|
TUYỂN DỊCH MỘT SỐ TRUYỆN TRUYỀN KỲ ƯU TÚ ĐỜI ĐƯỜNG - TỐNG(*)
TRUYỆN VƯỢN TRẮNG (1)
Khuyết Danh
Cuối năm Đại Đồng nhà Lương(2), triều đình sai Bình Nam tướng quân Lạn Khâm đánh xuống phía Nam, tới Quế Lâm, phá tan quân Lý Sư Cổ và Trần Triệt. Viên biệt tướng Âu Dương Hột(3) tiến sâu tới tận Tường Lạc, dẹp yên các động, không vấp trở ngại gì.
Hột có người vợ thon thả trắng trẻo, rất xinh đẹp. Có kẻ nói với Hột: "Sao tướng quân lại đưa người đẹp qua đây? Đất này có thần linh, hay bắt thiếu nữ, nhất là những người xinh đẹp, lại càng khó thoát, tướng quân nên trông giữ cẩn thận".
Hột rất nghi sợ, đêm đêm cầm gươm đi quanh nhà, dấu vợ mình vào buồng kín, khóa cửa cài then rất kỹ, lại sai hơn mười người hầu gái canh giữ.
Đêm ấy, gió lạnh tối trời, đến canh năm vẫn yên ắng như tờ. Những người canh giữ mỏi mệt ngủ thiếp đi, bỗng như có vật gì kinh động. Khi tỉnh dậy thì vợ Hột đã biến mất mà cửa vẫn đóng như cũ, không hiểu ra bằng lối nào. Ra cửa nhìn thấy núi non hiểm trở, trong gang tấc cũng không nhận ra lối mòn, không biết chốn nào mà tìm. Đến sáng cũng chẳng lần được một chút dấu vết gì.
Hột rất đau xót, thề quyết không trở về nếu không tìm thấy vợ. Rồi chàng lấy cớ bị ốm, xin đóng quân lại, ngày ngày đi khắp nơi lùng tìm, chẳng quản gian nguy hiểm trở. Được hơn một tháng, bỗng tìm thấy chiếc giầy thêu của nàng trong rừng tre cách đó hơn trăm dặm. Chiếc giầy dẫu đã trải nắng dãi mưa dầm, vẫn nhận ra được. Hột lại càng đau xót, càng quyết chí lùng tìm. Chàng chọn lấy 30 tráng sĩ, mang theo gươm giáo lương thực, nghỉ đỉnh non cao, ăn nơi rừng vắng. Chừng mười ngày sau, cách nơi ở độ hai trăm dặm, có một ngọn núi đẹp hiện ra ở phía Nam. Đến chân núi, thấy suối sâu vòng quanh. Mọi người lấy gỗ làm bè vượt qua. Trên đỉnh núi, thấp thoáng sau bóng trúc xanh, lụa hồng phơ phất lại vẳng nghe tiếng nói cười. Mọi người bám cột làm dây trèo lên, chỉ thấy cây cao từng hàng, hoa đẹp điểm tô, phía dưới cỏ xanh biếc, êm như trải thảm, khí mát trong lành, ê m đềm lặng lẽ, thực khác hẳn cõi trần. Ở cổng đá hướng về phía đông, có mấy chục người con gái ăn mặc tươi tắn đẹp xinh, đùa nghịch hát cười, ra vào trong đó. Khi thấy người lạ các nàng chậm rãi dừng lại, lạnh lùng đứng nhìn. Khách tới nơi các nàng hỏi "Cớ sao lại tới đây?".
Hột đem chuyện mình kể lại. Nghe xong, các nàng nhìn nhau thở dài và nói "Cô ấy đến đây đã hơn một tháng, hiện giờ đang ốm nằm trên giường, cũng nên cho vào thăm".
Qua cổng đá có cánh làm bằng gỗ, phía trong có ba vòm to rộng như tòa nhà, quanh tường kê giường, trên giường đều trải gấm. Vợ Hột nằm trên chiếc sập đá, trải nhiều lớp gấm êm, thức ngon vật lạ bầy đầy phía trước. Hột tới gần, nàng quay lại vừa nhìn, đã vội vã xua tay ra hiệu cho chàng đi ra.
Những người con gái bảo chàng: "Chúng tôi cùng với vợ ngài, người tới đây lâu đã tới 10 năm. Nơi này là chỗ thần ở, sức nó có thể giết người, dẫu hàng trăm lực sĩ cầm gươm giáo cũng không làm nổi. May mà nó chưa trở về, ngài nên mau lánh đi. Ngài về lấy thêm 22 vò rượu ngon, 10 con chó béo và mấy chục cân đay đem đến đây chúng tôi sẽ cùng ngài mưu giết nó. Lần sau có đến thì phải đúng chính ngọ và phải thận trọng, chớ tới sớm quá. Hẹn ngài mười ngày sau tới đây".
Nói rồi giục chàng đi ra. Hột cũng vội vã lui về, đi tìm rượu ngon cùng chó béo, đay bền, đến ngày hẹn, lại ra đi.
Khi tới động, các cô gái bảo chàng: "Nó thích uống rượu, uống vào thường hay say, khi say lúc nào cũng hung hăng trổ sức, bảo bọn tôi lấy lụa trói chặt chân tay nó vào giường. Thế mà nó chỉ dẫy một cái là đứt hết. Có lần chúng tôi xoắn lại ba chao mà trói, thì nó hết hơi không cởi được. Nay đem đay dấu vào trong lụa mà trói, chỗ nào cũng cứng như thép, chỉ có cách dưới nách vài tấc, thấy nó phải thường xuyên che giữ, chắc là chỗ đó không chịu được gươm đao".
Các nàng lại chỉ ngọn núi phía bên và nói: "Kia là kho lương thực, ngài hãy nấp vào đó, yên lặng quan sát. Rượu thì đặt dưới vòm hoa, chó thì thả vào rừng. Đợi khi mưu kế chúng tôi làm xong, cho gọi thì hãy ra".
Chàng làm theo, nín thở chờ đợi. Đến chiều, có một quái vật như một giải lụa từ dưới chân một trái núi khác, xuyên tới như bay, lao thẳng vào trong động. Lát sau, có một chàng trai rất đẹp, cao hơn sáu thước, áo trắng, chống trượng cùng các nàng bước ra. Trông thấy chó, nó ngạc nhiên nhìn rồi quăng mình bắt lấy, xé ra nhai ngấu nghiến tới khi no. Các nàng tranh nhau dùng chén ngọc dâng rượu, nói cười rất vui vẻ. Uống vài vò, lại đỡ nó đi, vẳng lại tiếng cười đùa vui vẻ. Mãi lâu sau, các nàng ra gọi. Hột bèn cầm gươm bước vào, thấy một con vượn trắng lớn, bị trói bốn chân trên giường, co dúm lại nhìn mọi người, xin cởi trói cho, ánh mắt như chớp lóe. Hột đâm túi bụi, nhưng chỉ như đâm vào sắt vào đá, đến khi đâm xuống dưới nách lưỡi kiếm thụt sâu, máu trào xối ra, con vật mới than rằng: "Đây là trời hại ta, chứ đâu phải nhà ngươi giết được ta. Nhưng vợ ngươi đã có mang, chớ có giết đứa con ấy. Sau này gặp vua thánh, thế nào nó cũng làm vẻ vang dòng họ". Nói dứt lời thì chết.
Hột lục tìm kho tàng, thấy chất đầy vật báu, châu ngọc quí giá, bày la liệt trên án, trên bàn. Tất cả những chân trâu báu vật dưới trần, không thiếu thứ gì. Hương quí vài hộc, kiếm báu một đôi, con gái ba mươi người đều là tuyệt thế giai nhân cả. Người ở đây lâu đến mười năm cho biết, hễ ai nhác sút kém thì thế nào cũng bị đem đi không ai biết bỏ đi đâu.
Lại lùng bắt khắp chỗ, thì chỉ có một thân nó, mà không còn loài giống nào nữa. Ban ngày, nó tắm rửa, đội mũ, khoác áo kép trắng, mặc áo là trắng, không biết đến nóng lạnh là gì. Khắp thân mọc lông trắng dài đến mấy tấc. Hàng ngày nó thường đọc lại thẻ gỗ, chữ như linh triện trên bùa chú, không hiểu là thứ chữ gì. Đọc xong, lại xếp dưới bệ đá. Ban ngày tạnh ráo thì múa đôi kiếm, quanh mình như chớp bay, quầng sáng tròn như trăng rằm. Nó ăn uống không có giờ giấc cố định, thích ăn loại hạt hoặc hoa quả, rất thích chó, thường hay cắn và hút lấy máu. Mặt trời vừa quá ngọ, bỗng dưng biến mất, nửa ngày đi về nơi mây ngàn dặm, đến tối thế nào cũng quay về, đó là lệ thường. Nó muốn thứ gì là có ngay thứ đó. Ban đêm, nó lên từng giường đùa nghịch các nàng, đêm nào cũng đùa dỡn khắp lượt. Nó không ngủ bao giờ, nói năng rõ ràng, âm điệu sắc sảo nhưng dáng hình thì là loài vượn.
Đầu xuân năm nay bỗng nhiên thấy nó rầu rĩ nói: "Ta bị thần núi tố giác, sẽ bị tử tội. Ta cũng nhờ các thần che chở, may ra thì thoát được tội chết".
Ngày 16 tháng trước, bệ đá bốc lửa, cháy cả thẻ gỗ, nó buồn rầu ngẩn ngơ bảo: "Ta đã ngàn tuổi mà chưa có con, nay có con thì ngày chết đến rồi!".
Nói xong, nó nhìn các cô gái, nghẹn ngào hồi lâu, lại nói: "Núi này cách biệt hẳn thế gian, xưa nay chưa một ai tới, lên cao nhìn khắp, không hề thấy một người kiếm củi, phía dưới rất nhiều hổ báo sài lang. Nay kẻ nào đến đây, nếu không phải là trời mượn tay nó hại ta, còn ai nữa?".
Hột bèn thu lấy châu báu ngọc ngà cùng những người con gái đưa về, những người này, vẫn còn nhận biết được nhà cửa của mình.
Vợ Hột đầy năm sinh một con trai, rất xinh đẹp(4). Sau Hột bị Trần Vũ Đế giết hại, bạn chí thân của Hột là Giang Tổng(5) mến đứa con ấy thông minh hơn hẳn mọi người, giữ lại nuôi nấng, nên thoát khỏi tai họa. Đến khi trưởng thành, thì quả nhiên văn chương chữ nghĩa nổi tiếng một thời(6).
Hoàng Hưng dịch.
TRUYỆN CHIẾC GỐI(7)
Thẩm Ký Tế(8)
Năm Khai Nguyên thứ 7(9), có một đạo sỹ tên là Lữ Ông, đắc đạo thần tiên, trên đường đi Hàm Đan, vào nghỉ trong quán trọ. Ông vừa bỏ mũ, cởi đai, tựa vào hành trang ngồi nghỉ thì bỗng thấy một chàng trai trẻ tên là Lư Sinh. Chàng mặc áo vải ngắn, cưỡi con ngựa đen, đang đi làm đồng cũng vào nghỉ trong quán, ngồi cùng bàn với đạo sỹ, nói cười rất thoải mái. Lúc sau, Lư Sinh nhìn vào bộ quần áo cũ rích của mình than rằng: "Đại trượng phụ sinh ở đời không được thỏa chí, khốn khó đến mức này đây!".
Lữ Ông bảo chàng: "Tôi trông người cậu không thấy có khổ có lo gì, nói cười vui vẻ thoải mái, cớ sao lại than là khốn khó?".
Lư Sinh thưa: "Kiếp này tôi coi là sống thừa, đâu có chuyện thoả chí?". Lữ Ông hỏi chàng: "Sống như thế còn chưa thỏa chí thì thế nào mới là thoả chí?".
Sinh đáp: "Kẻ sỹ sinh ở đời, phải lập công danh, dự hàng khanh tướng, hưởng thực ấp, nghe nhạc vui, làm cho cả họ phồn vinh, nhà mình giàu có, như thế mới có thể gọi là thỏa chí. Tôi đã dốc chí học hành, đi khắp đó đây, cứ nghĩ rằng sẽ có ngày nắm dây ấn tía, ngồi ghế quan cao, thế mà nay tuổi đã lớn, vẫn phải lận đận chốn ruộng vườn, thế chẳng phải là khốn khó hay sao?".
Nói xong, Sinh thấy mắt mờ, buồn ngủ. Khi ấy chủ quán đang nấu nồi kê. Lữ Ông rút ra một chiếc gối ở trong túi ra đưa cho Sinh và nói: "Cậu gối lên chiếc gối của tôi, sẽ được vinh hoa thỏa chí như ý".
Chiếc gối ấy bằng sứ xanh, rỗng hai đầu. Sinh cúi đầu xuống nhìn, thấy lỗ rỗng lớn dần, sáng sủa, bèn bước vào rồi trở về nhà mình. Mấy tháng sau, chàng lấy người con gái họ Thôi ở Thanh Hà. Vợ chàng dung nhan rất xinh đẹp, tư chất trung hậu, khiến chàng rất vui. Từ đó, quần áo xe ngựa, mỗi ngày một nhiều. Năm sau Sinh thi đỗ Tiến sĩ, được ban mũ áo cân đai. Thi ứng chế xong, được bổ nhiệm hiệu úy Vị Nam, ít lâu sau, thăng giám sát ngự sử rồi Khởi cư xá nhân, tri chế cáo. Ba năm sau, Sinh ra coi Đồng Châu, rồi được thăng làm quan mục Thiểm Tây. Sinh tính ưa lập công, đào 80 dặm sông đào đem lại nguồn lợi cho dân quanh vùng, được dân chúng khắc bia ghi công đức. Sau đó, Sinh đổi làm tiết độ sứ Biện Châu, lĩnh chức Thái phỏng sứ đạo Hà Nam, được bổ làm quan kinh triệu.
Năm ấy, vua Thần Vũ đi đánh rợ Nhung, mở mang bờ cõi. Gặp khi bọn Tất Mạt La và Chúc Long Mãng Bố Chi nước Thổ Phồn đánh Qua Sa, tiết độ sứ Vương Quân Hoán vừa bị giết, khắp vùng Hà Hoàng rung động. Vua nghĩ đến tài tướng soái, cử Sinh làm Ngự sử trung thừa, Tiết độ sứ đạo Hà Tây, phá tan quân Nhung, chém 7 nghìn thủ cấp, mở đất 900 dặm, xây 3 thành lớn giữ nơi trọng yếu. Dân biên thùy dựng bia đá ở núi Cư Diên để ca ngợi Sinh. Đánh giặc xong, Sinh trở về triều, được ghi công ban thưởng, ân lễ rất lớn. Rồi Sinh được đổi làm Thị Lang bộ lại, thăng Thượng thư bộ Hộ kiêm Ngự sử đại phu. Bấy giờ, Sinh có uy vọng rất lớn, được lòng mọi người, bị các quan ghen ghét, phao tin hãm hại nên bị biếm làm Thứ sử Đoan Châu. Ba năm sau, Sinh được giữ chức Thường thị, không bao lâu được thăng chức đồng trung thư môn hạ bình chương sự, cùng các ông trung lệnh họ Tiêu, Thị trung họ Bùi, nắm giữ quyền lớn hơn 10 năm. Mưu hay kế giỏi, giữ nước giúp vua, nổi tiếng là quan tể tướng tài giỏi. Sau Sinh bị các quan cùng hàng ghen ghét, vu cho là cấu kết với tướng ngoài biên, âm mưu phản nghịch. Vua ra lệnh bắt giam, bọn ngục lại kéo đến nhà, bắt Sinh đi gấp. Sinh kinh hoàng sợ hãi, nói với vợ con: "Nhà ta ở Sơn Đông, có 5 khoảnh ruộng tốt, đủ để chống đói chống rét. Việc gì phải khổ sở đi cầu quan chức? Nay đến nước này, thì dẫu mặc áo ngắn, cưỡi ngựa đen, thảnh thơi trên đường Hàm Đan cũng không được nữa rồi".
Nói xong Sinh rút kiếm tự vẫn, may được vợ cứu thoát. Những người liên can đều bị chết, chỉ có Sinh được Trung quan bảo đảm cho, được giảm tội chết, đầy ra Hoan Châu. Mấy năm sau, vua biết Sinh bị oan, lại cho giữ chức Trung thư lệnh, phong tước Yên quốc công, ban ân rất hậu.
Sinh có 5 con trai tên là Kiệm, Truyền, Vị, Thù, Ỷ đều rất có tài. Kiệm đỗ Tiến sỹ, làm Viên ngoại; Truyền làm Thị ngự sử; Vị làm Thái thường tự thừa; Thù làm Vạn niên úy; Ỷ có tài hơn cả, năm 28 tuổi làm Tả tướng. Các con đều lấy con cái nhà vọng tộc trong nước. Cháu nội hơn mười người, kẻ làm tướng soái nơi biên cương, người làm tam công chốn triều đường, ra vào nơi triều chính, nhởn nhơ chốn các đài, hơn năm mươi năm, vinh thịnh lừng lẫy.
Sinh vốn ưa xa xỉ, rất thích nhạc vui, thanh sắc chốn hậu đình, đều là những hoa khôi xinh đẹp bậc nhất cả. Trước sau được ban những ruộng tốt, lâu đài, người đẹp, ngựa hay không biết bao nhiều mà kể. Những năm sau đó, tuổi cao sức yếu, mấy lần xin đem thân tàn về quê hương không được. Khi ốm, người hỏi thăm lũ lượt trên đường. Thầy thuốc giỏi giang không ai không tới. Đến lúc sắp mất, Sinh dâng sớ nói rằng: "Thần sinh đất Sơn Đông, vui với vườn ruộng, may gặp vận thánh, dự hàng các quan. Đội ơn đặc biệt, chức lớn được ban. Ra thì cờ quạt, vào thăng tế thần. Trong ngoài lo giữ, đã được nhiều phen. Ân trời thẹn hưởng, Báo đáp chẳng nên. Tài hèn phận lớn. Lo như dẫm băng. Mỗi ngày một sợ. Già đến không hay. Nay đã ngoài tám mươi tuổi, chức vị đã tới Tam công. Đã đến lúc chuông điểm canh tàn, đã tới khi sức suy gân mỏi. Bệnh tình thêm nặng, giây phút sắp lìa. Đã không chút công lao để báo đền vua sáng, lại cô phụ ơn lớn, xin vĩnh biệt thánh triều. Lòng tôi xiết bao xúc động, quyến luyến. Xin dâng biểu trần tình".
Vua xuống chiếu rằng: Khanh đem đức lớn, giúp rập cho ta, ra coi phiên trấn, vào giữ yên hòa, Thanh bình hai kỷ, là nhờ ở khanh. Vừa rồi mắc bệnh, tưởng khỏi mau thôi, nào ngờ bệnh nặng, thương xót khôn nguôi. Nay ta sai Phiêu kỵ đại tướng quân Cao Lực sỹ tới nhà thăm hỏi, Khanh hãy gắng gượng thuốc men, vì trẫm tiếc giữ thân mình, hy vọng sẽ bình yên khỏi bệnh. Đêm ấy Sinh mất.
Lư Sinh ngáp dài tỉnh dậy, thấy thân mình đang nằm ở quán trọ, Lữ Ông ngồi bên cạnh, nồi kê vẫn chưa chín, mọi việc vẫn như cũ. Sinh đứng bật dậy, ngỡ ngàng: "Chả lẽ là giấc mộng?".
Lữ Ông bảo Sinh: "Cái thỏa chí của người đời cũng như vậy đó".
Sinh ngơ ngác lúc lâu, cảm tạ Lữ Ông rằng: "Ôi, bây giờ thì tôi đã hiểu hết cái điều vinh nhục, cái vận cùng đạt, cái việc được mất, cái lẽ sống chết rồi. Tiên sinh làm thế để ngăn dục vọng cho tôi. Tôi đâu dám không nhận điều dạy bảo!" Nói rồi, cúi đầu lạy tạ mà đi (10).
Xuân Huy dịch.
GIẤC MỘNG NAM KHA(11)
Lý Công Tá (12)
Thuần Vu Phần người Đông Bình, là một trang hiệp sỹ của đất Ngô, Sở, tính nghiện rượu, phóng túng, không giữ tiểu tiết, nhà rất giầu, nuôi nhiều hiệp khách. Phần do có võ nghệ, được bổ làm tỳ tướng quân Hoài Nam, nhưng vì say rượu trái ý chủ tướng, bị đuổi bỏ đi lang thang, uống rượu liền ngày. Nhà Phần cách quận Quảng Lăng mười dặm về phía đông. Phía nam nhà có một cây hòe cổ rất lớn, thân cành chằng chịt, bóng râm tỏa hàng mấy mẫu. Hàng ngày, Thuần cùng các hiệp khách thả sức uống rượu dưới bóng hòe.
Tháng 9 năm Trịnh Nguyên thứ 7, Thuần vì uống rượu quá say, bị ốm. Lúc ấy, có hai người bạn cùng ngồi, dìu Phần về nhà, nằm ngoài hiên phía đông nhà lớn. Hai người bạn bảo chàng: "Anh ngủ đi, chúng tôi đi cho ngựa ăn và rửa chân tay, đợi anh đỡ chúng tôi sẽ đi".
Phần cởi khăn làm gối, mờ mờ ảo ảo, mơ màng như trong giấc mộng, thấy có hai vị sứ giả mặc áo tía, quì xuống lạy chàng và thưa rằng: "Quốc vương nước Hòe An sai bọn tôi đến kính mời ngài".
Chàng vội xuống sập, sửa lại mũ áo, ra cửa, thấy cỗ xe bốn ngựa kéo, có bẩy tám người hầu chung quanh đỡ chàng lên xe, phóng ra khỏi cổng, chạy về phía cây hòe cổ. Tới nơi sứ giả liền cho xe chạy thẳng vào hốc cây. Phần thấy vậy, rất kinh lạ, nhưng không dám hỏi.
Được một lát, bỗng thấy núi chăng sông trải, gió mát thoảng đưa; dọc đường cây cỏ đua tươi, khác hẳn với cõi người ở. Đi được vài chục dặm, thấy tường thành san sát, ngựa xe nườm nượp trên đường. Những người ngồi quanh chàng, truyền gọi rất nghiêm. Những người đi cũng tranh nhau tránh ra hai bên. Xe chàng lại vào một tòa thành lớn, cửa son, lầu tầng. Trên lầu có bốn chữ vàng: Nước Đại Hòe An. Người gác cổng chạy ra lạy chào. Bỗng có một kỵ sỹ phóng ngựa tới truyền gọi: "Vương thấy phò mã từ xa tới, để ngài hãy tạm nghỉ ở quán Đông Hoa". Nói xong phóng ngựa đi, lát sau, thấy một cửa động mở ra, Phần xuống xe đi bộ vào. Bên trong hiên chạm, cửa son cây cao trái lạ, trồng từng hàng phía dưới. Trong nhà, bàn ghế trải gấm bọc đệm, bày la liệt thức ngon vật lạ, chàng mừng lắm, lại nghe có tiếng gọi: "Hữu tướng đã tới". Chàng xuống thềm đón tiếp, thấy có một người mặc áo tía, đeo thẻ ngà bước tới. Đôi bên chủ khách thi lễ xong, Hữu tướng nói: "Vua nước tôi không nghĩ nước mình xa xôi hẻo lánh, cho rước ngài tới để gửi gắm nhân duyên".
Phần trả lời: "Thân tôi hèn hạ, đâu dám mong được điều đó!". Hữu tướng nhân mời Phần cùng đi. Được khoảng trăm bước thì vào một cửa son, hai bên cửa bày đầy mâu kích phủ việt. Quan quân hàng trăm người, tránh dạt ra hai bên đường. Phần có người bày rượu là Chu Biền cũng thấy đi trong số ấy. Phần trong bụng rất mừng, nhưng cũng không dám hỏi. Hữu tướng dẫn Phần lên điện lớn, bên trong ngự vệ nghiêm túc, như một chốn chí tôn. Phần thấy một người to lớn nghiêm trang ở ngôi chính vị, mặc áo lụa trắng, đội mũ hao, cài trâm ngọc. Phần run sợ không dám trông lên. Người hầu xung quanh bảo Phần vái lạy. Vương nói: "Trước đây vâng lệnh hiền tôn, không chê nước nhỏ, nay cho thứ nữ Giao Phương hầu hạ quân tử".
Phần chỉ phủ phục mà thôi, không dám đáp lại. Vương lại nói: "Hãy tới phòng khách, tiếp tục cử hành nghi lễ".
Có lệnh cho Hữu tướng cùng đi với Phần trở về nơi ở. Phần ngẫm nghĩ mãi, cho là vì cha chàng là võ tướng nơi biên cương, mất tích trong nước giặc, không biết sống chết ra sao. Hay là cha đã theo về Bắc phiên, nên mới có chuyện này? Trong lòng chàng rất nghi hoặc, không biết là thế nào.
Đêm ấy có đủ các thứ sính lễ, tơ lụa, tiền bạc, ca kỹ, đàn phách, tiệc tùng, ngựa xe, lễ vật. Nhiều tiên nữ: người thì xưng là Hoa Dương Cô, người xưng là Thạch Khê cô, người xưng là Thượng Tiên Tử, người xưng là Hạ Tiên Tử, mỗi người lại có hàng ngàn thị nữ theo hầu, đều đội mũ phượng biếc, khoác áo ráng vàng, đeo hoa vàng rực rỡ lóa mắt, du ngoạn vui chơi trước cửa, tranh nhau đùa vui với chàng. Các nàng tiên phong thái yêu kiều, lời hay ý đẹp, Phần không sao ứng đối được.
Lại có một tiên nữ nói với Phần: "Ngày Tỵ bữa trước em theo Linh Chi phu nhân qua chùa Thiền Trí, ở viện Thiên Trúc xem hữu Diên múa điệu Bà La môn. Em cùng các tiên nữ ngồi ở sập đá cửa sổ phía bắc. Khi ấy chàng còn nhỏ, cùng bỏ ngựa đến xem. Chàng chạy đến chỗ chúng em làm quen, cười đùa vui vẻ. Em cùng cô Cùng Anh buộc khăn hồng treo lên nhành trúc, chàng còn nhớ không? Lại ngày 16 tháng 7, em ở chùa Hiếu Cảm, gặp Thượng Chân Tử, nghe pháp sư Khế Huyền giảng kinh quan âm. Trong lúc nghe giảng, em ném hai chiếc thoa Kim phụng, Thượng Chân Tử ném một chiếc hộp Thủy tê; Bấy giờ chàng đang ở chỗ thầy, trong chiếu giảng, xin xem thoa và hộp. Xem rồi tán thưởng không ngớt, ta thán hồi lâu, lại nhìn chúng em và nói: "Cả người cùng vật, đều không thấy có ở cõi thế gian!". Rồi chàng hỏi về dân chúng em, hỏi về quê quán chúng em. Chúng em cũng không trả lời. Nhưng ý tính lưu luyến, nhìn nhau chẳng nỡ rời nhau, chả lẽ chàng không nhớ hay sao?".
Phần trả lời: "Những kỷ niệm ấy còn nhớ mãi trong trái tim này, bao giờ quên được".
Các tiên nữ nói: "Ngờ đâu hôm nay lại trở thành thân quyến của chàng!".
Lại có ba người đội mũ đeo đai rất kỳ vĩ, tiến lên vái Phần và nói: "Chúng tôi vâng mệnh làm phụ tá cho phò mã". Trong số đó có một người Phần thấy quen. Phần trỏ người đó và hỏi: "Ông có phải là Điền Tử Hoa ở Bằng Tường không?".
Điền đáp "Vâng" Phần bước lên cầm tay kể lại chuyện cũ hồi lâu, rồi hỏi Điền: "Sao ông lại ở đây?".
Tử Hoa đáp: "Tôi đi du ngoạn, được quen biết ngài Hữu tướng Võ Thành Đoàn Hầu Công, nên ở đậu chốn này".
Phần lại hỏi: "Chu Biền ở đây ông có biết không?".
Tử Hoa đáp: "Chu Sinh là bậc quý nhân làm tới chức Tư Lệ, quyến thế rất lớn, tôi đã nhiều lần được ông ấy che chở".
Bỗng có lệnh truyền: "Phò mã có thể vào được rồi!".
Ba tráng sĩ lấy đai kiếm mũ áo thay cho chàng. Tử Hoa nói: "Không ngờ hôm nay được xem lễ lớn, xin đừng quên nhau nhé!".
Có đến mấy chục tiên nữ chơi những khúc nhạc du dương, điệu buồn tê tái, không thấy có ở thế gian. Lại có đến mấy chục người cầm đuốc dẫn đường, hai bên bình phong rực rỡ, lụa biếc long lanh, chăng suốt đến mấy dặm. Phần ngồi ngay ngắn trong xe, lòng phấp phỏng không yên. Điền Tử Hoa nói cười cho chàng khuây khỏa. Các tiên nữ khi trước, cũng đều cưỡi xe cánh phượng cùng đi. Đến một chiếc cổng đề là "Cung Tu Nghi", các nàng tiên cũng tấp nập hai bên cổng, bảo Phần xuống xe vái lạy, y như trên thế gian. Bỏ bình phong đi, thì thấy một thiếu nữ, tên là Kim Chi công chúa, tuổi khoảng 14, 15 trông tựa thần tiên vậy. Lễ giao hoan cũng rất rõ ràng.
Phần từ đấy tình nghĩa ngày một gắn bó, cuộc đời ngày một vinh hoa. Ra vào ngựa xe trang phục, yến tiệc đãi đằng chỉ kém vua thôi, Vua sai Phần cùng các quan sẵn sàng võ sỹ, mở cuộc săn lớn ở núi Linh Quy phía tây vương quốc. Núi non xinh đẹp, sông chằm bao la, cây rừng tươi tốt, cầm thú từng đàn, không thiếu thứ gì, đoàn quân đi săn đến tối mới trở về.
Một hôm, Phần thưa với Vương: "Hôm trước khi thần kết hôn, Đại Vương có nói vâng mệnh của cha thần. Cha thần trước giúp việc chủ tướng nơi biên ải, dùng binh bị thua không may hãm vào đất giặc. Từ đó tới nay thư từ đứt đoạn đã 17,18 năm rồi. Đại Vương đã biết chỗ cha thần, xin cho thần đến thăm một chuyến".
Vương vội bảo Phần: "Cụ nhà giữ chức ở đất Bắc, tin tức có luôn, ngươi hãy viết thư báo trước, chưa nên đi ngay".
Rồi Vương bảo vợ Phần làm lễ mừng, cho Phần xem thư mấy đêm để trả lời. Phần ngẫm nghĩ ý trong thư thấy đều là bút tích của cha mình khi còn sống. Những nỗi nhớ nhung, những điều dạy bảo trong thư tận tường khúc triết cứ như thuở năm nào. Trong thư còn hỏi Phần thân thích ai còn ai mất, quê hương khấm khá hay tiêu điều. Lại nói là đường xá xa xôi, gió sương cách trở, lời lẽ đau xót, giọng điệu bi thương, ông cũng không cho Phần đến thăm mình. Thư viết: "Năm Đinh Sửu cha sẽ gặp con". Phần cầm thư nghẹn ngào đau xót mãi không nguôi.
Hôm khác, vợ Phần nói với Phần: "Anh không muốn ra làm việc nước hay sao?".
Phần đáp: "Tôi phóng túng đã lâu, không quen việc nước".
Vợ chàng bảo: "Chàng cứ làm đi, em sẽ giúp chàng".
Rồi vợ chàng thưa với Vương, mấy hôm sau Vương bảo Phần: "Quận Nam Kha của ta công việc rối ren, viên thái thú ở đó bị cách chức, ta định nhờ tài năng của khanh, được thế thì mọi việc có thể ổn, khanh nên đi ngay cùng với con gái ta".
Phần kính nhận mệnh lệnh, Vương liền sai các quan sửa soạn hành lý cho quan thái thú, lại xuất ngọc vàng gấm vóc, hòm rương, đầy tớ, ngựa xe dàn trên đường lớn để tiễn đưa công chúa lên đường.
Phần thuở trẻ là trang du hiệp, chưa bao giờ có ước vọng cao xa. Nay được làm quan to, trong lòng rất mừng rỡ. Nhân đó, chàng dâng biểu nói: "Thần là đứa con thừa nòi nhà tướng, trước nay chẳng có võ nghệ gì. Nay liều giữ chức to, ắt làm hỏng việc triều đình, cảm thấy lo lắng, sợ không gánh vác nổi. Nay thần muốn rộng tìm, các bậc hiền triết, để giúp cho những điều khiếm khuyết. Kính thấy viên Tư Lệ Dĩnh Xuyên là Chu Biền, là người trung thực thẳng thắn, giữ luật pháp rất nghiêm, có tài giúp nghiệp lớn. Viên Xử sĩ đất Bằng Tường là Điền Tử Hoa là người thận trọng sâu sắc, hiểu ngọn nguồn việc trị nước. Hai người ấy thần quen biết đã mười năm, đã hiểu rõ tài năng của họ, có thể ký thác việc chính sự. Xin cho Chu Biền làm Tư hiến Điền Tử Hoa làm Tư công quận Nam Kha., Hy vọng như vậy sẽ khiến thần làm nên chính tích và kỷ cương không bị rối ren".
Vương sai làm theo mọi điều ghi trong biểu. Đêm ấy, Vương cùng phu nhân tiễn đưa ở phía Nam Đô thành. Vương nói với Phần: "Nam Kha là một quận lớn ở nước nhà, đất đai màu mỡ, dân giàu vật thịnh, nếu không dùng ân huệ thì không cai trị được đâu, hơn nữa, có hai ông Chu Biền, Điền Tử Hoa giúp việc, khanh hãy gắng lên để thỏa lòng mong đợi của cả nước".
Phu nhân dặn công chúa: "Thuần Vu Lang là người trực tính, hay uống rượu lại trẻ tuổi. Đạo làm vợ cốt ở tính nết dịu dàng. Con khéo thờ chồng thì mẹ không lo gì nữa. Nam Kha dẫu chẳng xa xôi gì, nhưng sớm hôm xa cách, nay phải xa con, mẹ ngăn sao nổi dòng lệ nhớ thương".
Sinh cùng vợ cúi đầu vái lạy rồi lên xe thúc ngựa vui vẻ lên đường, đi liền mấy hôm tới quận. Khắp quận từ quan lại, tăng đạo đến phụ lão, nhân dân nổi nhạc, phóng xe mang theo vũ vệ, trống chiêng, đua nhau đón rước. Tiếng người tiếng ngựa ồn ào, tiếng chuông, tiếng trống vang động, kéo dài suốt mấy mươi dặm. Dọc đường, thành cao quán lớn, khí lành bốc lên nghi ngút. Vào tới cổng thành lớn, trên cổng cũng có đề bốn chữ vàng: Quận thành Nam Kha. Trong cổng những biên son, cửa lớn, hun hút kéo dài. Phần xuống xe, thăm hỏi phong tục, chạy chữa vết thương đau khổ cho dân. Việc chính sự trao cho Chu Biền và Điền Tử Hoa, trong quận yên ổn. Phần giữ quận được hai mươi năm, rộng ban phong hóa. Trăm họ ngợi ca, dựng bia công đức, xây đền tế sống. Vương rất quý trọng Phần ban cho thuộc ấp lớn, tước vị cao lại cho vào đài các, giúp Vương trị nước. Chu, Điền cũng nổi tiếng trong việc chính sự, được phong ngôi cao chức lớn cả. Phần có 5 con trai, hai con gái, con trai được tập ấm ra làm quan, con gái gả cho vương tộc, vẻ vang lừng lẫy một thời, không ai sánh kịp.
Năm ấy có nước Đàn La đánh vào quận. Vương sai Phần rèn quân luyện tướng để ngăn giặc. Phân dâng biểu xin cho Chu Biền đem 3 vạn quân để chống giữ quân giặc ở thành Cao Đài. Biền võ dũng khinh địch, nên quân thua tướng bại, phải một mình một ngựa chạy trốn, ban đêm trở về thành. Giặc cũng thu hết lương thảo khí giới rồi rút. Phần bắt Biền bỏ ngục rồi xin chịu tội, Vương đều tha cho. Tháng ấy, Tư lệ Chu Biền phát nhọt ở lưng rồi chết. Công chúa vợ chàng bị ốm, mươi ngày sau cũng mất, Phần nhân đó xin thôi giữ quận, theo xe tang trở về quốc đô. Vương cho phép, lại lấy Tư công Điền Tử Hoa coi việc thái thú quận Nam Kha. Phần đau xót đưa đám, xe tang đi trên đường, con trai, con gái kêu khóc, quan lại dân chúng đến lễ điện, tranh nhau vịn xe tang, chặt đường nghẽn lối. Về tới quốc đô, Vương cùng phu nhân mặc áo trắng ra khóc ở ngoài thành đợi xe tang tới, ban tên thụy cho công chúa là Thuận Nghi công chúa. Dàn đủ nghi trướng cổ xúy chôn cất công chúa ở núi Bàn Long cách đô thành về phía đông 10 dặm. Tháng ấy con trai của viên cố Ty hiến là Vinh Hiển cũng rước xe tang về quốc đô.
Phần coi phiên trấn lâu năm, giữ mối hoà hiếu với người trong nước; nhà quyền quý họ giàu sang, đều quen thân khắp. Từ khi thôi giữ quận trở về đô thành, giao du tân khách, đi lại thất thường, uy vọng ngày một lớn. Vương cũng có ý nghi sợ. Bấy giờ có người dâng biểu nói rằng: "Điềm trời giáng xuống, cả nước kinh hoàng. Đô thành dời đổi, Tông miếu tan hoang. Ngoại bang gây hấn, hạ nẩy chân tường !". Bấy giờ các quan nghị bàn, cho là ứng với điềm Phần làm việc tiếm nghịch. Thế là Vương ra lệnh đoạt hết quân thị vệ của Phần, cấm Phần không được giao du, bắt phải ở nhà riêng. Phần tự đoán là mình giữ quận lớn nhiều năm, chưa hề có lầm lỗi gì, thế mà bị tung tin dèm oán, trong lòng nặng chĩu buồn lo. Vương cũng biết vậy, nên bảo Phần "Duyên lành mới được hơn hai mươi năm, chẳng may con gái ta mất sớm, không được cùng quân tử sống tới khi bạc đầu răng long, thực là đau xót !".
Phu nhân cũng giữ cháu ngoại nuôi nấng, lại bảo chàng: "Khanh xa nhà đã bao lâu rồi nhỉ? Cũng nên tạm trở về quê hương, thăm lại họ hàng thân thích. Các cháu hãy để ở đây, đừng lo nghĩ gì. Ba năm sau, ta sẽ sai người tới đón!".
Phần thưa: "Đây là nhà con rồi còn về đâu nữa !".
Vương cười nói: "Khanh vốn trên nhân gian, nhà không phải ở đây!".
Phần bỗng như mê ngủ, mơ màng hồi lâu mới nhớ lại việc xưa, thế rồi chàng xùi xụt xin trở về. Vương đưa mắt cho tả hữu để tiễn Phần. Phần lạy hai lạy rồi đi, lại thấy hai vị sứ giả mặc áo tía trước kia đi theo. Ra đến cửa ngoài, thấy xe mình rất xấu. Tả hữu, thân thuộc, đầy tớ... không một ai đưa tiễn, trong lòng buồn nản lạ lùng. Phần lên xe, đi được mấy dặm, lại ra khỏi thành lớn, rõ là con đường năm xưa mình tới, núi sông, đồng bãi, lại vẫn như xưa. Hai sứ giả tiễn đưa trông chẳng còn uy thế gì. Phần càng thêm lo buồn, hỏi sứ giả: "Bao giờ thì tới quận Quảng Lăng?".
Hai sứ giả ca hát tự nhiên hồi lâu mới đáp: "Lát nữa sẽ tới".
Lát sau, ra khỏi hốc, thấy làng xóm vẫn chẳng khác xưa, Phần buồn bã trong lòng, bất giác tuôn đôi dòng lệ, Hai sứ giả dìu Phần xuống xe, vào cửa lên thềm nhà, thấy mình nằm ở dưới hiên phía đông ngôi nhà. Phần rất kinh sợ, không dám tới gần. Hai sứ giả gọi họ tên chàng mấy tiếng, Phần mới tỉnh lại như xưa, chàng thấy đầy tớ cầm chổi đứng trước sân, một khách rửa chân ở bên sập. Mặt trời xế bóng chưa chưa lặn về tây, chén rượu để bên cửa sổ vẫn còn trong vắt. Giấc mộng mơ màng như đã qua cả một cuộc đời.
Phần xúc động nhớ lại giấc mộng, gọi hai bạn rượu kể lại cho nghe. Hai người nghe xong đều kinh hãi, cũng Phần ra khỏi nhà, tìm đến chỗ hốc cây hòe. Phần chỉ hốc cây nói: "Đây là chỗ trong mộng tôi đã vào".
Hai bạn rượu cho là chỗ cáo cầy thành tinh, tác yêu tác quái, liền sai đầy tớ mang rìu búa ra chặt quang cành rễ, cứ theo hốc mà đào, xung quanh rất rộng. Có một hang lớn, rất sáng sủa, bên trong có thể kê được một cái sập, phía trên đắp đất làm thành hình thành quách, đài, điện. Có mấy ổ kiến, quần tụ phía trong, giữa có một đài nhỏ, màu sắc như son, có hai con kiến lớn ở đó, con nào cũng cánh trắng, đầu đỏ, dài tới 3 tấc, hai bên có tới mấy chục con kiến lớn bảo vệ, các con khác không dám đến gần. Đấy là quốc vương loài kiến và chỗ ấy là thủ đô nước Hoè An. Lại hang tận cùng thẳng lên cành phía Nam độ bốn trượng, chính giữa chỗ ngoặt, có một thành đất nhỏ, trên có lầu nhỏ, đàn kiến cũng ở phía trong đó. Đấy chính là quận Nam Kha mà Phần đã trấn giữ. Lại có một cái hang nữa về phía tây hai trượng, trong trống rỗng, ăn sâu vào, hình thù kỳ lạ, bên trong có một chiếc mai rùa đã rữa, to như chiếc đấu, trải mưa dầm nhuần tưới, cỏ mọc um tùm, tốt tươi dầy đặc, phủ kín mai rùa. Đó là núi Linh Quy mà Phần đã tới săn bắn. Lại một hang ở tận cùng, cách hơn một trượng về phía đông, rễ to chằng chịt, trông như hình rồng, phía trong có tường đất cao hơn một thước, đó là núi Bàn Long, nơi Phần chôn cất vợ mình. Phần nhớ lại truỵên trước, bồi hồi xúc động, xem lại dấu qua, đều phù hợp những điều xảy ra trong mộng. Chàng không muốn hai bạn phá các hang ổ ấy, vội vàng sai đắp điếm lại như cũ. Đêm ấy mưa to gió lớn. Sáng ra xem lại hốc cây thì không thấy đàn kiến nữa, không hiểu chúng đi đâu. Lời người dâng biểu trước đây: "Cả nước kinh hoàng, đô thành dơi đổi". Bây giờ ứng ngiệm. Phần lại nhớ tới chuyện chinh phạt của nước Đàn La, nhờ hai bạn lùng tìm phía ngoài. Cách ngôi nhà độ một dặm về phía đông, có một con suối cạn, cạnh suối có một cây bạch đàn lớn, mây leo chằng chịt, trông lên không thấy mặt trời. Bên cạnh có một hốc nhỏ, cũng có đàn kiến quần tụ bên trong. Nước Đàn La chẳng phải đấy còn ở đâu nữa! Than ôi, đến loại kiến mà còn linh dị khôn cùng đến thế, huống chi là sự biến hoá linh thiêng của những loài cầm thú ẩn trong núi sâu rừng lớn! Bấy giờ, bạn rượu của Phần là Chu Biền và Điền Tử Hoa đều ở huyện Lục Hợp, đã mười ngày nay không qua lại với Phần. Phần vội sai đầy tớ cấp tốc tới thăm hỏi thì Chu Biền bị bại bệnh đã chết, Điền Tử Hoa cũng ốm liệt trên giường. Phần trạnh nỗi hư ảo phù du như chốn Nam Kha, tỉnh giấc mơ đời người ngắn ngủi, bèn gửi lòng cửa đạo, dứt bỏ tửu sắc. Ba năm sau, vào năm Đinh Sửu, cũng mất tại nhà, khi ấy Phần 47 tuổi, khớp với hạn trước.
Tháng tám năm Trinh Nguyên thứ 18 Công Tá từ đất Ngô đến Lạc Dương, tạm dừng ở Hoài Phố, bỗng thấy chàng Thuần Vu Phần liền tìm hỏi dấu cũ, trằn trọc nghĩ suy thấy mọi chuyện đều thực, mới chép thành truyện, cung cấp cho những người hiếu sự. Tuy là kể chuyện thần, chuyện quái, không phải là chuyện đứng đắn, nhưng mong rằng những kẻ ăn cắp ngôi vị trên đời lấy đó làm răn, các bậc quân tử đời sau, hãy coi Nam Kha là chuyện tình cờ chớ đem danh vị mà kêu rông giữa trời đất.
Tiền Tham quân Hoa Châu Lý Triệu(13) làm bài tán như sau:
Chức vị cực quí
Quyền nghiêng quốc đo.
Thức giả xem đó,
Tổ kiến khác chi!(14)
Hoàng Hưng dịch
TRUYỆN LIỄU NGHỊ(15)
Lý Triều Uy(16)
Vào khoảng năm Nghi Phụng(17), có một người học trò là Liễu Nghị. Đi thi không đỗ, định trở về bến Tương, nhớ tới người đồng hương còn trọ ở Kinh Dương, bèn tới để từ biệt. Đi được sáu dặm, thấy chim bay ngựa hý, nghị vội lánh vào bên đường, lại đến sáu bảy dặm nữa, dừng lại, thấy có một người con gái chăn dê bên đường. Nghị lấy làm lạ, ngắm nhìn thì đó là một trang tuyệt sắc. Nhưng khuôn mặt đăm đăm, khăn áo tồi tàn, cứ đứng trơ trơ như có ý đợi ai. Nghị hỏi cô gái: "Làm sao mà nàng chịu nhục như thế".
Ban đầu cô gái cười và cảm ơn, nhưng rồi cô khóc và rằng: "Tiện thiếp chẳng may, nay được bề trên hỏi đến. Nhưng dẫu căm giận thấu xương cũng có cách nào tránh được. Xin kể chàng nghe: Thiếp là con út của Long quân hồ Động Đình. Cha mẹ gả thiếp cho người con thứ của Long Xuyên. Nhưng chồng thiếp ham chơi bời, bị bọn nữ tì mê hoặc, ngày ngày bạc tình ghét bỏ thiếp. Sau đó, thiếp kể lại cho bố mẹ chồng. Bố mẹ chồng nuông con, không ngăn được. Đến khi thiếp kể lể nhiều, mất lòng bố mẹ chồng, nên họ đầy đọa đến nỗi này đây!".
Nói xong, xụt xùi rơi lệ đau buồn khôn xiết. Nàng lại nói: "Chẳng biết Động Đình cách đây bao xa, mênh mang trời rộng, tin không tới được, đứt gan đứt ruột, ai biết mà xót thương? Nghe tin chàng sắp về đất Ngô, nơi đó rất gần Động Đình, muốn nhờ chàng gửi hộ phong thư, không biết có được hay không?".
Nghị đáp: "Tôi là kẻ có nghĩa, nghe nàng nói, khí huyết sôi lên, giận mình không có cánh bay ngay tới đó, nói chi điều có được hay không. Nhưng hồ Động Đình rất sâu, tôi ở trên trần gian, làm sao mà nhắn tin được? Chỉ sự u minh khác nẻo, hai cõi chẳng thông, thì sẽ phụ lòng thành gửi gắm và cũng trái với ý nguyện của tôi. Nàng có cách gì có thể hướng dẫn cho tôi không?".
Cô gái vừa khóc vừa cảm tạ: "Thôi đừng nói lại lời gửi gắm trân trọng nữa. Nếu thiếp được trở về với cha mẹ dẫu chết vẫn tạ ơn chàng. Chàng không nhận lời thiếp chẳng dám nói, chàng đã nhận lời mà hỏi, thì Động Đình cũng như kinh ấp, chẳng có gì lạ!".
Nghị xin được nghe. Cô gái nói: "Phía nam Động Đình có cây quất lớn, người nơi đó gọi là Xã Quất. Chàng phải cởi bỏ chiếc đai này, lấy đai khác buộc lại, rồi gõ vào thân cây ba tiếng, sẽ có người trả lời, chàng nhân đó theo vào, không có trở ngại gì đâu. May gặp quân tử, ngoài những điều kể trong thư ra, xin gửi gắm cả những lời tâm huyết, muôn vàn lần ghi nhớ đừng quên".
Nghị đáp: "Xin tuân lệnh".
Cô gái bèn lấy bức thư trong áo, lạy hai lạy rồi trao cho Nghị, nhìn về phương đông mà khóc như không sao kiềm chế được; Nghị cảm thấy rất thương xót, bỏ thư vào túi lại hỏi rằng: "Tôi không biết nàng chăn dê để làm gì, chả lẽ thần cũng giết dê hay sao?".
Cô gái đáp: "Không phải là dê đâu, là vũ công đấy".
Nghị lại hỏi: "Vũ công là gì?" Nàng đáp: "Vũ công cũng như sấm sét ấy mà".
Nghị quay sang nhìn đàn dê, con nào con ấy gườm gườm giận dữ, ăn uống rất lạ, nhưng kích thước, lông sừng không khác gì dê. Nghị lại hỏi: "Tôi làm sứ giả, lần sau có về Động Đình đứng lánh nhau nhé!".
Cô gái đáp: "Chẳng những không lánh mà còn là thân thích của nhau nữa". Nói xong, Nghị từ biệt đi về phía đông, chưa được mấy chục bước, quay lại nhìn thì cả cô gái và đàn dê đều không thấy đâu nữa.
Đêm ấy, Nghị tới ấp từ biệt bạn mình. Hơn một tháng sau, về đến quê nhà. Rồi chàng tìm tới hồ Động Đình. Phía nam Động Đình quả nhiên có cây Xã Quất, Nghị bèn thay đai, gõ vào thân cây ba tiếng rồi dừng lại. Lát sau có một tên võ phu từ trong sóng bước ra, vái Nghị và hỏi: "Quý khách từ đâu tới ạ?".
Nghị không trả lời đúng câu hỏi, chỉ nói: "Đi yết kiến đại vương đây".
Võ phu rẽ nước chỉ đường dẫn Nghị đi, bảo Nghị: "Ngãi hãy nhắm mắt lại, lát nữa sẽ tới".
Nghị làm theo, tới ngay một cung điện. Bấy giờ mới thấy đài các nối nhau, muôn ngàn cổng cửa, cây quý cỏ lạ, thứ gì cũng có. Võ phu ngăn Nghị dừng lại ở một góc ngôi nhà lớn và nói: "Khách hãy đợi ở đây". Nghị hỏi: "Đây là chỗ nào?". Võ phu đáp: "Đây là điện Linh Hư".
Nhìn kỹ thì thấy ngọc ngà châu báu đều ở đây cả. Cột bằng ngọc trắng, gạch bằng ngọc xanh, giường bằng san hô, rèm bằng thủy tinh. Chạm lưu ly trên bậu cửa, gắn hổ phác trên tường nhà. Hoa lạ hương thơm, không sao tả hết. Nhưng mãi không thấy Vương tới, Nghị hỏi Võ phu: "Động Đình quân ở đâu?".
Võ phu đáp: "Vua chúng tôi đang ở các Huyền Châu" cùng Thái Dương đạo sĩ giảng bàn hoả kinh, lát nữa là xong".
Nghị hỏi Hỏa Linh là gì.
Võ phu đáp: "Vua chúng tôi là rồng, Rồng lấy nước làm thần, lấy một giọt nước có thể bao hàm chằm núi; đạo sỹ là thần, người lấy lửa làm thánh, khêu một ngọn đèn có thể đốt cháy A phòng(18). Thế nhưng linh ứng không giống nhau biến hoá diệu huyền cũng có khác. Thái Dương đạo sỹ tinh thông đạo người, vua chúng tôi mời ngài tới để nghe đạo".
Nói dứt lời thì cửa cung mở ra, bóng hợp theo mây, thấy có một người mặc áo tía, cầm ngọc xanh, võ phu đứng dậy nói: "Đấy là đức vua chúng tôi".
Rồi bước lên báo với Long quân.
Long quân nhìn Nghị hỏi: "Ông là người cõi nhân gian phải không?". Nghị thưa: "Dạ", nói rồi vái lạy, Long quân cũng vái lạy, bảo Nghị ngồi xuống dưới điện Linh Hư, rồi nói với Nghị: "Thủy phủ thâm u, quả nhân u tối, ngài chẳng quản xa xôi ngàn dặm tới đây, chắc có điều gì dậy bảo?".
Nghị đáp: "Nghị tôi là người cùng quê với Đại Vương, lớn lên trên đất Sở, du học ở đất Tần. Bữa trước thi hỏng, dạo chơi trên sông Kinh thủy, thấy ái nữ của Đại Vương chăn dê ngoài đồng, mưa dầm gió dãi, chẳng nỡ đứng nhìn, Nghị tôi bèn hỏi duyên do thì ái nữ nói: "Bị chồng bạc tình, cha mẹ chồng chẳng đoái tới nên đến nỗi vậy". Nói xong lệ tuôn lã chã, thực rất thương tâm. Rồi nàng nhờ Nghị tôi đưa thư, tôi nhận lời, bây giờ mới tới đây!". Nói rồi, Nghị cầm thư trao cho Long quân. Long quân xem xong, lấy tay áo che mặt mà khóc, nói: "Cha già có tội không xem xét kỹ, như điếc như mù, khiến cho con trẻ phòng khuê bị hại ở phương xa, ngài là người lạ trên đường, còn biết ra tay cứu giúp. Tôi thực chịu ơn sâu nặng, đâu dám phụ lòng tốt của ngài".
Nói xong, lại rầu rĩ than thở hồi lâu, các quan tả hữu đều rơi nước mắt. Lúc ấy, có viên hoạn quan hầu cạnh Long quân, Long quân đưa thư cho ông ta, bảo truyền vào cung.
Lát sau trong cung vang tiếng khóc. Long quân bảo tả hữu: "Mau bảo trong cung đừng khóc thành tiếng, sợ Tiền Đường nghe thấy".
Nghị hỏi: "Tiền Đường là ai?".
Long quân đáp: "Là em ruột của quả nhân, trước kia làm linh trưởng Tiền Đường nay đã nghỉ việc rồi".
Nghị lại hỏi: "Tại sao lại không cho ông ấy biết?".
Long quân đáp: "Vì ông ta dũng lực hơn người. Xưa kia vua Nghiêu bị nạn lụt chín năm liền, đều do ông ấy tức giận mà gây ra cả. Gần đây giận nhau với Thiên tướng, lấp cả 5 quả núi. Thượng đế thấy quả nhân có chút công đức xưa nay, liền giảm tội cho người em nhưng vẫn bị giam ở đây. Cho nên người ở Tiền Đường hàng ngày thường tới chầu hầu".
Chưa dứt lời, bỗng có tiếng thét lớn, trời rung đất lở, cung điện chao đảo, mây tuôn cuồn cuộn, lát sau có con rồng đỏ dài hơn ngàn thước, mắt sáng như chớp, lưỡi đỏ dài hơn ngàn thước, mắt sáng như chớp, lưỡi đỏ như máu, vẩy như son, bờm tựa lửa, cổ đeo vòng vàng, vòng mang trụ ngọc. Quanh thân rồng vô vàn sấm sét liên hồi, bão tuyết mưa băng trút xuống, rồi rồng bay vút lên trời xanh. Nghị sợ quá ngã lăn xuống đất, Long quân nâng chàng dậy và bảo: "Đừng sợ, không việc gì đâu" mãi lâu sau Nghị mới dần dần trấn tĩnh được.
Sau đó Nghị cáo từ rằng: "Xin được sống sót trở về để tránh lúc rồng trở lại".
Long quân nói: "Nhất định không như vậy nữa đâu. Nó đi thì như thế, nhưng khi nó về thì không thế nữa, xin cứ ở lại để tỏ lòng gắn bó".
Rồi sai rót rượu để khoản đãi Nghị. Lát sau gió đẹp mây lành, chan hoà đầm ấm, cờ tiết rung rinh, nhạc thiều réo rắt, muôn vạn hồng trang, nói cười ríu rít. Trong đó có một người mày ngài thanh tú, ngọc sáng khắp người, lụa là phơ phất. Đến gần nhìn thì là người nhắn lời hôm trước. Nhưng bây giờ thì buồn vui lẫn lộn, nước mắt lã chã tuôn rơi, trong phút chốc, mây hồng che bên trái, khí tía phủ bên phải hương thơm ngào ngạt quyện vào trong cung. Long quân cười bảo Nghị: "Đứa con gái bị đầy ở Kinh Thủy về rồi!".
Rồi Long quân trở về trong cung, lát sau lại nghe tiếng than oán xót thương, hồi lâu chẳng dứt. Được một lát Long quân lại ra, cùng ăn uống với Nghị. Lại có một người mặc áo tía, cầm ngọc xanh, dáng vẻ thần tiên đứng bên Long quân. Long quân bảo Nghị: "Đây là Tiền Đường". Nghị đứng dậy bước tới vái chào. Tiền Đường cũng tiếp Nghị rất lễ phép, nói với Nghị: "Cháu tôi không may bị thằng ranh làm nhục. Nhờ bậc quân tử hiền minh tỏ rõ tín nghĩa, hiểu rõ nỗi oan, nếu không đã trở thành bùn đất xứ Kinh Lăng rồi. Hưởng đức nhớ ơn, nói chẳng hết được tấm lòng này".
Nghị khiêm nhường tử tạ, chỉ cúi đầu vâng dạ. Sau đó, Tiền Đường quay sang nói với anh: "Bữa rồi, giờ Thìn ra đi từ điện Linh Hư, giờ Tỵ tới Kinh Dương, giờ Ngọ đánh nhau ở đấy. Chưa về thẳng đây, nửa chừng bay lên trời, tâu với Thượng đế. Đế biết nỗi oan nên tha tội cho, những khiển trách trước đều được tha cả. Nhưng vốn tính nóng nảy, chưa kịp từ biệt, làm kinh động trong cung, lại làm phật lòng tân khách. Trong lòng cảm thấy xiết bao lo lắng hổ thẹn". Nói rồi, lui lại và vái lạy hai lạy.
Long quân hỏi: "Giết mất bao nhiêu?".
Đáp: "Sáu mươi vạn".
"Có làm hại mùa màng không?".
Đáp: "Tám trăm dặm"
"Kẻ vô tình kia đâu?"
Đáp: "Đã ăn thịt rồi".
Long quân buồn rầu nói: "Thằng ranh tàn nhẫn thế, thực không thể tha thứ, nhưng chú cũng vội vã quá, nhờ Thượng đế thánh linh, xét rõ nỗi oan, nếu không tôi biết ăn nói làm sao ? Từ nay trở đi, chớ như vậy nữa".
Tiền Đường lại vái tạ.
Đêm ấy, Nghị nghỉ ở điện Ngưng Quang. Hôm sau lại đãi yến Nghị ở cung Ngưng Bích. Long quân hội họp bạn bè thân thích, bày dàn nhạc lớn, có đủ rượu ngon, thức ăn thơm ngon tinh khiết. Ban đầu nổi kèn, tù và, chiêng trống, phất cờ vung kiếm kích, một vạn võ sỹ múa ở bên phải, một võ sỹ từ trong hàng múa tiến lên nói: "Đây là điệu nhạc Tiền Đường phá trận". Cờ vung khí mạnh, nhìn mà rợn người. Quan khách ngồi xem tóc lông dựng ngược. Lại có kim thạch ty trúc, lụa là châu ngọc, một ngàn mỹ nữ múa ở bên trái. Một mỹ nữ từ trong hàng múa đứng lên nói: "Đây là điệu nhạc Quý chủ trở về cung". Tiếng nhạc du dương, như kể lể, như hâm mộ. Khách ngồi xem bất giác rơi lệ. Hai điệu múa vừa xong, Long quân mừng lắm, đem lụa là ban cho người múa. Sau đó, bày tiệc ngồi sát nhau uống rượu vui vẻ. Rượu say, Động Đình quân bèn gõ chiếu ca rằng:
Trời cao xanh xanh chừ, đất lớn mênh mang,
Ai cũng có chí chừ, không thể suy lường.
Thần cáo thánh chuột chừ, nhờ miếu dựa tường,
Sấm sét ra uy chừ, nào ai dám đương?
Ơn trinh nhân chừ, tín nghĩa trường,
Cho cốt nhục chừ, về cố hương.
Hỡi ôi hổ thẹn chừ, bao giờ quên!
Động Đình quân ca xong, Tiền Đường quân vái lạy mà ca rằng:
Trời cao phối hợp chừ, sống chết có nơi.
Đây chẳng nên vợ chừ, đấy chẳng nên người !
Đắng cay đứt ruột chừ, Kinh Thủy xa vời.
Gió sương bạc tóc chừ, băng tuyết đầy vơi,
Nhờ minh công chừ, đưa bức thư,
Cho cốt nhục chừ, lại như xưa.
Hãy xin trân trọng chừ, mãi muôn đời.
Tiền Đường quân ca dứt, Động Đình quân cùng đứng lên, nâng chén mời Nghị, Nghị cung kính đỡ lấy. Uống xong lại rót hai chén rượu kính mời hai vị, rồi ca rằng:
Man mác mây xanh chừ, Kinh thủy lòng trôi,
Thương mỹ nhân chừ, mưa khóc hoa sầu.
Muôn dặm thư đưa chừ, khuyây nỗi lo âu.
Oán kia rũ sạch chừ, về hưởng phúc sau.
Chịu tình nặng chừ, cảm ơn sâu.
Nước non tịch mịch chừ, khó ở lâu.
Muốn rằng từ biệt chừ, buồn hắt hiu.
Ca xong mọi người đều hô "Vạn tuế" Động Đình quân lại đem hòn ngọc trắng đựng sừng tê rẽ nước; Tiền Đường quân lại đem mâm hồng ngọc chứa viên ngọc soi đêm để tặng Nghị, Nghị cảm ơn nhận lấy. Sau đó, những người trong cung đều đem lụa là châu báu chất quanh người Nghị, chỉ một lát, đã thành đống ngổn ngang rực rỡ. Nghị cười nói vái chào liên tiếp. Đến khi tiệc tàn, Nghị đứng dậy từ biệt trở về nghỉ ở điện Ngưng Quang.
Hôm sau, Động Đình quân lại đãi yến Nghị ở các Thanh Quang. Tiền Đường nhân rượu say, hầm hầm nhổm dậy nói với Nghị: "Nghị có nghe người ta nói: "Đá cứng có thể đập vỡ chứ không thể uốn cong, nghĩa sỹ có thể giết chết chứ không thể làm nhục không?". Tôi có điều tâm sự muốn nói với ngài. Nếu được thì chúng ta cùng thanh thản đường mây; nếu không được thì ngài sẽ thành bùn thành đất, ngài nghĩ thế nào?". Nghị nói: "xin được nghe". Tiền Đường nói: "Vợ Kinh Dương là con gái yêu của Động Đình quân, tư chất dịu dàng hiền thục, được cả họ yêu quý, chẳng may bị thằng vô lại làm nhục, nay nó đã chết rồi. Chúng tôi định tìm bậc nghĩa hiệp để gửi gắm, đời đời kết thông gia, cho kẻ chịu ân biết chỗ trả ơn, người thương xót, có nơi thương xót. Đấy chẳng phải là lẽ thủy chung của bậc quân tử hay sao?".
Nghị nghiêm sắc mặt, thản nhiên cười nói: "Thực chẳng ngờ Động Đình quân hèn kém đến vậy. Trước đây, nghe nói ngài làm lụt cả chín châu, ôm cả năm trái núi để trút căm giận, lại thấy ngài bẻ gãy khóa cổ và trụ ngọc đi cứu cháu mình, Nghị nghĩ không ai cương quyết, sáng suốt hơn ngài. Bởi kẻ phạm hình không né cái chết, người cảm nghĩa không tiếc cuộc đời, đó chính là cái chí của bậc trượng phu. Cớ sao vừa mới ca nhạc thân vui, chủ khách hòa thuận, lại bất chấp đạo lý, đe dọa ân nhân? Đó đâu phải là điều tôi trông đợi ở ngài? Nếu tôi gặp ngài ở giữa nơi sóng to lũ lớn, ở tận chốn núi thẳm rừng sâu mà ngài dương vây múa vuốt, cuộn mây trút mưa bức Nghị phải chết thì Nghị coi ngài là loài cầm thú cũng chẳng nói làm gì. Đằng này, ngài chững chạc áo mũ, ngồi bàn lễ nghĩa, nào ý nghĩa của ngũ thường, nào mục tiêu của bách hạnh. Dẫu đến hào kiệt cõi thế gian cũng không bằng, nói chi đến các loài thiêng chốn sông nước? Thế mà định đem cái thân xuẩn ngu, cái nết hung hãn, nhân chén rượu nổi cơn khùng để đe dọa người khác, như thế có phải là cạn nhân tình hay không? Hơn nữa, với sức vóc của Nghị, chẳng đáng để Vương ra tay, nhưng Nghị dám đem ý chí bất khuất để chiến thắng thói vô đạo của Vương. Xin Vương hãy liệu!".
Tiền Đường vội vàng xin lỗi: "Quả nhân sinh trưởng trong cung phòng, không được nghe lời bàn chính đáng. Vừa rồi nói năng thô bạo, ngông cuồng xúc phạm tới bậc cao minh tự xét lại mình, tôi không thể dung thứ. Xin quân tử không vì thế mà nghĩ khác đi". Đêm ấy lại yến tiệc ca hát vui vẻ như cũ. Nghị và Tiền Đường sau trở thành bạn tri âm.
Hôm sau, Nghị từ biệt ra về, Phu nhân Động Đình quân mở tiệc riêng đãi Nghị ở điện Tiềm Cảnh. Tất cả mọi người đều dự tiệc. Phu nhân khóc nói với Nghị: "Con tôi chịu ơn sâu của quân tử, hận chưa báo đáp được, đã phải chia ly", rồi sai con gái vái Nghị để tỏ lòng tạ ơn. Phu nhân lại nói: "Cuộc chia ly này còn có ngày gặp nhau nữa không?". Nghị tuy ban đầu không nhận yêu cầu của Tiền Đường, nhưng trong bữa tiệc này, lại có ý rất ân hận. Tiệc xong từ biệt cả cung buồn rầu đưa tặng châu báu, vàng ngọc rất nhiều. Thế rồi Nghị lại theo lối bờ sông, thấy có hơn mười người gánh túi đi theo, đến tận nhà mới từ biệt. Sau đấy, Nghị ra chợ Quảng Lăng bán quà tặng, trăm phần chưa đến một phần mà đã tiền mặt chất đầy. Vì thế, các nhà giàu có vùng Hoài Hữu đều chịu nhận là không bằng Nghị.
Rồi Nghị lấy người con gái họ Trương. Người con gái ấy chết, chàng lấy Hàn thị. Được mấy tháng thì Hàn thị lại chết. Chàng dời nhà đến Kim Lăng, luôn cảm cảnh về nỗi góa vợ trống vắng, định tìm người mới! Có bà mối tới bảo chàng: "Họ Lư ở đất Phạm Dương có cô con gái, cha là Hạo, trước làm quan ở Thanh Lưu, khi về già ưa học Đạo, một mình du ngoạn chốn vân tuyền, nay không biết đi đâu. Mẹ họ Trịnh. Cô ấy năm trước lấy người họ Trương ở Thanh Hà, chẳng may chồng mất sớm, bà mẹ thương cô ấy còn trẻ, tiếc cho cô ấy xinh đẹp, thông minh, muốn chọn người có đức để gả, không hiểu ý ông thế nào?". Nghị liền chọn ngày đưa lễ hỏi. Hai bên trai gái đều là họ lớn giàu sang, nghi thức lễ vật, đều rất đầy đủ thịnh soạn, sĩ phu đất Kim Lăng, ai cũng kính tụng. Ăn ở với nhau được hơn một tháng, bữa tối nọ, chàng vào phòng, thấy vợ mình rất giống người con gái của Động Đình quân, mà lại xinh đẹp phúc hậu hơn, chàng nhân vậy kể cho nàng nghe câu chuyện xưa. Vợ chàng nói: "Chả lẽ cõi người cũng có chuyện ấy sao?".
Được hơn một năm, có một con trai, Nghị càng quí trọng vợ. Đẻ xong đầy tháng, bèn sửa sang trang sức, y phục, gặp gỡ thân thích bạn bè. Trong bữa họp mặt, nàng cười nói với Nghị: "Chàng không nhớ em ngày xưa ư?" Nghị đáp: "Xưa đưa thư cho Động Đình quân, đến nay vẫn nhớ". Nàng lại nói: "Em là con gái út của Động Đình quân. Nỗi oan khuất ở Kinh Xuyên, nhờ chàng mới được bộc bạch. Em mang ơn chàng, thề với lòng mình sẽ tìm cách báo đáp. Tới khi chú Tiền Đường bàn việc mai mối không xong, đến nỗi ly biệt mỗi người một phương trời, không làm sao thăm hỏi được nhau. Rồi cha mẹ em định gả em cho con trai ông Trạc Cẩm. Em nghĩ là lời thề với lòng mình khó đổi dời mà ý cha mẹ cũng không thể trái. Mình đã bị chàng ruồng bỏ, không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau, nhưng nỗi oan xưa dẫu được tỏ cùng cha mẹ, mà lời thề báo đáp vẫn không thực hiện được, thế là em lại dịnh chạy tới kể lể cùng chàng. Gặp lúc chàng lấy vợ mấy lần, trước thì lấy chị họ Trương, sau đến chị họ Hàn. Đến khi hai chị nối nhau chết, chàng đến ở chốn này. Cho nên cha mẹ em mới mừng cho em có dịp báo ơn chàng. Ngày nay được thờ chàng, em xúc động vui mừng trọn đời, đến chết cũng không ân hận gì nữa". Nói xong sùi sụt, nước mắt tuôn rơi, nhìn Nghị lại nói: "Ban đầu em không nói ra vì biết chàng vốn không hiếu sắc. Nay em lại nói, vì biết chàng có ý cảm em. Đàn bà phận bạc, chẳng đáng phải để tâm bền chặt mãi, nên nhân thấy chàng thương con, em mới thác chuyện tương sinh, không biết ý chàng thế nào? Lòng em vừa buồn vừa sợ, không làm sao hiểu được. Hôm chàng nhận đưa thư, có cười nói với em: "Sau này về Động Đình, đừng có lánh nhau nhé!". Thực không hiểu ngày ấy chàng có nghĩ tới chuyện ngày nay không? Sau đó, chú em mời chàng ở lại, chàng cố tình không nghe, có phải đúng là chàng không chịu, hay là chàng giận? Chàng nói đi!" Nghị đáp: "Hình như có số phận cả!".
Ban đầu tôi thấy nàng ở cõi Trường Kinh, oan ức tiều tụy, thực lòng có ý bất bình. Nhưng tự hẹn với lòng mình là giải nỗi oan cho nàng, ngoài ra không có ý gì khác. Còn câu "Đừng có quên nhau" thì chỉ là tình cờ thôi, không có dụng ý gì. Đến lúc Tiền Đường bắt ép tôi, nghĩ là về lý không thể thế được, chỉ gây nỗi giận dữ mà thôi. Này nhé, ban đầu hành động là vì nghĩa khí, sao lại giết chồng người rồi lấy vợ của người ta. Đó là một lẽ không thể được. Tôi vốn là một người ưa giữ lòng chân thực, chả lẽ bản thân chịu khuất phục, ý chí phải phục tùng người khác hay sao? Đó là hai điều không thể được. Hơn nữa, trong lúc tâm trí lúng túng, ứng đối liên miên thì chỉ nghĩ đến lẽ thẳng, không còn hơi đâu nghĩ đến né tránh tai họa. Nhưng khi sắp chia ly, thấy nàng có dáng quyến luyến thì trong lòng lại rất ân hận. Sau này vì công việc thúc ép, không có cách nào cảm tạ được. Ôi, hôm nay, nàng là con gái họ Lư, lại làm nhà ở cõi người, thế thì tấm lòng xưa của tôi không bị mê hoặc. Từ nay về sau mãi mãi vui sống bên nhau, chớ có mảy may băn khoăn gì nữa". Nghe xong, nàng rất đỗi xúc động, khóc nức nở hồi lâu rồi nói với Nghị: "Chớ thấy em khác loài mà cho là giống vô tình, em biết cách báo ơn chàng. Này nhé, giống rồng thọ một vạn tuổi. Nay em với chàng cũng thọ như vậy. Trên bộ, dưới nước đi đâu cũng được, chàng chớ cho em là nói khoác!". Nghị mừng rỡ nói: "Anh không ngờ trang quốc sắc lại còn là bậc thần tiên nữa".
Rồi đó, hai vợ chồng cùng nhau về thăm Động Đình. Đến nơi mọi nghi lễ chủ khách rất lớn, không ghi hết được. Sau đó, hai người về ở Nam Hải gần bốn mươi năm. Mọi thứ nhà cửa xe ngựa châu báu ngọc ngà, dẫu đến bậc vương hầu bá tước cũng chẳng hơn. Họ hàng nhà Nghị đều được hưởng ân trạch. Xuân thu đắp đổi, thế mà dáng vẻ vẫn trẻ trung, người vùng Nam Hải, ai cũng cảm thấy lạ lùng kinh sợ.
Đến năm Khai Nguyên, trên trời chú ý tới việc thần tiên, lùng tìm đạo thuật rất gắt gao. Nghị sống không yên, liền đem nhau về Động Đình ở hơn mười năm, không ai biết dấu vết ở đâu.
Đến cuối năm Khai Nguyên người em họ của Nghị làm Kinh kỳ lệnh, bị giáng làm quan ở phương Đông nam, qua hồ Động Đình, giữa ban ngày nhìn xa xa thấy một ngọn núi biết nổi lên trên mặt sóng. Người trong thuyền đều nói "Chỗ ấy vốn không có núi, sợ đó là thủy quái". Phút chốc, thuyền sát núi, thấy có một chiếc thuyền hoa từ núi lao ra, đón hỏi Hỗ, trong đó có một người gọi: "Liễu công tới hầu!". Hỗ tỉnh táo ghi nhớ, rồi giục thuyền tới chân núi, nhanh nhẹn trèo lên. Núi này có cung khuyết như ở nhân gian, Nghị đứng trong cung, phía trước bầy đàn địch, phía sau bầy châu ngọc, những thứ châu báu trang hoàng, nhiều hơn nhân gian gấp bội. Nghị nói năng rất sâu sắc, vẻ người lại rất trẻ. Trước đón Hỗ lên thềm, cầm tay Hỗ nói: "Chia tay nhau thấm thoát mà tóc đã bạc cả rồi!" Hỗ cười nói: "Anh là thần tiên, em là nắm xương khô, cũng là số mệnh!" Nghị lấy ra năm mươi viên thuốc đưa cho Hỗ và bảo: "Mỗi viên thuốc này có thể thêm một tuổi thọ. Cuối năm lại đến đây đừng ở mãi thế gian mà chịu khổ". Tiệc vui xong, Hỗ từ biệt ra đi. Từ đó về sau, không ai thấy bóng hình tăm tích nữa. Hỗ đem chuyện này kể lại cho người đời. Được gần bốn kỷ Hỗ cũng đi đâu mất.
Lý Triều Uy ở Lũng Tây kể truyện và than rằng: "Đứng đầu năm loài(19) ắt hẳn là sinh vật linh thiêng, ở truyện này ta mới thấy chứng nghiệm. Người là loài khỏa trùng, giữ tín với loài lân trùng. Động Đình quân nói năng thẳng thắn hào phóng. Tiền Đường quân lỗi lạc phi thường nên có kế thừa. Hỗ ca ngợi nhưng không ghi, tôi thấy truyện có nghĩa, nên ghi lại(20).
Xuân Huy dịch
TRUYỆN LÝ OA(21)
Bành Hành Giản(22)
Khiên Quốc phu nhân Lý Oa, là một xướng nữ đất Trường An, tiết hạnh cao quý, đáng ca ngợi, nên Giám sát ngự sử Bạch Hành Giản viết truyện kể về nàng.
Năm Thiên Bảo(23), có viên thứ sử Thường Châu Vinh Dương Công, uy vọng rất lớn, đầy tớ rất nhiều. Đến tuổi tu thiên(24) sinh được một con trai, nay vừa hai mươi tuổi. Sinh là người thông minh, có tài văn chương hơn hẳn người thường nên rất được người đương thời kính phục. Cha Sinh rất yêu quý thường nói:
"Nó là con ó ngựa Thiên lý của nhà ta".
Vào dịp thi Hương, cha Sinh sửa soạn đủ trang phục ngựa xe, tính toán phí tổn đến Kinh đô, nói với Sinh:
"Ta thấy với tài của con, chắc một lần ra trận là chiến thắng. Nay ta chuẩn bị cho con tiền tiêu trong hai năm, để con chi dùng dồi dào thoải mái".
Sinh có lần từ chợ Đông trở về, vào phường Bình Khang(25) định đến thăm một người bạn ở mé Tây Nam. Đến phố Minh Kha, thấy một khu nhà, cửa sân không rộng lắm nhưng nhà trông đường bệ thâm u. Bên cánh cửa khép, có một thiếu nữ áo xanh, tóc búi trái đào, đứng tựa lan can, vẻ người yểu điệu thướt tha, thực là trang giai nhân tuyệt sắc. Sinh vừa nhìn thấy nàng, bất giác dừng ngựa, ngập ngừng ngồi lâu không nỡ bỏ đi. Chàng bèn giả vờ đánh rơi roi ngựa, chờ người hầu đến sai nhặt lên, mắt luôn liếc nhìn thiếu nữ. Thiếu nữ cũng quay lại đăm đăm nhìn chàng, tình cảm rất trìu mến, nhưng nàng không dám nói một lời, bỏ đi.
Từ bữa ấy, Sinh cảm thấy bâng khuâng như mất mát thứ gì, chàng kín đáo tìm bạn bè quen thuộc đất Trường An dò hỏi. Bạn chàng cho biết là nhà người xướng nữ họ Lý. Sinh hỏi:
"Cô gái có thể hỏi được không?"
Bạn chàng nói:
"Lý thị rất giàu. Những người đi lại trước đây đều là hạng giàu sang cả, tiền thu về rất nhiều. Nếu không có hàng trăm vạn thì nàng không chuyển đâu!".
Sinh nói:
"Chỉ sợ nàng không bằng lòng thôi, chứ tiếc gì trăm vạn".
Hôm sau, Sinh ăn diện lịch sự, ngựa xe sang trọng tới gõ cửa nhà nàng, lát sau có con hầu ra mở cửa Sinh hỏi:
"Đây là nhà ai?".
Con hầu không trả lời, chạy vào, gọi to:
"Chàng rơi roi ngựa bữa trước đã đến!"
Thiếu nữ mừng rỡ nói:
"Em ra bảo chàng đợi một lát, ta trang điểm một chút sẽ ra".
Sinh nghe nàng nói, mừng thầm trong lòng. Con hầu đưa Sinh đến gian bên, thấy một bà già tóc ngả bạc, lưng đã còng, đây là mẹ nàng thiếu nữ. Sinh quỳ xuống lạy thưa: "Con nghe nói ở đây có nhà bỏ vắng, xin thuê để ở có được không ạ?"
Bà già đáp:
"Chỉ sợ nó xấu xí dột nát, không đáng để cho bậc trưởng giả hạ mình ở đó, cũng xin nói thẳng!".
Bà mời Sinh sang phòng khách rất sang trọng, ngồi đối diện với Sinh bà nói:
"Tôi có đứa con gái yêu còn trẻ, tài nghệ vụng về, nay may gặp khách đây, xin cho nó ra gặp mặt!".
Nói rồi bà gọi nàng Oa ra, Sinh thấy nàng đôi mắt trong sáng cổ tay trắng ngần, vội đứng dậy, không dám nhìn lên. Chào hỏi xong, đôi bên chuyện trò thân mật. Nàng kiều diễm xinh tươi, mắt chàng chưa bao giờ thấy ai được như thế, nàng ngồi xuống pha trà, rót rượu, mời Sinh. Mãi đến chiều tối, trống đã điểm bốn hồi, bà mẹ hỏi Sinh nhà ở xa hay gần. Sinh nói dối là ở ngoài cửa Diên Bình mấy dặm, hy vọng xa như vậy là được ở lại. Bà mẹ nói:
"Trống đã điểm rồi, mau về đi thôi, đừng phạm lệnh cấm".
Sinh thưa:
"May được đón tiếp vui vẻ, không biết trời đã tối, đường xá xa xôi, trong thành không có ai thân quen, không biết làm thế nào bây giờ?".
Oa nói:
"Chàng không chê nhà hẻo lánh lụp sụp, vừa mới ở lại thì qua đêm ở đây có ngại gì?".
Sinh đưa mắt nhìn bà mẹ. Bà gật đầu đáp: "được, được!"
Sinh liền gọi gia đồng đưa hai tấm lụa tới(26), xin sửa một bữa tiệc đêm. Oa cười, ngăn lại, nói:
"Chủ tiếp khách, không nên như thế. Bữa tiệc đêm nay xin theo cảnh nhà nghèo khó, sửa món cơm hẩm mời chàng. Ngoài ra, thì xin đợi bữa khác!". Sinh cố từ, nhưng nàng vẫn không nghe.
Lát sau, dời đến Tây Đường, ở đây, màn rèm, giường đệm rực rỡ sang trọng. Các thức áo gối, trang sức đều xa hoa lộng lẫy. Tiệc dâng lên các món ăn đều rất ngon, rất quý. Ăn xong bà mẹ đứng dậy. Sinh và Oa trò chuyện đương lúc đằm thắm. Hai người cười đùa vui vẻ, chuyện gần chuyện xa. Sinh nói:
"Bữa trước tình cờ qua nhà em, gặp em đứng bên cửa, từ đó, trong lòng lúc nào cũng nhớ, dẫu bữa ăn, giấc ngủ cũng không quên em". Oa đáp: "Lòng em cũng như thế". Sinh nói:
"Nay anh đến đây không chỉ tìm nhà thôi đâu, còn xin được toại nguyện đời mình, không biết ý em thế nào?".
Nói chưa dứt, bà mẹ đã tới, hỏi duyên cớ. Sinh thưa hết mọi chuyện. Bà cười, nói:
"Giữa trai và gái, bao giờ cũng có dục tình. Nếu tình cảm hợp nhau, thì dẫu mẹ cha cũng không ép được. Con gái tôi quê mùa, sao đáng hầu chăn gối bậc quân tử?".
Sinh vội xuống thềm, vái lạy, tạ ơn thưa:
"Con xin được hầu hạ mẹ!".
Bà mẹ liền coi Sinh là chàng rể, uống say rồi bỏ đi.
Sáng hôm sau, chàng dọn hết hành lý đến ở nhà bà Lý. Từ đấy, Sinh dấu vết, náu thân không đi lại với bạn bè thân thích nữa. Ngày ngày chàng cùng bọn xướng ca làm trò, vui đùa yến tiệc. Tiền tiêu hết sạch, chàng bán cả ngựa xe và đứa hầu. Hơn một năm, mà của cải xe ngựa đầy tớ phá tán hết sạch. Gần đây, bà mẹ dần dà có ý rẻ rúng, nhưng tình yêu của nàng Oa lại ngày một nồng nàn.
Một hôm, Oa bảo Sinh:
"Sống với chàng đã hơn một năm vẫn chưa có thai, nghe nói thần Trúc Lâm rất linh ứng, chúng mình tới đó cầu tự có được không?".
Sinh không hiểu đấy là mưu kế của mẹ con nàng, mừng lắm liền cầm quần áo, lấy tiền sửa lễ tế thần, cùng nàng tới đền làm lễ cầu tự. Qua đêm trở về, khi đánh xe đến cửa Bắc, Oa bảo Sinh:
"Quãng phố rẽ sang phía Đông là nhà dì em, chúng ta đến đó nghỉ, nhân tiện thăm dì một thể, anh có chịu không?".
Sinh làm theo lời nàng. Đi chưa đầy trăm bước quả nhiên có một cái cổng, nhìn vào bên trong thấy rộng. Có một người con gái áo xanh từ sau xe ngăn lại, nói: "Đến rồi".
Sinh xuống xe, vào lúc đó, có người hỏi: "Ai đó?". Trả lời: "Lý Oa đây". Người đó vào báo. Lát sau, có người đàn bà khoảng hơn 40 tuổi, ra đón Sinh nói:
"Cháu tôi đã đến phải không?".
Oa xuống xe, người đàn bà đon đả:
"Sao đã lâu biệt tăm không thấy mặt?". Hai người nhìn nhau cười. Oa dẫn Sinh đến chào. Chào xong, mọi người cùng vào cửa chính. Sân rộng có núi giả, có khóm trúc xanh um, có đình tạ trên hồ, cảnh rất u nhã. Sinh nói với Oa:
"Đây là nhà phải không?". Oa không nói gì, lảng sang chuyện khác. Lát sau, trà quả đưa lên, đều là những thức quý lạ. Ăn được một lát, có một người cưỡi ngựa quý, mồ hôi nhễ nhại phi tới, nói:
"Cụ nhà mắc bạo bệnh rất nặng, giờ không nhận ra ai nữa, cô mau trở về". Oa nói với dì:
"Ruột gan cháu rối bời, anh cứ cưỡi ngựa về trước đi, ta cho xe quay lại, rồi cùng chàng trở về".
Sinh định đi theo, bà dì cùng con hầu nhỏ to với nhau điều gì, lấy tay vẫy Sinh dừng lại ở ngoài cửa, nói:
"Mẹ sắp mất rồi, giờ nên bàn việc chôn cất trước đi, đi về theo làm gì!".
Sinh ở lại, cùng dì bàn nghi lễ tang sự. Đến tối, xe vẫn không đến. Dì bảo Sinh:
"Sao không thấy trở lại nhỉ? Cháu hãy về trước xem sao, dì sẽ đến ngay".
Sinh về đến nhà cũ thì cửa đã khóa và niêm phong kín. Sinh sợ hãi, hỏi người bên cạnh thì họ nói:
"Bà Lý thuê nhà ở đây đã được một năm. Nay chủ nhà lấy lại. Bà ấy chuyển đi nơi khác rồi". Sinh hỏi:
"Chuyển đi đâu?".
Trở lời:
"Không rõ là ở đâu!".
Sinh định chạy về Tuyên Dương để hỏi bà dì. Trời đã tối, tính độ đường ắt không tới, bèn đem cầm trang phục lấy tiền ăn, thuê đường ngủ. Sinh vừa giận, vừa lo, từ chập tối đến sáng hôm sau, không sao chợp mắt được. Sáng sớm, Sinh cưỡi con ngựa què ra đi. Đến nơi, chàng gõ cửa một lúc không có ai trả lời. Sinh gọi lớn mấy lần. Có một viên hoạn quan đi ra, Sinh vội hỏi:
"Bà dì có nhà không?"
Trả lời: "Không có"
Sinh nói:
"Tối qua còn ở đây, việc gì phải dấu?".
Sinh hỏi đây là nhà cửa của ai, người đó đáp:
"Đây là nhà quan Thượng thư họ Thôi. Hôm qua có một người đến thuê nhà này, nói rằng chờ người chị em từ xa tới, chiều hôm qua đã đi mất rồi".
Sinh hoảng hốt như phát điên, không biết làm cách nào bèn trở về nhà cũ ở xóm Bố Chính. Nhà chủ thương tình, cho Sinh ăn uống. Sinh oán giận buồn rầu, nhịn ăn ba ngày; bị bệnh nặng, mười ngày sau bệnh rất nặng. Nhà chủ sợ chàng không sống nổi, cho chàng ra ở hiệu cho thuê đồ đưa đám. Sinh ốm triền miên rất lâu. Cả hiệu ai cũng thương xót, thay nhau nuôi chàng. Sau bệnh đỡ dần chống gậy đi đứng được. Từ đấy, hiệu đồ tang thuê chàng, bảo chàng cầm phướn, kiếm tiền nuôi thân. Mấy tháng sau khỏe dần mỗi khi nghe bài ca đưa ma, Sinh thường than là mình chẳng bằng người chết. Thế là chàng sụt sùi tuôn lệ, không sao cầm được, trở về lại bắt chước điệu hát đau thương ấy. Sinh vốn thông minh, nhậy cảm, chẳng bao lâu, chàng học hết được những bài ca đưa ma hay nhất, cả đất Trường An không ai sánh được với chàng.
Trước đây, có hai hiệu cho thuê đồ đưa đám, hai bên đua nhau hơn kém chẳng ai chịu ai. Hiệu bên đông thì xe đòn hoa lệ, không ai địch nổi, chỉ có bài đưa ma là không hay, ông chủ này biết Sinh có giọng ca tuyệt diệu, liền bỏ ra hai vạn quan tiền thuê Sinh, chọn những tay lão luyện, kín đáo dạy cho Sinh những khúc hát mới rồi cùng họa theo, được đến mấy tuần, cũng không ai biết. Rồi hai ông chủ hiệu nói với nhau:
"Tôi định thi những đồ đưa đám ở phố Thiên Môn, xem ai được ai thua. Người thua phải phạt 5 vạn để dùng vào việc tiệc rượu có được không?".
Hai hiệu đều đồng ý, bèn mời người viết cam đoan, tìm người làm chứng, sau đó mở cuộc thi. Hôm thi, con trai, con gái, kéo nhau đến xem, có tới mấy vạn người. Thế rồi một truyền mười, mười truyền trăm, người khắp bốn phương kéo đến xem như hội.
Cuộc thi từ sáng sớm đến trưa. Lần lượt thi xe đòn, đồ tế, hiệu phía Tây đều thua. Chủ hiệu đã có ý thẹn, đặt sập tầng ở góc phía Nam. Có một người râu dài, cầm chiếc chiêng lớn bước vào. Thế là mấy người hộ tang dương lông mày, vuốt râu đẹp, nắm tay lắc đầu, bước lên ca bài Bạch Mã(27). Bọn này trước nay cậy mình vẫn được cuộc, đưa mắt nhìn khắp xung quanh, coi như không còn ai nữa, đồng thanh tán dương, tự coi mình là nhất, không còn ai hơn. Lát sau, chủ hiệu bên Đông lên bầy sập liền, có một thiếu niên đội khăn đen, chung quanh có 5, 6 người cầm cờ, phướn bước tới. Người thiếu niên đó là Sinh. Sinh sửa lại trang phục động tác rất chậm rồi hắng giọng bắt đầu hát bài Giới lộ(28). Tiếng ca du dương, ai oán, rung động cả núi rừng. Chưa xong bài, tất cả người nghe đều sụt sùi rơi lệ. Chủ hiệu bên Tây bị mọi người chê, rất hổ thẹn, vội kín đáo đặt tiền thua cuộc rồi lẩn mất. Cả đám đông đều kinh ngạc, không biết tìm đâu.
Trước đây, vua vừa xuống chiếu sai các quan coi trấn ngoài cứ mỗi năm một lần về Kinh, nói là về bàn việc. Khi ấy, đến lượt cha Sinh ở Kinh sư, cùng các quan thay trang phục, bí mật đi xem cuộc đua. Có một người hầu, là chồng vú của Sinh, thấy cử chỉ, giọng nói của Sinh, định đến nhận nhưng chưa dám, nước mắt chảy dòng dòng; Cha Sinh kinh ngạc hỏi, người đó đáp:
"Dáng người hát bài đưa ma, rất giống cậu nhà đã mất"
Cha Sinh nói:
"Con ta vì có nhiều tiền của đã bị cướp giết hại, làm sao đến được đây?". Nói xong cũng khóc.
Khi trở về, người hầu chạy thẳng đến hỏi thăm đồng bọn với Sinh:
"Người vừa hát đó là ai? Làm sao hát hay thế?".
Mọi người đều nói: Là con của ông Mỗ...". Hỏi thăm đến họ thì đã đổi thay rồi. Người hầu lạnh người, sợ hãi đến gần xem. Sinh thấy người hầu nét mặt xúc động, bèn lẫn vào đám đông. Người hầu đuổi theo, nắm lấy vạt áo nói:
"Không phải là cậu... đấy ư?".
Rồi nắm tay nhau mà khóc. Sau đó, đưa Sinh về. Đến nhà cha chàng mắng rằng:
"Hạnh kiểm, ý chí như mày, chỉ làm nhục nhà tao. Mày còn mặt mũi nào mà gặp tao nữa!".
Nói xong, ông đi bộ đến mé đông vườn mận ở phía tây dòng sông Khuê, sai lột hết quần áo của Sinh, lấy roi đánh mấy trăm roi. Sinh chịu không nổi, lăn ra tắt thở. Người cha cũng bỏ Sinh ở đó mà đi.
Chủ hiệu sai người thân quen kín đáo đi theo. Người đó trở về báo cho đồng bọn. Mọi người đều thương xót thở than liền sai hai người mang chiếu cói bó lại đem đi chôn. Đến nơi thì thấy chỗ tim Sinh còn hơi ấm. Nâng dậy một lúc, thấy thoi thóp thở. Hai người bèn khiêng về, cho uống nước ống sậy, sau một đêm thì sống lại. Hơn một tháng, tay chân cũng không cử động được. Chỗ bị đánh, thịt thối rữa. Đồng bọn rất sợ đem vứt ra ngoài đường. Người đi đường trông thấy ai cũng thương xót, thường ném cho thức ăn thừa để đỡ lòng. Được mươi tuần Sinh mới chống gậy đứng dậy được, mặc áo vải có tới hàng trăm mụn vá, tả tơi lam lũ, cầm một chiếc âu vỡ, lần đến các xóm ngõ xin ăn. Suốt từ mùa thu tới mùa đông, ban đêm thì lẫn vào chuồng phân, nhà kho, ngày thì lang thang đầu đương xó chợ.
Một hôm tuyết lớn, Sinh bị đói rét dầy vò, cứ lần mò đi trong gió tuyết, tiếng xin ăn rất thê thảm. Ai nghe cũng xót thương. Khi ấy tuyết rất dầy, nhà nào nhà nấy đều đóng cửa cả. Đến cửa Đông ấp An, cứ lần theo chân tường đi về phía Bắc, qua đền 7, 8 nhà thấy có một cửa chỉ mở cánh bên trái. Đó là nhà nàng Oa. Sinh không biết, kêu lên liền mấy tiếng "Đói rét quá". Giọng kêu thê thảm đau thương chẳng ai nỡ nghe. Oa từ trong nhà nghe thấy, bảo con hầu:
"Chắc là Sinh đấy, ta nhận ra giọng chàng".
Nói rồi thoăn thoắt bước ra, thấy gầy đét ghẻ lở, không còn ra hình người nữa. Oa xúc động nói với chàng:
"Có phải là chàng không?".
Sinh phẫn uất ngã lăn ra, miệng không nói được chỉ hơi cúi mặt xuống thôi. Oa bước tới ôm chặt lấy cổ Sinh, dùng áo ngắn thêu khoác lên người chàng rồi đưa về phòng bên, nức nở khóc gào:
"Để chàng sẩy đến bước này là tội của em". Cứ ngất đi sống lại mấy lần. Bà mẹ sợ hãi vội chạy đến, nói:
"Việc gì vậy?".
Oa đáp: "Chàng mỗ..."
Mụ vội bảo: "Phải đuổi đi, sao lại còn cho đến đây?".
Oa nghiêm nét mặt lại, nhìn lại mụ, nói:
"Không thể được. Đây là con nhà tử tế, ngày xưa người ta ngồi xe sang, mang vàng bạc đến nhà ta. Chẳng được bao lâu thì phá tán hết, lại còn bầy quỷ kế vứt bỏ người ta suýt thành dị vật khiến người ta thất chí không còn ra người nữa. Đạo cha con là tính trời, để cho cha đứt tình máu mủ giết con quẳng xác đi, lại khốn khổ đến nước này, người thiên hạ đều biết là ta gây nên cả. Họ hàng thân thích nhà chàng làm quan đầy triều đình, một mai quan trên tra xét kỳ đầu đuôi câu chuyện thì tai họa sẽ ập đến nhà ta. Huống chi lừa trời phụ người, quỷ thần ghét bỏ, thế nào cũng chuốc tai ương. Con là con mẹ đến nay đã được hai mươi tuổi. Tính của cải không dưới nghìn vàng. Nay mẹ hơn 60 tuổi, xin tính tiền ăn uống hai mươi năm để chuộc thân mình, rồi xin cùng chàng ra đi tìm một chỗ ở khác gần đây để sớm chiều chăm sóc mẹ, như vậy là con toại nguyện rồi".
Mụ thấy ý nàng đã quyết, biết không thể ép phải bằng lòng. Trả tiền mụ rồi, còn lại được trăm lạng, nàng liền thuê một căn nhà ở góc thành. Rồi nàng tắm rửa, thay quần áo cho Sinh, cho chàng uống thuốc, uống cháo cho nhuận tràng, rồi dùng kem sữa tẩm bổ. Hơn mười ngày sau mới cho ăn các món thịt cá. Từ chiếc khăn đội đầu đến đôi giầy đi chân nàng đều chọn cho chàng các thức quý lạ. Được vài tháng, da thịt chàng đã béo dần. Đầy năm thì khỏe lại như cũ.
Bữa nọ, Oa bảo chàng:
"Cơ thể chàng đã khỏe mạnh rồi, ý chí đã tráng kiện rồi, chàng hãy suy nghĩ kỹ xem nghiệp đèn sách xưa có thể ôn tập lại được không?".
Sinh suy nghĩ rồi trả lời:
"Mười phần chỉ nhớ được hai, ba phần thôi".
Oa sai đánh xe đi, Sinh cưỡi ngựa theo sau, đến hiệu sách cửa Nam cột cờ nàng bảo Sinh chọn mua sách, tính ra đến trăm lạng, mua hết chở về. Rồi nàng bảo Sinh vứt bỏ mọi điều lo nghĩ, dốc chí vào việc học hành lấy đêm làm ngày, siêng năng chịu khó học tập. Oa thường ngồi bên cạnh chàng, đến nửa đêm vẫn thức, hễ thấy chồng mệt mỏi, lại khuyên chàng làm thơ phú. Được hai năm, học nghiệp tiến bước dài, sách vở trong nước Sinh đã xem khắp lượt, Sinh bảo nàng;
"Có thể ghi tên vào thi được rồi đấy".
Oa nói:
"Chưa được, hãy học thêm cho tinh tường thành thục, để chờ cơ hội chắc thắng".
Lại một năm nữa, bấy giờ nàng mới nói:
"Đã được rồi đấy".
Thế rồi chàng thi một lần đỗ ngay giáp khoa(29) tiếng tăm lẫy lừng trường thi. Dẫu lớp trước xem văn chàng, ai cũng phải nhún mình kính phục, mong làm bạn với chàng. Nhưng vợ chàng bảo:
"Chưa được đâu. Học trò ngày nay vừa thi đỗ một khoa đã tưởng nhận một chức quan sang trong triều, chiếm một danh tiếng tốt trong thiên hạ. Chàng hành vi hèn hạ, vết cũ còn nhơ, không ví với học trò khác được, hãy nên rèn luyện cho sắc sảo hơn để tranh thắng lần nữa mới có thể sánh vai cùng kẻ sỹ, tranh hơn giữa các anh hào".
Sinh do vậy càng siêng năng khắc khổ, danh tiếng càng cao. Năm sau gặp kỳ thi Hội, triều đình xuống chiếu gọi tuấn sỹ khắp nơi về thi. Sinh ứng thi khoa can ngay, nói thẳng đỗ thứ nhất, được bổ chức tham quan, phủ Thành Đô. Các quan từ hàng đại phu trở xuống đều là bạn của chàng.
Lúc sắp đi nhận chức, Oa nói với Sinh:
"Nay em đã hồi phục lại cơ thể cũ cho chàng. Xin đem thân tàn này trở về nuôi dưỡng mẹ già. Chàng nên tìm người dòng họ giàu sang mà lấy, để lo việc cúng tế tổ tiên. Dẫu hôn phối cùng ai, cũng đừng để thân danh mang vết. Hãy trân trọng giữ mình, em đi đây".
Sinh khóc, nói:
"Nếu em bỏ anh, anh sẽ tự vẫn cho rồi!".
Oa cố từ không theo, Sinh cố nài tha thiết. Oa nói:
"Đưa anh sang sông, đến Kiếm Môn, thì anh để em về".
Sinh đồng ý.
Hơn một tháng đến Kiếm Môn, chưa kịp khởi hành thì giấy bổ nhiệm gửi tới. Cha Sinh từ Thường Châu được triệu về triều, bổ làm lệnh doãn Thành Đô, kiêm chức Thái phỏng sứ Kiếm Nam. Buổi sớm, cha đến, Sinh đưa danh thiếp yết kiến ở Bưu đình(30). Cha thấy chàng nhưng không dám nhận. Thấy tên húy của ông nội mới sợ hãi, bảo chàng bước lên, ôm lưng chàng khóc than đau xót. Lúc sau, bảo chàng "Cha cùng con lại cha con như xưa".
Rồi cha chàng hỏi duyên do, Sinh kể hết đầu đuôi câu chuyện. Cha chàng hỏi Oa giờ ở đâu. Sinh đáp:
"Nàng tiễn con đến đây đang đòi trở về".
Cha chàng nói: "Không được".
Hôm sau ông cùng Sinh đi đến Thành Đô trước, để Oa ở lại Kiếm Môn, xây nhà riêng cho Oa ở. Nhờ mối mai kết hôn cho hai họ, sửa đủ sáu lễ(31) để đón dâu. Hai người từ đấy đẹp duyên Tần Tấn.
Oa đã thành hôn, bốn mùa lễ tiết, trọn đạo vợ chồng, nàng coi việc nhà rất nghiêm trang thận trọng, được mẹ chồng rất quý. Mấy năm sau cha mẹ Sinh đều mất, nàng để tang rất chu đáo. Vườn nhà trồng loài cỏ Linh chi, một bông trổ ba hoa. Quan địa phương tâu lên. Lại có mấy chục con én trắng, làm tổ trên xà nhà. Vua coi là điềm lạ, lại càng yêu quí, cho chàng thăng chức. Xong tang ba năm, thăng lên hàng quan vinh hiển. Trong 10 năm, đến coi mấy quận. Oa được phong Khiên quốc phu nhân, có 4 con trai, đều làm quan to cả. Người thấp nhất cũng làm đến lệnh doãn Thái Nguyên. Anh em đều lấy con cái nhà quyền quý. Bên nội bên ngoại đều giầu có sang trọng, không ai sánh kịp.
Than ôi ! Một người con gái nhà ca xướng mà tiết hạnh như vậy, dẫu các bậc liệt nữ ngày xưa cũng không hơn được, làm sao mà không khiến mọi người thán phục!
Ông bác tôi từng coi Tấn châu, sau đổi về bộ Hộ làm Thủ lục vận sứ. Ba lần nhận chức đều kế nhiệm cho Sinh nên hiểu rất rõ chuyện của Sinh. Năm Trinh Nguyên, tôi cùng Công Tá nói chuyện về phẩm chất trinh liệt tiết tháo của phụ nữ, mới kể lại chuyện của Khiên quốc phu nhân. Công Tá chăm chú lắng nghe, bảo tôi viết truyện về bà. Tôi liền bút nhúng mực ghi lại. Bấy giờ là mùa thu năm Ất Hợi, Bạch Hành Giản, người Thái Nguyên ghi(32).
CHÚ THÍCH
(*) Theo sách Đường Tống truyền kỳ lục do Lỗ Tấn hiệu lục, Văn học cổ tích san hành xã xuất bản, Bắc Kinh, Trung Quốc, 1958.
(1) Nguyên văn: Bổ Giang Tổng Bạch viên truyện.
(2) Niên hiệu của Lương Vũ Đế, từ năm 535 đến 545.
(3) Âu Dương Hột, tự Phụng Thánh, người đất Lâm Trương, được phong Dương Sơn quận công, làm Thứ sứ Quảng Châu, sau bị vua Trần Tuyên Đế nghi ngờ, nổi dậy làm phản, bị giết.
(4) Chi Âu Dương Tuân, tự Tín Bản (557-641) là người làu thông kinh sử, làm quan đến Thái thường bác sĩ, Hoằng Vân quán học sỹ, biên soạn Nghệ văn loại tụ, 100 quyển.
(5) Giang Tổng (519-594) Tự Tổng Trì, người Tế Dương, làm Bộc xạ Thượng thư thời Trần Hậu Chủ.
(6) Xem Đường Tống truyền kỳ, Sđd, tr.24-27. Có sách chép: Âu Dương Hột là cha Âu Dương Tuân. Tuân hình dáng như con vượn, nên có người hư cấu ra truyện này để hài hước. (Thái bình quảng ký, Q.444)
(7) Nguyên văn: Chẩm trung ký.
(8) Thẩm Ký Tế: Người đất Ngô, tỉnh Tô Châu, học vấn uyên bác, có tài viết sử, từng giữ chức Tả thập di sử quán tụ soạn, đời Đường. Tác phầm có: Kiến Trung thực lục.
(9) Khai Nguyên (713-739): niên hiệu Đường Huyền Tông.
(10) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.29-33.
(11) Nguyên văn: Nam Kha thái thú truyện.
(12) Lý Công Tá, Người Lũng Tây, đỗ tiến sỹ, sinh vào khoảng năm Đường Đại Tông, mất vào khoảng năm Đường Tuyên Tông (770-850) tác phẩm có: Tạ tiểu Nga truyện, Phùng Ổn truyện, Cổ nhạc độc kinh...
(13) Lý Triệu: Tự Lý Sinh, sống vào thời Nguyên Hoà (806-820) đời Đường, làm quan đến Tả bổ khuyết, Hàn lâm học sĩ, viết Hàn Lâm chí và Quốc sử bổ.
(14) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.81-91.
(15) Nguyên văn: Liễu Nghị truyện.
(16) Lý Triều Uy: người Lũng Tây, sống vào khoảng năm Trinh Nguyên - Nguyên Hoà (785-820) đời Đường.
(17) Nghi Phụng (676), niên hiệu vua Đường Cao Tông.
(18) Nghi Phụng (676), niên hiệu vua Đường Cao Tông.
(19) Nguyên văn "Ngũ trùng". Năm loài là: Vũ trùng tức loài chim có lông vũ; Mao trùng, tức loài thú có lông mao; Giáp trùng, tức loài rùa có mai; Lân trùng tức loài cá có vẩy; Khỏa trùng, tức loài người. Rồng là linh trưởng của lân trùng (loài cá có vẩy) làm mây làm mưa, đem lại lợi ích cho muôn loài nên là một con "Tứ linh".
(20) Đường Tống truyền kỳ tập, Sđd, tr.51-63
(22) Nguyên văn: Lý Oa truyện.
(23) Bạch Hành Giản, Tự Thối Hạ, người Hạ Khê là em ruột của Bạch Cư Dị, một thi nhân lớn đời Đường, ông là người mẫn tiệp, giỏi từ phú, có tập thơ hai mươi quyển, nay đã mất, Về truyện Truyền kỳ, ngoài Truyện Lý Oa, ông còn viết Tam mộng ký và Kỷ mộng.
(24) Thiên Bảo (742-755): niên hiệu vua Đường Huyền Tông.
(26) Tức 50 tuổi. Luận ngữ: "Năm mươi tuổi thì biết mệnh trời".
(27) Bình Khang là tên một xóm của đất Trường An, nơi trú ngụ của các kỹ nữ. Truyện Kiều có câu: Bình Khang nấn ná bấy lâu là lấy điển từ đây.
(28) Bấy giờ người ta dùng lụa để biếu tặng, cũng có khi dùng lụa thay cho tiền.
(29 ) Bạch Mã: ngày xưa dùng xe trắng, ngựa trắng đưa tang, cho nên bài hát đưa ma có điệu Bạch Mã.
(30) Giới lộ: Là bài hát đưa ma cổ, nói cuộc đời ngắn ngủi như hạt sương trên cỏ (giới thượng lộ).
(32) Giáp khoa: là khoa mục cao nhất của cả khoa thi.
(33) Bưu đình: trạm nghỉ trên đường đưa chuyển công văn, thư tín.
(34) Sáu lễ: Hôn nhân thời xưa có sáu lễ là: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp trưng, Thỉnh kỳ, Thỉnh nghênh.
(35) Đường Tống truyền kỳ tập Sđd, tr.97-108./.
|