Tổng số xã | Số mặt bia hiện có | Xã không có bia | XÃ CÓ BIA | ||||||||
1 BIA | 2 - 14 BIA | ± 20 BIA | CỘNG | ||||||||
Số lượng | Tỉ lệ% | Số lượng | Tỉ lệ % | Số lượng | Tỉ lệ % | Số lượng | Tỉ lệ % | Số lượng | Tỉ lệ % | ||
38 | 192 | 5 | ± 11 | 4 | ± 10 | 26 | ± 70 | 3 | ± 8 | 33 | ± 90 |
Triều đại | NIÊN ĐẠI | Số lượng | ĐỊA ĐIỂM | |
Lê |
Hoằng Định Vĩnh Tộ Phúc Thái Vĩnh Trị Chính Hòa Vĩnh Thịnh Cảnh Hưng |
(1601 - 1619) (1619 - 1628) (1643 - 1649) (1676 - 1680) (1680 - 1705) (1705 – 1719) (1740 - 1786) |
1 1 1 2 3 3 2 |
Chùa Hương Cát, xã Trực Thành. Chùa Ba Xã, xã Nam Chấn. Chùa Như Xá, xã Đồng Sơn. Xã Đồng Sơn, xã Nam Tiến. Xã Nam Thanh, xã Nam Hùng, xã Trực Tuấn. Xã Nam Giang, xã Nam Phong. Xã Thái Sơn, xã Nam Giang. |
Nguyễn |
Gia Long Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức Kiến Phúc Thành Thái Duy Tân Khải Định Bảo Đại |
(1802 - 1819) (1820 - 1840) (1841 - 1847) (1848 - 1883) (1883 - 1884) (1889 – 1907) (1907 - 1916) (1916 - 1925) (1926 - 1945) |
4 14 3 42 2 14 1 13 36 |
Xã Nam Toàn, xã Nghĩa An, xã Nam Chấn, xã Nam Cường. Xã Nghĩa An, xã Nam Hải, xã Đồng Sơn, xã Nam Hoa. Xã Nam Toàn. Xã Nam Thịnh, xã Nam Tiến, xã Bình Minh, xã Nam Thanh, xã Nghĩa An, thị trấn Cổ Lễ. Xã Nghĩa An, xã Nam Giang. Xã Điền Xá, xã Đông Sơn. Chùa Sa Đề, xã Trực Nội. Xã Nam Thanh, xã Nam Phúc, xã Nghĩa An, xã Trực Định. Xã Nam Thanh, xã Nam Mỹ, xã Nam Hồng, xã Nam Trung, xã Nam Thắng, xã Nam Tiến, xã Trực Hưng, xã Trực Mỹ, xã Liêm Hải, xã Nam Giang |
Số lượng bia hiện có | Bia sự tích lịch sử |
Bia xây dựng trùng tu | Bia lệ làng | Bia hậu, gửi giỗ, quy âm | Các loại khác | |||||
SL | Tỷ lệ % | SL | Tỷ lệ % | SL | Tỷ lệ % | SL | Tỷ lệ % | SL | Tỷ lệ % | |
192 | 15 | 8 | 60 | 32 | 20 | 10 | 20 | 36 | 27 | 11 |
TT | Năm | Viết là | Sửa thành | Ghi chú | |
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 8 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 |
Nhâm Tuất Giáp Tuất Đinh Sửu Canh Thìn Nhâm Ngọ _ Quý Mùi Giáp Thân _ _ Ất Dậu Bính Tuất Tân Mão Nhâm Thìn _ Ất Mùi Mậu Tuất Kỷ Hợi Canh Tý Đinh Mùi Mậu Thân Tân Hợi Nhâm Tý _ Giáp Dần _ _ Kỷ Mùi Nhâm Tuất Đinh Mão Quý Mùi Giáp Ngọ Quý Mão Nhâm Ngọ Đinh Mão Tân Mùi Nhâm Thân Quý Dậu |
1742 1754 1757 1760 1762 _ 1763 1764 _ _ 1765 1766 1771 1772 _ 1775 1778 1779 1780 1787 1788 1791 1792 _ 1794 _ _ 1799 1802 1807 1823 1834 1843 1858 1867 1871 1872 1873 |
Thập nhị nguyệt Hựu nhị nguyệt đại Thập nhị nguyệt đại Chính nguyệt Chính nguyệt Ngũ nguyệt đại Thất nguyệt Ngũ nguyệt Thất nguyệt Cửu nguyệt đại Lục nguyệt đại Nhị nguyệt đại Nhị nguyệt Lục nguyệt Thất nguyệt Thất nguyệt tiểu Thập nhị nguyệt đại Thất nguyệt đại Tứ nguyệt tiểu Thập nhất nguyệt Bát nguyệt Tứ nguyệt tiểu Thất nguyệt đại Thập nhất nguyệt Lục nguyệt Thất nguyệt đại Thập nhất nguyệt Thập nhị nguyệt Lục nguyệt Chính nguyệt Tứ nguyệt đại Thập nhị nguyệt Thập nhất nguyệt tiểu Thất nguyệt đại Tứ nguyệt đại Tứ nguyệt tiểu Tứ nguyệt Bát nguyệt đại |
đại tiểu tiểu tiểu đại tiểu tiểu tiểu tiểu tiểu tiểu tiểu đại tiểu đại đại tiểu tiểu đại đại đại đại tiểu tiểu đại tiểu tiểu tiểu tiểu đại tiểu đại đại tiểu tiểu đại đại tiểu |
T N N T T N T T T N N N T T T N N N N T T N N T T N T T T T N T N N N N T N |
TT | Năm | Viết là | Sửa thành |
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 |
Nhâm Tuất 1742 Nhâm Tuất 1742 Mậu Thìn 1748 Mậu Thìn 1748 Kỷ Tỵ 1749 Canh Ngọ 1750 Canh Ngọ 1750 Canh Ngọ 1750 Nhâm Thân 1752 Kỷ Mão 1759 Quý Mùi 1763 Kỷ Sửu 1769 Nhâm Thìn 1772 Nhâm Thìn 1772 Nhâm Thìn 1772 Canh Tý 1780 Canh Tý 1780 Canh Tý 1780 Ất Tỵ 1785 Bính Ngọ 1786 Tân Hợi 1791 Đinh Mão 1807 Bính Tuất 1826 Đinh Hợi 1827 Tân Hợi 1851 Đinh Tỵ 1857 Canh Thân 1860 Canh Thân 1860 Tân Dậu 1861 Quý Hợi 1863 |
Lục nguyệt đại Mậu Ngọ Thất nguyệt tiểu Mậu Tý Hựu cửu nguyệt đại Nhâm thọ Thập nguyệt tiểu Nhâm Tý Chính nguyệt tiểu Canh Ngọ Cửu nguyệt đại Canh Ngọ Thập nguyệt đại Canh Tý Thập nhị nguyệt đại Canh Ngọ Chính nguyệt đại Quý Mùi Ngũ nguyệt đại Canh Tý Chính nguyệt đại Kỷ Tỵ Cửu nguyệt tiểu Canh Dần Nhị nguyệt đại Bính Thìn Tam nguyệt đại Bính Tuất Tứ nguyệt tiểu Bính Thìn Tứ nguyệt tiểu Kỷ Mão Thất nguyệt tiểu Canh Thìn Cửu nguyệt đại Bính Thập nhị nguyệt đại Bính Dần Hựu cửu nguyệt đại tân Dậu Thập nhị nguyệt tiểu tân Dậu Thập nhất nguyệt tiểu Mậu Thìn Cửu nguyệt đại Kỷ Tỵ Lục nguyệt tiểu Kỷ Mùi Cửu nguyệt đại Quý Dậu Thất nguyệt tiểu Canh Tuất Chính nguyệt đại Bính Thân Nhị nguyệt tiểu Bính Dần Cửu nguyệt đại Bính Ngọ Thập nguyệt đại Giáp Thân |
Tý Ngọ Tý Ngọ Tuất Tý Ngọ Tý Hợi Thìn Mùi Thìn Dần Thân Dần Dậu Dần Tý Tý Mùi Sửu Tuất Mão Hợi Sửu Thìn Dần Thân Tuất Tuất |
3. Bảng 3: Có hai trường hợp viết sai can của ngày sóc, vào năm Ất Mão (1795), cần sửa như sau: Bảng 3: Sửa lại hàng can của sóc. |
Viết là | Sửa thành |
Bát nguyệt đại Tân Mão Cửu nguyệt đại Tân Dậu |
kỷ kỷ |
4. Bảng 4: Có một trường hợp ghi thiếu cả can lẫn chi của ngày sóc ở năm Mậu Dần (1878), cần thêm vào như sau: Bảng 4: Thêm can chi ngày sóc |
Viết là | Thêm vào |
Ngũ nguyệt tiểu | Canh Tuất |
Viết là | Sửa thành |
Ngũ nguyệt tiểu Giáp Dần Lục nguyệt đại Giáp Thân |
Đại Giáp Thân Tiểu Giáp Dần |
TT | Viết là | Sửa thành |
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 |
Tam nguyệt đại Nhâm Thìn Tứ nguyệt tiểu Nhâm Tuất Ngũ nguyệt tiểu Tân Mão Lục nguyệt đại Tân Dậu Thất nguyệt tiểu Tân Mão Bát nguyệt đại Canh Thân Cửu nguyệt đại Canh Dần Thập nguyệt tiểu Canh Thân Thập nhất nguyệt đại Kỷ Sửu Thập nhất nguyệt đại Kỷ Mùi |
tiểu Đinh Hợi đại Bính Thìn Bính Tuất Ất Mão Ất Dậu Giáp Dần Giáp Thân đại Giáp Dần tiểu Giáp Thân Quý Sửu |
TT | Năm | TQ | LĐNK | HXH | ĐNTL |
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 |
Kỷ Dậu 1789 Nhâm Tý 1792 Giáp Dần 1794 Ất Mão 1795 Đinh Tỵ 1797 Canh Thân 1800 Quý Hợi 1803 Ất Sửu 1805 Mậu Thìn 1808 Tân Mùi 1811 |
5 4 2 6 4 2 6 5 3 |
5 4 2 6 4 1 8 6 2 |
5 2 11 7 3 1 8 6 2 |
5 2 11 7 4 1 8 6 2 |
TT | Ngày sóc | Ghi theo dương lịch | |
LĐNK | TQ | ||
1 2 3 4 |
1-10 Ất Mão 1-5 Bính Thìn 1-4 nhuận Canh Thân 1-8 Kỷ Dậu |
12-11-1795 6-6-1796 23-5-1800 16-9-1849 |
11-11-1795 5-6- 1796 24-5- 1800 17-9- 1849 |
VỀ VĂN BẢN DƯƠNG THÁI MINH VIỆT SỬ CƯƠNG GIÁM KHẢO LƯỢC(1) là tác phẩm luận bàn về lịch sử và địa lý, có một vị trí đặc biệt trong ngòi bút của Kỳ Xuyên (hiệu của Nguyễn Thông). Mặc dầu vậy, Khảo lược, vẫn chưa được giới thiệu đầy đủ về giá trị nội dung cũng như về văn bản... Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 160 (1827 - 1987) năm sinh của Kỳ Xuyên, đồng thời cũng là năm tác phẩm tròn 110 tuổi (1877 - 1987) chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về văn bản tác phẩm Khảo lược này của ông. Khảo lược gồm 7 quyển, chia thành hai phần rõ rệt. Nội dung các quyển tóm tắt như sau: Q. I: Tiền biên. Q. II: Chính biên, gồm một số vấn đề của lịch sử dân tộc từ kỷ Hùng Vương đến thuộc Minh như: trăm trai, tục truyền sinh từ trăm trứng, tục xăm mình, chuyện về Lý Ông Trọng, Đinh Tiên Hoàng đặt vạc nuôi hổ... Ngoài ra, tác giả còn luận tới nhiều thuật ngữ như Thứ sử, Đông cung và những nhân danh, địa danh... Q. III: An Nam, gồm các mục: Tinh dã (địa phận ứng với sao trên trời). Quỹ độ (do theo bóng mặt trời ở các điểm tỉnh lỵ trong cả nước). Khí hậu. Đường bộ. Đường thủy. Đinh khẩu (số đinh thời Gia Long, Minh Mệnh và Thiệu Trị). Vận tải đường biển. Đạo giáo. Q. IV: Khảo về nước Làm Ấp (Phụ chép thơ văn, Phụ khảo về Thạch Bích, Châu Nhai, Đam Nhĩ, Vạn Lý Trường Sa). Q. V: Khảo về nước Chân Lạp (Phụ khảo Phù Nam, Cảng Khẩu, Côn Sơn. Phụ chép chuyện cũ). Q. VI: Khảo về nước Xiêm La Q. VII: Khảo về nước Nam Chiếu (phụ chép nhiều thơ, ca, truyện. Phụ khảo nước Ai Lao, có chép nhiều truyện cũ). Ngoài những quyển chính kể trên đây, tác phẩm còn có “Quyển thủ” (tên do chúng tôi đặt) gồm các bài sau đây: Tựa: Nguyễn Thông nói về thời gian và phần việc tham gia khảo duyệt, góp ý 167 điều (Tiền biên 43 điều, Chính biên 124 điều), về việc gia công sửa chữa Nguyên bản và soạn thêm phần địa lý Việt Nam và các nước láng giềng để thành sách Khảo lược. Cuối cùng Nguyễn Thông khiêm tốn cho mình học vấn nông cạn và lấy làm tiếc chưa đủ sức để khảo duyệt phần nhà Lê. Tờ tâu: viết ngày 2 tháng 6 năm Tự Đức 29 (12-7-1876) là lời của cả nhóm (do Nguyễn Thông chấp bút) xin hứa thực hiện tốt nhiệm vụ trong vòng ba tháng: sáu, bảy, tám và xin nhà vua cho mượn bộ Nhị thập nhất sử(2) để tham khảo. Bảng mục lục: ghi tên bảy quyển. Bài tỏa ngôn (lời nói nhỏ): có 5 điều. Nguyễn Thông nêu mục đích góp ý của mình là làm cho lịch sử được chính xác, không phải là khiển trách người xưa và có lời cảm ơn Phạm Phú Thứ(3), Hoàng Dụng Tân(4). Bài văn tế: cáo với cha mẹ được nhà vua truy phong: cha được phong là Phụng Thành đại phu, mẹ được phong là Đoan Thận nghi nhân tòng ngũ phẩm. Khảo lược gồm 2 phần: lịch sử và địa lý. Phần lịch sử bắt nguồn từ bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục(5), còn phần địa lý thì lại từ phần lịch sử mà phát sinh và phát triển. Đó là mối quan hệ không đơn giản. Vì vậy để thuận lợi cho việc giới thiệu, chúng tôi lần lượt xem xét sự hình thành từng phần. Phần lịch sử ra đời là kết quả việc Nguyễn Thông biên tập lại Nguyên bản góp ý của mình gửi lên Sử cục xin sửa chữa, thêm bớt những vấn đề lịch sử, sự kiện lịch sử... đã được ghi chép trong bản thảo bộ Việt sử, nhân dịp ông được Tự Đức trao cho nhiệm vụ phúc duyệt (có chỗ tác giả dùng chữ khảo duyệt, chữ dùng trong Dụ chỉ là phúc kiểm - đều có nghĩa là đọc soát lại) văn bản này sau 20 năm biên soạn. Chúng ta đã biết, Tự Đức năm thứ 9 (1856) nhà vua ra Dụ chỉ về việc biên soạn lịch sử Việt Nam từ nhà Lê trở về trước. Sau đó, liên tiếp có những Dụ chỉ mới bổ sung người tham gia công trình. Có cả thảy 35 người tham gia biên tập công trình. Ngoài ra, còn có 12 người làm nhiệm vụ đằng lục sao chép(6). Nguyễn Thông trở thành một trong những tác giả của bộ Việt sử là do quyết định của lần Dụ chỉ năm Tự Đức 29 (1876) lúc ông đang là Hàn lâm viện trước tác, lĩnh Quốc tử giám tư nghiệp. Những người có tên trong lần Dụ chỉ này cùng với Nguyễn Thông là Bùi Ước, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, lĩnh Quốc tử giám tế tửu và Hoàng Dụng Tân, Hàn lâm viện tu soạn, lĩnh Quốc tử giám tư nghiệp. Ba vị chia nhau phúc duyệt toàn bộ công trình. Phần việc của Nguyễn Thông gồm: “Về Tiền biên bắt đầu từ kỷ Hùng Vương đến năm Kiến Đức 4 (966) triều Tống. Về Chính biên từ Đinh Tiên Hoàng đến Trần Đế Ngỗi nguyên niên (1407) và thuộc nhà Minh là hết” (Tựa). So với bản in Việt sử sau này thì số lượng kể trên ứng với 17 quyển trong tổng số 53 quyển (chiếm khoảng một phần ba tác phẩm). Nhiệm vụ phúc duyệt kể trên là ngọn nguồn dẫn đến sự ra đời phần lịch sử của Khảo lược. Có ba văn bản phúc duyệt. Khảo lược là văn bản thứ ba. Thứ tự ra đời các bản như sau: - Nguyên bản (chữ dùng của Nguyễn Thông viết trong Tựa) là bản ghi chép đầu tiên. - Bản Tâu trình (tên do chúng tôi đặt) là bản chép theo Nguyên bản, có kiểm tra lại và sửa chữa thêm để dâng lên nhà vua. - Bản Khảo lược (phần lịch sử) cũng là viết theo Nguyên bản, “trích lấy ý chính từng điều”, nêu làm “tiên đề”, gia công sửa đổi, “trình bày những điều cốt lõi” (Tựa). Như vậy phần lịch sử của Khảo lược ra đời sau khi tác giả đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của nhà vua trao cho. Hiện nay chỉ còn văn bản Khảo lược. Nhưng nhờ Tựa và tác phẩm..., chúng ta được biết bản Tâu trình và bản Khảo lược đều biên tập theo Nguyên bản, nhưng có những chi tiết khác nhau về nội dung và hình thức. - Về nội dung: Chính Nguyễn Thông đã cho biết: “Gia công sửa đổi” (Tựa) và nhận xét so sánh giữa bản Tâu trình và bản Khảo lược là “thỉnh thỏa ng có chỗ trước sau không ăn khớp” (Tựa). - Về hình thức: bản Tâu trình có 167 điều (Tiền biên 43 điều, Chính biên có 124 điều) (Tựa). Bản Khảo lược có 62 tiêu đề (Tiền biên 29 tiêu đề, Chính biên 33 tiêu đề). Sau đây xin trình bày sự khác nhau của thuật ngữ “điều” và “tiêu đề”. Một “điều” gồm hai phần: phần thứ nhất: chép trích nguyên văn những câu, những chữ đã được ghi trong bản thảo bộ Việt sử mà Nguyễn Thông không tán thành. Ở phần này đôi khi còn ghi lại những ý kiến đề nghị sửa chữa Việt sử của những người đọc duyệt trước ông trong Sử cục và các ông Phạm Huy, Phạm Hy Lượng... mà Nguyễn Thông cũng không tán thành. Phần thứ hai: là những dòng chữ của Nguyễn Thông hoặc dẫn tài liệu, hoặc biện luận phân tích và góp ý cách sửa chữa cụ thể ở từng ý, từng câu, từng chữ. Xin dẫn một điều như sau làm thí dụ: (Phần thứ nhất) Lý Hậu Đế, Phật Tử nguyên niên. Cương: Lý Phật Tử mưu đánh úp, lấy được nhà Triệu. Mục: Trước kia Phật Tử cùng Triệu giảng hòa rồi cầu hôn cho con là Nhã Lang. Triệu Vương gả con gái là Cảo Nương cho Nhã Lang và cho ở rể. Nhân đó Nhã Lang lấy trộm móng rồng rồi trở về cùng Phật Tử mưu đánh úp Triệu. Phật Tử cất quân đến đánh, Triệu Việt Vương sửng sốt ra nghênh chiến, nhưng móng rồng đã mất. Vương bèn cùng Cảo Nương chạy về phía nam, bị quân Lý đuổi sát, Triệu Vương đến cửa Đại Nha, cùng đường nên phải nhảy xuống biển. (Phần thứ hai) Kỳ Xuyên Tử bàn: Về việc đó, điều cương viết chữ mưu nên bỏ đi. Điều mục viết sự tích Nhã Lang, Cảo Nương so với việc Trọng Thủy ở rể nhà Mỵ Nương, lấy trộm nỏ thần ở kỷ nhà Triệu, phần Thục An Dương Vương như là chuyện của một người, có thể bỏ đi, hoặc muốn để tồn nghi thì phụ chép ở sau và thêm hai chữ “cựu sử” (Q. I, tiêu đề 18). Còn một “tiêu đề” thì có khi chỉ là một “điều”, có khi gồm 3, 5, 9 “điều” gộp lại. Đúng như tác giả đã viết trong Tựa: “Tên của “tiêu đề” là trích lấy ý chính ở từng “điều”. Tiêu đề của điều mà chúng tôi vừa dẫn chứng ở trên có tên là Sự tích Nhã Lang, Cảo Nương nên bỏ. Tiêu đề 22. Q. I gồm 5 điều đều có sai lầm chung về việc chú địa danh nên Nguyễn Thông gộp lại, đặt cho chúng một tên chung là Chú lại địa danh. Trên cơ sở hiểu biết ấy, chúng tôi đếm được trong Khảo lược chỉ còn 146 điều, gộp lại dưới 62 tiêu đề. So bản Tâu trình mà Nguyễn Thông viết trong Tựa có 167 điều với bản Khảo lược thì Nguyễn Thông loại bớt 21 điều. Tóm lại, sự ra đời của phần lịch sử sách Khảo lược chính là ý kiến cuối cùng có chọn lọc của Kỳ Xuyên đóng góp với bản thảo bộ Việt sử từ thời dựng nước đến thời thuộc Minh. Nếu đúng với nhiệm vụ của nhà vua trao cho Nguyễn Thông thì sách chỉ có Q. I và Q. II. Sự xuất hiện phần địa lý, tác giả chỉ nêu lý do đơn giản là: “... Vả lại bộ sử mới này làm theo thể biên niên, chép kỹ việc trong nước mà sơ lược việc bên ngoài” (Tựa). Ông bổ sung sự sơ lược ấy bằng cách: “Nay mỗi nước láng giềng chép riêng thành một kỷ, ghi kỹ việc đổi thay, thỉnh thỏa ng ức đoán, sửa chữa lại đôi chút cho đúng để người đọc có thể khảo cứu được” (Tựa). Như vậy Kỳ Xuyên chỉ nêu nguyên nhân biên soạn địa lý nước ngoài, còn địa lý trong nước, dù là địa lý lịch sử hay địa lý tự nhiên thì mặc nhiên được công nhận biên chép sau phần lịch sử dân tộc, không cần phải giải thích. Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Khảo lược. Tiếp theo, chúng tôi xin trình bày về niên đại và địa điểm Khảo lược ra đời. Về vấn đề này, Tựa có đoạn viết: “Năm Bính Tý (1876), mùa hạ, tháng năm, vâng mệnh nhà vua sung vào khảo duyệt sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cùng đồng sự phân theo kỷ mà kiểm duyệt. Mùa thu, tháng tám năm ấy làm xong, đúng hẹn dâng lên”. Đó là thời gian bắt đầu viết Nguyên bản và hoàn thành bản Tâu trình. Còn bản Khảo lược (gồm cả phần lịch sử và phần địa lý) có thể bắt đầu biên soạn vào tháng 9 năm ấy, ngay sau khi kết thúc bản Tâu trình . Tựa viết tiếp “... Sau tiết thanh minh một ngày (ngày 4 tháng 3 năm Đinh Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 30, tức là ngày 17 tháng 4 năm 1877) tại phía tây học xã Thành Quân học cung (Huế). Đó là địa điểm và niên đại văn bản Khảo lược ra đời. Hiện nay chúng tôi mới được biết hai cơ quan có tác phẩm Khảo lược là Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện sử học (đều thuộc UBKHXHVN, Hà Nội). Sau đây là những nhận xét của chúng tôi về những văn bản đó. a. Các bản in: Viện sử học có hai ký hiệu dành cho văn bản Khảo lược là Hv. 40 và Hv. 8, chúng đều là những ấn phẩm. Ký hiệu Hv. 40: một tập, bìa cứng. Sách mất bốn tờ đầu, tờ thứ năm là Bảng mục lục. Dựa vào bảng này để theo dõi văn bản thì được biết sách gồm 7 quyển: Q.I: đủ, 24 tờ; Q.II: đủ, 30 tờ; Q.III: đủ, 34 tờ; Q.IV: đủ, 16 tờ; Q.V: đủ, 14 tờ; Q.VI: đủ, 13 tờ; Q.VII: thiếu, chỉ còn 7 tờ đầu. Mỗi trang có 9 dòng, mỗi dòng 20 chữ. - Ký hiệu Hv. 8: 4 tập, bìa cứng, gồm 9 quyển, “thừa” các Q.I, II và V, “thiếu” Q.III. Số lượng tờ Q.I, II, IV, V, VI đều như bản Hv. 40. Riêng Q.VII thì đủ, có 8 tờ. Mỗi trang cũng 9 dòng, mỗi dòng cũng 20 chữ. Nhờ trùng ba Q.I, II, V, chúng tôi đã so sánh chúng với nhau để xác minh lại. Kết quả việc so sánh thực bất ngờ và thú vị, cho phép kết luận Hv. 8 là một tập hợp không đầy đủ của hai lần in khác nhau. Do đó chúng tôi chia lại chúng ra như sau: Bản 1 tập có 5 quyển (không kể quyển thủ) gồm Q.I, II, V, VI, VII nay gọi là Hv. 8 (a). Bản 3 tập có 4 quyển (không kể quyển thủ) gồm Q.I, II, IV, V, nay gọi là Hv. 8 (b). Những chi tiết khác nhau giữa chúng như sau: Nét chữ khác nhau: cách trình bày về khuôn chữ, số chữ, đoạn câu ở từng trang, từng dòng... đều giống nhau. Phải phân biệt ở nét chữ mới thấy bản Hv.8 (a) đậm đà và đẹp hơn bản Hv.8 (b). Khuôn in khác nhau: do hai bản ở cùng một số quyển, số tờ, chúng tôi có được số liệu sau: Hv. 8 (a): Q.I, tờ 2b: 165 x 130 mm. Hv. 8 (b): Q.I, tờ 2b: 170 x 132 mm. Hv. 8 (a): Q.I, tờ 10a: 178 x 129 mm. Hv. 8 (b): Q.I, tờ 10a: 175 x 130 mm. Qua bốn dãy số kể trên chúng tôi thấy rõ chiều cao của khuôn khổ in chênh lệch nhau từ 3 đến 5mm và chiều rộng chênh lệch nhau từ 1 đến 2mm. Nếu hai bản cùng in từ một bản khắc gỗ thì dù bất cứ hoàn cảnh nào, thời tiết nào cũng không thể làm cho bản khắc gỗ hoặc giấy phải co dãn đến mức ấy. Một số hình chữ khác nhau: |
Âm | Bản Hv.8 (a) |
Bản Hv.8 (b) |
Nơi xuất hiện |
Ninh Lịch Thực Du Bán Chu |
寧 歷 寔 俞 半 舟 |
甯 應 實 俞 半 舟 |
Q.I, tờ 2b Q.I, tờ 3b, d.6 và tờ 49, d.9 Q.II, tờ 5a, d.3 Q.II, tờ 5b, d.9 Q.V, tờ 3b, d.6 Q.V, tờ 5b, d.6 |
1. Thân Nhân Trung 2. Đỗ Nhuận 3. Ngô Luân 4. Ngô Hoán 5. Nguyễn Trọng Ý 6. Lưu Hưng Hiếu 7. Nguyễn Quang Bật 8. Nguyễn Đức Huấn 9. Vũ Dương 10. Ngô Thầm 11. Ngô Văn Cảnh 12. Phạm Trí Khiêm 13. Lưu Thư Ngạn 14. Nguyễn Nhân Bị 15. Nguyễn Tôn Miệt 16. Ngô Hoán(15) 17. Nguyễn Bảo Khuê 18. Bùi Phổ 19. Dương Trực Nguyên 20. Chu Hoãn 21. Phạm Cẩn Trực 22. Nguyễn Ích Tốn 23. Đỗ Thuần Thứ 24. Phạm Nhu Huệ 25. Lưu Dịch 26. Đàm Thận Huy 27. Phạm Đạo Phú 28. Chu Huyên |
họa đủ 9 bài nt nt nt nt nt họa 8 bài, không họa bài 7 họa đủ 9 bài nt họa 8 bài, không họa bài 7 họa 8 bài, không họa bài 8 họa đủ 9 bài nt họa 8 bài, không họa bài 9 họa 8 bài, không họa bài 5 họa đủ 9 bài họa 8 bài, không họa bài 5 họa đủ 9 bài nt nt nt nt họa 8 bài, không họa bài 9 nt họa đủ 9 bài nt nt nt |