TB

DI VĂN TÂY SƠN TRÊN THỦ ĐÔ
HÀ NỘI

TRẦN NGHĨA

Phong trào Tây Sơn là một hiện tượng kỳ diệu trong lịch sử dân tộc mà cho đến nay, chưa phải chúng ta đã hiểu hết mọi khía cạnh quan trọng của nó.

Về phương diện đối nội, phong trào này đã làm được một việc cực kỳ không dễ là “chuyển loạn thành trị”, đưa một đất nước trong tình trạng trì trện, rối ren, khủng hoảng sang một cục diện mới đầy năng động, sáng tạo, mở đường cho dân tộc phát triển.

Về phương diện đối ngoại, nó đã cứu nòi giống thoát khỏi một hiểm họa tày đình, đẩy lùi cuộc xâm lược đầy tham vọng của 29 vạn quân Mãn Thanh trong một thời gian rất ngắn, đập tan ý đồ bành trướng của phong kiến phương Bắc đối với ta lúc bấy giờ.

Riêng con người Nguyễn Huệ cũng là một trang anh hùng đáng cho muôn đời chiêm ngưỡng: bốn lần đánh vào Gia Định đều toàn thắng, phá 2 vạn quân Xiêm can thiệp vào công việc nội bộ của ta; ra Bắc Hà diệt họ Trịnh, tôn phò vua Lê, tuy có sức mạnh, vẫn kiên trì làm việc nghĩa. Nhưng vì vua Lê bạc nhược, triều thần bất tài, để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau chuyên quyền, đến nỗi nước đang trị lại thành loạn. Dù vậy, sau khi trở ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, chấn chỉnh tình hình, Nguyễn Huệ vẫn không nỡ hạ bệ vua Lê, vẫn đặt người thuộc dòng dõi nhà Lê làm Giám quốc. Đến lúc mẹ con Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào cõi Càn Long có ý định nhân dịp này sáp nhập nước ta vào bản đồ Trung Quốc Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng đế cho “danh chính ngôn thuận” để tiến quân ra Bắc đánh một trận, buộc Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị phải vất cả ấn tín chạy về bên kia biến giới. Tiếp đó, Quang Trung dùng Ngô Thì Nhậm làm tốt công tác ngoại giao để làm nguôi cơn tức của vua quan phương Bắc, tạo điều kiện cho hai nước Viẹt Nam và Trung Quốc đi vào con đường hoà hiếu, dập tắt ngòi lửa chiến tranh.

Trong những năm cầm quyền, vua Quang Trung có những quyết sách quan trọng nhằm củng cố chính quyền, dập tắt những cuộc nổi loạn trong nước, cải cách kinh tế, xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc... Năm 1792 sai sứ sang Thanh xin “cầu hôn” và đòi lại đất Lưỡng Quảng. Đáng tiếc ông vua ít “phong kiến” nhất này qua đời quá sớm, lúc mới 40 tuổi, khiến nhiều ý đồ làm lợi cho dân cho nước chưa kịp thực thi.

Sau khi Quang Trung mất, Quang Toản lên nối ngôi lúc mới 10 tuổi, mọi quyền quyết đoán công việc của đất nước đều rơi vào tay Bùi Đắc Tuên, dẫn tới tình trạng nội bộ triều đình lục đục, mầu thuẫn, suy yếu tạo cơ hội cho Gia Long phục bích.

Do tồn tại trong một thời gian quá ngắn (1788-1802), lại bị vương triều nhà Nguyễn sau đó tìm mọi cách xuyên tạc, lấp xoá các dấu vết, chúng ta ngày nay có quá ít tư liệu để nghiên cứu về triều đại Tây Sơn.

Bài viết này là một nỗ lực tìm hiểu, giới thiệu các di văn ra đời tại Hà Nội dưới hai triều Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Quang Toản, nhằm góp phần làm sống lại nhiều giá trị đã bị mai một của phong trào nông dân khởi nghĩa lớn nháat nước ta cuối thế kỷ XVIII.

CÁC NGUỒN TƯ LIỆU

Có hai nguồn quan trọng về di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội: kho thư tịch tài liệu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và kho thác bản minh văn, tức văn khắc trên đồng, trên đá, của Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội thuộc Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội.

Ở kho thư tịch Hán Nôm có các tư liệu đáng chú ý sau đây:

1. Bang giao hảo thoại A. 117a/7: tập văn kiện ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc; phía Việt Nam phần lớn do Ngô Thì Nhậm (1743-1803) người Tả Thanh Oai, Thanh Trì (Hà Nội) soạn thảo tại Bắc Thành năm 1789, dưới sự chỉ đạo của Quang Trung.

2. Cẩm đường nhàn thoại A. 117c/2: tập thơ Ngô Thì Nhậm sáng tác dưới triều Tây Sơn, trong đó có một số thơ làm tại Bắc Thành.

3. Cúc hoa thi trận A. 117c/2: tập thơ Ngô Thì Nhậm xướng hoạ với Phan Huy Ích tại Bắc Thành năm 1796.

4. Cúc thu bách vịnh A. 1554: tập thơ Phan Huy Ích (1751 - 1822) người Thạch Thất (Hà Nội) xướng hoạ với Ngô Thì Nhậm tại Bắc Thành năm 1796.

5. Dự Am ngâm lục A. 603: tập thơ Phan Huy Ích, trong đó có một số thơ sáng tác tại Bắc Thành dưới thời Tây Sơn được chép trong Dật thi lược toản (Dụ Am ngâm lục Q.4, Q.3, Q.5), Tinh sà kỷ hành (Dụ Am ngâm lục Q.2).

6. Dụ Am văn tập A. 604/1-3: tập văn Phan Huy Ích: Q.3 và Q.4 Dụ Am văn tập có một số thư từ trao đổi với quan lại nhà Thanh do Phan Huy Ích soạn thảo tại Bắc Thành.

7. Đối liên thi văn tập A. 2379: không ghi tên người làm sách. Liên quan đến di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội có: 1 - Tây triều công quán đối liên (tờ 1a-3b), gồm 5 đại tự và 35 câu đối đề ở nơi đón tiếp sứ thần nước ngoài tại quảng trường Sao Sa, Bắc Thành năm Cảnh Thịnh thứ tám (1800); 2 - Tây triều Văn Miếu chư liên (tờ 10a - 20a), gồm 160 câu đối để ở Văn Miếu Bắc Thành, phần nhiều làm vào dịp Nguyễn Quang Toản đến thăm trường Quốc tử giám ngày 4 tháng 10 năm Bảo Hưng nguyên niên (1801).

8. Hải Ông thi tập A. 2603: tập thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, người Thái Bình, trong đó có bài Quá Nhị Hà quan Bắc binh cố luỹ (tờ 1b) và bài Dạ độ Nhị Hà (tờ 4b) làm tại Bắc Thành, trên đường đi sứ Trung Quốc năm 1790.

9. Hàn các anh hoa A. 117/11-13: tập văn Ngô Thì Nhậm soạn vào những năm đầu triều Quang Trung, trong đó có một số dụ, chiếu viết thay vua và một số biểu viết thay giới chức Bắc Thành.

10. Hoa nguyên tùy bộ tập A. 375: tập thơ văn Vũ Huy tấn (1749-1800), người Hải Hưng, trong đó có bài Phụng soạn tôn tế Bắc lai trận vong chư tướng văn (tờ 23ab) và bài Lạp nguyệt thập thất nhật hồi đáo Phượng Thành, nhị thập nhật hựu nam vãng Phú Xuân, đăng trình cảm hứng đều làm tại Bắc Thành.

11. Kim mã hành dư A. 117a/8-10: tập văn Ngô Thì Nhậm soạn dưới triều Tây Sơn, trong đó có một số thư gửi bạn bè viết tại Bắc Thành.

12. La Thành cổ tích vịnh A. 1941: tập thơ Trần Bá Lãm (1757-1815), người Từ Liêm (Hà Nội), sáng tác tại Bắc Thành cuối năm 178.

13. Lê triều vinh phong huân thần chế văn A. 2860: không ghi tên người làm sách. Liên quan đến di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội, có các bài Tây triều Nguyễn Huệ tạ Cảnh Hưng Hoàng đế hạ giá Công chúa Ngọc Hân biểu văn, đề nghày 20 tháng 6 năm Cảnh Hưng bốn mươi bảy (1786); Bắc Kinh đa sĩ thần đẳng khể thủ đốn thủ cẩn thượng ngôn, soạn vào dịp Nguyễn Quang Toản đến thăm trường Quốc tử giám ở Bắc Thành năm 1801; và Nghênh giá phụng biểu, đề ngày đầu tháng 11 năm Quang Trung thứ ba (2790).

14. Ngcọ đường xuân khiếu A. 117c/1: tập thơ Ngô Thì Nhậm sáng tác từ sau ngày họ Trịnh bị lật đổ, trong đó có một bộ thơ làm tại Thăng Long hoặc Tả Thanh Hoai, quê hương tác giả.

15. Ngô tộc truy viễn đàn A. 647: sách dòng họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai, lời bạt đề năm Tân Hợi (1791) và năm Nhâm Tí (1792), trong đó có 2 đạo sắc vua Quang Trung truy phong Ngô Thì Sĩ.

16. Phong cảnh biệt chí AB. 377: của Nguyễn Huy Lượng, người Gia Lâm (Hà Nội) soạn, gồm 1 bài thơ và 1 bài phú sáng tác vào năm 1801, nhân dịp Nguyễn Quốc Toản tổ chức lễ tế trời đất tại Hồ Tây, Hà Nội. Cùng nội dung với sách này, còn có Tây Hồ phú AB.299 và Tây Hồ cảnh tụng VNv.184. Riêng Tây Hồ cảnh tụng, cuối bài phú của Nguyễn Huy Lượng, có phụ lục bài Chiến Tây Hồ cảnh tụng của Phạm Thái (1777-1813), người Gia Lâm (Hà Nội).

17. Quốc âm thế văn ca phú VHv.150: không ghi tên người làm sách. Liên quan tới di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội có bài Tế trận vong tướng sĩ bằng chữ Nôm do Phan Huy Ích soạn dưới triều Quang Trung; và bài Tế Quang Trung đế văn bằng chữ Nôm của Công chúa Ngọc Hân.

18. Tản Ông di cảo A. 2157: tập thơ văn Trần Danh Án (1754-1794) người Hà Bắc, trong đó có bài Tây Sơn hành, mai mỉa việc vua Cảnh Hưng gả Công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Bài thơ này còn được chép lại trong Danh nhân văn tập VHv. 2432, Thi phú tạp lục A. 1812, và Thù thế danh thư VHv. 2239.

19. Tây triều hàn lâm viện thực lục A. 805: sách của Viện Hàn lâm triều Tây sơn. Liên quan tới di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội có: 3 bài tấu của các quan văn võ Bắc Thành gửi Quang Trung; 1 bài tấu của quan dân Bắc Thành gửi Quang Trung; 1 bài tấu của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân gửi Quang Trung; 1 bài tấu của Khâm sai tiết chế Nguyễn Quang Thùy và các quan văn võ Bắc Thành gửi Quang Trung.

20. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh A. 460: tác phẩm viết về Thiền học của Ngô Thì Nhậm (phần Chính văn) được biên soạn vào khoảng trước 1796, tại Thiền viện phường Bích Câu (Hà Nội).

Ngoài danh mục kể trên, còn một số lệ, bạ, điền bạ, phân điền từ, hương lệ, gia phả, thế phả, sách thuốc... như Đông Ngạc xã các giáp lệ bạ A.2578/1-2 (Cảnh Thịnh), Đông Ngạc Đông Nhị giáp giao từ điền bạ A. 11569 (Quang Trung), Cơ Xá Nguyễn Đăng Khôi phân điền từ A. 1819 (Cảnh Thịnh), Kiều Trì hương lệ A. 422 (Cảnh Thịnh), Đặng gia phả ký A. 633/1-3 (do Đô đốc Đặng Tiến Đông biên tập, Ngô Thì Nhậm đề tựa), Phạm thị thế phả (Cảnh Thịnh), Liệu dịch phương pháp toàn tập A. 1306 (do Nguyễn Gia Phan, còn gọi là Nguyễn Thế Lịch, người Từ Liêm, Hà Nội soạn) v.v... ở đây không thể giới thiệu hết.

Bên cạnh thư tịch, Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn có một số sắc văn và thác bản minh văn liên quan tới di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội.

Về sắc văn, đó là khoảng trên giới 400 đạo sắc do các triều vua Quang Trung, Cảnh Thịnh, Bảo Hưng phong tặng các vị thần thờ tại Hà Nội, hiện mang ký hiệu chung là AD (phần Hoàn Long, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh).

Về minh văn, đó là số thác bản mang ký hiệu 263, 794, 964, 1175, 1256, 1540, 1603, 1604, 1624, 1690 - 1691, 1694, 2129, 2130 - 2131, 2252 - 2256 - 2257, 2258 - 2259, 2439, 2447, 2448, 2449, 2501, 2598, 2701 - 2702, 2740, 2855, 2856, 2858, 2863, 2976, 3146 - 3147, 3321 - 3322, 3348 - 3349 - 3350 - 3351, 3365, 3511, 3512, 4170 - 4180, 4183 - 4184, 4192 - 4193, 5807 - 5808, 6640 - 6641 - 6642 - 6643, 6648 - 6649, 6650 - 6651 - 6652 - 6653, 6656 - 6657 - 6658 - 6659, 6664 - 6665, 6878 - 6879, 6880 - 6881, 6893 - 6894, 6939 - 6940, 6964 - 6965 - 6966 - 6967, 6988, 6999, 7002 - 7003 - 7004 - 7005, 7133, 7142 - 7143, 11348 - 11349, 15674 - 15675 - 15676 - 15677, 15690 - 15691, 15825, 16178, 16217, 16343 - 16344 - 16345 - 16346, 18144, 19615 - 19616 - 19617, 19886, 19906 - 19907.

Ở kho thác bản thuộc Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội, tình hình minh văn rập được như sau:

TT Tên địa phương SỐ THÁC BẢN
Bia Chuông Khánh Trụ hương Tổng cộng
1 Q. Ba Đình 2 4 6
2 Q. Đống Đa 2 1 3
3 Q. Hai Bà Trưng 2 2
4 Q. Hoàn Kiếm 3 3
5 H. Đan Phượng 2 1 1 4
6 H. Đông Anh 1 1 2
7 H. Gia Lâm 16 14 30
8 H. Hoài Đức 2 11 1 14
9 H. Mê Linh 3 4 7
10 H. Sóc Sơn 1 2 1 4
11 H. Thanh Trì 3 9 2 14
12 H. Từ Liêm 5 6 11
Cộng 37 58 4 1 100

Ở đây chưa có thác bản thuộc các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất và thị xã Sơn Tây.

NỘI DUNG PHẢN ÁNH

Có thể chia số di văn Tây sơn trên đây thành 3 mảng lớn: Văn kiện triều đình, gồm dụ, chiếu, sắc phong do nhà Tây Sơn công bố; Tác phẩm danh nhân, gồm biểu, thư, thơ, phú, văn tế, câu đối do những cây bút lớn soạn thảo; và Di văn phường xã, gồm các bài minh, ký ... khắc trên bia, chuông, khánh, trụ hương, phần nhiều do những người đại diện cho phường xã hoặc các tập thể lớn nhỏ chấp bút. Sau đây là một số nội dung chính thức được phản ánh qua từng mảng di văn:

1. Văn kiện triều đình:

Ở phần này, có thể thấy một số chính sách quan trọng của vương triều Tây Sơn về các mặt nông nghiệp, dân số, giáo dục, đối xử với hàng binh... trong đó đáng chú ý nhất là vấn đề dùng người trước công cuộc đổi mới.

Năm 1789, khi Đại cách mạng Pháp phất cao ngọn cờ tự do, bình đẳng ... trên lục địa Châu Âu, thì ở phương Đông, Quang Trung tuyên bố: “Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mạng (Phối thuộc nội địa hàng binh chiếu). Cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi “một kẻ áo vải đất Tây Sơn, không một tấc đất, vốn không có chí làm vua” (Tức vị chiếu). Nhưng rốt cục không tránh khỏi chuyện làm vua, là do bởi “lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị chân chúa để cứu đời, yêu dân” (id). Mà muốn “cứu” được đời, “yên” được dân, thì không thể nào không “cùng dân đổi mới” (id), “cùng thiên hạ đổi mới” (Uỷ Sùng Nhượng công giám quốc dụ).

“Đổi mới” ở đây không hề mang ý nghĩa chung chung, hình thức, dừng lại trên câu chữ, mà là đổi mới về thực chất, trong nhận thức cũng như trong hành động, vì lợi ích của đất nước và lợi ích của các dân tộc trong vùng. Đối với đất nước, phải nhanh chóng thay đổi quan niệm cổ lỗ “nước là của vua Lê” đang ngăn trở sự hợp tác với triều đại mới trong nhiều lĩnh vực. Phải ra sức làm việc, ổn định cuộc sống, không tung tin nhảm để kích động nhân tâm: “Hỡi các quan và dân chúng, hãy ngước trông lên mà thể hội ý ấy, sao cho ai nấy an phận, yên ổn làm việc để cùng hưởng phúc thanh bình. Nếu có kẻ nào tung tin thất thiệt, làm mê hoặc dao động lòng dân, phạm đến phép trời thì vương pháp rất nghiêm, quyết không dung thứ” (id). Đối với các dân tộc láng giềng, “đổi mới” có nghĩa là dập tắt ngọn lửa chiến tranh, cùng nhau sống hoà hiếu. Thư Quang Trung gửi hàng binh nhà Thanh có đoạn: “Trẫm một phen vẫy cờ lệnh, quét sạch lũ các ngươi như quét đàn kiến. Lũ ngươi một thua tan vỡ, chết hại kể hàng vạn tên. Những kẻ hiện bị bắt tại trận tiền và thế bách phải đầu hàng, lẽ ra phải chiểu theo quân luật, đem chém sạch đi để răn đe những kẻ bạo ngược. Chỉ vì thể đức hiếu sinh của Thượng Đế, nên ta bao dung che chở, tha chết cho các ngươi:” (Phối thuộc nội địa hàng binh chiếu).

Trong cuộc đổi mới, trí thức đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Triều đình Tây Sơn rất chú ý tới việc dùng người, nhất là đám “tri thức Bắc hà” trong việc quản lý đất nước buổi đẩu: “Đương khi trời còn thảo muội, là lúc quân tử thi thố kinh luân. Nay buổi đầu đại định, mọi việc còn đương mới mẻ. Mối giêng triều đình còn nhiều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan. Dân khổ chưa hồi sức, đức hoá chưa thấm nhuần, trẫm chăm chắm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một cây gỗ không chống nổi toà nhà lớn, mưu lược một kẻ sĩ không dựng được cuộc thái bình. Hỏi rằng trong nước, một ấp mươi nhà hẳn còn có người trung tín, huống chi trong cõi đất rộng lớn đến thế này, há lại không có người kiệt xuất hơn đời để giúp rập chính trị buổi đầu cho trẫm ư? “ (Cầu hiền chiếu). Quan Trung không giấu giếm nỗi vui khi thấy “sĩ dân Bắc Hà không theo về họ Lê, lại dựa vào trẫm” (Tức vị chiếu), trong số ấy có những người rất giỏi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan...

Để giới trí thức yên tâm cống hiến, triều đình Tây sơn cũng đã ban hành một số chính sách cụ thể. Trước hết là cái nhìn thông cảm, bao dung đối với những con người gọi là “không có hằng sản” nhưng lại rất dễ bị nghi ngờ này: “Trẫm ba lần xa giá ra Bắc Thành, đã tỏ lượng bao dung che chở. Vốn biết có người ở nước Ngu thì Ngu mất, sang nước Tần thì giúp Tần trở nên nghiệp bá; khi ở Tùy là kẻ nịnh, về với Đường trở thành người trung. Cho nên trẫm không hề đem chuyện còn mất, được thua đổ tội cho các ngươi” (Dụ cựu triều văn vũ chiếu). Triều đình khuyến khích nói thật, nói thẳng, không cần thiết phải giữ kẽ, miễn là xuất phát từ động cơ vì lợi ích chung: “quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc. Lời có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, lời không dùng được thì để đấy, chứ không bị bắt tội vu khoát. Những người có tài nghệ gì có thể dùng cho đời, cho phép các quan văn quan võ đều được tiến cử; lại cho phép dẫn đến yết kiến, tùy tài bổ dụng. Hoặc có người từ trước đến nay giấu tài ẩn tiếng, không ai biết đến, cũng cho phép được dâng thư tự giới thiệu, chớ ngại thế là đem ngọc bán rao” (Cầu hiền chiếu). Tất nhiên không thể đồng tình với những kẻ lừng khừng, cơ hội. Triều đình yêu cầu họ cũng phải “tự mình đổi mới” để khỏi tổn thương đến đức “cùng sinh cùng nuôi” (Dụ cựu triều văn vũ chiến).

Đổi mới, nhưng không hề coi nhẹ những người tôi trung, con hiếu... , trong quá khứ. Suốt hai triều Quang Trung và Quang Toản, việc ban phong cho các thần vẫn tiến hành đều đặn. Riêng tại Hà Nội, theo thống kê sơ bộ, đã có tới trên 400 sắc phong cho các Thiên vương, Thánh vương, Đại Đế vương, Đại đế, Đại vương, Hoàng thái hậu. Hoàng hậu, Thứ phi, Cung phi, Phu nhân, Công chúa, Đại chàng, Chàng tiền... tại 4 quận nội thành và 12 huyện, thị ngoại thành. Chủ trương của triều Tây Sơn là “Các đền thờ bách thần mà là thờ nhảm, đều nên xoá bỏ thần hiệu trong tự điển. Còn các thiên thần và tôi trung, con hiếu, đàn bà tiết nghĩa đã được các triều phong tặng thì nay đều cho thăng trật” (Tức vị chiếu, phần phụ lục).

Tông trọng, đề cao những người có công với dân với nước trong quá khứ, thực chất là một khích lệ đối với các nhiệt tình dâng hiến trong cuộc sống trước mắt. Có bao giờ đề cao người đã khuất chỉ vì người đã khuất đâu!

2. Tác phẩm danh nhân:

Trong phần này, trước hết có thể thấy tâm tình người Hà Nội đối với vương triều Tây Sơn lúc bấy giờ.

Ở đây không phải không có những người kiểu Phạm Thái đem cả tuổi xanh ra đánh cuộc với phong trào nông dân khởi nghĩa, khi sự việc không thành thì lao vào cuộc “yêu”, cuộc “say”, cuối cùng đến Diêm vương cũng phát ngán. Cũng không phải không có những bụng dạ nhỏ nhen kiểu Đặng Trần Thường, chỉ vì một chút bất bình, đã trèo đèo lội suối vào Nam theo Nguyễn Ánh kiếm chác công hầu, nhưng sau một phen đắc chí không thoát khỏi cái chết bi đát nơi ngục tù nhà Nguyễn.

Tuy nhiên, số người như Đặng Trần Thường hay Phạm Thái rốt cục không nhiều. Mà tuyệt đại bộ phận người Hà Nội, cùng nhân dân cả nước, đều coi phong trào Tây Sơn như là một cơ may đưa xã hội Việt Nam ra khỏi cơn khủng hoảng dai dăngr: “Nước Việt ta từ tiền Lê mất quyền, Bắc Nam chia cõi, cương kỷ rối bời, riêng Bắc Hà càng tệ. Gần hai trăm năm tối tăm mù mịt. Kẻ sĩ có chí trông mỹ nhân chưa thấy, khởi hứng phương Tây, mong chân chúa nổi lên, hướng về đông chờ đợi” (Vũ Văn Thỉnh giá tiến hạnh Bắc Thành biểu). Cho nên không có gì là lạ khi thấy cả Bắc Thành quyết định đứng về phía Quang Trung: “Chúng tôi được thấy thánh thiên tử thuận ý trời, mở vận nước, thống nhất cõi bờ, rộng xa trời đất đều được bao dung, trăm vật yêu nuôi cũng cùng che chở. Cho nên thần dân như ngựa hay nghìn dặm ruổi về, như kiến tụ đồng thanh tương ứng” (id.). Ngay những kẻ hay trăn trở về lẽ “xuất xử”, “hành tàng” chờ thời, nấn ná... cuối cùng, một phân số không nhỏ đã ra cộng cùng, một phân số không nhỏ đã ra cộng tác với “tân triều” (Thư đáp niên khế khoa Nguyễn Nhạ; Thư đáp Vân Canh chế khoa Trần Bá Lãm). Riêng Ngô Thì Nhậm, cũng có thể nói cả Phan Huy Ích nữa, ngay từ đầu đã tự xác định cho mình con đường dứt bỏ nhà Lê để đi với Quang Trung. Đây là thơ Phan Huy Ích làm vào dịp Tết Mậu Thân (1788) khi Thăng Long bị quân Tôn Sĩ Nghị chiếm đóng, tác giả tạm lánh về Cầu Trì:

Lánh mình vẫn thấy lòng sôi sục,
Chợp mắt liền nghe pháo đập đoành.
Vũ trụ đâu không là phận sự,
Sấm mây thường dễ có công danh

(Mậu thân xuân chính thí bút)

Qua những năm xây dựng dưới các triều Quang Trung, Quang Toản, bộ mặt đất nước, trong đó có Hà Nội, đã có những thay đổi cơ bản.

Nếu như cảnh Hồ Tây dưới thời Lê Trịnh toàn một màu xám xịt:

... Hình cây đá mưa trôi gió giạt,
Sắc hoa chim mây vẩn sương mù...
... Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo.
Đèn viễn thôn mấy ngọn lù mù...
... Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng,
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò...

thì cảnh Hồ Tây thời Tây sơn trái lại, là một bức tranh tươi sáng:

... Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân,
sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua canh tuất lại tưới cơn thời vũ,
cỏ cây đều gội đức triêm nhu...
... Mặt đất đùn này thóc, này ra, dầu lòng Cô Trúc.
Mặt nước chảy nọ dòng, nọ bến, mặc chí Sào Do...

Nhiều tác phẩm còn nói lên tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân đội Tây Sơn, cùng sự cuồng ngông dẫn đến thất bại thảm hại của đạo quân xâm lược.

Đây là hình ảnh quân đội Tây sơn:

... Nanh vuốt trước sáu quân hầm hở, khi ở quê nhà, khi sang đất khách, lần tới buổi nương... (1). trỏ bắc, từng dãi sôi đạp nóng chốn gian nan;

Đòng việt trong trăm trận xa xôi, kẻ dàn đường bộ, kẻ chống buồn tàu đều nhằm niệm dẹp bắc bình tây, những trải gió dầm mưu phen tiên chỉ...
(Tế trận vong tướng sĩ)

Và đây là lời nhắn nhủ với đạo quân Tôn Sĩ Nghị:

... Bọn tướng sĩ phương Bắc các ngươi, Hào kiệt Trung Châu, Vuốt nanh Đại quốc

Từ lâu, hưởng lòng trời hiếu trị, không biết chiến tranh trải đã trăm năm;

Vừa rồi, vì họ Tôn tham công, gây vạ đau thương ở ngoài ngàn dặm.

Bắc các ngươi tới chốn sa trường.

Lìa quê hương, bỏ nhà cửa, đến Chương Dương, Hàm Tử chẳng giật mình,

Dựng hổ trướng, vung cờ mao, qua Mã Lĩnh, Quỷ Môn không biết sợ...

... Kẻ thì kinh hãi khi gặp voi, cánh đồng ngoại ô thân mình ngã xuống.

Kẻ thì sẩy chân khi cầu dứt, giữa dòng Phú Lương xác chất lên nhau...

... Lòng ta thương cả người phương Bắc, xuất của kho để nhuần nắm xương khô;

Hồn các ngươi thôi chớ ở Nam, rời đất khách mà tìm về quê quán...
(Phụng soạn tôn tế Bắc lai trận vong chư tướng văn).

Cho nên bài học rút ra là các nước phải biết tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau sống hoà hiếu.

3. Di văn phường xã:

Ở đây, điều đáng chú ý trước hết là tình trạng bia, chuông, khánh... bị hủy hoại nghiêm trọng trước và sau thời Tây Sơn.

Vào những năm cuối triều Lê, do ngân khố triều đình thiếu hụt, nhiều loại đồ đồng trong đó có chuông, khánh bị đem ra đúc tiền, người đề ra chủ trương này là Nguyễn Hữu Chỉnh. Bài văn khắc trên chuông chùa Báo Ân Trùng Nghiêm, sau câu “một đạo cánh Bằng che ngang, tiếng chuông vắng lặng” có dòng cước chú: “Mới rồi tên chỉnh tiếm hiệu Bằng Công, sai hạ chuông lớn xuống, thu sạch mang về tiêu hủy “Báo Ân Trùng Nghiêm thiền tự hồng chung , chùa Keo, Gia Lâm). Một số bài chuông khác, bằng lối diễn đạt riêng, cũng lên án chủ trương đem chuông, khánh đúc tiền của Chỉnh: “Tiếng trống trận của ông Bằng nổi lên, âm chày kình tắt ngấm” An Quốc tự chung, nhà thờ Thiên chưa Thiên Tuế, Sóc Sơn): “Chim nhạn từ Bằng lĩnh qua xứ Bắc, rồi chiếc khánh rời của Phật về Tây” Nhạn tháp tự khánh, chùa Diễm Xá, Hoài Đức) v.v...

Vào những năm đầu triều Nguyễn, một số bia, chuông, khánh triều Tây Sơn lại bị đục bỏ ít ra là phần ghi niên hiệu. Theo thống kê sơ bộ, tỷ lệ bị đục bỏ ở văn bia là 4/37; ở văn chông là 10/58; ở văn khánh là 1/4. Các chữ bị đục bỏ thường gặp là “Quang Trung” (như Phật tượng các toà bi ký, chùa Bộc, Đống Đa); “Cảnh Thịnh” (như Thiên Hưng tự hậu Phật am bi , chùa Thiên Hưng, Từ Liêm); “Cảnh Thịnh tứ niên” (như Bồ Đề tự chung, chùa Bồ Đề, Từ Liêm); “Cảnh Thịnh Lục” (như Quang Minh tự chung, chùa Quang Minh, Thanh Trì); “Cảnh Thịnh thất” (như Sùng Khánh tự chung, chùa Sùng Khánh, Từ Liêm) v.v...

Điểm đáng chú ý thứ hai là lý do ra đời của bia, chuông, khánh triều Tây Sơn trên đất Hà Nội.

Về bia, trừ một vài tấm dùng để ghi công đức (như Phật tượng các toà bi ký, id,) hoặc ghi khoán lệ (như Bản thôn tạo thạch bi ký, chùa thôn Thụy Hương, Sóc Sơn), còn thì hầu hết là bia gửi giỗ (ký kỵ) dưới hình thức hậu Thần, hậu Phật. Nguyên tắc để được gửi giố là “có đi có lại”. Một khi anh tỏ ra có ích đối với địa phương, thì địa phương cũng sẽ trở thành có ích đối với anh: “Huyện gọi Gia Lâm, xã tên Xuân Thụy. Phong tục phác thuần, đáp lòng bố thí. Tưởng nhớ Bát Tràng, có bà Trần Thị. Tiền giúp tiền dâng, ruộng đem gửi kỵ. Tình hợp một lòng, cùng bầu hai vị. Hương lửa dài lâu, bia ghi bài ký” (Hậu thần bi ký, đình Xuân Thụy, Gia Lâm). Cũng có khi vì nêu gương tốt cho chòm xóm mà được bầu hậu: “Vợ chồng thuận hoà, phong lưu đôn hậu, cái nhân ấy, cái đức ấy, không thể nào quên được. Việc báo đáp cũng nên liệu mà làm như thế nào chứ? Bởi vậy cả thôn cùng đến tận gia đình xin bầu ông bà làm hậu Phật, ngày rằm mồng một cúng tế đều được phối hưởng” (Hậu Phật bi ký, thôn Cổ Châu, Đông Anh).

Về chuông, khánh, loại “phát khí” được đúc nhiều nhất dưới triều Tây Sơn để bù lại cho sự hủy hoại trước đó, sở dĩ được tái tạo, là do “tiếng chuông đối với đất nước có tác dụng nhắc làm việc nghĩa, khiến thời cuộc hài hoà; tiếng chuông đối với đền chùa, có tác dụng rũ sạch niềm trần, xua tan tục lụy” (Tâm Phúc tự chung, chùa thôn Chử Xá, Gia Lâm). Tầm quan trọng của chuông đối với “đạo” vào “đời” là như vậy, cho nên dù khó khăn đến mấy, cũng phải cố mà đúc cho được chuông: “Chùa ta ở xứ Đầu Làng, tiếng tăm tuy bé nhỏ, nhưng cảnh thiền lâm thật không đâu sánh kịp (...). Bên trái là phương Đông, dân cư đông đúc; bên phải là phương Tây, làng xóm quây quần (...). Vào năm Kỷ Mùi (1799), sau 7 năm ky có, đã có thể đúc được chuông” (id).

Điều đáng chú ý thứ ba là vấn đề tâm ký xã hội mà những người làm chính trị không thể không quan tâm.

Trần Bá Lãm, một người được đào tạo dưới thời Lê - Trịnh, sau đi với Tây Sơn, đã có những suy ngẫm khá lý thú khi không thể từ chối mà phải cầm bút thả bài minh để khắc trên quả chuông chùa làng vừa mới đúc “Tôi nghĩ rằng “chung” (chuông) tức là “chủng” (trồng), phải chăng đó là con đường vun trồng cây đức tích góp điều thiện của người đời? Nhìn cơ đồ vừa mới sửa sang, vậy mà việc đúc chuông để tạo dựng nền phúc lại không phải do lòng người chân thành hướng về điều thiện thì làm sao đến thế được?” (Quảng Nghiêm cổ tự, chùa Trăm Gian, Hoài Đức). Năm năm sau, vẫn Trần Bá Lãm ấy, trước một trường hợp tương tự, đã đưa thêm vào bài toán giải của mình hai yếu tố mới là “thời cơ” và “lẽ phải”: “Cạnh ấp tôi có thôn Nguyễn Xá (...) vào mùa đông năm Kỷ Mùi (1799) đúc xong chuông chùa Thanh Lâm (...). Có viên Tây giai khách (?) chợt hỏi tôi rằng: “Giáo lý nhà Phật bị nhà Nho ta bài bác là trống rỗng, Tướng công thấy thế nào?”. Tôi buột miệng đáp: “Ta từ nhỏ vốn theo nghiệp Nho, đối với Phật chưa từng hiểu biết. Đến tuổi trung niên gặp thời loạn lạc, thấy đồ đồng nơi chùa Phật đều đem dùng vào việc quân quốc. Hồi đó quan binh đến chùa, ai cất giấu đồ đồng đều bị đánh đập tra khảo. Bị vơ vét hết năm này qua năm khác, đồ đồng một tấc cũng không còn (...) thế mà chẳng bao lâu sau người ta đã đóng góp tiền của để đúc lại chuông đồng, tượng đồng, các chùa đều được phục hồi như cũ, khói hương nghi ngút, trà quả dâng cúng dồi dào, Phật giáo từ xưa chưa bao giờ được thịnh hành như vậy. Thế mới biết trong thiên hạ chưa hề có cái gì là không, mà cũng chưa hề có cái gì là có. Đối với sự thịnh suy, bi thái của Tam giáo, thảy đều quí ở chỗ thời cơ (...). Đạo cũng giống như con đường, mỗi người có một hướng đi khác nhua, nhưng lòng tôn sùng kính tín thì đều bắt nguồn ở lẽ phải cả” (Thanh Lâm cổ tự, chùa Thanh Lâm, Từ Liêm). Không riêng gì Trần Bá Lãm, cái thực tế “chuông xưa đã đúc thành tiền, nay tiền lại đúc ra chuông” (Lạc Lâm tự chung, chùa Lạc Lâm, Hoài Đức) ấy đã làm cho nhiều thức giả đương thời phải suy nghĩ: chữ “đức”, chữ “thiện”, chữ “thời”, chữ “đạo” đã trở thành bài toán hóc búa đối với các nhà quản lý chính trị - xã hội đương thời.

Điều đáng chú ý cuối cùng phản ánh qua minh văn đời Tây Sơn là phương thức hữu hiệu để sửa sang, bảo vệ các di tích và thắng cảnh lịch sử. Công việc đầy khó khăn, tốn kém này muốn làm tốt, không thể không dựa vào dân, vào tâm lý, tiền của, công sức và sự che chở, gìn giữ của dân. Phải biết cách đối xử với cái mà dân nâng niu, trân trọng. “Hễ ai có công đối với dân, thì được dân ghi nhớ” (Hậu Thần bi ký, nhà thơ họ Nguyễn ở yên Thường, Gia Lâm). Tóm lại, ngay cả ở lĩnh vực sửa sang, bảo vệ di tích, thắng cảnh... cũng phải thấy sức dân là mạnh.

CHÚ THÍCH

(*) Bài viết nhân kỷ niệm lần thứ 200 chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử (1789-1989).

Trong bài viết có sử dụng một số bản dịch ở các sách như Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm tập 1 và tập 2; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1978; Thơ văn Phan Huy ích tập 1, tập 2 và tập 3; Nxb. KHXH; Hà Nội; 1978; Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn; Nxb. KHXH; Hà Nội, 1982; Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (thế kỷ XVIII - ẵ TK XIX); Nxb. Văn hoá; Hà Nội; 1963; Di văn Tây Sơn trên đất Hà Nội (sắp xuất bản).

(1) Trong nguyên bản mất 1 chữ.

TB

BIA ĐÁ, CHUÔNG ĐỒNG THỜI
TÂY SƠN

ĐINH KHẮC THUÂN

Triều Tây sơn vốn dĩ rất ngắn ngủi, tư liệu để lại ít, lại bị huỷ hoại bởi chính sách thù địch của nhà Nguyễn. Do đó tư liệu bị mất mát, thất lạc nhiều. Bia đá, chuông đồng thời Tây Sơn nằm chung trong tình trạng trên. Tuy nhiên chúg xuất hiện và nằm rải rác trong dân gian, nên còn được lưu giữ đến ngày nay. Đây là những tư liệu gốc khá tin cậy, góp phần tìm hiểu nhiều mặt về xã hội đương thời.

Bia đá, chuông đồng thời Tây Sơn hầu hết đã được in rập vào lưu giữ tại Trung ương và địa phương. Nhờ kho bia Viện Nghiên cứu Hán Nôm và kho văn khắc của Sở Văn hoá và Thông tin Hà Nội, chúng tôi bước đầu thống kê được 338 bản rập bia và 135 bản rập chuông. Chúng được phân bố rải rác ở các địa phương từ Lạng Sơn đến cố đô Huế. Cụ thể như sau:

- Về bia(1): Tỉnh Hải Dương: 66 bia, Hưng Yên: 34 bia, Bắc ninh: 62 bia, Bắc Giang: 34 bia, Hà Đông: 31 bia, Hà Nội: 9 bia, Sơn Tây; 19 bia, Phúc Yên: 21 bia, Phúc Thọ: 3 bia, Vĩnh Yên: 12 bia, Thái Nguyên: 5 bia, Nam Định: 6 bia, Hà Nam: 4 bia, Ninh Bình: 3 bia, Thái Bình: 2bia, Quảng Yên: 2 bia, Lạng Sơn: 1 bia, Thanh Hoá: 3 bia và Nghệ An: 1 bia.

- Về chuông(2): Hà Nội: 88 chuông, Hà Sơn Bình: 13 chuông, Vĩnh Phú: 15 chuông, Hải Hưng: 9 chuông, Thanh Hoá: 3 chuông, Hà Nam Ninh: 3 chuông, Hà Bắc: 1 chuông và Bình Trị Thiên: 3 chuông.

Số bia và chuông nêu trên đều có niên đại cụ thể. Niên đại đó được ghi cả niên hiệu vua và năm can chi như “Quang Truhg nhị niên, thuế thứ Kỷ Dậu, trọng thu, cát nhật”. Tuy nhiên cũng có trường hợp ghi tránh niên hiệu Tây Sơn, chẳng hạn như “Hoàng triều tuế thứ Ất Mão niên”, hoặc ghi theo niên hiệu thời Lê như năm 1797 và năm 1798 thuộc niên hiệu Cảnh Thịnh thì ghi là Cảnh Hưng 58 và Cảnh Hưng 59(3). Ngoài ra là một số trường hợp bị đục, xoá niên hiệu vào thời Nguyễn. Các niên hiệu vua Tây Sơn được ghi trên bia, chuông gồm Thái Đức năm thứ 11, Quang Trung, Cảnh Thịnh và Bảo Hưng. Niên đại trên chuông, trừ một trường hợp ở chuông Huế mang niên hiệu Quang Trung ra, còn lại chủ yếu mang niên hiệu Cảnh Thịnh, số ít khác mang niên hiệu Bảo Hưng.

I. BIA THỜI TÂY SƠN

1. Hình thức trang trí: Bia Tây Sơn có kích thước không lớn, trung bình 0,80x0,45m. Theo hình thức, bia Tây Sơn gồm ba loại chính: bia dẹt (một hoặc hai mặt), bia trụ (bốn hoặc sáu mặt) và bia ma nhai (một mặt khắc trên vách đá). Bia dẹt có trán bia hình bán nguyệt, cùng mặt phẳng với thân bia. Bia trụ có trán bia to, trùm ra bốn phía như mái nhà. Bia ma nhai không có trán bia và cũng không có chán bia.

Các hình trang trí, chủ yếu được khắc trên trán bia loại bia dẹt và trên diềm bia các loại khác.

Đề tài trang trí trên trán bia gồm: mặt nguyệt, mặt nguyệt - rồng, mặt nguyệt - phượng, mặt nguyệt - hoa mây, hổ phù ... Trong đó đề tài mặt nguyệt - rồng là chủ yếu (73/118 chiếc(4). Chiếm 65%. Sau đó là đề tài mặt nguyệt - hoa mây (27 chiếc). Đề tài trang trí trên diểm bia gồm: dây leo hoa lá, hoa chanh, hoa văn hình học, động vật, sóng nước, án thư... Trong đó chủ yếu là các đề tài về lá.

Kỹ thuật chạm khắc trên bia Tây Sơn phổ biến là kết hợp giữa khắc nổi và khắc chìm. Tức là trên hình khắc nổi có đường kẻ chìm. Kỹ thuật khắc nổi là đặc trưng kỹ thuật chạm khắc bia Lê, khắc chìm là đặc trưng kỹ thuật chạm khắc bia Mạc. Và ở đây kết hợp kahức chìm và nổi là tiêu biểu kỹ thuật chạm khắc bia Tây Sơn. Cùng với đặc trưng trên, cách thể hiện hoa văn trang trí cũng có mầu sắc riêng.

Trước hết nói về hình rồng. Rồng trên bia Tây Sơn được thể hiện với hai dạng chính: cách điệu và tả thực. Trong đó cách điệu là phổ biến, gồm cách điệu lá và cách điệu mây. Hình rồng cách điệu này đã xuất hiện ở giai đoạn cuối Lê; và tồn tại ở một số loại bia thời Nguyễn. Tuy nhiên trên bia Tây Sơn, hình rồng cách điệu thường giản đơn, không rối rắm. Các chi tiết phụ của rồng như mào, chân, đuôi được cách điệu bởi những ngọn lá hoặc những áng mây. Đuôi rồng thường là một tàu lá chẻ đôi uốn cong về hai phía.

Rồng tả thực mang dáng dấp rồng yên ngựa thân dài uốn nhiều khúc tựa hình rồng trang trí trên bia và đồ gốm Mạc.

Bên cạnh rồng là mặt nguyệt. Mặt nguyệt to tròn, thường có hình âm dương tương phối, hình chữ thọ hoặc hình chim, nước. Thậm chí có mặt nguyệt làm thành bụng một con chim lớn có đầu, cánh, chân, trông tựa hình chim đại bàng đang giang rộng cánh đầy khát vọn (5).

Các đề tài lá, tiêu biểu là loại lá to có ba chẽ được gọi là lá đu đủ. Chúng thường được thể hiện hoàn chình ở góc trán bia hoặc diềm bia. Đôi khi chỉ được thể hiện một phần rủ trên trán bia. Loại hoa văn này đã xuất hiện từ thời Lê. Song nó trở thành đề tài phổ biến trên trang trí bia Tây Sơn. Cùng với nó là hình lá uốn cong nối tiếp nhau thay thế cho dây leo, hoặc đối xứng qua bông hoa hay hình án thư.

Các đề tài hoa, nổi bật là hoa chanh bốn cánh. Loại hoa văn này từng điển hình trong trang trí bia thời Lý - Trần. Tuy nhiên ở đây hoa chanh thường được đóng khung trong từng hoa văn hình học.

2. Nội dung văn bản:

Về nội dung, bia Tây Sơn gồm các loại: bia chùa, đình miếu, văn chỉ, từ đường, lăng mộ, cầu cống, thủy lợi, ruộng đất, hương ước, để tặng, lệnh chỉ... Trong đó chủ yếu là bia chùa, khoảng 70% bao gồm những bia xây dựng, tu bổ chùa, cùng việc tôn bầu hậu cho người công đức.

Tác giả soạn văn bia không phải là những bậc khoa bảng chuyên soạn văn bia như ở thời Lê mà phổ biến là những nhà sư có tiếng, những quan chức sở tại hoặc người có học ở địa phương. Thợ khắc bia cũng không phải là thợ chuyên nghiệp nhà nước mà là thợ dân gian cùng các thợ nghiệp dư ở các địa phương. Loại bia do các nhà sư có tiếng và quan chức soạn được các phường thợ dân gian khắc, thường là những bia khá đẹp. Ở đây, bài văn bia được soạn với ngôn từ hàm súc, triết lý cao siêu. Bố cục văn bia hài hoà, hàng cột tề chỉnh. Chữ khắc sâu, nét chữ sắc gọn, tương tự loại chữ trên bia cung đình thời Lê. Những bia này thường ở các danh thắng, các công trình công cộng của làng xã, hoặc của gia đình quan lại giàu có. Phần lạc khoản trên bia được ghi đầy đủ người soạn, người khắc bia. Ngược lại, những bia do người địa phương soạn và thợ nghiệp dư san khắc thường là bia ở các di tích nhỏ, của người bình dân, trong đó phần lớn là bia hậu và bia gửi giỗ. Bài văn bia ngắn, giản đơn, ngôn từ mộc mạc. Nét chữ khắc nông, sâu to, nhỏ không đồng đều; hàng cột không rõ ràng. Phần lạc khoản ít khi ghi tên người soạn văn bia và thợ khắc bia.

Bia thời Tây Sơn hoàn toàn được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chỉ được dùng trong trường hợp ghi tên đất, tên người hoặc dùng xen kẽ trong câu chữ Hán. Tuy nhiên ở loại bia do người địa phương soạn, thợ nghiệp dư khắc, câu chữ Hán được dùng rất gần gũi với khẩu ngữ Việt, chẳng hạn câu “Tả văn bia Nguyễn”... (ông họ Nguyễn viết văn bia...) hoặc “cúng dữ bản tự dic ký kỵ” (cúng cho chùa nhà để gửi giỗ).

Chữ huý trên bia Tây Sơn không thấy xuất hiện. Tất cả những chữ huý thời Lê rất nghiêm ngặt và phổ biến trong các văn bản bia thời Lê như Lợi, Long, Thành, Trần, Trừ, Tân, Đề, Cửu... thì trên bia Tây Sơn đều được viết lại bình thường.

Nhà Tây sơn rất ngắn ngủi so với các triều đại phong kiến Việt nam khác. Hơn nữa nhà Tây Sơn chưa xây dựng được cung điện, lăng tẩm, thậm chí cả nhà quốc học. Do đó không có các loại bia này. Trong toàn bộ bia Tây Sơn, không có một bia nào, một cụm bia nào thuộc loại bia nhà nước. Nói cách khác là không có một khuôn mẫu nào quy định cách thức cho các loại bia như ở thời Lê và thời Nguyễn đã có cụm bia lớn như Lam Kinh, Văn Miếu (Hà Nội), các lăng tẩm và văn thánh (Huế). Bia Tây Sơn hầu hết là bia của làng xã, do các nghệ nhân dân gian khắc. Họ kế thừa truyền thống của các nghệ nhân trước và sáng tạo, thể nghiệm ước vọng của mình. Tuy không có một cách thức chung nhưng bia Tây Sơn đều gặp nhau ở một điểm là: mộc mạc, phóng khoáng, không chịu gò ép bởi khuôn mẫu cung đình, nhiều đề tài và hoa văn trang trí mang tính dân gian được tái hiện và phát triển trên con đường định hình cho một phong cách mới.

II. CHUÔNG THỜI TÂY SƠN

Theo thống kê ở trên, chuông Tây Sơn được đúc đại trà ở khắp các địa phương từ Huế trở ra, sau khi đất nước sạch bóng quân xâm lược, bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống thanh bình.

1. Hình thức: chuông Tây Sơn gồm 3 phần: quai, thân và vành miệng. Quai chuông Tây Sơn khác với quai chuông thời Lê và Thời Nguyễn. Nó không phải là một hình rồng uốn cong, trên lưng có hình nậm rượu hoặc đài sen mà thường là hai hình rồng đấu lưng vào nhau. Đuôi rồng cuộn tròn. Lưng rồng to, có vẩy. thân chuông chia làm 4 múi theo chiều dọc - Mỗi múi gồm hai ô theo chiều ngang. Ô to phía trên để khắc minh văn. Các ô nhỏ phía dưới thường được trang trí đề tài Long, li, quy, phượng(6), đôi khi được khắc tên người công đức. Núm chuông nằm ở ranh giới giữa các ô trên và ô dưới. Bốn núm to nổi, có đường viền hoa, vừa làm núm gõ vừa tượng trưng cho bốn hướng: đông, tây, nam, bắc(7). Hoa văn trên góc chuông Tây Sơn chủ yếu là hoa văn lá lật, hoặc hình con bướm giang rộng cánh. Vành miệng chuông hơi loe, phần nhiều để trơn, đôi khi có hình cánh sen nối tiếp nhau.

Chuông Tây sơn có kích thước không lớn. Loại vừa, quai chuông cao 0,35m, thân chuông cao 0,85m, đường kính miệng rộng 0,50m. Loại nhỏ, quai chuông cao 0,20m, thân chuông cao 0,55m, đường kính miệng rộng 0,30m. Loại vừa phổ biến hơn cả. Loại này ở hà Nội và các vùng phụ cận, hầu hết do các hiệp thợ họ Nguyễn xã Đề Cầu huyện Thuận Thành (Hà Bắc) đúc.

2. Nội dung văn bản: Kết cấu và nội dung văn bản trên chuông khá thống nhất. Hầu hết tên chuông được đúc nổi gồm bốn chữ chia đều trên bốn múi chuông. Thứ tự tên chuông này xếp theo vòng tròn khép kín từ phải qua trái, có tác dụng đánh dấu thứ tự các mặt chuông và số trang văn bản. Trong khi đó, nhiều chuông thời Lê có tám chữ, được khắc chìm(9). Cũng như các loại chuông khác, chuông Tây Sơn đều nói về triết lý đạo Phật, công dụng tiếng chuông và lý do đúc chuông. Sau đó là phần kê người hưng công và người công đức. Minh văn hầu hết là chữ Hán. Loại chuông do thợ Đề Cầu đúc, khắc: nét chữ sâu, sắc sảo. Còn ở các loại chuông khác, chữ khắc nông, nét khắc không gọn.

Trên văn bản chuông, cũng như văn bản bia thời Tây Sơn, không gặp chữ huý nào. Do đặc điểm của vật liệu khắc: cứng và khuôn khổ hẹp nên chữ khắc trên chuông thường nhỏ và một số chữ thông dụng xuất hiện nhiều lần, thường được khắc giản lược một bộ phận, thậm chí cả chữ. Chẳng hạn chữ “tiền” (tiền tệ): Bộ “kim” được viết tắt thành một dấu chấm và dấu phết dài chéo nhau ./. Dấu tắt này đôi khi thay cả cho chữ “tiền”. Chữ “quan”, “chữ mạch” (đơn vị tiền tệ) cũng vậy, được lược bỏ một bộ phận. Cụ thể là chữ “quan” chỉ viết bộ “bối”, chữ “mạch” chỉ viết bộ “phụ”. Trường hợp khác không lược bỏ bộ phận mà viết tắt cả chữ như chữ “đức” (công đức) viết ngang gập trên, bộ lực dưới.

Lối viết tắt này đã gặp rải rải trên một số văn bản chuông thời Lê và thời Nguyễn sau này. Tuy nhiên trên văn bản chuông Tây Sơn, chúng được sử dụng khá thống nhất và chặt chẽ.

Cũng như bia, chuông Tây sơn không do thợ Nhà nước đúc, khắc, mà hoàn toàn do thợ dân gian đúc, là sản phẩm của địa phương. Những chuông ở Hà Nội và các vùng phụ cận do thợ Đề Cầu đúc khá đẹp, cân đối. Số bia do các phường thợ khác đúc ở xen kẽ và xung quanh Hà Nội có dáng dấp, kích cỡ tương tự loại chuong này. Tuy nhiên, không đẹp, không tinh tế bằng. Có lẽ loại chuông do thợ Đề Cầu đúc là khuôn mẫu chung cho chuông Tây Sơn.

III. GIÁ TRỊ TƯ LIỆU TRÊN BIA, CHUÔNG TÂY SƠN

Bia đá, chuông đồng thời Tây sơn là những di vật quý, có nhiều giá trị về khảo cổ học, văn học, mỹ thuật... ở đây chúng tôi đề cập đôi nét về giá trị sử liệu của chúng.

Qua phân bố và mật độ bia, chuông cùng lý do tạo dựng được ghi trên đó, phản ánh phần nào chiến tuyến trong cuộc đại phá quân Thanh ở Thăng Long của Nguyễn huệ. Trong các văn bản đó đều cho biết nơi ấy trước có chùa, có chuông nhưng bị đổ nát, hủy hoại bởi binh hỏa. Cụ thể như trên chuông chùa Thịnh Quang (ngã tư sở, Hà Nội) và một loạt bia, chuông ở các di tích dọc sông Tô, sông Nhuệ như khu vực Mọc, Quan Nhân, xa hơn là dọc tuyến Thanh Trì (Hà Nội), Thanh Oai (Hà Sơn Bình), Hoài Đức, Quốc Oai (Hà Nội). Riêng khu vực Phú Lương (huyện Thanh Oai) có 8 chuông được đúc vào thời Tây Sơn, huyện Hoài Đức (Hà Nội) có 24 chuông ở 24 chùa được đúc, sửa lại do hư hỏng bởi chiến tranh. Phía đông Thăng Long ở một số vùng thuộc tỉnh Hải Hưng, có khá nhiều bia, chuông Tây Sơn ghi lại sự tàn phá của chiến tranh. Ví dụ bia “Hậu thần bi ký” ở đình xã La Đôi huyện Nam Sách (Hải Hưng) dựng năm Bảo Hưng 2 (1802) ghi công đức ông Đại học sĩ Phan Đôn Hoà có công giúp làng vượt qua tai hoạ chiến tranh... Xa hơn nữa là Lạng Sơn - địa đầu Tổ Quốc, có bia chùa Diên Khánh dựng năm Cảnh Thịnh 4 (1796) ghi “Thành ngoại giai vi chiến trường, tự tiệm đồi hoại...” (ngoài thành đều là chiến trường, chùa dần dần đổ nát)(9).

Văn bản trên bia, chuông Tây Sơn còn phần nào phản ánh thái độ dân Bắc hà đối với nghĩa quân Tây Sơn. Trước chiến thắng Kỷ Dậu, những lần kéo quân ra Bắc hoặc đóng quân ở địa phương dân chúng lo sợ phiêu bạt để đất đai hoang hoá, có ý trách cứ, thậm chí còn gọi nghĩa quân Tây Sơn là “Tây khấu” (giặc Tây Sơn). Nhưng khi ra Bắc để giải phóng Thăng Long, đại phá quân Thanh thì nhân dân khắp nơi nao nức ủng hộ. Trần Văn Ngao người thôn xuân Dục xã Yên Thường huyện Đông Ngàn đã tòng quân theo Quang Trung năm Kỷ Dậu (1789) và hy sinh năm Canh Tuất (1790). Ông được triều đình ban 50 quan tiền tuất và 5 sào ruộng để thờ cúng. Sau đó dân làng bầu làm Hậu phật tôn thờ mãi mãi)(10).

Tư liệu đồng thời cho biết sau chiến thắng Kỷ Dậu, có cuộc di dân từ nam ra Bắc. Trong đó chủ yếu là các quan chức Tây Sơn quê ở Quảng Nam và các vùng phía Nam đưa vợ con gia đình ra công cán và ngụ cư ở ngoài Bắc. Chuông chùa Thịnh Quang ghi vị công đức Đô đốc Lễ Trần Văn Lễ cùng vợ và con trai quê xã Mông Văn huyện Duy Xuyên phủ Thăng Hoa xứ Quảng Nam tham gia đúc chuông, sửa chùa. Nội chấn đô uý Ngữ Thành hầu quê xã Tiểu Bồ huyện Yên Khánh xứ Quảng Nam cùng vợ là Lê Thị Diễm cúng chiêng đồng, hổ đá, voi đá vào miếu xã Đức Mộ, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Ninh(11). Hoặc Duy Lê hầu Lê Công Xuyên cùng gia đình tham gia sửa chùa Diên Khánh (thị xã Lạng Sơn)(12). Khâm sai Sơn Nam thượng xú, Đại đô đốc Hoà Đức hầu Lê Văn Hoà cùng vợ con quê phủ Tây Định xứ Quảng Nam, tham gia đúc chuông chùa Viên Phúc (Hà Sơn Bình)(13).

Tư liệu văn khắc phản ánh khá đa dạng xã hội thời Tây sơn sau chiến thắng ngoại xâm. Nhà nước rất quan tâm đến việc sản xuất, khôi phục hậu quả chiến tranh. Bia “Thạch Đậu bi ký” dựng năm Cảnh Thịnh 2 (1794) ở xã Đắc Sở, huyện Đan Phượng (Hà Nội) ghi “Nhà nước chú trọng đến thủy lợi để phát triển nông nghiệp, đã cho các bề tôi giúp dân xây cống, khơi sông ...”(14). Bia “Hậu thần bi ký” xã Kê Sơn huyện Kinh Môn (Hải Hưng) ghi “Thiếu khanh Hoàng Điển giúp dân địa phương trở về làng cũ làm ăn, dân làng khá giả, bầu ông làm Hậu thần”(15). Bia “Cổ Trai Phan ấp bi” ở xã Cổ Trai huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) dựng năm Cảnh Thịnh 1 (1793) ghi “vị quản suất họ Tràn đứng ra chiêu tập dân lập lên ấp Phan, khai khẩn hoang hóa...”(16).

Khắp đất nước, nhân dân phấn chấn ngợi ca vương triều Tây Sơn. Cuộc sống thật sự thay da đổi thịt. Một loạt công trình công cộng được sửa sang, xây dựng. Cuộc sống sung túc, làng xóm có thêm luật lệ mới. Nhiều bia hương ước được dựng lên để nêu cao phong tục, gìn giữ nền nếp.

Tư liệu văn bản khắc trên bia đá, chuông đồng thời Tây Sơn còn phản ánh nhiều mặt về chủ trương phát triển văn hoá giáo dục của nhà nước Tây Sơn... Nhiều từ chỉ, văn chỉ mọc lên, dựng bia ca ngợi truyền thống văn học... Đặc biệt ở đó ghi lại chức danh của người phụ trách việc học của một xã là Xã giáo. Điều đó phản ánh chủ trương đưa việc học về tận làng xã của Nhà nước Tây Sơn.

Bia đá chuông đồng thời Tây sơn khá phong phũ. Tuy xuất hiện trong một thời gian rất ngắn, song có những nét đã định hình mang phong cách thời đại. Đây là nguồn tư liệu quý cần được chỉnh lý, giới thiệu rộng rãi.

CHÚ THÍCH

(1) Bia: thống kê theo đơn vị hành chính trước năm 1945.

(2) Chuông: thống kê theo đơn vị hành chính hiện nay.

(3) Xem bản rập bia số 8425 và 8429 Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đây là hiện tượng ghi niên đại không theo niên hiệu vua đương thời và chính thống. Hiện tượng này còn gặp ở một số bia Mạc ghi niên hiệu vua Lê và một số bia Nguyễn ghi niên hiệu vua Tây Sơn. Nguyên nhân là do người dựng bia không chấp nhận triều đại đó nên ghi theo niên hiệu của triều đại nào mà họ tôn sùng, mặc dù niên hiệu đó không còn hoặc không phải là niên hiệu của triều đại chính thống. Xem thêm: Đinh Khắc Thuân: Một số vấn đề về hiện đại bia VN, Tạp chí Hán Nôm số 2-87.

(4) Trong 338 bia Tây Sơn thì 118 bia có trán bia được trang trí.

(5) Xem bản rập bia số 9623.

(6) Một số chuông thời Lê niên hiệu Chính Hoà như chuông chùa Hồng Châu, xã Phú Châu huyện Ba Vì (Hà Nội) đúc nổi bốn hình rồng trên bốn ô này.

(7) Xem Nguyễn Đình Chiểu: Chuông Tây Sơn, Tạp chí khảo cổ học, số 4, 1981.

(8) Chuông chùa Hồng châu xã Phú Châu huyện Ba Vì (Hà Nội) đúc vào niên hiệu Chính Hoà có tên chuông là: Hồng Châu, quán lưỡng tự, sơn hương chung.

(9) Bia Diên khánh tự bi ký số bản rập 16170-71.

(10) Bia Hậu phật bi ký, số 2740.

(11) Bia Hậu thần bi ký xã Đức Mộ, huyện Kim Bảng (Hà Nam Ninh).

(12) Bia Diên khánh tự bi.

(13) Viên phúc tự chung, xã Bài Lâm huyện Hoài Anh phủ Ứng Thiên (nay thuộc huyện Hoài Đức tỉnh Hà Sơn Bình).

(14) Số bản rập 1694.

(15) (16) Số bản rập 4070 và 10115.

TB

MỘT VÀI SUY NGHĨ TRƯỚC
NHỮNG SỐ LIỆU...

NGUYỄN ĐỨC BẠCH
NGUYỄN DOÃN TUÂN

Trên các số Tạp chí Hán Nôm trước đây, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu số lượng tài liệu Hán Nôm sưu tầm được ở một số quận huyện(1). Lần này, sau khi công việc sưu tầm đã làm xong, chúng tôi mới có dịp tập hợp đầy đủ kết quả thu thập được ở các di tích trên địa bản 16 quận, huyện nội, ngoại thành thủ đô Hà Nội. Số lượng cụ thể ở các quan huyện xem bảng thống kê sau đây: (Bảng thống kê).

TT Quận, huyện(2). Số di tích Bia Chuông Khánh Câu đối Hoành phi Sắc Thơ Thần phả
1 Q. Ba Đình 157 368 172 409 344 287 33
2 Q.Đống Đa 97 405 140 4 516 407 58 38
3 Q. Hai Bà 109 281 116 444 362 20 37
4 Q.Hoàn Kiếm 177 271 172 390 407 105 17
5 H. Ba Vì 138 635 226 17 800 400 600 60 50
6 H. Đan Phượng 90 900 278 22 540 300 320 40 35
7 H. Đông Anh 117 464 232 3 220 192 335 5 45
8 H. Gia Lâm 186 1107 540 16 740 462 566 35 55
9 H. Hoài Đức 177 1221 550 26 296 184 312 23 21
10 H. Mê Linh 78 210 180 6 159 146 172 54 57
11 H. Phúc Thọ 138 684 330 23 460 200 280 60 25
12 H. Sóc Sơn 83 520 140 18 304 125 190 43 35
13 TT. Sơn Tây 67 460 354 8 276 110 110 20 19
14 H. Từ Liêm 189 1182 566 26 1139 658 727 58 68
15 H.Thạch Thất 103 703 369 13 446 176 242 139 31
16 H. Thanh Trì 186 790 460 30 1210 823 544 76 66
Cộng 2092 10.221 4825 212 8449 5196 5570 748 507

Như thế là 4 quận nội thành và 12 huyện, thị ngoại thành đã có tới 2092 di tích, trong đó có 514 ngôi đình, 284 ngôi đền, 697 ngôi chùa, 114 ngôi miếu, 59 văn chỉ, 257 nhà thờ họ và một số di tích khác. Nhìn chung địa phương nào cũng còn giữ được ít nhất là một di tích, trừ một hai nơi ở ven sông do nước lũ phá huỷ.

Trong số 10.221 mặt bia, có tới ắ số bia đời Nguyễn, còn 1/4 số bia đời Lê và 2 bia đời Lý. Tấm bia sớm nhất có lẽ là tấm bia ở lăng Đào Kỳ xã Mai Lâm huyện Đông Anh ghi về sự tích của Đào Kỷ có ghi niên hiệu Thuận Thiên (chưa rõ là năm 1040 hay là năm 1428). Tấm bia ở chùa Báo Ân (còn gọi là chùa Cấm) ở thị xã Phúc Yên dựng thời Lý Cao Tông (1210). Bia muộn nhất là những tấm bia Nôm ở chùa Phật giáo xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì do cụ Lê Văn Khóm hiện đã 85 tuổi người làng soạn vào năm 1945(3). Đáng chú ý là lần đầu tiên phát hiện ra tấm bia đồng ở hậu cung đình Quan Nhân xã Nhân Chính huyện Từ Liêm nơi áp sát với cố đô mà trước nay không ai biết(4) và một tấm bia bằng gỗ được khắc vào năm Vĩnh Tộ thứ 8 (1627) hiện đặt ở chùa Triệu Xuyên xã Long Xuyên huyện Phúc Thọ(5). Bên cạnh đó còn có loại văn khắc trực tiếp vào vách đá mà ta gọi là hiện tượng ma nham(6). Những văn bản bia sưu tầm được đợt này phong phú, đa dạng cả về hình thức, nội dung và thể loại. Ngoài những giá trị nhất định của những tấm bia hậu thần, hậu Phật(7) do các tác giả là những trí thức bình dân viết thì rải rác các huyện còn có những tấm bia do caca trí thức cao cấp viết: tấm bia ở đình Quỳnh Lôi quận Hai Bà Trưng do Thám hoa Vũ Thạnh soạn vào năm 1692; tấm bia ở xã Thịnh Liệt huyện Thanh Trì do Bùi Huy Bích soạn(8); tấm bia ở đền Thanh Lâm xã Phú Mỹ huyện Từ Liêm do Trần Bá Lãm soạn vào năm 1873 v.v... Qua đợt sưu tầm này, không chỉ có đầy đủ bộ văn bia tiến sĩ ở Quốc tử giám, nơi đào tạo đội ngũ trí thức cao cấp của dân tộc ta trong lịch sử, mà còn thu thập được hầu hết các loại hình văn khắc ở đá, đồng và gỗ tạo thành một kho tư liệu nhiều giá trị phong phú của Hà Nội.

Về chuông và khánh: Quả chuông có niên đại sớm hơn cả được đúc vào năm Chính Hoà thứ 8 (1687) hiện đặt ở đền Ngọc Thụy xã Ngọc Thụy huyện Gia Lâm, chuông muộn nhất được đúc vào năm cuối Bảo Đại (1945) (loại chuông này thường có kích cỡ nhỏ, có nhiều ở các địa phương). Trong số 4865 mặt chuông có 1004 bài văn: 212 mặt khánh có 80 bài văn, có gần 60 quả chuông, 2 khánh được đúc vào thời kỳ Tây Sơn, còn phần nhiều là đúc vào thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Điểm khác nhau căn bản giữa chuông, khánh với bia là chất liệu tạo đúc và hình thức tạo dựng, còn nội dung thì dường như hoàn toàn đúc bằng đồng; khánh cũng chủ yếu đúc bằng đồng nhưng cũng có khánh tạo bằng đá như khánh ở hang Trầm xã Phụng Châu và khánh ở chùa Đại Tảo xã Đại Thành huyện Hoài Đức.

Câu đối và hoành phi là một thể loại văn học đặc biệt được viết trên gỗ, trên tường trên giấy theo một kiểu đăng đối toàn diện cả về hình thức và nội dung. Căn cứ vào những dòng lạc khoản thấy rằng chỉ có một số rất ít câu đối được làm ở thời Lê, còn phần nhiều là thời Nguyễn và tác giả của nó cũng thuộc nhiều trình độ học vấn khác nhau. Người có học vấn cao thường làm câu đối ở những di tích là danh thắng khi họ đến thăm, hoặc được đề nghị làm, như Nguyễn Quý Thích đã làm câu đối ở đình Chèm huyện Từ Liêm; Nguyễn Văn Siêu có câu đối ở đền ngọc Sơn quận Hoàn Kiếm; Cao Bá Quát có câu đối ở đền Phù Đổng huyện Gia Lâm. Dường như ở di tích nào cũng có hoành phi câu đối do các trí thức loại trung bình và trí thức bình dân sáng tác. Do vậy có câu đối bằng chữ Hán, có câu đối bằng chữ Nôm (có di tích như chùa Hưng Ký quận Hai Bà Trưng hoàn toàn là câu đối Nôm). Số câu đối thu thập được có đủ các thể loại: Bát trị, song quan, cách cú, hạc tất v.v... Một số di tích có nhiều câu đối rất hay như Trung tâm văn hoá Quốc Tử Giám, đền Ngọc Sơn, đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc, chùa Diên Hựu, chùa Quán Sứ, đền Phù Đổng, đền Sóc v.v... Những câu đối hoành phi không chỉ có giá trị văn học cao mà còn giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về Nho, Phật, Lão v.v...

Sắc phong là một loại hình văn bản đặc biệt ghi sắc lệnh ban tặng của nhà vua. Nó được viết bằng những câu chữ chọn lọc, chuẩn mực trên một loại giấy vàng khổ to có trang trí hình rồng, có ghi ngày tháng năm phong và niên hiệu nhà vua cùng với con dấu được đóng ở dòng chữ ghi niên hiệu. Con số chúng tôi thống kê trên chắc chắn chưa phải là tổng số sắc phong có ở Nội, vì một số nơi đã bị thất lạc, hoặc một số gia đình giữ riêng không cho biết. Trong số thu thập được, sắc phong có niên đại sớm nhất là thời Vĩnh Tộ 1619, sắc có niên đại muộn nhất là thời Bảo Đại thứ 18 (1934). Sắc phong ghi lại tên đơn vị hành chính cũ như thôn, xã, huyện, tỉnh, ghi lại các mỹ tự, mỹ hiệu của các thần hoàng làng đã có công với dân với nước trên nhiều lĩnh vực được các triều đại trong lịch sử đánh giá và phong tặng. Chẳng hạn qua một số sắc phong ở xã Nhân Chính, khu thị trấn Cầu Giấy thuộc huyện Từ Liêm cho thấy trước đây những địa bàn này thuộc huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông cũ v.v... Có những di tích như đình làng tàm Xá xã Tàm Xá huyện Đông Anh thờ 4 vị thần hoàng còn giữ được 72 đạo sắc, trong đó có những sắc ban tặng cho vị thần Cẩm hoa phu nhân, một cô gái đẹp, nết na của làng trồng dâu chăn tằm, là những tư liệu quý, giúp vào việc nghiên cứu lịch sử Tàm Xá có phải là làng tằm đầu tiên của vùng châu thổ sông Hồng hay không? v.v... Trong số sắc phong thu thập được, có 225 đạo do thời Tây Sơn(9) phong, nằm ở hầu hết trên địa bàn các huyện. Đó là những tư liệu có giá trị giúp cho việc tìm hiểu di văn thời Tây Sơn trên đất Hà Nội.

Thơ được viết trên các biển gỗ, có khi là khắc vào gỗ, vào đá hoặc viết trên tường, của nhiều tác giả có những trình độ khác nhau. Có thơ Hán, có thơ Nôm, mang những nội dung khác nhau. Có thơ đề vịnh của các bậc danh nhân, có thơ ca ngợi cảnh đẹp, công đức của các tác giả là trí thức bình dân. Chẳng hạn ở Văn Miếu nơi quốc học, ở đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc, những danh thắng ở Tây Hồ thường được gọi là trại thơ, đã có nhiều bậc danh nho đến tham quan và làm thơ đề vịnh, hay núi Trầm, một danh thắng nổi tiếng mà vua Lê chúa Trịnh từng dựng cung điện, ở đây đã được gọi là núi của thơ Nôm v.v... Những bài thơ thu thập được không chỉ có giá trị về nội dung và nghệ thuật mà còn có giá trị về mặt văn bản.

Số thần tích, thần phả thu thập được chắc chắn còn sót nhiều, do việc lưu trữ nằm rải rác trong các hộ tư nhân và một số người trước đây đã sưu tầm giữ làm tài liệu riêng. Trong số thần tích này có 2 cuốn sách đồng ở làng Đông Lao huyện Từ Liêm và ở đình Mai Phúc xã Gia Thụy huyện Gia Lâm(10). Nhìn vào con số 514 ngôi đình và 507 cuốn thần tích, ta thấy dường như đình nào cũng có sự tích về thành hoàng làng. Có những vị thần được nhiều nơi thờ như thần Linh Lang, thần Tản Viên, Ả Lã, nàng Đê v.v... Có những cuốn thần tích ghi lại những sự kiện những chi tiết, những địa danh khác với trong chính sử, chẳng hạn như: Bồ Đề đại bản doanh của Lê Lợi có phải là ở Gia Lâm cách kinh thành bởi con sông Hồng hay là Bồ Đề thuộc xã Nhân Chính huyện Từ Liêm nơi áp sát với kinh đô? Mê Linh có phải là nơi dấy binh của nghĩa quân Hai Bà Trưng hay là ở vùng Thạch Thất Phúc Thọ v.v...? Phần lớn các cuốn thần tích đều ghi Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và quản giám bách thần tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại, có những bản được sao chép muộn sau này.

Như vậy sau 5 năm hợp tác, hai cơ quan Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Ban quản lý di tích và danh thắng Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội đã căn bản hoàn thành việc sưu tầm tài liệu ở 16 quận huyện của Thủ đô, thu thập được một kho tư liệu đồ sộ về khối lượng, phong phú về thể loại và nội dung. Để kho tư liệu quý giá này có thể phục vụ được các nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, cần có những nỗ lực mới để xử lý, lập được bộ thư mục cũng như xếp đặt theo nghiệp vụ thư viện giúp cho việc tra cứu, tìm lấy tư liệu được thuận lợi. Mong rằng kho tư liệu này sẽ sớm được hoàn thiện để phục vụ các nhà nghiên cứu tìm hiểu những giá trị tinh thần truyền thống của Thủ đô nghìn năm văn hiến.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Nghiên cứu Hán Nôm số 1.1985; số 2. 1985; số 1. 1986; Tạp chí Hán Nôm số 1.1986; số 1.1987; số 1. 1988.

(2) Xếp sắp tên đất theo thứ tự ABC.

(3) Xem Nguyễn Thị Trang: 18 tấm bia Nôm ở chùa Phật Giáo. Tạp chí Hán Nôm số 1,1987.

(4) Xem: Phạm Văn Thắm: Về tấm bia đồng tại đình làng Quan Nhân huyện Từ Liêm Hà Nội. Tạp chí Hán Nôm số 1, 1987.

(5) Chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết tấm bia này vào một dịp khác.

(6) Xem Hiền Lương - Bạch Văn Luyến: Một số bài thơ Nôm khắc ở vách đá trong hang Trầm. Tạp chí Hán Nôm số 1, 1988.

(7) Xem Dương Thị The - Phạm Thị Thoa: Đôi nét về bia hậu. Tạp chí Hán Nôm số 2, 1987.

(8) Xem Nguyễn Thị Thảo: Tấm bia mới phát hiện. Tạp chí Hán Nôm số 2, 1987.

(9) Trong cuốn DI VĂN TÂY SƠN TRÊN ĐẤT HÀ NỘI có sách dẫn gồm 205 sắc phong thời Tây Sơn không đưa vào sách và tuyển dịch 20 đạo ở phần văn kiện triều đình.

(10) Xem Dương Thị The: Một cuốn sách đồng ở Hà Nội, Tạp chí Hán Nôm số 2, 1988.

TB

TƯ LIỆU HÁN NÔM Ở KHU DI TÍCH
ĐÌNH GIÁ

NGUYỄN THỊ OANH

Khu di tích Đình Giá bao gồm chùa Đôi Hồi và đền Tam Phủ nằm ven đê sông Đáy, xưa thuộc xã Thu Quế huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai, nay thuộc thôn Thu Quế xã Song Phương huyện Đan Phượng ngoại thành Hà Nội.

Các tên gọi “Đôi Hồi”, “Đình Giá”, theo Đào Duy Anh, gắn liền với truyền thuyết kể rằng: “Ở thôn Thu Quế xã Đan Phượng tỉnh Hà Tây có chùa Đình Giá. Tương thuyết đời Trần, một lần nhà vua dọc sông Đáy đi thăm chùa Thầy, xã giá đến khúc sông trước làng Thu Quế, thuyền ngự gặp nước xoáy không đi được mà cứ quẩn quanh một chỗ, vua niệm Phật thì thuyền đi được, sau đó vua cho làm chùa ở đấy, tục gọi chùa Đôi Hồi cũng gọi là chùa Đình Giá. Chữ Đôi Hồi coa nghĩa như “bồi hồi” “bàn hoàn” nghĩa là quanh quẩn. Hiện nay còn biển gỗ và bia đá đề chữ “Đôi Hồi tự”(1). Ngoài ra, sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Ở xã Thu Quế huyện Đan Phượng, trong chùa từ chuông khánh, bia đá, đến biển ngạch đều khắc mấy chữ “Đôi Hồi tự Đình Giá xứ”. Tương truyền vua đi xem xét địa phương, dừng xa giá ở đây nên gọi tên chùa như thế”(2).

Khu di tích Đình Giá nằm trên mảnh đất giầu truyền thống lịch sử. Từ năm 40 của thế kỷ đầu tiên. Lôi Chấn là người thôn Tháp Thượng đã chiêu mô nghĩa sĩ dưới ngọn cờ cứu nước của Hai Bà Trưng, ông được phong làm Tả giai tướng quân trong đoàn quân đánh Tô Định. Để tưởng nhớ người anh hùng đã có công dẹp giặc, nhân dân Đan Phượng và các vùng lân cận đã lập đền thờ ông và tôn là Minh Châu Lôi chấn đại vươn (3).

Đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nơi đây đã trở thành trạm giao thông liên lạc, nơi phát hành báo Cứu quốc và nuôi dấu các cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước ta(4).

Về mặt có liên quan tới Hán Nôm, khu di tích Đình Giá còn giữ được khá nhiều di vật mang văn tự như bia, chuông, khánh, sắc phong, hoành phi, câu đối.

Sau đây xin giới thiệu đôi nét về chùm tư liệu nói trên:

I. BIA ĐÁ

Khu di tích Đình Giá còn lưu giữ 5 bia với tổng số 12 mặt bia.

1) Bia Trùng tu Đình Giá tự (Bia Trùng tu chùa Đình Giá).

Bia đặt sau chùa, bia trụ 4 mặt, trên có núm tròn, kích thước 60cm x 40cm, chất liệu đá màu trắng đục. Hoa văn trang trí trên diềm bia là dây leo đơn giản, uốn lượn hình sin, đăng đối dọc theo diềm bia. Bia hiện nay đã mòn và mất khá nhiều chữ. Mặt 1 bia là lời văn ca ngợi việc trùng tu lại chùa Đình Giá. Lời văn trên bia có đoạn viết: “Đến năm Ất Dậu (1585) có kẻ sĩ ở xã Đan Phượng thượng, hiệu Phúc Lai kêu gọi đóng góp, khuyến giáo các sãi vãi bỏ ra của cải tài vật, rồi thuê thợ mướn công... chưa đầy một tháng chùa sở, tượng Phật, cầu quán lại được nghiêm trang...”

Phần ghi tên công đức đóng góp xây dựng chùa, đáng chú ý có tên bà Hoàng Thái hậu và 2 cô công chúa họ Mạc là Phúc Thành thái trưởng công chúa Mạc Ngọc Bàn, Nghi Xuân công chúa Mạc Ngọc Lương và Mạc Ngọc Liễn , một tướng giỏi thời nhà Mạc.

Hai mặt tiếp theo ghi công đức của người đóng góp xây dựng chùa. Mặt thứ tư ghi dòng lạc khoản: Hưng Trị... niên thập nguyệt cốc nhật lập bi (Lập bia ngày lành tháng 10 năm Hưng Trị (1588).

2) Bia Đình Giá xứ Đôi Hồi tự bi (Bia chùa Đôi Hồi xứ Đình Giá).

Bia đặt sau chùa, 2 mặt, có kích thước 106cm x 60cm. Chất liệu bia là một loại đá có màu trắng đục. Bia dựng năm Chính Hoà thứ 19 (1698) thời Lê.

Hoa văn trang trí trên cả trán bia và diềm bia. Trán bia trang trí đề tài “Phượng chầu mặt nguyệt”. Phượng được trang trí ở trán bia với tư thế động, đầu phượng thon nhỏ, mỏ cong ngắn, mào nhỏ vươn lên: lông seo ngắn bay lượn. Thân phượng thuôn dài, mập, trên mình phủ lớp lông sao đều đặn xếp như vẩy cá. Lông cánh dài đều từng lớp chải chuốt. Chân Phương giống như chân chim.

Mặt nguyệt được trang trí đao hảo. Đạo hoả được chạm khắc đăng đối lấy mặt nguyệt làm tâm. Cánh đao hoả ngang lượn mềm như lớp sóng.

Diềm bia được trang trí hoa văn hình học, đó là các hình ô van, có hai cạnh đối xứng bằng nhau, khoảng giữa có điểm xuyết hoa và lá.

Nội dung bia đề cập đến việc xây dựng lại toà tam quan và ghi tên công đức những người đóng góp xaay dựng tam quan chùa.

Mặt 2 bia Đôi Hồi tự Đình Giá xứ (chùa Đôi Hồi xứ Đình Giá).

Hoa văn trên trán bia cũng giống mặt 1, diềm bia trang trí hoa dây hình sin có những đường uốn lượn đều đặn chạy dọc diềm bia, trên đoạn uốn có tay râu mảnh dẻ và có hoa lá phối hợp.

Nội dung mặt 2: ghi lại việc xây dựng hành lang 2 bên chùa và ghi công đức những người đóng góp.

3) Bia Thu Quế xã trùng tu Đình Giá tự tịnh Địa ngục kiều (xã Thu Quế trùng tu chùa Đình Giá và cầu Địa Ngục).

Bia đặt ở sau chùa, 2 mặt, có kích thước khá lớn: 170cm x 115cm, dày 25cm. Bia dựng năm Chính Hoà thứ 25 (1704) thời Lê. Chất liệu bia là loại đá có màu trắng xanh, mặt phẳng nhẵn, chữ và hoa văn trang trí được khắc khá sâu, nên còn rất rõ và đẹp. Hoa văn trang trí cả trán bia và diềm bia. Trán bia trang trí đề tài truyền thống “Lưỡng long triều nguyệt”. Hình rồng được thể hiện với đặc điểm đầu hơi to, thô, mào lửa nhỏ dần, uốn đơn giản. Thân to phủ đầy vẩy, bốn móng xoè nhọn như chân thú. Toàn thân toát lên vẻ chắc chắn khoẻ mạnh đầy sức sống. Rồng nằm trong tư thế trang nghiêm không uốn lượn nhiều như rồng sau này.

Mặt nguyệt là 2 vòng tròn đồng tâm, bên ngoài bao bọc là hình các cánh hoa (như cánh sen) xếp liên tục tạo nên nền dầy đậm.

Diềm bia được trang trí hình các quầng mây xếp đăng đối. Ở giữa là hình con phượng đứng trong tư thế chuẩn bị bay: đầu cao mào uốn dựng hai cánh xoè rộng, chân phải giơ lên...

Diềm chân bia được trang trí bằng 3 bông hoa sen, cánh to, hai con nai chầu 2 bên. Nai được thể hiện trong tư thế động, hai con còn lại chạy sang hai bên, mặt ngoảnh lại nhìn nhau, trông gần gũi sinh động, chẳng khác cuộc sống thực được khắc tạc trên đá.

Nội dung bia đề cập đến 2 vấn đề:

- Giới thiệu quang cảnh, địa thế chùa Đôi Hồi.

- Quá trình trùng tu xây dựng và ý nghĩa cao đẹp của việc xây dựng chùa.

Mặg 2 bia Âm ty, Đôi Hồi, Thanh Lương quán bi ký (Bài ký trên bia Quán Âm ty, Đôi Hồi, Thanh Lương).

Hoa văn trang trí trên trán bia và diềm bia khác với phong cách trang trí ở mặt 1.

Diềm bia là hình 2 con rồng được thể hiện nhìn nghiêng thân tròn uốn đơn giản, lượn nhẹ theo chiều dài của diềm. Đầu rồng nhỏ, bờm tóc ngắn, râu uốn mềm mại, vây đuôi vắt chéo nhau. Rồng trang trí đăng đối 2 bên tạo cho bia dáng vẻ tôn nghiêm.

Nội dung tiếp phần mặt một, ghi tên người có công đóng góp xây dựng chùa. Nhìn tấm bia lớn ghi dày đặc tên người đóng góp, ta thấy rõ hơn ảnh hưởng của chùa đối với dân vùng này và các vùng lân cận khác.

Tác giả văn bia là Tiến sĩ Vũ Thạch hiệu Phác Phu, ông người xã Đan Loan huyện Đường An, trú ở xã Báo Thiên huyện Thọ Xương. Thi Hội đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, khoa Ất Dậu Chính Hoà thứ 5 (1685) năm ấy ông 22 tuổi, làm đến Thiêm đô ngự sử, bị bãi chức, sau lại được triệu dụng, làm đến Tự Khanh. Vâng mệnh làm chức giáo thụ trường võ, học xong tặnt Thám chính. Ông viết khá nhiều bia và là cây bút nổi tiếng, văn chương truyền tụng một thời.

4) Bia Thu Quế xã Tam phủ từ bi ký (Bài ký trên bia đền Tam phủ xã Thu Quế).

Bia được đặt trong hậu cung ngôi đền, 2 mặt, có kích thước 86cm x 44cm, được dựng năm Tự Đức thứ 19 (1868). Chất liệu bia mầu trắng đục. Bia không trang trí hoa văn. Nội dung ghi lại 9 lệnh chỉ của Chúa Trịnh cho phép chùa Đôi Hồi và đền Tam phủ hàng năm được miễn sưu sai thuế dịch, được cấp đất và đinh tráng để trông coi hương hoả thờ phụng và lý do tên gọi chùa Đình Giá.

5) Bia Đình Giá xứ Đôi Hồi tự thạch bệ ký (Bài ký trên bệ đá chùa Đôi Hồi xứ Đình Giá).

Bia cao 58cm, được khắc vào bệ đá, diềm bệ trang trí hoa dây đơn giản. Nội dung ghi lại việc xây bệ đá chùa Đôi Hồi xứ Đình Giá vào tháng 2 năm Đinh Dậu.

II. CHUÔNG ĐỒNG

Hiện đặt ở nhà truyền thống xã Song Phượng.

Chuông có chiều cao (từ đáy chuông đến quai chuông hình rồng) là 140cm. Chu vi của chuông là 200cm. Chuông chia làm 4 múi đều đặn, mỗi múi rộng 38cm, chia làm 2 phần, trên và dưới. Phần trên cao 50cm, dưới 25cm. Khoảng cách giữa các múi là hoa văn và 4 núm tròn đường kính 9cm. Tất cả các ô trên đều khắc chữ, chữ châm phương, dễ đọc. Chuông được đúc năm Cảnh Thịnh đã bị đục, song vẫn có thể đọc được.

Nội dung ca ngợi việc đúc chuông và ghi tên người đóng góp. Lời văn do Sơn Nam cư sĩ người Thường Tín Thanh Trì Lê Tạ Vọng soạn.

III. KHÁNH

Hiện đặt ở nhà truyền thống xã Song Phượng.

Khánh có kích thước 105cm x 60cm, giữa có núm tròn đường kính 9cm, diềm ngoài núm được trang trí đao hoả, cánh đao hoả uốn lượn, hướng lên trên rừng rực như ngọn lửa bốc. Phía dưới trang trí các sóng nước, mỗi bên có 2 ngọn sóng chồm lên như sóng bạc đầu.

Khánh được đúc cùng thời gian với chuông. Nhưng do âm thanh của khánh chưa thật êm hoà cho nên đến gày 13 tháng 12 năm Canh Thìn niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880) khánh được đúc lại.

Hiện nay chùa còn lưu giữ 7 lệnh chỉ của chúa Trịnh. Các lệnh chỉ trên được đóng thành sách, kích thước 4cm x 26cm, chất liệu giấy dó, đã rách nát mất một số tờ, lệnh chỉ vẫn giữ nguyên được dấu của vua Lê. Trong các bia đá hiện còn ở chùa có tấm bia dựng năm Tự Đức 19 (1868) còn ghi lại 9 lệnh chỉ trên. Như vậy so với lệnh chỉ hiện còn đã thất lạc mất 2 đạo. Theo tấm bia này thì lệnh chỉ sớm nhất là năm thứ 6 đời Lê Phúc Thái (1648). Nội dung xem bia “Thu Quế xã tam phủ từ bi ký”

V. HOÀNH PHI CÂU ĐỐI

Chùa hiện nay còn 3 bức hoành lớn, không còn đôi câu đối nào. Trong khi tìm hiểu khu di tích này, đọc Sơn Tây chí (5) chúng tôi thấy sách này còn ghi lại đôi câu đối như sau:

Nam hải kỷ dương trần bất ký hà niên đình ngọc giá .
Đông A lai nhập địa phương truyền thử nhật khởi châu cung.

Tạm dịch:

Nam Hải mấy bận bụi tung chẳng biết năm nào dừng xe ngọc
Đông A từ khi nhập tịch truyền rằng ngày ấy dựng cung châu.

Như trên đã trình bày, tư liệu Hán Nôm ở khu di tích Đình Giá tuy không nhiều song đa dạng về mặt thể hiện. Nó có giá trị nhất định góp phần tìm hiểu về mặt lịch sử, văn hoá, nghệ thuật địa phương trong lịch sử văn minh Đại Việt.

CHÚ THÍCH

(1) Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều - Nxb KHXH, Hà Nội, 1974, tr.134.

(2) Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán triều Nguyễn. Phạm Trọng Điểm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Nxb KHXH, 1971. T 4 tr.231.

(3) Theo thần phả thôn Tháp xã Song Phượng, huyện Đan Phượng ngoại thành Hà Nội.

(4) Theo Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân xã Song Phương.

(5) Sơn Tây chí - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ký hiệu A.1528, tờ 40b-41a.

TB

PHẢ GHI TRÊN ĐÁ CỦA DÒNG HỌ NGÔ Ở ĐÔNG ĐÔ

NGUYỄN HUY THỨC

Xã Nam Hồng huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội có hai họ Ngô: họ Ngô xóm Đoài và họ Ngô xóm Đia. Trước cách mạng tháng Tám xóm Đoài thuộc xã Đông hồ huyện Kim Anh phủ Thiên Phúc tỉnh Bắc Ninh nên dân địa phương quen gọi dòng họ Ngô xóm Đoài là họ Ngô Đông Hồ. Tổ tiên dòng họ Ngô này có nhiều người đỗ đạt làm quan, trong đó có Ngô Luân (thế kỷ XV) đậu tiến sĩ khoa Ất Mùi (1475) làm chức Tham tụng Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ thượng trụ quốc. Lúc trí sĩ, ông được tặng Thái phó, có chân trong “Tao đàn nhị thập bát tú” đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) giữ chức Đông các hiệu thư cùng với Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận phê bình thơ trong Tao đàn. Tác phẩm của ông còn lại 12 bài thơ hoạ thơ Lê Thánh Tông chép trong Toàn Việt thi lục.

Tiếp đến là Ngô Thầm (thế kỷ XV), em của tiến sĩ Ngô Luân, thân sinh ra trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu và là ông nội các tiến sĩ Ngô Điền, Ngô Địch. Ông đậu Bảng nhãn khoa Quý Sửu (1493) trước Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, chức Hàn lâm viện thị thư tặng Thái bảo có chân trong “Tao đàn nhị thập bát tú” của Lê Thánh Tông (1460-1497). Tác phẩm của ông còn 5 bài thơ hoạ Quỳnh uyển cửu ca chép trong Toàn Việt thi lục.

- Ngô Miễn Thiệu đậu trạng nguyên khoa Mậu Dần, (1518) chức Tham tụng Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ nhập nội inh diên Trình Khê hầu thượng trụ quốc, tước Quận Công. Theo cuốn gia phả họ Ngô Đông Đồ hiện có tìm bài thơ “Vịnh bèo” là sáng tác của ông(1).

- Ngô Điền đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất (1550), chức Tham tụng Thượng thư bộ Lễ, tước Nhân Sơn hầu.

- Ngô Địch đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556), chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Bồi tụng hữu thị lang bộ Lễ, tước Lãnh hải hầu.

Một dòng họ mà có năm cha con ông cháu cùng đậu tiến sĩ kề nhau; hai anh em cùng có chân trong hội Tao đàn của Lê Thánh Tông. Thật là hiếm có. Và đây cũng là lý do khiến nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đang chú ý tìm hiểu, khai thác về dòng họ này.

Để các nhà nghiên cứu có thêm tài liệu tham khảo, dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu phả ghi trên đá của dòng họ Ngô ở Đông Đồ.

Tấm bia đá này được dựng ngay trên nền cũ của từ đường họ: nay là nhà cụ trưởng họ Ngô Văn Lương(2). Tấm bia đá này là một trong các di vật quí của dòng họ nên rất được trân trọng giữ gìn. Bia gồm hai mặt cùng một kích thước, khổ 0,70m x 1,10m.

Mặt trước bia chạm nổi hình “Lương long triều nhật” hai con rồng chầu về mặt trời), hình rồng được khắc hoạ cách điệu uyển chuyển mềm mại. Chính giữa phía dưới là bốn chữ lớn nổi “Túc hải nguyên trừng” (Nguồn lắng bể yên). Cùng hàng với dòng chữ trên, ở bên trái và bên phải chạm hoa thị bốn cánh trong hình tròn và chữ thọ trong khuôn chữ nhật đối xứng với nhau. Diềm và chân bia không chạm trổ. Trong lòng bia khắc 21 dòng chữ Hán, mỗi dòng từ 20 đén 45 chữ.

Mặt sau trán bia chạm “Song phượng triều nguyệt” (hai con phượng chầu về mặt trăng) có xen lẫn áng mây. Phía dưới là bốn chữ Hán nổi “Trùng huyên thân thiên” (Lại cùng vui vẻ với cha mẹ trời đất).

Phần trang trí có khác mặt trước chút ít về vị trí: ở phía trái dòng chữ tên bia, ngoài là chữ “thọ” khuôn chữ nhật, trong là hoa thị trong hình tròn. Góc bên phải cũng hai hình trang trí ấy đỗi xứng với góc trái. Diềm và chân bia không có trang trí gì. Lòng bia khắc 25 dòng chữ Hán lẫn Nôm, dòng có từ 6 đến 48 chữ.

Dịch nghĩa (3):

Nguồn lắng bể yên.
(Mặt trước)

Bài phả ghi trên đá của họ Ngô xóm Đoài xã Đông Đồ, huyện Kim Anh, phủ Thiên Phúc, tỉnh Bắc Ninh.

Tôn miếu là nơi để tỏ lòng tôn kính tinh thần tổ tiên. Lễ gọi là nguồn gốc của sự báo đền cội rễ, hết lòng thành kính tận mọi lễ nghi. Họ ta vốn là người Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh. Cụ thủy tổ thiên táng vào đất phúc ở xã Tam Sơn. Từ đó về sau đại khoa nối tiếp, nhân khẩu phát triển tới nay đã hơn mười đời. Các chi ngành phân chia như Đào Quán ở Bảo Lộc, Thụy Lôi ở Yên Phong, Viên Nội ở Đông Ngạn(4) đều có phả ký đầy đủ. Một chi ở xóm ta từ cụ tổ đời thứ sáu là Ngô Quý Công tên thụy là Thuần Phác tiên sinh làm chức Tri châu châu Lang Chánh(5). Các dòng dần dần khai triển. Vào năm Nhâm Tý (1852) sửa lại từ đường bèn thuật lại đầy đủ quan tước của các đời. Tên thụy hiệu từ cụ thủy tổ tới nay ghi vào gia phả bằng đá để đời sau dựa vào đó để biết thực hư mà thờ tự, may chi không phụ công đức mở mang bồi đắp. Há dám nói là đầy đủ hay còn thiếu sót? Nay ghi:

Thủy tổ khảo tên chữ là Hải Sơn, tên thụy là Trường Khánh: bà thủy tổ tên hiệu là Từ Hoa.

Thủy tổ khảo Ngô Công tên chữ là Thiền Nho: bà thủy tổ tên chữ là Từ Nghiêm.

Tiên tổ khảo làm quan chức Tri uy tướng quân Cẩm Y vệ đình uý được tặng Thái bảo tên thụy là Quân Hiên; bà tổ tên hiệu là Từ Thuận.

Cụ cao tổ đậu Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1475) làm quan chức Tham tụng Lễ bộ thượng thu kiêm Đông các đạihọc sĩ, trí sĩ được tặng Thái pphó. Ngô tướng công tên chữ là Nham Sơn; bà tổ tên hiệu là Từ Đức.

Cụ cao tổ khảo đậu Bảng nhãn khoa Quý Sửu (1493) làm quan chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Hàn lâm viện thị thư được tặng Thái bảo. Ngô tướng công tên chữ là Đông Sơn, tên thụy là Hoè Hiên; bà tổ tên hiệu là Trinh Thảo.

Cụ cao tổ khảo đậu Trạng nguyên khoa Mậu Dần (1518) làm quan chức Tham tụng Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên tước Trình khê hầu thượng trụ quốc tặng tước quận công Ngô tướng công tên chữ là Thuần Nhã, tên thụy là Ngung Sơn; bà tổ tên hiệu là Đoan Huệ.

Cụ cao tổ khảo đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất (1550) làm quan chức Tham tụng Lễ bộ thượng thu tước nHân sơn hầu, Ngô tướng công tên thụy là Trúc Am, bà tổ tên hiệu là Từ Ý.

Cụ cao tổ đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556) làm quan chức Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Bồi tụng Lễ bộ hữu thị lang tước Lãnh hải hầu. Ngô tướng công tên chữ là Mặc Hiên, tên thụy là Hương Sơn; bà tổ tên hiệu là Thục Tiết.

Cụ Cao tổ khảo làm quan chức Triều Liệt đại phu kiêm Thông chính sứ Ngô Quý Công tên chữ là An Sơn; Bà tổ tên hiệu là Từ Ân.

Cụ cao tổ khảo làm quan chức Hiển cung đại phu Tham chánh sứ. Ngô Quý Công tên chữ là Yên Sơn; bà tổ tên hiệu là Từ Vinh.

Cụ cao tổ khảo làm quan chức Tri châu châu Lang Chánh Ngô tướng công tên chữ là Hoa Sơn, tên thụy là Thuần Phúc; bà tổ tên hiệu là Từ An; bà Chánh thất tên hiệu là Diệu Chất; bà á thất tên hiệu là Hiền Tiết; bà thữ thất tên hiệu là Mỹ Hảo; bà trắc thất tên hiệu là Diệu Tính.

Cụ cao tổ khảo làm quan chức Kim tử Vinh lộc đại phu tham nghị tán trị thừa chánh sứ xứ Thái Nguyên tước Kim Ngạn tử Ngô tướng công tên chữ là Đông Sơn, tên thụy là Thuần Nhất; bà tổ người họ Hạ tên hiệu là Huệ Mỹ; bà á thất tên hiệu là Từ Trực.

Cụ cao tổ khảo Ngô Quý Công tên chữ là Quảng tâm.

Cụ cao tổ khảo Ngô Quý Công tên chữ là Kính Tâm; bà tổ tên hiệu là Từ Chính, tên hiệu là Thừ Thuận.

Cụ cao tổ khảo làm quan chức Hữu dụ đức quản hiệu cơ huyện Châu định, tước Lý phương có tên hiệu là Thanh Sơn, tên thụy là (...)(6).

Tổ khảo tên chữ là Mỹ Thuần.

Tổ khảo tên chữ là Thuần Tâm.

Tổ khảo làm quan chức Đồng tri phủ Trường Khánh Ngô Quý Công tên chữ là Lam Sơn, tên thụy là Thuần Đôn; bà tổ người họ Nguyễn tên hiệu là Từ Pháp; bà á thất tên hiệu là Diệu Hương.

Tổ khảo Ngô Quý Công tên hiệu là Đống Sơn.

Tổ khảo Ngô Quý Công làm quan chức huyện thừa tên hiệu là Đồ Sơn, tên thụy là Thuần Hậu.

Tổ khảo kính nhận chức Tri sự tên chữ là Viên Sơn, tên hiệu là Thái Mỹ; bà tổ người họ Trần tên hiệu là Diệu Thực.

Tổ khảo kính nhận chức Tri sự Ngô Quý Công tên chữ là Hiên Sơn, tên hiệu là Trung Bình; bà tổ người họ Phạm tên hiệu là Diệu Tuyền.

Ngô Công tên hiệu là Trịnh Mẫn giỗ ngày 25 (...).

Ông tổ nuôi tước Hưng quận công Dương tướng công tên chữ là Phúc (...) tên thụy là (...)

Hưng quận công Trần tướng công tên chữ là Quốc Cơ, tên thụy là Trung Hậu.

Ông tổ ngoại tên chữ là phúc Tính (...)

Tổ khảo Trần tướng công tên chữ là Thuần Phác; bà tổ tên hiệu là Mỹ Hạnh.

Cao tổ khảo Trần Quý Công tên chữ là Phúc Tiên; bà tổ tên hiệu là Ý Thiên.

Tổ ngoại: cao tổ khảo xã Đông Đồ người họ Hạ tên chữ là Phúc Kiểm; bà tổ tên hiệu là Từ Xuân.

Cụ cao tổ khảo người họ Hạ; bà tổ tên hiệu là Trinh Thuận; bà tổ tên hiệu là Đoan Huệ.

Cụ cao tổ khảo người họ Nguyễn tên chữ là Đức Nghiêm; bà tổ tên hiệu là Diệ Tùng.

Lại cùng vui vẻ với cha mẹ trời đất.
(Mặt sau)

Bia ghi ruộng tế hậu tổ. Việc thờ cúng hậu tổ ai nấy đều coi trọng. Vì thế cho nên tế thì phải có ruộng mà thờ không có nơi cũng dễ đổi thay, đó là điều có thực. Nó cũng chính là lý do việc khắc bia vậy. Nhà ta tổ tiên gây dựng các chi phái phát triển. Sự tôn kính ngày càng được quý trọng đến nơi đến chốn, khói hương nghi ngút hợp với sự hưởng tự của tổ khảo ở nơi tôn thờ từ. Nói rằng nếu như hương khói của một nhà riêng, sao bằng mũ áo của cả dòng họ được. Báo đền đức tổ mà việc đáp lại công ơn cha mẹ cũng đạt được. Việc hưởng tự cùng với việc con cháu sau này tôn kính tổ thiên có quan hệ với lẽ thường của tổ tiên, với con cháu đời sau.

Ôi! Há dám coi nhẹ. Nay kính đem tôn hiệu ngày giỗ, ruộng giỗ chạm khắc vào đá để mãi truyền cho đời sau. Nếu như về sau có kẻ nào dám đổi thay phế bỏ, thiếu sót lễ nghi xin thần linh tổ tiên chu khiển không tha thứ. Nay ghi:

Tôn hiệu, ngày giỗ, ruộng tế ghi sau đây:

Ngô công tên chữ là Thông Liên, giỗ ngày 11 tháng 10.

Một thửa xứ Cửa Cầu(7) 12 thước, đông giáp gò đất, tây giáp ruộng công.

Một thửa xứ Đầu Bát ba sào, ba thước, đông giáp ruộng cụ Ngân, tây (...).

Ngô công tên chữ là Phúc Trù, cụ bà người họ Phạm tên hiệu là Diệu Tường. Một thửa xứ Cửa bảy sào một thước, đông giáp đường nhỏ, tây giáp ruộng chú Thập. Một thửa xứ ấy một sào một thước, đông giáp đường nhỏ, tây giáp bờ gò.

Một thửa xứ ấy, hai sào ba thước, đông giáp ao công, tây giáp hào Tiến.

Ngô công tên chữ là Mỹ Hậu, giỗ ngày mồng 2 tháng 5.

Một thửa cửa Nghè, đông giáp ruộng công, tây giáp đường nhỏ, ba sào.

Một thửa xứ Cầu Mộc (...). Một thửa xứ ấy một sào, đông giáp đường nhỏ, tây giáp Chánh Ngữ. Một thửa xứ ấy ba sào, đông (...) tây giáp thị Căn. Một thửa cửa Đền bốn sào, đông giáp bản tộc, tây giáp cụ Trùm. Một thửa xứ ấy, hai sào, đông giáp đường nhỏ, tây giáp bản tộc. Cụ bà họ Đoàn tên hiệu là Diệu Khánh.

Một thửa cửa Nghè một sào một thước sáu tấc sáu phân.

Một thửa xứ ấy bốn sào chín thước, chín tấc.

Một thửa xứ đồng Sau hai sào chín thước, đông giáp chủ cũ, tây giáp tư Nhã. Một thửa xứ ấy, hai sào sáu thước, đông giáp cụ Lại, tây giáp chủ cũ.

Ngô công tên chữ là Trực Kỳ, giỗ ngày mồng 10 tháng 5.

Một thửa xứ Con Voi hai sào, đông giáp ruộng giáp nhà, tây giáp ruộng Văn Bổ. Một thửa xứ Đầu Bát một sào hai thước.

Ngô công tên chữ là Khắc Thục, giỗ ngày mồng 5 tháng 12.

Một thửa xứ Đầu Đìa, ba sào, đông giáp ruộng Thị Tăng, tây giáp đường nhỏ. Một thửa xứ điếm Mới, một sào ba thước, đông giáp chủ ruông, tây giáp ruộng bà hậu. Cụ bà người họ Phạm tên hiệu là Diệu Tiên, giỗ ngày 16 tháng 3.

Sau từ chỉ một sào, đông giáp đường nhỏ, tây giáp ruộng Văn Quyên. Một thửa xứ Nậm gia một sào mười thước, đông giáp ruộng Văn Túc tây giáp ruộng Lý hạnh. Một thửa xứ ấy một sào năm thước.

Ngô thị tên hiệu là Diệu Tại, một thửa ở Lý Khẩu, tây giáp ruộng Lý Khẩu.

Ngô Thị tên hiệu là Diệu Hiên một thửa xứ Đồng Đìa một sào mười thước. Một thửa xứ Cầu Mái mười hai thước.

Ngô công tên hiệu là Tảo Phu, giỗ ngày 16 tháng 3.

Một thửa xứ Ngưu, hai sào mười ba thước, đông giáp ruộng Chú Thập, tây giáp đường nhỏ.

Ngô công tên chữ là Phúc Trực, giỗ ngày mồng 10 tháng giêng.

Ngô công tên chữ là Phúc Thạch, giỗ ngày 14 tháng 4.

Ruộng công một thửa hai sào năm thước xứ cầu Mái, đông giáp Cống Trúc, tây giáp Cống Tăng.

Ngô công tên hiệu là Thuần Trực giỗ ngày mồng 10 tháng Chạp. Cụ bà người họ Nguyễn tên hiệu là Diệu Ân, ruộng hai thửa, một sào bốn thước, đông giáp đường nhỏ, tây giáp Văn Lâm. Một thửa ruộng để mộ của tổ tiên ở đồng Đìa, mười hai thước, đông tây giáp thôn Đìa. Một chiếc ao ở trước từ đường cho trưởng họ giữ. Ruộng công ở xứ đồng Điếu, ba thửa liền nhau là tám sào bảy thước, đông giáp đường nhỏ, tây giáp ruộng Văn Lễ. Một thửa ở xứ trước cầu Mái mười ba thước... đông tây giáp đường nhỏ.

Lập bài văn bia ngày 15 tháng 3 năm Tự Đức 7 (1854).

Người trong họ là Ngô Đình Thư viết, Ngô Dưỡng kính soạn.

Hậu tổ tên chữ là Diệu Khánh cho trưởng họ một thửa ruộng đèn hương.

Bản họ tu sửa từ đường. Ai tiến cúng ba quan được ghi tên. Từ nay về sau các ngày lễ tiết hằng năm được phối hưởng.

Ngô công tên chữ là Quách Sơn tên thụy là Thuần Đạo làm chức huyện thừa huyện Vĩnh Khang; Cụ bà người họ Phạm tên hiệu là Diệu Cần.

Ngô công tên chữ là Nam sơn, tên hiệu là Thụy Khánh; Cụ bà người họ Trần tên hiệu là Diệu Trinh.

Ngô công tên chữ là Đức Võng, tên hiệu là Trưng Bình; cụ bà người họ Trần tên hiệu là Diệu Thường, cụ họ Đỗ tên hiệu là Diệu Nga, cụ họ Trần tên hiệu là Diệu Minh; Ngô thị hiệu Diệu Minh.

Ngô công tên chữ là Trần Quản, tên hiệu là Trung Thuần; cụ bà người họ Nguyễn tên hiệu là Diệu Cần.

Ngô công tên chữ là Trung Định; cụ bà người họ Lê tên hiệu là Diệ Lực; cụ họ Nguyễn tên hiệu là Diệu Y.

Ngô công tên chữ là Phúc Thái; cụ bà người họ Đỗ tên hiệu là Diệu Minh.

Ngô công tên chữ là Trung Thực.

Ngô công tên chữ là Phúc Xuân; cụ bà người họ Nguyễn tên chữ là Từ Đức.

Ngô công tên tên chữ là Phúc Chí; cụ bà nguời họ Đỗ tên hiệu là Diệu Viên.

Ngô công tên chữ là Phúc Khang; cụ bà tên hiệu là Diệu Lam.

Ngô công tên chữ là Cẩn Tín; cụ bà người họ Nguyễn tên hiệu là Diệu Ngàn.

Ngô công tên chữ là Đức Uẩn, tên hiệu là Phúc Hợp; cụ bà người họ Ngô tên hiệu là Diệu Vạn; cụ á thất tên hiệu là Diệu Nhiên; cụ á thất người họ Hạ tên hiệu là Diệu Lợi: cụ đích thất cụ họ Ngô người họ Nguyễn tên hiệulà Mỹ Thân.

Cụ Chán thất cụ họ Ngô người họ Nguyễn tên hiệu là Mỹ Thiện.

Cụ á thất cụ họ Ngô tên hiệu là Mỹ Vi.

Ngô công tên chữ là Phúc Lệnh.

Ngô công tên chữ là Phúc Điển.

Ngô công tên chữ là Phúc Quyên.

Ngô công tên hiệu là Thuần Nhã: cụ bà người họ Đỗ tên hiệu là Diệu Thuận.

Ngô công tên chữ là Phúc Lưu; cụ bà người họ Lê tên hiệu là Diệu Trường.

Ngô công tên hiệu là Đình Tú.

Ngô công tên hiệu là Đình Nhâm.

Ngô công tên chữ là Mỹ Trực.

Ngô công tên chữ là Thuần Trực.

Ngô thị tên hiệu là Diệu Cần.

Ngô thị tên hiệu là Xuân Hoa.

Ngô công tên hiệu là Tảo Du, giỗ ngày 20 tháng 4.

Ngô công tên hiệu là Tảo Linh Ngô Văn Bằng. Ngô thị tên hiệu là Xuân Dương giỗ ngày mồng 8 tháng giêng. Một thửa ruộng ở xứ cửa Nghè ba sào đông giáp ruộng hậu Phật, tây giáp Văn Tây.

Ngô thị tên hiệu là Diệu Ý.

Ngô thị tên hiệu là Diệu Quần.

Ngô thị tên hiệu là Diệu Phú. Ruộng hậu một thửa ở xứ cửa Nghè ba sao, đông giáp đường nhỏ, tây giáp cụ Thập.

Ngô công tên hiệu là Tảo Du.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Thạch Can: “Ai là tác giả bài hoạ thơ Vịnh bèo”, báo Tổ quốc 10-1993. Căn cứ vào tư liệu ghi trong cuốn gia phả hiện còn được bảo tồn tại dòng họ Ngô Đông Đồ này thì bài hoạ thơ “Vịnh bèo” là của Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu. Xin chép lại bài thơ đó:

Cẩm lân mật mật khẳng duy châm,
Diệp đế liên căn khởi kế thâm.
Thường dữ bạch vân tranh thủy diện,
Khẳng giao hồng nhật chiếm ba tâm.
Thiên trùng lãng đã thành nan phá,
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm.
Ngư miết giao long tàng giá lý,
Thái công vô kế hạ can tầm.

Những chữ khác ở mấy câu trên (chữ khẳng ở câu thứ nhất; chữ diệp đế ở câu thứ hai) của bài này không xa nghĩa lắm với những chữ ở bài thơ lâu nay được coi là của Giáp Hải. Chỉ có bốn chữ ở câu thứ bảy là ngư, miết, giao, long, (cá, ba ba, thuồng luồng, là khác với bài Giáp Hải).

(2) Theo cụ Lượng, trước đây ngôi từ đường họ rất trang nghiêm, nhà thờ lớn, tế khí đầy đủ. Nhưng trong thời kỳ chống Pháp đã bị giặc Pháp tàn phá nặng nề. Từ đường bị đốt cháy, toàn bộ đồ thờ trang trí bị hủy hoại theo.

(3) Vì khuôn khổ bài viết có hạn, xin bỏ phần phiên âm.

(4) Các địa danh này nay đều thuộc địa phận tỉnh Hà Bắc.

(5) Địa phận tỉnh Thanh Hoá.

(6) Mất 2 chữ. Từ đây trở xuống, các chữ bị mất hoặc quá mờ trong nguyên bản đều được đánh dấu bằng 3 chấm đặt giữa hai ngoặc đơn.

(7) Phần này có xen nhiều chữ Nôm chỉ tên đất như xứ Cửa Cầu, bờ gở... tên người như cụ Ngân, chú Thập...

TB

HIỂU BIẾT CỦA LÊ QUÍ ĐÔN VỀ
KIM THẠCH VĂN

ĐINH CÔNG VĨ

Lê Quí Đôn chưa từng viết sách chuyên bàn về kim thạch văn. Song đây đó, trong nhiều tác phẩm của ông, vấn đề kim thạch văn vẫn thường xuyên được đề cập. Những ý kiến, phát biểu của ông về kim thạch văn có thể gom lại thành ba mảng sau:

1. Về vật liệu để khắc chữ:

Sách Vân đài loại ngữ (trở xuống đều viết VĐLN) cho thấy Lê Quí Đôn biết khá rõ các nguồn vật liệu kim thạch phân bố trên đất nước ta. Mục “Phẩm vật” sách này, điều 96 cho biết những địa phương có đá quí khả dĩ dùng để khắc chữ. Ví dụ: “ở núi An Hoạch, huyện Đông Sơn (...) có đá quí. Phạm Ninh, thái thú Dự Chương nước Tấn thường sai lại viên đến lấy về làm khánh. Bài minh của Thượng thư Lê Hữu Kiều cũng ca ngợi: “Hoạch Sơn loại đá kêu vang, sắc xanh màu biếc mịn màng đẹp tươi”. Cũng ở mục “Phẩm vật”, các điều 74, 75, 76 và ở Kiến văn tiểu lục (trở xuống đều viết KVTLN) “Phong vực”. “xứ Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang”, Lê Quí Đôn đi sâu nghiên cứu chất liệu kim thạch, đồng thời bàn về phương pháp tìm kiếm, khai luyện các chất liệu đó.

Lê Quí Đôn còn có những hiểu biết đáng kể về các loại hình kim thạch văn. Sách VĐLN “Vựng điển”, điều 52, 53 cho thấy ý kiến của ông về “ấn chương học” (ấn triện in chữ). Cũng ở sách đó, mục “Phẩm vật”, điều 77 ông nói về “cổ tiền học” (các loại tiền bạc khắc chữ). Những nhận xét của Lê Quí Đôn về “cổ tự học”, về ngành “ấn loát” thể hiện rõ những tri thức của ông về các loại chữ cổ được in khắc, về chất liệu in ấn, được ghi trên nhiều trang sách khác(1). Lê Quí Đôn còn có những hiểu biết sâu sắc về các loại hình kim thạch khác như chuông, bia...

2. Về cách sưu tầm:

Lê Quí Đôn đặc biệt chú ý tới việc đi điền dã. Ở KVTLN mục “Phong vực xứ Sơn Tây” cho thấy Lê Quí Đôn đã vượt qua bao hiểm trở của núi Tam Đảo để tìm ra hòn đá có khắc chữ(2). Xem danh mục kim thạch Lý Trần ở KVTLN “Thiên Chương” ta có thể thấy được ông đã thực hiện tốt một trong những phương châm của việc sưu tầm kim thạch văn là muốn sưu tầm thạch văn là muốn sưu tầm những văn bản quí hiếm, thì phải kên nhẫn đi xa, như từ chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, gần Thăng Long, ông từng đi tới chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở Ái Châu.

Lê Quí Đôn còn chú ý việc sưu tầm tư liệu ở nước ngoài. Có thể ông là sứ giả đầu tiên của nước ta tiến hành thu thập kim thạch văn ở Trung Quốc. Ở VĐLN “Âm tự”, điều 37, ông có nói: “Trống đá nguyên ở đất Trần Thương”. Ông còn phát hiện về quá trình di chuyển của nó đến “cửa kích môn nhà Đại học”.

VĐLN “Âm tự”, đã ghi lại nhận thức mẫn tiệp của ông với loại trống này là; “Sách tái ký của Tô Húc chép: “Thạch cổ văn gọi là Liệp kệ, cộng 10 cái trống đã, chữ khắc ở trống đó là lối triện của Sử Trứu, dựng từ đời Chu Tuyên Vương”. Cũng ở sách này, phần vật, điều 98 còn ghi lại sự tổng kết, so sánh bia Việt với bia Trung Hoa của ông.

Ngoài việc sưu tầm các tài liệu kim thạch văn ở Bắc Kinh, Lê Quí Đôn còn sưu tầm các tài liệu kim thạch văn ở các địa phương khác trên đất Trung Hoa mà ông đi qua.

Trong phần chú thích ở mục “âm tự”, điều 94 sách VĐLN ông viết: “Núi Cú Lũ tức Nam Nhạc Hoành Sơn, có bia Thần Vũ trên chỏm gồm 73 chữ. Người vùng ấy thường rập bài bia bán cho du khách. Khi tôi đi sứ qua đó, cũng mua được một bản, chữ to bằng cái chén”.

Lê Quí Đôn đặc biệt lưu ý tới việc sưu tàm các tư liệu kim thạch văn có niên đại sớm, nhất là vào thời Lý Trần. Khi sưu tầm loại này, Lê Quí Đôn chú ý quan sát chu đáo, tỉ mỉ về tên gọi, chức danh, tác giả, thời gian, địa điểm in khắc, vật thể, thể loại văn học của các dị văn trên đồng đá. Có thể xem bảng danh mục dưới đây mà chúng tôi đã tổng hợp từ nhiều bài văn kim thạch Lý Trần do Lê Quí Đôn đã thu thập được ghi ở KVTLN:

TT TÁC GIẢ THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM THỂ LOẠI VẬT THỂ
1 Thày chùa Huệ Hưng Năm Long Phù Nguyên Hoà thứ 9 (1109) Chùa Thiên Phúc núi Phật Tích Minh Chuông chùa
2 Thầy chùa Pháp Bảo Năm Hội Trường Đại Khánh thứ 9 (1118) Chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh ở Ái Châu Minh Bia chùa
3 Pháp sư Lê Kim Năm Hội Phong thứ 1 (1092) Tháp Hội Khánh núi Lăng già Minh Bia chùa
4 Dĩnh Đạt Năm Duệ Vũ thứ 3 (1122) Chùa Viên quang đề Minh Chuông và bia chùa
5 Mai Công Bật, Viện ngoại lang bộ binh Năm Duệ Vũ thứ 2 (1121) Tháp Sùng Thiện diên linh núi Đội sơn, H.Duy Tiên Bia Chuông và bia chùa
6 Thày chùa Tháp Bảo Năm Duệ Vũ thứ 7 (1126) Chùa Ngưỡng sơn Linh xứng H. Vĩnh Phúc (Vĩnh Lộc Thanh Hoá) Bia Bia chùa
7 Nguyễn Công Diễm (Gia Khánh Đỗ Anh Vũ) Năm Đại Khánh thứ 4 (113) Chùa Diên Phúc, thôn Cổ Việt Bia Bia chùa
8 ? Đời Trần Anh Tông (1293-1314) Bổng Hương thuộc Hồng Lộ Minh Bia di đà Bảo khám
9 Văn Túc vương Trần Đạo Tái Năm Hưng Long thứ 2 (1294) Chùa Đại Bi Minh Chuông chùa
10 Sa môn Sùng nhiên ? Chùa Đại Bi xã Mộ Đạo Bia Chuông chùa
11 Đặng Lũn Chủng, Hàn lâm thị giảng Năm Nguyên Khánh thứ 7 (1320) Chùa Sùng Quang xã Lam cầu Ma Lang Minh Chuông chùa
12 Trần Chấn Khanh, Ngự sử trung tán Năm Khai Hựu thứ 4 (1343) Chùa Diên Thánh Báo Án ở phường Đông Ngạc Minh Chuông chùa
13 Trương Hán Siêu Tả thị lang Năm Đại Phong thứ 3 (1343) Tháp Linh tế núi Dục Thúy Tháp
14 Hồ Tông Thốc Năm Xương Phù thứ 7 91383) Hương An Đăng Minh Bia viện Báo Ân
15 Đỗ Nguyên Chương, hàn lầm quyền học sĩ Năm Long Khánh thứ 5 (1383) Chùa Phúc Minh, hương Man Đế Minh Bia chùa
16 Phạm Sư Mạnh, Hữu bộc xạ Năm Thiên Khánh thứ 3 (1372) Nghiêm núi Văn Lỗi Chùa Sùng Đại bi nham

Chú ý: Riêng Dĩnh Đạt, vừa có bia lẫn chuông khắc chữ, nên số thứ tự có 16 tên người, nhưng số bia chuông=16+1=17.

3. Về giá trị sử dụng của kim thạch văn:

+ Giá trị văn học: Những tác phẩm kim thạch văn thời Lý Trần được Lê Quí Đôn coi là có giá trị ngang những tác phẩm văn học chính thống. Lần đầu trong KVTLN, ông xếp chúng vào mục “Thiên chương” bên cạnh các thể loại văn học thông dụng và quan trọng bấy giờ, coi đây là một trong những nguồn bổ sung thiết yếu cho thơ văn Lý Trần. Con số 17 ở bảng danh mục trên có lẽ chỉ là con số ban đầu. Có thể sự hiểu biết của Lê Quí Đôn còn mở rộng thêm với những văn bản kim thạch có giá trị khác sưu tập được để bổ sung vào bộ sách đồ sộ hơn KVTLN Hoàng Việt văn hải đã mất.

Về mặt nghệ thuật văn học, Lê Quí Đôn đã đánh giá các thể loại kim thạch văn thời Lý Trần ở “Thiên chương” là: “Tôi thu nhặt những văn còn sót lại ở đồ đồng và bia đá được mấy chục bài thì thấy văn đời Lý lối biền ngẫu, bóng bẩy, đẹp đẽ còn giống thể văn nhà Đường, đến thời nhà Trần thời lưu loát chỉnh tề giống khẩu khí người nhà Tống”.

Lê Quí Đôn không những là người phát biểu về kim thạch văn, mà ông còn là người trực tiếp viết về kim thạch văn nữa(3).

+ Giá trị sử học: Trong Tôn chỉ và ý nghĩa trọng yếu của việc soạn sử, Lê Quí đôn từng nhắc tới ý kiến của Lục Du về việc sử dụng “bia ký mộ chí” vào sử.

Với Lê Quí Đôn, tất cả các thể loại như thơ ca khắc đá, văn ở tháp, văn ở chuông, ở bia miếu, bia tiến sĩ cũng như bia mộ đều có giá trị sử dụng với sử học.

Chẳng hạn ở KVTLN “Thiên chương”, Lê Quí Đôn đã nói tới bài thơ của Phạm Sư Mạnh đề núi Thạch Môn, theo cổ thể. Trong sách An Nam chí của người đời Minh có chép bài thơ này, nhưng bỏ mất một nửa. Lê Quí Đôn tìm ra bài thơ khắc đá đó bổ sung cho cái nửa bỏ mất chưa chép đủ ở quyển sử An Nam chí.

Nói chung, đối với các thể loại kim thạch thời Lý Trần, theo tài liệu đến nay ta có thể biết, thì Lê Quí Đôn sử dụng vào sử học phong phú hơn thời sau. Phải chăng có thể vì các tư liệu Lý Trần, sau tàn phá của giặc Minh, còn lại quá ít nên những nhà nghiên cứu như Lê Quí Đôn phải căn cứ vào kim thạch để tìm hiểu nhiều hơn? Như bảng danh mục trên cho thấy Lê Quí Đôn đã huy động nhiều loại hình kim thạch có ở thời Lý Trần đưa vào KVTLN như: chuông chùa, chuông và bia chùa, bia chùa, bia tháp, bia Di Đà Bảo Khám, bia Viện Báo Ân, Đại bi nham; với nhiều thể loại thời này như: văn ký, văn minh, văn minh trên chuông, văn minh trên bia, văn ký trên tháp, văn ký trên Đại bi nham...

Còn với các thể loại kim thạch văn thời Lê thì tuy đối tượng kim thạch dùng cho sử học có thể hạn chế hơn nhưng ý thức dùng kim thạch văn phục vụ cho việc viết sử của Lê Quí Đôn vẫn rất rõ. Trước Lê Quí Đôn, ngay từ thế kỷ 15, Ngô Sĩ Liên từng chép 2 bài bia của Trương Hán Siêu, Lê Quát trong Đại Việt sử ký toàn thư. Nhưng với nhà sử học họ Ngô, công việc đó còn ngẫu nhiên và ít ỏi trong giới hạn của văn bia. Còn ở Lê Quí Đôn việc làm này có ý thức rõ rệt, thể hiện ở lời tựa Lê triều thông sử lẫn tôn chỉ và ý nghĩa trọng yếu của việc soạn sử khi ông viết bộ thông sử đời Lê. Ở đó, Lê Quý Đôn coi “văn khắc vào bia vào đỉnh là một nguồn sử liệu đứng cùng hàng và có giá trị quan trọng như các sử liệu cần thiết khác, chẳng hạn “Liệt truyện”, “Gia phả”, “Bắc sử”... Ông cho rằng việc xét những lời trong bia ký mộ chí là một công việc đáng giá của người chép sử.

Với bia đời Lê, đến nay dựa vào các tài liệu còn lại trên thực tế, ta có thể biết Lê Quí Đôn thường sử dụng 4 loại bia sau vào sử học:

a) Bia miếu: Phủ biên tạp lục (trở xuống đều viết PBTL ) “Sự khai thiết khôi phục hai xứ Thuận Hoá, Quảng nam” cũng như ở KVTLN. “Tài phẩm” đều cho thấy việc Lê Quí Đôn tìm thấy văn bia của Nguyễn Như Đỗ ở miếu thờ Lê Khôi mà biết thêm cái uy dũng đặc biệt của nhân vật họ Lê này đã “trấn giữ Hoá Châu” “yên phương Nam”. Lê Quí Đôn đã căn cứ vào bia miếu để có được những dòng sắc nét về nhân vật này trong sử sách cuả mình.

b) Bia mộ: Lê Quí Đôn chú ý tới một tác giả có sở trường: Trình Thuấn Du. Ở văn bia do Trình Thuấn du soạn, sự chú ý của Lê Quí Đôn hướng vào vài chi tiết, bổ sung cho sự thiếu sót của chính sử về nhân vật Lê Chích. Nhờ tác giả họ Trình soạn bia mộ (tức bia thần Đạo) mà cái phần không được trình bày ở sử sách lại sáng rõ ở thạch bi, giúp cho những phát hiện của Lê Quí Đôn nói về Lê Chích: “Lập chí cương quyết, thấy được sự việc lúc mới phát sinh, tính toán cẩn thận, ứng biến mau chóng công danh đây cả biên quận, sự nghiệp đầy cả triều đình”. Ngoài Lê Chích ra, thì những nhân vật tiếng tăm không nổi lắm như con Trịnh Khả là Trịnh Công Đán ở KVTLN, “Tài phẩm”, Lê Quí Đôn cũng cho biết “Công Đán làm Thượng thư bộ Binh, có bia thần đạo ở xã An Hoành”. Ở Lê triều thông sử, “Chư thần truyện”, ông cho biết “Công Đán có chuyện chép riêng”. Cái chuyện đã mất này của Lê Quí Đôn rất có thể ông đã mất này của Lê Quí Đôn rất có thể ông đã dùng bia thần đạo để bổ sung. Có khi sự chú ý của ông hướng vào sự khám phá những chi tiết thiết yếu trên bia để dùng cho chinhs tác phẩm của mình. Nhờ biết tìm tòi, khai thác ở bia thần đạo do Nguyễn Mộng Tuân soạn mà PBTL của Lê Quí Đôn có thêm chi tiết quan trọng về các trận đánh Chiêm Thành dưới thời Lê sơ, chi tiết về tài thao lược và uy dũng của Lê Chuyết, con người đã được vua coi như “Vạn lý trường thành” của Phương Nam nước ta.

c) Bia tiến sĩ: Bia này khởi đầu từ nhà Lê, Bản thân Lê Quí Đôn từng nhiều năm sống ở Thăng Long, nơi lưu giữ những bia tiến sĩ. Chính ông cũng có tên trên bia, lại từng làm công tác về văn hoá... Những điều đó hẳn góp phần làm ông có ý thức hơn trong việc sưu tầm, nghiên cứu bia tiến sĩ, sử dụng nó vào tác phẩm của mình. Có thể nhờ một phần ở đấy, KVTLN của ông đã có thể cung cấp cho chúng ta một lịch sử thi cử khá minh xác đặc biệt là của nhà Lê, kể từ thời Lê Trịnh trở về trước.

d) Bia Ma nhai: đó là loại bia khắc vào đá núi. Cũng như loại bia mà Nguyễn Trung Ngạn cho khắc “Kỷ công bi văn” đời Trần vào vách núi phủ TươngDương (Nghệ An) loại bia Lê Quí Đôn dùng vào sử học này thường được dựng ở vị trí quan trọng trên miền biên viễn. Ở PBTL “Hình thế núi sông...” cho biết Lê Quí Đôn có tới núi Thạch Bi ở phủ Phú Yên là chỗ “tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành”. Lê Quí Đôn viết: “Núi này cao hơn các núi khác, Thánh Tông đánh Chiêm Thành (...) tác đỉnh núi, lập bia làm địa giới”. Là người từng công cán ở Thuận Hoá, có dịp trực tiếp thấy bia trên. Lê Quí Đôn có điều kiện tìm ra và sử dụng nó vào bộ địa phương chí về phương Nam của ông.

Để hiểu đầy đủ giá trị văn bia, Lê Quí Đôn thường quan tâm các vấn đề sau đây:

a) Về nội dung: Lê Quí Đôn hay chú ý đến phần lạc khoản, tức là chỗ đề ngày tháng, họ tên, quan chức tác giả. Ở KVTLN “Tùng đàm” Lê Quí Đôn tìm được chiếc bia do Đặng Ất, người Hà Nguyên, xã Phúc Hải, huyện Ngự Thiên soạn là căn cứ vào dòng lạc khoản sau: “Năm Đại chính thứ 2, người soạn bia là Đặng Ất hiệu là Thu Đệ làm Tham chính trong ty Thừa tuyên sứ ở Xứ Thanh Hoá”. Nhờ vậy, trong KVTLN có thêm những chi tiết về nhân vật họ Đặng ít người biết tới.

b) Về hình thức: Sách Niên phả công bộ Thượng thư Lê tướng công ghi: “Năm Quí Mùi (1763) Lê Quí Đôn theo chúa Trịnh lên động A (hoặc Nha) huyện Tống Sơn, thấy có bia đá, khắc chữ Phật, chữ lớn khoảng vài thước, nét chữ đứng đắn, cứng cáp, nhưng không ghi triều đại. Chúa hỏi không quan nào biết. Ông thưa: “căn cứ vào quốc sử, thần thấy đây là ngự bút của Lý Thánh Tông voà năm Thần Vũ thứ 3 (1071), trước ka đặt ở chùa Tiên Du sau chuyển lại đây”. Chúa Trịnh khen ông kiến thức rộng. Thực ra, đấy là nhờ ở trí nhớ tuyệt vời mà Lê Quí Đôn có những phát hiện dù chỉ qua từng nét, kiểu chữ, độ dài ngắn, tức là các mặt hình thức. Ông liên hệ hình thức của tấm bia với những ghi chép của quốc sử, từ đó phát hiện ra những điều mà người khác khó thấy. Cùng với việc sử dụng văn bia vào quốc sử, việc sử dụng quốc sử để tìm hiểu văn bia này thật là cần thiết.

CHÚ THÍCH

(1) Lê Quí Đôn, VĐLN mục Âm tự, Nxb Văn hoá Hà Nội, năm 1962, tập 1, điều 75, tr.14 nói về chữ Lệ; điều 20, 21 tr.14-15 nói về chữ riêng một địa phương, điều 23 đến 95 từ tr.15 đến tr.27 nói về gốc chữ trong các thời đại các địa phương khác nhau ở ta, ở Trung Hoa và ngoại quốc, điều 96, 97 tr.27, 28 tìm hiểu chữ Thương Hiệt, triện, lệ, điều 98-107 từ tr. 28-33 nói về phép viết chữ, điều 110 đến 111 tr.34, 35 nói về khoa ấn loát.

(2) Lê Quí Đôn KVTLN Nxb KHXH Hà Nội, 1977, tr. 292 ghi rõ: “ở giữa ngọn núi (Tam Đảo) là núi Kim Thiên cao chót vót, ghềnh thác không biết bào nhiêu mà kể (...) Hoà đá khắc chữ “Địa ngục tự” ở trên ấy”.

(3) Xem Lê triều lịch khoa tiến sĩ đề danh bi ký, bản chữ Hán ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.107/ 1-2, xem quyển 4, tờ 38 chép văn bia của Lê Quí Đôn ở Văn Miếu (tài liệu của Lê Cao Lãng) có các bài: Văn bia khoa Giáp Tuất đời Cảnh Hưng 15 (1734), văn bia khoa Quí Mùi đời Cảnh Hưng 24 (1763), văn bia khoa Kỷ Sửu đời Cảnh Hưng 30 (1769)

(4) Xem Đối liên sao tập vẫn ở thư viện trên, ký hiệu VHv.1601, VHv 1187, VHb. 241 có phụ chép bài ký khánh đồng chùa Thanh Quang của Lê Quí Đôn.

TB

VỀ VĂN BẢN VÀ TÁC GIẢ CỦA
MẪN HIÊN THUYẾT LOẠI

HOÀNG VĂN LÂU

Mẫn hiên thuyết loại là một văn bản chép tay, ký hiệu A.1072, do Trường Viễn đông bác cổ sao chép khoảng đầu thế kỷ này. Sách hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Sách gồm 91 tờ, 182 trang, khổ sách 28x16cm, chữ viết chân phương cẩn thận.

Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam của Trần Văn Giáp(1) thì Mẫn Hiên thuyết loại là tác phẩm của Cao Bá Quát. Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả ghi nhận Cao Bá Quát biên soạn Mẫn Hiên thuyết loại(2). Một công trình tuyển tập thơ văn Cao Bá Quát gần đây, cuốn Thơ văn Cao Bá Quát, cũng liệt kê Mẫn hiên thuyết loại trong danh mục các tác phẩm của họ Cao(3).

Tuy vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào tìm hiểu văn bản tác phẩm này một cách có hệ thồng, cũng chưa có một truyện, hoặc một trích đoạn nào của tác phẩm được phiên dịch và giới thiệu rộng rãi, mặc dù, theo chúng tôi, Mẫn hiên thuyết loại có giá trị sử liệu và giá trị văn chương không phải là nhỏ.

Nguyên nhân của vấn đề, theo như chúng tôi được biết, nằm ở khâu văn bản tác phẩm. Có một số ghi chú ngay trong văn bản, khiến người đọc phải phân vân. Chẳng hạn, phần Cổ tích của tác phẩm, có mấy dòng ghi: “Phần này hầu hết lấy từ Dư địa chí”. Hoặc phần Nhân phẩm, trong đoạn nói về Trương Minh Giảng, có ghi rõ “Năm Minh Mệnh Đinh Dậu (1837) tôi làm án sát Quảng Ngãi”. Trong khi đó, như chúng ta đã biết. Cao Bá Quát chưa bao giờ làm đến chức Án sát Quảng Ngãi!

Như vậy, vấn đề đặt ra là: Mẫn Hiên thuyết loại rốt cuộc là tác phẩm của ai? Mẫn Hiên trong trường hợp này có phải là Cao Bá Quát không, hay là tên hiệu của một nhân vật lịch sử nào khác? Mẫn Hiên thuyết loại có thể chứa một phần di sản “đích thực” của Cao Bá Quát không? Làm thế nào để tách phần “đích thực” ấy ra khỏi bộ sưu tập có lẫn tác phẩm của người khác?

Đó chính là mục đích của bài viết này.

Xét về nội dung. Mẫn Hiên thuyết loại là một sưu tập truyện ký danh nhân và di tích lịch sử. Sách gồm 3 phần rõ rệt.

Phần 1: Gồm 10 thiên truyện ký, mỗi thiên có đầu để riêng. Tất cả 10 thiên đều là truyện ký danh nhân lịch sử. Phạm vi không gian của 10 truyện này là vùng Kinh Bắc xưa kia, đặc biệt là vùng xã Phú Thị, Gia Lâm cũ.

Phần 2: Có tiêu đề chung là Cổ tích. Dưới tiêu đề này, là 180 đơn vị bao gồm: Sông, núi, hang, động, kênh, phá, cửa biển, thành, lũy, đền, chùa, miếu, quán suốt Trung-Bắc-Nam. Cứ mỗi một đơn vị, lại tách thành dòng khác, rồi viết liền, chứ không ghi thành tiêu đề riêng.

Phần 3: Có tiêu đề chung là Nhân phẩm. Phần này viết về các danh nhân lịch sử, gồm 46 đơn vị. Các đơn vị này là căn cứ theo nội dung mà chia ngắt, chứ không có tiêu đề riêng.

Phần 2, Cổ tích và Phần 3, Nhân phẩm có một số điểm giống nhau sau đây:

1. Trong cả hai phần, mặc dù viết về con người hoặc di tích khác nhau, nhưng chỉ có tiêu đề chung, không có từng tiêu đề riêng.

2. Cách viết khá nhất quán: Dẫu viết về “cổ tích” hay viết về con người, tác giả không chú trọng miêu tả toàn diện, mà chỉ đi vào các khía cạnh có tính chất “tâm đắc” hay các chi tiết mà trước đó chư ai đề cập tới. Vì thế, mức độ đậm nhạt của từng đơn vị có khác nhau, độ dài ngắn do đấy cũng khác biệt. Ví dụ, Phần Cổ tích, đoạn ghi chép về quê cũ của Đặng Tất, chỉ gồm 12 chữ “Quê cũ Đặng Tất (danh thần đời Trần) ở xã Thiên Lộc”(4). Trong khi đó, đoạn ghi chép về núi Lam Thành (Lam Thành sơn) liền ngay đó, lại dài tới 1800 chữ, cũng nên lưu ý là, ở đoạn này, có phần Án, biện luận về di tích cột đồng rất công phu, thể hiện tri thức lịch sử và địa lý rất uyên bác của tác giả.

Phần Nhân phẩm, tình hình cũng tương tự. Đoạn ghi chép về Trần Nhật Duật chỉ có 50 chữ, đoạn ghi chép về Lê Hữu Huân (Hải Thượng Lãn ông) 500 chữ, đoạn ghi chép về Cương Quốc công (Nguyễn Xí) gần 400 chữ...

3. Phạm vi không gian và thời gian của hai phần Cổ tích Nhân phẩm rất rộng lớn: Về thời gian: mở rộng ra phạm vi cả nước từ Lạng Sơn đến Hà Tiên.

Ví dụ: Phần Cổ tích có ghi chép về Qủy Môn quan, Tam Thanh động ở Lạng Sơn đến Cửa Ông chưởng ở huyện An Xuyên, Kênh ông Hồng ở huyện Cửu An, Động Tiên Xuyên ở huyện Hà Châu, Hà Tiên...

Phần Nhân phẩm có truyện về Hưng Đạo đại Vương Trần Quốc Tuấn đời Trần, truyện về Mai Anh Tuấn triều Tự Đức đời Nguyễn.

Từ những đặc điểm trên, chúng tôi cho rằng: Phần 2 Cổ tích và Phần 3 Nhân phẩm là do một người viết ra.

Nếu đối chiếu Phần 1 với Phần 2 và Phần 3 ta lại thấy:

1) Mười thiên truyện ký của Phần 1 có phạm vi không gian và thời gian hạn hẹp hơn nhiều. Về không gian, trong 10 truyện, thì 3 truyện có các nhân vật đều thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm cũ. Đó là:

1. Trịnh Thượng thư di sự (Truyện cũ về ông Thượng thư họ Trịnh): truyện này viết về ông Thượng thư Trịnh Bá Tương vốn người Nghệ An, di cư ra Phú Thị. Truyện này còn nói tới các nhân vật khác như Nguyễn Huy Nhuận, Đoàn Quang Dung, Cao Dương Trạc, đều là người Phú Thị.

2. Phương Am tiên sinh di sự (Truyện cũ về Phương Am tiên sinh): truyện này viết về ông Nguyễn Huy Cận, con tiến sĩ Nguyễn Huy Dận.

3. Nguyễn Bá phụ từ (Cha con Nguyễn Bá): viết về Giải nguyên Nguyễn Huy Bá và con là Nguyễn Huy Lượng.

Các truyện còn lại, đều có bối cảnh là vùng Kinh Bắc cũ, như: Từ Sơn mệnh báo (Vụ án mạng ở Từ Sơn); Ngô Lâm mạ tặc (Ngô Lâm chửi giặc viết về ông Ngô Lâm, người Hoà Lạc, Gia Lâm; Trạm Điền Vũ tộc họ Vũ ở Trạm Điền) viết về thế lực cát cứ họ Vũ, hoạt động ở vùng Lạng Giang, Từ Sơn, Thuận Thành...

Về thời gian, 10 thiên truyện ký, theo lời của người dẫn truyện (dùng đại từ “ngô” (tôi)) có truyện là do tác giả “nghe được” từ thầy học hoặc người trước, có truyện do tác giả “mắt thấy”, nhưng truyện xẩy ra muộn nhất không sau niên hiệu Minh Mệnh (1820-1840) (Trạm Điền Vũ tộc).

2) Nhìn chung, 10 thiên truyện ký ở phần 1 viết rất đều tay, kết cấu truyện chặt chẽ, ở một vài truyện đã chú trọng phát triển tình tiết, trước sau đối ứng (Kê tử đạo án, Từ Sơn mệnh báo...). Nghĩa là 10 thiên truyện ký này chẳng những chú ý ghi lại con người lịch sử, mà đã chú trọng tới nghệ thuật diễn đạt, khác với lối ghi chép chú trọng nhiều về “sự thực” của phần 2 và phần 3.

3) Phần 1 có truyện Phương Am tiên sinh di sự, phần 3 có đoạn(5) viết về Nguyễn Huy Cận Phương Am tiên sinh và Nguyễn Huy Cận chỉ là một người. Đó là ông tiến sỹ Nguyễn Huy cận, con tiến sỹ Nguyễn Huy Dận ở xã Phú Thi, huyện Gia Lâm. Thế nhưng, Phương Am tiên sinh di sự ở phần 1 là một “truyện” khá hoàn chỉnh, tới 500 chữ, trong khi Nguyễn Huy cận trong phần 3 không quá 80 chữ. Chưa hết, giữa hai “truyện” về cùng một con người, có chi tiết khác nhau, ngay tên của nhân vật này, ở hai “truyện” cũng ghi không giống nhau(6).

Từ những điều trình bày trên, chúng tôi cho rằng: Phần 1 (10 thiên truyện ký) do một người viết. Phần 2 và Phần 3 do một người khác viết.

Mẫn Hiên thuyết loại không phải do một người viết ra. Theo cứ liệu hiện nay được biết, tác phẩm do hai người viết.

Vậy ai là các tác giả của Mẫn Hiên thuyết loại. Trước hết, hãy xét các truyện của phần 1.

Trong số 10 thiên truyện ký của Phần 1, có 3 truyện viết về các nhân vật của ấp Phú Thị. Ví dụ: “Người cùng ấp” (ấp Phú Thị), ông Thượng thư Trịnh Bá Tương...” (Truyện thứ 3: Truyện cũ về ông Thượng thư họ Trịnh)(7). “Đời hay ca ngợi con người từ chối danh hiệu tiến sỹ, đó là Phương Am tiên sinh Nguyễn Huy Cận ở ấp tôi” (Truyện thứ 4: Truyện cũ về Phương Am tiên sinh) (8); “Ông giải nguyên Nguyễn Huy Bá ở ấp tôi là một trong năm hung thần cuối đời Lê” (Truyện thứ 5: Cha con Nguyễn Bá(9).

Từ cách kể “người ấp tôi” (ngô ấp) và chú rõ “ấp Phú Thị” (Phú Thị ấp) có thể biết tác giả là người cùng ấp với các ông Trịnh Bá Tương, Nguyễn Huy Cận, Nguyễn Huy Bá... tức là xã Phú Thị.

- Trong Truyện cũ và ông Thượng thư họ Trịnh có đoạn: “Khi ấy, xã tôi có ông Đoàn Quang Dung ở bộ Lễ, ông Nguyễn Huy Nhuận ở bộ Binh, tiên công tôi là Dương Trạc ở bộ Hộ, đều đỗ tiến sỹ, làm tới chức Thượng thư, tước quận công...”

Dương Trạc, tức Cao Dương Trạc, đỗ tiến sỹ, làm Thượng thư cuối đời Lê. Qua đoạn kể trên, có thể biết, tác giả của những thiên truyện ký này là một người họ Cao (con cháu Cao Dương Trạc) ở ấp Phú Thị.

- Trong Truyện cũ về Phương Am tiên sinh có đoạn: “Thầy học tôi là Hồng Quế công đã viết truyện về tiên sinh (tức Phương Am tiên sinh) để ghi lại sự thực”. Hồng Quế công ở đây là Cao Huy Diệu. Cao Huy Diệu là học trò của Phương Am Nguyễn Huy Cận. Sau khi thầy chết, Cao Huy Diệu đã viết Phương Am tiên sinh truyện kể lại sự nghiệp của thầy học mình. Sách này nay vẫn còn giữ được(10).

Những công trình nghiên cứu về Cao Bá Quát gần đây như Thơ văn Cao Bá Quát, Cao Bá Quát - con người và tư tưởng(11) đều khẳng định Cao Bá Quát là con cháu Cao Dương Trạc, là học trò của Cao Huy Diệu, hiệu Hồng Quế. Do vậy, có thể thừa nhận Cao Bá Quát, hiệu Mẫn Hiên là tác giả của 10 thiên truyện ký của phần 1.

Ở phần 2, Cổ tích và phần 3, Nhân phẩm, tình hình khó khăn hơn. Những thông tin trực tiếp và gián tiếp về tác giả có mấy điểm đáng chú ý sau đây:

- Niên đại: Theo lời kể trực tiếp trong các truyện thì tác giả có quan hệ khăng khít với một số nhân vật lịch sử như Hà Tông Quyền (1 98-1839), Lý Văn Phức (1785-1840), Nguyễn Văn Lý (1795-1868), Trương Minh Giảng (đỗ cử nhân năm 1819), Lê Nguyên Trung (Đỗ hương cống năm 1813)... Niên đại muộn nhất của phần 3 là năm Tự Đức thứ 3 (1850) (Truyện Mai Anh Tuấn). Từ đó chúng ta có thể dự đoán: Tác giả của phần còn lại là người sống và hoạt động chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ 19. Có thể đưa một niên đại tương đối cho tác giả (1785-1865).

- Có hai lần tác giả nói đến chức quan của mình: Trong truyện về Trương Minh Giảng, tác giả viết “Năm Đinh Dậu niên hiệu Minh Mệnh (1837) tôi làm Án sát Quảng Ngãi, Bá (tức Trương Minh Giảng) về Kinh chầu vua, trên đường về, có ghé nghỉ chỗ tôi”.

Trong truyện về Lê Nguyên Trung, có đoạn

“Khi tôi làm tri phủ Tân Bình, Lê Nguyên Trung đang làm Hiệp lý hộ tào thành Gia Định.

Những ghi chép như trên, một mặt giúp khẳng định thêm phần 2 và phần 3 không phải do Cao Bá Quát viết, đồngthời cũng là những cứ liệu để lần tìm tới tác giả “đích thực” của hai phần đó.

Tóm lại, trong tình hình tư liệu hiện nay, chúng ta có thể thừa nhận: Cao Bá Quát là tác giả của 10 thiên truyện ký ở phần đầu tập Mẫn Hiên thuyết loại, đó là:

1. Kê từ đạo án (Vụ án ăn trộm trứng gà).

2. Từ Sơn mệnhbáo (Vụ án mạng ở Từ Sơn).

3. Trịnh Thượng thư di sự (Truyện cũ về ông Thượng thư họ Trịnh).

4. Phương Am tiên sinh di sự (Truyện cũ về Phương Am tiên sinh).

5. Nguyễn Bá phụ tử (Cha con Nguyễn Bá).

6. Trần tiến sỹ phụng sứ (Ông tiến sỹ họ Trần đi sứ).

7. Bách Tam Lang trung nghĩa.

8. Ngô Lâm mạ tặc (Ngô Lâm chửi giặc).

9. Trạm Điền Vũ tộc (Họ Vũ ở Trạm Điền).

10. Phan Văn Phụng huynh đệ (Anh em Phan Văn Phụng).

Hai phần còn lại, phần Cổ tích và phần Nhân phẩm do một người khác viết. Nhưng từ những thông tin trực tiếp và gián tiếp của hai phần này, hy vọng chúng ta có thể tìm ra tác giả đích thực của nó trong một tương lai không xa.

Dưới đây trong phần Phụ lục, chúng tôi xin giới thiệu 6 truyện ở Phần 1 là: Vụ án mạng ở Từ Sơn, Anh em Phan Văn Phụng, Cha con Nguyễn Bá, Bách Tam Lang trung nghĩa; Ngô Lâm chửi giặc, Họ Vũ ở Trạm Điền.

Ở phần 2 Trích giới thiệu 3 di tích: Núi Quỳnh Viên, Sông Độ Liêu, Núi Yên Tử.

Ở phần 3 Trích giới thiệu 5 danh nhân Nguyễn Quỳnh, Lê Hữu Huân, Chu Tạ Hiên, Hoàng Văn Diễn và Lê Nguyên Trung.

CHÚ THÍCH

(1) Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr.407. Sách này ghi nhầm tên sách là Mẫn Hiên loại thuyết.

(2) Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác gia, Bản in Rônêô, Hà Nội, 1977; trang 19.

(3) Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984; trang 49.

(4) Nguyên văn: “Đặng Tất (Trần đại danh thần) cố lý tại Thiên lộc xã”.

(5) Phần 2 không có tiêu đề riêng. Mỗi nhân vật (hoặc nhiều nhân vật) chỉ tách thành đoạn, nên chúng tôi tạm gọi là “đoạn”.

(6) Chữ Cận, ở Phương Am tiên sinh di sự viết “ngôn + cận”, ở Nguyễn Huy Cận viết “thủy+ Cận”.

(7) Trịnh Thượng Thư di sự. Nguyên văn “Đồng ấp - Phú Thị ấp - Trịnh Thượng thư Bá Tương ...”, lời chú “Phú Thị ấp” ở nguyên bản.

(8) Phương Am tiên sinh di sự. Nguyên văn: “Thế xưng từ tiến sỹ giả, ngô ấp Phương Am tiên sinh Nguyễn Công Huy Cận dã”.

(9) Nguyễn Bá phụ từ, Nguyên văn: “Ngô ấp giải nguyên Nguyễn Huy Bá, Lê mạt ngũ hung chi nhất dã”.

(10) Phương Am tiên sinh truyện, ký hiệu A.3141 Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(11) Nguyễn Tài Thư: Cao Bá Quát - Con người và tư tưởng. Nxb, KHXH Hà Nội 1983.

TB

ĐÀM THẬN HUY VÀ TÁC PHẨM
SĨ HOẠN CHÂM QUY

LÂM GIANG

Trên Tạp chí Hán Nôm số 2.1987, chúng tôi có đăng bài Bước đầu tìm hiểu về Hội Tao đàn, giới thiệu một số nét chung nhất về Hội, như năm thành lập, thời gian hoạt đông, con số hội viên chính thức, chức danh những hội viên chủ chốt...

Bài viết lần này về Đàm Thận Huy và tác phẩm Sĩ hoạn châm qui có thể xem như một nỗ lực mới nhằm đi sâu tìm hiểu những vấn đề tồm nghi ở một số thành viên quan trọng thuộc hội thơ Tao Đàn.

Bài viết này, trước hết giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Đàm Thận Huy, đồng thời bàn về những nghi vấn chung quanh cuộc đời ông. Và, sau nữa là những ý kiến mới về tác phẩm Sĩ hoạn châm qui.

I. ĐÀM THẬN HUY VÀ NHỮNG NGHI VẤN CHUNG QUANH CUỘC ĐỜI ÔNG.

Đàm Thận Huy, hiệu Mặc Trai, tước Lâm Xuyên bá, sinh năm Nhâm Ngọ, Quang Thuận thứ 3 (1462), tại làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Hương Mạc - tục gọi là làng Me, xã Hương Mạc, huyện Tiên Sơn - Hà Bắc), mất năm Bính Tuất, Thống Nguyên thứ 5 (1526), thọ 64 tuổi(1).

Năm Canh Tuất, Hồng Đức thứ 21 (1490), Đàm Thận Huy thi đỗ tiến sĩ lúc 28 tuổi đời(2). Khi vào thi Điện Lê Thánh Tông thân ra đề văn sách. Binh bộ Thượng thư Đinh Công Bá Trịnh Công Đán và Hình bộ thượng thu Lê Năng Nhượng làm đề điệu. Ngự sử đài phó đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm làm giám thị, Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung và Lại bộ Thượng thư Nguyễn Bá Ký làm độc quyền. Khoa ấy có ba người đỗ cao nhất là: Vũ Duệ, Ngô Hoán, Lưu Thư Ngạn, đều đỗ tiến sĩ cập đệ, còn lại 51 người đỗ tiến sĩ xuất thân và đồng tiến sĩ xuất thân(3). Trong số ấy có Thân Nhân Tín, con trai đầu Thân Nhân Trung 52 tuổi đỗ(4). Những người đỗ khoa này sau tham gia Hội Tao đàn có: Ngô Hoán, Lưu Thư Ngạn, Dương Trực Nguyên, Lưu Dịch, Phạm Đạo Phu(5).

Không rõ sau khi đỗ, Đàm Thận Huy được bổ làm chức quan gì, chỉ biết bốn năm sau, Hồng Đức thứ 25 (1494) ông được tham gia Hội Tao Đàn, xếp thứ 26 trong số 28 hội viên. Ông làm quan trải các đời vua: Lê Thánh Tông 8 năm, Lê Hiến Tông 6 năm, và 5 năm giúp Chiêu Tông tập hợp nghĩa binh chống lại Mạc Đăng Dung. Như vậy, trong 36 năm làm quan cho 6 đời vua, đủ thấy ông ở vào thời buổi hết sức rối ren.

Về truyền thống thi thư, họ Đàm thời bấy giờ nổi tiếng huyện Đông Ngạn. Em trai Đàm Thận Huy là Đàm Thận Giản, 34 tuổi đỗ Hoàng Giáp, khoa Kỷ Mùi Cảnh Thống thứ 2 (1499), làm quan đến Công bộ thượng thư, con trai Đàm Thận Giản là Đàm Cư, 30 tuổi cũng đỗ Hoàng Giáp khoa Mậu Tuất, Đại Chính thứ 9 (1538) làm quan trải lục bộ thượng thư, tước Công (Thế Quận Công), tham dự triều chính thiếu bảo(6).

Từ khoảng thời Cảnh Thống (Lê Hiến Tông) đến đời Đoan Khánh (Lê Uy Mục), Đàm Thận Huy có một thời gian làm quan ở dưới huyện(7).

Tháng 12 năm Kỷ Tỵ, Đoan Khánh thứ 5 (1509) nội bộ triều đình nhà Lê lục đục: Lê Tương Dực khởi nghĩa giết Lê Uy Mục, rồi tự lên làm vua, lấy niên hiệu là Hồng Thuận. Tháng giêng năm Canh Ngọ, Hồng Thuận thứ 1 (1510), Lê Tương Dực ban công những người ứng nghĩa, phong tước công cho bẩy người, tước hầu cho hai người. Đàm Thận Huy vì có công trong vụ phế lập này, nên cũng được cất nhắc làm Hình bộ thượng thư(8).

Tháng hai năm ấy, Đàm lại được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh trình bày sự việc Tương Dực phế truất Uy Mục và cầu phong. Cung đi có Đông các hiệu thư Nguyễn Thái Đô cấp sự trung Binh khoa Lê Thừa Hưu, Thông sự Nguyễn Phong...

Sau khi đi sứ trở về, tháng 5 năm Tân Mùi Hồng Thuận thứ 3 (1511). Đàm Thận Huy được thăng Lại bộ thượng thư chiêu văn quán tú lâm cực.

Tháng 2 năm Giáp Tuất, Hồng Thuận thứ 6 (1514) thi Đình, Đàm Thận Huy với tư cách là Lại bộ thượng thư tri chiêu văn quân tú lâm cục, được cử trông coi việc thi.

Tháng 4 năm Bính Tý Quang Thiệu nguyên niên (1516) triều đình nhà Lê lại lộn xộn: Ở ngoài, bọn Trần Cảo nổi lên, tiến sát kinh thành Thăng Long; bên trong Trịnh Duy sản giết Lê Tương Dực, lập Lê Chiêu Tông lên làm vua, lấy niên hiệu Quang Thiệu. Quang Thiệu vẫn tin dùng Đàm Thận Huy và cử giữ chức Lễ bộ thượng thư(9).

Tháng 10, năm Mậu Dần, Quang Thiệu thứ 3 (1518). Lê Chiêu Tông chính thức lấy Đàm Thận Huy làm thiếu bảo Lễ bộ thượng thư nhập thị kinh diên. Lúc này Đàm Thận huy đã 56 tuổi. Nhà lê ngày càng suy vi, sắp đến ngày sụp đổ. Các cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nơi. Trong triều, Mạc Đăng Dung ngày càng lấn quyền vua.

Cuối tháng 7 năm Nhâm Ngọ, Quang Thiệu thứ 7 (1522), Lê Chiêu Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy ra Sơn Tây, Mạc Đăng Dung lập Lê Cung Hoàng lên làm vua, dùng chiêu bài này đánh Lê Chiêu Tông.

Ngày 16 tháng 8 năm ấy, Lê Chiêu Tông sai Đàm Thận Huy và Hà Phi Chuẩn đem mật chiếu về Bắc Giang tổ chức khởi nghĩa. Đàm đã tập hợp hương binh đóng quân ở sông Ninh Kiều. Song tình thế không thể cứu vãn, Lê Chiêu Tông bị bắt, quân ứng nghĩa bị Mạc Đăng Dung đánh cho tan tác. Hà Phi Chuẩn bị bắt đưa về kinh, thắt cổ chết. Nghiêm Bá Ký, Nguyễn Xí đi trốn, rồi chết ở châu Văn Uyên, trấn Lạng Sơn. Đàm Thận Huy vì ngày trước đi sứ đã quen đường, đi trốn rồi chết(10).

Về sự kiện này, nhiều sách ghi chép khác nhau:

- Đăng khoa lục (A.2572, tờ 39b; VHv.1651, tờ 39b) đều chép: khi Mạc Đăng Dung thoán vị, Đàm Thận Huy về Bắc Giang khởi nghĩa, thế cô, bị thua, uống thuốc độc tự vẫn.

- Đại Việt lịch đại tiến sĩ khoa thực lục (A.2040 tờ 38a) chép: Mạc Đăng Dung thoán vị, bức Đàm Thận Huy phải làm bài “Thiền chiếu”. Ông nói “việc đó có nghĩa lý gì?” rồi tự vẫn mà chế.

- Toàn Lê tiết nghĩa (A.1444, tờ 4a) chép: ông nhận mật chiếu của Quang Thiệu (Lê Chiêu Tông) đốc suất hương binh khởi nghĩa, thế cô, không thắng, phải chạy sang đị a phận Yên Thế (Bắc Giang) rồi uống thuốc độc tự vẫn, có thơ vịnh rằng:

Học vấn gia đình tướng tướng khoa,
Ô đài Đẩu toạ đế ân đa.
Kiệt thành báo quốc ngô năng sự,
Thiên ý nam hồi khả nại hà(11).

(Một gia đình học vấn, kiêm cả tướng võ, tướng văn, được ở Đài ô Toà Đẩu(12), ơn vua nhiều lắm. Dốc hết lòng thành báo thù cho nước, ta có thể làm. Nhưng ý trời khó thay đổi, biết làm sao được!)

- Gia phả họ Đàm Thận thôn Hương Mạc, xã Hương Mạc (Tiên Sơn, Hà Bắc) chép: ông cùng bọn Nghiêm Bá Ký, Hà Phi Chuẩn, nhận tờ mật chiếu về Bắc Giang phủ dụ hương binh khởi nghĩa, được 37 người, đóng phía đông bờ sông Tày Kiều. Sau bị Mạc Đăng Dung phá, phải rút về đóng ở Thọ Thành huyện Yên Thế. Đặng Dung thường sai sứ đến dụ dỗ, khuyên ra đầu thú sẽ cho quan chức. Ông nói: “Bề tôi trung không thờ hai vua; liệt nữ không lấy hai chồng. Hãy về nói với chủ của nhà ngươi, chí ta đã quyết, chớ có nhiều lờ!”.

Sau đó, ông sang nước Minh trình bày sự việc, nhưng không được người Minh giúp lại quay về Yên Thế, gửi thư cho gia đình rằng:

“Con người ta sinh ra trong khoảng trời đất, lấy trung, hiếu làm vinh, chăm lo đến tước trời thì tước người sẽ đến. Các con nên theo lời dạy của thánh hiền: phải biết thế nào là trung, thế nào là hiếu. Sau khi ta chết, hãy thận trọng, chớ có theo Ngụy triều, nhận chức tước của Ngụy triều, được thế thì ý nguyện của ta cũng thoả vậy”.

Ngày 3 tháng 8 năm Bính Tuất (1526), ban đêm ông cùng với những người ứng nghĩa, nhìn về Lam Sơn xa xôi, vừa lạy vừa khóc, rồi uống thuốc độc tự vẫn, thọ 61 tuổi. Người nhà và người làng đi theo đem ông chôn ở chân núi Đại (tục gọi là núi Cóc)(13) hợp táng với vợ là Nghiêm Thị, và xếp đá làm dấu.

- Sách Danh công truyện ký chép: khoa thi năm Canh Tuất, Hồng Đức 21 (1490) Đàm Thận Huy thi đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi, xếp thứ 39. Cùng đỗ khoa ấy có Nguyễn Ích Khiêm, người xã Lan Độ, cùng huyện, đỗ Hoàng Giáp. Khi vinh qui, Ích Khiêm nói đùa với ông rằng: “Anh chưa có vợ, tôi có cô em gái, anh lấy, tôi gả cho đấy!”. Đàm cười: “Được!” thế là việc ấy thành.

Đàm Thận Huy nổi tiếng là hay thơ, sánh ngang với Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận. Người đương thời thường suy tôn: “Ông Mặc chi Đàm” (họ Đàm ở Ông Mặc).

Một hôm, sau khi giảng học xong thì trời đổ mưa rất to thầy trò không thể nào về được. Thấy vậy, thầy bèn ra câu đối rằng: “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách”. (Mưa không phải là xiềng, khoá mà giữ được khách lại). Người học trò trong xã là Nguyễn Giản Thanh xin đối lại rằng: “Sắc bất ba đào dị nịch nhân” (sắc đẹp không phải là sóng nước mà dễ dìm người). Ông cho rằng người này sau sẽ hiếu sắc. Người học trò khác là Nguyễn Chiêu Huấn người xã Yên Khang, huyện Yên Phong thì đối lại là “Nguyệt dĩ loan cung bất xạ nhân” (Trăng là cây cung nhưng không bắn người). Ông cho rằng người này sau có đức độ bèn đem con gái gả cho. Còn vợ ông chỉ muốn gả con gái cho Nguyễn Giản Thanh. Sau đó ít lâu, Nguyễn Giản Thanh đỗ trạng nguyên mở tiệc ca hát hơn một tháng trời. Người vợ lúc ấy rất tiếc là đã không gả con cho Giản Thanh. Thấy vậy, ông bèn nói: “đấy trạng nguyên thì đây bảng nhãn, kém gì!” Không bao lâu, Chiêu Huấn thi Hội trúng cách. Khi ấy, ông còn đang tắm dưới ao nghe tin, cứ thế trần truồng chạy về nhà nói: “Nó đỗ rồi! Nó đỗ rồi!”. Đến khi thi Đình, Chiêu Huấn đỗ Hoàng Giáp, quả như lời ông dự đoán.

Ông làm quan trải 6 triều vua. Năm Hồng Thuận thứ 2 (1510) đi sứ phương Bắc, sứ bộ gồm bọn Nguyễn VănThanh, Nguyễn Kiệt làm bồi thần, Nguyễn Phong làm thông sự. Ông có tập Mặc Trai thi tập lưu hành ở đời, làm quan đến Lễ bộ thượng thư thiếu bảo, Lâm Xuyên bá. Khoảng năm Quang Thiệu, thấy chính sự rối nát, ông đã nhiều lần can ngăn. Đến khi Lê Chiêu Tông chạy ra ngoài, ông cùng bọn Nguyễn Bá Ký nhận mật chiếu về Bắc Giang khởi binh bên bờ sông Thiên Đức ...(14).

Vợ Đàm Thận Huy họ Nghiêm, là con gái Nghiêm Khắc Nhượng, làm quan tri phủ bầy phủ, người xã Lan Độ (nay là Quan Độ, Tiên Sơn, Hà Bắc). Bà sinh được bốn người con, hai trai, hai gái. Khi Đàm Thận Huy ứng nghĩa chống lại Mạc Đăng Dung, bà theo ông giúp việc hậu cần cho binh lính. Mùa xuân năm Ất Dậu (1525) bà mắc bệnh nặng biết mình không thể qua khỏi, bà nói với ông rằng: “Thiếp thấy họ Mạc thừa thời cơ khởi sự, việc ấy ắt thành. Còn thầy trò ông vì nước mà khởi binh, xin chớ vì việc thành bại mà ngăn trở chí khí; Những mong lòng trời kính giúp, giữ lấy một phương, để cho thiên hạ còn biết có họ Lê. Được như vậy, dù thiếp dưới chín suối cũng không lấy làm tiếc”. Nói xong, nấc lên một cái qua đời. Khi ấy, vào ngày 25 tháng 2, táng tại chân núi Đại ở Thọ Thành(15). Năm sau, Đàm Thận Huy mất, cùng hợp táng với bà.

Sau khi Đàm Thận Huy mất. Mạc Đăng Dung vì muốn mua chuộc các cựu thần nhà Lê, nên cho phép gia đình đưa Đàm về táng tại quê nhà. Lại sai quan đem sắc phong đến tế. Tương truyền, sắc phong mới đưa về đến chợ Dâu, thì bỗng nhiên không có lửa mà tự bốc cháy(16)..

Sau khi nhà Lê trung hưng, vào năm Cảnh Trị thứ 4 (1666) Lê Huyền Tông truy phong Đàm Thận Uy là “tiết nghĩa thượng đẳng thần”, ban tên thụy “Trung Hiến” lập đền thờ ở quê, đặt tên là “Tiết nghĩa từ”, lệnh cho quan huyện hàng năm, mùa xuân, mùa thu phải đến tế. Người cháu nối dõi, cho ở bên cạnh đền, làm cháu tiết nghĩa, miễn mọi phu phen tạp dịch. Trong họ, người nào hiền tài thì giao cho bộ Lại bổ dụng. Từ đó, trải các triều đều phong tặng sắc phong(17).

Tại nhà thờ họ Đàm Thận hiện còn giữ được 15 sắc phong. Tờ sắc sớm nhất đề ngày 8 tháng 12 năm Cảnh Trị thứ 4 (1666), gia phong là: “Toàn đức túy hạnh cẩn tiết chính dung phù nguy chửng hoán đại vương”.

Hiện từ đường còn giữ được khá đầy đủ những câu đối, hoành phi, bia, thơ... ca ngợi công lao Đàm Thận huy, trong đó có câu:

- Danh tại Tao Đàn tứ thất tú
Trật u tự điển ức thiên thu.

(Nêu tên ở Tao Đàn, hai tám vì tinh tú:
Liệt trong tự điển, đài ức ngàn thu).

- Khoa giáp liên phương huynh hữu đệ,
Cương thường nhậm trọng phụ chi phu

(Anh và em thơm tho khoa hoạn,
Vợ cùng chồng nặng gánh cương thường.

- Khoa hoạn phương danh thùy vũ trụ;
Quân thần đại nghĩa binh càn khôn.

(Khoa hoạn tiếng thơm lưu trong vũ trụ;
Vua tôi nghĩa lớn sáng rực đất trời).

Trước nhà thờ khắc một bài thơ vịnh sử của vua Tự Đức rằng:

Tao Đàn tứ thất liệt quần tinh,
Sinh hữu tài danh tử hữu linh.
Ngụy sắc truy bao hà xứ vãng?
Trung đồ quỉ hoá dĩ huỳnh huỳnh.

(Ông là một trong hai tám vì Tao Đàn, xếp trong bầy sao.
Sống nổi tiếng hiền tài, chết linh thiêng.
Sắc truy phong của Ngụy (Mạc) đi đằng nào?
Giữa đường, lửa quỉ thần đã rừng rực thiêu cháy).

Không chỉ riêng Đàm Thận Huy mà Đàm Thận Giản và sau này là Đàm Cư, cũng đều được phong “Tiết nghĩa đại vương”(18). Chính vì một gia đình có ba người đỗ cao, trung thành với nhà Lê, được phong là phúc thần như thế, nên đời sau có huyền thoại rằng:

Bà mẹ Đàm Thận Huy là mỗ phu nhân, sinh hạ 2 người con trai Đàm Thận huy và Đàm Thận Giản. Người chồng mất sớm, bà thủ tiết thờ chồng nuôi con. Bấy giờ có một ông già người làng Tả Ao, đất Hoan Châu (Nghệ An) đến làng xem đất để mộ, có nhiều sự ứng nghiệm. Bà nghe tiếng, đến xin để hộ ngôi mả chồng. Ông già nhận lời, nhưng cố ý trung trinh mãi. Mỗi khi đi đâu, tối đến vẫn về ở nhà họ Đàm. Một hôm gặp mưa, ông già bắt bà phải cõng mình, hai người con xin cõng thay thì ông già gạt đuổi đi, bà vui vẻ cõng. Đến đêm, ông già lenr vào buồng ngủ thì bà chống cự một cách nghiêm nghị. Ông già than rằng: “Đó thật là một người đàn bà tiết tháo, ta phải đền bồi mới được!”

Rồi ông già chọn chỗ đất tốt để mộ cho. Sau quả hai người con của bà nối nhau đỗ cao. Gặp khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, người con cả là Đàm Thận huy, nhan đang làm Thượng thư bộ Lại, đem quân đánh kẻ phản nghịch, bị thua mà chết. Triều Lê khi trung hưng, tặng tước vương và lập đền tiết nghĩa để thờ(19).

Trên đây là những ghi chép khác nhau giữa các sách thuộc nhiều đời khác nhau về Đàm Thận huy và gia đình ông, chúng tôi sao lục ra để bạn đọc tham khảo.

II. NHỮNG ĐIỂM CẦN CHÚ Ý VỀ “SĨ HOẠN CHÂM QUI”

Đàm Thận Huy để lại sáng tác không nhiều. Các sách Đăng khoa lục đều nói ông có tập thơ lưu hành ở đời (20). Hiện nay, thấy còn 9 bài thơ chép trong tập Quỳnh uyển cửu ca và 3 bài thơ khác chép trong tập Minh lương cẩm tú. Trước mỗi bài thơ hoạ trong Quỳnh uyển cửu ca có lời bình gồm 8 chữ. Đó là những bài:

- Hoạ Ngự chế “Phong niên”

- Hoạ Ngự chế “Quân đạo”

- Hoạ Ngự chế “Thần tiết”

- Hoạ Ngự chế “Minh lương”

- Hoạ Ngự chế “Anh hiền”

- Hoạ Ngự chế “Kỳ khí”

- Hoạ Ngự chế “Thảo tự”

- Hoạ Ngự chế “Văn nhân”

- Hoạ Ngự chế “Mai hoa”

Trong Minh lương cẩm tú có 3 bài:

- Hoạ Ngự chế “Tư gia tướng sĩ”

- Hoạ Ngự chế “Anh tài tử”

- Hoạ Ngự chế “Lục Vân động”

Riêng về văn xuôi, Đàm Thận Huy có tác phẩm Sĩ hoạn châm qui. Sách này, Trần Văn Giáp nhận định: “Sĩ hoạn châm qui” theo nghĩa của nó, là một tên sách chung làm cho các người đi làm quan, cho nên thường có nhiều sách trùng điệp. Thư viện KHXH hiện có 4 bản sao mang tên sách nói trên (ký hiệu: 4594 A. 1317, A.1998, A.1917). Có một bản nói là sách của Hoàng Hi, hiệu Thì Giang và Mặc Trai, không rõ nguyên uỷ ra sao. Trong sách có chỗ ghi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 25 (1764) , có nhiều đoạn ghi: “Quốc triều Hồng Đức niên lệ” (lệ của khoảng năm Hồng Đức triều ta); thí dụ ở các tờ số 11, số 44, số 51 trong sách A. 1998. Vậy cả bốn bản hiện có đều không phải là sách từ đời Hồng Đức để lại; chỉ là những bản sách làm về cuối thời Lê...” (21).

Sau khi tiến hành khảo sát kỹ bốn văn bản trên đây, thấy rằng:

- Bản A.1998: khổ 24 x 17, 80 tờ, tờ 15 dòng, dòng 26 chữ, có tựa. Sách chép tay, chữ chân, đã cũ nát, mất bìa cậy, đã đóng lại bằng bia giấy tây cứng. Tờ lót trong bìa bằng giấy bản còn mới, có ghi dòng chữ bút chì “Sĩ hoạn châm qui, tiến sĩ Đàm Thận Huy soạn, Nhất trật”. Cuối sách, tờ 79a, có dòng: “Sao chép ngày 13 tháng 4 năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707)”. Tờ 80 a chép: “Ngày 10 tháng 7 Cảnh Hưng 25 (1764)”.

Như vậy, bản này chép thời Cảnh Hưng 25 từ một bản sao năm Vĩnh Thịnh thứ 3. Gồm 93 điều mục.

Nhận xét: Vì tờ đầu của sách quá cũ nát, nên phải đóng lại. Khi đóng, phải bỏ tờ rách nát ấy đi mà thay vào đấy một tờ mới. Tờ bị bỏ đi ấy, có chép tên tác giả và số tập. Cho nên, khi thay, người ta cũng ghi đầy đủ chi tiết như tờ chính tạm thời bằng bút chì, để sau đó sẽ viết lại bằng bút lông. Nhưng vì lý do nào đấy, người ta quên hoặc chưa kịp làm. Do đó, dòng chữ tuy bằng bút chì, nhưng vẫn có giá trị riêng của nó.

- Bản A. 1378: khổ 29x20, 102 tờ, tờ 18 dòng, dòng 20 chữ. Sách mới được chép lại gần đây từ bản A.1998. Vì nội dung của chúng giống hệt nhau, các đề mục cũng sắp xếp thứ tự như nhau, chỉ có khác là ở tờ đầu không có dòng chữ bút chì như bản A.1998.

- Bản A.594: khổ 29x30, 137 tờ, tờ 18 dòng, dòng 20 chữ. Sách chép tay có tựa, mục lục, gồm 166 điều mục. Có ghi tên tác giả: “Mặc Trai Hoàng Hi trước”. Cuối sách, tờ 137a có dòng “Ngày 5 tháng 3 năm 1915. Nguyễn Văn Nghì, người xã Đa Ngưu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Còn có một bản nữa trình lên bản đường duyệt”.

- Bản A.1917: khổ 24x17, 75 tờ, tờ 16 dòng, dòng 26 chữ. Sách cũ nát, không tựa, mục lục, mất dấu mất đuôi, bìa giấy tây mới đóng lại. Tờ lót trong bìa có ghi tên sách: “Sĩ hoạn châm qui, nhất trật”. Gồm 160 điều mục.

Nhận xét chung:

1. Trong bốn bản trên đây, thì ba bản có tựa, nội dung tựa giống hệt nhau, và đều không ghi tên tác giả viết bài tựa ấy.

2. Hai bản A. 1998 và A.1378 cùng loại gồm 93 điều mục.

3. Hai bản A.594 và A.1917 cùng loại, tuy trong đó có xuất nhập đôi chỗ, gồm trên dưới 160 điều mục:

4. Trong bốn bản trên có bản ghi tên tác giả: “Đàm Thận Huy soạn” (A.1998), có bản ghi: “Mặc Trai Hoàng Hi trước” (A.594). Vậy Mặc Trai Hoàng hi là ai? Câu mở đầu của bài tựa: “Thì Giang Hoàng hi Mặc Trai tiên sinh nhậm huyện ấp mục dân chi chức ... (Tiên sinh Thì Giang Hoàng hi Mặc Trai khi nhậm chức chăn dân ở huyện ấp...) Trần Văn Giáp dựa vào câu này cho rằng: Thì Giang và Mặc Trai là tên hiệu của Hoàng Di! Theo chúng tôi có lẽ, Thì Giang, Hoàng Hi, Mặc Trai là tên hiệu của người khác nhau. Nếu thế thì, Thì Giang, Hoàng Hi chưa rõ là ai, còn Mặc Trai thì đích thị là Đàm Thận huy rồi (22).

Ngoài 4 văn bản mà Trần Văn Giáp nêu ra trên đây, ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn có một bản Sĩ hoạn châm qui nữa: VHb 221. Đây là một bản in, Ước Đình tàng bản, khắc năm Cảnh Hưng thứ 38. Sách có khổ nhỏ: 12 x 18, 23 tờ 10 dòng, dòng 20 chữ, có khắc tên tác giả: “Mặc Trai tiên sinh trước”, gồm 69 điều mục.

Như vậy, hiện ta có 2 bản Cảnh Hưng, một bản chép tay Cảnh Hưng thứ 25 (A.1998), một bản khắc in năm Cảnh Hưng thứ 38 (VHb.221). Khi so sánh hai bản trên ta thấy: Bản in năm Cảnh hưng 38 đã được biên tập và rút gọn trên cơ sở của bản chép tay năm Cảnh Hưng 25. Nếu bản Cảnh Hưng 25 gồm 166 điều, thì bản Cảnh Hưng 38 chỉ còn 69 điều. Lời nói đầu của người khắc in cũng đã nói rõ điều đó: (Sĩ hoạn châm qui” là do Mặc Trai tiên sinh làm ra, lưu hành đã lâu, thường thường có những chỗ đáng ngờ. Nay theo sách đó mà hiệu chỉnh, biên tập lại, sửa chỗ sai, đính chính chỗ lầm, lược chỗ rối, bỏ chỗ trùng, để cho người đọc được giản tiện và dễ hiểu. Lại lo lâu ngày bị sai lạc đi, bèn cho khắc in để truyền lại mãi mãi...!

Bài tựa của bản khắc in này cũng được rút gọn trên cơ sở của bài tựa ở bản chép tay Cảnh Hưng 25. Đoạn mở đầu chép: “Mặc Trai tiên sinh, khi nhận chức ở huyện ấp, rộng sâu văn học, tinh thông đường sử, sự vụ hợp thời, không gì là không tinh thục. Nhân đó trước thuật một thiên gọi là Sĩ hoạn châm qui...

Như vậy, ở đây chỉ khẳng định tác giả Sĩ hoạn châm qui là Mặc Trai tiên sinh, còn Thì Giang, Hoàng Hi lược đi.

Đến đây ta có thể tạm kết luận: Đàm Thận Huy là người đầu tiên biên soạn Sĩ hoạn châm qui. Về đầu tiên biên soạn Sĩ hoạn châm qui. Về sau, được một số người khác bổ sung thêm như hai ông Thì Giang và Hoàng Hi nào đó chẳng hạn, làm cho tập sách phong phú hơn, đầy đủ hơn, phù hợp với hoàn cảnh xã hội và chế độ xã hội của người bổ sung đang sống. Cũng chính vì thế mà tập sách thêm rườm, nhiều chỗ đáng ngờ... như trong lời nói đầu của người khắc in năm Cảnh Hưng đã nêu.

Tác phẩm Sĩ hoạn châm qui được biên soạn trong thời kỳ Đàm Thận Huy làm quan dưới huyện ấp, có lẽ vào khoảng năm Cảnh Thống đến đời Đoan Khánh. Vì dưới thời Hồng Đức, ông làm quan trong triều, tham gia Hội Tao Đàn. Và từ thời Hồng Thuận cho đến hết đời, ông làm quan trong triều với nhiều chức vị quan trọng.

Lê Quí Đôn trong Đại Việt thông sử và Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho rằng Sĩ hoạn châm qui sáng tác khoảng đời Hồng Đức, nhận định trên đây của chúng tôi cũng không vượt xa ý kiến của hai nhà thư tịch cổ đó.

1-6-1988

CHÚ THÍCH

(1) Theo Đăng khoa lục (VHv.1651, tờ 39b) Đàm Thận Huy đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi, năm đỗ Hồng Đức, thứ 21 (1490); vậy ông sinh năm 1462 (1490-28=1462). theo Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây viết tắt Toàn thư); Bản dịch KHXH - Hà Nội, 1973 - in lần 2 - tr.115 thì cuối tháng 12 năm Thống Nguyên thứ 4 (1525, ông đi trốn rồi chết. Thư mục Hán Nôm Mục lục tác giả tr.40, chép Đàm Thận Huy sinh năm 1461 và mất 1527, chưa rõ sở cứ của soạn giả? Theo Gia phả họ Đàm Thận, hiện lưu tại nhà thờ họ Đàm Thận, xã Hương Mặc, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc, thì ông mất năm Bính Tuất (1526) thọ 64 tuổi.

(2) Đăng khoa lục, Sđd, tờ 39b.

(3) Toàn thư bản dịch - Chính Hoà, tập V. KHXH-1985, tr.511.

(4) (5) Đăng khoa lục, Sđd, tờ 39a.

(6) Đăng khoa lục sưu giảng A.254, tờ 16b.

(7) Toàn thư, sđd tr.55.

(8) Toàn thư, sđd tr.58.

(9) Toàn thư, sđd tr.58, 68, 78, 88.

(10) Toàn thư, sđd tr.115.

(11) Toàn Lê tiết nghĩa là cuốn sách, chép tay, chữ chân, gồm 80 tờ, có tựa, không ghi tên tác giả. Theo Danh Công truyện ký sđd, thì tác giả bài thơ đó là Hà Hoằng Dụng, tiến sĩ đời Mạc.

(12) Đài ô: chỉ chức Ngự sử đài; Toà Đẩu: chỉ sao Bắc đẩu, là một trong 28 vì tinh tú. Ở đây ý nói: Đàm Thận Huy tham gia Hội Tao Đàn.

(13) Trong dịp khảo sát thực địa tại nhà thờ họ Đàm Thận ở xã Hương Mạc, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc, chúng tôi còn được cáccụ trong họ cho biết: Hiện ở thôn Vòng (Yên Thế) vẫn còn miếu thờ Đàm Thận Huy.

(14) Đoạn tiếp theo chép giống như Gia phả.

(15) Theo Gia phả.

(16) Theo Danh Công truyện ký sđd. Thực ra, bài sắc phong này, hiện còn chép trong Danh công truyện ký.

(17) Theo Gia phả.

(18) Đăng khoa lục sưu giảng, sđd, tờ 16b.

(19) Theo Tang thương ngẫu lục của Kính phủ. Huyền thoại này, Đăng khoa lục sưu giảng (A.254, tờ 16b), đoạn đầu chép hơi khác: “... Bà đón Tả Ao tiên sinh về tìm đất để mộ cho chồng. Tiên sinh tính rất khó nuôi dưỡng, lại hay thử xem người đó có lòng thành hay không, sau mới chọn đất. Bà mẹ chịu sự thử thách ấy mấy tháng trời, không hề phàn nàn. Một hôm, tiên sinh đi xem đất phong thủy, qua một đoạn đường lầy lội, người đi theo xin cõng, tiên sinh không đồng ý, bắt về đón bà mẹ ra cõng. Bà mẹ vui vẻ cõng tiên sinh qua chỗ lầy ...

(20) Đăng khoa lục A.2752 tờ 39b; VHv. 1651 tờ 39b và Danh công truyện ký, sđd đều chép Đàm Thận Huy có Mặc Trai thi tập. Hiện chưa tìm thấy tác phẩm này.

(21) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm; Văn hoá, 1984, tập I, tr 203-204.

(22) Đàm Thận Huy có hai tên hiệu: Mặc Trai (xem Đăng khoa lục, VHv.1651, tờ 39b; Danh công truyện ký sđd) và Mặc Hiên (xem Đăng khoa lục sưu giảng, A.254 tờ 16b; và bia, sắc phong nhà thờ họ Đàm Thuận).

TB

TỤC CÔNG DƯ TIỆP KÝ:
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

NGUYỄN ĐĂNG NA

Tục công dư tiệp ký (Viết tắt là Tục CDTK) liên quan đến Công dư tiệp ký (viết tắt là CDTK). Do đó, trước hết chúng tôi trình bày vài nét về CDTK và tác giả của nó.

CDTK là tác phẩm của Vũ Phương Đề. Ông viết lời tựa cho tác phẩm năm 1755. Theo Phan Huy Chú thì “CDTK 1 quyển, chia làm 12 loại, cộng 43 truyện)(1). Trước ngày đất nước thống nhất (1975), tác phẩm chưa được dịch in ở miền Bắc; còn ở miền Nam, CDTK được xuất bản năm 1961 - 1962 thành 2 tập(2) và năm 1972 tái bản gộp làm 1 quyển(3). Điều đáng chú ý là ngoài bìa dịch giả đề là Vũ Phương Đề: Công dư tiệp ký nhưng bên trong, tác phẩm lại có tới 91 truyện, nhiều hơn số truyện của Vũ Phương Đề tới 48. Phải chăng dịch giả đã không làm công việc khảo sát văn bản hoặc không có một văn bản nghiêm túc trong khi dịch? Để khắc phục tình trạng trên, trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu Tục CDTK.

2. Ai là tác giả Tục CDTK ? Các văn bản CDTK còn lại của Thư viện Viện Hán Nôm (4 bản) thì có bản không phân biệt ra đâu là CDTK, đâu là CDTK ; “Chí Linh, Điền Trì, Trần Qúy Nha tự” nghĩa là Trần Quý Nha người làng Điều Trì, huyện Chí Linh kể. Theo chỉ dẫn đó, chúng tôi đã đến đúng gia đình con cháu tác giả Tục CDTK. May thay, gia tộc còn giữ được khá đầy đủ gia phả, sắc phong. Ông Trần xuyên - tộc trưởng đã cho chúng tôi mượn toàn bọ tài liệu còn giữ được của họ nhà ông. Vậy tác giả Tục CDTK là ai và tiểu sử cụ thể của người đó như thế nào?

Có thể khẳng định tác giả Tục CDTK ngoài tên là Trần Quí Nha còn có tên khác là Trần Trợ, ông là con Trần Tiến. Ta hãy tìm hiểu một chút về Trần Tiến, là con tiến sĩ Trần Cảnh. Trần Tiến sinh giờ dần, ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Sửu, niên hiệu Vĩnh Thịnh 5 (1709). Như chúng ta biết, Trần Tiến viết Đăng khoa lục sưu giảng Cát Xuyên tiệp bút. Sách Lược truyện các tác gia Việt Nam không đưa Trần Tiến thành một tác giả riêng, do đó không có phần tiểu sử của ông. Riêng sách Tìm hiểu tác gia Hán Nôm Hải Hưng viết về Trần Tiến lại ghi ông sinh năm 1708(4) và không ghi năm mất. Gia phả cho hay, Trần Tiến mất ngày 7 tháng 5, năm Canh Dần (1770), thọ 62 tuổi (tính theo tuổi ta). Nhân đây, ta có thể đính chính lại năm sinh, năm mất của Trần Tiến.

Trần Tiến có 5 người con trai lần lượt theo trình tự sau: Trần Giản, Trần Trợ, Trần Lương, Trần Thái và Trần Khuê. Trần Trợ chính là tác giả Tục CDTK.

Trần Trợ hiệu là Thanh Trực, sinh tháng 10 năm Ất Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng 6 tức là năm 1745. Thời Lê Trịnh, ông thi tứ trường trúng thức và được trao chức Viên ngoại lang bộ Lại. Đến triều Nguyễn, ông từng làm Tri phủ phủ Đoan Hùng, 2 lần làm Tri phủ phủ Hoài Đức và còn làm Giáo chức. Vì vậy con cháu họ Trần ở Điền Trì ngày nay đều gọi ông là cụ giáo Trợ. Trần Trợ có 3 tên: Thuở bé là Trợ, sau có khi đổi là Quý, có khi đổi là Nha. Nhưng 2 tên Quý và Nha cháu chắt ông hiện nay không biết đến. Vậy theo chúng tôi nghĩ, cứ gọi ông là Trần Trợ Trần Trợ sống khá lâu, theo gia phả ghi lại thì, ông “đăng thượng thượng thọ, hương trung thượng lão”. Do đó ta có thể đoán rằng, ông thọ đến ngoài 80 tuổi, nghĩa là có thể sống đến đời Minh Mệnh.

Trần Trợ viết Tục CDTK vào thời điểm nào?

Chúng tôi đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa 3 tác phẩm sau: Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Cát Xuyên tiệp ký của Trần Tiến và Tục Công dư tiệp ký của Trần Trợ. Ba tác phẩm này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển loại hình truyện ký Việt Nam thế kỷ 18-19.

Vũ Phương Đề thuộc thế hệ đàn em Trần Cảnh và đàn anh Trần Tiến. Trần Cảnh sinh năm 1684, Vũ Phương Đề sinh năm 1697 và Trần Tiến sinh năm 1709. Năm Mậu Thìn (1748) niên hiệu Cảnh Hưng 9, Trần Cảnh cáo quan về nghỉ, cũng năm đó, con ông là Trần Tiến đỗ Tiến sĩ. Cương mục còn ghi: “Trần Cảnh giữ chức Tham tụng, vì tuổi già xin thôi làm quan, được thăng chức Thượng thu bộ Hình. Con cả của Trần Cảnh là Tiến mới thi đỗ, cũng vinh quy ngày hôm ấy. Bấy giờ khen là vinh hiển”(5). Năm 1748 ấy rất nhiều đồng liêu đến chúc mừng 2 cha con Trần Cảnh, chẳng hạn Nguyễn Nghiễm, Lê Trọng Thứ, Nguyễn Kiều, Lê Hữu Kiểu, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Tông Khuê... và cả Khâm Lân, Vũ Phương Đề. Vũ Khám Lân cũng như Vũ Phương Đề đều có học thơ của Trần Cảnh. Mặc dù Vũ Phương Đề viết lời Tựa cho CDTK vào năm 1755, nhưng năm 1748 này chắc rằng tác phẩm của ông đã hoàn thành, chúng tôi đoán định như vậy vì dựa vào sự kiện năm 1741, tháng 5, Nguyễn Hữu Cầu đánh bại Trần Đình Cẩn, “chiếm được trấn thành Kinh Bắc, tung lửa đốt doanh trại. Đình Cẩn cùng Đốc đồng Vũ Phương Đề bỏ ấn tín chạy”(6). Tiếp đó, Vũ Phương Đề bị cách chức. Mặc dù tác giả vẫn ghi công dư - sau lúc rảnh việc công, nhưng rất có thể trong thời kỳ mất chức này, Vũ Phương Đề mới có điều kiện viết CDTK. Và có lẽ CDTK của Vũ Phương Đề đã gợi ý cho Trần Tiến viết Tiệp bút - ghi nhanh. Hiệu của Trần Tiến là Cát Xuyên, do đó tác phẩm mang tên Cát Xuyên tiệp bút. Ảnh hưởng của lối viết truyện ký, đặc biệt là truyện ký về danh nhân, thắng cảnh địa phương đã khiến cho Trần Trợ theo gót cha chú mình, viết Tục CDTK. Chắc chắn rằng, Tục CDTK phải hoàn thành trước khi Tây Sơn ra Bắc vì trong Sơn cư tạp thuật của mình, Đan Sơn có nhắc đến Tục CDTK (7). Điều đó cũng còn chứng tỏ rằng, Tục CDTK phải hoàn thành trước năm 1786 và nó quả có ảnh hưởng khá lớn vì năm 1786 tác phẩm đã được lưu truyền vào đến tận Thanh Hoa. Sau này các tác giả Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ... cũng thường trích dẫn 3 tác phẩm nói trên.

3. Truyện mở đầu cho Tục CDTK Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Trong Quần thư khảo biện, Lê Quý Đôn xác nhận rằng: Trần Tiến có viết về Mạc Đĩnh Chi trong Cát Xuyên tiệp bút. Điều này hoàn toàn phù hợp với gia phả họ Trần. Gia phả cho biết, tháng 6 năm Mậu Dần (1758) niên hiệu Cảnh Hưng 19, Trần Cảnh chết, tiếp đến năm sau, thân mẫu của Trần Tiến cũng mất. Thời kỳ ở nhà cự tang này, Trần Tiến đến thăm và làm lại nhà từ đường Mạc Đĩnh Chi. Vậy truyện Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi không phải tác phẩm của Trần Trợ, nghĩa là không thuộc Tục CDTK.

Trong Tục CDTK có một bài đầu đề là: Sau Trung Hưng, văn thể càng kém. Nhưng Phạm Đình Hổ lại bảo rằng, bài ấy là của Trần Tiến. Ông viết: “Từ Trung hưng trở về sau văn thể ngày càng kém đã bàn rõ trong tập Cát Xuyên tiệp bút của Trần Tiến”(8). Quả thật suốt bìa “Thể văn” Phạm Đình Hổ chỉ bàn đến văn thờiLý, Trần, Tiền Lê, Mạc và Lê Trung hưng, còn sau Trung hưng ông không bàn đến. Còn bài Sau Trung hưng văn thể càng kém lại chỉ bàn về văn thể thời sau Trung hưng. Vậy ta cũng có thể tin được rằng: bài này của Trần Tiến, bố của Trần Trợ.

Truyện Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phả ký có một số chi tiết như tôi quê ở Hồng Châu... năm Tân Dậu đời Cảnh Hưng (1741) tôi phụng mệnh đến trọng nhậm Hồng Châu... mùa đông năm Quý Hợi (1743) trong khi đi đánh giặc ở Đồ Sơn, tôi đóng quân ở sông Tuyết...” không khớp với cuộc đời của Trần Trợ. Rõ ràng Trần Trợ quê ở Chí Linh chứ không phải Hồng Châu và những năm 1741, 1743 ông chửa sinh, huống chi lại đem quân đi đánh giặc. Hơn nữa, cuối truyện này còn ghi: “Hậu học Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân cẩn thuật”. Như vậy truyện về Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải của Trần Trợ, cho nên không thể đặt trong Tục CDTK được.

Phần Phụ bổ di ở cuối tác phẩm cũng không phải của Trần Trợ, 53 truyện còn lại thì có 5 truyện trùng với CDTK. Đó là các truyện về Lương Hữu Khánh, Vũ Duy Đoán, Giáp Hqỉ, Vũ Thám hoa, Đại Hưng hầu. Hai khả năng có thể xảy ra đối với những trường hợp này. Một là 5 truyện trên của Trần Trợ mà người sao chép viết lẫn vào tác phẩm của Vũ Phương Đề: hai là ngược lại, của Vũ Phương Đề bị lẫn sang Trần Trọ. Trường hợp thứ nhất không thể xẩy ra, vì nếu bớt đi 5 truyện, thì tác phẩm của Vũ Phương Đề chỉ còn 38 truyện chứ không phải 43 như Phan Huy Chú đã ghi nhận. Hiện nay chúng tôi có tìm thấy một văn bản CDTK không có phần Tục biên và gồm 43 truyện chia làm 12 loại. Điều thú vị hơn là, cả 43 truyện đều được đặt tên theo một nguyên tắc thống nhất:

Tên nhân vật + ký

Chẳng hạn: Thượng thư Lê Như Hổ ký; Đào Nương ký; Cường bạo đại vương ký... Cách đặt tên từng truyện như vậy rất thống nhất với tên của tác phẩm: Công dư tiệp ký. Điều này càng xác nhận rằng, văn bản đó gần với nguyên tác hơn và có đủ 43 truyện. Hơn nữa, hiện nay còn một bàn dịch CDTK ra chữ Nôm của Giáo thụ phủ Nho quan là Vũ Xuân Tiên. Trong bản dịch đó, Xuân Tiên vẫn dịch đủ 43 truyện. Vậy 5 truyện kể trên là của Vũ Phương Đề mà người sao chép đã làm lẫn sang tác phẩm của Trần Trợ. Ngoài ra, các truyện Đền Nhân Huệ vương, Đền Cao Sơn đại vương (trong phần Thần từ). Núi Côn Lôn (trong phần Núi sông) cũng có trong Kiến văn tiểu lục, nhưng 2 tác giả - Lê Quý Đôn và Trần Trợ viết khác nhau. Vả chăng 3 truyện trên kể về di tích chí Linh - quê của Trần Trợ nên có thể tin được rằng, Trần Trợ viết.

4. Tác phẩm của Vũ Phương Đề chia làm 12 loại:

1/ Thế gia

2/ Danh thần

3/ Danh nho

4/ Tiết nghĩa

5/ Chí khí

6/ Ác báo

7/ Tiết phụ

8/ Ca nữ

9/ Thần quái

10/ Âm phần (mồ mả)

11/Danh thắng

12/ Thú loại

Về cơ bản Trần Trợ cũng viết theo như vậy, song ông thu thành 9 loại:

1/ Danh thần

2/ Từ phú

3/ Danh nho

4/ Quỷ thần

5/ Mộng Ký

6/ Tài tử

7/ Tiên, Thích

8/ Thần từ

9/ Sơn Xuyên

cộng 48 truyện (đã trừ 5 truyện lẫn của Vũ Phương Đề).

Cũng như Vũ Phương Đề, Trần Trợ viết về danh nhân, thắng tích và một số truyện “lạ” lưu truyền trong dân gian, mà phần ớn là danh nhân, thắng tích địa phương. Với quan điểm “thuật nhi bất tác” và phương pháp ghi nhanh - tiệp bút, tác giả chủ yếu chép việc ít chú ý đến hư cấu nghệ thuật, đến chải chuốt văn chương. Tuy vậy, trong Tục CDTK cũng có một số truyện khá thú vị. Nhưng công lao chính của Trần Trợ là, cùng với Vũ Phương Đề và Trần Tiến, ông đã dấy lên phong trào sưu tầm, ghi chép về con ngươiì và cảnh vật địa phương kể cả cuộc đời tư của tác giả. Sau Công dư tiệp ký, Cát Xuyên tiệp bút, Tục Công dư tiệp ký có hàng loạt tác phẩm truyện ký khác ra đời: Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập của Nguyễn Gia Cát, Diễn Trai tập của Lê Dĩnh, Sơn cư tạp thuật của Đan Sơn, Thượng kinh ký của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút Hành Nam diệu đối ký của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Dữ và Phạm Đình Hổ, Xuyết thập tạp ký của Lý Văn Phức v.v...

(1) Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú); Sử học; Hà Nội; 1961; T4; tr.123. Trong bài này, chúng tôii dùng khái niệm truyện theo nghĩa rộng.

(2) (3) Công dư tiệp ký: Vũ Phương Đề; Bộ Quốc gia Giáo dục; Sài Gòn; T1: 1961; T2: 1962; tái bản 1972.

(4) Tìm hiểu tác gia Hải Hưng; Ty văn hoá Hải Hưng; 1973; tr.84.

(5) Việt sử thông giám cương mục; Sử học; Hà Nội; 1960; T.18.47.

(6) Việt sử thông giám cương mục; Sđd; T.18; tr.31.

(7) Xem thêm: Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện; Tạp chí Hán Nôm, số 2/1988.

(8) Vũ trung tùy bút: Phạm Đình Hổ; Văn học; Hà Nội; In lần 2; 1972; tr.155.

TB

BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH CỦA
TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC

Trong kho sách Hán Nôm có một khối lượng khá lớn văn bản ghi lại những bài văn hay của các ông nghè, ông cử làm trong các dịp thi Hội, thi Hương. Nìn chung, loại văn thơ thi cử, làm theo một khuôn khổ gò bó, ít sáng tạo lớn. Nhưng ở một số bài văn sách, nhất là các bài văn sách nói về đường lối xây dựng đất nước đương thời lại có những giá trị sử liệu nhất định.

Bài văn sách thi Đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực làm trong dịp thi Đình năm 1442, là một luận văn xuất sắc trong thi cử thời ấy. Bài văn nói về đường lối dùng người, kiến nghị các biện pháp để “tiến cử bậc quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân”, là một tư liệu lịch sử quí có thể giúp ta tìm hiểu đường lối dùng người ở buổi đầu của nhà Lê, do vậy chúng tôi dịch và giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo.

Nguyên bản được ghi lại trong tác phẩm Bối khê trạng nguyên đình đối sách văh; ký hiệu: A.1225, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục(1) ra, không thấy còn ai nữa; Sao nhan tài khó tìm vậy! Đến Đề Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong triều vẫn còn lũ Tứ hung(2). Sao tiểu nhân khó biết vậy! Cái nạn Giáng thủy, cái hoạ Hoài sơn(3) dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn thị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân; Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy! Đời Chu được Kinh thi ca ngợi là “kẻ sỹ đông đúc”. Văn Vuơng dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn(4). Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao? Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ(5); sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng!

Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo (6) ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát(7) lại gian ngoan chúa ác. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy?

Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét.

Thần trả lời:

Thần nge nói: Xưa nay, bậc thánh nhân trị nước, dẫu sự nghiệp có khác nhau, nhưng tầm lòng của họ, trước sau vẫn là một. tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc thánh nhân trị nước. Còn như người quân tử bị lui bỏ, mà kẻ tiểu nhân được tiến cử thì đâu phải là nguyện vọng của Thánh nhân.

Xem như đời Đường Ngu, đức sáng lớn lao mà không khinh suất trong việc dùng người: Đặt quan chỉ dùng người giởi, trao việc chỉ chọn tài năng, cũng như mục đích tìm người giỏi, dùng người tài của triều ta, đều là phép dùng người quân tử, trừ bỏ tiểu nhân vậy?

Hoàng thượng(8) kế thừa nghiệp lớn, trị nước giữ dân, sớm tối cầu hiền để giúp nên cơ nghiệp. Rồi lại đặt khoa thi chọn kẻ sỹ, mở rộng đường cho hiền giả tiến thân, tiến cử bọn thần ở giữa triều đình, hỏi về đạo trị nước và đạo quân tử, tiểu nhân khác biệt. Thần là kẻ ngu muội, đâu dám xét bàn trước bề trên, nhưng đã thẹn vâng chiếu sáng, dám đâu không trung thực phi bầy để đáp lại mệnh lớn của thiên tử.

Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng: Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Từ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra không thấy còn ai nữa; Sao nhân tài khó tìm vậy! Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong nước vẫn còn lũ Tứ hung; Sao tiểu nhân khó biết vậy “Cái nạn Giáng Thủy, cái hoạ Hoài Sơn, dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân; Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy!

Thần cho rằng: Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, chỉ thấy sách ghi là “hỏi ở Tứ nhạc” “nghe ở Thập nhị mục”. Tứ nhạc là người coi chung chư hầu bốn phương. Thập nhị mục là các đầu mục của Chín châu, cùng với Vũ là Tư không, Khí là Hậu tắc, Tiết là Tư đồ, Cao Dao là Sỹ sư. Thùy là Công công, Ích là Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Qùy là Điển nhạc, Long là Nạp ngôn, gọi là Cửu quan. Ngoài ra thì không thấy còn ai nữa. Kinh Thư nói: Đường Ngu đặt trăm quan. Lại có chỗ ghi: Người có đức được sử dụng, kẻ có tài được trao chức, trăm quan làm khuôn phép, trăm việc đều kịp thời. Chốn miếu đường bàn bạc việc chung, nơi điện bệ lời ca vang dội. Người người đều có đức hạnh của bậc sỹ quân tử; nhà nhà đều có phong tục đẹp đáng nêu khen. Cho đến nhân tài muôn mước đều là thần dân của Hoàng đế. Như vậy, phải đâu là nhân tài khó thấy? Còn như đế Nghiêu sẵn đức văn võ thánh thần, có tài hiểu người sáng suốt nhưng trong triều vẫn còn lũ Tứ hung là bởi sao?

Bởi đạo của kẻ tiểu nhân dễ tiến mà khó lui, dễ dùng mà khó bỏ. Đại gian như trung, đại nịnh như tín, chúng vào hùa kết đảng thậm chí dẫn dắt tiến cử lẫn nhau.

Nhưng đâu phải Đế Nghiêu sáng suốt không biết điều đó. Xem như câu: Dùng lời nói khéo để trái mệnh vua, giả cách kính nhường để gây tội ác(9), và câu: Hỡi ôi, bỏ mệnh Tiền Vương, gây tai hoạ cho dòng họ(10) thì có thể thấy rõ điều đó. Như thế, đâu phải kẻ tiểu nhân khó biết, mà chỉ là chưa trừ bỏ sớm thôi!

Nhưng đời Đường ngu, dùng phép Tam khảo(11) để bình xét công trạng của các quan. Cho nên, Nghiêu phải dùng Cổn tới 9 năm. Khi xét thấy Cổn không hoàn thành công việc rồi mới phế bỏ, chứ đâu phải là bỏ không sớm? Sau đó, Thuấn theo lệnh Nghiêu giết Cổn mà thiên hạ đều phục, như vậy, phải đâu tiểu nhân khó trừ. Xem thế thì thời Đường Ngu tuy có tiểu nhân, nhưng chúng không làm hại được công cuộc trị nước của Nghiêu Thuấn.

Thần cúi đọc lời sách vấn hỏi rằng: Đời Chu được Kinh Thi ca ngợi là “kẻ sỹ đông đúc”. Văn Vương dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao! Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ; Sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng.

Thần nghe rằng: Văn Vương hiểu rất rõ ý nghĩa và tác dụng của đạo “Tam hữu”(12) nên nhân tài đông đảo. Đó là điều tốt đẹp của nhà Chu. Đến đời Vũ Vương, chỉ có 10 người bề tôi dẹp loạn là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích, Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Điên, Hoằng Yên, Tản Nghi Sinh Năm Cung Quát và một người là Ấp Khương. Cho nên Khổng Tử nói “Nhân tài khó kiếm” chẳng đúng thế sao! Từ thời Đường Ngu đến lúc này là có nhiều người tài giỏi. Nhưng trong 10 người ấy, có một là đàn bà(13) còn lại chỉ có 9 người thôi.

Nhưng xét kỹ phẩm chất biết dùng người hiền của Văn Vương trong bài thơ Vực phác(14) và niềm vui bồidưỡng nhân tài trong bài thơ Tinh nga(15) cùng những lời ngợi a như “ba ngàn kẻ sỹ, chỉ một tấm lòng...” thi nhân tài đời Chu không phải là không nhiều. Nói là nhân tài khó kiếm, chỉ có là không bằng thời Đường Ngu thôi, đâu phải ngoài 9 người ra, không còn ai khác. Ôi, nhân tài đông đúc như vậy, nhưng đương lúc Thành Vương mới lên ngôi, Quản Thúc, Sái Thúc là người ruột thịt trong Vương thất, ép Vũ Canh chống lại nhà Chu, nên đã phao tin để mê hoặc lòng người, khiến Thành Vương nghi ngờ Chu Công, làm cho Chu Công phải lận đận chạy về Đông Đô

Bởi lúc ấy, Vũ Vương đọc thơ nhưng vẫn chưa tỉnh ngộ. Sự nghiệp của Văn Vương, Vũ Vương như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu như trời không nổi gió mưa sấm sét để phô bày tội ác của Tạm giám(16) để tỏ rõ công đức của Chu Công thì ai có thể thức tỉnh và phù trì Thành Vương? Tuy nói kẻ tiểu nhân gian hiểm, không thời đại nào là không có, nhưng xem câu “kẻ có tội phải chịu tội” thì cũng thấy là tội ác của bọn tiểu nhân rốt cuộc không thể thắng được người quân tử.

Thần cúi đọc sách vấn của thánh thượng hỏi rẳng: Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiển mà không có một ai ứng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát lại gian ngoan chúa ác... Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy?

Thần trộm nghĩ: Thái tổ Cao hoàng đế, theo trời mở vận, khai sáng cơ đồ; sẵn thiên tư thần vũ anh minh, là bậc chúa dựng nền ban phúc, luôn nhớ nỗi gian nan sáng nghiệp, luôn nhớ điều giữ nước khó khăn, đã nhiều phen xuống chiếu cần hiền, mong tìm được nhân tài trị nước, thế mà không có một ai ứng tuyển là bởi cớ làm sao?

Ôi, một xóm nhỏ có mười gia đình, thế nào cũng có người trung tín; một mảnh vườn mươi thước, thế nào cũng có loại cỏ thơm. Huống chi cả nước rộng lớn, có ức triệu người mà lại không có lấy một người tài giỏi há sao?

Thần nghĩ rằng: Tấm lòng của Thái tổ Cao hoàng đế, tức là tấm lòng sáng suốt hiểu người của vua Nghiêu, là tấm lòng khéo biết chọn người của vua Thuấn, cũng là ý đẹp gây dựng người hiền bằng mọi cách của Thành Thang, là phép hay không sót người gần, không quên kẻ xa của Vũ Vương. Bởi lo bậc hiền tài ẩn náu chốn hang cùng, nên hạ chiếu cầu hiền nhiều bận; bởi lo người tài giỏi lánh trong hàng tăng, đạo, nên đặt khoa thi để lựa chọn nhân tài. Thế mà chưa có kết quả là vì sao?

Là bởi tự mình chọn người, là đạo người làm vua, nhưng tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của bậc đại thần. Bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian ghen ghét hiền tài cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì, thì làm sao tiến cử được nhân tài! Xem thế, dẫu Thái tổ Cao hoàng đế có nguyện vọng cầu hiền, nhưng bị bọn Hãn, Xảo che lấp hiền tài, nên không tìm được. Người xưa có câu: Ai tiến cử nhân tài, sẽ được ban thưởng mức cao nhất. Kẻ nào che lấp tài năng, phải bị trị tội nặng. Vì thế, bọn Hãn, Xảo đã không thoát khỏi sự trừng phạt của Thái tổ Cao hoàng đế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu, lại Tam giám đời Chu đó! Nhưng dù có bọn tiểu nhân như chúng, vẫn không thể làm hỏng được công cuộc trị nước bấy giờ.

Bệ hạ nối chí trị nước, giữ vững cơ đồ. Công bằng lựa chọn thẩy đều là cựu thần của Thái tổ; tỳ hư dũng mãnh, thẩy đều là nghĩa sỹ của Cao Hoàng(17). Đương buổi đầu lên ngôi, đã xuống chiếu mở khoa thi, muốn chọn nhân tài để dựng nền thịnh trị. Thế mà hiệu quả được người vẫn xa vời thăm thẳm; Chân thành cầu hiền, vẫn chưa được ai xứng đáng. Há không phải bọn Ngân, bọn Sát gian ngoan chúa ác gây nên hay sao?

Thần cho rằng: Bọn Ngân, bọn Sát lừa dối bề trên, hãm hại hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, đầy Cầm Hổ ra chân xa, bãi chức quan của Thiên Tước(18). Những việc như vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn bề tôi? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết.

Nhưng có thực là kẻ tiểu nhân khó biết hay không? Kìa bọn tiểu nhân Ngân, Sát, đã không thoát lưới của bệ hạ, mà quyết định sáng suốt của bệ hạ như Ngu, như Chu, như Thái tổ Cao hoàng đế, tấm lòng ưa thiện, ghét ác đều được thoả đáng mà khắp thiên hạ đều khâm phục vậy.

Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy; đạo quân tử suy thì đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm không thể cùng song song vận hành; như nước với lửa, như thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải chuyển tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được.

Thần cúi đọc lời sách vấn của thánh thượng hỏi rằng: Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, Trẫm sẽ đích thân xem xét. Thần tài năng chưa được bác cổ thông kim, dẫu hàng ngày ngu dốt, vẫn muốn được bề trên soi xét. Huống nay được dịp trình bầy, dám đâu không dốc hết hiểu biết của mình kính cẩn trả lời.

Thần nghe nói: Trị nước lấy được người làm gốc, dùng người lấy sửa mình làm đầu. Truyện viết: Trị nước ở người, lấy người do mình. Lại có câu: Nghiêu Thuấn sáng suốt nhưng không biết hết mọi điều; hãy làm việc cần kíp trước; Nghiêu Thuấn nhân từ, nhưng không yêu khắp mọi người, hãy gần gũi người tài trước. Bệ hạ muốn học tập Nghiêu Thuấn thì đạo Nghiêu Thuấn còn đó; muốn học tập Thái tổ, thì phép Thái tổ còn kia. Bệ hạ muốn học Nghiêu, Thuấn, hãy quyết định đạo hiểu người, yêu dân phải làm trước, đạo dùng hiền, trừ gian phải làm kíp. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.

Bệ hạ muốn học Thái tổ hãy tưởng nhớ qui mô sáng nghiệp truyền dòng, phép tắc cầu hiền dùng người. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.

Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường đặt vua vào chỗ không lầm lỗi. Cho nên, Mạnh Tử nói: Không thể chỉ trách cứ người mình dùng, không thể chỉ chê bai việc chính sự. Duy bậc Đại nhân mới biết sưar lỗi lầm của vua. Vua có nhân, không ai không có nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước sẽ bình yên(19).

Thần xin bệ hạ hãy đích thân tiến cử hiền thân để bố trí ở quanh mình, như Thuấn tiến của Cao Dao mà kẻ bất nhân lìa xa. Thành Thang tiến cử Y Doãn mà trăm quan đều thuần nhất; Cao Tông được Phó Duyệt mà tâm trí mở mang: Thành Vương được Chu Công mà cậy nhờ giúp dân. Được như vậy thì chốn dân dã không sót nhân tài mà muôn cõi yên ổn, bản thân mình được hưởng mệnh trời mà triệu dân sinh sôi. cùng là sớm tối nghe lời khuyên can để giúp đức dân, kinh dinh bốn phương để giữ yên đất nước. Như thế thì lo gì quân tử không được tiến cử, tiểu nhân không bị đẩy lùi.

Dẫu vậy, hãy nhớ ba điều Tri, Nhân, Dũng là đạt đức của thiên hạ. Không có Trí thi không thể hiểu người; không có Nhân thì không thể chọn người; không có Dũng thì không thể dùng người. Lấy Trí hiểu người thì có thể hiểu biết rõ ràng và đầy đủ tài năng của họ. Lấy Nhân chọn người thì không bỏ người tài khi họ cùng khốn và chọn được người hết lòng trung thành. Lấy Dũng dùng người thì tin dùng không nghi ngờ và chuyên tâm nghe hết mọi điều. Nếu có cả ba điều TRí, Nhân, Dũng này thì lẽ dùng, bỏ rõ ràng, lòng yêu, ghét chính đáng. Đó chính là ý nghĩa của câu “Chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người” vậy.

Chuyện Hãn, Xảo, Ngân, Sát đã qua rồi. Nay các quan trong triều đình, kẻ sỹ chốn dân đã thực có thể lựa chọn kỹ, sử dụng chuyên, tin cậy chắc. Lại ban phép khảo xét công trạng. Trải đủ ba kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng hay giáng, khen hay chê. Người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào liêm khiết, tài giỏi, siêng năng, mẫn cán, kẻ nào ngu dốt, tham lam, lơ là, lười biếng, giữ ghế ăn hại, không đức, bất tài, gian ngoan chứa ác, đều bộc lộ rõ ràng. Như vậy thì trăm quan đông đảo, đều giữ phong cách người quân tử có đáng lo gì bọn tiểu nhân!

Thần thẹn được gội ân thánh dạt dào đã mấy năm nay, ơn sâu nghĩa dầy, gượng theo kẻ sỹ, kính đối trước triều đình. Thần đau đáu tấm lòng khuyển mã, xiết ba xúc động, dám xin mạo muội thưa trước uy thần. Cúi mong bệ hạ tha thứ cho tội ngông cuồng này.

HOÀNG HƯNG dịch

Theo sách Chu quan thì Sách là những lời của vua phát ra, như Sách mênh, Điển sách ... Từ đời Hán trở đi, mới lấy bài văn sách để thi học trò. Có hai thể văn sách.

1. Chế sách: vua hỏi về nguồn gốc trị loạn xưa nay và điều hay điều dở của chính sự đương thời, học trò theo hiểu biết của mình mà trả lời, gọi là Đối sách. 2. Thí sách: Vua hoặc quan thay mặt vua ra đầu bài hỏi về nghĩa lý của các sách Kinh điển đạo Nho. Người làm vận dụng những điều học được mà trả lời, gọi là lối văn Xạ sách.

CHÚ THÍCH

(*) Nguyễn Trực (1417-1474) tự Công Dĩnh hiệu Hu Liêu, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, đạo sơn Nam, nay là người thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh oai, Hà Sơn Bình, đỗ Trạng Nguyên khoa Nhâm Tuất, năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đời vua Lê Thái Tông.

(1) Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục: xem giải thích ở phần sau.

(2) Tứ hung: 4 tên quan hung ác thời cổ là Hồn Đôn, Cùng Kỳ, Đào Ngột và Thao Thiết.

(3) Nạm Giáng thủy, hoạ Hoài sơn: chỉ hai nạn lụt lớn xảy ra thời nghiêu Thuấn.

(4) Thập loạn: 10 người bề tôi giỏi, dẹp loạn yên dân (xem thêm phần dưới).

(5) Chu Công, tên là Đán, con Chu Văn Vương làm tướng cho Vũ Vương đánh Trụ, Vũ Vương chết, Thành Vương còn nhỏ, Chu Công nhiếp chính. Quản Thúc, Sái Thúc là người tông thất, âm mưu làm phản, phao tin là Chu Công định cướp ngôi vua. Chu Công viết bài thơ cho Thành Vương, Thành Vương không tỉnh ngộ, nên phải lánh ra ở Đông Đô.

(6) Hãn là Trần Nguyên Hãn, Xảo là Phạm Văn Xảo, là hai công thần khia quốc của Lê Lợi. Sau khi dẹp xong giặc Minh, hai ông bị kết tội là ngầm kết bè đảng để làm phản, cả hai đều bị giết.

(7) Ngân là Lê Ngân, Sát là Lê Sát, là hai võ tướng có nhiều công lao giúp Lê Lợi khởi nghĩa và chiến thắng giặc Minh. Đến đời Thái Tông, hai ông bị kết tội là chuyên quyền; ngầm mưu làm phản và đều bị giết.

(8) Hoàng thượng ở đây chỉ Lê Thái Tông, người ra bài sách vấn này yêu cầu người thi trả lời.

(9) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: “Tĩnh ngôn duy vi, tượng cung thao thiên”.

(10) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: “Hu hất phương mệnh, tị tộc chi loạn”.

(11) Phép Tam khảo: Phương pháp khảo xét công trạng của các quan thời Nghiêu Thuấn.

(12) Đạo Tam hữu: Sách Luận ngữ có câu: “Ích giả Tam hữu, Tồn giả tam hữu”, tức là gần gũi với ba loại người: Trung trực, độ lượng và hiểu biết thì có lợi, ngược lại, gần gũi với ba hạng người nhỏ nhen, nhu nhược và xiểm nịnh thì có hại.

(13) Tức là bà Ấp Khương, bà hậu của Chu Vũ Vương, con gái của Thái Công Vọng, mẹ của Chu Thành Vương.

(14) Vực phác: là tên một bài thơ trong phần Đại nhã của Kinh thi, ca ngợi hiền tài đông đúc.

(15) Tinh nga: là gọi tắt của Tinh tinh giả nga, là tên 1 bài thơ trong phần Tiểu nhã của Kinh Thi, ca ngợi niềm vui bồi dưỡng nhân tài.

(16) Tam giám: Vũ Vương diệt Ân, lập người con của Trụ là Lộc Phụ, sai ba người em là Quản Thúc, Sái Thúc và Hoắc Thúc giám sát, gọi là Tam giám.

(17) Thái tổ, Cao hoàng ở đây đều chỉ Lê Lợi. Lê Lợi mất có miếu hiệu là Thái tổ Cao hòng đế.

(18) Cầm Hổ tức Bùi Cầm Hổ, làm quan Ngự sử, vì mâu thuẫn với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Thiên Tước, tức Phan Thiên Tước trước làm quan Ngự sử, sau bị đổi ra ngoài làm Chuyển vận phó sứ huyện Đa Cẩm, sau lại bị bãi chức, sung quân.

(19) Đây là một đoạn trong thiên Ly Lâu thượng sách Mạnh Tử. Nguyên văn: “Nhân bất túc dữ thích dã, chính bất túc giám dã, duy đại nhân vi năng cách quân tâm chi phi; Quân nhân, mạc bất chính. Nhất chính quân nhi quốc định hỹ”.

TB

MỘT TƯ LIỆU VỀ HỒ BÁ ÔN

Hồ Bá Ôn là ông nội của đồng chí Hồ Tùng Mậu, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ Tĩnh đỗ Phó bảng khoa Ất Hợi (1875) triều Tự Đức, làm Án sát sứ tỉnh Nam định (nay thuộc Hà Nam Ninh).

Khi giặc Pháp tấn công Nam định, Hồ Bá Ôn đem quân ra ngoài thành nghênh chiến và đã hy sinh vào ngày 7 tháng 5 năm 1883. Triều đình truy phong ông là Hàn lâm viện Thị Giảng học sĩ, gia tặng Quang lộc tự khanh, và được thờ ở đền Trung Nghĩa.

Hiện nay, tại phòng truyền thống ở Quỳnh Đôi còn giữ được bài chế của vua Tự Đức truy niệm Hồ Bá Ôn. Xét thấy đây là một tư liệu qúy, khả dic giúp vào việc nghiên cứu Hồ Bá Ôn, chúng tôi tiến hành phiên âm, dịch nghĩa, giới thiệu để bạn đọc tham khảo.

Phiên âm:

Phụng thiên thừa thiên vận Hòng đế chế viết: Nho thần kiệt tiết, khoa danh vô phụ ư sinh tiền

Vương giả hiển trung, sủng mệnh hữu gia ư thận hậu.

Cốc thời đản hiệp, chi bột tái ban.

Tự Nhĩ Cố Thị độc, lĩnh Nam định tỉnh Án sát sứ Hồ Bá Ôn(2).

Nghệ phố danh lưu, Hoan châu vọng phiệt.

Hương lân quỳnh uyển, Ất khoa tính tự chi đề;

Nhĩ phụng đức âm, Đông bích đồ thư chi tuyển.

Đương Nam thành chi trận niết, phương quan lợi khí ư thác bàn;

Nại Tây nhân chí trách ngôn, vọng khởi binh đoan ư cai điếm.

Dĩ thư sinh nhi thảo tặc, nghĩa phân thủ thổ chi ưu;

Giai võ tướng dĩ thân tiên khí tác đồng bào chi dũng.

Huy qua kích cổ, chiến âm vĩ tuyệt ư viện phù;

Phi trích phong tiền, hạc trận nga kinh ư thùy thúy.

Y nan được mệnh, bại diệc vinh danh!

Dữ thành câu vong, ẩm hận nhi một!

Tùng bách chi tiết bất thụ lệnh u hàn sương.

Ba cổn chi bao dĩ sái âm ư u nhưỡng!

Tư trước truy thụ Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ,

Gia tặng Quang lộc tự khanh, tích chi cáo mệnh.

Dĩ chương nghi phách, dĩ hạ tiềm quang.

Ô hô thì:

Bách luyện chi cang trường thượng tương chiếu thử;

Thiên thu chi thanh hãn tùng thử lưu phương!

Tinh sảng hữu tri, Thừa hưu vô địch!

Khâm tai!

Tự Đức tam thập lục niên, ngũ nguyệt, so thất nhật.

Dịch nghĩa:

Vâng mệnh trời, theo vận nước, Hoàng đế ban lời chế rằng:

Kẻ trung thần tiết tháo lớn, khoa danh không phụ lúc sinh thời:

Bậc vương giả yêu tôi trung, sủng ái càng tăng khi đã khuất.

Nay vừa đúng dịp(3) ban tặng lời khen:

Nghĩ như khanh Hồ Bá Ôn, Hàn lâm Thị độc, lĩnh chức án sát tỉnh Nam Định.

Giống dòng xứ Nghệ, thế phiệt châu Hoan.

Vườn quỳnh thơm ngát, họ tên khoa Ất(4) từng ghi.

Đức độ vang xa, chức việc đồ thư(5) đã chọn.

Khi thành Nam gặp cơn nguy biến(6), tìm người sắc bén ra tay,

Lúc giặc Tây(7) quở trách đưa lời, lập thế binh đao chống chọi.

Phận thư sinh đứng lên dẹp giặc, lo toan giữ đất nước nhà.

Cùng võ tướng xông xáo liều thân, dũng khí nức lòng đồng đội!

Múa gươm, gióng trống, luôn tay thúc động quân dân

Đạn réo tên bay, giữa trận kinh hoàng rơi ngọc

Thuốc khôn chữa được mệnh, thua vẫn thơm danh!

Người cùng mất với thành, ôm hận mà thác!

Tùng bách vững khí tiết không theo mệnh lệnh của gió sương.

Triều đình ban lời khen, sưởi ấm hồn thiêng nơi âm thế!

Vậy nên: Truy phong Hàn lâm việc Thị giảng học sĩ tặng thêm Quang lộc tự khanh, gửi người cáo mệnh.

Để nêu khí phách lớn, để rõ tia sáng ngầm!

Ô hô! Thương thay!

Lòng gang thép trăm lần tôi luyện, rọi sáng từ đây!

Trang sử xanh nghìn thuở còn ghi, lưu thơm mãi mãi!

Khôn thiêng có biết?

An giấc ngàn thu!

Kính vậy thay!

Ngày mồng 7 tháng 5, năm Tự Đức thứ ba mươi sáu (1883).

THANH ĐẠM dịch

CHÚ THÍCH

(1) Vừa đúng dịp: quân dân ta thắng, giết chết tên chỉ huy Rivie ở chiến trường Cầu Giấy.

(2) Khoa Ất: tức khoa thi Ất Hợi (1875) năm Hồ Bá Ôn đỗ Phó Bảng.

3) Đồ thư: bản đồ và thư tịch.

4) Thành Nam: đây chỉ thành Nam Định.

(5) Giặc Tây: chỉ thực dân Pháp.

TB

THÊM MỘT VÀI HIỂU BIẾT VỀ
PHẠM ĐẠO PHÚ

THÙY VINH

Vào thời Hồng Đức, ở làng Hoàng Xá tổng Thanh Khê huyện Đại An có hai anh em họ Phạm cùng đỗ tiến sĩ liền trong hai khoa. Đó là Phạm Đạo Bảo (còn lại là Phạm Bảo) đỗ nhị giáp tiến sĩ khoa Đinh Mùi Hồng Đức thứ 18 (1478) và Phạm Đạo Phú đỗ tiến sĩ đệ tam giáp khoa Canh Tuất Hồng Đức thứ 21 (1490). Phạm Đạo Bảo là con ông chú, sau khi đỗ tiến sĩ làm quan võ, được vua Lê Thánh Tông cử làm Trấn thủ vùng Thanh Nghệ, Phạm Đạo Phú là con ông bác, đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi.

Phạm Đạo Phú được giữ chức “Hàn lâm Hiệu thư” được tham dự hội thi Tao Đàn với vua Lê Thánh Tông, sau ông làm quan võ được thăng đến chức “Hình bộ Tả thị lang”.

Hiện nay hầu hết các sách(1) đều ghi về Phạm Đạo Phú hết sức sơ sài. Phải chăng trong Hội Tao Đàn, Phạm Đạo Phú không phải là một trong những ngôi sao sáng nhất như Lê Thánh Tông, Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung... Song với quê hương ông thì Phạm Đạo Phú có công rất lớn. Ở bài viết này chúng tôi xin đề cập đến hai vấn đề lớn trong cuộc đời ông:

1. Phạm Đạo Phú với quê hương.

2. Phạm Đạo Phú với hội thơ Tao Đàn.

I) Phạm Đạo Phú với quê hương:

Phạm Đạo Phú sinh năm Nhâm Ngọ (1462) tại làng Hoàng Xá tổng Thanh Khê huyện Đại An trấn Sơn Nam hạ (nay là thôn Phạm Xá xã Yên Nhân huyện Ý Yên tỉnh Hà Nam Ninh). Ông mất ngày mùng 2 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1539) tại thôn Đoài xã Hưng Phú huyện Đại An (nay là thôn Đoài xã Hưng Thịnh huyện Nghĩa Hưng tỉnh Hà Nam Ninh). Ông không có con trai, chỉ có một cô con gái tương truyền cũng rất giỏi thơ văn.

Quê hương ông nằm ngay trên cửa biển Đại An xưa, nay còn lại cửa sông Độc Bộ. Theo gia phả họ Phạm ở thôn Phạm Xá và theo trí nhớ của các cụ trong họ truyền lại thì họ Phạm là nhữg cư dân đầu tiên đến khai phá đất hoang vùng ven cửa biển Đại An. Tổ tiên họ Phạm đã đặt tên vùng đất mới này là Hoàng Xá. Từ khi hai anh em họ Phạm cùng thi đỗ tiến sĩ thì họ Phạm đã quyết định đổi tên làng thành Phạm Xá. Các sách Hán Nôm trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ghi quê của hai anh em Phạm Đạo Phú, Phạm Đạo Bảo rất khác nhau. Về quê của Phạm Đạo Phú, hầu hết các sách(2) đều ghi ông là người huyện Đại An chứ không ghi xã. Riêng sách Đại Nam lịch triều liệt truyện đăng khoa bị khảo ký hiệu VHv.2713/4, ghi: “Phạm Đạo Phú người Nguyên Xá, năm 28 tuổi đỗ đồng tiến sĩ khoa Canh Tuất, đời Hồng Đức Lê Thánh Tông thứ 21”(3).

Sách này còn ghi: “Phạm Bảo người Phí Xá, đỗ nhị giáp tiến sĩ khoa Đinh Mùi Hồng Đức Lê Thánh Tông, làm đến phó đô ngự sử”(4). Chữ “phi” và chữ “hoàng” khi viết thảo, tự dạng giống nhau, có thể viết nhầm từ “Hoàng Xá” sang “Phí Xá” chăng? Qua kết quả thực địa ở hai huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng tỉnh Hà Nam Ninh là nơi có phần đất của huyện Đại An trước kia, chúng tôi đã xác định được quê hương của hai vị tiến sĩ họ Phạm này là ở thôn Phạm Xá xã Yên Nhân huyện Ý Yên tỉnh Hà Nam Ninh. Nhà thờ họ Phạm và đặc biệt là ngôi đình thờ hai ông ở thôn Phạm Xá còn rất nhiều hoành phi câu ddối và một số bia hậu. Dân làng gọi đây là đình ông Nghè. Đình quay mặt ra cửa sông Độc Bộ, dấu vết của cửa biển Đại An xưa. Cửa biển Đại An đã được các bậc danh nhân bao đời nhắc đến trong thơ văn như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông... Đó là vùng đất phù sa màu mỡ do quá trình bồi đắp của phù sa và khai hoang lấn biển tạo thành. Câu đối trong đình vừa ghi nhận sự kiện thi đỗ của hai vị tiến sĩ vừa xác nhận đây là cửa biển Đại An xưa: Chẳng hạn câu đối ở cột đá hiên ngoài cửa đình, do “đệ nhị giáp tiến sĩ ưng nguyên nội các ân khoa Kỷ Mão”, người huyện La Ngạn đề tặng:

Hồng Đức đương thiên huynh đệ bảng,
Nha thành thử địa cổ kim danh.

Tạm dịch:

Anh em đề bảng thời Hồng Đức
Muôn thuở lừng danh cửa biển Nha(5).

Hiện trong đình vẫn còn giữ được một số sắc phong để thờ cúng hai ông của các triều vua Nguyễn và một bản sao sắc đời Lê Thế Tông (1573-1600). Lúc Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, Phạm Đạo Phú cùng với một số quan cận thần của nhà Lê treo ấn từ quan, bỏ về sống ẩn dật ở quê nhà. Lúc này mảnh đất ven cửa biển Đại An đang được phù sa bồi đắp tiến dần ra biển. Phạm đạo Phú không về sống ở quê mà về sống trên mảnh đất mới đó gần cạnh thôn Phạm Xá của ông Phạm Đạo Phú đã chiêu tập dân ly tán từ các nơi đến để khai khẩn bồi đắp bãi bồi lập nên làng mới. Làng Hưng Phú - tên làng mới, theo các cụ trong họ truyền lại là do Phạm Đạo Phú lấy tên mình để đặt cho làng, mong sự hưng thịnh và trù phú. Sau khi ông mất đi, dân làng kiêng tên ông đã đổi thành Hưng Thịnh (nay là xã Hưng Thịnh huyện Nghĩa Hưng tỉnh Hà Nam Ninh). Mạc Đăng Dung biết ông là người có tài nên đã nhiều lần mời ông ra làm quan song ông một mực từ chối. Ông vừa cùng dân tổ chức khai khẩn ruộng hoang, vừa mở lớp dạy học. Thực chất là ông ngầm tổ chức lực lượng để chống lại nhà Mạc. Song việc không thành - Sợ bị bại lộ nhà Mạc sẽ trả thù, ông đã đổi họ cho con cháu ở quê hương từ họ Phạm sang họ Ngô, nhưng vẫn ở trên nhà thờ hương hoả của họ Phạm. Điều đó cắt nghĩa vì sao hiện nay nhà thờ và đình thờ của họ Phạm lại do con cháu họ Ngô trông gĩ. Năm 1982, con cháu ở quê hương ông làm đơn xin đổi họ từ họ Ngô sang họ Phạm và đã được chính quyền sở tại xác nhận. Để ghi nhớ công lao của Phạm Đạo Phú với quê hương, trong các văn tự chia ruộng đất của họ Ngô, họ Phạm ở thôn Phạm Xá, thôn Dương Phạm xã Yên Nhân huyện Ý Yên. Hà Nam Ninh, hoặc trong một vài cuốn sách bằng chữ Hán, chữ Nôm của dòng họ có ghi:

... “Nhờ danh hai vị đại khoa
Hai thôn người lại đông ra
Ruộng hoang nay đã biến thành bình nguyên...”

Câu đối trong đình cũng nói lên lòng tự hào ngưỡng mộ của dân hai xã Phạm Xá, Hưng Thịnh đối với ông:

“Tích Lê triều Hồng Đức Thái bình thiên, Đinh Mùi Canh Tuất liên khoa Phật kinh liên kế.

Kim Nam quận Đại An văn vật địa, Phạm Xá, Hưng Thịnh thần miếu tương vọng”.

Tạm dịch:

Xưa đời Hồng Đức triều Lê, quốc gia thanh bình, Đinh Mùi Canh Tuất hai khoa cùng tên đề bảng.

Nay quận Đại An nước Nam đất vốn nổi danh, Phạm Xá, Hưng Thịnh cùng thờ cung kính”.

Phạm Phú mất và chôn cất tại thôn Đoài xã Hưng Thịnh. Hiện mộ ông vẫn còn ở đó.

II/ Phạm Đạo Phú với hội thơ Tao Đàn và các tác phẩm của ông:

Trước khi trở thành hội viên Tao đàn, Phạm Đạo Phú đã được cùng vua xướng hoạ trong chuyến về thăm Lam Kinh mùa xuân 1491. Tập thơ phụng hoạ này được đặt tên là Văn minh cổ xúy gồm 6 bài ngự của Lê Thánh Tông và các bài họa của các quần thần. Trong các bài ngự chế của Vua hiện nay chỉ còn 5 bài, thiếu bài “Bái yết sơn lăng”. Các cận thần cùng đi người có 1 bài, người có 4, 5 bài, ít người có đủ cả 6 bài phụng họa. Riêng Phạm Đạo Phú còn đủ cả 6 bài được chép trong các sách Văn minh cổ xúy ký hiệu A.254; “Lê triều thi tập” VHv. 826; “Minh lương cẩm tú”. A.1413. Ở các cuốn Lê triều thi tập hay Minh lương cẩm tú Phạm Đạo Phú chỉ có 1 bài, duy chỉ có cuốn Văn minh cổ xúy A.254 là chép đủ cả 6 bài của ông. Đó là các bài:

- Bái yết sơn lăng

- Thiên vực giang hiểu phát

- Truy hoài thánh tổ huân nghiệp

- Quang Đức điện thượng

- Hạnh kiến thụy đường ngẫu thành

- Đại giá thượng kinh

Khi được dự hội thơ Tao Đàn với vua Lê Thánh Tông, sáng tác xung quanh “9 khúc ca trong vườn quỳnh” (Quỳnh uyển cửu ca) Phạm Đạo Phú cũng có đủ 9 bài, được chép trong các sách Minh lương cẩm tú VHv.94, Minh lương cẩm tú VHv.1413, Cúc đường thi tập A.1168. Riêng sách Lê triều thi tập VHv.826 là thiếu bài Thư thảo hý thành. So với các tác giả khác trong Tao Đàn, thì thơ của Phạm Đạo Phú được chép ít có dị bản nhất. Các sách mà chúng tôi vừa nêu đều chép về thơ ông rất thống nhất. Chỉ có tên ông thỉnh thoảng lại có sách ghi là “Nguyễn Đạo Phú”.

Ví dụ: Sách Lê triều thi tập VHv.826, tr.41 ghi là Nguyễn Đạo Phú. Hoặc sách Cúc đường thi tập A.1168, tr. 24a cũng ghi là Nguyễn Đạo Phú.

Đây là điều thường thấy khi ta nghiên cứu các văn bản Hán Nôm. Bởi lẽ có sách viết chân, có sách viết thảo. Mà khi viết thảo, tự dạng của một số chữ rất giống nhau, dễ nhầm. Cũng như quê của Phạm Đạo Phú, sách Đại Nam lịch triều liệt truyện đăng khoa bi khảo VHv. 2713 tr. 97 ghi ông người xã Nguyễn Xá. Dễ dàng nhận thấy khi viết thảo, hai chữ “Nguyễn” và “Phạm” rất giống nhau, nên dễ nhầm.

Với hai tập Văn minh cổ xúy Quỳnh uyển cửu ca Phạm Đạo Phú còn lại 15 bài tho. Thời gian sau ông có sáng tác nữa hay không, không thấy sách nào nói đến. Khi chúng tôi về đến quê hương ông, được các cụ trong họ cho xem một cuốn văn chiêu hồn bằng chữ Nôm đề là của tướng công Phạm Đạo Phú, do Khiếu Năng Tĩnh viết lời bạt. Vì chưa có điều kiện để khảo cứu kỹ văn bản, chúng tôi chưa dám quả quyết đây có phải đích thực là thơ văn của Phạm Đạo Phú hay không. Xin được trình bày vấn đề này vào một dịp khác.

Thơ của Phạm Đạo Phú được Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phê là “có ý hay” chứ chưa bao giờ được vua khen là sắc sảo. Giọng thơ của ông thường khiêm nhường giản dị, ít dùng điển cổ, lời lẽ dung dị.

Sự nghiệp thơ văn của phạm Đạo Phú còn lại với chứng ta ngày nay không nhiều và cũng chưa phải có gì đặc sắc, bởi lẽ tất cả đều là thơ thù tạc.

Song chỉ với số thơ còn lại đó, nhất là việc ông được dự “Tao Đàn nhị thập bát tú”, chúng ta cũng đã ghi nhận ông là tác giả văn học không thể bỏ qua của lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16.

CHÚ THÍCH

(*) Bài viết này được hoàn thành cùng với sự cung cấp tư liệu của các cụ trong dòng họ Phạm, họ Ngô ở thôn Phạm Xá xã yên Nhân huyện Ý Yên tỉnh Hà Nam Ninh. Xin chân thành cám ơn các cụ.

(1) Như Đại Việt sử ký toàn thư, Đăng khoa lục, Lịch đại khoa lục, Hoàng Việt thi tuyển hoặc Hồng Đức quốc âm thi tập.

(2) Như Đăng khoa lục, Đăng khoa lục sao bản, Đại Việt lịch đại tiến sĩ, Thiên Nam dư hạ tập, Toàn Việt thi lục...

(3) Nguyên văn là “Phạm Đạo Phú Nguyễn Xá nhân, niên nhị thập bát đăng Lê Thánh Tông Hồng Đức nhị thập nhất niên Canh Tuất khoa đồng tiến sĩ...”

(4) Nguyên văn là: “Phạm Bảo Phí Xá nhân, đăng Thánh Tông Hồng Đức Đinh Mùi khoa nhị giáp tiến sĩ chí phó đô ngự sử...”

(5) Nha Thành: các cụ cao tuổi trong họ Phạm ở thôn Phạm Xá xã Yên Nhân đều cho rằng “Nha Thành” chỉ cửa biển Đại An (thời Lý gọi là Đại Ác, năm Minh Đạo thứ 8 đổi làm huyện Đại An, thời thuộc Minh gọi là Đại Loan).

TB

ĐỐ CHỮ HÁN TRONG CÂU ĐỐ
TIẾNG VIỆT

TẢO TRANG

Thời gian trước đây, nhiều người học chữ Hán thường được “đố chữ” bằng những câu như: “Chim chích mà đậu cành tre, thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm”; “Ba xe kéo lê trên đàng, tiếng vang như sấm” (đố chữ “đức” và chữ “oanh”.

Chúng ta biết câu đố là một bộ phận của văn học dân gian. Trước khi được ghi thành văn bản, mà ngay cả sau khi đã được ghi lại, chúng được phổ biến chủ yếu bằng truyền miệng. Truyền miệng là một phương tiện để phổ biến lưu truyền, đồng thòi cũng là phương tiện đào thải. Những câu hay được bảo lưu, có thể được trau chuốt thêm, những câu yếu kém về nội dung và hình thức sẽ bị quên lãng. Theo chỗ chúng tôi biết, cuốn Tục ngữ phong dao (Viết tắt TNPD) của Nguyễn Văn Ngọc, in lần thứ nhất năm 1928 là tập sách đầu tiên công bố một lượng khá lớn những câu đố, trong đó có nhiều câu lấy chữ Hán làm đối tượng đố (ở tập 2, sau phần sưu tầm phong dao tức ca dao). Câu đố trong sách này được tập hợp theo thứ tự ABC của từ đầu tiên. Lời giải không ghi kèm ngay sau lời đố mà được đưa vào một phần riêng biệt cuối sách. Lời giải hết sức vắn tắt, không kèm theo chú thích gì, ngoài 2 từ “chữ Hán” đặt trong dấu ngoặc đơn sau lời giải câu đố về chữ Hán.

Sau TNPD, có nhiều sách sưu tầm riêng về câu đố. Ở miền Nam có những cuốn Thai ngữ của Nguyễn Văn Xứng (1949); Câu đố thai của Phạm Văn Giao (1950); Thai đố phổ thông dẫn giải của Từ Phát (1971). Miền Bắc có cuốn Câu đố Việt Nam của Ninh Viết Giao (Nxb Văn Sử Địa Hà Nội, 1958, viết tắt CĐVG). Sách này sau phần 1 “Vài ý kiến về câu đố Việt Nam” trình bày vắn tắt nhưng khá đầy đủ về nguồn gốc, đặc tính và tác dụng câu đố (tr. 7-21), đã dành hơn 100 trang sau (tr. 23-133) sưu tầm các câu đố, sắp xếp theo phân loại (sự vật nông thôn, sự việc nông thôn, sinh vật) và “những câu đố linh tinh khác” (tr.97-120), trong đó có mục “đố chữ”, câu 32 đến câu 62, trừ câu 62 đố về chữ Quốc ngữ, còn lại là những câu đố về chữ Hán (sách CĐVG không ghi rõ chữ Hán hay chữ Quốc ngữ, người xem tự phân biệt lấy).

Gần đây, kho tàng câu đố khá phong phú đã là đề tài cho cuốn sách Câu đố Việt Nam của Nguyễn Văn Trung 494tr. Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1986 (viết tắt CĐVT). Những công trình về câu đố in ở Miền Nam trước 1975 vừa ghi ở trên là dựa vào bảng “Tài liệu tham khảo” in trong sách này (tr. 219). Sách CĐVT gồm 2 phần lớn. Phần đầu “một lối nhìn câu đố” khảo luận về nguồn gốc, chức năng, phân loại, khía cạnh văn chương, nội dung phản ánh phong tục nếp sống của câu đố trên 200 trang. Phần sau “Sưu tầm phân loại câu đố” trên 250 trang, tập hợp 1512 câu đố, xếp theo bảng phân loại, kèm ngay lời giải sau mỗi câu. Sách có ưu điểm lớn, hơn TNPD và CĐVG là có phần chú thích ở cuối sách để làm sáng tỏ những chỗ xét ra cần thiết. Câu đố thường dùng ngôn từ cô đọng, nhiều hình ảnh và thủ pháp tu từ học, lại thường đề cập nhiều sự vật, sự việc trong xã hội cũ đã trở thành phần nào xa lạ đối với hiện tại nên những lời chú giải thường rất hữu ích có đối tượng chữ Hán, chú thích lại càng cần thiết đối với nhiều người chưa thật am tường lối chữ hình khối này.

Sách CĐVT viết rất công phu. Tuy nhiên riêng về mảng câu đố về chữ Hán - CĐVT gọi là “xuất Hán tự” - có nhiều chỗ cần bàn lại. Bài viết này nhằm góp một số ý kiến về những câu đố loại trên, được ghi trong CĐVT dưới mục “chữ nho (xuất Hán tự)” tr. 407-415, câu đố số 1425-1488, kèm phần chú thích tr. 489-492. Thứ nhất, có khá nhiều lỗi ấn loát (Sách CĐVT có kèm 1 tờ đính chính những lỗi từ tr. 19 đến tr. 222, phần câu đố về chữ Hán nằm ở tr. 407-415, có thể có đính chính ở 1 tờ khác, mà sách trong tay chúng tôi không có). Sau nữa, có nhiều chỗ cần làm sáng tỏ thêm ở hai mặt: lời ra đố và lời giải. Chúng tôi cũng ghi thêm một số câu đố mà chúng tôi được biết về loại này, và cuối cùng có một số nhận xét khái quát nhỏ, mong góp thêm chút ít tư liệu tìm hiểu thêm về mảng câu đố loại này (Bài viết này có ghi tư liệu so sánh lấy ở các sách TNPD (Q2, bản in, Nxb Minh Đức, Hà Nội, 1957) và CĐVG (sđd). Khi dẫn TNPD, không ghi rõ số câu số trang, vì câu đố được sắp xếp theo mẫu tự ABC của từ đầu nên tìm kiếm dễ dàng; còn khi dẫn CĐVG, có ghi số câu (viết tắt: c) nằm trong khoảng những trang 101-104 cuốn sách).

1 - Một số ý kiến nhằm sơ bộ đính chính bổ sung phần câu đố về “chữ Nho” (theo thứ tự số câu trong CĐVT tr. 407-415).

- Câu 1426:

Hình như con nhạn bay phi
Một bên xấu một bên phì
Mỗi niên tiến nhất nguyệt
Mỗi nguyệt tiến tam kỳ
Lưỡng nhạn, lưỡng nhạn song phi
Nhứt nhạn xấu, nhứt nhạn phì
Mỗi nhứt niên phùng nhứt nguyệt
Mỗi nhứt nguyệt, ngộ tam kỳ

- Chữ Bát

Câu này có chú thích (tr.489): “Bát”: tám; đôi nhạn bay đôi, một nhạn ốm, một nhạn mập, mỗi năm gặp một tháng, mỗi tháng gặp ba lần:”. Thực ra đây là 2 câu đố, mỗi câu 4 dòng, nhưng rất giống nhau, có thể coi chỉ là một câu với vài ba chữ khác biệt không quan trọng. Bốn dòng câu dưới hoàn toàn chữ Hán, được dịch ở phần chú thích. Câu trên có 2 dòng cuối cũng hoàn toàn chữ Hán nhưng không được dịch. Trong 2 câu này, chữ “tiền” có lẽ là chữ “kiến” nghĩa hợp hơn. Mỗi niên kiến nhất nhất nguyệt, mỗi nguyệt kiến tam kỳ” có nghĩa “mỗi năm thấy một tháng, mỗi tháng thấy 3 lần”. Chữ “xấu” ở những dòng trên cần sửa là “sấu” (chữ Hán nghĩa là “gầy”) cho đúng chính tả (TNPD và CĐVG c 41 đều chỉ ghi 4 câu đầu, và cùng ghi “tiến” và “xấu xa”). chữ “Sấu” được CĐVT dịch là “ốm” là tiếng miền nam, trương đương với “gầy” ngoài Bắc.

Về câu đố này, có thể ghi thêm một dị bản ngắn gọn và súc tích, được giải bằng chữ “bát” đồng âm chỉ đồ dùng trong bữa ăn: “Nhất diện dưỡng mi, Nhất sấu nhất phì. Nhất niên nhất nguyệt. Nhất nhật tam kỳ” (một mặt hai lông mày, một gầy một béo, một năm một tháng, một ngày 3 lần). Câu này tương truyền của người Tàu đố Mạc Đĩnh Chi (X. Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1965, tr. 84).

- Câu 1427:

Chênh chênh bóng nguyệt xế mành
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao

- Chữ Bao.

Câu này không có chú thích ở phần cuối sách. Lời giải “chữ Bao” có lẽ in lầm, sửa là chữ “bào” là bọc nhau (hau bọc rau), muôi bào thai trong bụng mẹ. “Bào” được viết với chữ “nguyệt” nói ở dòng trên, bên chữ “bao” nói ở dòng dưới (chữ “nguyệt” đúng ra là chữ “nhục” viết theo một dạng khác. Chữ “bào” được xếp vào bộ “nhục” - nghĩa là “thịt” - trong tự điển. Nên ghi thêm câu đố này “tập Kiều”: lấy 2 câu (số 185 và 214) trong Kiều ghép vào nhau.

- Câu 1428:

Khi nào thằng ngốc làm vua
Cha con nhà Nguyễn bỏ chùa mà đi.

- Chữ Bảo

Câu này không được chú thích. Nên bổ sung: chữ “bảo” viết với chữ “nhân” - là người - (chữ “nhân đứng”) bên chữ “ngai” là “ngốc, si đần”. Cũng nên ghi thêm câu này xuất hiện khoảng trước Cách mạng tháng 8, coi như câu sấm báo trước sự sụp đổ của triều Nguyễn khi xuất hiện niên hiệu vua bắt đầu bằng chữ “bảo” (Bảo Đại) TNPD và CĐVG không có câu này.

- Câu 1430:

Trọc đầu mang tiếng bất lương
Chẳng vương một tí, để vương còn gì?

- Chữ Chủ

Câu này có trong TNPD, có khác ở dòng 2 “để vương” ghi là “đế” vương. CĐVN không chú thích. Xét kỹ, tại sao “trọc đầu” lại “bất lương”. Đúng ra cả câu phải là:

“Trọc đầu mà được làm vương.
Còn đầu làm chúa, ai đương được nào?

(chữ “chủ” cũng đọc là “chúa” khi chuyển thành chữ Nôm)

- Câu 1431:

Chữ thập dập chữ viết, chữ viết dập chữ thập.

- Chữ Khương

CĐVN phần chú thích (tr.489): chữ khương là gừng. Nhưng ta biết chữ Hán này viết gồm: bộ thảo đầu trên chữ nhất, chữ điền rồi lại chữ nhất chữ điền nữa, trên chữ nhất tột cùng. Như vậy không sát với lời câu đố. TNPD có ghi câu này chỉ khác chỗ thay “dập” bằng “đập” và giảng là chữ Chương, nhưng 3 chữ Hán: thập, lập lại thập nữa viết liền nhau không thành chữ Chương. Cần sửa câu này theo CĐVG (c 37): “Chữ lập dập chữ viết, chữ viết dập chữ thập” giải là chữ Chương (một bài văn) gồm những chữ lập, viết, thập viết liền nhau từ trên xuống dưới.

- Câu 1432:

Đất sao đất ở trong cung
Ruộng thời hai mẫu, bờ chung bà bờ

- Chữ Sương

Câu này có chú thích (tr.489): một bên là bán cung, trên dưới hai chữ điền, vắt ngang ba chữ nhứt: “cương vực biên cương”. Như vậy chữ “sương” ghi sau câu 1432 in nhầm, phải sửa là “cương”. Và nên sửa câu chú thích: “Một bên là chữ cung, có chữ thổ bên trong nét vòng ở phía dưới...” (TNPD và CĐVG không ghi câu này).

- Câu 1433:

Thằng nào bất hiếu thế kia
Cỡi lên lưng bố ở lì không buông

- Chữ Cửu (lâu dài)

Câu này không có trong TNPD và CĐVG và không được chú thích trong CĐVT. Lời giảng: chữ cửu (lâu dà) xét chưa thật sát, chữ này trong tự điển Khang Hi ở bộ “Phiết” (hay “phiệt”, có 3 mét, còn theo câu đó thì con cưỡi lưng bố tức 2 người, 2 chữ “nhân” tức 4 nét. Chữ “cửu” được giảng: hình một người 2 chân sau bị vật cản lại, nên đi chậm, chuyển nghĩa thành “lâu, bền”. Như vậy không phải là “người cưỡi người” như trong câu đố. May có 4 chữ ở dòng 2 “ở lì không buông” gợi ý “lâu dài” và khiến thấy phải giải bằng chữ “cửu”. Nhưng dù sao, lời dùng để đố không thật sát với vật đố tức là thiếu một yếu tố cơ bản của câu đố.

- Câu 1434:

Khen cho thằng nhỏ có tài
Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm

- Chữ Dõng

Câu này có chú thích : Mạnh (khấu mẻ ở trên là Mão, chữ Nam ở dưới là trai). Theo Nguyễn Văn Xứng là chữ Dâng (có lẽ là chữ Dong in lầm - TT) còn theo Từ Phát là chữ Tự, gồm 2 chữ: Miên: mái nhà; Tử: con, thằng nhỏ. Theo lời câu đố, giảng là chữ “tự” (nghĩa là “chữ viết”) hợp hơn, vì “thằng nhỏ” hợp với chữ “tử” trong chữ “tự” hơn là với chữ “Nam” viết chữ “điền” trên chữ “lực” được hiểu là người lớn (thượng phu) “dùng sức để làm ruộng”.

- Câu 1435:

Từ lộ vấn tân, Tử viết thủy tai
Thủy tai hà thu ư thủy

- Chữ Duật

TNPD và CĐVG c.46, tr. 103 có câu này, cũng ghi thành 2 dòng, nhưng ở dòng 2 ghi “hà thủ ư thủy” và cũng giảng là chữ “duật”. CĐVT không dịch và không chú thích. Câu này phải đổi chữ “thu” thành chữ “thủ”, như trong TNPD và phải viết 4 chữ “thủy tai thủy tai” liền nhau, không thể ngắt xuống dòng quãng giữa (TNPd và CĐ VG đều ngắt câu và xuống dòng giữa 4 chữ “thủy tai thủy tai”. Câu đố sẽ là “Tử Lộ vấn tân, Tử viết: Thủy tai, thủy tai, hà thủ ư thủy”. Dịch “Tử Lộ hỏi bến nước, Phu tử (tức Khổng tử) nói: “Nước ư, nước ư, lấy gì ở nước” (hay “giữ gì ở nước”, tùy theo cách viết chữ “thủ”, nhưng dùng chữ “thủ” có nghĩa là “lấy” có lẽ hợp hơn). Chữ Hán tân (bến nước) gồm bộ “thủy” (3 chấm) bên chữ “duật”, “lấy gì ở nước” tức coi nước không cần, có thể bỏ đi, còn lại chữ “duật”. “Thử Lộ vấn tân” là 4 chữ liền trong sách Luận ngữ (thiên Vi tử): “Trường Thư và Kiệt Nịch đang cùng làm ruộng, Khổng Tử qua đó, sai Tử Lộ hỏi bến đò” (Trường Thư Kiệt Nịch ngẫu nhi canh, Khổng Tử quá chi, sử Tử Lộ vấn tân yên). Cả đoạn sau trong câu đố là thêm vào, không có trong Luận ngữ.

- Câu 1436:

Tiền diện thị nam nhi chi chí
Hậu bối nãi nữ nhi chi hình

Hay:

Trông mặt thì ra hạng nam nhi có chí
Nhưng sau lại ra hình con gái

- Chữ Dương

Câu này được ghi thành 4 dòng, giữa có chữ “Hay, mới đọc có thể tưởng là 2 câu đố, mỗi câu 2 dòng, chép chung một số. Thực ra 2 dòng dưới chỉ là dịch 2 dòng trên toàn bằng chữ Hán và nên dịch sát hơn: “Mă.t trước là con trai có chí (hoặc: ghi dáng con trai); phía sau là hình con gái”. Lời giải là chữ Dương và có chú thích (tr.490): “Dương: con cô; chấm phẩy trên đều như đàn ông (chít khăn) sổ dài như tóc đuôi gà phụ nữ”. Giải thích như vậy khá là khiên cưỡng, hình ảnh so sánh không sát, thiếu giá trị thuyết phục. Cũng trong CĐVT, tr. 269 ở mục Câu đố loài vật (xuất thú) có câu 346:

Tiền diện khán nam nhơn chi chí
Hậu bối tri nữ thị chi bình

- Con dê

Sách có dịch ở phần chú thích (tr.466): “Trước mặt những ngỡ trai, sau lưng mới hay là giá”. Lời giải là con dê, nên sửa là “dê cái” sát hơn. “Mặt trước hi dáng con trai” vì loài dê - đực hay cái đều có râu, đặc điểm của nam nhi, còn phía sau thấy hình con gái” vì là dê cái. Hai câu 340 và 1436 lời lẽ gần giống nhau, có thể coi như chỉ là một. Nên xoá câu 1436 trong mục những câu đố về chữ Hán, vì lời giải thuộc về một loài vật hợp hơn (TNPD và CĐVG không có câu này).

- Câu 1488

Lưỡng nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điện đảo sơn
Lưỡng vuông tranh nhất quới
Tứ khẩu tung hoành gian

- Chữ Điền

Dòng 3 ở trên cần sửa: Lưỡng vương tranh nhất quốc. Đây chắc chắn là in nhầm vì giải nghĩa và chú thích đều đúng. CĐVT còn ghi tiếp 2 câu đố nữa đều giải bằng chữ Điền, ở cả 2 câu đều có chữ Vương và Quốc in sai, cần sửa. TNPD không có câu này. CĐVG có ghi câu trên (c 53,tr. 103) không có 2 câu sau trong CĐVT.

- Câu 1439:

Anh đi đã mấy thu chầy
Từ tị đến dậu kể đầy ngũ niên

- Chữ Dậu

Phần chú thích (tr.490) ghi thứ tự 12 chi và nói: từ tị số 6) đến dậu (số 10) là 5 năm, ý nhắc mấy chữ “đã đầy 5 năm” ở dòng 2. Nhưng câu đố nói tới cả “tị” lẫn “Dậu” nên giảng là chữ “phối” do 2 chữ dậu và tị hợp thành có lẽ sát hơn (TNPD và CĐVG không ghi câu này).

- Câu 1441:

Đất cứng mà cắm sào sâu
Con lay chẳng nổi cho bâu đầu vào

- Chữ Giáo

Chú thích (tr. 490): “Giáo: dạy: chữ thổ phết một bên, chữ tử (con) ở dưới, kế bên chữ phụ (cha)”. Giải thích đúng, nhưng câu ra không thật chính xác. Chữ “giáo” nằm trong bộ “phốc”, có nghĩa là “đánh nhẹ”, bên trái là chữ “hiếu” bên phải là chữ “phốc” viết dưới dạng giống như chữ “vặn”, dù sao cũng không thể là chữ “phụ”. TNPD và CĐVG không có câu trên.

- Câu 1443:

Bà già, bả té xuống sông
Con cháu xúm lại mà bồng bả lên.

- Chữ Hải

Chú thích (tr.490) “Biển (chấm thỉ là nước; kế bên chữ mẫu: mẹ: bà già)”. “Bà già” là tiếng địa phương; “con cháu xúm lại” chưa thật sát. Có thể đổi: “Mẹ già mẹ té xuống sông. Một người con tới vội bồng mẹ lên”. Chữ Hải (biển) gồm 3 chấm thủy (nước đây chỉ sông), chữ Mẫu (mẹ) bên trên có nét phết nhỏ bên nét ngang coi như chữ Nhân (người).

- Câu 1414:

Một người đứng dựng cây sào
Có ông thợ mộc đang bào cây tên

- Chữ Hầu

Chú thích (tr.491): “Là Chực (nhơn đứng sổ đôi, chữ công trên chữ thí (chữ “thí” in nhầm, sửa là “thỉ”. Với nghĩa trên chữ giải đố phải là chữ “hậu” (chờ đợi, hi vọng) không phải chữ “hầu” không có nét sổ cạnh “nhân đứng” và có nghĩa là một tước phong). Nên ghi thêm: phần trên ở bộ phận bên phải gọi là “ông thợ” tức coi như chữ “công” chưa được thật sát, vì chỉ có 2 nét (chữ công có 3 nét). Người ra cấu đố có lẽ đã coi đây như là một chữ “công” viết thảo.

- Câu 1443:

Tàn che vua ngự sập vàng
Thuyền rồng đón dưới hai chàng đá treo

- Chữ Hiến

Câu này không có chú thích. TNPD không CĐVG (e.52, tr. 103) chép đúng hơn: Thuyền rồng đón dưới hai hàng đá treo, và giải là chữ Hiến. Nên giải thích “chữ Hiến từ trên xuống dưới gồm bộ miên (tàn che), chữ vương (vua), chữ tứ (hình thuyền rồng - theo đúng gốc chữ, tức chữ mục là mắt viết ngang), chữ tâm (hai chàng - đá treo). Nghiêm khắc mà nói dùng hình ảnh “hai hàng đá treo” để chỉ chữ tâm chưa thật sát. Một câu khác có lẽ hợp hơn:

Tàn che vua ngự sập vàng
Lòng dân ở khắp bốn phương vọng về

(bộ miên, chữ vương, chữ tứ, chữ tâm)

- Câu 1446:

Có tú mà chẳng có tài
Cầm ngang ngọn giáo đâm ngoài đít dê

- Chữ Hư

Không có chú thích. Lời giải: chữ Hư in lầm, cần sửa: chữ Hi như được ghi trong TNPD và CĐVG (c 33, tr. 101). Nên thêm phần chú giải: đây là chữ Hi trong tên vua Phục Hi, được viết dưới dạng: chữ Dương (con dê) ở trên, dưới là chữ Tú (đẹp) bên chữ Qua (loại giáo mác), đầu chữ Qua sát với cuối chữ Dương, như ngọn giáo đâm vào phía dưới chữ này. Nhưng viết cho thật đúng nét chữ thì trong chữ Hi, ở phía dưới chữ Dương bên trái không phải là chữ Tú (viết chữ Hòa trên chữ Nãi) mà là một chữ (không có tên) viết chữ Hòa trên chữ Khảo. Đây thuộc loại câu đố chữ không đòi hỏi chữ Hán phải viết thật chính qui, mà chấp nhận một lối viết “đại khái” miễn là không gây lầm lẫn chữ này với chữ khác. Đi sâu hơn nữa về cách viết chữ Hi, dưới chữ Dương không phải là chữ Tú (hoặc chữ không tên: Hòa trên Khảo) và chữ Qua, 2 chữ đứng cạnh nhau mà là một chữ Ngã có chữ Hề (tiếng đệm trong những bài ca từ) đặt phía dưới bộ phận bên trái chữ Ngã (X.L.Wieger, Carac tères chinois - Étymologie, graphies, lexiques (chữ Hán: tự nguyên, tự dạng, tự vựng) Hiên - niên 1932, tr. 179, mục 71Q.

- Câu 1450:

Dụng công tứ khẩu khi thành

- Chữ Khi

CĐVN không chú thích. Cần sửa chỗ in sai câu này: “Dụng công tứ khẩu khí thành” và lời giải: chữ Khí. Nên giải thích thêm: chữ công (người thợ) giữa 4 chữ khẩu (miệng), 2 chữ ở trên, 2 chữ ở dưới thành chữ khí (đồ dùng).

- Câu 1452:

Ở nhà chống gậy cây ra
Hỏi cô bán gạo có nhà hay không?

- Chữ Lâu (nhà lầu)

Chú thích tr.491: “chữ lâu: chữ Mộc một bên, Mễ ở trên, Nữ ở dưới”. Nên chú ý: chữ lâu trên thuộc loại chữ mới xuất hiện sau này. Trong tự điển Khang Hi không thấy có chữ này, chỉ ghi chữ Lâu bên trái là bộ mộc, bên phải là chữ đồng âm “lâu” tên một vì sao (TNPD không có câu này).

- Câu 1453:

Cô Lan mà đứng cửa đông
Đố ai đối được làm chồng cô Lan

- Chữ Lan

Câu này không có chú thích. Nên giải thích đây là loại câu đố “vừa đố vừa giảng”. Lời giải (chữ Lan) được nói tới 2 lần, ở đầu dòng 1 và cuối dòng 2, và được cấu tạo với chữ “đông” nằm trong chữ “môn” (cửa). Thực ra đây là một lối viết sai. Trong cách viết chính qui, phải thay chữ “đông” bằng chữ “giản” (câu này không có trong TNPD. CĐVG có : c.51 tr. 103). Nhưng dù sao phải nhận rằng việc viết chữ Lan có chữ Đông (không phải chữ Giản) trong chữ Môn khá phổ biến, coi như được mặc nhiên công nhận. Theo sách Lịch triều Đăng Khoa lục q.1 tr.13a ghi Nhữ Văn Lan tiến sĩ khoa 1463, tr. 14a ghi Đoàn Lạn hoàng giáp khoa 1446, 2 chữ Lan và Lạn đều viết với chữ Đông bên trong chữ Môn.

- Câu 1454:

Thượng bất tại thượng, hạ bất tại hạ
Chỉ nghi tại hạ, bất nghi tại thượng.

- Chữ Nhất

Câu này không dịch nghĩa và không có chú thích, dễ khiến người đọc ngỡ ngàng và không thấy mặt dí dỏm của câu đố. Đề nghị thêm:

Dịch từng chữ:

“Trên không ở trên, dưới không ở dưới
Chỉ nên ở dưới, không nên ở trên”

Dòng trên phải hiểu: “ở chữ Thượng không ở trên, ở chữ Hạ không ở dưới” tức chữ Nhất nét ngang nằm bên dưới chữ thượng và bên trên chữ hạ. Dòng 2 ý nói: chỉ nên ở chữ hạ (vì được ở bên trên), không nên ở chữ Thượng (vì phải nằm bên dưới), tức cũng chỉ chữ Nhất (TNPD không có. Có trong CĐVG c.50 tr. 103).

- Câu 1455:

Hạng Vũ dương niên thị hữu công
Hữu công hoàn thị phân vô công
Bát thiên tử đệ kim hà tại
Chỉ vô diện mục kiến Giang Đông

- Chữ Nhứt

Chú thích tr. 491: “chữ Hạng có chữ Công một bên, đem bỏ chữ Công đi, rồi bỏ cả chữ bát, chữ mục, chỉ còn một nét ngang là chữ Nhứt (Hạng Vũ dương niên hỏi có công, có công rồi hoá không công, tàm ngàn đệ tử đi đâu mất, không còn mày mặt thấy Giang Đông)”.

Cần sửa lỗi in ở dòng 2: sửa “phân” thành “phản”. Và nên dịch lại 2 dòng 1 và 2 “Hạng Vũ năm xưa cậy mình có công, có công rồi ngược lại thành không công”. Đồng thời giải thích thêm: chữ Hạng có chữ Công bên trái, không có “công” tức còn chữ “hiệt” ở bên phải, chữ này lại bỏ chữ “bát” (ở cuối), bỏ chữ “mục” (ở giữa), còn lại chữ Nhứt. Thực ra, ngoài chữ Nhứt còn thêm một nét phẩy dưới chữ này, như vậy câu đố chưa thật sát. Tuy nhiên vẫn là một câu đố hay. Bốn câu thơ kể lại một sự kiện lịch sử: Hạng Vũ tranh giành thiên hạ với Lưu Bang mới đầu thắng, rốt cuộc bị thua. Theo sách Sử ký, Hạng vũ đã đưa 8000 con em ở Giang Đông (khu vực phía đông sông Trường Giang) vượt sông sang phía tây để đánh nhà Tần. Bốn câu vịnh sử lại thành câu đố chữ (TNPD và CĐVG không có câu này).

- Câu 1450:

Hạ bút tây thành nam chí bắc
Hành cung bán nguyệt điểu tam tinh
Tam nhân đồng kỹ ngưu vô giác
Nhất điểm tam hoành, khẩu cận thanh

- Nhất tâm phụng thỉnh

Giảng:

Hạ bút kéo dài một cái như bức tường từ nam chí bắc (chữ nhứt)

Trống hành cung như nửa mặt trăng với ba ngôi sao (chữ Tâm)

Ba người cùng cưỡi một con trâu không sừng (chữ Phụng).

Một chấm, ba ngang với chữ khẩu gần chữ Thanh (chữ Thỉnh).

Chú thích (tr. 491): Một lòng đón mời.

- Về lời câu đố, có mấy chỗ ngờ là chép sai, chúng tôi không nắm được nguyên bản nên mạnh dạn theo thiển kiến thử đề nghị tạm sửa:

Dòng 1: “Hạ bút tây thành” có lẽ là “Hạ bút tạo thành”

Dòng 2: “Hành cung bán nguyệt” CĐVN “giảng”: trống hành cung như nửa mặt trăng”, có lẽ “trông hành cung...” in lầm, nếu thế thì là “hoành cung” (chiếc cung nằm ngang); “điểu tam tinh” không rõ nghĩa, có lẽ là “điện tam tinh” làm nền cho 3 ngôi sao.

Dòng 4: Sửa vị trí dấu phẩy: “nhất điểm, tam hoành, khẩu, cận Thanh (chữ Thỉnh). Như vậy 4 câu được sửa lại như sau:

Hạ bút tạo thành nam chí bắc
Hoành cung bán nguyệt điện tam tinh
Tam nhân đồng kỵ ngưu giác,
Nhất điểm, tam hoành khẩu, cận thanh

- Về cách “dịch và giảng” để hợp với mấy chỗ đề nghị điều chỉnh ở trên, có thể tạm dịch như sau:

Hạ bút tạo nên bức tường thành từ nam chí bắc (chữ Nhứt)

Cung nằm ngang hình nửa, vầng trăng dâng lễ (hay làm nền) ba ngôi sao (chữ tâm)

Ba người cùng cưỡi một trâu không sừng (chữ Phụng)

Một chấm, ba ngang với chữ Khẩu (tức chữ ngôn) gần chữ Thanh (chữ Thỉnh)

- Về chú thích, dịch “nhứt tâm phụng thỉnh” bằng “một lòng đón mời”, đề nghị sửa: “một lòng kính mời” (câu trên không có trong TNPD và CĐVG).

- Câu 1457:

Nhị cửu nhất thập bát, nhi nhi nhất thập bát
Tam bát nhị thập tứ, nhi nhi nhị thập tứ
Tứ thất nhị thập bát, nhi nhi thập bát
Ngũ lục tam thập nhị, nhi nhi tam thập chi

- Hai chữ Thập Nhất

CĐVN không dịch và không chú thích. Câu này có nhiều chỗ in sai. Dựa vào TNPD và CĐVG (c 44 tr 102) có thể sửa lại và dịch như sau:

Nhị cửu nhất thập bát, nhị phi nhất thập bát (hai chín mười tám, mà không phải mười tám)

Tam bát nhị thập tứ, nhi phi nhị thập tứ (ba tám hai mươi bốn, mà không phải hai mươi bốn)

Tứ thất nhị thập bát, nhi phi nhị thập bát (bốn bảy hai mươi tám, mà không phải hai mươi tám)

Ngũ lục tam thập chi, nhi phi tam thập chi (năm sáu ba mươi, mà không phải ba mươi).

Trong câu chữ Hán này, chữ Chi thêm cuối 2 đoạn câu chỉ là chữ đệm, cho êm giọng, để thành 2 đoạn câu đủ 10 chữ như ba câu trên. TNPD và sau đó CĐVG giải là “hai chữ thập, thất” là vô nghĩa, “nhập, thất”, phải sửa là “thập nhất”. Nhưng giải như CĐVT “hai chữ Thập Nhất” cũng chưa thật đúng. Đây không phải “hai chữ thập nhất” mà là con số thập nhất (mười một). Dòng đầu ý nói: “Hai chín (tức hai nhân với chín) là mười tám, mà không phải là mười tám (tức không phải hai nhân chín, mà là hai cộng chín, thành con số mười một). Các dòng sau đều nghĩa như vậy, và đều giải bằng con số mười một.

Như vậy đây không phải là đố chữ, phân loại vào mục “xuất Hán tự” là không đúng. Tuy đố dưới dạng chữ Hán, nó cũng như nhiều câu hoàn toàn dưới dạng chữ Hán khác, như câu 496, đố cái mạng nhện, câu 923 đố cái điều trong CĐVN.

- Câu 1458:

Có người đứng giữa đầu trâu
Mười hai tháng chẵn, dãi dầu tuyết sương

- Chữ Niên

“Chú thích (tr 491): “Niên là năm. Chữ nhân ở trên, chữ Ngưu ở dưới. Lối chiết tự gượng ép”. Gượng ép, vì chữ “niên” không thể viết “nhân trên ngưu dưới”. Lời ra đố không chính xác, lời giải của người ra đố không có sức thuyết phục. Một câu đố như thế không thể lưu truyền (TNPD và CĐVG không có câu này).

- Câu 1460:

Ba ngang hai sổ bốn chấm chưn
Cơn bát loạn chấm đầu loạn xạ

- Chữ mã

Chú thích: “Ngựa chạy, đầu mổ liên tục” (tr 491). Lời chú thích giải nghĩa mấy chữ “chấm đầu loạn xạ”. Nên chú ý: dòng đầu “ba ngang hai sổ bốn chấm chưn” chưa bao gồm đủ nét của chữ “mã”. Còn thiếu một nét “ngang vòng” bên trên “bốn chấm chưn”. Dòng 2 lời tối nghĩa. Đây cũng như câu 1458 nói trên, thuộc loại câu đố thiếu chính xác, không thấy có trong TNPD cũng như trong CĐVG.

- Câu 1462:

Con dê ăn cỏ đầu non
Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi

- Chữ Mỹ

Chú thích: Mỹ là đẹp, ở trên chữ Dương, dưới chữ Hỏa (x tr 491). Đúng ra, chữ Mỹ viết với chữ Dương trên chữ Đại. Theo tự điển Khang Hi. “Dương (dê) trên Đại (lớn), Dê lớn là Tốt, là đẹp (mỹ). Viết Dương trên Khuyển (chó) trên hỏa (lửa) là sai”. Có lẽ người ra đố đã dựa vào viết sai trái nhưng khá phổ biến (Dương trên hỏa) để viết chữ Mỹ, tuy cách viết này đã bị Từ điển Khang Hi cho là sai, và không được công nhận trong các tự điển thông thường. Có lẽ lời giải của câu này là chữ Cao là dê con. Chữ Dương không có nét sổ cuối chữ (không còn đuối) trên bốn chấm hoả.

- Câu 1465:

Đầu như dao, vĩ như câu
Trung ương hành quảng tứ giốc lục chừu
Hữu diện phù lưỡng đạo
Tả biên song thược ngưu

- Chữ Qui

TNPD cũng có câu này, chỉ khác 1 chữ ở dòng 3: “hữu diện phụ lưỡng đạo” và cũng giảng là chữ Quy, không nói rõ “quy” nào. Theo dòng 1 câu đố 9. Bốn câu tạm cho là có nghĩa như sau (ức đoán vì theo âm đoán chữ, và nghĩa câu không thông suốt): Đầu như dao như chữ Đao), đuôi như cái móc (nét móc), ở giữa có lối đi rộng, 4 góc 6 chỗ bị rút (sửa “lục trừu cho đúng chính tả), bên phải có 2 đường phụ vào, bên trái có 2 con bò thui (sửa “thược ngưu” thành “chước ngưu” cho đúng âm đọc). Theo dòng 1 của câu đố thì chữ Quy trong lời giải có nghĩa “con rùa”. Nhưng 3 dòng sau không rõ nghĩa, không sát hình chữ Quy. Mặc dầu được ghi trong TNPD và CĐVG (quyển sau chắc chỉ sao lại quyển trước), câu này nên để ra ngoài danh sách, hoặc phụ lục tồn nghi.

- Câu 1468:

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đành nâng nét ngang

- Chữ Phụ

Câu này không có trong TNPD và CĐVG. CĐVG có chú thích (tr 492, in lầm số mục câu là 1467): “Thiên nhô đầu ra là chữ Phu (ý nói đã có chồng rồi)”. Đầu tiên cần sửa 2 chỗ in sai ở câu 1468 tr 413, dòng 2: “Phận liễu sao đành nẩy nét ngang” và lời giải: chữ Phu. Có lẽ rất ít người không biết 2 câu này nằm trong bài thơ “Không chồng mà chửa” của Hồ Xuân Hương. Câu trên có nghĩa chưa chồng (chưa thành chữ “phụ”), câu dưới có nghĩa “đã có con” (đã thành chữ “tử”). Chữ Thiên (trời) nhô đầu lên là chữ Phu (chồng) chữ Liễu (kết thúc khác chữ Liễu tên cây) nẩy nét ngang thành chữ tử (con). Như vậy cả 2 câu không phải chỉ là chữ Phu mà còn thêm chữ Tử. Thực ra 2 câu này dùng lối chơi chữ, thêm nét chữ để nói một hiện tượng, không hẳn là câu đố chữ, nhất là câu trên.

- Câu 1469:

Hội thóc, hột thóc, phẩy đuôi tre thập
Trên nhất dưới bẻ què lê

- Chữ Pháp

Không có chú thích. TNPD không có câu này. In nhầm, thiếu, ngắt câu xuống dòng không đúng chỗ. Đề nghị sửa:

Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê
Thập trên nhất dưới, chân bẻ què lê.

Dòng trên: 3 chấm thủy (bên trái); dòng dưới, chữ Khứ (bên phải) của chữ Pháp (chữ Khứ gồm chữ thập, chữ nhất và hình “chân bẻ què lê” tức chữ tư hay ti.

- Câu 1471:

Khuôn vân đầu tám khấn, mười một chữ lai
Mười hai chữ lệ, vô số chữ nhơn
Chấm chôn đá vào, gài nhau quai xuôi
Chữ nhược xung quanh, chữ danh bốn bề
Chữ hề chính giữa, với nửa chữ sư

- Chữ Sảnh

Câu này không có chú thích. Không hiểu chữ Sảnh viết thế nào, và chữ gì lại gồm nhiều chữ - bộ phận, phân bố phức tạp như trong câu đố. TNPD không có câu này.

- Câu 1472:

Tam điểm như tinh lượng
Hoành câu tự nguyệt tà
Phi mão tùng thử đắc
Hữu (tổ) phật giả ư tha

- Chữ Tâm

- Câu 1473:

Ba chấm như ngôi sao sáng
Một vành ngang như trăng đã xế
Loài không có lồng cũng có nó
Phật cũng thường ở trong đó

- Chữ Tâm

Hai câu này không có chú thích. Hai câu đặt dưới 2 số thực ra không phải là câu khác nhau, câu sau chỉ là dịch câu trước toàn chữ Hán. Theo nghĩa ở câu sau, có thể sửa câu trên, dòng 3: “phi mao tùng thử đắc”, dòng 4 “Hữu Phật (Phật tổ) giả ư tha”. Ở câu 1473, “một vành ngang” dịch “hoành câu” ở câu trên chưa thật sát. Xin tạm dịch lại “Ba chấm như sau sáng. Lưỡi giăm nằm ngang như vành trăng xế. Loài không lông cũng có nó. Phật thường ngụ trong đó”. Hai câu chỉ là một, trong đó 2 dòng trên nói về hình nét chữ, 2 dòng dưới nói về nghĩa chữ. Dòng cuối dựa vào giáo lý “phật tức tâm, tâm tức Phậ” của đạo Phật. Câu trên không có trong TNPD và CĐVG.

- Câu 1474:

Gió cao ngọn lửa càng cao
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời

- Chữ Tâm

Không có chú thích trong CĐVT, Thiết nghĩ nên ghi thêm: đây là câu đố tập Kiều (c. 1657 và c. 1638 trong Truyện Kiều). Riêng câu 8 chữ tả cảnh đồng thời tả tình ý của Thúy Kiều ngắm cảnh, nhớ tới Thúc Kỳ Tâm. Chỉ 1 dòng này cũng đủ dùng để đố chữ Tâm, dòng trên có thể bỏ đi. Nếu vẫn giữ dòng trên, có thể giải câu đố này bằng chữ “lân”, viết 2 chữ Hỏa chồng nhau (tức chữ Viêm là nóng) trên chữ Tâm, đọc là “lân” (hay “liên”), chính là chữ Lân hay Liên đồng âm, có nghĩa là “thương tiếc, thương yêu” viết theo lối cổ. Đây có thể cũng là một lối đố hiểm hóc, chọn những chữ ít dùng, ít người biết để thử tài nhau (không có câu này trong TNPD và CĐVG).

- Câu 1475:

Một vai mà kề hai chân
Con dao cái cuốc để gần một bên

- Chữ Tắc

Không có chú thích. Dòng 1 phải sửa lại vì in nhầm:

Một vai hai chân

như được ghi trong TNPD và nên nói rõ ở lời giải: chữ Tắc có nghĩa “khuôn phép” vì có nhiều chữ đồng âm. Dòng 1 hình Đao là chữ Tắc. Dòng 1 có thể đổi thành “một mắt mà có hai chân” cùng chữ Mục, thêm 2 nét bên dưới để hình dung chữ Bối.

- Câu 1476:

Anh kia hai ngón xuyên tâm

- Chữ Tắc

Câu in sai. Cần sửa theo TNPD và CĐVG (c. 32 tr. 101)

Anh kia hay ngón xuyên tâm

và sửa lời giải - Chữ Tất.

- Câu 1477:

Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai

- Chữ Thập

Không có chú thích. Nên ghi thêm xuất xứ: đây là câu đố tập Kiều (c.1253. c. 2472). Lời giải là chữ Thập, thật ra chỉ cần một dòng 2 (dọc ngang: nét đọc cắt nét ngang thành chữ Thập. Kết hợp cả 2 dòng có lẽ phải giải là chữ viết Cửu trên Thập “nhó ơn chín chữ ..” ở dòng 1 chữ này là một cách viết của chữ tốt (cuối cùng, hết). Đây cũng là một lối đố hóc búa để thử trình độ hiểu biết của người được đố (Câu này không có trong TNPD và CĐVG).

- Câu 1478:

Tuần sau bỗng thấy hai người
Giang tay về chốn trường mai tự tình

- Chữ Thiên

Không có chú thích. Nên sửa lỗi chính tả: “giang tay” thành “dang tay” và sửa “trường mai” thành “trướng mai”. Đây là câu đố tập Kiều (câu 1555 và 2284). Giải là chữ Thiên, có lẽ chữ Thiên là trời, do chữ Nhị (hai) và chữ Nhân (người) hợp thành. Nhưng nếu thế có thể giải là chữ Phu (người chồng) cũng do 2 chữ Nhị và Nhân viết đè lên nhau. Hơn nữa theo kiểu câu đố này thì bất cứ câu nào có 2 tiếng “hai người” cũng thành câu đố! Thiết tưởng nên loại bỏ những câu thiếu chính xác và gượng ép như thế (không có câu này trong TNPD và CĐVG).

- Câu 1481:

Nhị hình, nhất thế, tứ chi, bát đầu
Tự bát, nhất bát, phi toàn ngưỡng lưu

- Chữ Tính

Câu này không có chú thích. TNPD và CĐVG (c. 44, tr. 102) có ghi, và giải là chữ Tính, không ghi nghĩa để xác định là chữ Tỉnh nào, và cũng không dịch câu đỗ chữ Hán. Đúng ra, câu này phải viết như sau:

Nhị “nhị” hình, nhất nhất thể, tứ giác bát đầu,
Nhất bái, nhất bát, phi toàn ngưỡng lưu

Dịch:

“Hai hai hình một một thể, bốn góc tám đầu
Một vái, một đố, suối nhảy tung, ngửa nhìn dòng nước”

Giải vào câu đố, câu này có nghĩa: hai hình chữ Nhị (một viết theo lối thường, một viết theo lối mã số thành một thể chữ là chữ Tỉnh (giếng nước). Bốn góc (của hình vuông ở giữa chữ) tám đầu (8 mũi nhọn quanh chữ). Cả dòng trên giải thích hình dáng chữ Tỉnh (giếng). Dòng dưới nói về động tác múc nước từ giếng lên: một lần cúi xuống (“một vái”) kéo gầu nước lên rồi đổ nước (“một đổ”), nước chảy tung toé (“suối nhảy tung”), vui nhìn dòng nước từ gầu tràn ra (“ngửa nhìn dòng nước”).

Câu đố khá bí hiểm vì lối dùng chữ nhiều nghĩa. “Nhị nhị hình” có nghĩa đơn giản là “2 lần 2 tức 4 hình” “Bốn hình, một thể” thật khó đoán là vật gì. Phải hiểu “nhị nhị hình” là 2 chữ Nhị viết thành 2 hình khác nhau, hình thông thường và hình “mã số” để hình thành chữ Tĩnh là giếng nước. “Tứ giác bát đầu” có nghĩa đen là 4 sừng 8 đầu, nhưng ở đây phải hiểu theo nghĩa khác là “4 góc, 8 đầu nét chữ”. Câu đố hiểm hóc, khó đoán, nhưng lời đố khi được giải lại rất hợp lý và sát với chữ định đố. Một câu đố hay.

- Câu 1482:

Câu xanh mới rủ trương đài
Thực lòng mình cũng nao nao lòng người

- Chữ Tính

Không có chú thích. Đây là câu Tập Kiều (câu 1227-492) cần sửa những chỗ in sai:

Lầu xanh mới rủ trướng đào.
Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người

- Chữ Tình

Giải là chữ Tình gồm chữ Thanh (màu xanh, ở dòng 1 bên bộ Tâm đứng (tim, lòng, ở dòng 2).

- Câu 1484:

Thù thổ tam điều lũy trúc

- Chữ Trúc

Không có chú thích. TNPD không có câu này. Lời ra đố khó hiểu, dù sao cũng không sát với lời giải. CĐVG (c 60 tr. 104) ghi như sau: “Thủ thổ tam điển lũy trúc” và giải: chữ Trúc. Lời ra đố ghi đúng, nhưng lời giải (chữ Trúc) không sát, phải sửa là chữ Lũy viết 3 chữ Điền trên chữ Thổ. Câu đố có thể dịch: “lấy đất 3 ruộng đắp lũy” có lẽ viết “Thủ tam điền Thổ trúc lũy” thì hợp với ngữ pháp chữ Hán hơn.

- Câu 1486:

Ruộng kia ai cất lên cao
Nửa vành trăng khuyết bao giữa trời

- Chữ

Cần sửa lỗi in sai ở dòng 2... ba sao giữa trời, và ở lời giải: “chữ Tư”. Câu này có chú thích: chữ Tư: riêng tư, tư lự (tr 492). Cần xoá bỏ 2 chữ “riêng tư”. Chữ Tư trong “tư lư” viết với chữ điền (ruộng) ở dòng 1) trên chữ Tâm (dòng 2) viết hoàn toàn khác với chữ Tư trong (riêng tư, công tư). Không có câu này trong TNPD và CĐVG.

- Câu 1487:

Đời người đến thế thì thôi
Ba thu dồn tại một ngày dai ghê

- Chữ Xuân

Không có chú thích. Nên ghi: đây là câu đố tập Kiều (Câu 2645, 248). Câu tập Kiều này không thật ổn vì lạc vần (“thôi” không cùng vần với “ngày”). Câu đối được giải là chữ Xuân, vì có chữ Nhân (người ở dòng trên) viết đè lên chữ Tam (“ba” trong “ba thu”, ở dòng 2). Giải như vậy chỉ là tạm được, vì nếu ghép như thế, thì có thể ghép “người” với “thu”, và lời giải là chữ Tiểu (nhìn) gồm chữ Nhân bên chữ Thu, hoặc ghép “người” với “dài” và lời giải là Chữ Trành viết Nhân bên Trường. Trành là tên loại ma đi liền với hổ, theo mê tín, người bị hổ giết thành ma trành ở bên cạnh hổ và chỉ được giải phóng đi đầu thai kiếp khác sau khi đã dun dủi một người khác cho bị hổ giết, thành ma trành mới thay thế mình.

Trên đây là một số nhận xét về những câu đố về chữ Hán trong sách CĐVG và chỉ ghi lại những câu có vấn đề hoặc cần giải thichs thêm. Trong những câu này có những câu có lẽ đã được chép lại sai, không có sự ăn khớp giữa lời đố và lời giải, hoặc lời đố khó hiểu (câu 1471, 1481, 1489...) Có những câu đố và giải thích đáng nhưng có những chỗ chắc chép sai vì không rõ nghĩa, như câu 1465 (chữ qui), câu 1430 (chữ mã). Ngoài ra, có những câu nên gạt ra ngoài loại câu đố về chữ Hán, như câu 1451, lời ra bằng chữ Hán nhưng lời giải là con số 11 (mười một), câu 1468 chỉ là 2 câu thơ chơi chữ của Hồ Xuân Hương, đổi nét và thêm nét vào 2 chữ Hán để diễn đạt ý “chưa chồng, có con” không phải là đố chữ.

II. BỔ SUNG PHẦN CÂU ĐỐ VỀ CHỮ HÁN (xuất Hán tự) trong CĐVT

- Về mặt sưu tầm, CĐVN đã tập hợp được một lượng số câu đố phong phú nhất cho đến nay. Riêng phần câu đố về chữ Hán, có thể bổ sung mấy câu sau đây:

- Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ai lạc tâm trường
Lực lai tương dịch

(Lưỡi mâu không có nách
Tìm không thấy dấu vết
Yêu thương đánh rơi cả tim ruột
Dồn sức lại, đấu với nhau)

Đây là một câu đố cùng loại với câu 1438 trong CĐVT (trạng nguyên Nguyễn Hiền giải 4 câu thơ đố chữ của triều đình nhà Nguyên: chữ điền là ruộng). Đây là loại câu đố chữ Hán trong địa hạt ngoại giao. Đầu thế kỷ 17, chúa Trịnh là Trịnh Tráng sai người đem sắc vua Lê phong cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở phương nam. Nguyễn Phúc Nguyên theo kế Đào Duy Từ đúc mâm hai đáy, mặt mâm để lễ vật, bên trong giữa hai đáy đặt sắc phong để tra lại, kèm 4 câu thơ trên. Theo truyền thuyết, Trịnh Tráng đã phải nhờ Trạng Bùng tức Phùng Khắc Khoan giải. Câu 1: “lưỡi mâu không nách” tức chữ “mâu” không có dấu phết bên cạnh là chữ “dư” (tôi, ta); câu 2: “tìm không thấy vết” chữ “mịch” (tìm) không có chữ “kiến” (thấy), thành chữ “bất” (chẳng); câu 3: “yêu rơi mất tim” tức chữ “ái” (yêu) bỏ chữ “tâm” sức tới cùng chống nhau” tức đặt chữ “lực” (sức) bên chữ “lai” (tới) thành chữ “sắc” (chiếu chỉ của vua). Bốn câu thơ được giải thành 4 chữ “dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc). TNPD không có câu này; CĐVG có ghi (c. 35 tr 104) có mấy chữ in sai và chỉ giải vắn tắt “Dư bất thụ sắc”.

Bốn câu thơ đố đáng chú ý ở chỗ 2 câu sau ám chỉ mối liên hệ giữa 2 họ Trịnh Nguyễn, câu 3 có nghĩa “không còn tình thương yêu ruột thịt” giữa 2 họ: Trịnh Kiểu ông nội Trịnh Tráng lấy Ngọc Bảo chị ruột Nguyễn Hoàng và bản thân Trịnh Tráng lấy Ngọc Tú, con gái Nguyễn Hoàng”; câu 4 có nghĩa: “dồn sức lại để chống nhau”. Trả sắc phong, đồng thời thách thức, không sợ phản ứng của chúa Trịnh có thể nhân danh vua Lê đem quân gây chiến (Việc trả sắc phong kèm 4 câu thơ có được chép trong Đại Nam thực lục tiền biên (bản dịch Viện Sử học. Xem thêm Giai thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, 1965, tr. 132; Giai thoại làng nho của Lãng Nhân, Nam chi tùng thư, Sài Gòn, 1966, tr. 52 - 53.

- Ba xe káo lê trên đàng, âm vang như sấm

Giải: chữ “oanh”, viết với 3 chữ “xa” và có nghĩa “tiếng động cvủa nhiều xe cùng chạy” (So sánh với câu 1464 trong CĐVN).

- Con bắt, con chuột, con xuống, con chới.

Giải: Tử Cầm, Tử Cống, Tử Hạ, Tử Du (theo TNPD và CĐVG c. 34 tr 101). Đây là câu đố dựa vào sự dịch nghĩa từng chữ tiếng Việt sang Hán tự, thành tên mấy nhân vật lịch sử. Riêng về từ “con chuột” dịch là Tứ Cống, tuy “cống” chữ Hán không có nghĩa là chuột, giải là Cống vì có loại chuột cống, và Tử Cống, cùng với Tự Hạ, Tử Du là đệ tử nổi tiếng của Khổng Tử được nhắc tới nhiều trong sách Luận ngữ. Nên chú ý “con xuống” dịch là Tử Hạ chỉ là đồng âm với Tử Hạ (với chữ Hạ là mùa hè) học trò Khổng Tử (đúng ra chữ “Hạ” nghĩa là xuống thường đọc là “há”). Còn về Tử Cầm, không có tên người với chữ Cầm là bắt, nhưng có tên nhân vật Tử Cầm với chữ Cầm là chim (tên tự của con trai Trần hi Tử, thời Xuân Thu). Lời đố không nói “con chim con chuột” mà lại nói “con bắt con chuột”. Chúng tôi cho rằng lời đố này không nên cắt thành 4 đoạn như trong TNPD và CĐVG mà nên chỉ có 2 đoạn “con bắt con chuột, con xuống con chơi” ghi động tác bắt chuột và xuống chơi, nhưng đồng thời là câu đố 4 tên người, đều là nhân vật thời Xuân thu. CĐVT có chép câu đố này ở tr 301 dưới mục tên người “xuất nhân danh) và cũng chép thành 4 đoạn như TNPD và CĐVG. Lời giải được chú thích (tr. 473) “bốn người học trò của Khổng Tử”. Thực ra chỉ có 3 người sau là cao đệ của Khổng Khâu, cả 4 người đều sống dưới thời Xuân thu.

- Tại thượng tắc hạ, tại hạ tắc thượng
(Ở trên thì dưới, ở dưới thì trên)

Giải: chữ nhất (một), chữ “nhất” viết một nét ngang, ở chữ “thượng” (trên) thì năm bên dưới, ở chữ “hạ dưới” thì nằm bên trên. So sánh với câu 1454 CĐVT. Câu này hàm ý khuyên răn xử thế. Người ở trên phải đi xuống dưới (tìm hiểu, chú ý quyền lợi người ở dưới); người còn thấp kém cố vươn lên theo kịp người trên mình. Chữ “thượng” và “hạ” theo nghĩa này là động từ và thường đọc “thướng” và “há”.

- Tây quốc hữu nhân danh viết Phật
Đông môn vô khảo bất thành lan

Câu này thấy trong CĐVG, giải là “Phật - Lan”. Đây là loại câu đố “vừa đố vừa giảng” lời giảng thấy ngay ở trong lời ra đố. Câu trên có thể dịch “nước phong tây có người tên là Phật”. Phật Thích Ca là người Tây Trúc (Ấn Độ) so với nước ta thì ở phương tây, chữ Phật được viết với chữ Nhân đứng cạnh chữ Tây trên chữ Quốc. Chữ này không thấy trong các từ thư Trung Quốc (như Khang Hi tự điển, Tư nguyên, Từ hải...) nhung thấy ở một số câu đối tại các chùa Việt Nam. Câu dưới có nghĩa: “Cửa phía đông không cỏ thành lan” hoặc “không cỏ nào không thành lan”. Chữ Lan (hoa lan) được viết: thảo đầu (cỏ) trên chữ Lan (cánh cửa), gồm chữ Môn (cửa) bên trong có chữ Đông (phương đông) (trong cách viết chính qui, phải thay chữ Đông bằng chữ Giản. X. Câu 1453 CĐVT ở trên).

Câu đố là hai câu thơ đố nhau khá chỉnh (trừ chữ “danh” đối với “bất” chưa thật sát) vừa là câu đố vừa là câu thơ “chơi chữ”, có thể so sánh với lời đối đáp giữa sứ Tàu và Trạng Mạc Đĩnh Chi:

Li vị võng lượng tứ tiểu qui
Cầm sắt tì bà bát đại vương.

(X. Giai thoại văn học Việt Nam, Sđd, tr. 81 - 82).

MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG:

Quyển CĐVT của Nguyễn Văn Trung là một cuốn sách không những sưu tầm khá đầy đủ, mà còn khảo luận sâu rộng về câu đố tiếng Việt, vượt xa những cuốn sách trước đây về vấn đề này. Nhưng riêng địa hạt câu đố về chữ Hán, có thể ghi thêm mấy nhận xét sau đây:

1. Về phân loại trong nội bộ các câu đố về chữ Hán, sách CĐVT không làm. Về mặt này có thể phân biệt 2 loại. Loại thứ nhất:

- Loại câu đố coi như đơn giản: lời giải nằm trong việc dịch tiếng Việt ra chữ Hán như câu 2 phần bổ sung ở trên: “con bắt con chuột con xuống con chơi”. Tuy đơn giản nhưng không phải hoàn toàn dễ vì như trong câu này, người giải phải có kiến thức tối thiểu để đoán biết những nhân vật lịch sử trong lời giải. Tỉ như từ “bắt” có thể dịch ra chữ Hán bằng nhièu chữ tróc, nã, bộ, cầm)... phải chọn một chữ thích hợp và chỉ cần đồng âm, không cần đúng chữ (như “cầm” là chim, đồn âm với “cầm” là bắt), và cũng mạnh dạn dịch “chuột” là cống vì có loài chuột cống, để có nhân vật Tử Cống bên cạnh Tử Hạ, Tử Du, ba học trò giỏi của Khổng Từ.

- Loại 2 gồm những câu chủ yếu đề cập tới cơ cấu chữ viết phân tích thành phần chữ viết, thường là câu dễ đoán đối với những người có sự hiểu biết cơ bản về chữ Hán. Những câu này nói rõ cấu trúc của chữ, chỉ rõ những thành phần vốn là những chữ đơn giản được nhiều người biết. Người giải chỉ việc ghép những bộ phanạ lại là đoán được. Thí dụ câu 1481:

Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập.

ghép 3 chữ “lập, viết, thập” sẽ tìm được chữ “chương” một cách dễ dàng (câu 1481 trong CĐ có chỗ in sai, phần trên trong bài này đã sửa lại). Hoặc câu 1437:

Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên, tứ dưới, nhất đà chữ tâm

Trong câu lục bát này, câu lục vẽ hình bộ “xích” gần âm với “chích” trong “chim chích”; câu bát chỉ phần chữ bên phải gồm những chữ bộ phận: “thập, tứ, nhất, tâm” ghép lại cả chữ thành chữ “đức”. Hoặc câu 1483:

Hai chữ thập rập chữ viết, chữ nguyệt đứng trồng là chữ gì?

CĐVN giảng “chữ Triệu”, cần sửa “chữ Triêu” là “buổi sớm”. Cũng nằm trong loại này là những câu 1464 “ba xe chập lại chỉ chữ “oanh” (tiếng xe chạy), câu 1440:

Ông thổ vác cây tre, đè bà Nhựt

chỉ chữ “giả” (trong từ “soạn giả”) v.v...

- Loại 3 chủ yếu đưa ra ý nghĩa hoặc hình dáng của chữ, của thành phần của chữ, người đoán phải tìm ra những chữ thích đáng, ghép lại để “giải mã”. Thí dụ:

- Câu 1486:

Ruộng kia ai cất lên cao
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời

Câu lục cho nghĩa chữ “điền” (là ruộng): câu bát cho hình chữ “tâm” với nét mác uốn cong và 3 chấm. Ghép 2 chữ điền và tâm thành chữ “tư” (CĐVN in sai là “tự”. Cũng thuộc loại này.

- Câu 1479:

Tai nghe, miệng nói, đít làm vua

đố chữ “thánh”, gồm chữ “nhĩ” (tai), chữ “khẩu” (miệng) ở trên và chữ “vương” (vua) ở dưới.

- Loại 4: kết hợp 2 loại trên, vừa gọi tên, vừa nói ý nghĩa của từng bộ phận chữ. Thí dụ câu 1480:

Con gái mà đứng éo le
Chồng con chữa có kè kè mang thai

Câu lục ghi chữ nữ (con gái ghép với chữ “thai” ở câu bát thành chữ thủy” (bắt đầu). Hoặc câu 1463:

Em là con gái đồng trinh
Chờ người tuổi tuất ghé mình em vô

Câu lục lấy nghĩa (con gái tức chữ nữ), đặt chữ nữ vào trong chữ “tuất” ở câu bát ta được chữ “uy” (tôn nghiêm).

- Câu 1459:

Đêm tàn nguyệt xế về tây
Chó sủa canh chầy, trống lại điểm canh tư

Lời giải là chữ “nhiên” (trong “thiên nhiên tự nhiên”), gồm các chữ “nguyệt” viết nghiêng (nguyệt xế), chữ “khuyển” (chó) ở trên, dưới là 4 chấm (“canh tư”). Câu đố khó đoán vì: 1/ trong 2 câu 14 chữ phải tinh ý chọn đúng 3 chữ thích hợp (trăng, chó, tư) để chuyển thành những chữ “nguyệt”, “khuyển” và 4 chấm. 2/ chữ Hán bộ phận không hẳn đúng với nghĩa chữ trong câu đố: trong chữ “nhiên, bên cạnh chữ “khuyển” không phải là chữ “nguyệt” mà là chữ “nhục” (thịt) viết biến thể, “tư” trong “canh tư” không phải là chữ “tứ” mà là 4 chấm, biến thể của chữ “hỏa”.

2. Về nội dung cách đố và cách giải của những câu đố về chữ Hán, có thể ghi mấy điểm đáng chú ý như sau:

- Chữ Hán được đưa ra thường chỉ chú trọng về hình thức lối viết thông thường không đi sâu vào gốc nghĩa của chữ nên có thể không đúng. Thí dụ trong chữ “nhiên” ở câu 1459 nói ở trên, không phải là chữ “nguyệt”, đúng ra phải là chữ “nhục”. Đó cũng là trường hợp câu 1427 đã nói ở phần 1 bài này (chữ “bào”).

- Chữ Hán được giải trong nhiều câu đố không thật sát với hình chữ Hán đúng qui cách ghi trong các tự điển. Thí dụ một số câu đố đã phân tích ở phần 1 bài viết này: câu 1433 dùng 2 chữ “nhân” (người) để đố chữ “cửu” (lâu dài); câu 1444 dùng chữ “công” (người thợ) để viết chữ “hầu”; câu 1453 dùng chữ “đông” (phương đông) đúng ra phải dùng chữ “giản” (giấy tờ, thư tín) trong chữ “môn” (cửa) để viết chữ “lan” (cánh cửa); câu 1462 dùng chữ “hỏa” (lửa) dưới chữ “dương” (con dê) để viết chữ mỹ (đẹp), đều không sát với cách viết chính qui trong các tự điển. Có lẽ cả người ra đố lẫn người giải đố đều thấy không cần quá nghiêm khắc về mặt này, và tạm nhận lối viết dù có nét, không thực chính qui theo các tự điển, coi như không thật hệ trọng vì không gây sự lầm lẫn chữ này với chữ khác.

Nói rộng ra có thể cho đây là một hiện tượng đáng chú ý: có một số chữ Hán đã được người Việt viết không theo đúng các tự điển chính qui Trung Quốc. Điển hình là chữ Việt được khắc in ở nhan sách bộ Đại Việt sử ký toàn thư bản khắc in năm Chính Hoà 18 (1697) chụp in lại ở bìa sau tập1 bản dịch của Ngô Đức Thọ (Nxb KHXH 1983).

Chữ “Việt” được viết ở phần bên trái “thổ” (đất) trên “hựu” (lại, lần nữa) phần bên phải là chữ “tuất” (1 trong 12 chi). Đúng ra phải viết chữ “tẩu” (chay) bên chữ Việt (loại rìu dùng trong nghi vệ, tượng trưng cho uy quyền, không dùng để chém giết). Nếu viết “tẩu” bên “tuất”, tự điển Khang Hi đọc là “huật” (hửa, duật thiết), giảng là “chạy”, và cẩn thận ghi “khác với chữ “việt” (dữ việt bắt đồng). Nhưng ta đã quen đọc câu trong Kiều “ngày hai mươi mốt tuất thì” ở “thiên tích việt” nên thường viết “việt” với chữ “tuất”. Bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh ở từ điều “việt” (tập 2 tr. 554) cũng viết “tẩu” bên “tuất” (tuy ở nhan sách và ở từ điển “Nam Việt” chữ “Việt” được viết đúng dạng). Cũng ở nhan sách Đại Việt sử ký toàn thư nói trên, chữ “ký” được viết “ngôn” bên “dĩ” (thôi đã qua). Đúng ra phải viết “ngôn” bên “kỷ” (tự mình). Thực ra viết lầm chữ này không nghiêm trọng vì không có chữ Hán nào viết “ngôn” bên “dĩ” để có thể đọc lẫn lộn như trường hợp chữ “việt” chữ “huật” nói trên. (Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh ghi đúng nét chữ “ký” (1, tr. 487) nhưng ở từ “nhật ký (II. tr 72) lại ghi sai, tuy đã ghi đúng ở từ “sử ký: (11 tr. 313).

- Ở một số câu, do lời ra đố không thật minh bạch, cho phép giải bằng những chữ thuộc loại hiếm được dùng, như chữ “lân” (câu 1474) “tốt” (câu 1477). Đây là một cách thách đố hiểm hóc thử tài nhau. Cũng có thể có ý kiến cho lời giải như vậy có tính cách khiên cưỡng. Dù sao cũng có thể coi như trường hợp một câu đố có 2 cách giải (cũng như một chữ có 2 lối viết) (Xem thêm những câu 1462, 1487 đã phân tích ở phần trên).

- Có một điểm khá hệ trọng liên can đến câu đố nói chung mà sách CĐVN không thấy nhấn mạnh, đó là bản chất câu đố: một cách thử thách trí thông minh, tài đoán của người giải. Do đó câu đố mà quá dễ đoán không phải là câu đố có giá trị. Câu đố hay phải là câu đố khó giải, phải suy nghĩ mới giải được, như đối với một bài toán khó, một thế cờ gay go, càng khó, giải được càng thấy thú. Tuy khó giải, nhưng lời ra đố lại phải hợp lý, đúng đắn, sao cho người chịu không giải được cũng phải công nhận rằng mình đã kém suy nghĩ nên thất bại (“dễ thế mà không đoán được”). Chính vì muốn kích thích sự tìm tòi suy tư của người giải đáp mà ở trường hợp câu đố xuất hiện trên sách báo, người ta không ghi ngay lời giải. Để bắt người đọc phải dừng lại, suy nghĩ tối thiểu, lời giải được in ở một phần riêng cuối sách, như trong TNPD hoặc nếu trên báo chí thì được in ở một trang khác, đôi khi còn in lối chữ đảo ngược cho khó đọc.

Sách CĐVT không làm như vậy, và in lời giải ở ngay sau mỗi câu đố. Cách làm này có lẽ do tính cách của cuốn sách, chủ yếu là một công trình nghiên cứu câu đố về những mặt phân loại, cấu tạo, ý nghĩa về phong tục và đời sống nên không để ý đến yêu cầu người đọc phải suy nghĩ để giải câu đố và mặt khác nếu làm như vậy sẽ khiến gián đoạn sự chú ý theo dõi vấn đề được trình bày. Tuy nhiên nếu ở phần chuyên luận có thể in lời giải kèm ngay sau câu đố, thì ở phần sưu tầm, chiếm hơn 200 trang sách (tr. 229 - 457) vẫn nên tách lời giải khỏi câu đố để in ở một phần sau kèm theo lời chú giải nếu cần. Và cũng không nên phân loại ngay trong việc sưu tầm, để tránh việc dựa vào sự phân loại để dễ tìm lời giải. Có lẽ nên theo sách TNPD, lập bảng kê các câu đố theo thứ tự ABC chữ đầu câu, có đánh số câu để tiện việc tìm kiếm trong phần “lời giải và chú thích” cuối sách, và cũng tiện cho việc bổ sung những câu sưu tầm sau này. Nếu muốn phân loại, sẽ làm một bảng riêng, coi như bảng sách dẫn, ghi số mục câu đố. Dù sao, có lẽ vì không chú ý đến mặt trên - tính cách “bí hiểm nhưng rất hợp lý” của câu đố, và đây có thể coi là tính cách chủ yếu của loại hình văn học dân gian này. Sách CĐVN đã để vường một số sai sót trong việc ghi lại lời ra đố cũng như lời giải đố như đã trình bày ở trên. Cũng nên nói thêm rằng những sai sót không phải chỉ ở mục câu đố về chữ Hán (xuất Hán tự) mà cả ở những mục khác. Có thể đơn cử mấy chỗ;

- Câu 175, tr 250 có câu:

Đất Hà Nội không ai dám cày

giải là “mồ mả”. Nhưng Hà Nội ngoài các đường phố vẫn còn nhiều khoảng đất cày cấy. Đúng ra câu này phải là:

Đất đồng nội không ai dám cày.

- Câu 298, tr 263:

Sột sạt như lá chuối khô
Hai bên nước chảy như hồ long vân
Từ quan cho chí đến dân
Ai ai cũng phải uống nước long vân chi hồ

Câu đố nằm ở mục “Trái (xuất quả)” và được giải “trái vú sữa”. Nhưng sao lại “sột sạt lá chuối khô” và “hai bên nước chảy”? Đúng ra là “chiếc yếm và đôi vú sữa người mẹ”.

- Câu 365 tr 271:

Trong hang trong hốc lóc nhóc bò ra
Cả huyện cùng nha chẳng ai bắt được

Câu đố ở trong mục “loài vật (xuất thú)” và kèm lời giải: con rắn. Nhưng rắn gì mà “cả huyện cùng nha chẳng ai bắt được”. Lời giải đúng phải là “hơi trung tiện (cái rắm).

Về 2 câu sau, TNPD có ghi và giải là “vú sữa” và “cái rắm”. Và chính CĐVT cũng tựa mình sửa sai, bằng cách ghi lại một lần nữa 2 câu này ở mục Con người (xuất thân và nhân thân). Câu 298 nói trên được chép lại thành câu 598 (tr 299) lời giải là “vú sữa” kèm chú thích (tr. 473) “sột sạt: cho con bú, mẹ phải vạch yếm nghe sột sạt”. Còn câu 365 đã trở thành câu 612 (tr 301) giải là “cái rắm”. Chính vì thiếu thẩm tra tính ăn khớp hợp lý giữa lời ra đố và lời giải đố nên đã để lọt những sai sót trên. Cần nói thêm rằng sách CĐVG cũng có phần tiểu luận và phần sưu tầm như CĐVT và ở phần sưu tầm cũng ghi lời giải ngay sau câu đố. Có lẽ cũng do đó một phần mà có hiện tượng câu đố trong đó lời đố và lời giải không ăn nhập với nhau, như câu “thủ thô tam điền lũy trúc” giải là chữ Trúc (X. c 1484 của CĐVT ghi ở trên), hoặc câu có lời ra đố khó hiểu như câu “đầu như đao, vị như câu...” được giải bằng chữ Qui (X. c 1465 trong CĐVT ở trên). Câu này có từ trong TNPD, hai sách CĐVG và CĐVT chỉ chép lại lời đố và lời giải, nếu đi sâu sẽ thấy những chỗ tối nghĩa và không hợp lý của lời đố.

Như đã nói ở đầu bài, sách CĐVN là một công trình viết khá công phu, chuyên nghiên cứu về câu đố, một mảng quan trọng, mang nhiều ý nghĩ về mặt ngữ ngôn, văn học, phong tục trong nền văn học dân gian dân Việt. Những trang trên chỉ ghi lại một số ý kiến sơ bộ, nhằm góp thêm chút ít tư liệu, giúp ích một phần nào cho việc nghiên cứu và sưu tầm trong địa hạt này, rất phong phú và đầy hứng thú đồng thời cũng còn nhiều chỗ phải đi sâu và tranh luận.

Tháng 2-1988

TB

ĐỒ HÌNH LỊCH CAN CHI VĨNH CỬU

LÊ THÀNH LÂN

Trong các thư tịch cổ, thời gian, nhất là khi ghi các sự kiện trọng đại thường được ghi bằng lịch can chi. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà khảo cứu và người đọc, vì ở ta khá hiềm các cuốn lịch có lịch can chi. Cuốn Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử (1). có cho ta cách tra cứu lịch can chi, nhưng phải tính toán thêm khá phức tạp với những công thức có dấu xích ma (cộng liên tiếp), khiến cho nhiều nhà khoa học xã hội hầu như không thể tra cứu được, thêm nữa cuốn lịch này có quá nhiều lỗi (2).

Các nhà châm cứu thì cần lịch can chi của ngày hôm nay, nhưng cuốn Lịch thế kỷ XX (3) lại không cho can chi như cuốn Nhị bách niên lịch biểu (4), khiến cho tác dụng của nó bị hạn chế.

Trong câu Niên biểu Việt Nam(5) có trình bầy một bảng đối chiếu năm dương lịch và âm lịch, nhưng còn phức tạp và không có ngày tháng. Trong cuốn Lịch và lịch Việt Nam(6) Hoàng Xuân Hãn có trình bày một dụng cụ đổi ngày dương lịch và can chi, cách dùng còn phức tạp, bởi ngoài 1 bảng tìm can chi ngày đầu năm, còn một cơ cấu có 1 bìa tĩnh, 1 đĩa quay và 1 kim quay.

Ở đây chúng tôi muốn trình bày trọn bộ một công cụ đối chiếu lịch can chi và dương lịch, gồm năm, tháng, ngày, giờ dưới dạng đồ hình nằm gọn trong 3 trang giấy mà dùng cho hàng nghìn năm (về nguyên tắc là vĩnh cửu). Cách tra cứu khá đơn giản, giống như việc tra đồ thị, bởi chúng là dụng cụ “tĩnh”, chứ không “động” như các lịch vĩnh cửu phải dùng cơ cấu quay.

Các đồ hình này được chúng tôi làm ra, dựa theo nguyên tắc toán đồ đồng dư được trình bày trong cuốn Récréation s Arithmétiques(7) và vận dụng các công thức trong bài Một vài công thức tính đổi giữa dương lịch và lịch theo hệ đếm can chi(8).

I. VÀI NÉT VỀ DƯƠNG LỊCH VÀ LỊCH CAN CHI (9).

1. Dương lịch

Dương lịch là loại lịch làm theo sự vận chuyển tương đối của mặt trời, cố gắng xấp xỉ độ dài của năm mặt trời là 365 24220 ngày. Dương lịch có 2 loại được dùng kế tiếp nhau.

Lịch cũ hay lịch Julien được dùng cho đến Thứ năm, ngày 4-10-1582, cũng có một số nước còn dùng lâu hơn về sau, chẳng hạn nước Nga còn dùng lịch này đến tận Cách mạng táng 10. Theo lịch này thì cứ sau 3 năm thường với 365 ngày lại có 1 năm nhuận với 366 ngày. Các tháng 1, 3, 5, 7, 8, 10, 12 có 31 ngày, các tháng 2, 6, 9, 11, tháng 2 năm thường có 28 ngày, tháng 2 năm nhuận có 29 ngày. Năm nào chia hết cho 4 thì nhuận, riêng năm 0004 tuy chia hết cho 4 nhưng không nhuận bởi hoàng đế Auguste ban ra lệnh đó. Để cho gọn, chúng tôi chỉ lập đồ hình cho các năm 0004 Về sau, đồ hình không dùng cho các năm 0001, 0002, 0003 và các năm trước công nguyên.

Lịch mới hay Lịch Grgrien được áp dụng từ Thứ sáu, ngày 15-10-1582. Người ta đã qui ước bỏ trống 10 ngày, khiến cho kế sau ngày 4-10 là ngày 15-10-1582, năm 1582 không có các ngày từ 5-10 đến 14-10. Quy tắc nhuận giống như lịch cũ với quy ước bổ sung: các năm cuối thế kỷ mà không chia hết cho 400 như 1700, 1800, 1900, 2100... thì không nhuận.

2 . Lịch theo hệ đếm can chi.

Theo lịch này năm tháng ngày giờ cứ quay vòng liên tục với chu kỳ cố định là 60 với 2 chu kỳ nhỏ hơn là 10 và 12, là ước số của 60, gọi là 10 can và 12 chi. Ngày và giờ gắn bó với nhau mà vận chuyển với chu kỳ 60. Một ngày có 12 giờ, mỗi giờ ứng với 2 giờ dương lịch. Các giờ trong ngày có tên xác định theo 12 chi. Phải 5 ngày liền nhau mới trở lại giờ có cùng can chi. Năm và tháng lại gắn bó với nhau mà vận chuyển. Các năm và các tháng được tính theo âm lịch. Một năm có 12 tháng nên các tháng có tên xác định theo 12 chi. Phải 5 năm liền mới trở lại tháng có cùng can chi. Riêng tháng nhuận không có can chi, trong sử dụng cụ thể có lúc người ta coi can chi của tháng kể trước là can chi của tháng nhuận, hoặc cũng có lúc coi nửa đầu tháng nhuận theo can chi tháng kể trước, nửa sau theo can chi tháng kể sau. Vì năm tháng dương lịch và can chi không cùng bắt đầu và cùng kết thúc nên về thực chất ở đây chỉ là tìm tên gọi can chi của năm tháng âm lịch mà thôi, chỉ có ngày giờ là trực tiếp tính đổi với dương lịch.

Lịch can chi có liên quan nhiều đến chu kỳ sinh học của con người. Chu kỳ dài 60 năm được vận dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu đến dịch bệnh trong học thuyết ngũ vận, lục khí (9) của Đông y. Các chu kỳ ngắn 60 ngày, 10 ngày được vận dụng trong thời gian châm cứu theo Linh quy bát phát hoặc Tý Ngọ lưu chú pháp(10). Điều này có thể có nhiều cơ sở: Đông y dựa trên cơ sở của học thuyết âm dương (con số 2), học thuyết ngũ hành (con số 5); chia các cơ quan trong người thành lục phủ (con số 6), ngũ tạng (con số 5); hệ kinh lạc gồm 12 đường kinh mạch, 12 kinh biệt, 12 kinh cân (số 12). Mặt khác, về thời gian, vốn có chu kỳ 12: 12 giờ trong một ngày, 12 tháng trong một năm. Người xưa chia giờ thành 60 phút, chia phút thành 60 giây chắc cũng có lý do nhất định. Ta biết rằng giai đoạn phôi là giai đoạn phát triển đầu tiên trong sự hình thàng 1 con người, từ khi có sự kết hợp của 2 giao tử đực (tinh trùng) và cái (trứng) đến khi có được hình dáng bên ngoài tương tự như một cơ thể trưởng thàng, là giai đoạn tạo hình và sinh tạng vừa tròn 60 ngày(11) rồi chuyển sang giai đoạn thai. Theo các tư liệu sưu tầm được của nhóm đề tài môi trường và ứng xử của cư dân Đông Nam Á trên lĩnh vự bảo vệ sức khỏe của Viện Đông Nam Á, anh Bùi Đăng Tuấn, nhà sinh học, có gợi ý cho chúng tôi rằng: phải chăng thời gian giải mã di truyển 60 ngày này đã khởi phát cho các chu kỳ 60 ngày tiếp theo trong đời mỗi con người?

Từ những lý lẽ đó, chúng tôi đặt thành vấn đề: phải chăng nếu dương lịch và các ngày khí (tiết hậu) là lịch mặt trời, âm lịch là lịch mặt trăng, nhị thập bát tú là “lịch sao”, thì lịch can chi là “lịch người” - “nhân lịch”

II. ĐỔI NĂM (Đồ hình 1)

Chú ý rằng năm dương lịch và can chi không hoàn toàn tương ứng với nhau, thường ngày tết và năm dương lịch đến sơm hơn ngày tết và năm âm lịch. Ta phải luôn chú ý đến “sự lệch pha” này.

Trên đồ hình ta thấy ngay hàng can của năm âm lịch tương ứng với hàng đơn vị của năm dương lịch.

Để tìm chi của năm ta chia năm dương lịch thành 2 phần để bố trí trên đồ hình. Phần thứ nhất gồm các con số thuộc hàng đơn vị và hàng chục của năm bao quát 100 năm, từ năm 00 đến năm 99, phần này được đặt ở bên trái để từ đó gióng sang phải. Phần thứ 2 gồm các con số thuộc hàng trăm và hàng nghìn, được xếp vào 3 cột phía trên để gióng xuống. Giao điểm của hàng và cột là chi củ năm.

Thí dụ: Đổi năm 1990. Hàng đơn vị là 0, ứng với can Canh. Hàng đơn vị và hàng chục là 90, hàng trăm và hàng nghìn là 19, gióng sang phải và gióng xuống gặp nhau tại Ngọ. Vậy là năm Canh Ngọ.

III. ĐỔI THÁNG (Đồ hình 2)

Chú ý là can chi ứng với tháng âm lịch chứ không ứng với tháng dương lịch, bởi vậy ta không thể căn cứ vào tháng dương lịch mà đem đổi sang can chi.

Mười hai tháng âm lịch có tên gọi xác định theo 12 chi, được nêu ở bảng bên đồ hình 2.

Đồ hình cho phép tìm can của tháng âm khi biết can của năm và chi của tháng âm đó. Từ can của năm ta gióng xuống, từ chi của tháng ta gióng sang trái, cho đến gặp nhau. Giao điểm ghi chữ cái viết tắt can của tháng.

Thí dụ: đổi tháng tư năm Canh Ngọ. Theo bảng: tháng tư là tháng Tỵ, từ đó gióng sang trái, từ năm Canh gióng xuống, cho đến gặp nhau tại chữ T, có nghĩa là Tân. Vậy đó là tháng Tân Tỵ.

IV. ĐỔI NGÀY (Đồ hình 3 và 4)

Để thu nhỏ đồ hình, chúng tôi cấu tạo 2 đồ hình riêng rẽ tìm can (đồ hình 3) và tìm chi (đồ hình 4) của ngày. Chúng được cấu tạo theo cùng một nguyên lý và cùng một cách tra cứu.

- Các năm dương lịch được phân thành 2 phần để bố trí trên đồ hình.

+ Phần thữ nhất gồm các con số hàng đơn vị và hàng chục của năm, bao quát 100 năm, từ năm 00 đến năm 99, phần này được đặt ở các cột phía trên, để từ đó gióng xuống. Các năm nhuận được đặt trong vòng tròn. Năm 00 được đặt trong hình quả trám để nhấn mạnh rằng có lúc nó là năm nhuận (ở lịch Julien là các năm 1600, 2000, 2400...), có lúc không phải là năm nhuận (1700, 1800, 1900, 2100...)

+ Phần thứ hai gồm các con số thuộc hàng trăm và hàng nghìn của năm, phần này được xếp ở phía trên bên trái, để từ đó gióng sang phải. Ở đây các năm từ 0004 đến 1582 (đến ngày 4-10) theo lịch Julien, các năm từ 1582 (từ ngày 15-10) về sau theo lịch Gregorien. Cũng vì vậy con số 15 được viết 2 lần theo 2 loại lịch.

- Các hàng bên trái phía dưới là 31 ngày trong 1 tháng.

- Các cột phía dưới là 12 tháng trong 1 năm, riêng tháng 1 và 2 của năm nhuận được đặt trong vòng tròn, ứng với những năm cùng được đặt trong vòng tròn hay hình quả trám.

- Cách tra cứu như sau:

+ Theo đường nét liền, từ phần hàng đơn vị và hàng chục của năm gióng xuống, từ phần hàng trăm và hàng nghìn gióng sang phải cho đến gặp nhau tại 1 điểm, chẳng hạn ta gọi là điểm N.

+ Theo đường nét liền, từ ngày cần đổi ta gióng sang phải, từ tháng cần đổi ta gióng lên đến gặp nhau tại 1 điểm, chẳng hạn gọi điểm T. Chú ý rằng nếu là các tháng 1 hoặc 2 của năm nhuận (nằm trong vòng tròn) thì cũng phải tìm chúng trong vòng tròn.

+ Từ 2 điểm N và T vừa xác định được, ta gióng nghiêng theo đường nét dứt cho đến gặp nhau trong mảng chữ. Theo mã chữ mà chúng tôi ghi bên cạnh từng đồ hình ta biết được can (đồ hình 3) và chi (đồ hình 4) của ngày. Các mã cần phải phân biệt được với nhau, lại phải là một chữ cái hay một con số và trong một chừng mực nào đó phản ảnh được nội dung, nên ở hàng chi, chúng tôi kết hợp lấy chữ cái đầu của hàng chi, và cả chữ cái đầu của tên con vật tượng trưng cho hàng chi với việc sử dụng thứ tự trong 12 chi. Thí dụ: Tìm can chi của ngày 19-5-1990.

- 1990 được phân thành 90 và 19. Từ 90 gióng xuống, từ 19 gióng sang phải theo đường nét liền, giao điểm tạm gọi là N.

- Theo đường nét liền, từ ngày 19 gióng sang phải, từ tháng 5 gióng lên, giao điểm gọi là T.

- từ N và T gióng nghiêng theo đường nét dứt, cho đến gặp nhau trong mảng chữ: ở đồ hình 3 là chữ G: giáp ; ở đồ hình 4 là chữ K: thân (khỉ). Vậy là ngày Giáp Thân.

V. ĐỔI GIỜ (Đồ hình 2).

Cũng giống như đổi tháng, nhưng thay vì dùng can của năm nay dùng can của ngày, thay vì dùng chi của tháng nay dùng chi của giờ.

12 giờ âm lịch có tên gọi xác định theo 12 chi, được ghi ở bảng.

Trên đồ hình: can của ngày đặt ở phía trên, từ đó gióng xuống chi của giờ đặt ở bên trái, từ đó gióng sang phải đến gặp nhau. Giao điểm ghi chữ viết tắt can của giờ.

Thí dụ: Đổi 12 giờ ngày 19-5-1990. 12 giờ là giờ Ngọ. Theo thí dụ trên, ngày 19-5-1990 là ngày Giáp Thân. Từ giờ Ngọ gióng sang phải, từ ngày Giáp gióng xuống, gặp nhau tại chữ C, có nghĩa là Canh. Vậy là giờ Canh Ngọ.

VI. ĐỔI LỊCH CAN CHI SANG DƯƠNG LỊCH

Lịch can chi cứ quay vòng lặp lại, nên sẽ có nhiều ngày tháng năm theo dương lịch cùng ứng với 1 ngày tháng năm theo can chi. Để lời giải là duy nhất, ta phải biết được một cách áng chừng ngày tháng năm can chi đó nằm vào khoảng năm tháng nào trong dương lịch. Ta chọn sơ bộ theo dự kiến 1 ngày dương lịch, sau đó đổi sang can chi, tiếp theo đem so sánh với ngày can chi cần đổi, cuối cùng dựa vào kết quả so sánh đó mà tính ra ngày dương lịch cần tìm. Để so sánh ta cần dựa vào bảng lục thập hoa giáp, liệt kê thứ tự của 60 cặp can chi.

Thí dụ 1: Đại Việt sử ký toàn thư(12) cho biết Lý Nam Đế mất ngày Tân Hợi tháng b năm Mậu Thìn. (Xem bài Quê hương và ngày giố của Lý Nam Đế(13) của chúng tôi).

a) Thời Tiền Lý vào thế kỷ thứ VI, hàng trăm và hàng nghìn của năm dương lịch sẽ là 05, ứng với năm Mậu, theo đồ hình 1, sẽ là năm có hàng đơn vị là 8. Trên đồ hình 1, từ hàng trăm và hàng nghìn 05 ta gióng xuống chữ Thìn (chi của năm cần đổi), từ chữ Thìn đó ta gióng sang trái, chỉ thấy có năm 48 là có hàng đơn vị là 8. Vậy năm đó là 548.

b) Tháng ba năm Mậu Thìn rơi vào khoảng tháng 4-548. Ta thử lấy ngày 1-4-548 để đổi sang can chi, nhờ đồ hình 3 và 4 ta được ngày Kỷ Hợi. Theo bảng lục thập hoa giáp ta biết ngày Kỷ Hợi có mã số 36, ngày Tân Hợi cần đổi có mã số 48. Ta có thể tính:

1 + (48 - 36) = 13

Vậy hôm đó là 13-4-548 (âm lịch là ngày 20 tháng ba năm Mậu Thìn(14).

Thí dụ 2: Đại Việt sử ký toàn thư(15) cho biết: Lê Thánh Tông mất ngày Nhâm Thân, tháng giêng năm đinh Tỵ, năm Hồng Đức thứ 28.

a) Niên hiệu Hồng Đức từ 1470 đến 1497. Theo đồ hình 1, năm Đinh ứng với hàng đơn vị của năm là 7. Trên đồ hình 1, từ hàng trăm và hàng nghìn của năm là 14 ta gióng xuống đến gặp chữ Tỵ 9chi của năm), từ chi Tỵ đó ta gióng sang trái thấy có 2 năm 37 và 97 có hàng đơn vị của năm là 7, chỉ có năm 97 là thuộc niên hiệu Hồng Đức, vậy là 1497.

b) Tháng giêng âm lịch có thể ứng với tháng 2 hay tháng 3 dương lịch. Sử dụng đồ hình 3 và 4 và bảng lục thập khoa giáp ta có; ngày 1-2-1497 là ngày Canh Ngọ có mã số là 7, còn ngày Nhâm Thân có mã số là 9. Ta thấy ngay ngày Nhâm Thân là ngày 3-3-1497.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh, Bùi Viết Nghị: Bảng đối chiếu âm dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử; Nxb KHXH; 1976.

(2) Lê Thành Lân: Nhìn lại những kết quả bước đầu trong việc nghiên cứu lịch Việt Nam; Thông tin Khoa học xã hội; tháng 1-1986. tr, 59 - 71.

(3) Viện khoa học Việt Nam; Lịch thế kỷ XX , Nxb Văn hoá; 1987.

(4) Tử Kim Sơn thiên văn đài: Nhị bách niên lịch biểu; Bắc Kinh; 1959.

(5) Vụ Bảo tồn bảo tàng: Niên biểu Việt Nam; Nxb KHXH; 1970.

(6) Hoàng Xuân Hãn: Lịch và lịch Việt Nam; Tập san KHXH số 9 (2-1982).

(7) E. Rourrey: Récréation s Arithmétiques; Paris; Librairie, Vuibert; 1933.

(8) Lê Thành Tân: Lịch thế giới và lịch VN; Lịch Văn hoá tổng hợp 1987-1990; Nxb Văn hoá; 1987.

(9) Viện Nghiên cứu Đông y: Trung y khái liận; Tập thượng; Bệnh viện Đông y Thanh Hóa; 1975; tr. 28-46. Lê Hữu Trác: Hải thượng y tông tâm lĩnh; Tập II, Hội y học dân tộc TP Hồ Chí Minh và Hội y học dân tộc tỉnh Tây Ninh; 1987; tr. 200 - 274.

(10) Dương Kế Châu: Châm cứu đại thành; Hội y học dân tộc TP Hồ Chí Minh và Hội y học dân tộc tỉnh Tây Ninh; 1987; tr. 317-397. Nguyễn Xuân Tiến: Thời châm cứu học; Tý ngọ lưu chú dưới ánh sáng toán học; Viện thông tin Thư viện y học trung ương. Số 8; 1984.

(11) Phạm Văn Địch, Nguyễn Văn Ngọc, Đỗ Kính: Tế bào, mô học, phôi thai học; Nxb Y học; 1984; tr. 193 - 242. J. Laugier, F. Gold: Vắn tắt sơ sinh học; Nxb Y học; 1984; tr.3.

(12) Đại Việt sử ký toàn thư; Tập I, Nxb KHXH, 1972; tr. 121.

(13) Lê Thành Lân: Quê hương và ngày giỗ của Lý Nam Đế; Lịch sử quân sự; số 35 (11-1988) tr. 36-45.

(14) Tài liệu vừa dẫn; tr. 36 - 45.

(15) Đại Việt sử ký toàn thư; Tập III; Nxb KHXH; 1972; tr. 318.

BẢNG LỤC THẬP HOA GIÁP

TB

ĐỌC SÁCH NÔM TÀY TẦN CHU

HIỀN LƯƠNG

Năm 1978 nhà xuất bản Văn hoá dân tộc đã cho ra mắt bạn đọc truyện thơ Nôm Tần Chu phiên từ bản Nôm Tày sang tiếng Tày hiện đại (2). Truyện dài 3121 câu, sáng tác theo thể thất ngôn gieo vần lửng, một thể thơ chủ đạo trong nền thơ ca cổ truyền của dân tộc Tày Nùng. Qua nhân vật chính là cậu bé Tần Chu bị mồ côi mẹ từ sớm được người dì ghẻ tốt bụng là Thị Lương chăm sóc nuôi nấng sau lớn lên trở thành một nhân vật anh hùng trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược phương Bắc, tác giả khuyết danh đã xây dựng thành một câu chuyện hấp dẫn có giá trị văn học cao được người Tày Nùng ưa thích.

Tác phẩm ra đời đáp ứng được lòng mong mỏi của người Tày Nùng nói riêng và của giới nghiên cứu văn học Tày Nùng nói chung. Đọc tác phẩm, chúng ta không chỉ thấy được soạn giả đã đầu tư nhiều công sức vào việc sưu tầm văn bản, mà còn thấy được những thao tác khoa học trong việc đối chiếu, so sánh giữa các dị bản để lựa chọn những chữ, những câu thích hợp nhất đưa vào bản phiên như đã nói ở lời mở đầu. Tuy vậy một đặc điểm quan trọng và dễ thấy là người Tày Nùng ở mỗi vùng phát âm khác nhau, nói tiếng khác nhau, đã kéo theo việc viết chữ Nôm khác nhau(3). Hơn thế nữa Tần Chu là một tác phẩm khuyết danh được lưu truyền rộng rãi trong các vùng đồng bào Tày Nùng nên soạn giả khó có thể tập trung được đầy đủ các dị bản để khảo cứu. Nhân khi tìm hiểu các dị bản của tác phẩm có trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm(4), chúng tôi thấy ở bản phiên đã công bố còn một số trường hợp cần được trao đổi thảo luận thêm về cách chọn câu chữ trong các dị bản. Rất tiếc là chúng tôi không có trong tay bản Nôm mà soạn giả đã dựa vào đấy để phiên âm, nên chỉ dám trao đổi ý kiến của mình trên cơ sở các bản Nôm có được. Để tiện cho việc theo dõi, chúng tôi gọi tác phẩm đã công bố là bản phiên, các văn bản Nôm có trong kho sách Viện Hán Nôm là các bản Nôm(5). Khi có trường hợp nào khác biệt chúng tôi sẽ nêu ký hiệu cụ thể của văn bản đó.

1. Câu 12 trang 17.

Bản phiên là:

Đây kin nặm linh đan thượng đế

Nghĩa là:

Được uống nước linh đan thượng đế

Căn cứ vào các bản Nôm chúng tôi phiên là:

Đảy hăn bioóc linh đan thượng đế

Nghĩa là:

Được trông thấy hoa linh đan thượng đế.

Một đằng nói là Thị Lan nằm mơ được uống nước linh đan thượng đế sau có mang đẻ ra đứa con tài ba là Tần Chu nhưng được ba năm thì Thị Lan chết. Một đằng nói rằng Thị Lan trông thấy hoa linh đan thượng đế sau về có thai đẻ ra Tần Chu. “Linh đan” là một thứ hoa quý được nhắc đến nhiều trong các truyện thơ Nôm Tày Nùng và tục truyện là nước hoa linh đan, một thứ nước người ta uống vào sẽ được trường sinh bất tử. Bởi vậy nếu Thị Lan uống nước Linh đan mà sau ba năm lại chết thì hình tượng này có vẻ không ăn khớp với diễn biến của cốt truyện. Vả lại căn cứ vào mã chữ Nôm ở các bản Nôm chúng tôi thấy phiên là hăn joóc (trông thấy hoa) phù hợp hơn là kin ...ặm (uống nước) và cũng đảm bảo được nghĩa lý của câu thơ và lô gích của cốt truyện.

2. Câu 47 trang 19.

Bản phiên là:

Phân hăn luồng sơn nhạc siêu băng

Nghĩa là: Mơ thấy rồng núi non tan vỡ.

Theo các bản Nôm(6) chúng tôi phiên là

Phăn hăn phja sơn nhạc liểu tan.

Nghĩa là: Mơ thấy dãy núi đã nát tan ở câu “mơ thấy rồng núi non tan vỡ” hình tượng không rõ nghĩa, không hợp với thực tế làm cho người đọc rất khó hiểu.

3. Câu 524 trang 42 bản phiên là:

“Đông bắc lồm bân đin pặt ngăn

Nghĩa là: Đông bắc gió đất trời lay ngàn.

Căn cứ vào mã chữ của các bản Nôm chúng tôi phiên là:

Đông tay lồm sui xinh pặt ngản

Nghĩa là: Đông tây gió thổi mạnh lay ngàn.

Trong tiếng Tày, cụm từ “Đông tây” chỉ cả bốn phía: đông tây, nam bắc; còn cụm từ “Đông bắc” chỉ xác định một hướng, như gió mùa đông bắc, hay hướng Đông bắc mà thôi. Nếu phiên như bản phiên thì “Đông bắc lồm” là “gió đông bắc”, nhưng “bân đin pặt ngản” là “đất trời lay ngàn” thì tối nghĩa quá. Bởi vậy chúng tôi thấy phiên “Đông tây lồm sui xinh pặt ngản” đúng hơn vì ý cả câu muốn nói là trên đường đèo gió lùa từ bốn phía, chứ không phải là gió Đông bắc thổi mà đất trời lay ngàn như bản phiên.

4. Câu 536 trang 43 bản phiên là:

Nưa tỏ nhựng slưa slang án pác

Nghĩa là: Trên đường hổ beo đếm tới hàng trăm con.

Căn cứ vào các bản Nôm, chúng tôi phiên là:

Đại lộ giỏng slưa slang ả pác

Nghĩa là: Trên đường bóng hổ beo/mồm há. Nói rằng trên đường hổ beo đếm tới hàng trăm con là không phù hợp với thực tế. Nếu hàng trăm con hổ beo, thì Thị Lương làm sao đi lọt được. Vả lại trong tự nhiên hổ có bao giờ đi hàng đàn như đàn như đàn hươu, đàn lợn kiếm ăn bằng có cây trên rừng mà giống hổ thường chỉ đi kếm mồi một mình, vì món ăn bằng thịt để nuôi thân khá hiếm. Hơn nữa khi nhìn thấy hổ thiết nghĩ một người phụ nữ hiền lành như Thị Lương cũng phải biết vội tìm đường mà trốn cho nhanh, chứ còn hồn vía đâu mà dừng lại để đếm đến hàng trăm con. Trường hợp này chúng tôi nghĩ là có thể do người sao chép bản Nôm chép nhầm vì giữa chữ án nghĩa là (đếm) với chữ ả (ả pác) nghĩa là (há mồm) có phần giống nhau. Chữ Án (khẩu + an), còn chữ ả (khẩu + á). Bởi vậy theo chúng tôi thì câu “Trên đường bóng hổ beo mồn há” có lý hơn.

5. Câu 546 trang 43 bản phiên là:

Đông kheo ngất phả mây lồm thỏng

Nghĩa là: Rừng xanh ngất đám mây gió thổi.

Căn cứ vào các bản Nôm VNv. 592: VNv. 593 và VNv 594(7) chúng tôi phiên là:

pù slung ngất phả mây lồm xoỏng

Nghĩa là: núi cao ngất đám mây gió thổi.

Nói là: “Núi cao ngất” có lẽ đúng hơn là nói “rừng xanh ngất”.

6. Câu 608 trang 46 bản phiên là:

Lại cạ đoạn mì cần họ Lý.

Nghĩa là: Lại nói đến đoạn có người họ Lý. Căn cứ vào các bản Nôm chúng tôi phiên là:

Lại cạ đoạn gian nhân họ Lý.

Nghĩa là: Lại nói tới đoạn tên gian nhân họ Lý.

Trường hợp này chúng tôi nghĩ rằng “có người họ Lý” hay “gian nhân họ Lý” về mặt ý cũng không khác biệt căn bản lắm, song nếu phiên là “có người họ Lý” e rằng không nói lên được dụng ý của tác giả muốn lột tả tên Lý Tướng là một tên tướng gian tâm độc ác, có nhiều mưu mô xảo quyệt và hành động đê hèn. Do vậy phiên là “gian nhân họ Lý” hợp với bản chất của tên tướng gian ác này.

7. Câu 694 trang 50 bản phiên là:

Điếp nả pây thâng thu bấu lại

Nghĩa là: Thương di đi đến mùa thu chẳng lại.

Căn cứ vào các bản Nôm chúng tôi phiên là:

Hăn nả pây lai thu bấu lại

Nghĩa là: Thấy dì đi nhiều thu chẳng lại. Dì của Tần Chu là Thị Lương đi tìm hài cốt chồng đã nhiều năm tháng (nhiều thu) không thấy về chứ không phải hẹn đến mùa thu sẽ trở lại. Bởi vậy phiên là “lai thu” (nhiều thu nhiều năm) hợp hơn là “thâng thu” (đến mùa thu).

8. Câu 918 trang 60 bản phiên là:

Hắc xà piến phền luồng là họa

Nghĩa là: Họa may rắn đem biến thành rồng. Căn cứ vào các bản Nôm chúng tôi phiên là:

Lý ngư piến pền luồng là họa

Nghĩa là: Họa may cá chép biến thành rồng. Theo truyện dân gian thì, lý ngư tức cá chép nhảy qua bậc vũ mân thì hóa thành ròng, ý nói người đỗ khoa bảng đượclên bậc quan sang chứ chưa có truyện nào nói là rắn đen hóa thành rồng.

9. Câu 1920 đến câu 1924 trang 101.

Bản phiên có thêm một câu: “vua lại hẩư tận thần phép lạ”. Các bản Nôm không có câu này. Theo bản phiên thì đoạn này nói là khi Tần Chu thoát nạn được chim nhãn cánh vàng cõng lên gặp Ngọc Hoàng và được Ngọc Hoàng nhận là con thứ 5 rồi ban cho ấn, kiếm và gậy thần để xuống trần gian đánh đuổi quân Tần xâm lược làm vua trị vì rồi xuống thủy cung cứu được Quyển Vương. Theo các bản Nôm thì Ngọc Hoàng chỉ ban cho Tần Chu hai thứ bảo vật là ấn và kiếm: “ấn” tượng trưng cho quyền; “kiếm” tượng trưng cho lực. Được giao ấn kiếm tức là được giao quyền lực trị vì thiên hạ. Xưa nay ấn kiếm vẫn tượng trưng cho quyền lực, thêm một vật bảo vật thứ ba là “gậy thần” là thừa. Vả lại trong truyện dân gian Tày Nùng thường nói đến “gậy thần” của già dìn (yêu tinh) có phép màu nhiệm ghê gớm: dùng gốc gậy chỉ mọi vật đều chết, dùng ngọn gậy chỉ mọi vật đều hồi sinh. Trong các truyện thần thoại cũng hay nói đến gậy tiên hay gậy phù thủy (baguette-magique) có phép lạ muốn thứ gì chỉ việc dùng gậy chỉ là sẽ có. Như vậy nói Ngọc Hoàng có gậy thần ban cho Tần Chu là gượng ép và không hợp lý.

10. Câu 2843 trang 138 bản phiên là:

Mừ thư tậư hua luồng liều chỉ

Nghĩa là: Tay cầm gậy đầu rồng liền chỉ dựa vào các bản VNv 592 và VNv 595(8) chúng tôi phiên là:

Mừ thư kiếm hua luồng liền chỉ. Nghĩa là tay cầm kiếm đâu rồng liền chỉ. Cũng như nhận xét trên, vua chỉ cầm kiếm tượng trưng cho quyền lực chứ không phải vua cầm gậy.

11. Câu 3099 trang 148 bản phiên là:

Bân pắt tội piến a pền pất

Nghĩa là: Trời bắt tội (bà cô gian ác) hóa thành con vịt. Các bản Nôm không có câu này, nhưng chúng tôi thấy rằng nếu bản Nôm của soạn giả có câu này thì cũng cần phải giám định, bởi vì theo triết lý đạo Phật thì ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ. Theo thuyết quả báo thì người nào lúc sống phạm tội ác thì khi thác xuống âm ty hóa kiếp thành súc vật để đền tội trần gian. Theo thuyết dân gian thì những người đó thường hóa thành trâu ngựa để làm nô lệ cho người, hay thành những con vịt để đền tội. Vịt là con vật người ta nuôi để ăn thịt chứ không phải là con vật xấu. Hơn nữa vịt còn là ân nhân của muôn loài. Theo truyện cổ dân gian thì thời thượng cổ có 12 mặt trời làm cháy cả đất đai mùa màng; một võ sĩ dùng cung bắn rụng 11 mặt trời còn mặt trời thứ 12 lặn xuống biển đông làm cho muôn loài chim trong bóng tối. Vịt đã tự nguyện cõng gà trống bơi ra biển gáy gọi mặt trời để có ánh sáng cho muôn loài kiếm ăn sinh sống. Do vậy dùng hình tượng người gian ác chết hóa thành con vịt e rằng không hợp lý.

Trên đây chúng tôi bước đầu nêu ra 11 trường hợp mà chúng tôi thấy còn có những vấn đề cần được thảo luận thêm, đồng thời cũng mạnh dạn đề xuất những thiển nghĩ của mình, mong góp được một chút nhỏ bé gì đó vào việc khôi phục một bản Tần Chu từ các dị bản ở nhiều địa phương khác nhau. Chúng tôi không tự cho ý kiến của mình là hoàn toàn chính xác, bởi vì chúng tôi nhận thức rằng vấn đề tập hợp được đầy đủ các dị bản của tác phẩm là rất khó khăn và việc đọc cho đúng chữ Nôm theo các âm địa phương của người Tày Nùng là một cửa ải không dễ vượt qua. Bởi vậy Tần Chu được ra mắt bạn đọc đã góp vào vườn hoa văn hóa của cộng đồng dân tộc một bông hoa đậm hương sắc mà ở đấy tác giả cũng như người biên soạn công bố nó đã giành nhiều công sức, trí tuệ và tình cảm cho nó.

CHÚ THÍCH

(1) Tần Chu (Truyện thơ Tày Nùng). Cần slao sléc, chú thích, giới thiệu: Nông Phúc Tước. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1978.

(2) Chúng tôi không được biết bản chữ Nôm mà soạn giả dựa vào đấy để phiên ra tiếng Tày hiện đại, nhưng theo như soạn giả viết ở lời nói đầu, thì bản phiên dựa trên cơ sở bản Nôm mà soạn giả sưu tầm được của một cụ ở huyện Na Rì tỉnh Bắc Thái.

(3) Xem Hoàng Hựu: Hiện trạng sách Nôm Tày. Bài đăng trong Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, tr. 78.

(4) Xem Nguyễn Doãn Tuân: “Bước đầu tìm hiểu các dị bản của tác phẩm Nôm Tày Tần Chu”, bài trong Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội, 1983.

(5) Các dị bản Nôm có trong kho sách Viện Hán Nôm trước đây mang ký hiệu là Nv 76; Nv 77; Nv 79 nay đổi lại ký hiệu như sau: Nv 76 thành VNv 592; Nv 77 thành VNv 593; Nv 78 thành VNv 594; NV 79 thành Vnv 595.

(6) Khi thấy các bản Nôm có mã chữ giống nhau, chúng tôi không nêu ký hiệu của từng văn bản cho dài dòng, mà chỉ nêu là các bản Nôm tức là các bản có ký hiệu như ở chú thích (5). Trường hợp các bản khác nhau chúng tôi mới nêu ký hiệu của từng văn bản. Do điều kiện ấn loát có khó khăn nên từ đây trở đi chúng tôi không minh hoạ mã chữ Nôm, nhưng việc trình bày ở đây là căn cứ vào mã chữ ở các nguyên bản đã nêu trên để phiên âm.

(7) Bản VNv 595 bị mất câu này. Các bản nêu trên về mã chữ có khác nhau đôi nét, song câu “pù slung ngất phả mây lồm xoỏng” thì căn bản giống nhau.

(8) Các bản VNv 593; VNv. 594 do mất một số trang cuối nên không có câu .....dẫn ở trên.

TB

TIN HOẠT ĐỘNG NGÀNH

Để đáp ứng nhu cầu hiểu biết về Hán Nôm của xã hội, ngày 27 tháng 4 năm 1989, ngành Hán Nôm khoa Ngữ văn trường đại học Tổng hợp Hà Nội đã tổ chức khai giảng lớp Hán Nôm chương trình A.

Tới dự buổi lễ khai giảng lớp học có đại diện Ban Giám hiệu trường, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, các giáo sư, giảng viên trong khoa và chuyên ngành Hán Nom, học sinh đang theo học hai lớp chính qui chuyên ngành Hán Nôm. Trong lễ khai giảng có nhiều ý kiến đóng góp quí báu, đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của việc mở những lớp bồi dưỡng, giảng dạy Hán Nôm dạng này. Học viên học hết trình độ a một năm, sau đó chuyển tiếp một năm chương trình B nâng cao.

20 học viên theo học lớp này gồm các cán bộ, giáo viên đại học, phổ thông, các nhà sư, học sinh vừa mới tốt nghiệp ở địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh.

TB

ĐÍNH CHÍNH
TẠP CHÍ HÁN NÔM SỐ 2 (5) 1988

Bài: Về niên đại pho tượng đồng lớn ở đền Trấn Võ huyện Gia Lâm

TT Trang Cột Dòng
(từ trên xuống)
IN LÀ XIN SỬA LÀ
1 83 1 8 tạc tượng Thánh Tổ tạc tượng
(bỏ chữ Thánh Tổ)
2 94 2 11 (1802) (1820)