lát sau gió đẹp mây lành, chan hoà đầm ấm, cờ tiết rung rinh, nhạc thiều réo rắt, muôn vạn hồng trang, nói cười ríu rít. Trong đó có một người mày ngài thanh tú, ngọc sáng khắp người, lụa là phơ phất. Đến gần nhìn thì là người nhắn lời hôm trước. Nhưng bây giờ thì buồn vui lẫn lộn, nước mắt lã chã tuôn rơi, trong phút chốc, mây hồng che bên trái, khí tía phủ bên phải hương thơm ngào ngạt quyện vào trong cung. Long quân cười bảo Nghị: "Đứa con gái bị đầy ở Kinh Thủy về rồi!".

Rồi Long quân trở về trong cung, lát sau lại nghe tiếng than oán xót thương, hồi lâu chẳng dứt. Được một lát Long quân lại ra, cùng ăn uống với Nghị. Lại có một người mặc áo tía, cầm ngọc xanh, dáng vẻ thần tiên đứng bên Long quân. Long quân bảo Nghị: "Đây là Tiền Đường". Nghị đứng dậy bước tới vái chào. Tiền Đường cũng tiếp Nghị rất lễ phép, nói với Nghị: "Cháu tôi không may bị thằng ranh làm nhục. Nhờ bậc quân tử hiền minh tỏ rõ tín nghĩa, hiểu rõ nỗi oan, nếu không đã trở thành bùn đất xứ Kinh Lăng rồi. Hưởng đức nhớ ơn, nói chẳng hết được tấm lòng này".

Nghị khiêm nhường tử tạ, chỉ cúi đầu vâng dạ. Sau đó, Tiền Đường quay sang nói với anh: "Bữa rồi, giờ Thìn ra đi từ điện Linh Hư, giờ Tỵ tới Kinh Dương, giờ Ngọ đánh nhau ở đấy. Chưa về thẳng đây, nửa chừng bay lên trời, tâu với Thượng đế. Đế biết nỗi oan nên tha tội cho, những khiển trách trước đều được tha cả. Nhưng vốn tính nóng nảy, chưa kịp từ biệt, làm kinh động trong cung, lại làm phật lòng tân khách. Trong lòng cảm thấy xiết bao lo lắng hổ thẹn". Nói rồi, lui lại và vái lạy hai lạy.

Long quân hỏi: "Giết mất bao nhiêu?".

Đáp: "Sáu mươi vạn".

"Có làm hại mùa màng không?".

Đáp: "Tám trăm dặm"

"Kẻ vô tình kia đâu?"

Đáp: "Đã ăn thịt rồi".

Long quân buồn rầu nói: "Thằng ranh tàn nhẫn thế, thực không thể tha thứ, nhưng chú cũng vội vã quá, nhờ Thượng đế thánh linh, xét rõ nỗi oan, nếu không tôi biết ăn nói làm sao ? Từ nay trở đi, chớ như vậy nữa".

Tiền Đường lại vái tạ.

Đêm ấy, Nghị nghỉ ở điện Ngưng Quang. Hôm sau lại đãi yến Nghị ở cung Ngưng Bích. Long quân hội họp bạn bè thân thích, bày dàn nhạc lớn, có đủ rượu ngon, thức ăn thơm ngon tinh khiết. Ban đầu nổi kèn, tù và, chiêng trống, phất cờ vung kiếm kích, một vạn võ sỹ múa ở bên phải, một võ sỹ từ trong hàng múa tiến lên nói: "Đây là điệu nhạc Tiền Đường phá trận". Cờ vung khí mạnh, nhìn mà rợn người. Quan khách ngồi xem tóc lông dựng ngược. Lại có kim thạch ty trúc, lụa là châu ngọc, một ngàn mỹ nữ múa ở bên trái. Một mỹ nữ từ trong hàng múa đứng lên nói: "Đây là điệu nhạc Quý chủ trở về cung". Tiếng nhạc du dương, như kể lể, như hâm mộ. Khách ngồi xem bất giác rơi lệ. Hai điệu múa vừa xong, Long quân mừng lắm, đem lụa là ban cho người múa. Sau đó, bày tiệc ngồi sát nhau uống rượu vui vẻ. Rượu say, Động Đình quân bèn gõ chiếu ca rằng:

Trời cao xanh xanh chừ, đất lớn mênh mang,
Ai cũng có chí chừ, không thể suy lường.
Thần cáo thánh chuột chừ, nhờ miếu dựa tường,
Sấm sét ra uy chừ, nào ai dám đương?
Ơn trinh nhân chừ, tín nghĩa trường,
Cho cốt nhục chừ, về cố hương.
Hỡi ôi hổ thẹn chừ, bao giờ quên!

Động Đình quân ca xong, Tiền Đường quân vái lạy mà ca rằng:

Trời cao phối hợp chừ, sống chết có nơi.
Đây chẳng nên vợ chừ, đấy chẳng nên người !
Đắng cay đứt ruột chừ, Kinh Thủy xa vời.
Gió sương bạc tóc chừ, băng tuyết đầy vơi,
Nhờ minh công chừ, đưa bức thư,
Cho cốt nhục chừ, lại như xưa.
Hãy xin trân trọng chừ, mãi muôn đời.

Tiền Đường quân ca dứt, Động Đình quân cùng đứng lên, nâng chén mời Nghị, Nghị cung kính đỡ lấy. Uống xong lại rót hai chén rượu kính mời hai vị, rồi ca rằng:

Man mác mây xanh chừ, Kinh thủy lòng trôi,
Thương mỹ nhân chừ, mưa khóc hoa sầu.
Muôn dặm thư đưa chừ, khuyây nỗi lo âu.
Oán kia rũ sạch chừ, về hưởng phúc sau.
Chịu tình nặng chừ, cảm ơn sâu.
Nước non tịch mịch chừ, khó ở lâu.
Muốn rằng từ biệt chừ, buồn hắt hiu.

Ca xong mọi người đều hô "Vạn tuế" Động Đình quân lại đem hòn ngọc trắng đựng sừng tê rẽ nước; Tiền Đường quân lại đem mâm hồng ngọc chứa viên ngọc soi đêm để tặng Nghị, Nghị cảm ơn nhận lấy. Sau đó, những người trong cung đều đem lụa là châu báu chất quanh người Nghị, chỉ một lát, đã thành đống ngổn ngang rực rỡ. Nghị cười nói vái chào liên tiếp. Đến khi tiệc tàn, Nghị đứng dậy từ biệt trở về nghỉ ở điện Ngưng Quang.

Hôm sau, Động Đình quân lại đãi yến Nghị ở các Thanh Quang. Tiền Đường nhân rượu say, hầm hầm nhổm dậy nói với Nghị: "Nghị có nghe người ta nói: "Đá cứng có thể đập vỡ chứ không thể uốn cong, nghĩa sỹ có thể giết chết chứ không thể làm nhục không?". Tôi có điều tâm sự muốn nói với ngài. Nếu được thì chúng ta cùng thanh thản đường mây; nếu không được thì ngài sẽ thành bùn thành đất, ngài nghĩ thế nào?". Nghị nói: "xin được nghe". Tiền Đường nói: "Vợ Kinh Dương là con gái yêu của Động Đình quân, tư chất dịu dàng hiền thục, được cả họ yêu quý, chẳng may bị thằng vô lại làm nhục, nay nó đã chết rồi. Chúng tôi định tìm bậc nghĩa hiệp để gửi gắm, đời đời kết thông gia, cho kẻ chịu ân biết chỗ trả ơn, người thương xót, có nơi thương xót. Đấy chẳng phải là lẽ thủy chung của bậc quân tử hay sao?".

Nghị nghiêm sắc mặt, thản nhiên cười nói: "Thực chẳng ngờ Động Đình quân hèn kém đến vậy. Trước đây, nghe nói ngài làm lụt cả chín châu, ôm cả năm trái núi để trút căm giận, lại thấy ngài bẻ gãy khóa cổ và trụ ngọc đi cứu cháu mình, Nghị nghĩ không ai cương quyết, sáng suốt hơn ngài. Bởi kẻ phạm hình không né cái chết, người cảm nghĩa không tiếc cuộc đời, đó chính là cái chí của bậc trượng phu. Cớ sao vừa mới ca nhạc thân vui, chủ khách hòa thuận, lại bất chấp đạo lý, đe dọa ân nhân? Đó đâu phải là điều tôi trông đợi ở ngài? Nếu tôi gặp ngài ở giữa nơi sóng to lũ lớn, ở tận chốn núi thẳm rừng sâu mà ngài dương vây múa vuốt, cuộn mây trút mưa bức Nghị phải chết thì Nghị coi ngài là loài cầm thú cũng chẳng nói làm gì. Đằng này, ngài chững chạc áo mũ, ngồi bàn lễ nghĩa, nào ý nghĩa của ngũ thường, nào mục tiêu của bách hạnh. Dẫu đến hào kiệt cõi thế gian cũng không bằng, nói chi đến các loài thiêng chốn sông nước? Thế mà định đem cái thân xuẩn ngu, cái nết hung hãn, nhân chén rượu nổi cơn khùng để đe dọa người khác, như thế có phải là cạn nhân tình hay không? Hơn nữa, với sức vóc của Nghị, chẳng đáng để Vương ra tay, nhưng Nghị dám đem ý chí bất khuất để chiến thắng thói vô đạo của Vương. Xin Vương hãy liệu!".

Tiền Đường vội vàng xin lỗi: "Quả nhân sinh trưởng trong cung phòng, không được nghe lời bàn chính đáng. Vừa rồi nói năng thô bạo, ngông cuồng xúc phạm tới bậc cao minh tự xét lại mình, tôi không thể dung thứ. Xin quân tử không vì thế mà nghĩ khác đi". Đêm ấy lại yến tiệc ca hát vui vẻ như cũ. Nghị và Tiền Đường sau trở thành bạn tri âm.

Hôm sau, Nghị từ biệt ra về, Phu nhân Động Đình quân mở tiệc riêng đãi Nghị ở điện Tiềm Cảnh. Tất cả mọi người đều dự tiệc. Phu nhân khóc nói với Nghị: "Con tôi chịu ơn sâu của quân tử, hận chưa báo đáp được, đã phải chia ly", rồi sai con gái vái Nghị để tỏ lòng tạ ơn. Phu nhân lại nói: "Cuộc chia ly này còn có ngày gặp nhau nữa không?". Nghị tuy ban đầu không nhận yêu cầu của Tiền Đường, nhưng trong bữa tiệc này, lại có ý rất ân hận. Tiệc xong từ biệt cả cung buồn rầu đưa tặng châu báu, vàng ngọc rất nhiều. Thế rồi Nghị lại theo lối bờ sông, thấy có hơn mười người gánh túi đi theo, đến tận nhà mới từ biệt. Sau đấy, Nghị ra chợ Quảng Lăng bán quà tặng, trăm phần chưa đến một phần mà đã tiền mặt chất đầy. Vì thế, các nhà giàu có vùng Hoài Hữu đều chịu nhận là không bằng Nghị.

Rồi Nghị lấy người con gái họ Trương. Người con gái ấy chết, chàng lấy Hàn thị. Được mấy tháng thì Hàn thị lại chết. Chàng dời nhà đến Kim Lăng, luôn cảm cảnh về nỗi góa vợ trống vắng, định tìm người mới! Có bà mối tới bảo chàng: "Họ Lư ở đất Phạm Dương có cô con gái, cha là Hạo, trước làm quan ở Thanh Lưu, khi về già ưa học Đạo, một mình du ngoạn chốn vân tuyền, nay không biết đi đâu. Mẹ họ Trịnh. Cô ấy năm trước lấy người họ Trương ở Thanh Hà, chẳng may chồng mất sớm, bà mẹ thương cô ấy còn trẻ, tiếc cho cô ấy xinh đẹp, thông minh, muốn chọn người có đức để gả, không hiểu ý ông thế nào?". Nghị liền chọn ngày đưa lễ hỏi. Hai bên trai gái đều là họ lớn giàu sang, nghi thức lễ vật, đều rất đầy đủ thịnh soạn, sĩ phu đất Kim Lăng, ai cũng kính tụng. Ăn ở với nhau được hơn một tháng, bữa tối nọ, chàng vào phòng, thấy vợ mình rất giống người con gái của Động Đình quân, mà lại xinh đẹp phúc hậu hơn, chàng nhân vậy kể cho nàng nghe câu chuyện xưa. Vợ chàng nói: "Chả lẽ cõi người cũng có chuyện ấy sao?".

Được hơn một năm, có một con trai, Nghị càng quí trọng vợ. Đẻ xong đầy tháng, bèn sửa sang trang sức, y phục, gặp gỡ thân thích bạn bè. Trong bữa họp mặt, nàng cười nói với Nghị: "Chàng không nhớ em ngày xưa ư?" Nghị đáp: "Xưa đưa thư cho Động Đình quân, đến nay vẫn nhớ". Nàng lại nói: "Em là con gái út của Động Đình quân. Nỗi oan khuất ở Kinh Xuyên, nhờ chàng mới được bộc bạch. Em mang ơn chàng, thề với lòng mình sẽ tìm cách báo đáp. Tới khi chú Tiền Đường bàn việc mai mối không xong, đến nỗi ly biệt mỗi người một phương trời, không làm sao thăm hỏi được nhau. Rồi cha mẹ em định gả em cho con trai ông Trạc Cẩm. Em nghĩ là lời thề với lòng mình khó đổi dời mà ý cha mẹ cũng không thể trái. Mình đã bị chàng ruồng bỏ, không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau, nhưng nỗi oan xưa dẫu được tỏ cùng cha mẹ, mà lời thề báo đáp vẫn không thực hiện được, thế là em lại dịnh chạy tới kể lể cùng chàng. Gặp lúc chàng lấy vợ mấy lần, trước thì lấy chị họ Trương, sau đến chị họ Hàn. Đến khi hai chị nối nhau chết, chàng đến ở chốn này. Cho nên cha mẹ em mới mừng cho em có dịp báo ơn chàng. Ngày nay được thờ chàng, em xúc động vui mừng trọn đời, đến chết cũng không ân hận gì nữa". Nói xong sùi sụt, nước mắt tuôn rơi, nhìn Nghị lại nói: "Ban đầu em không nói ra vì biết chàng vốn không hiếu sắc. Nay em lại nói, vì biết chàng có ý cảm em. Đàn bà phận bạc, chẳng đáng phải để tâm bền chặt mãi, nên nhân thấy chàng thương con, em mới thác chuyện tương sinh, không biết ý chàng thế nào? Lòng em vừa buồn vừa sợ, không làm sao hiểu được. Hôm chàng nhận đưa thư, có cười nói với em: "Sau này về Động Đình, đừng có lánh nhau nhé!". Thực không hiểu ngày ấy chàng có nghĩ tới chuyện ngày nay không? Sau đó, chú em mời chàng ở lại, chàng cố tình không nghe, có phải đúng là chàng không chịu, hay là chàng giận? Chàng nói đi!" Nghị đáp: "Hình như có số phận cả!".

Ban đầu tôi thấy nàng ở cõi Trường Kinh, oan ức tiều tụy, thực lòng có ý bất bình. Nhưng tự hẹn với lòng mình là giải nỗi oan cho nàng, ngoài ra không có ý gì khác. Còn câu "Đừng có quên nhau" thì chỉ là tình cờ thôi, không có dụng ý gì. Đến lúc Tiền Đường bắt ép tôi, nghĩ là về lý không thể thế được, chỉ gây nỗi giận dữ mà thôi. Này nhé, ban đầu hành động là vì nghĩa khí, sao lại giết chồng người rồi lấy vợ của người ta. Đó là một lẽ không thể được. Tôi vốn là một người ưa giữ lòng chân thực, chả lẽ bản thân chịu khuất phục, ý chí phải phục tùng người khác hay sao? Đó là hai điều không thể được. Hơn nữa, trong lúc tâm trí lúng túng, ứng đối liên miên thì chỉ nghĩ đến lẽ thẳng, không còn hơi đâu nghĩ đến né tránh tai họa. Nhưng khi sắp chia ly, thấy nàng có dáng quyến luyến thì trong lòng lại rất ân hận. Sau này vì công việc thúc ép, không có cách nào cảm tạ được. Ôi, hôm nay, nàng là con gái họ Lư, lại làm nhà ở cõi người, thế thì tấm lòng xưa của tôi không bị mê hoặc. Từ nay về sau mãi mãi vui sống bên nhau, chớ có mảy may băn khoăn gì nữa". Nghe xong, nàng rất đỗi xúc động, khóc nức nở hồi lâu rồi nói với Nghị: "Chớ thấy em khác loài mà cho là giống vô tình, em biết cách báo ơn chàng. Này nhé, giống rồng thọ một vạn tuổi. Nay em với chàng cũng thọ như vậy. Trên bộ, dưới nước đi đâu cũng được, chàng chớ cho em là nói khoác!". Nghị mừng rỡ nói: "Anh không ngờ trang quốc sắc lại còn là bậc thần tiên nữa".

Rồi đó, hai vợ chồng cùng nhau về thăm Động Đình. Đến nơi mọi nghi lễ chủ khách rất lớn, không ghi hết được. Sau đó, hai người về ở Nam Hải gần bốn mươi năm. Mọi thứ nhà cửa xe ngựa châu báu ngọc ngà, dẫu đến bậc vương hầu bá tước cũng chẳng hơn. Họ hàng nhà Nghị đều được hưởng ân trạch. Xuân thu đắp đổi, thế mà dáng vẻ vẫn trẻ trung, người vùng Nam Hải, ai cũng cảm thấy lạ lùng kinh sợ.

Đến năm Khai Nguyên, trên trời chú ý tới việc thần tiên, lùng tìm đạo thuật rất gắt gao. Nghị sống không yên, liền đem nhau về Động Đình ở hơn mười năm, không ai biết dấu vết ở đâu.

Đến cuối năm Khai Nguyên người em họ của Nghị làm Kinh kỳ lệnh, bị giáng làm quan ở phương Đông nam, qua hồ Động Đình, giữa ban ngày nhìn xa xa thấy một ngọn núi biết nổi lên trên mặt sóng. Người trong thuyền đều nói "Chỗ ấy vốn không có núi, sợ đó là thủy quái". Phút chốc, thuyền sát núi, thấy có một chiếc thuyền hoa từ núi lao ra, đón hỏi Hỗ, trong đó có một người gọi: "Liễu công tới hầu!". Hỗ tỉnh táo ghi nhớ, rồi giục thuyền tới chân núi, nhanh nhẹn trèo lên. Núi này có cung khuyết như ở nhân gian, Nghị đứng trong cung, phía trước bầy đàn địch, phía sau bầy châu ngọc, những thứ châu báu trang hoàng, nhiều hơn nhân gian gấp bội. Nghị nói năng rất sâu sắc, vẻ người lại rất trẻ. Trước đón Hỗ lên thềm, cầm tay Hỗ nói: "Chia tay nhau thấm thoát mà tóc đã bạc cả rồi!" Hỗ cười nói: "Anh là thần tiên, em là nắm xương khô, cũng là số mệnh!" Nghị lấy ra năm mươi viên thuốc đưa cho Hỗ và bảo: "Mỗi viên thuốc này có thể thêm một tuổi thọ. Cuối năm lại đến đây đừng ở mãi thế gian mà chịu khổ". Tiệc vui xong, Hỗ từ biệt ra đi. Từ đó về sau, không ai thấy bóng hình tăm tích nữa. Hỗ đem chuyện này kể lại cho người đời. Được gần bốn kỷ Hỗ cũng đi đâu mất.

Lý Triều Uy ở Lũng Tây kể truyện và than rằng: "Đứng đầu năm loài(19) ắt hẳn là sinh vật linh thiêng, ở truyện này ta mới thấy chứng nghiệm. Người là loài khỏa trùng, giữ tín với loài lân trùng. Động Đình quân nói năng thẳng thắn hào phóng. Tiền Đường quân lỗi lạc phi thường nên có kế thừa. Hỗ ca ngợi nhưng không ghi, tôi thấy truyện có nghĩa, nên ghi lại(20).

Xuân Huy dịch

TRUYỆN LÝ OA(21)

Bành Hành Giản(22)

Khiên Quốc phu nhân Lý Oa, là một xướng nữ đất Trường An, tiết hạnh cao quý, đáng ca ngợi, nên Giám sát ngự sử Bạch Hành Giản viết truyện kể về nàng.

Năm Thiên Bảo(23), có viên thứ sử Thường Châu Vinh Dương Công, uy vọng rất lớn, đầy tớ rất nhiều. Đến tuổi tu thiên(24) sinh được một con trai, nay vừa hai mươi tuổi. Sinh là người thông minh, có tài văn chương hơn hẳn người thường nên rất được người đương thời kính phục. Cha Sinh rất yêu quý thường nói:

"Nó là con ó ngựa Thiên lý của nhà ta".

Vào dịp thi Hương, cha Sinh sửa soạn đủ trang phục ngựa xe, tính toán phí tổn đến Kinh đô, nói với Sinh:

"Ta thấy với tài của con, chắc một lần ra trận là chiến thắng. Nay ta chuẩn bị cho con tiền tiêu trong hai năm, để con chi dùng dồi dào thoải mái".

Sinh có lần từ chợ Đông trở về, vào phường Bình Khang(25) định đến thăm một người bạn ở mé Tây Nam. Đến phố Minh Kha, thấy một khu nhà, cửa sân không rộng lắm nhưng nhà trông đường bệ thâm u. Bên cánh cửa khép, có một thiếu nữ áo xanh, tóc búi trái đào, đứng tựa lan can, vẻ người yểu điệu thướt tha, thực là trang giai nhân tuyệt sắc. Sinh vừa nhìn thấy nàng, bất giác dừng ngựa, ngập ngừng ngồi lâu không nỡ bỏ đi. Chàng bèn giả vờ đánh rơi roi ngựa, chờ người hầu đến sai nhặt lên, mắt luôn liếc nhìn thiếu nữ. Thiếu nữ cũng quay lại đăm đăm nhìn chàng, tình cảm rất trìu mến, nhưng nàng không dám nói một lời, bỏ đi.

Từ bữa ấy, Sinh cảm thấy bâng khuâng như mất mát thứ gì, chàng kín đáo tìm bạn bè quen thuộc đất Trường An dò hỏi. Bạn chàng cho biết là nhà người xướng nữ họ Lý. Sinh hỏi:

"Cô gái có thể hỏi được không?"

Bạn chàng nói:

"Lý thị rất giàu. Những người đi lại trước đây đều là hạng giàu sang cả, tiền thu về rất nhiều. Nếu không có hàng trăm vạn thì nàng không chuyển đâu!".

Sinh nói:

"Chỉ sợ nàng không bằng lòng thôi, chứ tiếc gì trăm vạn".

Hôm sau, Sinh ăn diện lịch sự, ngựa xe sang trọng tới gõ cửa nhà nàng, lát sau có con hầu ra mở cửa Sinh hỏi:

"Đây là nhà ai?".

Con hầu không trả lời, chạy vào, gọi to:

"Chàng rơi roi ngựa bữa trước đã đến!"

Thiếu nữ mừng rỡ nói:

"Em ra bảo chàng đợi một lát, ta trang điểm một chút sẽ ra".

Sinh nghe nàng nói, mừng thầm trong lòng. Con hầu đưa Sinh đến gian bên, thấy một bà già tóc ngả bạc, lưng đã còng, đây là mẹ nàng thiếu nữ. Sinh quỳ xuống lạy thưa: "Con nghe nói ở đây có nhà bỏ vắng, xin thuê để ở có được không ạ?"

Bà già đáp:

"Chỉ sợ nó xấu xí dột nát, không đáng để cho bậc trưởng giả hạ mình ở đó, cũng xin nói thẳng!".

Bà mời Sinh sang phòng khách rất sang trọng, ngồi đối diện với Sinh bà nói:

"Tôi có đứa con gái yêu còn trẻ, tài nghệ vụng về, nay may gặp khách đây, xin cho nó ra gặp mặt!".

Nói rồi bà gọi nàng Oa ra, Sinh thấy nàng đôi mắt trong sáng cổ tay trắng ngần, vội đứng dậy, không dám nhìn lên. Chào hỏi xong, đôi bên chuyện trò thân mật. Nàng kiều diễm xinh tươi, mắt chàng chưa bao giờ thấy ai được như thế, nàng ngồi xuống pha trà, rót rượu, mời Sinh. Mãi đến chiều tối, trống đã điểm bốn hồi, bà mẹ hỏi Sinh nhà ở xa hay gần. Sinh nói dối là ở ngoài cửa Diên Bình mấy dặm, hy vọng xa như vậy là được ở lại. Bà mẹ nói:

"Trống đã điểm rồi, mau về đi thôi, đừng phạm lệnh cấm".

Sinh thưa:

"May được đón tiếp vui vẻ, không biết trời đã tối, đường xá xa xôi, trong thành không có ai thân quen, không biết làm thế nào bây giờ?".

Oa nói:

"Chàng không chê nhà hẻo lánh lụp sụp, vừa mới ở lại thì qua đêm ở đây có ngại gì?".

Sinh đưa mắt nhìn bà mẹ. Bà gật đầu đáp: "được, được!"

Sinh liền gọi gia đồng đưa hai tấm lụa tới(26), xin sửa một bữa tiệc đêm. Oa cười, ngăn lại, nói:

"Chủ tiếp khách, không nên như thế. Bữa tiệc đêm nay xin theo cảnh nhà nghèo khó, sửa món cơm hẩm mời chàng. Ngoài ra, thì xin đợi bữa khác!". Sinh cố từ, nhưng nàng vẫn không nghe.

Lát sau, dời đến Tây Đường, ở đây, màn rèm, giường đệm rực rỡ sang trọng. Các thức áo gối, trang sức đều xa hoa lộng lẫy. Tiệc dâng lên các món ăn đều rất ngon, rất quý. Ăn xong bà mẹ đứng dậy. Sinh và Oa trò chuyện đương lúc đằm thắm. Hai người cười đùa vui vẻ, chuyện gần chuyện xa. Sinh nói:

"Bữa trước tình cờ qua nhà em, gặp em đứng bên cửa, từ đó, trong lòng lúc nào cũng nhớ, dẫu bữa ăn, giấc ngủ cũng không quên em". Oa đáp: "Lòng em cũng như thế". Sinh nói:

"Nay anh đến đây không chỉ tìm nhà thôi đâu, còn xin được toại nguyện đời mình, không biết ý em thế nào?".

Nói chưa dứt, bà mẹ đã tới, hỏi duyên cớ. Sinh thưa hết mọi chuyện. Bà cười, nói:

"Giữa trai và gái, bao giờ cũng có dục tình. Nếu tình cảm hợp nhau, thì dẫu mẹ cha cũng không ép được. Con gái tôi quê mùa, sao đáng hầu chăn gối bậc quân tử?".

Sinh vội xuống thềm, vái lạy, tạ ơn thưa:

"Con xin được hầu hạ mẹ!".

Bà mẹ liền coi Sinh là chàng rể, uống say rồi bỏ đi.

Sáng hôm sau, chàng dọn hết hành lý đến ở nhà bà Lý. Từ đấy, Sinh dấu vết, náu thân không đi lại với bạn bè thân thích nữa. Ngày ngày chàng cùng bọn xướng ca làm trò, vui đùa yến tiệc. Tiền tiêu hết sạch, chàng bán cả ngựa xe và đứa hầu. Hơn một năm, mà của cải xe ngựa đầy tớ phá tán hết sạch. Gần đây, bà mẹ dần dà có ý rẻ rúng, nhưng tình yêu của nàng Oa lại ngày một nồng nàn.

Một hôm, Oa bảo Sinh:

"Sống với chàng đã hơn một năm vẫn chưa có thai, nghe nói thần Trúc Lâm rất linh ứng, chúng mình tới đó cầu tự có được không?".

Sinh không hiểu đấy là mưu kế của mẹ con nàng, mừng lắm liền cầm quần áo, lấy tiền sửa lễ tế thần, cùng nàng tới đền làm lễ cầu tự. Qua đêm trở về, khi đánh xe đến cửa Bắc, Oa bảo Sinh:

"Quãng phố rẽ sang phía Đông là nhà dì em, chúng ta đến đó nghỉ, nhân tiện thăm dì một thể, anh có chịu không?".

Sinh làm theo lời nàng. Đi chưa đầy trăm bước quả nhiên có một cái cổng, nhìn vào bên trong thấy rộng. Có một người con gái áo xanh từ sau xe ngăn lại, nói: "Đến rồi".

Sinh xuống xe, vào lúc đó, có người hỏi: "Ai đó?". Trả lời: "Lý Oa đây". Người đó vào báo. Lát sau, có người đàn bà khoảng hơn 40 tuổi, ra đón Sinh nói:

"Cháu tôi đã đến phải không?".

Oa xuống xe, người đàn bà đon đả:

"Sao đã lâu biệt tăm không thấy mặt?". Hai người nhìn nhau cười. Oa dẫn Sinh đến chào. Chào xong, mọi người cùng vào cửa chính. Sân rộng có núi giả, có khóm trúc xanh um, có đình tạ trên hồ, cảnh rất u nhã. Sinh nói với Oa:

"Đây là nhà phải không?". Oa không nói gì, lảng sang chuyện khác. Lát sau, trà quả đưa lên, đều là những thức quý lạ. Ăn được một lát, có một người cưỡi ngựa quý, mồ hôi nhễ nhại phi tới, nói:

"Cụ nhà mắc bạo bệnh rất nặng, giờ không nhận ra ai nữa, cô mau trở về". Oa nói với dì:

"Ruột gan cháu rối bời, anh cứ cưỡi ngựa về trước đi, ta cho xe quay lại, rồi cùng chàng trở về".

Sinh định đi theo, bà dì cùng con hầu nhỏ to với nhau điều gì, lấy tay vẫy Sinh dừng lại ở ngoài cửa, nói:

"Mẹ sắp mất rồi, giờ nên bàn việc chôn cất trước đi, đi về theo làm gì!".

Sinh ở lại, cùng dì bàn nghi lễ tang sự. Đến tối, xe vẫn không đến. Dì bảo Sinh:

"Sao không thấy trở lại nhỉ? Cháu hãy về trước xem sao, dì sẽ đến ngay".

Sinh về đến nhà cũ thì cửa đã khóa và niêm phong kín. Sinh sợ hãi, hỏi người bên cạnh thì họ nói:

"Bà Lý thuê nhà ở đây đã được một năm. Nay chủ nhà lấy lại. Bà ấy chuyển đi nơi khác rồi". Sinh hỏi:

"Chuyển đi đâu?".

Trở lời:

"Không rõ là ở đâu!".

Sinh định chạy về Tuyên Dương để hỏi bà dì. Trời đã tối, tính độ đường ắt không tới, bèn đem cầm trang phục lấy tiền ăn, thuê đường ngủ. Sinh vừa giận, vừa lo, từ chập tối đến sáng hôm sau, không sao chợp mắt được. Sáng sớm, Sinh cưỡi con ngựa què ra đi. Đến nơi, chàng gõ cửa một lúc không có ai trả lời. Sinh gọi lớn mấy lần. Có một viên hoạn quan đi ra, Sinh vội hỏi:

"Bà dì có nhà không?"

Trả lời: "Không có"

Sinh nói:

"Tối qua còn ở đây, việc gì phải dấu?".

Sinh hỏi đây là nhà cửa của ai, người đó đáp:

"Đây là nhà quan Thượng thư họ Thôi. Hôm qua có một người đến thuê nhà này, nói rằng chờ người chị em từ xa tới, chiều hôm qua đã đi mất rồi".

Sinh hoảng hốt như phát điên, không biết làm cách nào bèn trở về nhà cũ ở xóm Bố Chính. Nhà chủ thương tình, cho Sinh ăn uống. Sinh oán giận buồn rầu, nhịn ăn ba ngày; bị bệnh nặng, mười ngày sau bệnh rất nặng. Nhà chủ sợ chàng không sống nổi, cho chàng ra ở hiệu cho thuê đồ đưa đám. Sinh ốm triền miên rất lâu. Cả hiệu ai cũng thương xót, thay nhau nuôi chàng. Sau bệnh đỡ dần chống gậy đi đứng được. Từ đấy, hiệu đồ tang thuê chàng, bảo chàng cầm phướn, kiếm tiền nuôi thân. Mấy tháng sau khỏe dần mỗi khi nghe bài ca đưa ma, Sinh thường than là mình chẳng bằng người chết. Thế là chàng sụt sùi tuôn lệ, không sao cầm được, trở về lại bắt chước điệu hát đau thương ấy. Sinh vốn thông minh, nhậy cảm, chẳng bao lâu, chàng học hết được những bài ca đưa ma hay nhất, cả đất Trường An không ai sánh được với chàng.

Trước đây, có hai hiệu cho thuê đồ đưa đám, hai bên đua nhau hơn kém chẳng ai chịu ai. Hiệu bên đông thì xe đòn hoa lệ, không ai địch nổi, chỉ có bài đưa ma là không hay, ông chủ này biết Sinh có giọng ca tuyệt diệu, liền bỏ ra hai vạn quan tiền thuê Sinh, chọn những tay lão luyện, kín đáo dạy cho Sinh những khúc hát mới rồi cùng họa theo, được đến mấy tuần, cũng không ai biết. Rồi hai ông chủ hiệu nói với nhau:

"Tôi định thi những đồ đưa đám ở phố Thiên Môn, xem ai được ai thua. Người thua phải phạt 5 vạn để dùng vào việc tiệc rượu có được không?".

Hai hiệu đều đồng ý, bèn mời người viết cam đoan, tìm người làm chứng, sau đó mở cuộc thi. Hôm thi, con trai, con gái, kéo nhau đến xem, có tới mấy vạn người. Thế rồi một truyền mười, mười truyền trăm, người khắp bốn phương kéo đến xem như hội.

Cuộc thi từ sáng sớm đến trưa. Lần lượt thi xe đòn, đồ tế, hiệu phía Tây đều thua. Chủ hiệu đã có ý thẹn, đặt sập tầng ở góc phía Nam. Có một người râu dài, cầm chiếc chiêng lớn bước vào. Thế là mấy người hộ tang dương lông mày, vuốt râu đẹp, nắm tay lắc đầu, bước lên ca bài Bạch Mã(27). Bọn này trước nay cậy mình vẫn được cuộc, đưa mắt nhìn khắp xung quanh, coi như không còn ai nữa, đồng thanh tán dương, tự coi mình là nhất, không còn ai hơn. Lát sau, chủ hiệu bên Đông lên bầy sập liền, có một thiếu niên đội khăn đen, chung quanh có 5, 6 người cầm cờ, phướn bước tới. Người thiếu niên đó là Sinh. Sinh sửa lại trang phục động tác rất chậm rồi hắng giọng bắt đầu hát bài Giới lộ(28). Tiếng ca du dương, ai oán, rung động cả núi rừng. Chưa xong bài, tất cả người nghe đều sụt sùi rơi lệ. Chủ hiệu bên Tây bị mọi người chê, rất hổ thẹn, vội kín đáo đặt tiền thua cuộc rồi lẩn mất. Cả đám đông đều kinh ngạc, không biết tìm đâu.

Trước đây, vua vừa xuống chiếu sai các quan coi trấn ngoài cứ mỗi năm một lần về Kinh, nói là về bàn việc. Khi ấy, đến lượt cha Sinh ở Kinh sư, cùng các quan thay trang phục, bí mật đi xem cuộc đua. Có một người hầu, là chồng vú của Sinh, thấy cử chỉ, giọng nói của Sinh, định đến nhận nhưng chưa dám, nước mắt chảy dòng dòng; Cha Sinh kinh ngạc hỏi, người đó đáp:

"Dáng người hát bài đưa ma, rất giống cậu nhà đã mất"

Cha Sinh nói:

"Con ta vì có nhiều tiền của đã bị cướp giết hại, làm sao đến được đây?". Nói xong cũng khóc.

Khi trở về, người hầu chạy thẳng đến hỏi thăm đồng bọn với Sinh:

"Người vừa hát đó là ai? Làm sao hát hay thế?".

Mọi người đều nói: Là con của ông Mỗ...". Hỏi thăm đến họ thì đã đổi thay rồi. Người hầu lạnh người, sợ hãi đến gần xem. Sinh thấy người hầu nét mặt xúc động, bèn lẫn vào đám đông. Người hầu đuổi theo, nắm lấy vạt áo nói:

"Không phải là cậu... đấy ư?".

Rồi nắm tay nhau mà khóc. Sau đó, đưa Sinh về. Đến nhà cha chàng mắng rằng:

"Hạnh kiểm, ý chí như mày, chỉ làm nhục nhà tao. Mày còn mặt mũi nào mà gặp tao nữa!".

Nói xong, ông đi bộ đến mé đông vườn mận ở phía tây dòng sông Khuê, sai lột hết quần áo của Sinh, lấy roi đánh mấy trăm roi. Sinh chịu không nổi, lăn ra tắt thở. Người cha cũng bỏ Sinh ở đó mà đi.

Chủ hiệu sai người thân quen kín đáo đi theo. Người đó trở về báo cho đồng bọn. Mọi người đều thương xót thở than liền sai hai người mang chiếu cói bó lại đem đi chôn. Đến nơi thì thấy chỗ tim Sinh còn hơi ấm. Nâng dậy một lúc, thấy thoi thóp thở. Hai người bèn khiêng về, cho uống nước ống sậy, sau một đêm thì sống lại. Hơn một tháng, tay chân cũng không cử động được. Chỗ bị đánh, thịt thối rữa. Đồng bọn rất sợ đem vứt ra ngoài đường. Người đi đường trông thấy ai cũng thương xót, thường ném cho thức ăn thừa để đỡ lòng. Được mươi tuần Sinh mới chống gậy đứng dậy được, mặc áo vải có tới hàng trăm mụn vá, tả tơi lam lũ, cầm một chiếc âu vỡ, lần đến các xóm ngõ xin ăn. Suốt từ mùa thu tới mùa đông, ban đêm thì lẫn vào chuồng phân, nhà kho, ngày thì lang thang đầu đương xó chợ.

Một hôm tuyết lớn, Sinh bị đói rét dầy vò, cứ lần mò đi trong gió tuyết, tiếng xin ăn rất thê thảm. Ai nghe cũng xót thương. Khi ấy tuyết rất dầy, nhà nào nhà nấy đều đóng cửa cả. Đến cửa Đông ấp An, cứ lần theo chân tường đi về phía Bắc, qua đền 7, 8 nhà thấy có một cửa chỉ mở cánh bên trái. Đó là nhà nàng Oa. Sinh không biết, kêu lên liền mấy tiếng "Đói rét quá". Giọng kêu thê thảm đau thương chẳng ai nỡ nghe. Oa từ trong nhà nghe thấy, bảo con hầu:

"Chắc là Sinh đấy, ta nhận ra giọng chàng".

Nói rồi thoăn thoắt bước ra, thấy gầy đét ghẻ lở, không còn ra hình người nữa. Oa xúc động nói với chàng:

"Có phải là chàng không?".

Sinh phẫn uất ngã lăn ra, miệng không nói được chỉ hơi cúi mặt xuống thôi. Oa bước tới ôm chặt lấy cổ Sinh, dùng áo ngắn thêu khoác lên người chàng rồi đưa về phòng bên, nức nở khóc gào:

"Để chàng sẩy đến bước này là tội của em". Cứ ngất đi sống lại mấy lần. Bà mẹ sợ hãi vội chạy đến, nói:

"Việc gì vậy?".

Oa đáp: "Chàng mỗ..."

Mụ vội bảo: "Phải đuổi đi, sao lại còn cho đến đây?".

Oa nghiêm nét mặt lại, nhìn lại mụ, nói:

"Không thể được. Đây là con nhà tử tế, ngày xưa người ta ngồi xe sang, mang vàng bạc đến nhà ta. Chẳng được bao lâu thì phá tán hết, lại còn bầy quỷ kế vứt bỏ người ta suýt thành dị vật khiến người ta thất chí không còn ra người nữa. Đạo cha con là tính trời, để cho cha đứt tình máu mủ giết con quẳng xác đi, lại khốn khổ đến nước này, người thiên hạ đều biết là ta gây nên cả. Họ hàng thân thích nhà chàng làm quan đầy triều đình, một mai quan trên tra xét kỳ đầu đuôi câu chuyện thì tai họa sẽ ập đến nhà ta. Huống chi lừa trời phụ người, quỷ thần ghét bỏ, thế nào cũng chuốc tai ương. Con là con mẹ đến nay đã được hai mươi tuổi. Tính của cải không dưới nghìn vàng. Nay mẹ hơn 60 tuổi, xin tính tiền ăn uống hai mươi năm để chuộc thân mình, rồi xin cùng chàng ra đi tìm một chỗ ở khác gần đây để sớm chiều chăm sóc mẹ, như vậy là con toại nguyện rồi".

Mụ thấy ý nàng đã quyết, biết không thể ép phải bằng lòng. Trả tiền mụ rồi, còn lại được trăm lạng, nàng liền thuê một căn nhà ở góc thành. Rồi nàng tắm rửa, thay quần áo cho Sinh, cho chàng uống thuốc, uống cháo cho nhuận tràng, rồi dùng kem sữa tẩm bổ. Hơn mười ngày sau mới cho ăn các món thịt cá. Từ chiếc khăn đội đầu đến đôi giầy đi chân nàng đều chọn cho chàng các thức quý lạ. Được vài tháng, da thịt chàng đã béo dần. Đầy năm thì khỏe lại như cũ.

Bữa nọ, Oa bảo chàng:

"Cơ thể chàng đã khỏe mạnh rồi, ý chí đã tráng kiện rồi, chàng hãy suy nghĩ kỹ xem nghiệp đèn sách xưa có thể ôn tập lại được không?".

Sinh suy nghĩ rồi trả lời:

"Mười phần chỉ nhớ được hai, ba phần thôi".

Oa sai đánh xe đi, Sinh cưỡi ngựa theo sau, đến hiệu sách cửa Nam cột cờ nàng bảo Sinh chọn mua sách, tính ra đến trăm lạng, mua hết chở về. Rồi nàng bảo Sinh vứt bỏ mọi điều lo nghĩ, dốc chí vào việc học hành lấy đêm làm ngày, siêng năng chịu khó học tập. Oa thường ngồi bên cạnh chàng, đến nửa đêm vẫn thức, hễ thấy chồng mệt mỏi, lại khuyên chàng làm thơ phú. Được hai năm, học nghiệp tiến bước dài, sách vở trong nước Sinh đã xem khắp lượt, Sinh bảo nàng;

"Có thể ghi tên vào thi được rồi đấy".

Oa nói:

"Chưa được, hãy học thêm cho tinh tường thành thục, để chờ cơ hội chắc thắng".

Lại một năm nữa, bấy giờ nàng mới nói:

"Đã được rồi đấy".

Thế rồi chàng thi một lần đỗ ngay giáp khoa(29) tiếng tăm lẫy lừng trường thi. Dẫu lớp trước xem văn chàng, ai cũng phải nhún mình kính phục, mong làm bạn với chàng. Nhưng vợ chàng bảo:

"Chưa được đâu. Học trò ngày nay vừa thi đỗ một khoa đã tưởng nhận một chức quan sang trong triều, chiếm một danh tiếng tốt trong thiên hạ. Chàng hành vi hèn hạ, vết cũ còn nhơ, không ví với học trò khác được, hãy nên rèn luyện cho sắc sảo hơn để tranh thắng lần nữa mới có thể sánh vai cùng kẻ sỹ, tranh hơn giữa các anh hào".

Sinh do vậy càng siêng năng khắc khổ, danh tiếng càng cao. Năm sau gặp kỳ thi Hội, triều đình xuống chiếu gọi tuấn sỹ khắp nơi về thi. Sinh ứng thi khoa can ngay, nói thẳng đỗ thứ nhất, được bổ chức tham quan, phủ Thành Đô. Các quan từ hàng đại phu trở xuống đều là bạn của chàng.

Lúc sắp đi nhận chức, Oa nói với Sinh:

"Nay em đã hồi phục lại cơ thể cũ cho chàng. Xin đem thân tàn này trở về nuôi dưỡng mẹ già. Chàng nên tìm người dòng họ giàu sang mà lấy, để lo việc cúng tế tổ tiên. Dẫu hôn phối cùng ai, cũng đừng để thân danh mang vết. Hãy trân trọng giữ mình, em đi đây".

Sinh khóc, nói:

"Nếu em bỏ anh, anh sẽ tự vẫn cho rồi!".

Oa cố từ không theo, Sinh cố nài tha thiết. Oa nói:

"Đưa anh sang sông, đến Kiếm Môn, thì anh để em về".

Sinh đồng ý.

Hơn một tháng đến Kiếm Môn, chưa kịp khởi hành thì giấy bổ nhiệm gửi tới. Cha Sinh từ Thường Châu được triệu về triều, bổ làm lệnh doãn Thành Đô, kiêm chức Thái phỏng sứ Kiếm Nam. Buổi sớm, cha đến, Sinh đưa danh thiếp yết kiến ở Bưu đình(30). Cha thấy chàng nhưng không dám nhận. Thấy tên húy của ông nội mới sợ hãi, bảo chàng bước lên, ôm lưng chàng khóc than đau xót. Lúc sau, bảo chàng "Cha cùng con lại cha con như xưa".

Rồi cha chàng hỏi duyên do, Sinh kể hết đầu đuôi câu chuyện. Cha chàng hỏi Oa giờ ở đâu. Sinh đáp:

"Nàng tiễn con đến đây đang đòi trở về".

Cha chàng nói: "Không được".

Hôm sau ông cùng Sinh đi đến Thành Đô trước, để Oa ở lại Kiếm Môn, xây nhà riêng cho Oa ở. Nhờ mối mai kết hôn cho hai họ, sửa đủ sáu lễ(31) để đón dâu. Hai người từ đấy đẹp duyên Tần Tấn.

Oa đã thành hôn, bốn mùa lễ tiết, trọn đạo vợ chồng, nàng coi việc nhà rất nghiêm trang thận trọng, được mẹ chồng rất quý. Mấy năm sau cha mẹ Sinh đều mất, nàng để tang rất chu đáo. Vườn nhà trồng loài cỏ Linh chi, một bông trổ ba hoa. Quan địa phương tâu lên. Lại có mấy chục con én trắng, làm tổ trên xà nhà. Vua coi là điềm lạ, lại càng yêu quí, cho chàng thăng chức. Xong tang ba năm, thăng lên hàng quan vinh hiển. Trong 10 năm, đến coi mấy quận. Oa được phong Khiên quốc phu nhân, có 4 con trai, đều làm quan to cả. Người thấp nhất cũng làm đến lệnh doãn Thái Nguyên. Anh em đều lấy con cái nhà quyền quý. Bên nội bên ngoại đều giầu có sang trọng, không ai sánh kịp.

Than ôi ! Một người con gái nhà ca xướng mà tiết hạnh như vậy, dẫu các bậc liệt nữ ngày xưa cũng không hơn được, làm sao mà không khiến mọi người thán phục!

Ông bác tôi từng coi Tấn châu, sau đổi về bộ Hộ làm Thủ lục vận sứ. Ba lần nhận chức đều kế nhiệm cho Sinh nên hiểu rất rõ chuyện của Sinh. Năm Trinh Nguyên, tôi cùng Công Tá nói chuyện về phẩm chất trinh liệt tiết tháo của phụ nữ, mới kể lại chuyện của Khiên quốc phu nhân. Công Tá chăm chú lắng nghe, bảo tôi viết truyện về bà. Tôi liền bút nhúng mực ghi lại. Bấy giờ là mùa thu năm Ất Hợi, Bạch Hành Giản, người Thái Nguyên ghi(32).

CHÚ THÍCH

(*) Theo sách Đường Tống truyền kỳ lục do Lỗ Tấn hiệu lục, Văn học cổ tích san hành xã xuất bản, Bắc Kinh, Trung Quốc, 1958.

(1) Nguyên văn: Bổ Giang Tổng Bạch viên truyện.

(2) Niên hiệu của Lương Vũ Đế, từ năm 535 đến 545.

(3) Âu Dương Hột, tự Phụng Thánh, người đất Lâm Trương, được phong Dương Sơn quận công, làm Thứ sứ Quảng Châu, sau bị vua Trần Tuyên Đế nghi ngờ, nổi dậy làm phản, bị giết.

(4) Chi Âu Dương Tuân, tự Tín Bản (557-641) là người làu thông kinh sử, làm quan đến Thái thường bác sĩ, Hoằng Vân quán học sỹ, biên soạn Nghệ văn loại tụ, 100 quyển.

(5) Giang Tổng (519-594) Tự Tổng Trì, người Tế Dương, làm Bộc xạ Thượng thư thời Trần Hậu Chủ.

(6) Xem Đường Tống truyền kỳ, Sđd, tr.24-27. Có sách chép: Âu Dương Hột là cha Âu Dương Tuân. Tuân hình dáng như con vượn, nên có người hư cấu ra truyện này để hài hước. (Thái bình quảng ký, Q.444)

(7) Nguyên văn: Chẩm trung ký.

(8) Thẩm Ký Tế: Người đất Ngô, tỉnh Tô Châu, học vấn uyên bác, có tài viết sử, từng giữ chức Tả thập di sử quán tụ soạn, đời Đường. Tác phầm có: Kiến Trung thực lục.

(9) Khai Nguyên (713-739): niên hiệu Đường Huyền Tông.

(10) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.29-33.

(11) Nguyên văn: Nam Kha thái thú truyện.

(12) Lý Công Tá, Người Lũng Tây, đỗ tiến sỹ, sinh vào khoảng năm Đường Đại Tông, mất vào khoảng năm Đường Tuyên Tông (770-850) tác phẩm có: Tạ tiểu Nga truyện, Phùng Ổn truyện, Cổ nhạc độc kinh...

(13) Lý Triệu: Tự Lý Sinh, sống vào thời Nguyên Hoà (806-820) đời Đường, làm quan đến Tả bổ khuyết, Hàn lâm học sĩ, viết Hàn Lâm chí và Quốc sử bổ.

(14) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.81-91.

(15) Nguyên văn: Liễu Nghị truyện.

(16) Lý Triều Uy: người Lũng Tây, sống vào khoảng năm Trinh Nguyên - Nguyên Hoà (785-820) đời Đường.

(17) Nghi Phụng (676), niên hiệu vua Đường Cao Tông.

(18) Nghi Phụng (676), niên hiệu vua Đường Cao Tông.

(19) Nguyên văn "Ngũ trùng". Năm loài là: Vũ trùng tức loài chim có lông vũ; Mao trùng, tức loài thú có lông mao; Giáp trùng, tức loài rùa có mai; Lân trùng tức loài cá có vẩy; Khỏa trùng, tức loài người. Rồng là linh trưởng của lân trùng (loài cá có vẩy) làm mây làm mưa, đem lại lợi ích cho muôn loài nên là một con "Tứ linh".

(20) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.51-63

(22) Nguyên văn: Lý Oa truyện.

(23) Bạch Hành Giản, Tự Thối Hạ, người Hạ Khê là em ruột của Bạch Cư Dị, một thi nhân lớn đời Đường, ông là người mẫn tiệp, giỏi từ phú, có tập thơ hai mươi quyển, nay đã mất, Về truyện Truyền kỳ, ngoài Truyện Lý Oa, ông còn viết Tam mộng ký Kỷ mộng.

(24) Thiên Bảo (742-755): niên hiệu vua Đường Huyền Tông.

(26) Tức 50 tuổi. Luận ngữ: "Năm mươi tuổi thì biết mệnh trời".

(27) Bình Khang là tên một xóm của đất Trường An, nơi trú ngụ của các kỹ nữ. Truyện Kiều có câu: Bình Khang nấn ná bấy lâu là lấy điển từ đây.

(28) Bấy giờ người ta dùng lụa để biếu tặng, cũng có khi dùng lụa thay cho tiền.

(29 ) Bạch Mã: ngày xưa dùng xe trắng, ngựa trắng đưa tang, cho nên bài hát đưa ma có điệu Bạch Mã.

(30) Giới lộ: Là bài hát đưa ma cổ, nói cuộc đời ngắn ngủi như hạt sương trên cỏ (giới thượng lộ).

(32) Giáp khoa: là khoa mục cao nhất của cả khoa thi.

(33) Bưu đình: trạm nghỉ trên đường đưa chuyển công văn, thư tín.

(34) Sáu lễ: Hôn nhân thời xưa có sáu lễ là: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp trưng, Thỉnh kỳ, Thỉnh nghênh.

(35) Đường Tống truyền kỳ tập Sđd, tr.97-108./.