TB

NHỚ LẠI BUỔI ĐẦU CỦA
VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

PHẠM THIỀU

Ai có đi xem các đình chùa lăng miếu, ai có vào đọc sách ở các thư viện lâu đời thì sẽ thấy biết bao tài liệu Hán Nôm được khắc trên gỗ, trên đồng, trên đá, nhất là được chép hoặc in trên giấy đủ loại. Nó phản ánh cuộc sống xã hội của nhân dân ta trong khoảng gần một ngàn năm, chỉ kể từ thời nhà Lý, từ chiếu biểu của triều đình đến gia phả của từng dòng họ, từ địa bạ của các tỉnh đến khế khoán của dân làng, từ văn học dân gian đến thơ phú, sử liệu địa chí của các nhà thông thái. Nhất là nó nói lên nỗi vui, nỗi buồn của từng người, niềm tự hào chính đáng, tinh thần chiến đấu và lao động ngoan cường của dân tộc. Cái vốn quý ấy không thể để mai một được. Chính vì vậy các nhà văn hoá lão thành đã tỏ ra rất quan tâm tới việc tổ chức bảo tồn và khai thác kho di sản văn hoá thành văn vô giá này.

Đầu tiên, từ những năm 1965, bác Đặng Thai Mai, được sự đồng ý của Hội đồng chính phủ, đã đứng ra tổ chức lớp Đại học Hán học để đào tạo cán bộ Hán Nôm. Tiếp sau đó, bác Ca Văn Thỉnh, trong một cuộc hội nghị của Uỷ ban Khoa học xã hội, đã nêu lên ý kiến nên thành lập một cơ quan chuyên trách về Hán Nôm. Đề nghị ấy được chính phủ chấp thuận và ban Hán Nôm trực thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam ra đời năm 1970. Xây dựng nền móng cho hai tổ chức nói trên, công đầu thuộc về hai bác Mai và Thỉnh, và chúng tôi gồm Cao Xuân Huy, Nam Trân, Đào Phương Bình, Phạm Phú Tiết, Phạm Thiều cùng các cộng tác viên như cụ Hoa Bằng, cụ Đỗ Ngọc Toại, cụ Trần Duy Vôn… đều là những người tiếp tay, chở gạch, xẻ gỗ…

Nhớ lại buổi đầu biết bao gian nan và hào hứng! Sơ tán về Hà Bắc, chúng tôi mở lớp trong một căn hầm nổi hình khối, tiếp tới một đường hầm ngầm. Thầy, trò làm việc bình tĩnh trong khi bom Mỹ trút xuống rầm rầm khắp nơi. Một lần, ông Sáclơ Phuốcniô (Charles Fourniau), một nhà sử học người Pháp, có đến thăm lớp đại học Hán học; ông rất ngạc nhiên thấy các cụ say sưa giảng dạy Kinh Thư hoặc sôi nổi thảo luận về tập thơ Ngư Phong của Nguyễn Quang Bích.

Khi trở về Hà Nội, mỗi kỳ nước lũ, chúng tôi phải chuyển một khối lượng lớn sách Hán Nôm từ tầng 2 lên tầng chót của thư viện. Lúc đó những sách quí và hiếm còn để lại tại khu an toàn; mỗi khi cần chúng tôi chỉ mượn về một số ít cần thiết, dùng xong lại phải gửi lên trả, tốn khá nhiều thì giờ và công sức, nhưng chúng tôi không nản chí.

“Vạn sự khởi đầu nan”! Tài liệu có rồi, cán bộ có rồi, nhưng nhiệm vụ và phương hướng còn ở trong vòng mò mẫm. Cho nên trong quá trình công tác, bên cạnh những cố gắng và thành tựu, không tránh khỏi những khuyết điểm, nhược điểm, cần đúc rút kinh nghiệm.

Mười năm sau khi thành lập, do quyết định số 311/CP ngày 8-9-1979, Ban Hán Nôm được chuyển thành viện nghiên cứu Hán Nôm với nhiệm vụ là trung tâm sưu tầm, bảo quản và khai thác các tư liệu chữ Hán, chữ Nôm…Đây là một bước nhảy vọt, đánh dấu sự trưởng thành của Ban Hán Nôm, biểu hiện sự quan tâm đặc biệt của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam và bộ văn hoá, và tập trung nhất là ở Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, Giáo sư Tiến sỹ Phạm Huy Thông và Thứ trưởng Cù Huy Cận, đối với kho di sản Hán Nôm và viện nghiên cứu Hán Nôm. Việc tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ Hán Nôm trong điều kiện chiến tranh quyết liệt, việc thành lập tổ chức chuyên trách bảo tồn và khai thác di sản Hán Nôm là Ban Hán Nôm trước đây và Viện nghiên cứu Hán Nôm ngày nay đã thể hiện thái độ trân trọng đối với di sản văn hoá dân tộc và đường lối kế thừa các giá trị tinh thần truyền thống rất đúng đắn của Đảng và nhà nước ta.

Là một người đã chứng kiến và tham gia xây dựng Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngay từ buổi đầu, chúng tôi rất vui mừng trước sự trưởng thành mau chóng của Viện, tin ở tương lai của Ngành Hán Nôm. Thay lời kết luận, xin nhắc lại mấy câu thơ sau của học giả Nguyễn Thông:

Thái sơn chi vân khởi phu thốn
Đại giang chi nguyên khả lạm trường
Tiền hiền phương chức hạnh vị dẫn,
Lai giả khả kế, dư hà vương.

Dịch:

Mây núi Thái lúc đầu vừa bằng gang tấc,
Nguồn đại giang lúc mới chỉ tràn ly.
Dấu thơm tiền bối còn đây,
Trông vào người kế, ta chớ hề băn khoăn.

TB

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN HÁN NÔM

TRỊNH KHẮC MẠNH

Di sản Hán Nôm gồm những thư tịch và tài liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản văn hoá của dân tộc ta. Đây là kho văn hoá thành văn duy nhất trước khi có các văn bản bằng chữ La Tinh. Nguồn thư tịch và tư liệu này ghi lại quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, cũng như các mặt hoạt động xã hội khác của dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Bảo tồn lâu dài và khai thác một cách có phê phán, sáng tạo kho di sản văn hoá này để phục vụ cho sự nghiệp văn hoá xã hội chủ nghĩa ngày nay là nguyên tắc nhất quán trong đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng và nhà nước ta.

Chúng ta cảm thấy tự hào khi Đảng và nhà nước ta ngay từ rất sớm, đã coi trọng và đánh giá cao toàn bộ di sản văn hoá dân tộc nói chung và các tác phẩm văn học, nghệ thuật Hán Nôm có giá trị nói riêng, coi đó là những “hạt ngọc”bị che phủ bởi lớp bụi thời gian, là tâm tư tình cảm của một dân tộc anh hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước, là phong tục tập quán, nếp sống và nền văn minh của một nước có truyền thống văn hiến. Trong bài Mấy vấn đề văn nghệ Việt Nam hiện nay, chủ tịnh Trường Chinh viết: “Những tác phẩm cổ điển là tinh hoa của nền văn nghệ dân tộc qua nhiều thế kỷ, do đời sống và tiếng nói dân tộc ngày một phong phú mới dần dần tạo nên”(1).

Chủ tịch Phạm Văn Đồng cũng đã khẳng định: “Tác phẩm văn nghệ của nước ta quý lắm, cần phải đọc, phải học. Đó là vốn quý nhất đối với nước ta. Những tác phẩm văn nghệ đó trải qua nhiều thời đại, nhiều thử thách, vẫn còn sống mãi đên bây giờ và sẽ mãi mãi sau này(2).

Như vậy, các tác phẩm Hán Nôm ưu tú, là tinh hoa của nền văn nghệ dân tộc, có sức sống lâu bền, có sức mạnh tinh thần to lớn, có tác dụng lớn trong quá trình hun đúc tinh thần và ý chí dân tộc, là một nhân tố truyền thống quý báu trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, những giá trị tinh thần mới.

Di sản Hán Nôm của chúng ta, nếu chỉ tính từ bài thơ Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, tới tập thơ lớn Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tới gần một ngàn năm lịch sử. Trong suốt quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mình, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm lịch sử nhất định lại có những tác phẩmvà tác giả ưu tú tiêu biểu, xuất hiện như những cột mốc, những tấm gương của lịch sử. Bao thế hệ người Việt Nam vẫn còn rung động khi đọc những áng văn thơ bất hủ như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ văn của các tác gia như Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá Quát…Và, nói như đồng chí Tố Hữu: Vốn cũ còn lại có nhiều giá trị lớn là những sản phẩm văn nghệ của những thời đại thịnh Lý, Trần, Lê, của thời kỳ từ giữa thế kỷ 18 đến nửa thế kỷ 19”(3).

Nhưng ở mọi thời đại, chúng ta đều có những thành tựu lớn về nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, văn học, sử học, triết học…Mỗi lĩnh vực đều có những đỉnh cao đáng tự hào, và điều rất may mắn cho chúng ta ngày nay, là những tác phẩm của các bậc thiên tài ấy một phần vẫn còn giữ được tới ngày nay. Đánh giá tổng quát di sản tinh thần của dân tộc, chủ tịch Trường - Chinh đã nhận định: “Ngô Quyền: quân sự học; Trần Hưng Đạo: quân sự học; Nguyễn Trãi: quân sự học, chính trị học và văn học; Lương Thế Vinh: toán học; Nguyễn Bỉnh Khiêm: triết học; Lãn Ông: y học; Lê Quý Đôn: Văn học, khoa học; Quang Trung: quân sự học, chính trị học; Ngô Thì Nhậm: chính trị học, quân sự học và văn học; Nguyễn Du: văn học; Phan Huy Chú: sử học; Cao Bá Quát: văn học, chính trị học; Nguyễn Đình Chiểu: văn học, chính trị học…Những thiên tài như thế mãi mãi là những ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam làm vẻ vang cho giống nòi”(4).

Đánh giá cao những giá trị to lớn của di sản văn hoá dân tộc và các tác phẩm ưu tú của thời đại trước, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc sưu tầm và gìn giữ những văn bản giá trị này. Ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 65 ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc Bảo vệ di tích văn hoá( 5). Bác Hồ là người thầy vĩ địa của cách mạng Việt Nam, kết tinh những tinh hoa của các anh hùng dân tộc. Người đã hoạt động thành công trên nhiều lĩnh vực: quân sự, chính trị, văn học…và mọi người không ai có thể quên được Bác là một nhà Hán học nữa. Bác rất quan tâm đến việc kế thừa những tinh hoa của nền văn hoá dân tộc, nhất là trong việc gìn giữ và khai thác các văn bản chữ Hán, Chữ Nôm. Bác đã từng về thăm Côn Sơn và đọc văn bia cùng nhiều di tích lịch sử khác. Điều 4 của sắc lệnh do Bác soạn thảo ghi rõ “Cấm phá huỷ những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng giấy má, sách vở có tính chất tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử”.(6)

Song song với việc chỉ đạo về tư tưởng, Đảng và Nhà nước đã có những biện pháp về tổ chức để tiến hành sưu tập và gìn giữ các văn bản Hán Nôm. Chỉ thị số 117/TTg ngày 13-12-1963 của thủ tướng chính phủ giao nhiệm vụ này cho bộ văn hoá. Quyết định số 311/CP ngày 8-9-1979 của hội đồng chính phủ giao nhiệm vụ sưu tầm và bảo tồn di sản Hán Nôm cho Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Tiếp đó, quyết định số 326/CP ngày 13-9-1979 của hội đồng chính phủ cho phép thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong phạm vi cả nước.

Kết quả của những cố gắng trên đây là chúng ta đã gìn giữ được hàng vạn văn bản Hán Nôm thuộc nhiều loại hình, tiếp tục sưu tầm được nhiều tác phẩm và tài liệu Hán Nôm có giá trị ở trong nước và ở nước ngoài. Điều này, tự nó có tác dụng bác bỏ một cách đầy thuyết phục thái độ miệt thị di sản văn hoá dân tộc, như quan điểm cho rằng “nước An Nam không có một nền văn hoá dân tộc” của tên bồi bút Phạm Quỳnh trước đây, hay cách nhìn bi quan cho rằng di sản văn hoá dân tộc “rất nghèo nàn về phẩm cũng như về lượng”của bọn Trương Tửu sau này.

Trong việc khai thác di sản Hán Nôm, quan điểm của Đảng ta rất rõ ràng: đó là thái độ hết sức trân trọng, đó là tác phong tìm tòi, học hỏi. Tìm tòi học hỏi để phát huy những giá trị tốt đẹp; tìm tòi học hỏi để phê phán những tàn dư của giai cấp bóc lột còn rơi rớt lại. Chủ tịch Trường - Chinh đã chỉ ra rằng: “Chúng ta tìm tòi, học hỏi những tác phẩm văn học nghệ thuật của cha ông ta để lại, nhưng chúng ta phê bình, bổ khuyết những tác phẩm đó và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc(7).

Những tác phẩm Hán Nôm cũng như những di sản văn hoá khác của dân tộc, bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Thái độ của chúng ta là kết hợp một cách biện chứng giữ hai mặt: Kế thừa và phê phán, học tập và sáng tạo. Nhưng khai thác những gì? Kế thừa học tập như thế nào? Vấn đề này, trong bài Mấy vấn đề văn nghệ Việt Nam hiện nay Chủ tịch Trường - Chinh đã vạch rõ: “Về khai thác vốn cổ của dân tộc, vấn đề là phải biết khai thác cái gì và khai thác như thế nào để có ích cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta ngày nay. Chúng ta phải lần lượt nghiên cứu giới thiệu và phê bình những tác phẩm văn học nghệ thuật của cha ông để lại”(8).

Như vậy một mặt, chúng ta phải kế thừa một cách toàn diện phần tinh hoa, mặt khác phê phán triệt để phần lạc hậu trong di sản Hán Nôm trong khi khai thác kho di sản văn hoá thành văn này. Do những điều kiện lịch sử hạn chế và do khuôn khổ của hệ tư tưởng phong kiến ràng buộc, nhiều công trình và tác phẩm cổ có chứa đựng những quan điểm duy tâm siêu hình và thần bí. Do đó chúng ta cần phải chống lại những quan điểm tuyên truyền cho đạo đức và lễ giáo phong kiến nhằm phục hồi những tàn tích cổ hủ, lỗi thời và phản động. Hồ Chủ Tịch đã từng phê phán những khuynh hướng phục hồi vốn cũ không đúng đắn: “Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì loại dần ra”(9).

Dĩ nhiên, những thái độ nệ cổ, phục cổ hoặc hư vô, miệt thị đối với di sản văn hoá dân tộc nói chung và tác phẩm Hán Nôm nói riêng là hoàn toàn xa lạ đối với đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng ta.

Kế thừa có phê phán, học tập và sáng tạo vốn văn hóa cổ để sáng tạo ra những giá trị tinh thần mới, là nhiệm vụ của chúng ta. Nhưng muốn làm được việc này, phải có một đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, và có phẩm chất chính trị cách mạng. Khi bàn về việc tiếp thu di sản văn hoá dân tộc, chủ tịch Phạm Văn Đồng đề ra yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ là “chúng ta cần có những người giỏi và có trình độ cao, có như thế mới sáng tạo, mới sưu tầm một cách có ý thức và nghiên cứu để vận dụng một cách sáng tạo vốn cũ. Bởi vì nghệ thuật phải dính vào cái gì là truyền thống lớn nhất của dân tộc(10).

40 năm qua, kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, được sự chỉ dẫn của đường lối cách mạng văn hoá văn nghệ và đường lối khai thác di sản văn hoá dân tộc của Đảng, ngành Hán Nôm đã trưởng thành và đạt được nhiều thành tích có ý nghĩa. Chúng ta đã giám định và công bố hàng loạt tác phẩm Hán Nôm có giá trị, từ những bộ quốc sử đồ sộ như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục, những bộ địa dư lớn như Đại Nam nhất thống chí, những bộ sưu tập văn thơ có bề thế như Thơ văn Lý Trần, Nguyễn Trãi toàn tập, Lê Quý Đôn toàn tập, những tác phẩm triết học, tư tưởng có giá trị như Khoá hư lục, những truyện thơ Nôm nổi tiếng như Truyện Kiều, Truyện Hoa Tiên, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên… Tổ chức đào tạo lớp Hán Nôm trẻ, từ lớp Đại học Hán Nôm năm 1965, Ban Hán Nôm 1970, và Viện Nghiên cứu Hán Nôm năm 1979… Tổ chức giảng dạy Hán Nôm ở các Trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm và các trường Cao đẳng Sư phạm…. Bảo quản tốt hàng vạn văn bản Hán Nôm đã tập trung được; tiếp tục sưu tầm được hàng chục văn bản Hán Nôm có giá trị ở trong nước và nước ngoài …

Đại hội lần thứ năm của Đảng vạch rõ nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và có tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nướcvà chủ nghĩ quốc tế vô sản. Nền văn hoá mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại. Nền văn hoá mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam”(11). Theo nhiệm vụ này, ngành Hán Nôm phải trưởng thành nhanh chóng, đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đủ sức giải quyết các vấn đề giám định, khai thác bảo quản, sưu tầm các thư tịch và tài liệu Hán Nôm để góp phần vào công cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng vào sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

CHÚ THÍCH

(1) Về văn hoá văn nghệ ( in lần thứ 4). Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr. 214

(2) Tổ quốc nhân dân ta và người nghệ sĩ (in lần thứ 2). Nxb Văn học Hà Nội, 1973, trang 61.

(3) Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta và thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội, 1973, trang 62.

(4) Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội 1975, trang 171.

(5) (6) Trích theo Trần Kháng: Một số hiện tượng gây nhiều mất mát vốn, di sản văn hoá. Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 12, năm 1978, trang 69.

(7) Về văn hóa văn nghệ. Sách đã dẫn, trang 112.

(8) Về văn hoá văn nghệ: sách đã dẫn, trang 212.

(9) Về văn hoá văn nghệ: sách đã dẫn trang 83.

(10) Xây dựng nền văn hoá văn nghệ ngang tầm với dân tộc ta, thời đại ta. Nxb Sự thật. Hà Nội. 1975, trang 98.

(11) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tập 1) Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, trang 93-94.

TB

VỀ BẢN TRÙNG SAN LAM SƠN THỰC LỤC DO CỤ HOÀNG XUÂN HÃN GỬI TẶNG

VŨ THANH HẰNG

LAM SƠN thực lục, như chúng ta đã biết, là một tác phẩm được biên soạn vào năm 1431, nhằm ghi lại một cách trung thực lịch sử 10 năm nghĩa quân Lam Sơn quật khởi chống giặc Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc. Có thể tìm thấy nơi đây hạt nhân chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước: lòng anh dũng, chí kiên cường, tinh thần thông minh, sáng tạo của cả một thế hệ được vũ trang bằng tư tưởng độc lập tự do... Lam Sơn thực lục vì thế là nguồn tài liệu quan trọng để nhận thức vẻ đẹp nhiều mặt của Tổ quốc ta, nhân dân ta trong một giai đoạn lịch sử đầy “gian nan thử thách” như lời tựa tác phẩm có nói.

Vấn đề ai là Tác giả Lam Sơn thực lục, hiện có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau nữa. Nhận định có thể đỡ phân tán, nếu ta bám sát các nguồn tư liệu cho bản thân tác phẩm cung cấp để giải quyết những tồn nghi. Trong bài tựa Lam Sơn thực lục. Lê Lợi viết: “Trẫm tao thời đa nan, khai sáng vưu gian, hạnh nhị thiên dữ nhân quy, công nghiệp hữu thành giả, thực do tổ tông tích đức, luỹ nhân chi sở chí dã. Trẫm niệm chi phất dĩ, nãi bút vu thư mục viết “Lam Sơn thực lục”, sở dĩ trọng kì bản, thuỷ kì nghĩa, diệc dĩ tự trẫm gian nan chi nghiệp dĩ thuỳ thị hậu thế tử tôn vân”. Chữ “bút” trong câu “nãi bút vu thư” theo tôi, có thể hiểu như cách giải của từ điển Thích danh: “bút ” đây dùng làm động từ, có nghĩa là “kể lại”, “kể lại sự việc để mà ghi chép” (bút, thuật giả, sự thuật sự nhi thư chi giã). “Nãi bút vu thư” có nghĩa là “bèn kể lại sự việc để chép vào sách”. Ai kể sự việc? - Lê Lợi, Ai chép các sự việc đó vào sách? - Những người giúp việc cho Lê Lợi. Chính vì vậy mà ở lời tựa thì dùng chữ “Trẫm” (ngôi thứ nhất trong cách xưng hô), còn ở phần chính của sách thì dùng chữ “Đế” (ngôi thứ ba trong cách xưng hô). Việc làm “Thực lục” là hệ trọng, cố nhiên không thể giao cho một người. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy như vậy. Thông thường thì có một nhân vật giữ vai trò chủ chốt. Bằng vào nội dung Lam Sơn thực lục - cùng một cốt cách, một hơi thở với Bình Ngô đại cáo, Văn bia Vĩnh Lăng là những tác phẩm do Nguyễn Trãi soạn thảo - ta có thể nghĩ ngay vị chủ biên công trình Lam Sơn thực lục không ai khác hơn ức Trai. Người đặc biệt có uy tín về mặt “văn thư từ lệnh” dưới tướng Lam Sơn Động Chủ. Tóm lại, Lam Sơn thực lục do Lê Lợi kể, Nguyễn Trãi ghi, cùng sự tham gia của một số người khác nữa ở cương vị thứ yếu.

Về mặt văn bản, chúng ta hiện có tất cả 5 bộ Lam Sơn thực lục bằng chữ Hán, chưa kể đến Lam Sơn thực lục do Nguyễn Diên Niên sưu tầm được gần đây. Giữa các bộ sách có sự khác nhau không ít, đôi khi sự khác nhau đó không còn ở câu chữ mà là cả những đoạn dài. Năm 1969, Văn Tân dựa vào bộ sách mang ký hiệu A. 26 và VHv. 1695 để xây dựng một bản dịch mới Lam Sơn thực lục trong tác phẩm tìm hiểu kho sách Hán Nôm (trong Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb, Khoa học Xã hội, Hà Nội), tiếp sau bản dịch Mạc Bảo Thần năm 1944. Sau Văn Tân một năm, Trần Văn Giáp lại giới thiệu Lam Sơn thực lục trong tác phẩm Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Thư viện Quốc gia xuất bản. Hà Nội, 1970), chủ yếu dựa vào các bộ sách mang ký hiệu A.26, A. 1369, A.2795. Trong thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay còn một bộ Lam Sơn thực lục nữa mang kí hiệu VHv. 1471. Theo ý chúng tôi, đây là bản khá nhất trong số các bản hiện có, tiếc rằng các nhà biên khảo trên chưa ai phát hiện.

Điều đáng lưu ý là tất cả các bản Lam Sơn thực lục vừa nêu, kể cả bản sưu tầm được của Nguyễn Diên Niên, đều ở dạng viết tay. Chúng ta chưa bao giờ thực sự có một bản in Lam Sơn thực lục bằng chữ Hán để dịch hoặc nghiên cứu. Riêng Trần Văn Giáp trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm có ghi mấy chục năm trước, ông được xem một bản sách in, đề là “Trùng san Lam Sơn thực lục” và có ghi rõ quê người thợ khắc, thì bản này theo ông, “ nay cũng đã mất” rồi (Sách đã dẫn trang 43). May sao đồng chí Nguyễn Hữu Bưởi, nguyên Phó Viện trưởng Viện TTKHXH trong chuyến đi công tác tại Pháp 1979, được cụ Hoàng Xuân Hãn tặng cho một bản Trùng san Lam Sơn thực lục in vào năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676) do cụ mua lại của một người Hà Nội năm 1941. Trong bản này, có những chữ huý của đời Lê như thay cho 新 (tựa - 1a) (4) thay cho 提 (Tựa 4b (7), mà không thấy những chữ huý thuộc đời Nguyễn. Theo cụ Hoàng, loại sách in từ thế kỷ XVII ở ta còn lại rất ít, riêng về sử lại càng hiếm. Có lẽ tập Trùng san Lam Sơn thực lục này là độc nhất còn lưu lại đến ngày nay (Xem lời ghi chú của Hoàng Xuân Hãn ở đầu tập sách).

Với bản in này, chúng ta có dịp duyệt xét lại toàn bộ các bản chép tay hiện có, xem bản nào chép từ Trùng san Lam Sơn thực lục, bản nào chép từ các nguồn tư liệu khác. Qua đối chiếu chúng tôi thấy:

- Bản Lam Sơn thực lục mang ký hiệu A.2369 có một điểm rất đáng lưu ý, đó là: tờ 4 của quyển 1 và tờ một của quyển 3 ở bản in, vì một lý do nào đó, đã bị thất lạc, thì trong A. 2369 những phần đó cũng không có. Vậy phải chăng A.1369 là bản sao của chính bản in ta mới có, trước khi có được nó cụ Hoàng Xuân Hãn làm cái việc tham khảo các sách khác để bổ sung cho những trang bị mất? Đáng tiếc, A.2369 lại có rất nhiều thiếu sót phần lớn do thiếu sự cẩn thận của người sao chép gây nên, tình trạng “tác tộ, ngô quá”, đảo lộn thứ tự, thay đổi chữ nọ thành chữ kia có nghĩa gần nhau hoặc tương tự, rồi chép thừa chữ, thiếu chữ... đầy rẫy, khiến cho người đọc phải e ngại về độ chính xác của nó.

- Bản Lam Sơn thực lục mang kí hiệu VHv.1471, như chúng tôi từng nhận xét ở trên, là bản khá nhất trong số các bản chép tay hiện có. Qua chất liệu giấy, bìa đóng, chữ viết... chúng ta dễ dàng thấy rằng đây là một bản mới được chép lại sau này, nhưng VHv. 7471lại giống hệt bản in kể cả nội dung lẫn hình thức. Với chữ viết tuy không đẹp nhưng rõ ràng, chân phương, cẩn thận, người sao chép cố ý giữ nguyên bộ mặt của bản chính, mỗi trang sách cũng được chép theo 9 hàng, mỗi hàng 16 chữ y như ở bản in. Sự cố ý nghĩa này càng dễ nhận thấy ở phần bổ sung cho những trang đã mất. Có thể khẳng định VHv1471 đã được sao từ Trùng san Lam Sơn thực lục, sau khi đã có bổ sung của cụ Hoàng Xuân Hãn.

- Các bản Lam Sơn thực lục: A. 26, A. 2795. VHv1695 đều có những sự khác biệt chứng tỏ những bản này không thể từ Trùng san Lam Sơn thực lục chép ra, mà là từ các nguồn tư liệu khác.

Từ những nhận xét sơ bộ trên, điều băn khoăn thú vị của Văn Tân: “San Hồ Sĩ Dương, chúng ta ngờ rằng Lam Sơn thực lục còn bị sửa chữa nữa”. (Nguyễn Trãi toàn tập, sách đã dẫn, tr.31) cũng sẽ được giải đáp từ đây.

Với bản in Lam Sơn thực lục, chúng ta còn có dịp quan sát tình hình biến động về mặt văn bản học của tác phẩm thuộc loại quan trọng qua các giai đoạn lịch sử từ đầu thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII, và từ giữa thế kỷ XVII đến cuối XX.

Ngoài ra cũng có thể nghĩ tới việc dịch lại Lam Sơn thực lục từ bản in 1676 này. Đúng là Lam Sơn thực lục có chỗ yếu của nó như Lê Quý Đôn từng nhận xét “Lam Sơn thực lục... chép việc khởi nghĩa Bình Ngô. Bản cũ hãy còn, nhưng người ta sao chép có nhiều chữ sai. Bản in ngày nay là do các nho thần đời Vĩnh Trị vâng mệnh đính chính, nhưng họ không rộng tìm các bản, mà chỉ bằng vào sở kiến của mình, lấy ý riêng mà sửa chữa thêm bớt, làm cho không đúng sự thật, không phải là sách chọn vẹn nữa” (Đại Việt thông sử Nghệ Văn Chí) song cũng cần thấy rằng Trùng san Lam Sơn thực lục là một công trình biên soạn tập thể, trong tập thể biên soạn tập thể đó có những người học rộng biết nhiều như Hồ Sỹ Dương, Đặng Công Chất, Đào Công Chính... có thể họ chưa đạt tới trình độ khảo chứng cao như Lê Qúy Đôn, nhưng thái độ của họ không thể nói là là không nghiêm túc. Cho dù họ có phạm bao nhiêu khuyết điểm về phương pháp văn bản học chăng nữa, thì Trùng san Lam Sơn thực lục với tư cách là một bản in từ hơn 300 năm trước còn lưu lại, vẫn có cơ sở để tin cậy hơn là các bản chép tay hiện có dưới mắt ta.

TB

VỀ HAI NHÓM VĂN BẢN
QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP HIỆN CÒN

NGUYỄN VĂN NGUYÊN

Lập trường chính nghĩa, kiên quyết đánh đuổi giặc xâm lược, của dân tộc ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được Lê Lợi và Nguyễn Trãi quán triệt và thể hiện một cách xuất sắc ở đường lối đấu tranh chính trị và ngoại giao sáng suốt, không khéo. Một hình thức độc đáo được sử dụng như là một thứ vũ khí sắc bén trên mặt trận ngoại giao đó những công văn, thư từ qua lại với quân tướng giặc Minh do Nguyễn Trãi thay Lê Lợi soạn thảo trong thời gian kháng chiến mà sau này được Trần Khắc Kiệm gọi chung là Quân trung từ mệnh tập(1). Tập công văn thư từ này đến được với chúng ta, chủ yếu là công trình sưu tập do Dương Bá Cung tiến hành, mà kết quả cuối cùng là bộ Ức Trai di tập(2), được khắc in vào năm 1868. Quá trình công bố và dịch ra Quốc ngữ những văn kiện Quân trung từ mệnh tập của các nhà nghiên cứu sau này như Phó Đức Đôn(3), Thiện Đình(4), Trúc Khê Ngô Văn Triện(5), Phan Duy Tiếp(6),.... đều đã lấy bản in này làm căn cứ. Vào khoảng năm 1965 - 1966, Trần Văn Giáp từ kho sách Hán Nôm tìm ra thêm một số văn kiện mới không có trong bản in nói trên. Sau khi công bố, những văn kiện này đã được bổ sung vào phần QTTMT, của sách Nguyễn Trãi toàn tập xuất bản vào vài năm về sau(7). Phát hiện của Trần Văn Giáp một mặt làm phong phú thêm nguồn tư liệu hiện còn về tác phẩm QTTMT, đồng thời làm này sinh một vấn đề văn bản học: Thực chất những văn bản có chứa số văn kiện mới đó là gì? Và chúng có quan hệ gì với bộ sách ƯTDT hay không? để góp phần tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành điều tra lại những văn bản hiện còn chép các văn kiện QTTMT mà chủ yếu là 7 bản sau đây:

A. Ức Trai di tập Nguyên bản Phúc Khê (gọi tắt là bản Phúc Khê), hiện có nhiều bản cùng loại, mang ký hiệu A.1772, A.2616, VHv.697(8) và Hv.23 (Thư viện Viện sử học)... trong số đó, bản A.139 tương đối đầy đủ nhất. Đây là bản in duy nhất vể ƯTDT đã trở nên quen thuộc với giới nghiên cứu. Niên đại của văn bản được ghi rõ “Mùa thu năm Tự Đức Mậu Thìn” (1868). Đầu sách có 3 bài tựa của Nguyễn Năng Tĩnh đề năm Quý Tị, Minh Mạng thứ 14 (1833), Ngô Thế Vinh đề năm Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 18 (1837) và của Dương Bá Cung đề năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868). Thân sách chia ra 7 quyển, gồm các trước tác văn thơ của Nguyễn Trãi và những tài liệu liên quan đến ông, trong đó quyển VI (44 tờ) nhan đề QTTMT chép 42 văn kiện(9), gồm 39 bức thư và 3 tờ biểu, tấu. Theo các nhà nghiên cứu, liên quan đến nội dung QTTMT còn có một số văn kiện số 3 (Thư gửi Vương Thông ) rõ ràng cùng loại với văn kiện quyển IV. Số còn lại, theo nội dung chia ra 3 bộ phận: 15 tờ biểu tấu gửi triều đình nhà Minh, 11 tờ chiếu, các mệnh lệnh của Lê Lợi và 5 bài văn khác của Nguyễn Trãi.

B. Ức Trai di tập: bản chép tay, ký hiệu VHv 1259 (gọi tắt là bản Phạm Lý) đầu sách có tựa của Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô Thế Vinh, nhưng cuốn bài Tựa của Ngô Thế Vinh còn chép nối bài chí của An Phong Phạm Lý, hiệu Nhã Chi, viết khi sao chép văn bản vào năm Tự Đức Bính Thìn (1856) mà dựa vào đó, Trần Văn Giáp đã xác định đây là bản sao lại từ bản thảo nhà Dương Đình Ngô Thế này chỉ còn lại 2 quyển. Quyển I, Thi loại , chép thơ chữ Hán và quyển II Văn Loại - Quân Trung từ mệnh tập, chép 49 văn kiện gồm 48 bức thư và một bài văn hội thề, trong đó bản in Phúc Khê, đã được Trần Văn Giáp phát hiện và công bố. Một điểm đáng chú ý là bên cạnh chính văn bản này còn giữ lại được những lời phê bình của họ Ngô và họ Nguyễn.

C. Ức Trai di tập: bản chép tay của Thư viện Viện sử học, ký hiệu Hv.179 (gọi tắt là bản Viện sử I). Phần đầu sách có Tựa của Nguyễn Năng Tĩnh và một số tài liệu liên quan đến hành trạng của Nguyễn Trãi. Từ tờ 15 đề quyển I (song các phần sau chép liền mà không chia quyển II, III...) chia ra Thi loạn thượng gồm thơ chữ Hán và Thi loạn hạ; là tập thơ Nôm Quốc âm thi tập. Tiếp theo là Dư địa chí được sao chép với khá nhiều thiếu sót. Từ tờ 66 là QTTMT có mục gồm 62 văn kiện. Như vậy, QTTMT bản này tương tự với bản Phúc Khê về số lượng văn kiện và giống bản Phạm Lý ở chỗ còn giữ được lời bình bên cạnh chính văn. Phần còn lại sách chép 17 văn kiện khác hầu hết đều có ở quyển Văn loại bản Phúc Khê , duy có bài văn tế đền Dạ Trạch là không thấy có ở ƯTDT nào khác. Cuối cùng là phần thơ chữ Hán của Nguyễn Phi Khanh.

D. Ức Trai di tập: Bản chép chữ chân, ký hiệu A140. Bản này không chia quyển. Qua mấy tờ chép sơ sài phần Hành trang khảo là ức trai quân trung từ mệnh tập, có 67 văn kiện trong đó gồm có 40 bức thư, 18 tờ biểu tấu, 1 biểu tạ và 2 bài văn khác của Nguyễn Trãi. Cuối sách Ức trai thi tập, chỉ có thơ chữ Hán. Nhìn chung bản này có kết cấu thiếu chặt chẽ, sao chép cũng nhiều sai sót hơn so với các bản khác.

E. Ức Trai di tập: bản chép tay ở Thư viện Viện sử học, ký hiệu Hv.462 (gọi tắt là bản Viện sử II) vốn không có danh sách, không đánh số tờ. Hình thức sách chứng tỏ chỉ là phần còn lại của một bản ƯTDT. Trước tác của Nguyễn Trãi ở đây có Quyển I đề là Văn loại Quân trung từ mệnh tập, chép 40 văn kiện, toàn là thư gửi quân tướng giặc Minh. Sau đó đề văn loại, nhưng chỉ còn lại 2 văn kiện là Văn tấu cáo Biểu cầu phong là hết. Xem ra QTTMT của bản này còn có nhiều đặc điểm giống như bản Phạm lý.

G. Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập: bản chép chữ thảo , ký hiệu A.1973 (gọi tắt là bản Thư Tập) gồm 42 tờ giấy bản cũ đã sờn nát, nhiều tờ bị rách mất chữ ở góc tờ giấy. Sách không có tựa, bạt . Sau nhan đề, có dòng chữ “ức Trai tiên sinh phụng soạn” rồi chép luôn vào nội dung. Tất cả có 49 văn kiện, trong đó trừ 2 văn kiện là văn tấu cáo và thư trả lời của Vương Thông sơn thọ ra, còn lại đều là thư gửi quân tướng giặc. So với bản Phúc Khê, ở đây chép dôi ra 10 văn kiện nhưng đồng thời lại thiếu 2 văn kiện khác.

Hoàng triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập còn có một dị bản khác, phụ chép từ tờ 9 đến tờ 52 trong sách Hoan Châu phong thổ chí, ký hiệu A,2621, Bản này được chép bằng kiểu chữ chân. Xem xét phần thư tập ở bản này với bản chữ thảo nói trên có thể dễ dàng nhận thấy chúng là 2 bản sao chép lại nhau, thậm chí còn có thể khẳng định bản A. 2621 là bản sao chân hoá lại bản chữ thảo(10). Bản chữ chân này đã được Trần Văn Giáp dùng lam một trong những nguồn tài liệu bổ sung số văn kiện không có trong bản in.

H. Hoàng các dĩ văn: Bản chép chữ Hán đá thảo, Ký hiệu VHv.1129/1-8 (gọi tắt là bản di văn). Đây là bộ sách gồm 8 quyển, tập hợp văn thơ các loại từ thời Lê Sơ đến đời Lê Cảnh Hưng. Trần Văn Giáp trước đây đã đoán định nó là bản chép theo một bản cổ chứa trong cung đình thời Nguyễn Trãi, có thể đượcchép vào hồi sau nhà Lê hoặc dưới triều Tây Sơn, Gia Long, văn thơ ở đây được chia làm 5 loại Tiêu biểu (Quyển I), Giản trát (quyển II) Thi liên (Quyển III). Trướng văn (Quyển VI đến quyển VII) và Tề văn (Quyển VIII).Riêng quyển II Giãn trát (72 tờ) chép tất cả 44 văn kiện, nhưng 8, tương đương với niên hiệu từ Thiên Thuận, Thanh Hoá, tương đương với niên hiệu Thiên Hưng đến Hồng Đức của ta, tức là thuộc thời gian sau khi Nguyễn Trãi đã mất. Còn lại 29 bức thư 7 tờ biểu tấn mà từ đó Trần Văn Giáp đã chọn 12 văn kiện được coi là mới không có bản in.

Trong số 7 văn bản trên, có tới 5 bản mang nhan đề Ức Trai di tập. Theo những lời tựa ở bộ sách này, vào khoảng thế kỷ XIX Dương Bá Cung đã bỏ ra nhiều thời gian để tìm kiếm, thu thập những trước tác còn lại của Nguyễn Trãi, sau đó bản thân ông cũng một vài người khác đã tiến hành phần loại, sắp xếp tài liệu thành một bộ sách mang tính chất “toàn tập”. Do mục đích ấy nên người biên soạn đã đưa vào sách tất cả văn thơ các loại của Nguyễn Trãi (Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, Quân trung từ mệnh tập .v.v...) đồng thời phụ thêm những tài liệu liên quan đến Nguyễn Trãi như các tác phẩm Hành Trạng khảo, bình luận chư thuyết, thơ của Nguyễn Phi Khanh... Qua các văn ƯTDT ta thấy, tuy cấu tạo của chúng có phần sai khác nhau, việc chia sách thành quyển trật cũng chưa thống nhất, nhưng nhìn chung có thể nhận định đây là bộ sách hoàn chỉnh, còn đầy đủ cả những lời tựa của người tham gia biên sọan, hiệu đính, bình chú. Những công văn thư từ qua lại với người Minh chép ở bản ƯTDT nhìn chung được xếp riêng một quyển và mang nhan đề mà Trần Khắc Kiệm đã đặt ra từ mấy thế kỷ trước. Số lượng văn kiện QTTMT trong các văn bản ƯTDT là tương đối xác định, thường chỉ xê dịch trong khoảng từ 40 đến 42 văn kiện.

Trong 2 bản còn lại không mang nhan đề ƯTDT, thì bản Di văn có những đặc điểm tương đối khác biệt về hình thức và nội dung Bộ sách này tập hợp trước tác các loại của nhiều tác giả thuộc đời Lê, trong đó những văn kiện thư từ với người Minh được xếp vào loại giản trát, Quyển giản trát cùng với Tiên Biểu có thể xem là những văn kiện có tính chất quan phương của triều đình nhà Lê. Do đối tượng sưu tập có phạm vi tương đối rộng về mặt tác giả và niên đại sách không chỉ chép trước tác của Nguyễn Trãi mà cả của nhiều người khác; bên cạnh những tài liệu thuộc thời Lê sơ còn có các bài thuộc niên đại đến Lê Trung hưng về sau. Ngay trong quyển Giản trát sau số công văn giao thiệp với người Minh mà ta đã biết là do Nguyên Trãi soạn thảo, từ văn kiện 37 trở đi, sách vẫn chép liền nhiều văn kiện thuộc niên đại sau đời Nguyễn Trãi. Hình thức văn kiện chép ở bản này cũng khá đặc biệt. Tất cả dường như vẫn còn giữ lại được thể thức trang trọng của loại công văn ngoại giao xưa kia, với câu mở đầu xưng tên người gửi: “Tri phủ phủ Thanh Hoa Lê Lợi”... hoặc “Đầu mục nước An Nam là Lê Lợi kính gửi...” cùng với “Ngày tháng năm niên hiêu Tuyên Đức” khi ở cuối mỗi bức thư. Những chi tiết này hầu như không có ở số thư từ trong các bản ƯTDT.

Riêng đối với bản Thư tập bản này dường như không có đặc thù về hình thức như bản Di văn, mà ngược lại, nhiều điểm có vẻ lại gần tương tự QTTMT trong các bản ƯTDT hơn. ở bản Thư tập, tuy không ghi nhan đề QTTMT, nhưng nội dung trừ văn kiện cuối cùng ra, còn lại đều là thư từ do Nguyễn Trãi soạn thảo. Cũng giống như ƯTDT mỗi bức thư ở bản này đều được đặt cho một cái tên đại loại Thư gửi Vương Thông hoặc Tại thư gửi Vương thông, Sơn Thọ... Tuy nhiên sẽ có phần phiến diện nếu chỉ căn cứ vào một vài đặc điểm tương tự đó mà đi đến nhận định coi Thư tập là một bản sao trích riêng phần QTTMTcủa bộ ƯTDT nào đó thành một quyển với một nhan đề khác do người chép tự đặt ra. Bởi vì nếu đi vào xem xét nội dung các văn kiện, nhất là khi tiến hành đối chiếu so sánh tất cả các văn bản, kết quả sẽ thấy hình thành một sự khác biệt khá rõ nét giữa một bên là hai bản Di văn Thư tập với một bên là các bản ƯTDT thể hiện qua các trường hợp dị đồng. Có thể nói phần lớn dị đồng xảy ra là thuộc về sự sao chép khác nhau giữa các nhóm văn bản này. Để hình dung được rõ hơn, ta thư xét 7 văn kiện từ số (9) đến số (15)(11), là những văn kiện liên tiếp chép ở tất cả các bản. Qua hiện khám đối chiếu 7 văn kiện này có thể tìm ra 48 trường hợp dị đồng, trong đó:

· 22 trường hợp Thư tập giống với Di văn và khác với ƯTDT (chiếm 45,8%)

· 8 trường hợp Thư tậ p giống với ƯTDT và khác Di văn (chiếm 16,6%)

· Còn lại 27% là trường hợp Thư tập khác cả Di văn và ƯTDT và 5% là dị đồng giữa các bản ƯTDT với nhau.

Kết quả trên cho thấy số lượng dị đồng trong đó hai bản Thư tập Di văn chép khác với các bản ƯTDT nhiều hơn hẳn dị đồng giữa Thư tập và ƯTDT khác với Di văn (gấp 3 lần). Điều đó chứng tỏ rằng bản Thư tập gần gũi với bản Di văn hơn là với các bản ƯTDT. Mặt khác, nếu xét về tính chất của dị đồng cũng thấy, đa số những trường hợp dị đồng lớn có thể dẫn đến hiểu sai lạc thậm chí trái ngược ý nghĩa câu văn, hay là các trường hợp chênh lệch thêm bớt từ vài chữ đến cả một đoạn văn thường xảy ra giữa nhóm các văn bản ƯTDT và nhóm 2 bản Di văn Thư tập. Cụ thể hợp bản Di văn và ƯTDT chênh lệch chữ so với bản Thư tập , còn lại đều thuộc trường hợp chênh lệch giữa hai bản Di văn, Thư tập đối với các bảnƯTDT . Một ví dụ điển hình là văn kiện số 43 lại thư gửi Vương Thông. Bức thư này ở cả 5 bản ƯTDT đều chỉ có đoạn đầu rồi bỏ dở, trong khi ở hai bản Di văn Thư tập nó có được chép chọn vẹn nhờ giữ lại được đoạn cuối dài ngót 150 chữ. Mọi trường hợp khác tình hình cũng đều như vậy, hai bản Di văn Thư tập luôn tỏ ra sao chép nội dung văn kiện đầy đủ hơn so với các bản ƯTDT. Rõ ràng sự đối lập này giữa hai bản Di văn Thư tập với các bản ƯTDT thể hiện ở các dị đồng khó có thể giải thích bằng sự lầm lẫn trong quá trình sao chép lẫn nhau, mà phải được coi là biểu hiện chứng tỏ 2 bản ấy thuộc về một nhóm văn bản độc lập với nhóm văn bản ƯTDT mà tạm gọi là nhóm Di văn đời Lê để phân biệt phương thức sưu tập theo giai đoạn lịch sử của nó với cách biên soạn theo tác giả của nhóm kia.

Kết quả so sánh văn bản không những chứng tỏ nhóm hai văn bản Di văn Thư tập sao chép đầy đủ hơn, mà qua xem xét sơ bộ đối với một số dị đồng quan trọng cũng cho ta nhận xét văn bản nhóm này thường tỏ ra chép đúng và xác đáng hơn. Tình hình đó kết hợp với hình thức tương đối cổ của hai bản Di văn Thư tập cho phép đoán định rằng so với nhóm ƯTDT, văn bản nhóm Di văn đời Lê nói trên có thể được biên soạn, sao chép sớm hơn, nhờ vậy mà chúng còn giữ lại được bộ mặt chân thực hơn của tác phẩm QTTMT. Nhận định trên cũng phù hợp với tình hình thực tế là 2 bản Di văn Thư tập còn giữ lại được nhiều văn kiện mà ở bản in ƯTDT không có.

Nhưng bên cạnh hai văn bản nhóm Di văn đời Lê, trong nguồn tài liệu được Trần Văn Giáp sử dụng để bổ sung văn kiện mới còn có bản Phạm Lý. Đây là một văn bản thuộc nhóm ƯTDT mà cũng chép tới 9 văn kiện này không có trong bản in. Chúng tôi đã xem xét mấy văn kiện này và có thể nhận định rằng chúng vốn không thuộc vào số văn kiện QTTMT được các soạn giả bộ sách ƯTDT sưu tập, biên soạn. Bởi vì, bản Phạm Lý là một trong những bản còn giữ lại được những lời bình của Nguyễn Năng Tĩnh và Ngô Thế Vinh là hai người tham gia biên soạn bộ ƯTDT(12) nhưng những lời bình ấy chỉ thấy xuất hiện bên cạnh chính văn của 40 văn kiện đầu mà thôi, còn 9 văn kiện cuối không hề có lời bình nào cả, làm cho mấy văn kiện này tuy được chép bên dưới, song vẫn trở nên cách biệt với phần trên. Mặt khác, trong các bản ƯTDT hiện còn, chúng tôi đã xác định được một bản khác là bản Viện sử II cũng có cùng nguồn gốc sao chép từ bản thảo nhà Ngô Thế Vinh như bản Phạm Lý. Vậy mà ở phần QTTMT của bản Viện sử II cũng chỉ có 40 văn kiện như đã có ở bản in Phúc Khê mà thôi, chứng tỏ ở bản thảo của Ngô Thế Vinh hồi ấy không có số văn kiện dôi thêm đó. Rõ ràng việc bản Phạm Lý có chép thêm 9 văn kiện mà tất cả các bản ƯTDT khác không có chỉ là hiện tượng cá biệt của riêng văn bản này, việc bổ sung đó chắc phải tiến hành về sau không liên quan gì đến quá trình biên tập sách ƯTDT. Qua lời Chí của Phạm Lý ta thấy ông tỏ ra có thái độ thận trọng khi sao chép lại bản nhà Ngô Thế Vinh, nhất là đối với việc thêm bớt nội dung văn bản (như việc ông không bỏ chép phần thơ Nguyễn Phi Khanh). Thế mà ở bài Chí, Phạm Lý không hề nói tới sự bổ sung tư liệu nào vào bản sao của ông. Cho nên có thể ước đoán bản sao của Phạm Lý sau này lại được sao chép nhờ tìm đựơc từ một nguồn nào đó(14) đã chép nối thêm một số văn kiện mới.

Ở trên, thông qua phân tích và so sánh các văn bản ta thấy, những văn kiện QTTMT của Nguyễn Trãi hiện nay đựơc giữ lại trong 2 nhóm văn bản có phương thức biên soạn và niên đại sao chép khác nhau. Việc xác lập ra 2 nhóm văn bản không có nghĩa là phần văn kiện QTTMT của chúng hoàn toàn tách rời, không liên quan gì với nhau, mà nếu nhìn một cách bao quát ta thấy, trừ số văn kiện chép dôi ra ở nhóm văn bản Di văn đời Lê, phần còn lại ở 2 nhóm văn bản này có những đặc điểm tương tự tương tự với nhau về nhiều mặt nội dung, số lượng và đôi khi cả về thứ tự sắp xếp các văn kiện khác soạn thảo trong thời gian kháng chiến tất nhiên phải được trân trọng đặc biệt, nếu không bảo vệ trong “Hòm vàng” thì cũng phải được thu thập sao chép đầy đủ và cất giữ bên cạnh những giấy tờ quan trọng khác của triều đình, như là chứng tích nóng hổi về cuộc kháng chiến gian khổ và vẻ vang vừa qua. Chính bởi ý nghĩa đó nên ngay cả sau ngày xảy ra vụ án vườn Lệ Chi, các thế lực thù ghét Nguyễn Trãi vẫn không giám động chạm đến những tài liệu lưu trữ đó. Hơn nữa, thư từ qua lại với người Minh tuy do Nguyễn Trãi soạn thảo nhưng đều mang tên người sáng lập ra triều đại đương thời là Lê Lợi. Cho nên sau khi Nguyễn Trãi bị giết hại, trong khi nhiều trước tác của ông bị tiêu huỷ thì riêng số công văn thư từ này vẫn được giữ lại khá nguyên vẹn. Đến thời Hồng Đức, Trần Khắc Kiệm theo lệnh vua tìm kiếm di văn của Nguyễn Trãi. Đây quả là công việc khó khăn, nhưng đối với loại công văn thư từ, Trần Khắc Kiệm có gặp thuận lợi hơn so với tác phẩm thơ văn khác, ông đã tìm và sao chép lại từ những giấy tờ lưu trữ trong triều thành một tập và đặt tên là QTTMT. Có thể tin rằng trong tập này Trần Khắc Kiệm đã sưu tập được khá đầy đủ số văn kiện còn giữ lại sau kháng chiến. Nhưng trải thời gian dài, tập sách này đã bị thất tán mất. Cho tới khoảng đầu thế kỷ XIX, Dương Bá Cung lại tiến hành sưu tập thơ văn Nguyễn Trãi lần thứ 2. Việc tìm kiếm lúc này hẳn là khó khăn hơn lần trước rất nhiều. Tuy cùng nằm trong tình trạng mất mát, thất tán nghiêm trọng chung, nhưng nguồn tài liệu về các văn kiện QTTMT có thể còn hiếm hoi hơn so với bộ phận thơ văn khác, bởi lẽ chúng thuộc thể loại công văn ngoại giao mang tính chất quan phương nên không được sao chép, lưu truyền rộng rãi trong dân gian như các tác phẩm thơ văn. Nhưng cũng nhờ mang tính chất quan phương đó mà chúng được giữ lại trong loại sách vở khác. Ta đều biết, thời kỳ Lê Sơ đựơc coi là giai đoạn phát triển cực thịnh trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta. Các triều đình Lê Trung Hưng, Lê Mạt đã đành, mà cả đến nhà Nguyễn sau này cũng thường nhắc tới thời kỳ đó với niềm tự hào về một quá khứ vẻ vang của dân tộc. Vì thế những hồ sơ giấy tờ công văn cũ của “tiên triều” vẫn được trân trọng sao chép, truyền lại như những mẫu mực về công việc nội trị và ngoại giao của Nhà nước phong kiến. Kho sách Hán Nôm hiện còn nhiều thư tịch sưu tập những tài liệu này như Cổ kim bang giao bị lãm, Bang giao lục. Lê triều công văn sao tập, Hàn các tùng đàm , mấy bản Hoàng các di văn ... Nhờ vậy, QTTMT của Trần Khắc Kiệm tuy đã bị mất, nhưng nội dung của nó vẫn truyền lại được tới đời sau trong loại sách vở này, tất nhiên là đã bị rơi rụng, sai sót nhiều trong quá trình sao đi chép lại qua các đời. Đây có thể là nguồn tài liệu chung của hai nhóm văn bản QTTMT hiện nay. Từ đây Dương Bá Cung đã thu lượm tư liệu để biên tập nên quyển QTTMT trong bộ sách ƯTDT của mình. Trong khi đó, những công văn giấy tờ của triều Lê vẫn tiếp tục lưu truyền để có các bản sao đại loại như Hoàng các di văn, Lê triều dữ Minh nhân vãng phục thư tập...

QTTMT thuộc loại những văn bản cổ, có quá trình lưu truyền văn bản lâu dài và phức tạp. Một giả thiết sơ sài như trình bày ở trên hiển nhiên không thể nói đã phản ánh thật chính xác quá trình đó như nó từng diễn ra trong lịch sử. Tuy vậy trong tình hình tài liệu hiện nay, nó có thể phần nào giải thích sự tồn tại của hai nhóm văn bản QTTMT hiện còn và đặc biệt là từ đó khẳng định giá trị tham khảo quan trọng của hai văn bản chép tay thuộc nhóm văn bản Di văn đời Lê đối với công tác hiệu khám, chỉnh lý và dịch thuật tác phẩm QTTMT của Nguyễn Trãi, một điều mà trước nay chưa phải đã được chú trọng đúng mức.

CHÚ THÍCH

(1) Quân trung từ mệnh tập, từ đây trở xuống viết tắt là QTTMT.

(2) Ức Trai di tập, từ đây trở xuống viết tắt là ƯTDT.

(3) Xem Cổ văn trích dịch, Nam Định 1927.

(4) Xem Nam phong, 1929, tập XX, số 144, tr. 173 - 183.

(5) Xem Ức Trai di tập, Nxb Lê Cường, Hà Nội, 1945 và Nguyễn Trãi anh hùng dân tộc, Trúc Khê thư xã, Hà Nội, 1953.

(6) Quân trung từ mệnh, Nxb Sử học, Hà Nội. 1961.

(7) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội. 1969.

(8) Ký hiệu sách không có chú riêng là của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(9) Mục lục ở đầu quyển IV chỉ kê tên 34 văn kiện là do đã đưa nhầm 8 văn kiện sang mục lục quyển III.

(10) Điều đó thể hiện khi đối chiếu so sánh hai văn bản. Ta thấy về hình thức, hai bản đều giống nhau về số lượng văn kiện, thứ tự sắp xếp, hoặc cách gộp hai ba bức thư gửi Vương Thông vào cùng một nhan đề (như ở các văn kiện số 17, 18, 19, 32, 33, 34 và 42, 43...). Về nội dung, có sự giống nhau gần như hoàn toàn đến từng câu chữ, đặc biệt là ở những câu văn khác, thường chỉ có ở hai bản này. Xét trong số dị văn giữa 2 bản, phần lớn sai sót ở bản chữ chân là do đọc không chuẩn xác nét chữ thảo gây ra (ví dụ ở văn kiện số 7, 10, 14... Đáng chú ý là những chỗ bản chữ thảo bị rách mất chữ ở góc thì đoạn tương ứng ở bản chữ chân hoặc là bỏ cách, hoặc tự đoán mà thêm chữ vào, khiến đôi khi câu văn trở nên lạc lõng vô nghĩa (như ở các văn kiện số 3, 5, 8, 10, 17...).

(11) Khi so sánh, số thứ tự văn kiện được lấy theo sách Nguyễn Trãi toàn tập và được viết trong vòng tròn để phân biệt với số thứ tự văn kiện ở từng văn bản.

(12) (13) Về bộ sách ƯTDT, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp khác khảo sát tỉ mỉ hơn đối với văn bản của nhóm này.

(14) Trong 9 văn kiện cuối bản Phạm Lý, có 6 văn kiện trùng với 2 bản Di văn Thư tập đồng thời ở 6 văn kiện còn giữ được thể thức trang trọng như văn kiện ở bản Di văn, do vậy có thể nghĩ rằng nguồn bổ sung mấy văn kiện này cũng là motọ tài liệu cùng tính chất như văn bản nhóm Di văn đời Lê.

TB

TÌM HIỂU TƯ LIỆU VỀ TUỆ TĨNH

MAI HỒNG

Tuệ Tĩnh là một nhà y học lớn nước ta. Trước nay nhiều người cho rằng ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (Thế kỷ XIV)(1). Nhưng hiện có thuyết cho là ông sống thế kỷ XVII(2). Việc nghiên cứu về thời gian sống của Tuệ Tĩnh do vậy được đặt ra nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về con người và sự nghiệp của bậc danh y này.

Sau đây chúng tôi xin cung cấp thêm một số tư liệu có liên quan tới thời gian sống của Tụê Tĩnh để bạn đọc cùng tham khảo.

I. Tư liệu truyền thuyết và di tích ở địa phương

Chúng tôi, đã đến quê hương của Tuệ Tĩnh ở thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng để thu thập thêm tư liệu, tham khảo các di tích tại chỗ. Tại đền Thánh Thuốc Nam thờ Tuệ Tĩnh ở quê hương ông, còn có một đôi câu đối lưu truyền từ xưa:

“Danh khôi nhị thập giáp tiêu Trần giám.

Sứ mệnh thập toàn tỉnh Băc y”.

“Danh đầu nhị giáp, nêu gương khoa bảng đời Trần,

Sứ mệnh vẹn tròn, trổ tài y học đất Bắc.”

Tài liệu này ghi lại một phần sự nghiệp của ông.

Về tiểu sử của Tuệ Tĩnh, ngoài các tài liệu đã được công bố từ trước; ở địa phương còn có biên bản cuộc họp tại đền Thánh Thuốc Nam ngày 26-4-1979, giữa các đại Ty văn hoá Hải Hưng, tỉnh Hội đông y Hải Hưng, chính quyền hội Cẩm Bình, phòng văn hoá và phòng Y tế huyện, cùng đồng chí Bí thư Đảng bộ xã Cẩm Vũ và các cụ lương y cao tuổi trong xã, nội dung như sau:

Biên bản cuộc họp vể tiểu sử Tuệ Tĩnh tại Nghĩa Phú ngày 26 tháng 4-1979”

“Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, người ở địa phương và làm thuốc cứu dân. Theo truyền thuyết, Tuệ Tĩnh bị triệu đi sử sang Trung Quốc và ở lại bên ấy, không rõ chết năm nào. Có người đi Trung Quốc về nói rằng “Tuệ Tĩnh trước lúc mất, có ý trối lại muốn được đưa hài cốt về nước”. Đời sau tiến sĩ Nguyễn Danh Nho, người làng Nghĩa Phú, được cử sang Trung Quốc, đã đến viếng mộ và lập bia mộ của Tuệ Tĩnh đưa về nước, sau đó khắc lại một tấm bia và lập mộ giả để nhớ công ơn.

“Nguyên Danh Nho thời đó đã đề xướng với nhân dân địa phương xây lại đền thờ Tuệ Tĩnh và lập bia văn chỉ ghi lại các vị tiến sĩ của Nghĩa Phú, năm 1695, trong đó ghi về Tuệ Tĩnh như sau: “Trần triều tứ Tân Mão khoa đệ nhi giáp tiến sĩ xuất thân Nguyễn Bá Tĩnh, di tích và hương án nay vẫn còn thấy ở đền. Năm 1960, có kẻ giả mạo danh nghĩa “bài trừ di tích phong kiến”, đã phá huỷ tất cả các tấm bia trong xã để nung vôi, trong đó có cả tấm văn bia văn chỉ nói trên.

“Ngôi đền thì đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đã được trung tu lại, nhân lúc có phong trào nhân dân đến xin thuốc; ở đền hiện còn một đôi câu đối và một hoành phi 4 chữ “Xuân đài thọ vực” đề năm Tự Đức Kỷ Dậu (1849).

“Năm 1936 lại có phong trào các nơi đến xin thuốc ở đền này. Với tiền nhận cúng lữ vào quỹ đền, Nghĩa Phú đã làm thêm một Hạ đường gỗm 5 gian và xã Văn Thai cũng dựng lên ở đây 2 toà đền bia.”

Về trước tác của Tuệ Tĩnh. Cụ Thoa có đưa ra giới thiệu với hội nghị quyển Hồng Nghĩa giác tư y thư trong đó có Thập tam phương gia giảm, bằng chữ Hán và Phú thuốc nam, bản chữ hán có khác với bản chữ Nôm mới dịch ra(3).

Hội nghị nhất trí xác định quê hương Tuệ Tĩnh là ở Nghĩa Lư “Làng xưa”, nay là Nghĩa Phú; Tuệ Tĩnh sinh trưởng vào cuối đời Trần, đi tu và làm thuốc ở chùa An Trang(chùa Giám)

II. Tài liệu về khoa bảng của tuệ tĩnh

Tấm bia văn chỉ nói trên tuy không còn, nhưng ta vẫn có thể dựa vào các tài liệu sau đây để tìm hiểu về vấn đề khoa bảng của Tuệ Tĩnh.

- Đông y tùng báo số 1 ngày 1-8-1939. Trang 21, đăng Truyện Tuệ Tĩnh của Nguyễn Xuân Dương nói: “Năm Tân Mão niên hiệu Thiệu Phong (1351) ông Tuệ Tĩnh thi đỗ vào Hoàng Giáp.”

- Tap chí nhân thuật số 4, 5 tháng 2-3/1957, trang 4 đăng bài “Đi thăm đền thờ Tuệ Tĩnh” của Hồng Sơn viết “Trong đền không có một tấm bia nào, chỉ thấy mấy tấm ở văn chỉ cạnh đền. Một tấm ghi rõ 32 vị đại khoa trong làng Nghĩa Phú và tổng văn Thái, có ghi tên Tuệ Tĩnh đậu Hoàng Giáp năm Tân Mão (1351), tên ông Nguyễn Danh Nho đỗ Tiến Sỹ khoa Canh Tuất triều Lê (1670), chính ông tiến sĩ Ngyễn Danh Nho là người đã lập bia Văn chỉ từ năm Bính Tý là năm Chính Hoà thứ 17 đời Lê Hy Tông(1696).”

Cùng trong số tạp chí Nhân thuật nói trên, ở trang 6 duới đầu đề Tuệ Tĩnh ngừơi xây nền lắp móng cho y học Việt Nam Lê Huy Phác lại nói: “Tuệ Tĩnh đậu nhị giáp tý tức Hoàng Giáp dưới triều vua Trần Duệ Tông, năm thứ 3

Niên hiệu Long Khánh (1374).

Tra cứu Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:

- Dụ Tông Hoàng đế: ất Dậu năm thứ 5 (1345), mùa xuân tháng 3 thì thái học, phép thi dùng ám tả, cổ văn, kinh nghĩa, thi phú”.

- Duệ Tông Hoàng đế: Giáp Dần năm thứ 2(1374), Thượng ở cung Trùng Hoa, phủ Thiên Trường, thi đình các tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ Trạng Nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa, cho bọn La Tu đỗ hoàng giáp cập đệ, và đồng cập đệ; đều cho ăn yến và áo xếp, cho xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Dẫn 3 người đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ, Thái học sinh 7 năm 1 lần thi, lấy 50 người đỗ mà thôi. Thi Trạng nguyên thì không có định lệ, những thuộc quan ở tam quán, Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả(4).

Chúng tôi đã tham khảo bản Đăng khoa lục A.2752 của thư viện Khoa học xã hội in năm 1779, thì chỉ thấy chép 4 khoa thi dưới triều nhà Trần: 1247, 1250, 1274, 1304 từ đấy đến năm 1399 không thấy chép nữa. Như vậy Đăng khoa lục thiếu gần suốt thế kỷ XIV. Không riêng những khoa thi Thái học sinh cứ 7 năm một lần theo thường lệ mà sử không chép, các khoa thi sử có nói trên, như khoa Giáp Dần(1314) về triều Trần Duệ Tông cùng các khoa Tân Dậu (1381) khoa Giáp Tý(1384) về triều Phế Đế, khoa Kỷ Dậu(1393) triều Trần Thuận Tông đều thiếu cả.

Riêng quyển Đại Việt lịch triều đăng khoa lục do Võ Duy Đoán biên tập năm Thịnh Đức thứ 2 (1654) và Lê Nguyên Trung tục biên năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), tư liệu của Nam Phong sao lại (bản của Trần Duy Vôn ở Viện Hán Nôm)(5) có chép về khoa thi Giáp Dần niên hiệu Long Khánh như sau: Đệ nhất giáp 3 người: Đào Sư Tích, Trạng nguyên, Lê Hiến phủ bảng nhãn, Trần Đình Thâm Thám hoa. Đệ nhị giáp hữu sai: Nguyễn Bá Tĩnh, người Hải Đông, đi sứ bắc lam Điền hộ, nhà Minh giữ lại, đi tu lấy hiệu là Tuệ Tĩnh; La Tu, người Thạch Hà, Đệ Tam giáp Lê Hiến Tứ.

Như vậy, tuy bia của Nguyễn Danh Nho khắc năm 1699 như địa phương đã xác nhận, nhưng cũng đã được Nguyễn Xuân Dương dẫn lại trong Đông y tùng báo năm 1929 khi khẳng định Tuệ Tĩnh đậu khoa Tân Mão (1351). Còn Lê Huy Phác nói Nguyễn Tuệ tĩnh đậu khoa Tân Mão(1351). Còn Lê Huy Phách nói Nguyễn Bá Tĩnh đậu năm 1374 dưới triều Trần Duệ Tông chắc cũng đã dựa vào một tư liệu khác, có lẽ là Đại Việt lịch đại đăng khoa lục theo bản sao của Nam Phong. Vì các khoa thi thái học sinh như thường lệ, đều không ghi tên người đậu, và từ năm 1345 không được sử chép nữa, thì ta cũng có thể tìm được việc thi đậu của Tuệ Tĩnh vào khoa Tân Mão(1351). Hơn nữa những người đậu Thái học sinh được thi vào thi đình, thì Tuệ Tĩnh đã có tiêu chuẩn dự thi, Về đệ nhị giáp của khoa này, sử chỉ ghi La Tu mà không có Tuệ Tĩnh, cũng như đệ tam giáp Lê Hiến Tứ để khuyết, thì ta có thể hiểu rằng sử chỉ chép tên, những người được bổ dụ làm quan mà thôi. Như vậy, chúng tôi thấy có nhiều khả năng Tuệ Tĩnh đã đậu Thái học sinh 1351, và sau lại thi đậu Hoàng Giáp năm 1374, nhưng sau đó đi tu, không làm quan, nên sử đã không chép.

III. Tài liệu về việc đi sứ của Tuệ Tĩnh

Hiện nay, chúng ta chưa có đủ tài liệu để xác nhận việc đi sứ của Tuệ Tĩnh: Đại Việt sử ký toàn thư cũng như Việt sử thông giám cương mục chỉ chép những sự kiện sau đây:

1. Năm ất Sửu (1385) tháng 3, nước Minh sai sứ sang đòi 20 tăng nhân.

2. Năm ất Hợi (1395) nước Minh sai sứ sang đòi tăng nhân, đàn bà xoa bóp, người bị thiến, đều cho một vài người thôi.

Ngoài ra dưới triều thuộc thời Minh, trước sau Trương Phụ đã bắt trên 9000 người đủ các hạng nhân tài đưa về Trung Quốc.

Đối với việc bang giao của ta, những sự kiện trên có thể coi như việc lớn, mà sư sách chỉ chép khái quát, không có tên người thì ta cũng không hi vọng tìm được chi tiết về những người của ta đưa sang cho nhà Minh trong sử sách của họ. Trường hợp của Tuệ Tĩnh, dù đi vào dịp nào, thực sự cũng là đi cống như truyền thuyết, nên càng khó tìm được ghi chép trong chính sử.

Theo truyền thuyết, Tuệ Tĩnh đậu Hoàng Giáp năm 45 tuổi và 55 tuổi bị bắt cống, thì có nhiều khả năng ông đi vào dịp cống 20 năm tăng nhân năm 1385 nói trên.

Hơn nữa việc Tuệ Tĩnh mất ở Trung Quốc và Nguyễn Danh Nho đã rập bia mộ chí đưa về lập mộ giả để tưởng vọng ông với di tích “Đền bia” ghi lại đến nay, là một việc có thật, thì việc đi sứ của Tuệ Tĩnh không phải là một câu chuyện bịa đặt.

IV. Tác phẩm mang tên Tuệ Tĩnh

Về tác phẩm của Tuệ Tĩnh, Hải Duơng phong vật chí của Trần Đàm Trai, in năm 1811, đã chép như sau: Thầy thuốc Tuệ Tĩnh tiên sinh, người ở xã Nghĩa Phú, huyện Cầm Giàng chuyên lấy thuốc nam cứu người rất công hiệu, đã soạn các tập Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm lưu hành ở đời(6).

Nhưng hiện nay có 2 bộ sách mang tên Tuệ Tĩnh là Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư. Thấy tên sách không phù hợp với ghi chép của Đạm Trai, chúng tôi đã tìm hiểu nguồn gốc và nội dung 2 bộ sách này như sau:

1. Nam dược thần hiệu, gồm 9 bản sách in và 2 bản chép tay. Các bản sách in đều không gcó tên tác giả. Duy bản chép tay A. 1270 (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) có đề: “Cẩm Giàng Tuệ Tĩnh tiên sinh soạn tập”. Đây là lời của người khác, chứ không phải lời của tác giả nên mới dùng hai chữ “tiên sinh”. Riên lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng nói tới Nam dược thần hiệu là của Tuệ Tĩnh. Theo lời tựa ở đầu sách in A. 3024 và A. 1664/1 thì Nam dược thần hiệu là do Hoà Thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc, phường Hoè Vệ, phủ Trung Đô (Thăng Long) đã quyên tiền khắc in 1761, sau khi đã biên tập và bổ sung thêm vào bản khắc cũ của Vương Thiện Trí Theo lời phàm lệ của Vương Thiện Trí nội dung sách đã được chỉnh lý theo Nội kinh về y lý, và theo Bản thảo cương mục để kê cứu các vị thuốc, lúc đó mới, lúc đó mới thu thập được độ 500 phương, nên đã để giấy trống sau mỗi bệnh để cho người sau chép thêm vào. Như vậy, Nam duợc thần hiệu không còn là nguyên sách của Tuệ Tĩnh nữa, và cũng không thể lấy nó làm cơ sở nhận định về thời đại của ông(7).

2. Hồng Nghĩa giác tư y thư hiện có các bản sau đây:

1) Nam dựơc chính bản, sách in do Sở Văn Hoá Hà Sơn Bình tàng trữ (số 229), mở đầu có lời tựa đề mùa hè năm Vĩnh Thịnh 13(1717), nói rằng mùa xuân năm Đinh Dậu, phường Sách Liễu Chàng đã dâng lên chúa Trịnh bản sách in của Tuệ Tĩnh, có nhiều sai sót, nên chua sai các y quan khảo duyệt đính chính rồi cho in lại, chia làm 2 quyển, đặt tên là Hồng Nghĩa giác tư y,thư sách hiện chỉ còn quyển thượng, trang đầu ghi: “Hồng Nghĩa Đường Tráng Tử Vô Dật, túc thiền Tuệ Tĩnh trước, Đông Quan Hoè Nhai, dật sĩ Lê Đức Toàn Pháp Thạch ở chùa Hoè Nha thành Đông quan sao chép”, sau bài Nam dược quốc ngữ phú còn chép thêm: = “Hữu phú cựu bản phả hữu thác mậu sai tự, tư dật sĩ tự Pháp Thạc chỉnh bút tra soạn”.(còn bài phú thuốc Nam cổ bên, chữ bị sai sót nhiều nên kẻ lánh đời tự là Pháp Thạch này phải chỉnh bút mà tra cứu, soạn lại).

Xem vâỵ thì, bài Nam dược quốc ngữ phú là do Tuệ Tĩnh biên soạn và Lê Đức Toàn ở Hoè Nhai, Đông Quan (tức Hà Nội thời thuộc Minh) sao chép và chỉnh lý thêm.

Nội dung bản sách, phần đầu gồm 65 tờ in. mỗi trang có 10 dòng...Có các mục:

- Nam dược quốc ngữ phú

- Trực giải chỉ nam dược tỉnh phú,

- Chư dược chủ bệnh

- Ngũ tạng lục phủ hình trạng

- 12 ngũ kinh mạch và thuốc ôn lương bổ tả thuộc mỗi kinh. Tiếp đến là 19 tờ in thêm, mỗi trang 11dòng với các mục:

- Như ý đơn, Hồi sinh đơn bằng ca Nôm (của Hành Thọ Đường soạn thêm).

- Bổ phụ âm đơn, (viết chữ to) kèm bài ca Nôm.

Sau dòng “ất tỵ niên ngũ nguyệt Thái y viện chiêm sự lịch khảo đính” là Hoàng triều Huệ Dân kinh nghiệm tuyền yếu thần hiệu tam thập thất phương, gồm 11tờ.

Theo 2 dòng cuối của bài tựa “thị nội phủ các quan tường gia khảo đính: Y viện các quan tái khảo gia tăng”( các quan trong phủ Thị nội si cũng phải khảo đính thêm cho rõ ràng, Các viên quan trông coi Y viện lại cũng phải khảo duyệt thêm) thì nội dung của bản sách này đã được Viện Thái Y bổ sung thêm.

2) Một bản Hồng Nghĩa giác tư y thư chép tay sao lại bản in năm 1717, quyển thượng giống như bản sách chính in nói trên và và quyển hạ là Thập tam phương giả giảm bằng chữ Hán.

Bản này do Nguyễn Lư Thoa ở Nghĩa Phú tàng trữ, nội dung gồm 13 phương thuốc chữa các bệnh ngoại cảm, nội thương với cách gia giảm các vị thuốc tùy theo chứng bệnh;

3) ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 1 bản Hồng Nghĩa giác tư y thư in năm 1723 tựa đề năm Bảo Thái thứ 4, nội dung cũng giống như bài tựa năm Vĩnh Thịnh 13 nói trên, có ghi thêm “Mùa Xuân năm Quý Mão phường Hồng Liễu khắc in lại”, gồm:

- Quyển thượng AB.238, nội dung như bản in năm 1717 nói trên và có thêm 2 mục y luận và tăng bô vạn kim nhất thống thuật tập, mục này giống như ở sách Ván bệnh hồi xuân.

- Quyển hạ AB. 306 gồm thập tam phương gia giảm bằng chữ Nôm thể lục bát, Chứng trị phương pháp bằng ca Nôm (do Lão Mai Am, Hoàng triều Huệ Dân kinh nghiệm tuyển yếu tam thập thất phương). Như ý đơn và Hồi sinh đơn (như ở quyển thượng).

4) Một bản Hồng Nghĩa giác tư y thư A. 162 chép tay toàn bộ quyển thượng và quyển hạ nói trên, và có thêm vào quyển hạ: Thương hàn tam thập thất chuỳ(8) do Lão Mai Am soạn bằng ca Nôm, với một bài tựa đề là Y đạo Tuệ Tĩnh trùng sang cẩn tự. Sau phần Thương hàn chi lệ mục lục có câu: “ Thượng cô lão thiền Hoàng Sưởng vô Trạch Tuệ Tĩnh soạn tập”, tờ (35a), tiếp đó, tờ 36b lại nhắc lại câu đó. Gọi Tuệ Tĩnh là “sư cụ Tuệ Tĩnh thời thượng cổ ” chứng tỏ thời đại Tuệ Tĩnh là cách xa thời đại Lão Mai Am hàng mấy thế kỷ.

Ở quyển thượng, tiếp sau bài “trực giải chỉ nam dược tỉnh phú” đã chép thêm một phú được tính 6 vần 212 câu bằng chữ Hán nói về dược tính 218 vị thuốc, giống như bài phú trong Thập tam phương gia giảm bằng chữ Hán sẽ nói ở dưới đây.

Ngoài ra, ở quyển thượng (tr.88-113) còn chép 87 phương thuốc, trong đó có 1 số bài trùng với thập nhị tam phương gia giám và quyển hạ (tr81_131) có chép 137 phương khác, đây là phần do đời sau thêm vào.

5) Như lời tựa sách Hồng Nghĩa giác tư y thư nói Tuệ Tĩnh là tự soạn bản thảo 630 vị thuốc bằng Quốc âm, sau lại lấy 13 phương chữa tạp bệnh và 37 chuỳ chữa thương hàn của ông dịch ra tiếng ta (phương ngôn), chép thành từng thiên, Sau đấy sách Hồng Nghĩa giác tư y thư do chúa Trịnh đặt tên, đã in gộp cả bài phú thuốc Nam là nguyên tắc của Tuệ Tĩnh, nên Hải Dương phong vật chí không nói tới Hồng Nghĩa giác tư y thư với nội dung hỗn tạp do sự bổ sung của người đời sau. Hiện nay, tập Thập tam phương gia giảm bằng chữ Hán do Tuệ Tĩnh soạn và Hồng Cẩm cư sĩ ở Sơn Nam sao lục còn được lưu truyền trong nhân dân, và ở thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm cũng có một số bản sao,Tác phẩm này, đã được diễn dịch thành ca Nôm in trong quyển hạ của Hồng Nghĩa giác tư y thư AB. 306 mà chúng tôi sẽ nói cụ thể ở mục sau.

Ngoài các trước tác y học, Tuệ Tĩnh đã giai nghĩa tập thiền tông khoá hư ngữ lục do Trần Thái Tông soạn mà Tuệ Duyên đại diện cho nhóm Tào Động thiền tông đã giới thiệu năm Long Đức thứ 3 (1734)(9) và ghi rõ “Thiền tử Thận Trai, pháp hiệu Tuệ Tĩnh, tự Vô Dật, giải nghĩa”

V. Về tên hiệu, địa danh và niên đại trong tác phẩm của Tuệ Tĩnh

Đọc qua các tác phẩm của Tuệ Tĩnh, chúng tôi đã nhận thức được cách viết của tác giả có khi không đề tên riêng, nhưng đã ngụ ý để tên hiệu của mình vào nội dung lời mở đầu hay kết. Ví dụ: Nam quốc dược ngữ phú, lời cuối viết “Sãi nay tráng tử còn hơi vụng, Vô Dật hoạ khi rồi, dọn Nam dược chép làm một phú”. Tráng Tử Vô Dật là biệt hiệu của tác giả, Thập tam phương gia giảm (bằng chữ Hán), mở đầu “Nam thiên cẩm tú, Hồng thuỷ trường lưu Bắc hạnh nghĩa viên, xuân phong Quảng Huệ”. Hai câu này đã hàm ý dùng để chỉ tên hiệu, và sinh quán, trú quán của tác giả. Sinh quán Hồng là Hồng Châu, hay lộ Hồng châu thượng Cẩm là huyện Dạ Cẩm, hay huyện Cẩm Giàng, nghĩa là Lư hay Nghĩa Phú. Trú quán: Nam là xứ Sơn Nam; thiên là phủ Thiên Trường; thuỷ là Huyện Giao Thuỷ, Tên hiệu là Huệ Tĩnh.

Các từ “Nam thiên” “Quảng Huệ” trong hai câu trên đây đã nhắc lại từ 4 từ cuối của bài Trực giải chỉ nam dược tích phú.

Về tên hiệu tác giả, Hải Dương Phong vật chí cũng như Thiền Tông khoa hư ngữ lục đều viết “Huệ Tĩnh” Duy hồng nghĩa giác tư này có thể thay thế cho nhau “Huệ? thông tác, Tuệ? cổ thông tuệ tư đe” (tr581) Tĩnh? (lập + thanh ) cũng như chữ “tĩnh? (thanh + tranh), đồng âm, và cùng có nghĩa là yên tĩnh(Tr1613)”

Tên hiệu của nhà y “Hồng nghĩa đường” chép ở Hồng Nghĩa giác tư y thư là tên quê hương tác giả vào đời Trần: tỉnh Hải Hưng ngày nay về đời Trần gọi là Hồng Châu và Khoái châu cho đến năm 1252 (Đại Việt sử ký), rồi chia làm lộ Hồng Châu Thượng và Hồng Châu Hạ; năm 1397 đổi làm trấn Hải Đông, năm 1466 nhà Lê đổi là thừa tuyên Hải Dương (đất nước Việt Nam qua các đời).

Người sao lục và đích chính bài Nam duợc Quốc ngữ phú quê ở Hoè Nhai huyện Đông Quan. Vào thế kỷ XV, Hoè Nha là trị sở của quân Minh tại thành Đông Quan, Điều này cho ta thấy được thời điểm xuất hiện tác phẩm Nam dược Quốc ngữ phú về đời Trần, trước năm 1397, và thời điểm sao lục, chỉnh lý của nó là vào khoảng từ 1407-1467)(10).

VI. Về từ ngữ và cách viết của nam dược quốc ngữ phú

Việc so sánh văn phong của các tác phẩm bằng chữ Hán khó có chuẩn đích. Ngay đối với các tác phẩm chữ Nôm cũng vậy; văn chương từ cú thanh hay thô, ngắn gọn hay rườm rà, trong sáng hay tối nghĩa, là tuỳ theo trình độ của từng người. Duy chỉ những từ ngữ và cách viết chữ Nôm thì căn cứ để nhân định về thời điểm qua sự đối chiếu với các tác phẩm khác. trong Nam duợc Quốc ngữ phú có nhiều từ cổ như “La đá” (tứ c là đá) ở những chỗ của La đá (cua đá) mưa la đá (mưa đá), “ốc” có nghĩa là “”gọi trong bài có đến 22 trường hợp “Meo (là mộc nhĩ), meo cây hoè) đời sau đều gọi là nấm, cũng như nấm đất. “Kê gà ông (là mào gà trống). Trái (là quả) “cái ”(là con: cái chim, cái đĩa, cái rùa), “Ngọ” (là cái tài) “Nớ” (là giống như), “Chín”(là thật hay chỉ). “cả” (là to)...

Cách viết chữ Nôm cũng mang nhiều viết tích cổ, như “Trăng” viết chữ( Ba+ lăng) “Trời” viết chữ công + lệ, ở Nam dược thần hiệu viết chữ Ba + lệ (đời sau viết đầu + lệ, rồi đến thiên + thượng). “Một” viết chữ miệt (đời sau viết chữ “Một ” là mất); “chịu viết chữ triệu là vời lại (đời sau thêm chữ thụ).” “trước” viết xa + lược, (đời sau viết: lược + tiên) “cả viết gia + khả (đời sau viết: đại + khả), “vui” viết “bôi + tư” ( đời sau viết trùng tâm + bôi) vv....

Đối chiếu với QATT của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) NDQNP được Lê Đức Toàn người cùng thời sao lục, ta thấy từ ngữ phần nhiều dùng giống nhau, như chỉn, ốc, ngọ, la đá, bà ngựa... lại có một số vị thuốc nói ở NDQNP cũng được thấy trong QATT, như “núc nác” QATT bài 10/3; “tả lòng thanh vỏ núc nác” “tổ ong tàng”, QATT 25/6; “của nhà bịn rịn tổ ong tàng” NDQNP có câu “hoè giác lúc khuỷu trái hoè”, “tả trái hoè khô” QATT bài 40/ 4 có câu “khúc khuỷu làm chi trái hoè”. NDQNP có câu “chép để đề kinh” QATT bài 1667 có câu: “chép câu kinh để” so sánh về cách viết chữ Nôm. thì NDQNP có nghĩa xưa hơn, QATT có nhiều chữ viết theo kiểu mới (âm với nghĩa) là do thời điểm biên soạn và khắc in của QATT đều muộn hơn NDQNP.

Trên đây là tình hình thực tế của tác phẩm, theo nguyên bản chữ Nôm in trong HNGTYT(11). Nhưng bản dịch của Viện Nghiên cứu Đông y in năm 1878 (tr7.741) đã thay thế các từ ngữ cổ bằng những từ ngữ ngày nay cho dễ hiểu, nên bài phú nay đã mất bản sắc nguyên tác, Thí dụ 33 từ trái đã được phiên là quả; các từ cái đều phiên là con; 21 từ ốc đã phiên là ấy; 1 từ ốc đã phiên là gọi; 47 từ hiệu đã dịch là gọi; 2 từ hiệu đã dịch là tên; 25 từ danh đã dịch tên; 7 từ danh đã dịch là gọi; tư mùa đã phiên là bốn mùa; vốn chưng đã phiên là vốn là; Đững xống đã phiên là đũng quần; Mưa la đá phiên là mưa đá; Cả thay củ sắn phiên to thay của sắn; thầy ngọ phiên là thầy giỏi...

Cách thay thế từ cũ thành từ mới như vậy, người đọc tưởng lầm là bài này mới được soạn gần đây.

VII. Về bài ca thập tam phương giả giảm

Bài ca thập tam phương gia giảm 1723 ở quyển hạ của HNGTYT AB.306 là diễn dịch từ nguyên bản chữ Hán ra, như lời tựa nói “dịch xuất phương ngôn”. Lời dẫn tập Ngoại cảm thông trị của Lãn Ông cũng nói là sách của Tuệ Tĩnh “tự uẩn” súc tích mà nay đem sửa sang lại và khắc in ra (trang cảo khắc hành).

Bài ca diền theo nội dung các bản chữ Hán sau đây:

1) Thiên Thập tam phương giảm(bản 1) ở quyển Hạ bản HNGTYT do Nguyễn Lư Thoa sao lại từ bản in của Cẩm Văn Đường, năm 1717. Bản này có lời kết sau 13 phương thuốc va đôi chỗ có phân tích nguyên nhân cũng như ý dược lý.

2) Thập tam phương gia giảm của Hồng Cẩm cư sĩ sao lục (bản 2) thì có lời tựa, 13 phương giả giảm, phụ bổ âm đơn và Dược tính phú viết bằng thể văn hiến ngẫu súc tích.

Bài diễn ca đã tham khảo cả 2 bản trên, có cả lời mở đầu và lời kết. Đại thể về phần 13 phương và các vị thuốc gia giảm thì diễn tương đối đúng, trừ một vài chi tiết. Nhưng về phần diễn đạt các câu văn thì không thật sát nguyên bản và có khi đã phát triển rộng ra, dẫn tới sai lệch với tính nguyên tác. Thí dụ: lời tựa, bản 2 có những những từ Hạnh viên, Xuân Phong thì các bài diễn là Hạnh đàn nhân thuở hồi xuân. Câu mẫn sinh dân chi yểi trát, trạch hiền triết chi phương thang thì diễn là Vâng lời đức thánh Phục Hy, thương chưng yểu trát bất thì kham ngu. Câu Cầu y bất nhược tu thân tế nhân bản năng tích phúc, Cố sự lịch khả thành hạnh viên dã, Chữ sư lịch đã được diễn là chỉn nay sư lịch tài hèn ở lời mở đầu, lại còn được diễn ở lời kết một lần nữa. Sãi nay sư lịch vốn hèn, thhuật trọng thượng cổ thánh hiền chép hiền chép chơi...

Về nội dung phương thuốc, như bài 9, Linh nghiệm đối kim, phương thuốc cả 2 bản đều chép Hậu Phác, Thương truật, Trần bì, Cam thảo, không bản nào ghi bắc Hậu phát, nhưng bài ca đã diễn Chọn hậu phác bắc mà dùng” là trái với quan điểm dùng thuốc của Tuệ Tĩnh: ở bài Nam Dược Quốc ngữ phú (vần 13 câu 6). Tác giả nói: “Trừ sơn lam chướng khí ấy, lấy hậu phác là vỏ vối de”. Sự trái ngược với đường hướng dùng thuốc của Tuệ Tĩnh “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt” đã chứng tỏ bài Thập tam phương gia giảm là do người đời sau diễn ca.

Đối chiếu với Nam dược Quốc ngữ phú, bài ca Thập tam phương gia giảm đã dùng các từ ngữ đời sau với cách viết chữ Nôm phần nhiều theo thể mới. Sự khác biệt vầ từ ngữ và thể chữ Nôm cũng cho ta thấy rõ thời gian xa cách khá dài, giữa 2 thời điểm xuất hiện NDQNP và bài ca Thập tam phương gia giảm.

VIII. Nhận định bứơc đầu về Tuệ tĩnh

Cùng trong tình hình chung của thư tịch cổ của nước ta, các tác phẩm của Tuệ tĩnh không còn thuần tuý là nguyên bản nữa, mà đã được lời sau bổ sung mãi, nhất là vào các dịp in lại năm 1717, 1723. Sự sửa đổi, bổ sung chỉnh lý nhiều lần đã làm sai suyễn bản sắc nguyên các và gây hoài nghi về niên đại của tác giả.

Việc phân tích những thành phần của quyển HNGTYT lại cho ta thấy những phần do Viện Thái y đời hậu Lê đã gia tăng khi in lại năm 1717 cùng là năm 1723 như Tăng bổ vạn kinh nhất thống thuật tập... Các phần do Hành Thọ Đường tự Tác Phúc và Chí Thiện Đường Lão Mai Am soạn thêm đã chép thêm tên rõ ràng như Thương Hàn tam thập thất chuỳ... Tuy lời tựa nói đã dịch ra, nhưng các bản sách AB.288 và AB, 306 năm 1723 vẫn chưa thấy in bài này. Câu Thượng cổ lão thiền Tuệ Tĩnh là do Lão Mai Am xưng hô cùng là lời tựa về việc khắc in thêm bài ấy đã bị tước bỏ không dich, cùng việc dịch thuật bài tựa HNGTYT và phiên âm bài NDQNP không sát nguyên văn lại làm cho việc nghiên cứu và thập định về thời đại của Tuệ Tĩnh trở nên khó khăn phức tạp hơn.

Tuy nhiên, riêng nhưng viết tích cổ trong NDQNP về địa danh và từ ngữ cũng đã đủ chúng minh thời điểm xuất hiện của các tác phẩm hay thời đại của tác giả là về nửa cuối thế kỷ XIV. Hơn nữa, công trình nghiên cứu thuốc nam của Nguyễn Văn Bách đăng trên tạp chí Đông y số 156 năm 1978 đã cho thấy hàng trăm vị thuốc trong NDQNP có tên gọi khác với Bản thảo cương mục cảu Lý Thời Trân thế kỳ XVI, mặc dù trong đó cũng có một ít vị thuốc trùng nhau ngầu nhiên, có thể do sự tham khảo chung một nguồn tư liệu.

Sau khi phân tích các mặt, chúng tôi nhận định tác phẩm NDQNP thuộc về nửa cuối thế kỷ. Còn bài ca Thập tam phương giả giảm và Bổ âm đơn đều thuộc văn Nôm khoảng cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII.

Tuệ Tĩnh tóm lại, là nhà y học lớn của nước ta đã ở thế kỷ XIV. Tác phẩm của ông trải qua nhiều biến động trong quá trình lưu truyền đặc biệt là hiện tượng thêm thắt, sửa chữa, điều này đã làm cho một số người ngộ nhận Tuệ Tĩnh là nhân vật của các thế kỷ về sau.

CHÚ THÍCH

(1) Đại Việt lịch đại đăng khoa lục - Bản chữ Hán, Võ Duy Đoán soạn (1654) KH.VHv 226. TVVNCHN. Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp, Nxb KHXH 1971 Hồng nghĩa giác tư u thư. Nguyễn Sĩ Lâm, Nxb Y học Hà Nội 1978.

(2) Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I The viện Quốc gia xuất bản năm 1970. Nguyễn Sĩ Lâm, Một số ý kiến về truyền thuyết tác phẩm của Tụe Tĩnh “Tạch chí Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam”. Số 194, năm 1985.

(3) Xem Hồng nghĩa giác tư y thư, Nxb Y học Hà Nội 1973.

(4) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb KHXH Hà Nội 1971, tr. 183.

(5) Việt Nam đại khoa từ điển, quyển trung, ký hiệu VHv. 20. ST tờ 13b.

(6) Xem Trần Đạm Trai Hải Dương phong vật chí, ký hiệu A. 882 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(7) Bản dịch Nam dược thần hiệu do Viện Đông y tái bản năm 1972, ghi Tuệ Tĩnh là tác giả.

(8) Nghĩa là 37 phương pháp chữa thương hàn, Chữ chuỳ nghĩa đen là quả cguỳ, ở đây nhấn mạnh tính hiệu nghiệm của phương thuốc. Có thể gọi là chuỳ pháp.

(9) Nguyên bản chú “Tân Mùi”, nhưng năm Long Đức thứ 3 là Giáp Dần. Nừu là năm Tân Mùi thì thuộc niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631).

(10) Vì đến năm 1467, nhà Lê bỏ tên Đông Quan, đặt phủ Trung Đô thuộc thành Thăng Long (Đất nước Việt Nam qua các đời).

(11) Từ đây trở đi tên các sách: Nam dược thần hiệu, Quốc âm thi tập, Nam dược quốc ngữ phú, Hồng nghĩa giác tư y thư, đều viét tắt là: NDTH, QATT, NDQNP, HNGTYT.

TB

BÙI DƯƠNG LỊCH (1757-1828)

NGUYỄN THỊ THẢO

Bùi Dương Lịch có tên là Tồn Thành, hiệu là Thạch Phủ và Tồn Trai, vốn người thôn Yên Nội, xã Yên Đồng(1), tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Nghệ Tĩnh. Ông sinh năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757) và mất năm 1828(2).

Thuở nhỏ Bùi Dương Lịch học ở nhà với người cha là Bùi Quốc Toại, một chân Hương cống được bổ Tri phủ Thiệu Thiên, Thanh Hoá đời Hậu Lê. Họ Bùi ở Yên Nội vốn là một dòng họ có nhiều người đỗ đạt làm quan, lại có tiếng văn chương, như Bùi Bật Trực đỗ tam trường khoa thi Hội năm 1756, làm đến Thái bộc tự khanh; Bùi Thoan (1718- ?) cũng đỗ tam trường khoa thi hội năm 1767; Bùi Trình (1746-?) cũng đỗ tam trường khoa thi Hội năm 1771.vv...

Năm 17 tuổi, chàng Trai họ Bùi đã sớm giật mảnh bằng Hương cống (1774), điều đó chứng tỏ ông là người thông minh và có truyền thống hiếu học. Để có điều kiện theo nghiệp sách đèn, ông ra Thăng Long vừa kiếm chỗ ngồi dạy tư, vừa tham gia tập luyện văn bài ở trường Giám. Vào thời kỳ này, dường như tên tuổi ông đã dần dần trỗi lên trong đám học sinh trường Giám và lan ra trong kinh kỳ.

Năm Cảnh Hưng thứ 47 (1786), Bùi Dương Lịch bổ làm Huấn đạo phủ Lý Nhân, thuộc Sơn Nam, nhưng vì có tang cha nên ông cáo từ không đi. Sau đó mãn tang, ông lại ra Thăng Long học tiếp.

Lúc này cục diện đất nước đã khác trước. Phong trào nông dân Tây Sơn sau khi làm chủ xứ Đường Trong đã nhanh chóng tiến ra Đường Ngoài, tiêu diệt chính quyền họ Trịnh. Nhưng sau khi Tây Sơn rút về Nam, việc tranh chấp quyền họ Trịnh lại diễn ra quyết liệt. Lên ngôi trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn Lê Chiêu Thống có ý muốn tìm vây cánh trung thành trong giới sĩ phu, quan lại để bảo vệ cái ngai vàng vốn đã quá mục nát. Triều đình nhà Lê lúc ấy xuống chỉ cầu người tài Bùi Dương Lịch nhân đó được tiến cử và được Lê Chiêu Thống tin cẩn, bắt đầu cho làm Nội hàn viện cung phụng sứ ngoại lang, một chức quan văn nhỏ phục vụ gần vua để tiện hỏi han. Ngoài việc làm cố vấn văn chương cho Chiêu Thống, ông thường thường còn phải đến nhà riêng của Điều Quận công Lê Duy Trù (em ruột Chiêu Thống) để giảng giải kinh nghĩa cho vua. Sau đó, có lần ông được chuyển làm hàn quân vụ, tiếp đó lại được quản lĩnh đội quân Hậu Thắng.

Tháng 7 năm Chiêu Thống thứ nhất (1787), ông thi đậu Hoàng giáp, năm ấy vừa tròn 30 tuổi, Hồi ấy trong khi thi Đình, Chiêu Thống đã viết trước lên một mảnh giấy “Trúng hạng nhất danh Bùi Dương Lịch (Bùi Dương Lịch đậu đầu)”. Khi ấy ông đỗ rồi, vua có đưa mảnh giấy ấy cho xem, lại có cho 30 quan tiền để ông mua trầu cau đãi khách. Đặc biệt Chiêu Thống lại có hứa gả cho ông một nàng công chúa(3) nhưng không may cho chàng phò mã hờ, vì việc chưa thành mà đã xảy ra sự cố. Bước đường danh lợi mở ra nhiều hứa hẹn, nhưng chưa kịp tiến thân, thì ông Hoàng giáp họ Bùi bỗng bị đặt trước một tình huống khó khăn. Chiêu Thống trong khi chống lại nhà Tây Sơn đã đón quân xâm lược nhà Thanh kéo vào đất nước. Tiếp đó Chiêu Thống lại theo gót quân Thanh chiến bại, chạy sang Trung Quốc. Sử không cho ta biết lúc giặc xâm lược kéo vào thì Bùi Dương Lịch ở đâu và hoạt động như thế nào. Tuy cảm ơn tri ngộ của vua Lê, nhưng cuối cùng họ Bùi không theo. Vào lúc Nguyễn Hữu Chỉnh thất bại, trong phần tự truyện(4), Bùi Dương Lịch có viết: “Vua (Chiêu Thống) trên thớt ngựa chạy sang Bảo Lộc (huyện Yên Thế) các bề tôi đều thất lạc mỗi người một nơi. Lịch tôi nhắm Thành Lang chạy về phía Bắc. Đi được độ vài dặm, thì bị bọn ô lại chặn đường, không thể đi được nữa, tôi bèn cứ theo đường tắt lối Thái Nguyên về Kinh đô.” Từ đó ông vẫn theo dõi tin tức Chiêu Thống, cho đến lúc bặt tin, ông đem mẹ mình về Nghệ An (1788).

Cho đến khi nhà Tây Sơn triệu ra giúp việc triều chính (1789), ông đã từ chối, lấy cớ phải ở nhà nuôi dưỡng mẹ già(5).

Năm 1791, lại một lần nữa, vua Quang Trung mời ông ra giúp việc biên soạn và dịch thuật ở Viện Sùng chính dưới quyền của Viện trưởng là La Sơn Phu Tử Nguyên Thiếp, ông mới nhận lời. Và chỉ sau đó ít lâu, đã có chiếu chỉ từ Phú Xuân ngợi khen và ban thưởng cho cả tập thể Viện Sùng chính. Trong tờ chiếu của vua Quang Trung gửi cho La Sơn Phu Tử, có đoạn: “...Trẫm đã từng xem tiên sinh (La Sơn Phu tử) giảng bài, phu diễn, kể đã chăm chỉ. Những viên giúp việc là Nguyễn Công, Nguyễn Thiệu, Phan Tố Định và Bùi Dương Lịch đều có công. Vậy đặc biệt ban thưởng tiền cổ 100 quan do trấn quan (Nghệ An) chiếu theo mà cấp”(6).

Công việc học thuật mà họ Bùi Dương Lịch tham gia có chiều hướng phát triển thuận lợi. Tiếc rằng đến năm 1792, vua Quang Trung mất, Viện Sùng chính ngừng hoạt động. Ông lại trở về quê hương dạy học.

Gia Long lên ngôi mở đầu triều đại nhà Nguyễn, Bùi Dương Lịch lại được triệu ra. Khẩn khoản chối từ không được, cuối cùng ông phải nhận chức Đốc học Nghệ An (1805- 1808)(7), rồi làm Phó Đốc học Quốc tử giám (1812). Nhưng ông cũng chỉ làm “học quan” được ít năm rồi lại xin cáo về (1813) tiếp tục sống với nghề dạy tư và soạn sách cho đến ngày mất tại quê nhà.

Xuất thân từ một gia đình nho sĩ nghèo, nhưng chịu ơn sâu của triều đình nhà Lê, Bùi Dương Lịch ôm ấp tư tưởng tôn sùng chính thống của Nho Giáo. Dĩ nhiên, ông chẳng ưa gì nhà Tây Sơn cũng như nhà Nguyễn sau đó. Khi nghĩa quân Tây Sơn mới ra bắc lần đầu (1786), ông đã lo ngại cho số phận dân kinh kỳ:

Thiên cổ y quan thành thổ đạo

(Cảnh ngàn năm văn vật trở thành đạo của dân Thổ(8). Vì hoàn cảnh bắt buộc, phải làm quan dưới ba triều đại khác nhau, ông mang tiếng là kẻ “thay thầy đổi chủ”) như một bài tán đã mỉa mai:

Lê triều cử Tiến sỹ
Tây nguỵ sĩ Hàn Lâm
Bản triều vi Đốc học
Tứ hải cộng tri âm.

(Triều Lê đỗ Tiến Sĩ, thời “Nguỵ” Tây Sơn làm quan Hàn lâm đến triều ta (Nguyễn) làm Đốc học, bốn biển đều biết tiếng)

Thực tế về chính trị ông là người bảo thủ. “Lòng luôn hướng về nhà Lê, Bùi phải đau đớn thanh minh cho tấm cô trung của mình đối với “cố quốc”(9). Thơ của ông thường biểu lộ tâm sự ấy một cách rõ nét. Ví dụ:

Kỷ độ giang hà thành biến cải,
Phong ba bất nội thử kiên trinh.

(Phụ phụ thạch)
(Bao phen sông nước đổi thay,
Phong ba không vẩn lòng này kiên trinh).

Tuy nhiên con người ấy lại cảm thấy khoái chá rất mực khi qua sông Gianh, nhìn thấy đất nước của Tổ Quốc không còn bị chia cắt nữa. Ngòi bút của ông rung lên đầy tự hào:

Nam Bắc tổng giai ngô vũ trụ,
Sơn xuyên hề hoạch thử gia bang

(Đại Linh Giang)
(Bắc Nam trời đất của ta,
Núi sông vạch cắt nước nhà được ru!)(10)

Thơ ông đậm nét lạc quan yêu đời, yêu quê hương đất nước. Tinh thần dân tộc bàng bạc qua những bài ca ngợi sông núi, ca ngợi sự nghiệp anh hùng. ông từng bày tỏ lý tưởng của mình:

Sinh phùng thánh thế sinh tri lạc
Thọ tại tài danh thọ đắc trường.

(Bùi hành khiển học đường chí)
(Sống ở thời thịnh trị là sống biết vui
Thọ ở tài danh mới là thọ lâu dài).

Bài Đăng Lam thành sơn dưới đây vừa có nét yêu đời, vừa dè bỉu quân xâm lược, lại vừa nói lên cái đẹp của núi sông.

Việt cổ quy miên diểu.
Trần thời hiệu Lục Lương.
Phục Ba đồng trụ diệt,
Anh quốc thạch thành hoang
Lam thuỷ nam hoàn bắc,
Ngư dương lỗ chuyển tang.
Duy dư du khách hứng,
Đại khôi đại văn chương

Việt Nam chuyện cổ khéo mơ màng.
Truyền thuyết đời Trần gọi Lục Lương.
Thành đá Anh công đà mất tích,
Cột đồng Mã Viện cũng vô tang.
Lam giang nước chảy nam quay bắc.
Ngư hải sa bồi, biển hoá nương.
Chỉ có khách chơi còn hứng thú
Trời cho một ánh sáng đại văn chương(11)

Như Bùi Dương Lịch còn lại là người có nếp tư duy khá độc đáo mà chúng ta không thể bỏ qua. ở ông có xu hướng tìm tòi khoa học (cách vật trí tri). Có người cho rằng đây đó “ông đã tỏ ra có những tư tưởng mang tính chất duy vật và biện chứng tự phát”(12). Trần Văn Giàu khi nghiên cứu hệ ý thức phong kiến đời Nguyễn, có lưu ý với chúng ta về Bùi Dương Lịch. Ông cho rằng: nhà nho như Bùi Dương Lịch hơi hiếm, Bùi Dương Lịch theo đường Trương Tái mà tiếp cận với duy vật luận. Trên không có Thượng đế sáng tạo, dưới không có linh hồn bất tử, đó là hai điểm cơ bản làm chỗ dựa cho mọi hành động bài trừ mê tín và xây dựng sức mạnh tinh thần của con người”(13). Nhưng bên cạnh đó cũng phải thấy “Nho giáo, ngay cả ở nho tiến bộ và tích cực nhất, cũng không khỏi mang nhiều tỳ vết thần bí trên quan điểm thế giới về đạo trời”(14).

Về thái độ đối với vấn đề linh hồn bất tử và vấn đề đầu thai luân hồi, Bùi Dương Lịch có một quan niệm vững chắc. Ông khinh thị tất cả các quan niệm cổ truyền cũng như tôn giáo tín ngưỡng đương thời, mà “không thèm bàn đến” khi ông phát biểu ý kiến của mình về núi Kim Nhan trong tác phẩm Nghệ An ký. Trần Văn Giàu cũng lại có nhận xét về điều này “Bùi Dương Lịch là một trong số ít những nhà nho có ý kiến tương đối đúng đắn và nhiều tính chiến đấu nhất so với các người khác”(15). Và “Dứt đi một mối lo sợ thường xuyên, một nguồn mê tín làm mất nhuệ khí con người, làm giảm sự chú tâm vào sức người và cuộc sống. Tiếc rằng nhà nho mà có tư tưởng như Bùi Dương Lịch chỉ đếm đựơc trên đầu ngón tay mà thôi”(16).

Đúng là ở nhà học giả ấy có tính chiến đấu khá cao, ông đã từng liên hệ với các danh nho đương thời, như Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), Nguyễn Thiếp (1723 - 1804), Ngô Nhân Tĩnh (? - 1816), Lưu Công Đạo (Cử nhân khoa 1813), Nguyễn Hành (1771- 1828) vv... và ít nhiều ông cũng có trao đổi tranh luận với họ, chẳng hạn: Thư đáp lại lời phát biểu về lời biểu về Phật và Lão trong sách ố lậu thoại, hay là khi giới thiệu về núi trong một câu thơ của Nguyễn Thiếp...

Sinh bình Bùi Dương Lịch biên soạn khí nhiều sách vở, hầu hết đều bằng Hán Văn, Những trước tác còn lại mà chúng ta biết có:

Bùi gia huấn hài: Sách giáo dục, gồm 2000 câu chứ Hán, chọn lọc những câu cách ngôn và kiến thức đương thời, biên soạn vào thời kỳ dạy ở Thăng Long, trước năm 1787.

Ốc lậu thoại: gồm trên 50 bài thơ, văn bằng chữ Hán, sáng tác rải rác trong cuộc đời mà qua đó có thể theo dõi được tư tưởng và tình cảm của ông trải các thời kì...

Lê Quý dật sử: chép các sự kiện lịch sử thời cuối Lê và Tây Sơn, từ năm 1750 đến năm 1793 theo lối biên niên, nói chung sách cũng có những sử liệu tốt, vì tác giả là một nhân chứng sống của thời đại.

Yên Hội thôn chí: địa chí làng quê của tác giả gồm nhiều tài liệu số liệu về địa giới, nhân vật, sản vật, nghệ nghiệp, đến chùa, đình, miếu phú, dịch, tục lệ... Phần cuối có phụ lục Bùi gia phả và phả của dòng họ tác giả, từ ông thuỷ tổ đến Bùi Dương Lịch là bẩy đời.

Nghệ An phong thổ ký, Nghệ An chí và Nghệ An ký đều là địa chí tỉnh quê của tác giả v iết với mức độ và thể tài khác nhau.

Ngoài ra, tại một số thư viện ở Hà Nội còn có những sách ghi tên ông mà chúng tôi chưa có thì giờ xác minh, như tại Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm còn có:

1. Bùi Tồn Trai liên văn, gồm trên 700 câu đối và một số ít thơ, văn tế, văn phả khuyến, văn tướng của ông, sách có lẽ do gia đình sưu tập (ký hiệu VHv. 88).

2. Yên Toàn Hoàng giáp Bùi Tồn Trai tiên sinh trường tập biểu, sách luyện thi, có lẽ do học trò của ông sưu tập (ký hiệu A.2587).

3. Tồn Trai thi tập, chép lẫn lộn thơ văn của nhiều người trong đó có thơ ông, nhưng chỉ mang tên Bùi Dương Lịch (A.445).

Tại thư viện Viện Sử học có:

1. Lê triều thế địa chí: gồm một số tài liệu linh tinh đề Hoàng Giáp Bùi tiên sinh soạn; có thể là tên ông, nhưng sách thì không hẳn do ông biên soạn (kí hiệu Hv.209).

2. Sử hộ: Sử biên niên Việt Nam từ năm Kỷ Sửu (1767) đến Đinh Mùi (1787), đề tên Nghệ An Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch (chép nhầm là Mậu) (Ký hiệu Hv.199).

Ở đây, chúng tôi sẽ nói rõ hơn bộ Nghệ An ký, tác phẩm trội hơn cả trong các trước tác của ông. Thời gian qua, khi biên dịch bộ sách này, chúng tôi đã tìm hiểu giá trị cũng như lai lịch của nó. Nghệ An ký có lẽ bắt đầu được biên soạn vào những năm Bùi Dương Lịch làm đốc học Nghệ An và sách được bổ sung hoàn chỉnh trong thời gian sau đó. Nhưng mãi đến sau khi ông mất khoảng đời Tư Đức, sách mới được khắc in. Trước khi bắt tay vào biên soạn quyển sách này, tác giả đã viết Nghệ An phong thổ ký rồi Nghệ An chí. Lý do tham ra viết Nghệ An phong thổ ký là: “Mùa xuân năm Tân Mùi (1811), có Hữu Tham bộ Binh là Nhữ Sơn Ngô (Nhân Tĩnh) lĩnh chức Hiệp trấn Nghệ An, muốn biết phong thổ xứ Nghệ bèn gởi quyển Hoan châu phong thổ thoại của ông Trần Danh Lâm ra xem, và cho đó chỉ là câu chuyện của một thời, mơi sai Bùi Dương Lịch soạn Nghệ An phong thổ ký(17). Sự thực thì Ngô Nhân Tĩnh vốn là tay văn học ở đất Gia Định, lúc được bổ làm Hiệp trấn Nghệ An, muốn hiểu biết đất nước và con người xứ Nghệ, có khuyến khích một số nho sĩ nổi tiếng ở trấn này viết sách giới thiệu địa phương, có ý để thay thế cho Hoan châu phong thổ thoại của họ Trần trước đây quá vắn tắt sơ lược(18).

Nghệ An phong thổ ký tập hợp bài của nhiều người, trong đó có một bài thơ của Bùi Dương Lịch và một bài khác không có nhan đề, ghi là Tồn Trai cảo. Nội dung bài sau này giới thiệu một số thắng cảnh di tích nổi tiếng của Nghệ An gồm 6 núi, 3 sông, 2 khe, 1 cảng, 3 thành cổ, 1 đầm, 1 bãi cát, 15 đền miếu, 1 bến đò v.v...

Có lẽ từ chỗ tham gia viết một phần trong Nghệ An phong thổ ký do Ngô Nhân Tĩnh đề xuất, họ Bùi có cái ước muốn viết một bộ sách địa lý- lịch sử Nghệ An tường tận hơn. Vì vậy mói có bộ sách Nghệ An ký ra đời. Nhưng chưa phải là đã hết. Viện Nghiên cứu Hán Nôm gần đây có tìm được một quyển sách nhỏ nhan đề Nghệ An chí gồm 2 quyển Giáp và ất đã rách nát mấy tờ đầu, lại rách mất mấy tờ cuối không có tựa, bạt mục lục gì cả. Tờ đầu, dưới tên sách có đề “Bùi Hoàng giáp tiên sinh trứ”. Sách chép chữ đá thảo, gồm 3 phần: 1. Địa chí, có a) biên giới, b) núi (19 đơn vị). 2) Thuỷ chí có a) sông (12) suối (13), khe (3), hồ (2), cửa biển (11) thuộc quyển Giáp, 3) Nhân chí, có: Văn nhân (54), Võ nhân (chưa đủ) thuộc quyển ất.

So với Nghệ An ký thì sách này không có phần Thiên chí, thừa phần Thuỷ chí và cách viết còn giản lược. Tuy vậy mỗi đơn vị cũng miêu tả được những nét quan trọng của nó, cố nhiên là kỹ hơn phần của họ Bùi viết trong Nghệ An phong thổ ký phải chăng để có bộ Nghệ An ký như ta thấy ngày nay, Bùi Dương Lịch đã trải qua một lần tập hợp tài liệu để viết Nghệ An chí nhưng rồi không thoả mãn với công trình tài liệu để viết Nghệ An chí nhưng rồi không thoả mãn với công trình đã làm này, nên ông lại điều tra tập hợp thêm tài liệu để viết Nghệ An ký?

Nghệ An ký gồm 2 quyển, đầu sách cũng không thấy có tựa, bạt gì, Quyển 1 có 2 chương:

1) Thiên chí nói về giới phận cõi trời của đất Nghệ Tĩnh nói riêng và Việt Nam nói chung, mục tiếp theo nói về khí hậu.

2) Địa chí gồm cương vực, mạch đất, núi (85 đơn vị, kể cả gò đảo), sông (31 kể cả khe, suối hồ đầm) và cửa biển (12). Quyển 2 có chương Nhân chí nói đến tâm tính và thể chất con người đời sống kinh tế; và các nhân vật có: cổ đế (2), văn nhân (150), võ tướng (31).

Tuy có những hạn chế nhất định, Nghệ An ký vẫn là bộ sách được biên soạn công phu, có giá trị về nhiều mặt, nhất là mặt địa lý lịch sử. Đặc biệt ở chương Nhân chí có một bản tự truyện (autobiographie) khá đầy đủ về tác giả, với dụng ý trình bày những kí tái về thời sự quốc gia mà tác giả có liên quan hoặc được tai nghe mắt thấy. Lại còn ba chỗ khác nói khá kỹ về nhà Tây Sơn và về Lê Chiêu Thống, đều với dụng ý cung cấp sử liệu, vì bản thân tác giả như đã nói, là một nhân chứng của thời đại. Đó là điều đặc biệt quý đối với giới nghiên cứu lịch sử, chủ yếu là lịch sử thời kỳ Tây Sơn.

Nói chung, vì là người “chuyên tâm dạy học và đi du lãm khắp nơi trong xứ Nghệ, nên biết nhiều hiểu sâu về mảnh đất này”(19). Lại do chân Đốc học một tỉnh, cho nên Bùi Duơng Lịch còn có điều kiện để điều tra sưu tầm đến tận các địa phương. Tác giả lại vốn có kinh nghiệm biên soạn địa chí, Quyển Yên hội thôn chí là một tác phẩm đáng đánh giá cao về lối viết công phu, sắp xếp hệ thống và thông báo được nhiều tài liệu lịch sử cũng như kinh tế quan trọng vào khoảng cuối Lê và Tây Sơn ở một thôn nhỏ bé của Nghệ Tĩnh. Thêm vào đó, trong phong cách làm việc của tác giả, ta thấy ông tỏ ra cẩn thận, cố gắng đạt đến mức chính xác cao, chủ yếu về phương pháp biên soạn nghiêm túc cũng như những sử liệu dồi dào và độc đáo.

Trong Văn tịch chí Phan Huy Chú chỉ nói đến sách Bùi gia huấn hài của ông mà không nhắc đến Nghệ An ký có lẽ khi Phan khởi thảo bộ Lịch triều hiến chương loại chí và năm (1809) thì bộ sách Nghệ An ký còn chưa chào đời.

Trần Văn Giáp cho rằng: “Nay so sánh về loại sách địa phương chí nói về tỉnh Nghệ An thì thấy chỉ có sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch là tốt hơn cả”(20).

Gaxapacđônơ (E.Gaspardone) thì lưu ý với chúng ta một đặc điểm về việc sử dụng tài liệu của Nghệ An ký như sau: “Trong bộ sách địa lý lớn Đại Nam nhất thống chí và trong các địa phương chí các tỉnh, thường thì sách nào cũng có mục viết về tiểu sử nhân vật (...). Trong số các sách trên có Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch là đặc biệt đáng lưu ý; các tiểu sử chiếm tới phân nửa bộ sách và do hai nguồn tài liệu, một là Đăng Khoa lục về những năm trước thời Cảnh Hưng (1740) ghi chép thường rất ngắn, hai là Sử ký, chỉ có thể là (Sử ký) tục biên về những năm cuối thế kỷ XVIII mà sách (Sử ký) tục biên thì không còn thấy ở đâu hơn là những bản chép tay sau này. Nghệ An ký do đó trở thành một tài liệu gốc”(21). Về tài liệu thứ hai này, Trần Văn Giáp cũng cho biết: “Sách Sử ký ở đây phần lớn trích trong Sử ký tục biên, một bộ sách đến nay chưa tìm thấy, nên sách của Bùi Dương Lịch lại càng có giá trị”(22).

Riêng Hoàng Xuân Hãn trong bài Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập Lữ trung ngâm, đã cho rằng nguồn sử liệu mà Bùi Dương Lịch cung cấp là một trong ba nguồn sử liệu “khá chắc và khá tự chủ”(23). Sách Lê triều dã sử theo Hoàng Xuân Hãn, cũng rút phần lớn từ Nghệ An ký ra. Đây là một nguồn tin đặc biệt của một người đã dự vào biến cố. (Vũ Văn Nhậm ra Bắc năm 1788) và đã mục kích những sự được ghi”.

Tóm lại tác phẩm của họ Bùi đã được thực tiễn của công tác nghiên cứu lịch sử thừa nhận là có giá trị. Tất nhiên đối với yêu cầu nghiêm túc về mặt thông tin của loại sách địa phương chí, thì Nghệ An ký chưa phải đã là mẫu mực. Tác giả có thiên hướng đi nhiều vào mặt văn chương và lịch sử, sao nhãng mặt quan trọng là kinh tế và sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Thực ra, đó không phải là nhược điểm riêng của Nghệ An ký, mà là nét hạn chế chung của thư tịch Hán Nôm.

Dù sao Bùi Dương Lịch cũng xứng đáng được coi là một trong những học giả tiên khu về khoa học xã hội, có công đặt nền móng cho phương pháp viết địa phương chí ở nước ta(25).

CHÚ THÍCH

(1) Đời Lê là xã Yên Toàn, sau vì huý chữ “Toàn” phải bớt nét thành ra “Đồng”. Do tự dạng giống nhau nên Yên Toàn cũng thường được nhân dân quen dùng, người không biết tưởng là 2 địa điểm khác nhau.

(2) Về năm sinh năm mất của ông Bùi, trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập I (Thư viện Quốc gia XB, H., 1970) chép là 1744 - 1814 là sai. Tác giả Tim hiểu kho sách Hán Nôm đã nhầm khi cho rằng Bùi Dương Lịch 30 tuổi mới đỗ Hương cống. Thực ra theo bài Tồn Am ký thì ông 17 tuổi đỗ Hương cống, 30 tuổi đỗ Tiến sĩ. Trong Lượng truyện các tác gia Việt Nam, tập I (Nxb Khoa học xã hội, H., 1971), các soạn giả đã chữa là 1757 - 1827, vẫn còn sai 1 năm. Thái Kim Đỉnh trong bài Bùi Dương Lịch vài nét tâm trạng và tư tưởng qua ốc lậu thoại, tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh số 9 (1980) chép ông sinh năm Đinh Sửu (1757), mất năm Mậu Ngọ (1828), thọ 70 tuổi cũng chưa được đúng, vì Mậu Ngọ phải là dương lịch 1858. Thực tế ông mất năm Mậu Tý (1828), chữ “Tý” và chữ “Ngọ” tự dạng giống nhau nên dễ nhầm lẫn. Theo cách tính tuổi của ta xưa, thì từ 1757 đến 1828 được tình là 72 tuổi, kỳ thực chỉ có 71 tuổi, tính theo dương lịch.

(3) Thái Kim Đỉnh (bđd) có cho biết trong gia đình của Bùi Dương Lịch người vẫn coi nàng công chúa chưa cưới của Bùi là “chính thất”, còn người vợ, người mẹ thực sự đã có lại là “trắc thất”.

(4) Xem Nghệ An ký, quyển 2, phần Nhân chí, tờ 88a.

(5) Theo Tự truyện thì mùa đông năm Kỷ Dậu (1789) có Nguyễn Huy Tự - Tác giả Hoa Tiên truyện - cầm giấy của Tây Sơn đến triệu ông. Còn theo Tây Sơn thuật lược (do một tác giả đương thời viết), thì lúc này ông có được triệu ra, dường như theo lời giới thiệu của Ngô Thì Nhậm, nhưng vì đã biết trước được. Theo Ốc lậu thoại, thì năm Canh Tuất (1790), ông có vào Phú Xuân.

(6) Hoàng Xuân Hãn: la Sơn Phu Tử, Nxb Minh Tân, Paris.

(7) Theo Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỷ, thì năm 1806, Nguyễn Danh Dương thay ông làm Đốc học Nghệ An, nhưng vì y lúc ấy ốm nặng, nên ông lại phải trở lại nhậm chức.

(8) Bài thơ có nhan đề: “Từ Phùng Quang (thuộc Từ Liêm) về kinh thành (Thăng Long)” (Ốc lậu thoại Lê quý dật sử). Thái Kim Đỉnh cúng có nhận xét: ông “lợi dụng việc đả kích Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung là kẻ “thoán vị” và ngụ ý để gián tiếp tỏ thái độ với nhà Tây Sơn. Vốn không có hiềm khích, lại còn thầm phục Nguyễn Thiếp, chịu làm việc dưới quyền Nguyễn Thiếp, song Bùi vẫn soi mói Nguyễn Thiếp với ý phủ nhận nhà Tây Sơn (bđd).

(9) Thái Kim Đỉnh (bđd).

(10) Xem thêm: Nguyễn Đổng Chi: Thử bản về quan niệm chủ nghĩa anh hùng thời đại Tây Sơn, Nghiên cứu lịch sử số 154, 1974.

(11) Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại. Trong bài có “Anh Công” là Trương Phụ; “áng đại văn chương” là mược ý trong một câu thơ cảu Lý Bạch nói núi sông là của trời đất dánh cho khách văn chương có tại liệu làm thơ.

(12) Theo Tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII, bản in rônêô của Viện Triết học, 1972.

(13) (14) (15) (16) Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám. Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 163, 168-169.

(17) Theo bài tựa Nghệ An phong thổ ký, không đề tên tác giả.

(18) Hoan Châu phong thổ thoại (hoặc ký, hoặc chí) chỉ là một bài phú gồm 104 cặp vè.

(19) Thái Kim Đỉnh (bđd).

(20) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, sđd, tr. 379.

(21) Lời nói đầu bài Thư tịch An Nam (Bibllographie Annamite. BEFEO, tập XXXIV, 1934, tr. 14). (Sử ký) tục biên nói ở đây tức là sách Đại Việt sử ký tục biên). Sách này đã được khắc in, nhưng năm 1838 đã bị Minh Mạng cấm. Hiện nay còn sót lại một vài bản chép tay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã xuất bản, mới ra tập I, Nxb KHXH, H., 1932.

(22) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, sđd tr. 374.

(23) (24) Xem Sử địa, Sài Gòn, số 21 (1971), tr. 3 và số 25 (1973), tr. 3.

(25) Bài viết này được sự giúp đỡ về tư liệu của cố Giáo sư Nguyễn Đổng Chi trong khi Giáo sư hiệu đính bản Nghệ An ký do chúng tôi biên dịch.

TB

GÓP MỘT CÁCH HIỂU BÀI THƠ CỔ

HOÀNG VĂN LÂU

Thôn xá thu châm là một bài thơ ngắn trong Ức Trai thi tập. Toàn bài vẻn vẹn có 28 chữ:

Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh
Da, nguyệt thiên kim cửu khác tình.
Nhất chủng Tiên Quan chinh phụ oán,
Tổng tương lí hận nhập thu thanh;

Nhưng 28 chữ trên, đã dồn nén một “lượng thông tin” đáng được lưu ý. Bài thơ từng lọt và “mắt xanh” của một số công trình tuyển chọn giới thiệu thơ Nguyễn Trãi(1), đã được xem như một ví dụ tiêu biểu về tính hàm súc trong thơ ức Trai”(2). Tuy nhiên, cho đến nay, đã có những cách lý giải khác nhau về bài thơ này. “tình gia hương vấn vương” của người nhà và “cả tiếng sầu thương”của người chinh phụ nhớ chồng nơi xa...(3), còn Đỗ Văn Hỷ thì cho rằng, ý nghĩa của bài thơ là. . . “nỗi oán than của những người vợ có chồng bị giặc Minh bắt ép cầm giáo theo chúng” và “tâm tình sầu muộn (. . . ) lớn lao (của tác giả) là mưu giết giặc cứu nước, nhưng lại là lúc giặc còn mạnh, và tác giả cũng còn đương trên bước tìm đường...”(4). Dưới đây, chúng tôi cũng xin góp thêm một cách hiểu bài thơ đó.

Câu thơ mở một khung cảnh không gian xác định: đó là một dòng sông. Sau mãn giang là tổ hợp hà xứ. Hầu như tất cả bản dịch trước nay để hiểu chữ “xứ” như là một danh từ chỉ nơi chốn: “cả sông, chốn nào cũng nghe thấy tiếng đập thình thình”(5): “khắp sông” tiếng đập thình thình bỗng từ đâu vọng lại”(6). Nếu xứ nghĩa là “nơi” “chốn”, “chỗ”. . thì tổ hợp hà xứ có nghĩa là “nơi nào” “chốn nào”, “chỗ nào” “ở đâu”, nhưng trong các trường hợp: “Thương Lương hà xứ thị”(7) (chốn Thương Lương ở nơi nào), hay “Xuy sênh hà xứ khứ”(8) (người thổi sênh đi đâu). Nhưng ở đây, không gian (nơi chốn) đã được xác định ngay từ hai chữ đầu tiên mãn giang (đầy ắp dòng sông) thì cũng khó còn lý do cho sự tồn tại một câu hỏi về nơi chốn như hà xứ. Cho dù hà xứ được hiểu một cách linh động là “chốn nào cũng” hay “từ đâu vọng lại” thì cũng chỉ là sự trùng lặp trong cách diễn đạt, một điều mà người làm thơ cố tránh, nhất là ở các bài thơ ngắn.

Thực ra, chữ xứ ngoài ý nghĩa chỉ về không gian, còn được dùng để diễn đạt các khái niệm về thời gian. Ví dụ như trong bài văn bia chùa Báo Ân, núi An Hoạch, có câu “Thử khí dã, tạc vi hưởng khánh, khấu xứ nhi vạn lý lưu âm”(9). Khấu xứ trong trường hợp này không thể dịch là “chỗ gõ”, hoặc “nơi gõ” đã được (chuông vang muộn dằm) chứ không chỉ kêu ở hay chỗ gõ hay nơi gõ). Nét nghĩa “thời gian” càng rõ hơn khi dùng đối xứng với các từ chỉ thời gian khác như “thì”, “dư” ví dụ:

Súc hữu lý thì tu dưỡng chính
Tôn phùng ích xứ tiện hồi xuân
(Ngô Thì Nhậm: Bệnh thuật)

Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhâm dịch là Lúc quẻ Súc gặp quẻ Lý thì nện giữ đạo chính; Khi quẻ Tốn gặp quẻ ích thì xuân liền trở về(10).

Hay:

Bảo hương phần xứ hiện chân thân,
Kỳ cục thu lưu thắng địa(11)
( Khi châm hương báu hiện chân thân
Lúc dọn cuộc cờ còn thắng địa)

Ức Trai thi tập cũng đã hơn một lần dùng chữ “xứ” với ý nghĩa thời gian.

Nguyễn Trãi toàn tập đã dịch là: Tưởng rằng khi bàn chuyện phiếm ở nơi Linh Các, có nhớ đến cố nhân ở nơi chân trời không?(12). Chính nét nghĩa “thời gian” (khi, lúc) này của từ xứ mới phù hợp với câu thơ đang xét: Đầy ắp dòng sông, không biết từ lúc nào vang lên chày thình thịch. Không biết từ lúc nào (hà xứ) một mặt nhắc tới ý niệm thời gian tiếp sau một không gian xác định (mãn giang), mặt khác, cũng diễn đạt rất nghệ thuật tâm trạng của người cảm nhận tiếng chày đập vải ở câu dưới.

Chủ thể cảm nhận tiếng chày và vầng trăng đêm(dạ nguyệt) là người khách xa nhà đã lâu (cửu khách). Một điều cần chú ý là người khách này không có cái thung dung chủ động để rung cảm trước vẻ đẹp của cảnh thu, trái lại, dường như là đang phải chạy trốn vầng trăng, và của chính tiếng chầy thình thịnh (đông tỉnh), đá làm ông ta hốt hoảng, sợ hãi (kinh). Phó từ “thiên” trong câu biểu thị điều trái ngược với ước muốn, không hợp vơid quy luật chung: Vầng trăng đêm (dạ nguyệt) lại làm khách giật mình, kinh sợ! Có thể nghĩ rằng, khách là một người đang phải chạy chốn, sau một ngày chạy trốn, sau một ngày căng thẳng, mệt mỏi ngủ thiếp đi, bỗng bị những tiếng chầy đập vải thức giấc dậy, mà vẫn còn bàng hoàng kinh sợ dưới ánh trăng đêm.

Hai chữ “mãn giang” nhiều bản dịch là “khắp sông”. Chữ “mãn” xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Trãi và đều được dùng rất “đắt”: “Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền” (Mạn hứng) ( ánh Trăng tràn trề bến Bình Than, rượu đầy ắp thuyền) “Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư” (Đề Vân oa) (Bóng hoa in nửa rèm, đầy giường là sách), “Lãm Thuý đình đông trúc mãn lâm” (Tức hứng) (Phía đông đình Lãm Thuý, tre mọc đầy rừng ). Chữ “mãn” trong các trường hợp này đếu có nghĩa “đầy ắp”, “tràn trề”... rất gợi cảm. Nhưng điều quan trọng hơn là mãn giang còn gợi được vị trí của người cảm nhận tiếng chày. Nếu ở nơi thôn xóm ven sông hay trong nhà trọ bên bờ, hẳn sẽ không có được cảm giác âm thanh “đầy ắp” (mãn) như vậy, mà còn phải là ở một vị trí trên dòng sông. Chúng ta đã gặp rất nhiều con thuyền trong thơ ức Trai:

Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh
(Qui Côn Sơn chu trung tác)

Cảng khẩu thinh triều tạm hệ đao
(Lâm cảng dạ bạc)

Thu phong nhất điệp hải môn thuyền
(Thần phù hải khẩu)

Hải môn kim tịch hệ ngâm thuyền
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)

Phải chăng, người khách này lênh đênh trên một con thuyền để trốn chạy kẻ thù?

Câu thứ ba: “Nhất chủng Tiêu Quan chinh phụ oán”. Nhất chủng thường được lý giải như tổ hợp gồm số từ (nhất) và đơn vị từ (chủng) để biểu thị số lượng: “Một nỗi lòng oán của người chinh phụ chồng ở Tiêu Quan” (Nguyễn Trãi toàn tập, trang 268), “Đó là một loại oán sầu của chinh phụ Tiên Quan’’ (Thơ văn Nguyễn Trãi, trang 97), Đúng là nhất chủng có nghĩa chỉ số lượng như nói “nhất chủng biện pháp” (một biện pháp) “nhất chủng khán pháp” (một cách nhìn). Nhưng trong câu thơ này, hiểu như vậy có phần không thoả đáng, vì, thứ nhất, số lượng từ thường chỉ gắn với dang từ, ở đây lại đi với một động từ (nhất chủng... oán). Dù cho rằng “oán” đã được danh từ hoá thì lối nối “nhất chủng Tiên Quan chinh phụ (đích oán) cũng là một kiểu kết cấu còn mới lạ ở tiếng Hán hiện đại chứ không phải là cách diễn đạt của thơ cổ. Thứ hai, nếu nhất chủng là số lượng từ thì cả câu trên (vầng trăng đêm lại khiến khách xa nhà lâu ngày giật mình kinh sợ), cũng không liên hệ được với câu dưới (dồn tất cả mối hận ly biệt vào tiếng thu) chúng ta phải xem xét từ nhất chủng này ở khía cạnh khác. ”

Thơ ca xưa rất hay dùng chữ nhất chủng với nét nghĩa “như” “như là” “cùng là”... tương tự như nhất dạng, nhất ban trong tiếng Hán hiện đại hiện đại. Ví dụ: bài Giang hành của Lý Bạch có câu: “Nhất chủng vi nhân thê, Độc tự đa bi thê”, nghĩa là: cùng là cảnh làm vợ người ta, mà riêng mình ta nhiều buồn đau. Bài Hỷ tình của Lưu Trường Khanh có câu: “Hồ thiên nhất chủng sắc, lâm điểu bách ban thanh” nghĩa là: sắc trời cùng một màu như nước, chim rừng đua hót trăm giọng). Bài Quan du ngư của Bạch Cư Dị có câu: “Nhất chủng ái ngư tâm các dị, Ngã lai thí thực nhĩ thuỳ câu”, nghĩa là: cùng ưa thích cá như nhau, nhưng tấm lòng của mỗi người lại khác nhau, tôi về cúng cháo, còn bác thì buông câu(13).

Bài Trai tiền bồn tử lan hoa của Nguyễn Tử Thành, một nhà thơ cuối đời Trần có câu:

Cao tiêu tằng thức Sở từ trung
Nhất chủng
phong quang Cửu Uyển đồng(14)

Nghĩa là: Giương cao đã từng được nêu trong Sở từ của Khuất Nguyên. (Lan trong bồn này) cùng một vẻ thanh tao như (loài lan) trong vườn Cửu Uyển.

Xem thế, thì nhất chủng trong các trường hợp trên đều chỉ mối quan hệ, một sự liên tưởng, đối chiếu so sánh. ý này rất thích hợp với câu thơ chúng ta đang bàn. Hiểu như vậy, thì hai câu ba và bốn có thể dịch là:

Như người chinh phụ oán giận chốn Tiêu Quan nơi đầy ải chồng mình(15) (và dồn nỗi oán giận đó vào tiếng chầy đập vải); Khách cũng trút tất cả mối căm hận phải biệt ly của mình vào tiếng thu.

Câu ba bầy tỏ sự liên tưởng và niềm đồng cảm của khách đối với những người chinh phụ đang đập vải ven sông và gửi oán gửi than qua tiếng chày oán hờn. Câu bốn miêu tả một phản ứng rất tự nhiên của khách: không nén được nữa, khách đã chút hết nỗi căm giận của mình vào giai điệu mùa thu vốn đã đầy ắp oán hờn! Cả bài thơ có thể dịch là:

Đầy ắp dòng sông, không biết từ lúc nào, vang lên tiếng chày thình thịch.

Vầng trăng đêm lại khiến khách tha hương lâu ngày giật mình kinh sợ.

Như người chinh phụ oán giận chốn Tiên Quan nơi đầy ải chồng mình (và dồn nỗi oán giận đó vào tiếng chày đập vải).

Khách cũng trút tất cả mối căm hận phải biệt ly vào trong tiếng thu.

Có thể nghĩ rằng Thôn xá thu châm được Nguyễn Trãi sáng tác trong hoàn cảnh bị kẻ thù săn đuổi rất và hiểm nghèo. Mảnh trăng, tiếng chày, không đến với tác giả trong nguồn cảm hứng mà đem lại nỗi kinh hoàng cho nhà thơ. Nhưng chính trong khoảnh khắc có tính chất điển hình này, nhà thơ đã nắm bắt được những nét tiêu biêu của hoàn cảnh bản thân đất nước. Bản thân bị săn đuổi, cả nước trong cảnh tang tóc, chia ly, Giai điệu bài thơ không phải là mối sầu muộn lẻ loi trước cảnh hắt hưu thu xám muôn thuở, cũng không phải là một mối hận biệt ly mang tính chất có nhân, tuyệt vọng. Đây là mối oán hờn của dân tộc, của những người bị kẻ thù săn đuổi, hoặc bị buộc phải lìa bỏ quê hương. . . . Và nhà thơ đã hoà mối căm hận của mình trong khối oán hờn lớn của cả dân tộc đã đầy ắp cả núi sông, khối căm hờn dồn nén cho những bùng nổ lớn của Bồ Đằng, Trà Lân, Tốt Động, Chi Lăng, Xương Giang. . . sắp tới.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Trúc Khê Ngô Văn Triện: Ức Trai thi văn tập. Nhà in Lê Cường, Hà Nội, 1945; Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Văn học, Hà Nội, 1980.

(2) Đỗ Văn Hỷ: Tính hàm súc trong thơ Ức Trai, Tạp chí Văn học, số 4, 1984.

(3) Nguyên văn bài dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện như sau:

Đầy sông tiếng nện thình lình,
Đêm trăng khách vấn vương tình gia hương,
Lẫn vào cả tiếng sầu thương,
Của người chinh phụ nhớ chàng đi xa.
(Ức Trai thi văn tập,
sách đã dẫn).

(4) Đỗ Văn Hỷ, bài đã dẫn

(5) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb KHXH, H., 1976, tr. 268.

(6) Thơ văn Nguyễn Trãi, Sách đã dẫn. Tr. 97.

(7) Bài Giang hành trong Ức Trai thi tập.

(8) Bài Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính của Chu Văn An. Xem Thơ văn Lý Trần, tập III, Nxb KHXH, H., 1978, tr. 53.

(9) Thơ văn Lý Trần, tập III, Sách đã dẫn, tr. 305.

(10) Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm tập I, Nxb KHXH, H., 1980, tr. 544.

(11) Câu đối ở chùa Vua, quận Hai Bà, Hà Nội.

(12) Nguyễn Trãi toàn tập, sách đã dẫn, tr. 369.

(13) Xem Trương Tương: Thi từ khúc ngữ hối thích Trung Hoa thư cục B Thơ văn Lý Trần, tập III, sách đã dẫn, tr. 31.

(15) “Tiêu Quan chinh phụ oán” là một kết cấu đảo ngược thường thấy trong thơ. ở đây, tân ngữ Tiêu Quan được đưa lên trước câu. Kết cấu thuận là: chinh phụ oán Tiêu Quan.

TB

"SONG NHẬT" CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ "SONG VIẾT"

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Hai chữ song viết xuất hiện trong một số tác phẩm thơ Nôm Thời Lê, đặc biệt là ba tập thơ nổi tiếng Ức Trai Quốc âm thi tập, Hồng Đực Quốc âm thi tập, Và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập.

Trong Ức Trai Quốc âm thi tập , hai chữ này xuất hiện 8 lần. Những người phiên âm và chú giải tập thơ đều phiên thành “song viết”, đồng thời có dẫn những cách phiên âm khác như “sớm viết” “sớm nhăt” “lông vết”(1). Trong Hồng Đức Quốc âm thi tập hai chữ này xuất hiện 12 lần và đều được phiên là “song viết”(2). Còn trong Bạch Vân Quốc ngữ thi tập, xuất hiện 3 lần, và đã có người phiên âm thành “song nhật” và “song nhặt”(3).

Từ sau khi các tập thơ trên được công bố, đã có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phiên âm và lý giải hai chữ đó: ông Đào Duy Anh trong một số bài viết của mình, cho rằng hai chữ “song viết” là do các chữ “song thả”, “nô bộc”, “sớm tối”, “song kết”... lộn thành(4).

Ông Đỗ Văn Hỷ cho rằng hai chữ “song viết” là do “song nhật” đọc lộn thành và nên phiên là “suông nhạt”(5). Ông Nguyễn Công Hoan thì chủ trương đó là hai chữ “song kiết”(6). Đến 1974 ông Nguyễn Tài Cẩn đã vận dụng phương pháp ngữ âm lịch sử để đi tới khẳng định hai chữ đó phải đọc là “rông vát”(7).

Chúng tôi cho rằng không thể có sự viết lầm như ông Đào Duy Anh đã suy đoán, vì nếu có lầm, thì cũng chỉ xẩy ra trong một hai trường hợp cá biệt, đằng này, như chúng ta đã biết, hai chữ “song viết” xuất hiện rất nhiều lần không chỉ ở một văn bản.

Còn đưa ra cách chọn đọc là “suông nhạt” hay “rông vát” như hai ông Đỗ Văn Hỷ và Nguyễn Tài Cẩn chủ trương, theo chúng tôi, vẫn thấy có chỗ khó tin vì trong khẩu ngữ hoặc trong các tác phẩm văn học chưa hề thấy xuất hiện một từ kép như thế; cho dù đó là từ cổ, thì nó vẫn phải để lại một dấu vết ở đâu đó.

Căn cứ vào mã chữ, hai chữ đó có thể đọc là “song viết” hay là song nhật, vì hai chữ “viết” và “ nhật” rất giống nhau về nét chữ. Trong thực tế các văn bản nhiều khi cũng viết lẫn chữ nọ ra chữ kia. Chẳng hạn trong 2 bản Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thì bản khắc in đều viết “song viết” còn bản chép tay có 4 bài viết chữ “sớm nhặt”.

Vậy thì, hai chữ đó phải đọc là “song viết” hay “song nhật”?, vì hai chữ “song viết” chúng tôi chưa tìm thấy trong lai lịch trong các nguồn thư tịch. Trong khi đó, hai chữ “song nhật”, lại thấy xuất hiện nhiều trong các loai sách “kinh điển trước đây”. Chúng tôi đã tìm thắy chữ SONG NHậT trong một câu thuộc sách Đường thư: “Cố sự, Thiên tử chích nhật thị sự, Đế vị Tể phụ viết: Trẫm dục khanh đẳng song nhật, mỗi nhật tương kiến, Kỳ chuyết triều, phóng triều , dụng song nhật khả giã”. Nghĩa là: “Xem chuyện cũ, thấy Thiên tử chỉ ra ngự triều xét chính sự vào những ngày lẻ, nên nhà vua mới bảo quan Tể phụ rằng: “Trẫm muốn các khanh nhữn ngày chẵn(8), mỗi ngày ấy hãy gặp nhau, vậy chỉ sự chuyết triều, phóng triều ta có thể dùng chữ song nhật được”.

Hai chữ ấy lại được tìm thấy trong Tống sử. Lễ chí nói câu: “Đan nhật thị sự, Song nhật bất toạ”, nghĩa là “ngày lẻ thì vua ra ngự xét việc triều chính, ngày chẵn thì nhà vua không ra ngự”

Chích nhật đan nhật là ngày lẻ, tức là ngày vua ra ngự triều và các quan đại thần phải vào chầu lo giải quyết chính sự. Điều này đã thành một chế độ của nhà Đường.

Sách Đường thư cho biết: “Đường chế, thiên tử dĩ chích nhật lâm triều”. Nghĩa là: “theo chế độ nhà Đường, Thiên tử lấy ngày lẻ để ra ngự triềugiải quyết chính sự”. Bạch Cư Dị cũng có câu thơ tả cái cảnh các quan hàn lâm vào chầu vua những ngày lẻ “Kim Mã đông môn chích nhật khai”; Hán đình đãi chiếu trọng tiên tài” Nghĩa là: “của Kim Mã ở phía đông những ngày lẻ mở rộng ra; các quan Hàn Lâm vào chầu vua đứng đợi ở đó, cho ta thấy triều đình nhà Hán cũng trọng những bậc tài phi thường.”

Đối lập với chữ chích nhật là chữ song nhật. Song nhật là ngày chẵn, ngày nhà vua không ra ngự triều và các quan khỏi phải vào chầu, được nhàn nhã, nghỉ ngơi, thư thả.

Chữ chuyết triều, tức song nhật, có nghĩa là nghỉ không ra triều. Lễ, Khúc lễ có câu: “chuyết triều nhi cố”, nghĩa là: “sau buổi trầu thư thả ngồi nghỉ nhìn đó đây”. FS Couvoeurx trong quyển Trung Quốc cổ văn đại tự điển đã dịch sang tiếng pháp là “A la fin de l’audience, regarder de côté et d’autre”. Chữ “chuyết triều” như vậy cũng có thể hiểu như chữ thoái thực. Trong bài Đề thạch trúc ca, Nguyễn Trãi đã tả cảnh “thoái thực” của mình như sau:

“Song tiền nguyệt bạch cung giai thưởng,
Thoái thực liêu tương ngụ tạm hoan”(9)

Có nghĩa là: “Vầng trăng sáng trước cửa sổ cũng cho ta cái thú thưởng thức tốt đẹp, sau buổi chầu về hãy gửi tạm vào niềm vui vào đó.”

Vậy chữ thoái thực cũng như hai chữ chuyết triều, phóng triều đều đã được dùng theo nghĩa qui ước của chữ song nhật, và chữ này sau đã được dùng theo nghĩa rộng để chỉ sự nhàn tản, rảnh rỗi; thư thả, thảnh thơi; sự gác bỏ việc quan hoặc sự thoái quan về ở ẩn.

Để tìm hiểu thêm về nghĩa rộng này, chúng ta có thể trở lại một chút với cuộc đời làm quan của Nguyễn Trãi và của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Trãi là người có công to, đã giúp cho Lê Lợi đánh thắng được quân Minh nhưng về sau ông đã bị nhà vua nghi ngờ cùng với một số nhân vật lỗi lạc khác.Tuy sử không nói rõ đến việc Nguyễn Trãi bị bắt nhưng ông đã không tránh khỏi bị nghi ngờ là có liên quan đến Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Nguyễn Trãi không được nhà vua tin cẩn nữa nhưng ông vẫn phải làm quan, xem Quốc âm thi tập chúng ta có thể biết rằng ông chỉ sống ở Thăng Long một thời gian rồi lại về ở Côn Sơn để vui với cảnh ẩn dật. ông đã nói lên tâm trạng của mình trong nhiều bài thơ, như nhiều người đã biết.

Tuy chán cảnh làm quan nhưng ông vẫn thỉnh thoảng phải về Thăng Long để chầu vua, vì trên danh nghĩa ông vẫn còn giữ chức quan của nhà Lê. Đến khi sắp mất, vua Thái tổ nhận thấy lỗi lầm của mình, mới dặn con là Thái tử Nguyễn Long( vua thái tông) phải dùng lại Nguyễn Trãi vào một chức vị xứng đáng. Lê Thái Tông đã phải làm đúng như lời cha dặn: Năm 1439 xuống chiếu vời ông ra giữ chức vụ cũ, kiêm Trung thư sảnh Trị Tam quán sự và coi cả việc quân dân ở hai đạo Đông Bắc. Tuy Nguyễn Trãi ở lại nhậm chức của triều đình, nhưng vua Lê Thái Tông vẫn cho ông được ở Côn Sơn để làm việc, chỉ thỉnh thoảng mới phải về chầu. Cho nên Nguyễn Trãi không phải chịu c ái cảnh “chích nhặt” mà luôn luôn đựơc hưởng cảnh “song nhật” tức là cảnh chuyết triều của ông thực chẳng khác gì cảnh đi ở ẩn mà chính ông đã tự gọi bằng danh từ “song nhật”.

Những ngày song nhật ấy, sau việc quan, bạn bè lại gặp nhau, thung dung nhàn tản như Lý Tử Tấn đã tả trong 4 câu(10) sau đây:

Lại tán đình tiền duy thảo sắc,
Khách lai, trúc ngoại hữu trà yên
Công dư thoái thực phần hương toạ
Hoa truc trương cầm lạc tuế niên

Nghĩa là:

Những kẻ lại thuộc về hết giờ ra về, trước sân nhà chỉ còn trơ sắc cỏ,
Khách đến chơi thì ngoài giậu trúc có khói đun nước pha trà toả bốc lên.
Sau lúc việc quan xong, lui về nhà đốt lò hương ngồi một mình,
Chỉ có bức vẽ và cây đàn để ông vui với năm tháng.

Như vậy chúng ta thấy rõ ràng là Nguyễn Trãi đã dùng hai chữ “song nhật” để tả cảnh chuyết triều, phóng triều hoặc thoái thực của mình khi ông còn làm quan nhưng đã lui về Côn Sơn, hưởng cảnh an nhàn, thảnh thơi, tự do, phóng túng không phải như các quan khác luôn luôn phải vào chầu những ngày “chích nhật”.

Kẻ làm quan như Nguyễn Trãi cũng thực là đặc biệt.

Trường hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đặc biệt không kém ông làm quan Lại Bộ Tả thị lang kiêm đông các đại học sĩ tại triều 8 năm, nhưng sau khi dâng sớ hạch tội 18 kẻ lộng thần, ông xin về trí sĩ vào năm 1542 (Mạc Phúc Hải, Quảng Hoà năm thứ 2). ông tuy không làm quan tại triều nhưng vẫn được thăng lại bộ Thượng thư. Thế thì làm quan tại gia, ông cũng chẳng biết gì đến cảnh “chích nhật” mà chỉ biết có cảnh “song nhật” thôi, giống như Nguyễn Trãi vậy.

Bây giờ, nếu đưa chữ “song nhật”, với các nét nghĩa phân tích trên đây và các câu thơ Nôm có hai chữ đó của 3 tập thơ, chúng ta sẽ thấy, trong mọi trường hợp câu thơ trên đều hợp lý:

1) Ức Trai Quốc âm thi tập

- Bài 10, câu 7: “Con cháu chớ hiềm song nhật ngặt” có thể giải thích là; Con cháu chớ lo lắng thấy ta không làm ngay tại triều, cứ về ở tại Côn Sơn, luôn luôn hưởng cảnh chuyết triều thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

- Bài 13, câu 7: “Con cháu mựa hiểm song nhật tiên”. có thể giải thích là: Con cháu chớ có lo lắng vid thấy ta không còn làm quan tại triều, chỉ ở tại Côn Sơn, luôn luôn hưởng cảnh chuyết triều thì sẽ nghèo túng, gặp sự khó khăn.

- Bài 18, câu 3 và 4: “Song nhật hằng lề phiên sách cũ. Hôm triều đủ bữa bát cơm xoa”, có thể giải thích là: những lúc chuyết triều được thư thả nhàn nhã thì thường theo thói quen làm bạn với chồng sách cũ; Tuy vậy sớm chiều cũng có bát cơm thường ăn đủ hai bữa.

- Bài 49 câu 7: “Song nhật đã toan nào của tích”, có thể giải thích là: Đã về nghỉ ở nhà, hưởng cảnh an nhàn (chuyết triều) tính gì đến tích của để làm giàu nữa.

- Bài 143, câu 3,4: “Song nhật có nhiều dân có khó, Cửa nhà càng thoáng thế càng phiền”, có thể giải thích là: mình làm quan mà cứ nghỉ các buổi chầu luôn thì cũng gây khó khăn cho người dân; ở nhà càng rộng rãi bao nhiêu thì cái thế của mình cũng thêm phiền vì mang tiếng chẳng thanh liêm.

- Bài 156, câu 7: “Song nhật huống còn non nước cũ”. Có thể giải thích là: Mình có về hưởng nhàn thì cũng là phải huống chi còn có non nước cũ vẫn chờ đợi mình.

- Bài 164 câu 2: “Song nhật bao nhiêu mặc bấy nhiêu”, có thể giải thích là: Mình có chuyết triều, không vào chầu vua lâu bao nhiêu cũng mặc, chẳng thắc mắc gì cả.

2. Hồng Đức Quốc âm thi tập(11)

- Bài 32 câu 5: “Năm hồ những lấy làm song nhật” có thể giải thích là: Dạo chơi Năm hồ những lấy làm thư thả, thung dung.

- Bài 54, câu 5: “Ngư hà song nhật ngày hằng đủ”, Có thể giải thích là:tôm cá dù có thư thả đánh bắt thì hằng ngày cũng có đủ cả.

- Bài 59 câu 2: “Song nhật ai bằng song nhật ngư”, có thể giải thích là: Kể thư thả nhàn nhã thì chẳng ai thư thả nhàn nhã bằng người đánh cá.

- Bài 60 câu 2: “Song nhật ai bằng song nhật tiều”, có thể giải thích là: Kể thư thả nhàn nhã thì chẳng ai thư thả nhàn nhã bằng người đốn củi

- Bài 61 câu 2: “Song nhật ai bằng song nhật canh”, có thể giải thích là: Kể thư thả nhàn nhã thì chẳng ai thư thả nhàn nhã bằng người đi cày

- Bài 62 câu 2: “Song nhật ai bằng song nhật mục”, có thể giải thích là: Kể thư thả nhàn nhã thì chẳng ai thư thả nhàn nhã bằng người chăn trâu.

- Bài 63 câu 7: “Phong nguyệt ít nhiều song nhật đủ”, có thể giải thích là: Bốn mùa thư thả thong dong với một chiếc thuyền chài.

3. Bạch Vân Quốc ngữ thi tập(12)

- Bài 30 câu 7: “Song nhật chớ rằng đã hổ”, có thể giải thích là: Ta tuy về ở ẩn, không tham dự vào việc triều chính, nhưng chớ có nghĩ rằng thế là đáng hổ thẹn.

- Bài 35 câu 7: “Khách đến hỏi: nào song nhật nữa; Rằng còn một túi thơ treo”, có thể giải thích là: Khách đến hỏi: thế nào, có còn rảnh rỗi thư thả nữa không; Đáp rằng: Còn một túi thơ treo đó để chờ bạn lại ngâm vịnh.

- Bài 47 câu 5: “Song nhật hãy còn hai rặng quýt”, có thể giải thích là: Ta về nghỉ nhà sau khi đã từ quan (thoái triều) thì cũng chẳng túng thiếu gì vì hãy còn hai rặng quýt để lấy hoa lợi sinh sống.

Trên đây, chúng tôi đã đi tìm lai lịch chữ “song nhật”, đã phân tích các nghĩa của chữ này, đồng thời, cũng đem áp dụng những nghĩa ấy vào các câu thơ Nôm có chữ “song nhật” ở ba tập thơ, qua phân tích đều thấy hợp lý. Như vậy phải chăng đã đến lúc chúng ta hãy đưa trả chữ “song nhật” vào các câu thơ vốn có nó. Đây là một từ Hán Việt, có “lí lịch” rõ ràng, được các thi nhân Việt Nam sử dụng như một từ kép trong kho từ vựng tiếng Việt mà trước nay đã gây ra nhiều rắc rối cho người đọc.

CHÚ THÍCH

(1) Xem: Ức Trai Quốc âm thi tập, Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên âm và chú giải, Nxb Văn Sử Địa, H., 1956.

(2) Xem Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên, phiên âm, chú giải, giới thiệu. Nxb Văn hoá, H., năm 1962.

(3) Xem: Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà: Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý, Nxb Văn hoá, H., năm 1957.

(4) Xem Đào Duy Anh: Sự cần thiết chỉnh lý tài liệu trong công tác nghiên cứu và phiên dịch, Nghiên cứu Lịch sử số 37, tháng 4 năm 1962; Nguyễn Trãi toàn tập, phần Lời dẫn về tập thơ Quốc ân thi tập... Nxb KHXH, H., bản in lần thứ nhất năm 1969, và bản in lần thứ 2 năm 1976. Lịch sử số 37, tháng 4 năm 1962; Nguyễn Trãi toàn tập, phần Lời dẫn về tập thưo Quốc âm thi tập... Nxb KHXH, H., bản in lần thứ nhất năm 1969, và bản in lần thứ 2 năm 1976.

(5) Đỗ Văn Hỷ, Tạp chí Văn học, số 6, năm 1967.

(6) Nguyễn Công Hoan: “Song viết” hay “song kiết”, “song biết”, Tạp chí Văn học, số 5, 1974.

(7) Nguyễn Tài Cẩn: Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ “song viết”, Văn học, số 2, năm 1974.

(8) Ngày nghỉ, không có việc triều chính.

(9) Ông Đào Duy Anh đã hiểu sai chữ thoái thực mà dịch câu này là; “sau bữa cơm ta lấy chỗ tạm ngụ niềm vui”. Hai chữ thaói thực này, theo ông là mượn ở bài Cao dương trong Kinh Thi: Cao dương chi cức, Tố ty ngũ vực, Uy di uy di, Tự công thoái thực”. (áo bằng da dê, Năm đường may đều có tơ trắng trang sức. Dáng thung dung tự đắc. Từ triều đình, cửa công lui về nhà mà ăn cơm).

(10) thuộc bài Đề ức Trai bích.

(11) Xem Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên phiêm âm, chú giải giới thiệu, bản in lần thứ 2, Nxb Văn học, H., 1982.

(12) Xem Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, H., 1983.

TB

ĐÍNH CHÍNH NIÊN ĐẠI GIẢ TRÊN MỘT SỐ THÁC BẢN BIA TẠI KHO BIA CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

ĐINH KHẮC THUÂN

Kho bia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 21 nghìn thác bản bia, rập từ trên 11 nghìn tấm bia đá của các địa phương trong nước, trong khoảng thời gian chủ yếu từ năm 1925 đến năm 1945(1). Đây là mảng tư liệu lớn, đã và đang được các giới nghiên cứu khoa học xã hội tìm hiểu, khai thác. Tuy nhiên, muốn sử dụng và khai thác một cách có hiệu quả, cũng cần xem xét và đánh giá mức độ chân xác của thác bản. Bài này, sẽ tìm hiểu hiện tượng giả mạo niên đại trên thác bản bia, do người rập bia tạo ra, và hướng cố gắng vào việc truy tìm niên đại thật của nó.

Hiện tượng giả mạo niên đại trên thác bản bia chủ yếu là thay thế niên đại của những tấm bia muộn bằng niên đại cổ hơn, cụ thể là ghi niên hiệu các triều đại nhà Lê hoặc nhà Tây Sơn lên bia nhà Nguyễn(2). Cách “làm giả” cũng có nhiều vẻ: Có khi chỉ thay đổi một chữ trong niên hiệu như Thành Thái thành Bảo Thái hay Phúc Thái; Tự Đức thành Thịnh Đức hay Long Đức; Thiệu Trị thành Vĩnh Trị... Có khi thay đổi cả tên niên hiệu mới, thậm chí thay đổi cả dòng lạc khoản. Khi rập bia, họ chừa những chữ cần thay thế ra, sau đó cắt dán chữ khác và hoặc rập lên chữ có thể thay thế được ở bia khác, có khi ở ngay trong bài văn bia đó. Có những bản giả, làm quá ẩu như chỗ dán bị cộm lên, hoặc bị lệch dòng, thậm chí có chỗ bị dán ngược như hai chữ “Cảnh Hưng” dán lôn đầu xuống dưới trên thác bản số 1120 (ảnh 1). Trái lại có bản được làm khá công phu như rập trọn vẹn dòng lạc khoản của một tấm bia khác để thay vào phần lạc khoản của bản giả, trong đó tiêu biểu là đơn vị hành chính tỉnh và những vị quan chức có tiếng (ảnh 2).

Bước đầu chúng tôi đã phát hiện được 103 thác bản có niên đại kiểu trên, chủ yếu thuộc những cụm bia ở Từ Liêm, Thanh Trì, Đan Phượng (ngoại thành Hà Nội) gồm 45 bản; Diễn Châu, Anh Sơn, Quỳnh Lưu, Yên Thành (Nghệ Tĩnh) gồm 51 bản và Kim Động, Phù Cừ (Hải Hưng) gồm 7 bản. Những niên hiệu được làm giả là Quang Hưng (2 bản), Hoằng Định (7 bản), Đức Long (1 bản), Vĩnh Thọ (1 bản), Cảnh Trị (1 bản), Dương Đức (2 bản), Vĩnh Trị (16 bản), Chính Hòa (11 bản), Vĩnh Thịnh (22 bản), Bảo Thái (3 bản), Vĩnh Khánh (1 bản), Long Đức (2 bản), Cảnh Hưng (30 bản), Cảnh Thịnh (1 bản) và Bảo Hưng (3 bản).

Trên những thác bản bia giả thường nổi lên mâu thuẫn giữa phong cách trang trí và đặc trưng văn bản với niên đại trên thác bản. Có khi còn có sự mâu thuẫn ngay trên dòng lạc khoản đó như năm tính theo niên hiệu vua không hợp với năm can chi hoặc trội hơn số năm tồn tại của niên hiệu đó.

Chính vì thế, chúng tôi chủ yếu dựa vào đặc trưng văn bản trên bản thân thác bản ấy với niên đại để phát hiện và khảo sát. Ngoài ra cũng được xem xét với những thác bản bia khác trong cụm bia đó và trong bối cảnh lịch sử của di tích đó.

Để tiện cho việc đính chính niên đại của số thác bản bia giả trên, chúng tôi chia chúng thành 6 cụm:

- Cụm 1: thuộc thế kỉ 16, gồm những bản mang niên hiệu Quang Hưng.

- Cụm 2: nửa đầu thế kỉ 17, gồm những bản mang niên hiệu Hoằng Định, Đức Long, Vĩnh Thọ.

- Cụm 3: nửa sau thế kỉ 17, gồm những bản mang niên hiệu Cảnh Trị, Dương Đức, Vĩnh Trị, Chính Hòa.

- Cum 4: nửa đầu thế kỉ 18, gồm những bản mang niên hiệu Vĩnh Thịnh, Vĩnh Khánh, Bảo Thái, Long Đức.

- Cụm 5: nửa sau thế kỉ 18, gồm những bản mang niên hiệu Cảnh Hưng.

- Cụm 6: đầu thế kỉ 19, gồm những bản mang niên hiệu Cảnh Thịnh, Bảo Hưng.

Ở cụm 1 có hai bản mang niên hiệu Quang Hưng. Một là Bản đình kí kỵ số kí hiệu 2917 - 2918 cí niên đại Quang Hưng thứ 3 (1579) và một là Kí kỵ hậu bi số kí hiệu 2921 - 2922 có niên đại Quang Hưng thứ 5 (1581). Cả hai đều là thác bản của bia đình xã Nguyên Khê, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Hưng. Loại bia kí kỵ (gửi giỗ) có rất muộn, ra đời sau bia hậu. Bia hậu và lệ bầu hậu thần - một hiện tượng khá phổ biến ở thời Hậu Lê và thời Nguyễn, ra đời cũng muộn, sớm nhất chỉ có thể vào cuối thế kỉ 16. Bởi hậu thần được phụng thờ với thần Thành hoàng ở đình làng mà đình làng thờ thần Thành hoàng mới bắt đầu ở nửa sau thế kỉ 16(3). Hoa văn trang trí trên diềm bia là những ngọn lá to, cong nối tiếp nhau - loại hoa văn gặp nhiều trên diền bia thời Nguyễn khác hẳn lối trang trí trên bia đời Lê(4). Thêm nữa, trong văn bản bia Quang Hưng thứ 5 bị xóa một số chữ có lẽ là đơn vị hành chính tỉnh. Ở thác bản bia Quang Hưng thứ 3 vẫn còn chữ “Hải Dương tỉnh” - đơn vị hành chính bắt đầu xuất hiện từ năm Minh Mệnh thứ 6 (1825)(5). DO vậy hai bia này là bia thời Nguyễn ở sau niên hiệu Minh Mệnh.

Ở cụm 2, gồm 9 bản, trong đó 7 bản mang niên hiệu Hoằng Định, 1 bản Đức Long và 1 bản Vĩnh Thọ. Nếu là bia ở giai đoạn này, giai đoạn nửa đầu thế kỉ 17 thì phong cách trang trí trên bia nổi bật len những đặc trưng mới - đặc trưng của thế kỉ nghệ thuật dân gian phát triển tới đỉnh cao - thế kỉ 17, với những đề tài chim thú, hoa lá phong phú, sinh động. Trên văn bản, xuất hiện dầy đặc chữ húy thời Lê sơ và giai đoạn đầu Lê Trung hưng, trong đó tần số xuất hiện cao nhất là những chữ Trần, Thành, Lợi, Long, Tân(6). (xem ảnh 3: F-B-E-C). Xin đi vào một số trường hợp cụ thể.

- Bản Kí kỵ bi số kí hiệu 978 có niên đại Hoằng Định nguyên niên (1600), là thác bản bia đình xã Định Công huyện Thanh Trì (Hà Nội). Đây cũng là bia gửi giỗ. Chữ “Hoằng Định” trong bia có nét chữ mền mại, thanh dài hơn những chữ sau. Có lẽ nó đã được rập từ bia khác vào. Bia nhỏ (có kích thước là 0,65 x 0,45), khắc một mặt, không có hình trang trí. Bài văn bia chỉ có mấy dòng nói về việc cúng tiền gửi giỗ. Nếu là bia ở đầu thế kỉ 17 thì kích thước bia thường lớn hơn, trông khá bề thế. Và bài văn bia thường có kết cấu rất chặt chẽ gồm bài kí và bài minh với ngôn từ và văn phong hàm súc. Đặc trưng đó hoàn toàn không có trên bia này. Trong văn bản có chữ “cửu” - chữ húy thời Lê Trung hưng được viết bình thường, dạng chữ đơn. Chữ cửu(7) khi kiêng húy đã viết dạng chữ kép đảo bộ và thêm bộ tòng ở đầu.. Nó xuất hiện trong ngót hai thế kỉ. Đến thời Tây Sơn và đầu đời Nguyễn nó không phải kiêng húy nữa, nhưng được viết dưới dạng chữ kép. Từ niên hiệu Tự Đức trở về sau, viết dạng chữ dơn bình thường (ảnh 3-A). Rõ ràng niên đại thật của bia này thuộc giai đoạn cuối thời Nguyễn, sớm nhất cũng không thể vượt quá niên hiệu Tự Đức.

- Bản Tập phúc bi kí số kí hiệu 3094 mang niên đại Hoằng Định 3 năm Kỷ Dậu (?). Đây là bia chùa xã Ninh Xá huyện Thanh Trì (Hà Nội). Bia ghi các vị trong Hội thiện, chùa Nghĩa Hưng của bản xã. “Hội thiện” là một hình thức sinh hoạt xã hội mới xuất hiện ở thời Nguyễn. Nó không thể xuất hiện trên bia thời Lê được. Hơn nữa, năm Kỷ Dậu không phải là năm Hoằng Định thứ 3. Trên trán bia trang trí rồng lá cách điệu, lọai hoa văn gặp nhiều trên bia giai đoạn cuối thời Nguyễn. Thêm nữa trong văn bản có tên thôn “Bạch Mai” một tên làng mới có ở thời Pháp thuộc (trước đó là thôn Hồng Mai). Ở cuối đời Nguyễn, năm Kỉ Dậu là năm Duy Tân 3. Duy Tân 3 Kỉ Dậu (1909) là niên địa thật của bia.

- Bia Hậu phật bi kí ở chùa xã Đống Lương huyện Kim Động (Hải Hưng) có thác bản số 3576 mang niên đại Hoằng Định 15 năm Nhâm Tuất (?). Đây cũng là bia hậu, khắc một mặt kích thước nhỏ (0,65 x 0,40). Bia hậu ở cuối thế kỉ 16 đầu thế kỉ 17 không nhiều. Người được bầu hậu thường là những vị chức sắc có công đức lớn với địa phương. Do đó bia của các vị hậu này thường rất đồ sộ với kích cỡ lớn và chạm khắc công phu. Quy cách đó hoàn toàn không có trên bia hậu thời Nguyễn và trên tấm bia này. Ở đây chán bia trạm hai rồng chầu mặt nguyệt, mặt nguyệt nhỏ, có nhiều tua mây nhọn như đốm lửa bay lên. Rồng được cách điệu cao với những ngọn lá cong xoắn(8) rõ ràng không phải là phong cách bia thế kỉ 17 mà là bia thời Nguyễn từ giai đoạn Tự Đức về sau. Năm Nhâm Tuất là năm Tự Đức 15 (1862) chính là niên đại thật của bia.

- Bản Tư đình bi kí số 2824 - 2825 mang niên đại Vĩnh Thọ năm Bính Dần cũng là giả. Đây là bia đình thôn Thượng An, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh). Trên văn bản bị xóa một số chữ, có lẽ là đơn vị hành chính tỉnh và tên hiệu nhà Nguyễn. Trên trán bia trang trí hình chữ thọ và những hoa văn lá xoắn. Hoa văn chữ thọ thực tế chưa xuất hiện ở thế kỉ 17, mãi đến giai đoạn cuối nhà Lê (vào niên hiệu Cảnh Hưng) mới có và trở thành đề án trang trí phổ biến trên bia thời Nguyễn. Ở thời Nguyễn, nhất là vòa giai đoạn cuối, nó thường được điểm thêm hoa văn lá hoặc hình án thư. Rõ ràng hoa văn chữ thọ trên bia này thuộc về giai đoạn cuối triều Nguyễn, mặt khác, trong văn bản có chữ “cửu” viết ở dạng đơn; không húy - dạng chữ thời Tự Đức về sau. Và chữ “thời” đã viết thành “thìn” để tránh húy Tự Đức. Vị vậy niên đại thật của bia ở vào giai đoạn Tự Đức trở đi, có lẽ là Tự Đức năm Bình Dần (1866).

- Ở cụm 3 gồm 30 bản, trong đó có 1 bản Cảnh Trị, 2 bản Dương Đức, 16 bản Vĩnh Trị và 11 bản Chính Hòa. Bia ở giai đoạn nửa sau thế kỉ 17 này, hầu hết đều do thợ chuyên nghiệp thuộc phường thợ Kính Chủ (Hải Hưng) và An Hoạch (Thanh Hóa) khắc. Do đó bia khá đẹp, đẹp cả về hình thức trang trí, lẫn văn tự khắc trên bia.

Xin nêu một số bản cụ thể.

- Bản Ngọc Tân tự bi kí số kí hiệu 1282 - 1283 mang niên đại Cảnh Trị 6 (1668). Đây là bia chùa Ngọc Tân xã Yên Sở huyện Đan Phượng (Hà Nội). trên trán bia trang trí hai rồng chầu mặt nguyệt. Rồng lá cách điệu không có hoa văn hình lưỡi mác - hoa văn phổ biến điểm trên lưng, trên đầu rồng và trên mọi đề án trang trí thế kỉ 17(9). Mặt nguyệt nhỏ chỉ có tua mây nhỏ bay lên. Diếm bia không có hình hoa lá chim thú mà chỉ thuần túy là hoa văn lá cách điệu. Trang văn bản có chữ “tân” - chữ húythời Lê viết bình thường và chữ “cửu” viết ở dạng chữ kép không kiêng húy - dạng chữ ở đầu thời Nguyễn. Chữ “cảnh” trên dòng niên đại có nét khắc sâu hơn, mập hơn chữ “trị” và những chữ sau. Có lẽ nó đã được rập ở bia khác vào để thay thế cho chữ “Thiệu”. Thiệu Trị 6 (1845) là niên đại thật của bia hoàn toàn phù hợp với phong cách và đặc trưng vănbản bia này.

- Tương tự như vậy, bản Kí kỵ bi kí số kí hiệu 1142 có niên đại Dương Đức 10 năm Đinh Tỵ cũng là giả. Đây là bia gửi giỗ ở đình xã Quan Nhân huyện Thanh Trì (Hà Nội). Trên bia cũng được trang trí hình rồng, mặt nguyệt và hoa văn lá với phong cách tương tự bia trên. Năm Đinh Tỵ không phải là năm Dương Đức 10: Vả lại niên hiệu Dương Đức chỉ tồn tại không đầy hai năm. Hơn nữa chữ “Dương” được cắt dán vào, chỗ dán dầy cộm lên. Chữ bị thay thế đó có lẽ là chữ “Tự”. Tự Đức 10 cũng là năm Đinh Tỵ (1857), đúng là niên đại thật của bia.

- Bản Thanh Cù xã văn chỉ bi số kí hiệu 3572 - 3273, mang niên đại Vĩnh Trị 4 năm Tân Hợi. Đây là bia văn chỉ xã Thanh Cù huyện Kim Động (Hải Hưng). Bia được chạm khắc hết sức sơ sài, không có hình trang trí. Bài văn bia do Trần Tú Dĩnh Cử nhân khoa Ất Mão đời vua Thiệu Trị 6 (1825) soạn. Rõ ràng niên đại của bia không thể thuộc thế kỉ 17 được. Thực tế năm Tân Hợi không phải là năm Vĩnh Trị 4. Hai chữ “Vĩnh Trị” tuy cùng khổ chữ với chữ sau, song lại lệch sang một bên, có lẽ đã được rập ở bia khác vào. Qua phong cách bia và tác giả bài văn bia, biết được niên đại bia thuộc thời Nguyễn ở niên hiệu Thiệu Trị hoặc Tự Đức. Năm Tân Hợi là năm Tự Đức 4 (1851).

- Bia Thận chung truy viễn ở đình Ninh Xá, huyện Thanh Trì (Hà Nội) có thác bản số 3090. Niên đại trên thác bản là Chính Hòa 15 (1694) (?). Bia nhỏ, chạm khắc sơ sài, không có hình trang trí. Bài văn bia nói về việc sửa đình Vũ. Trên văn bản có ghi tên người khắc bia nhưng không phải phường thợ chuyên nghiệp ở thế kỉ 17 mà là thợ nghiệp dư địa phương. Trên thác bản bia xóa một số chữ có lẽ là “Hà Đông tỉnh”, nhưng vẫn còn chữ “Hà Bắc tỉnh” - đơn vị hành chính thời Nguyễn. ngoài ra còn có một số chữ nói về tiền tệ là đơn vị tiền tệ ở giai đoạn cuối thời Nguyễn như “ngân” (trước đó dùng “tiền”) và “nguyên” là “đồng” (trước thường dùng “quan”). Hai chữ “Chính Hòa” có lẽ được rập ở bia khác vào vì về tự dạng khác với những chữ sau nó. Vì vậy niên đại của bia không phải là Chính Hòa 15, có lẽ là Thành Thái 15 (1903).

- Bản Hậu thần bi kí số kí hiệu 1157 - 1158 có niên đại Chính Hòa 12 năm Kỉ Mùi. Đây là bia hậu ở xã Cáo Đỉnh huyện Từ Liêm (Hà Nội). Bia khá đồ sộ, có kích thước 1,10 x 0,63. Trán bia trang trí mặt hổ phù, có điểm thêm vài ngọn lá chẽ đôi xoắn xít với nhau. Về hình thức, bia này tương tự bia Chính Hòa. Tuy vậy đề án “hổ phù” chưa thấy xuất hiện trên bia Chính Hòa. Nó chính thức được sử dụng trang trí trên một vài loại bia Vĩnh Thịnh, phổ biến hơn là trên bia Cảnh Hưng và bia thời Nguyễn. Hình lá chẽ đôi cong về hai bên, gặp nhiều trên đề án trang trí bia thời Tự Đức. Năm Kỉ Mùi là năm Tự Đức 12 (1859) đúng là niên đại của bia.

Ở cụm 4, gồm 28 bản, trong đó có 22 bản Vĩnh Thịnh, 3 bản Bảo Thái, 1 bản Vĩnh Khánh và 2 bản Long Đức.

Xin nêu vài trường hợp.

- Bia An Lăng xã văn chỉ bi kí tại văn chỉ xã An Lăng huyện Diễn Châu (Nghệ Tĩnh). Bia có thác bản số 2667 - 2668, mang niên đại Vĩnh Thịnh 30 (?). Niên hiệu Vĩnh Thịnh chỉ kéo dài 15 năm không có năm thứ 30. Đây là bia văn chỉ, bốn mặt. Loại bia trụ bốn mặt này ở thời Lê (Vĩnh Thịnh) cũng đã có, song đều là những tấm bia đồ sộ khắc khá đẹp. Ngược lại ở đây bia được làm rất sơ sài, mặt bia chưa được đánh nhẵn, trang trí giản đơn, chỉ có mấy ngọn lá xếp, nối tiếp nhau như “úp thìa” trên diềm bia. Trong văn bản bị xóa một số chữ, có lẽ là đơn vị hành chính tỉnh. Những vẫn còn chữ “Tú tài” - thuật ngữ mới xuất hiện ở thời Nguyễn(10). Hai chữ Vĩnh Thịnh có nét khắc sâu và gọn hơn những chữ sau; có lẽ đã được rập ở bia khác vào. Năm thứ 30 của một niên hiệu vua đầu thời Nguyễn duy nhất thuộc vào niên hiệu Tự Đức. Tự Đức 30 (1877) là niên đại thật của bia.

- Tương tự như vậy, bản Nguyễn thị kí lạp chi bi số kí hiệu 22 mang niên đại Vĩnh Thịnh 4 năm Canh Tuất cũng là giả. Đây là bia gửi giỗ ở chùa xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì (Hà Nội). Bia nhỏ, trán bia trang trí hai rồng chầu mặt nguyệt. Mặt nguyệt nhỏ, rồng là cách điệu. Chữ khắc nông, nét khắc đều đều, không sắc sảo. Năm Canh Tuất không phải là năm Vĩnh Thịnh 4. Cuối triều Nguyễn, năm Canh Tuất là năm Duy Tân 4, Canh Tuất (1910) hoàn toàn phù hợp với phong cách và đặc trưng văn bia này. Đó là niên đại thật của bia.

- Bia Sùng Phúc kí kỵ bi ở chùa xã Quan Nhân, huyện Thanh Trì (Hà Nội) có thác bản số 1124, mang niên đại Long Đức 29. Đây là bia gửi giỗ, có kích thước nhỏ và trang trí sơ sài như bia trên. Bài văn bia chỉ có mấy dòng ghi việc cúng tiền gửi giỗ. Chữ “Long” tuy cùng một khổ với chữ sau, nhưng lại lệch sang một bên. Có lẽ nó đã được rập ở bia khác vào để thay thế cho chữ “Tự”. Tự Đức 29 (1876) hoàn toàn có cơ sở là niên đại thật của bia.

- Bia Sùng Phúc bi kí cũng ở chùa xã Quan Nhân, huyện Thanh Trì (Hà Nội) có thác bản số 1117 mang niên đại Bảo Thái 10 năm Mậu Tuất. Đây là bia hậu, có kích thước nhỏ, chạm khắc sơ sài tương tự khuôn khổ bia hậu và bia kí kỵ ở thời Nguyễn. Trên văn bản có chữ “bạch duyên tiền” (tiền kẽm) - loại tiền mới có ở thời Pháp thuộc. Niên hiệu Bảo Thái không có năm Mậu Tuất. Chữ “Bảo” có nét khắc thanh, gọn hơn những chữ sau. Có lẽ nó đã được rập ở bia khác vào để thay thế cho chữ “Thành”. Thành Thái 10 cũng là năm Mậu Tuất (1898) hoàn toàn phù hợp với phong cách bia. Đó là niên đại thật của bia.

Ở cum 5, có 30 bản mang niên hiệu Cảnh Hưng. Bia mang niên hiệu Cảnh Hưng, nằm gọn trong nửa sau thế kỉ 18.

Xin nêu một số trường hợp sau.

- Bia Nguyễn Cảnh tộc bi kí tại xã Đô Lương huyện Anh Sơn (Nghệ Tĩnh), có thác bản số 2636, mang niên đại Cảnh Hưng 7 năm Ất Mùi. Đây là bia nhà thờ họ Nguyễn Cảnh, được gia công tỉ mỉ. Trên trán bia, được trang trí hình chữ “thọ”, xen kẽ với hoa văn lá. Trong văn bản có chữ “bản tỉnh”, đơn vị hành chính thời Nguyễn và “bản tỉnh Bố chánh sứ” - một thuật ngữ rất quen dùng ở thời Pháp thuộc. Hơn nữa chữ “Cảnh Hưng” có tự dạng hoàn toàn khác với các chữ trên bia. Trên thực tế, năm Ất Mùi không phải là năm Cảnh Hưng 7. Giai đoạn cuối thời Nguyễn, năm Ất Mùi thuộc niên hiệu Thành Thái 7, năm Ất Mùi (1815) là niên đại của bia.

- Bản Án sát Hồ Trọng Quỳnh bi kí số kí hiệu 2826 - 2827 có niên đại Cảnh Hưng 9 năm Bính Thìn. Đây là bia từ đường họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh). Trán bia trang trí mặt hổ phù với hoa văn lá. Diềm bia không có dây leo, hoa lá mà chỉ là hai ngọn lá vươn dài ra hai đầu từ trung tâm. Phong cách này gặp nhiều trên bia thời Nguyễn. Trong văn bản có chữ “Hà Nội Án sát sứ” - một thuật ngữ mới có ở thời pháp thuộc và chữ “bạch duyên tiền” - loại tiền được sử dụng ở giai đoạn cuối thời Nguyễn. Và thực tế năm Bính Thìn khôn gphải là năm Cảnh Hưng 9 mà là năm Duy Tân 9. Duy Tân 9, Bính Thìn (1916) mới là niên đại của bia.

- Tương tự như vậy, bản Hậu thần bi kí số kí hiệu 1095 có niên đại Cảnh Hưng 27 cũng là giả. Đây là bia hậu ở đình Quan Nhân huyện Thanh Trì (Hà Nội). Bia nhỏ được trang trí hoa văn chữ thọ và lá như bia Nguyễn Cảnh trên. Trong văn bản có một số chữ bị xóa, có lẽ là đơn vị hành chính tỉnh (Hà Nội tỉnh). Nhưng vẫn còn chữ “Tú tài” thuật ngữ mới có từ đời Minh Mệnh triều Nguyễn. Hai chữ “Cảnh Hưng” được cắt dán vào; chữ bị thay thế có lẽ là Tự Đức. Tự Đức 27 (1874) có thể là niên đại của bia.

Ở cum 6 gồm 4 bản trong đó có 1 bản Cảnh Thịnh và ba bản Bảo Hưng thuộc thời Tây Sơn.

Xin đơn cử vài ví dụ.

- Bản Trùng tu từ vũ bi kí số 2823 cí niên đại Bảo Hưng nguyên niên năm Kỉ Dậu. Đây là bia Văn chỉ xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh). Bài văn bia nói về việc sửa Văn chỉ xã. Trong văn bản có một số chữ bị xóa, có lẽ là tên niên hiệu nhà Nguyễn. Bên cạnh đó vẫn còn một số chữ “Tú tài”. Hai chữ Bảo Hưng có nét khắc sâu hơn, mập hơn chữ sau. Có lẽ đã được rập ở bia khác vào. Giai đoạn cuối thời Nguyễn, năm Kỉ Sửu là năm Thành Thái nguyên niên (1889). Đó là niên đại thật của bia.

- Một bia khác Nguyễn tộc thế đức bi kí, tại xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì (Hà Nội), có thác bản số 1191 - 1192 mang niên đại Cảnh Thịnh 7 năm Ất Tỵ. Trên bia được trang trí hình rồng và hoa văn lá mang phong cách thời Nguyễn. Trong văn bản có chữ “cửu” viết dạng chữ đơn không húy; chữ “thời” đã viết thành “thìn” để tránh húy vua Tự Đức. Rõ ràng niên đại bia thuộc thời Nguyễn ở giai đoạn sau Tự Đức. Sau Tự Đức, năm Ất Tỵ là năm Thành Thái thứ 7 (1905). Đó là niên đại thật của bia.

Trên đây là một số trường hợp giả niên đại trên thác bản bia tại kho bia của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sự giả mạo này khá phức tạp bởi nó xảy ra trên nhiều loại bia khác nhau và ở không riêng một địa phương nào. Người làm giả này hầu hết là những ông đồ có học. Họ cố ý xóa bỏ hoặc thay đổi những chứng cứ của niên đại cũ. Do vậy, việc phát hiện sự giả mạo đó thật không dễ dàng. Những trường hợp nêu trên chỉ là đơn cử trên một trăm thác bản giả. Ngay hơn 100 thác bản có niên đại giả đó cũng chưa phải là con số cuối cùng. Tuy nhiên, dựa trên đặc trưng trang trí và đặc trưng văn bản trên bia, chúng ta vẫn có thể phát hiện được sự giả mạo đó và truy tìm được niên đại thật của chúng.

CHÚ THÍCH

(1) Kho thác bản văn bia này do Trương Viễn đông Bác cổ thuê rập về. Sau này được bổ sung thêm một số thác bản mớ… do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức rập.

(2) Theo chúng tôi biêt, trước đây, Trường Viễn đông Bác cổ có trả một giá cao hơn cho những thác bản bia cổ (bia từ Nhà Lê trở về trước). Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc cố ý là “cổ hóa” văn bản bia.

(3) Trần Lâm Biền: Quanh ngôi đình làng - Lịch sử. Nghiên cứu nghệ thuật, số 4 tháng 7 - 8 năm 1983, tr. 39

(4) Nguyễn Du Chi: Nghệ thuật trang trí trên các bia Tiến sĩ thời Lê ở Văn Miếu Hà Nội. Tạp chí Khảo cổ học số 5 - 6 năm 1970, tr. 123.

(5) Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỉ, KHXH, Hà Nội, 1964, tr.25

(6) Năm Tân Tỵ (1461) ban chữ húy: Thái Tổ húy Lợi, cung từ húy Trần, Thái tôn húy Long, tên vua hiện nay húy Thành (Lê Thánh Tông) “Đại Việt sử kí toàn thư Tập 3, KHXH, Hà Nội, 1972, tr. 179”. “Tân” là chữ húy Lê Kính Tông (1600 - 1619).

(7) “Cửu” chưa rõ húy ai, xuất hiện từ đầu thế kỉ 17 đến cuối 18. .

(8) Bia thế kỉ 17 có mặt nguyệt thường rất to và có cỡ 3 hoặc 5 tua mây hình lưỡi mác. Rồng đuôi có đường viền răng cưa.

(9) Phương Anh - Thanh Hương: Hà Bắc ngàn năm văn hiến; tập 2, Hà Bắc, 1976, tr. 39.

(10) Năm Minh Mệnh 6 (1825) định lệ thi Hương, người đỗ hạng ưu gọi Cử nhân, hạng vừa gọi Tú tài. Đại Nam thực lục chính biên, Sách đã dẫn, trang 73.

TB

"BÀ NGỰA" TRONG QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

CAO HỮU LẠNG

Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có ba tổ hợp từ “bà ngựa”

- Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn (bài số 1)

- Bà ngựa dù lành nào Bá Nhạc (bài số 114)

- Rợ đất khôn cầm bà ngựa dữ (bài số 137)

Bài số 1 và 137, “bà ngựa” thể hiện bằng mã chữ 馭, bài số 114 bằng mã chữ 婆 馭. Cả hai mã chữ này đều đọc là “bà ngựa”.

Qua ý nghĩa của ba bài thơ trên người ta có thể hiểu “bà ngựa” trong những trường hợp này đều có nghĩa tương đương với con ngựa ngày nay. Mặc dù vậy, người ta không khỏi bỡ ngỡ. Khác với “đầu cá”, tuy chỉ xuất hiện một lần trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi “Trong nuôi cá được ngàn đầu” (bài số 154), nhưng người ta dễ chấp nhận, vì tục ngữ có “cá kể đầu, rau kể mớ”.

Trong ca dao và truyện cổ người ta thấy xuất hiện những loại từ: “ông” trong ông voi, “chú” trong chú chuột. “cậu” trong cậu gà, “cái” trong cái cò, còn phần lớn là loại từ con. Bài Lý ngựa ô dân ca Nam Bộ còn giữ được từ “lục lạc” (Lục lạc đồng đen). Lục lạc là từ cổ, nay được thay bằng nhạc. Từ điển Pigneau de Béhaine năm 1772, từ điển của Taberd năm 1877 cho đến tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của sau này đều có ghi được từ lục lạc, nhưng không có “bà ngựa”. “Bà ngưa” đã đưa người ta từ bỡ ngỡ đến băn khoăn. Nhất là từ “bà”. Liệu “bà ngựa” có bao hàm nghĩa chỉ con ngựa đực không?

Lần tìm trong các từ thư và các từ điển cổ, “bà ngựa” vẫn không thấy bóng chim tăm cá. Lâu nay đành mặc nhiên coi đây là trường hợp cá biệt, để chờ tìm thêm những thực chứng... Thì sách Nôm đã giúp ta gỡ mối băn khoăn đó.

Hồng nghĩa giác tư y thư, sách do Thái y viện triều Lê in ra năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717), bài Nam dược Quốc ngữ phú có câu “Xích tiểu đằng là dây răng bà ngựa” và “Mã hành, lấy não bà ngựa”(1).

Như thế, “bà ngựa” tức là con ngựa, mang nghĩa trung tính, có nghĩa bao hàm cả ngựa đực. “Bà ngựa” không phải là trường hợp cá biệt nữa.

“Bà ngựa” xuất hiện trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thế kỉ XV và trong Hồng nghĩa giác tư y thư thế kỉ XVIII. Có lẽ về sau nó đã được thay thế bằng “con ngựa”.

Ngôn ngữ vốn có quy luật đơn giản hóa và loại trừ những trường hợp cá biệt.

“Bà ngựa” có lẽ rơi vào quy luật này(2)

CHÚ THÍCH

(1) Theo bản dịch của sách Hồng nghĩa giác tư y thư, Nxb Y học, Hà Nội, 1978, tr. 41, chú thích “Mã hành: ngọc hành con ngựa, đây giải là não bà ngựa khôn rõ nghĩa”... Có ý kiến cho rằng chữ não (腦) là lầm của chữ nhục (肉) và cức (亟).

(2) Bài viết được sự góp ý của giáo sư Nguyễn Sĩ Lâm, xin ghi lời cảm ơn.

TB

VÀI ĐIỂM BÀN THÊM NHÂN ĐỌC SÁCH CÁC TRẤN TỔNG XÃ DANH BỊ LÃM VÀ BẢN DỊCH

DƯƠNG THÁI MINH

Sách các trấn tổng, xã danh bị lãm(1), là một văn bản viết bằng chữ Hán chữ Nôm, hiện đang bảo tàng tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách đã dịch có nhan đề: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra)(2). Sau thời gian sử dụng bản dịch và tiếp xúc với bản gốc, chúng tôi xin trao đổi với các dịch giả hai ý kiến chính sau đây.

- Một số vấn đề văn bản Bị lãm

- Những ưu điểm và nhược điểm của bản dịch.

I. Một số vấn đề về văn bản bị lãm

Trong bài Bước đầu tìm hiểu văn bản Các trấn, tổng, xã danh bị lãm và Tình trạng sách các trấn, tổng, xã danh bị lãm và công việc phiên âm biên soạn các tác giả Tên làng xã đã bỏ nhiều công sức khám phá ra những giá trị của các nguyên bản. ý kiến của chúng tôi nhìn chung là dựa vào những thành tựu đó mà bàn thêm.

1. Bị lãm với chính sử

Bị lãm là một tập hợp thống kê tỉ mỉ tên các đơn vị hành chính từ trấn, phủ, huyện đến xã, thôn trang, trại và những tên đất cấp tương đương trong một phạm vi rộng từ Nghệ Tĩnh trở ra. Ngoài những tên đất, Bị lãm còn có nhiều dòng chú thích ghi được những chi tiết sống động của xã hội đương thời. Xin nêu một vài dẫn chứng so sánh với Quốc Triều tránh biên toát yếu(3).

a) Về chính sách chể độ đối với làng xã bị phiêu bạt Quốc triều viết: “Năm ất Sửu (1805), tháng 5, chiếu rằng: (...Dân nào lưu tán từ năm)” Nhân Tuất (1082) về trước mà điền thổ đã cho quân lính nhận lĩnh canh rồi thời nay không cho lính cày nữa, phải để đó mà chờ lưu dân trở về cho nó cày, lại tha thuế và tha kén lính, nếu từ năm nay đến năm Đinh mão (1807) lưu dân chưa về, thời điểm điền thổ ấy cho dân làng khác, ai xin lãnh trưng trước thời được, nhưng hễ năm nay vào sổ nhận trưng thời năm sau phải nạp thuế và đi lính; còn dân nào lưu tán từ năm Quý hợi (1803) về sau thời điền thổ hãy cho quan quân cày chờ khi nào dân về sẽ cấp lại, đến như sự nạp thuế và đi lính cũng phải trải qua năm sau khởi hành; không được theo lệ tha cho 3 năm” (tr. 63).

Năm Bính Dần (1806), tháng 7 đối với dân lưu tán có chiếu rằng: “phải chiêu dụ chúng nó về nhà làm ăn, như về tại năm Ất Sửu (1805) hoặc năm Bính Dần (1807) thời thuế từ năm ấy đến năm Kỷ Tỵ đều tha cho cả; nhưng nếu năm Đinh Mão (1807) mới về cũng tha thuế từ năm Đinh Mão đến năm Kỷ Tỵ chớ không cần nệ theo niên hạn mà năm ngoái đã định (tr66)”

Vấn đề nói trên, Bị lãm có hàng trăm làng xã ghi dòng chú viết tên năm Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ. Chẳng hạn như ba xã Giáo Liên, Phú Nhuận, Cầm Đàn thuộc tổng Bản động huyện Lục Ngạn phủ Lạng Giang xứ Kinh Bắc; “Phiêu bạt năm Đinh Mão (1807) năm Kỷ Tỵ” (1809) phục hồi (tr. 76, bản dịch).

b) Về việc lính. Chúng ta đã biết, tháng 6 năm 1892 Gia Long chiếm xong Bắc Hà. Tháng 7 định phép giản binh. Quốc triều viết: “Kinh bắc Hải Dương, Sơn Nam Thượng cứ 7 xuất đinh lựa một tên lính. Tuyên Hưng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thời cứ 10 suất đinh lựa một tên lính...”

Trong Bị lãm không ghi số đinh tất cả các địa phương, nhưng những dòng chú sau đây thuộc những làng xã đã phiêu bạt thể hiện việc kê khai này rất triệt để.ở huyện Đông An phủ Khoái Châu trấn Sơn Nam Thượng có đoạn viết: “Sau đây là 4 xã phiêu bạt chưa thành án, không có người khai vào sổ: xã Ngô Xá đinh cũ là 16, xã Bình Hồ đinh cũ là 87. Xã Triều Cầu đinh cũ là 14” (tr. 52).

Bị lãm viết về châu Văn Uyên, châu thất Tuyền như sau “các trại người nùng phải nộp thuế bạc (tr91, 94)”

Ngoài ra Bị lãm còn lưu ý đến Hoa Kiều: “ở châu Hạ Lạng có 23 phố chợ thuộc các phố khách cổ Lạc, Tĩnh oai, Nà Lợi” (tr.95) và dân tộcl ít người: “Mán, Nùng áo trắng”

Qua những tư liệu trên đây chúng tôi thấy Bị lãm phản ánh rất kịp thời công việc thi hành chính sách cai trị của chính quyền mới. Đó là một đặc điểm nổi bật của Bị lãm.

2. Về tác giả Bị lãm

Theo tác giả Tên làng xã thì: “Bị lãm ” là một loại sách công cụ của chính quyền cấp cao để tiện tra tìm mỗi khi cần đến (tr5). Vấn đề này xin trình bày cụ thể hơn. Dựa vào phạm vi khai báo địa danh là từ đèo Ngang trở ra bắc và mục đích cai trị mà tài liệu thể hiện, chúng tôi nghĩ đến sự ra đời của các sách làm theo lệnh của Gia Long, nhưng điều này Quốc triều không thấy ghi Quốc triều chỉ viết Gia Long giao cho Binh bộ thượng thư Lê Quang Định biên soạn Nhất thống địa dư chí mà thôi.

Tác giả của Bị lãm, theo chúng tôi, có thể là Tổng chấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành. Theo dõi trong Quốc triều thì những sự kiện đã nêu ở trên phần lớn là những ý kiến tâu trình của quan Tổng trấn được Gia Long đồng ý. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ, Văn Thành không thể không có những tài liệu cần thiết trong tay. Xét về mặt quyền lực mà nói thì ngoài vua ra, chỉ có lệnh của quan tổng trấn mới sai khiến được các quan trấn địa phương Bắc Thành.

Ở đây có một mắc mớ là Bị lãm ghi chép cả trấn Thanh Hoá và Nghệ An, đó là hai trấn ngoài tầm tay của Tổng trấn Bắc Thành. Để giải quyết điều băn khoăn này, trước hết, ta có thể tìm hiểu tình hình địa lý hành chính và quan hệ các trấn ở Đàng ngoài.

Đất nước Việt Nam qua các đời cho biết: “sau khi thắng đựơc nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn (...) đặt Bắc Thành thống nhiếp các trấn ở miền Bắc và Gia Định Thành thống nhiếp các trấn ở miền nam.Tại miền Trung, xung quanh kinh đô thì đặt 4 dinh trực lệ là dinh Quảng Đức, dinh Quảng Trị, đinh Quảng Bình, dinh Quảng Nam.... phía bắc Quảng Bình là các trấn Nghệ An và Thanh Hoá....”(4). Sự phân chia trên ở đầu đợi Nguyễn chưa phát huy hết hiệu lực. Trong thực tế theo Quốc triều ghi chép thì sự chia biệt giữa 2 khu vực Đàng Trong, Đàng Ngoài vẫn còn khá rõ nét. Xin trích vài dòng trong hàng trăm dòng ở Quốc triều để làm chứng: “Năm 1803, tháng giêng, làm phép duyệt tuyển từ Quảng Bình trở vào” (tr53) “tháng 2, giảm thuế điền năm ấy cho các trấn từ Nghệ An trở ra Bắc Thành” - (tr54)vv... Ngược lại, quan Tổng trấn Bắc Thành cũng có lần tâu lên vượt ra ngoài lãnh địa của mình. Chẳng hạn trong tờ tâu năm 1810, Nguyễn Văn Thành viết: năm trấn phía trong Bắc Thành đã bỏ sổ thường hành(5) rồi còn 6 trấn phía ngoài và trấn Thanh trấn Nghệ chưa bỏ sổ thường hành; nay xin sửa lại y như một. Sớ dâng lên, Ngài giao Đình thần bàn, để thi hành” (tr76). Quốc triều còn ghi nhiều lần Tổng trân Bắc Thành khi kinh lược Thanh Nghệ như năm Minh Mệnh 5 (1824): “Khiến Tổng trấn Bắc Thành là Lê Chất thống lãnh 4 vệ lính Kinh đi Kinh lược các địa phương ở Thanh Nghệ” (tr.125)

Như vậy thì trong việc xây dựng Bị lãm quan Tổng trấn có thể yêu cầu quan trấn Thanh Hoa, Nghệ An phối hợp mà không bị chối từ. Hai là các hiện tượng các trấn Thanh, Nghệ chỉ được ghi chép sơ lược. Trong bài Bước đầu tìm hiểu văn bản sách Các trấn tổng, xã danh bị lãm, ông Lê Hiệu trình bày ba bản so sánh giữa A. 570 với Lịch triều hiến chương loại chí ở trấn Sơn Tây và Hải Dương. Riêng ở trấn Nghệ An thì còn so sánh thiêm với Nghệ An ký nữa. Kết quả hai trấn trên còn có so sánh thêm với Nghệ An ký nữa..kết quả hai trấn trên có những số liệu khá gần nhau. Còn Nghệ An thì theo ông Lê Hiệu, “A570 bỏ sót mất 4 phủ miền núi Nghệ An là Quỳ Châu, Ngọc Ma, Lâm An, Trấn Tĩnh gồm tất cả 11 huyện, 134 xã không rõ lý do” (tr16). Theo chúng tôi có lẽ vì trấn Nghệ An không trực thuộc

Bắc Thành nên đã dẫn đến sai sót trên. Trong Bị lãm còn thấy nhiều trấn ghi cụ thể niên đại làng xã phiêu bạt và có một sổ bổ sung bằng chú thích. ở phần Thanh Nghệ thì chép chung chung và không có dòng bổ sung bằng chú thích. Hiện tượng đó cũng là do quan hệ lỏng lẻo trên mà ra. Vì vậy việc ghi chép về Thanh Nghệ không được chi tiết và đầy đủ bằng phần ghi chép về Bắc Thành.

Từ những điều phân tích trên, có thể nghĩ sự có mặt của hai trấn Thanh, Nghệ trong Bị lãm là một phụ lục.

Như vậy thì Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành là người chủ trương xây dựng Bị lãm. Vai trò của Văn Thành trong Bị lãm có thể so sánh với vai trò của Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất trong Bắc Thành Chí lược(6) ra đời sau Bị lãm ít lâu.

3. Quá trình hình thành Bị lãm

Vể vấn đề này các dịch giả đã “ngờ rằng... nguồn gốc của nó có thể là từ những bản kê khai của các trấn, xứ, đạo, tập hợp lại” (tr5) chúng tôi hoàn toàn tán thành nhận xét này. Bởi vì đã có những tiền lệ như thế trong lịch sử.

Gần đây nhất, từ năm 1931 đến 1935, Ngô Vi Liễn lần lượt được bổ làm tri huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), Quỳnh Côi (Thái Bình). Bình Lục (Hà Nam). Tại những nơi đó, ông đã biên soạn 3 cuốn địa dư cấp huyện(7), với nội dung gồm các phần như sau: “Vị trí, diện tích, sông ngòi, dân số, thôn giáp, canh phòng, thuế ngạch, canh nông kỹ nghệ thương mại, đê đường, cầu cống, việc học, việc hộ sinh, danh lam thắng cảnh, danh nhân, phong dao, tục ngữ, đình chùa, sự tích thần cùng câu đối hoành phi. Sức về các xã cứ những mục hỏi ấy, lấy sự thực mà trả lời.... rồi lại nhân những lúc đi kinh lý, hỏi thêm và tra cứu các sách khác, bổ sung vào (Địa dư huyện Cẩm Giàng- Nhời nói đầu). Trước đó nữa, cũng của Ngô Vi Liễn, là cuốn Nomemclaturedes communes di Tonkin)(8). Những tư liệu dùng để viết cuốn này là dựa vào những bản kê khai trong cuộc điều tra dân số năm 1927. Thời gian này soạn giả làm Tham tá Sở Lưu trữ và Thư Viện Đông Dương nên có điều kiện đọc được các tài liệu nói trên.

Trong quá khứ xa hơn, có cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi. ông Lê Xuân Diệm trong bài Nguyễn Trãi với dư địa chí(9) đã dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, chứng minh Nguyễn Trãi nhờ vào những kết quả của công cuộc tổng điều tra thiên nhiên và xã hội vào những năm Đinh Mùi (1427), Mậu Thân (1428)... đến năm Quý Sửu (1433) để đúc kết nên một tác phẩm nổi tiếng chỉ mất 10 ngày trong năm 1435.

Đồng thời với Bị lãm, là Nhất thống chí tác giả Lê Quang Định nói đến việc lấy tài liệu là: “sức cho quan trấn từng nơi... ” (bài tựa).

Xin trở về Bị lãm. Theo những dòng chú thích thì lớp lang của cuộc điều tra là lấy làng xã làm cơ sở. Làng xã chuyển tài liệu lên huyện. Huyện tổng hợp, bổ sung rồi đưa lên phủ. Cứ như thế mà tới dinh tổng trấn. So sánh nội dung những dòng chú thích trong Bị lãm với Quốc triều thì quan Tổng trấn đã nhiều lần tổ chức điều tra từng mặt riêng biệt.

Để phục vụ chính sách cai trị giải quyết những vấn đề trước mắt Nguyễn Văn Thành cho thư lại chép toàn bộ tên làng xã theo hệ thống thông thuộc và chỉ ghi chú những trường hợp đặc biệt để dễ theo dõi Bị lãm là bản trích lục những tài liệu điều tra thành sách.

4. Thời gian Bị lãm ra đời.

Về thời gian biên soạn sách Bị lãm, trước nay đã có không ít người đề cập tới. Lần thứ nhất, một người nào đó đã ghi vào nguyên bản sách Bị lãm bốn chữ bằng mực xanh: “Minh Mệnh dĩ tiền” ý nói thời gian Bị lãm ra đời là từ Minh Mệnh trở về trước. Lần thứ hai, Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm viết: “ Bị lãm chỉ là một bản thống kê các tên địa lý, thời đầu thế kỷ XIX, trong sách có ghi sách làm năm Gia Long (1807), nhưng trong nội dung ta thấy một số tên mới xuất hiện thời Minh Mạng (sau năm 1820)(10). Lần thứ 3 cụ Trần Huy Bá, ông Nguyễn Vinh phúc trong Đường phố Hà Nội(11) khi nhắc đến sách Bị lãm có viết dòng chú ngắn gọn: “soạn năm 1807” (tr515). Lần thứ tư các tác giả Tên làng xã, chủ yếu là ông Lê Hiệu đã dùng nhiều đã dựa vào năm Đinh Mão (1807) Mậu Thìn (1808) kỷ tỵ (1809) là những năm Bị lãm ghi một số địa phương có biến động để khẳng định cụ thể văn bản Bị lãm phải viết sau những năm đó, từ 1810 đến 1813.

Chúng tôi đồng ý sách ra đời ở thời Gia Long, chỉ trao đổi thêm về năm biên soạn sách.Đọc lại nguyên bản những dòng chú có ghi năm kể trên ở sách Bị lãm, chúng tôi phân biệt được có hai thứ chữ, hai cách trình bày.

- Những trang 1a, 19a, 29a, 31a, 39b... (Phần Hải Dương) dòng phụ chú viết đúng quy định theo truyền thống chữ nhỏ hơn lệch về bên phải, nét chữ và màu mực đều hoàn toàn giống với chính văn Đáng lưu ý là ở đây chỉ xuất hiện những biến động thuộc năm Đinh Mão dấu hiệu đó khẳng định sách được biên soạn sau năm Đinh Mão, tức từ khoảng từ Mậu Thìn (1008) trở đi.

- Những trang 8a, 9a, 11b, 12a, (phần kinh bắc) thì dòng chú chen vào giữa hai dòng chính văn. Nét chữ, màu mực có khác đặc biệt là chỉ ở những dòng chú này mới xuất hiện liền hai hoặc ba trong số 3 tên năm Đinh Mão, Mậu thìn, Kỷ tỵ (đôi khi có trở lại một năm Đinh Mão). Những điểm khác nhau đó chứng tỏ sách được bổ sung sau năm Kỷ Tỵ tức là từ năm 1810 trở đi.

Vì sao quan Tổng trấn lại lấy năm Đinh Mão để chỉ đạo bước thứ nhất việc điều tra? ở phần so sánh Bị lãm với chính sử chúng tôi đã trích chiếu của Gia Long. Xin nhấn mạnh lại những chỗ cần thiết. Năm ấT sửu (1805): “Nừu từ năm nay đến năm Đinh Mão (1807) lưu dân chưa về thời điểm thổ ấy cho dân làng khác”. Tờ chiếu năm Bính Dần (1806) lại viết “... nhưng đến năm Đinh Mão mới về cũng tha thuế từ năm Đinh Mão đến năm Kỷ tỵ...” Như vậy dùng năm Đinh Mão làm mốc là hợp lý và sau năm Kỷ Tỵ sách lại được bổ sung cũng là hợp lý và sau năm Kỷ Tỵ sách lại được bổ sung cũng là thực hiện theo chiếu lệnh của nhà vua (sau năm Kỷ Tỵ Quốc triều không nói về vấn đề này nữa Bị lãm cũng không ghi thêm nữa).

Chúng tôi cho công việc biên soạn bắt đầu từ năm 1808 và hoàn thành trong năm đó vì ba lẽ:

1. Theo đúng tinh thần của chiếu lệnh, các địa phương phải lấy số liệu cho hết năm Đinh Mão mới được gửi tờ trình lên.

2. Tờ trình gửi lên theo thứ bậc mất vài tháng là nhiều.

3. Phần chính trong bị lãm ít nhất cũng có hai người viết, Toàn bộ số chữ của văn bản khoảng 3 vạn, việc ghi chép mất một hai tháng là cùng

Thời gian kể trên nếu so với nguyễn Trãi viết Dư địa chí mất 10 ngày thì đã nhiều. Nếu cộng cả thời gian điều tra thì Bị lãm có thê so sánh với Nhất thống địa dư chí của Lê Quang Định Tháng 11 năm 1803 nhận lệnh, tháng 11 năm 1806 hoàn thành, trong 1808 nhận lệnh, tháng 11 năm 1806 hoàn thành, đúng 3 năm còn Bị lãm bất đầu điều tra là tháng 5 năm 1805, hoàn thành trong 1808 là khoảng thời gian hợp lý. Sách đến tay chúng ta còn trải qua lần bổ sung về những diễn biến mới của làng xã phiêu bạt đến năm 1810 và một vài tên đất đổi thay ở thời Minh Mệnh.

Tóm lại, Bị lãm là cuốn sổ tay cai trị của quan tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành. Sách đã gói ghém những vấn đề của xã hội, lịch sử...một cách chi tiết cụ thể ở trong những dòng tên làng xã vào những năm đầu của đời Gia Long.

II. Những ưu điểm và nhược điểm của bản dịch

Về bản Tiếng Việt tên làng, xã chia ra làm 2 phần lớn:

Phần thứ nhất (thống kê các tên gọi từng địa phương) gồm những chữ đã được phiên âm và sắp xếp theo đúng trật tự của bản gốc. Phiên âm tên đất (hoặc tên riêng) khó có chỗ không có văn cảnh để mà suy sét những chữ hán nhiều cách đọc và cách đọc một số âm Nôm. Đúng như dịch giả đã thổ lộ: “Đọc thể nào thật khó giám định” (tr9) và tự nhận xét: “chúng tôi chưa có điều kiện đi đến từng địa phương khảo cứu các tên gọi trong sách có đúng với thực tế không. Đặc biệt các trấn và các xứ miền núi tên gọi ghi theo chữ Hán và chữ Nôm, rất khó phiên âm” (tr9). Cần nhấn mạnh thêm là nhiều địa danh đặc biệt địa danh vùng dân tộc ít người ghi bằng chữ Hán, Nôm thường phải dùng âm gần đúng. Chẳng hạn âm Mèn phải ghi thay bằng chữ Miên, âm Quạng phải ghi thay bằng chữ Quang. Gặp những chữ này, nếu cứ phiên, nếu cứ phiên đúng theo nguyên bản thì đã là sai so với thực tế. Để khắc phục hoàn cảnh không đi được thực địa các tác giả đi hỏi những người hiểu biết ở gần. Nhiều chữ đã phiên đúng, như chữ? đọc là Khuổi chữ? đọc là Xối.

Tài liệu tham khảo để phiên âm Bị lãm có thể nói không nhiều và ít hiệu quả, vì những sách chữ Hán khác không giúp được cho công việc phiên âm; những sách Việt phiên từ chữ Hán ra cũng chưa phải là chuẩn. Trong bốn quyển sách của Ngô Vi Liễn nói trên kia, thì quyển Tên làng xã Bắc Kỳ có lẽ được tác giả tên làng xã tham khảo nhiều nhất.

Rất tiếc quyển tên làng xã Băc kỳ phần lớn cũng chỉ là bản phiên âm từ những bản khai bằng chữ Hán Nôm nên số lượng sai cũng nhiều. Trong 3 cuốn sau, Ngô Vi Liễn trực tiếp điều tra biên soạn đã sửa được một số.Thí dụ ở huỵên Cẩm Giàng đã chữa Tràng Kinh là Tràng Kênh, Hàn Giang là Hàn Giàng, Đàm Lộc là Điềm Lộc. ở huyện Quỳnh Côi: Tang Thác là Tang Giá, Tiên Bố là Tiên Bá. Cùng loại sách biên soạn có kết hợp với điều tra trực tiếp ở điạ phương, còn có thể kể đến Hưng yên địa chí(12) Bắc Giang địa chí(13) của Trịnh Như Tấn... Những sách này nếu dịch giả Bị lãm biết tới, chắc chắn sẽ tránh được một số sai sót.

Phần thứ 2, sách trình bày theo vần chữ cái, tất cả các tên đất đã được phiên âm. Sau mỗi tên đất có ghi quy mô và địa điểm. Chẳng hạn “Đào Xá (xã): Tổng Hạ Bì, huyện Bất Bạt, phủ Quốc oai, trấn Sơn Tây”. Phần này theo chúng tôi nếu xử lý như một sách dẫn bình thường thì vừa đơn giản, vừa tiện sử dụng, vừa tiết kiệm được giấy. Cụ thể sau mỗi tên đất chỉ cần ghi số trang mà nó xuất hiện ở phần một và tên đất cấp trên của nó là đủ. Chẳng hạn “Đông Quan (huyện): trang 65 tỉnh Thái Bình” “Điệp Sơn (xã): Trang 55, huyện Duy Tiên, tổng Hồng Khê”... Làn như vậy còn giúp cho người tra cứu tìm ngược lên phần một để tìm những tên đất khác trong một tổng, một huyện... được nhanh chóng.

Nhìn chung bản dịch có mấy ưu điểm:

Thứ nhất: Dịch giả đã chọn được một số văn bản giá trị nhiều mặt.

Thứ hai: Bổ sung được một số tên đất mà Bị lãm sót.

Thứ ba: Có in chữ Hán kèm theo để người đọc tiện tham khảo.

Về nhược điểm:

Thứ nhất: chưa điều tra được thực địa, nên còn một số cơ suất khi phiên âm các địa danh.

Thứ hai: Phần biên soạn sắp xếp còn chưa kỹ. Giá còn phần tra cứu theo hình chữ thì rất tốt.

Dẫu sao thì Tên làng xã ra đời cũng đã được giới thiệu thêm được một khía cạnh phong phú của kho sách Hán Nôm: loại sách biên khảo Không cầu toàn, những sách này chỉ cần phiên dịch và làm sách dẫn cho tốt là nhất định sẽ góp phần vào việc dùng văn bản để giải quyết văn bản, đáp ứng nhu cầu tra cứu nhiều mặt của chúng ta hiện nay.

CHÚ THÍCH

(1) Các trấn tổng xã danh bị lãm, ký hiệu A. 570, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ đây trở xuống chúng tôi viết tắt là Bị lãm.

(2) Dương thị The, Phạm Thị Thoa dịch, biên soạn (ông Lê Hiệu tham gia bài khảo cứu, Bước đầu hiểu văn bản sách các trấn, tổng, xã danh bị lãm). Nxb KHXH, H., 1981. Từ đây trở xuống chúng tôi viêt tắt là Tên làng xã.

(3) Nhóm nghiên cứu Sử địa xuất bản, Sài Gòn 1971, (Theo bản dịch năm 1925). Từ đây trở xuống chúng tôi viết tắt là Quốc triều.

(4) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Khoa học Hà Nội, 1964.

(5) Sổ đinh nhà Lê thời người sinh thâm không kể, người chết rồi không trừ, cho nên gọi là sổ thường hành. Lời chú của người dịch.

(6) Bắc Thành chí lược còn có tên là Bắc Thành địa dư lục. Sách này có bài tựa do Nguyễn Văn Lý viết, có đoạn như sau: “... Còn sách Bắc Thành chí lược này, mới có trong niên hiệu Minh Mệnh (1820 - 1840) triều ta, từ thời quan Tổng trấn Lê Chất làm quan ở Thăng Long, họp các nhà nho lại mà làm ra...”. Sách Lược truyện các tác gia Việt Nam do Trần Văn Giáp chủ biên (Nxb KHXH, H., 1971) ghi nhận Lê Chất là một tác giả.

(7) Địa dư huyện Cẩm Giàng, Lê Văn Tân, H., 1931.

Địa dư huyện Quýnh Côi, Lê Văn Tân, H., 1933

Địa dư huyện Bình Lục, Lê Văn Tân, H., 1935

(8) Nhà in Lê Văn Tân, H.,1928. Chúng tôi dịch là Tên làng xã Bắc Kỳ. Từ đây trở xuống, chúng tôi dùng theo tên dịch này.

(9) Kỷ niệm lần thứ 600 ngày sinh Nguyễn Trãi. Tham luận hội nghị khoa học về Nguyễn Trãi tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7 năm 1980. Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hò Chí Minh xuất bản, 1980.

(10) Thư viện Quốc gia xuất bản, H., 1970, tr. 345.

(11) Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, 1979.

(12) Nhà in Ngô Tử Hạ Hà Nội, 1934.

(13) Nhà in Ngô Tử Hạ Hà Nội, 1937.

TB

MỘT BẢN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC IN
NĂM 1712 VỪA TÌM THẤY

TRẦN NGHĨA

Vào cuối năm 1984, nhân dịp đi công tác tại Pháp, với sự giúp đỡ của nhà nghiên cứu Hán Nôm Tạ Trọng Hiệp và nhà sưu tầm khảo tiểu thuyết cổ phương Đông Trần Khánh Hạo chúng tôi có được một bản in ảnh bộ Truyền Kỳ mạn lục “cựu biên” (từ đây trở xuống gọi tăt là Cựu Biên TKML) của Nguyễn Dữ, do Nguyễn Tự Tín ở phường sách Hồng Lục khắc in năm Vĩnh Thịnh tám (1712). Bản gốc hiện để tại Đông Dương văn khố Tokyo, Nhật Bản(1).

Sau đây là những điểm đáng chú ý về cách trình bày, bài tựa và chính văn của sách TKML mới tìm thấy.

Về cách trình bày của Cựu Biên TKML

Những mới mẻ do Cựu Biên TKML mang lại cho chúng ta, trước hết là ở cách trình bày. KML mới tìm thấy 4 quyển. Quyển một 49 tờ, 97 trang có chữ; Quyển hai 47 tờ 94 trang có chữ; quyển ba 47 tờ, 93 trang có chữ, Quyển bốn 41 tờ, 82 trang có chữ. Nừu tính cả phần phụ ở đầu sách gồm bìa trong 1 tờ 2 trang, bài tựa 1 tờ 2 trang, mục lục 1 tờ 2 trang, thì ấn phẩm có độ dày tổng cộng là 187 tờ, 372 trang có chữ

Ở trang đầu tờ bìa trong, ngay giữa trang, từ trên xuống có 4 chữ “Truyền kỳ mạn lục” khắc nổi viền, đây là tên sách do chính Nguyễn Dữ đặt. Góc trên bên phải, từ trên xuống, có dòng chữ “Loại am hội chú bản”, cho biết đây là bản do Loại Am tập hợp các chú thích của nhiều người về TKML của Nguyễn Dữ. Liền ngay dưới các chữ “Loại Am hội chú bản”, có hai dấu ấn hình chữ triện trong đó có một dấu ấn tên là người hội chú. Góc dưới bên trái, từ trên xuống, có dòng chữ “thư phường Hồng Lục Nguyễn Tự Tín tiêm tử”, chỉ báo nơi in sách là Thư phường Hồng Lục, và người tổ chức khắc in là Nguyễn Tự Tín(2).

Ở trang 2 tờ bìa trong, ngay giữa trang, từ trên xuống có dòng chữ “Vĩnh Thịnh vạn vạn niên chi bát tuế tại thìn nguyệt tại như cốc đán san hành”(3), nói lên năm in và phát hành ấn phẩm. “Vĩnh Thịnh vạn vạn niên chi bát” tức 1712, đây là một bản in có niên đại sớm hơn tất cả các bản in TKML trong nước hiện biết đến nửa thế kỷ(4).

Tiếp sau tờ bìa trong là phần tựa của sách, mang tiêu đề “cựa biên truyền kỳ mạn lục tự”. Bài tựa do Đại An Hà Thiện Hán soạn, Hậu học Tùng Châu Nguyễn Lập Phu tiên. Cuối bài tựa có ghi những chữ “Cựu Biên TKML” tự tất. Cho biết bài tựa đến đây kết thúc(5).

Kế tới là phần mục lục, ghi rõ tên các tác phẩm in trong từng quyển. Quyển một có Hạng Vương từ ký, Khoái Châu nghĩa phu truyện, Mộc miên thụ truyện, Trà Đồng giáng đản lục, Tây Viên kỳ ngộ ký. Quyển 2 có Long đình đối tục lục, Đào Thị nghệp oan ký, Tản Viên từ Phán sự lục, Từ thức tiên hôn lục. Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục. Quyển 3 có Xương Giang yêu quái lục, Na Sơn tiểu đối lục; Đông Triều phế tự truyện, Thuý Tiên truỵên, Đà Giang da ẩm ký. Quyển 4 có Nam Xương nữ tử lục, Lý Tướng quân truyện, lệ Nương truyện, Kim Hoa thi thoại ký, Dạ xoa bộ soái lục. Như vậy mỗi quyển có 5 truyện (hoặc lục, hoặc ký); toàn bộ sách có 20 truyện tất cả. Cuối mục lục có ghi những chữ “Mục lục tất”, cho biết bản mục lục đến đây là hết.

Sau phần phụ ở phần đầu sách trên đây, là phần chính văn, tức nội dung chủ yếu Cựu Biên TKML. Khác với phần tựa mỗi trang 7 dòng, mỗi dòng 17 chữ, phần chính văn mỗi trang 9 dòng mỗi dòng thường có từ 18 đến 19 chữ lớn nhỏ không kể trường hợp có 2 hàng chữ nhỏ trong một dòng). Chữ lớn là nguyên văn TKML của Nguyễn Dữ, chữ nhỏ là cước chú của nhiều người khác, in thành 2 hàng trong một dòng. Cuối mỗi truyện (trừ Kim Hoa thi thoại ký) đều có lời bình tác giả, khởi đầu bằng hai chữ “Ô hô” (than ôi) Cuối mỗi quyển đều có dòng chữ “Truyền kỳ mạn lục quyển chi chung” đánh dấu quyển ấy đến trang ấy là chấm dứt.

Cựu Biên TKML không có phần dịch nghĩa bằng chữ Nôm như ở các bộ tân biên TKML.

Về bài tựa của Cựu biên TKML mang lại cho chúng ta

Những mới mẻ do Cựu Biên TKML mang lại cho chúng ta còn ở bài tựa. Nguyên văn chữ Hán của bài tựa như sau:

Phiên âm: “Cựu biên TKML tự”

Kỳ lục nãi Hồng Châu chi Gia Phúc nhân Nguyễn Dữ sở trứ (Dữ, di lữ thiết, hải trung châu thương thạch sơn giã). Công tiền triều tiến sĩ Tường phiêu chi trưởng tử giã (công Chúng Hồng Đức nhị thập thất miên Bính Thìn khoa Tiến sĩ, sĩ chí thượng thư). Thiếu cù vu học, bác lãm cường kí, dục dĩ văn chương thế kỳ gia, Việt lĩnh hương tiến, luỹ trúng hội thí trường, Tể vu Thạch Tường huyện, tài đắc nhất niệm, từ ấp dưỡng mẫu dĩ toàn hiếu đạo, tức bất thành thị phàm kỷ dư sương, ư thị bút thư lục dĩ ngụ ý yên. Quan kỳ văn từ, bất xuất Tông Cát phiên ly chi ngoại (cù Tông Cát trứ Tiển đăng tân thoại) nhiên hữu cảnh giới giả, hữu quy châm giả, hữu quy châm giả, kỳ quan ư thế giáo khí tiểu bổ văn.

Thời (cổ “thời ” tự) Vĩnh Định sơ niên (Nguỵ Mạc niên hiệu), thu thất nguyệt cốc nhật. Đại An Hà Thiện Hán cẩn chí.

Hậu học Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên.

Cựu biên Truyền kỳ mạn lục tự tất”.

Dịch nghĩa:

“Bài tựa Truyền kỳ mạn lục (theo bản cũ)

Sách {truyền kỳ mạn lục}(6) này do Nguyễn Dữ người Gia Phúc, Hồng Châu(7) soạn, (Dữ đọc di lữ thiết có nghĩa là hòn núi đá nhô lên trên bãi cát giữa biển)(8). ông là người con trai cả của cụ Tiến Sĩ triều trước Tương Phiêu, cụ này đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn, năm Hồng Đức hai mươi bảy, 1496, làm quan đến chức Thượng thư). Thuở nhỏ {Nguyễn Dữ} học hành chăm chỉ, đọc rộng nhớ dai, muốn lấy văn chương nối nghiệp nhà, vượt Đỗ Hương tiến(9), nhiều lần trúng thi hội, làm tri huyện Thanh Tuyền. Nhưng mới được 1 năm thì ông từ bỏ huyện đường {về nhà} nuôi mẹ để làm tròn đạo hiếu, chân không bén mảng(10) tới chốn thành thị đã ngoài mấy sương, Thế rồi ông viết sách {Truyền kỳ mạn lục} này để gửi gắm tâm sự. Xem lời văn, thấy không ra ngoài phiên dậu Tông Cát (Cù Tông Cát có soạn cuốn Tiểu đăng tân thoại). Tuy nhiên, sách Cựu biên TKML có nhiều {hàm ý} nhắc nhở, răn khuyên, tác dụng giáo dục đối với xã hội hẳn không phải là nhỏ!

Hôm nay (chữ “thời”) viết theo dạng cổ là ngày lành tháng Bảy, tiết thu, năm Vĩnh Định sơ niên (niên hiệu của nhà Nguỵ Mạc)(11). Hà Thiện Hán người huyện Đại An kính cẩn đề tựa.

Kẻ hậu học Nguyễn Lập Phu, người Tùng Châu biên tập. Bài tựa “Truyền kỳ mạn lục” (theo bản cũ) đến đây là hết.

Bài tựa trên đây cung cấp cho nhiều hiểu biết quan trọng. Trước hết, hãy chú ý đến hai chữ “Cựu biên” trong “cựu biên Truyền kỳ mạn lục”. Nói “cựu biên”, không gì khác hơn là nhằm phân biệt với “tân biên”. Phải chăng lúc này, khi Nguyễn Lập Phu (tức Loại Am?) tiến hành biên tập lại bộ TKML để đưa in vào năm 1712, bên cạnh bản cũ của Nguyễn Dữ, còn có một bản mới, bản “tân biên TKML” do một người nào đấy soạn thảo? Ta có thể nghĩ đến Đại Hưng Hầu Nguyễn Thế Nghi, nhân vật sống cùng thời với Mạc Đăng Dung, đã “diễn nghĩa sách truyền kỳ”, lời văn cực đẹp (diễn truyền kỳ truyện nghĩa, văn tự tù mỹ) như lời ghi chép trong Công dư tiệp kí(12). Nếu điều phỏng đoán trên đây là gần với sự thật, thì trong các bản Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (từ đây trở xuống viết tắt là Tân Biên TKML) hiện có(13), phần “giải âm” hoặc diễn nghĩa tức dịch ra văn Nôm là của Nguyễn Thể Nghi đến bản dịch khả tiếp cận ngày nay có gì thay đổi không, đó là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Thứ hai là vấn đề soạn niên tác phẩm TKML của Nguyễn Dữ cũng như dịch phẩm TKML của Nguyễn Thế Nghi. Từ trước tới nay khi đề cập đến tác phẩm TKML, chưa một nguồn tư liệu nào cho biết đích xác năm ra đời của bộ sách. Nhưng nếu bằng vào bài tựa trên đây, có thể kết luận rằng TKML thành sách trước Vĩnh Định sơ niên là năm Nguyễn Dữ đưa tác phẩm của mình cho Hà Thiện Hán đề tựa. Và dịch phẩm TKML của Nguyễn Thế Nghi có thể được khởi thảo ngay hoặc ít lâu sau cái mốc 1547 tức “Vĩnh Định sơ niên” đó.

Thứ ba là lai lịch những bài tựa trong các bản in TKML năm Cảnh Hưng hai mươi tư và Cảnh Hưng ba mươi lăm. Trong loại bản in năm Cảnh Hưng hai mươi tư (1763), bài tựa về cơ bản(14) vẫn là bài tựa của Hà Thiên Hán soạn năm Vĩnh Định sơ niên (1547), nhưng đến chữ “thời” (... kỳ hữu quan ư thế giáo khỉ tiểu bổ vân! Thời!” thì chấm dứt. Mãi đến cuối phần mục lục, mới thấy đề tiếp “Thời, liễu Chàng xã Nguyễn Bích gia bản trùng san, Cảnh Hưng nhị thập tứ niên xuân cốc nhật (Nay, đem ra in năm Cảnh Hưng thứ hai mươi tư, tiết xuân, ngày tốt)”. Người đọc nếu không biết tới bài tựa của Hà Thiện Hán, khó lòng hiểu được bài tựa trong bản in năm Cảnh Hưng ba mươi lăm (1774), bài tựa về cơ bản(15) cũng vẫn là bài tựa của Hà Thiện Hán, nhưng từ chữ “thời” trở đi đã thay vào một đoạn văn hoàn toàn mới “Tư Liễu Chàng xã trưởng Ngyễn Đình Lân đem sách diễn dịch ra và khắc in vào năm Giáp Ngọ niên gian, dĩ di vạn đại chi vi bản, di mãi thiên hạ chi quan chiêm dã” (Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân đem sách diễn dịch ra và khắc in vào năm Giáp Ngọ (1774), nhằm lưu lại cho muôn đời dùng làm bản gốc và bán ra cho thiên hạ cùng xem). Liền ngay dưới những dòng chữ này, nơi “lạc khoản” còn có câu “Thời Cảnh Hưng tam thập ngũ niên xuân cốc nhật, Liễu Chàng xã Xã trưởng Nguyễn Đình Lân gia bản san” (Nay là năm Cảnh Hưng thứ ba mươi lăm, tháng xuân, ngày tốt, bản sách riêng của gia đình Nguyễn Đình Lân, Xã Trưởng xã Liễu Chàng, đem in lại). Xem các đoạn văn mới thêm vào trên đây, nếu không có dịp xúc tiếp với bài tựa Hà Thiện Hán ta dễ có cảm giác như toàn bộ bài tựa ở bản in TKML ở bản dịch Nôm TKML cũng do Nguyễn Đình Lân, chứ không phải Nguyễn Thế Nghi, thực hiện. Tất nhiên người đọc tinh ý sẽ phát hiện ngay những vá víu, lủng củng trong các đoạn văn kể trên. Chẳng hạn ở đoạn văn đầu, trên đã dùng chữ “thời” (nay), liền ngay dưới còn dùng tiến chữ “tư” (nay) nữa, trùng lặp về nghĩa. Hay ở đoạn văn thứ hai, các chữ “dịch”, “minh” “quan chiêm”... đều là những chữ dùng không chỉnh, chưa diễn đạt đúng ý người viết.

Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao bài Tựa Cựu biên TKML của Hà Thiện Hán ở đây không được in lại đầy đủ? Tại sao bài tựa ở bản in 1763 dừng lại ở chữ “thời”, và bài tựa in 1774 phải thay đi đoạn cuối? lí do chính, theo chúng tôi nghĩ, có lẽ ở chỗ thư phường Liễu Chàng dưới thời Lê Trịnh khác với Thư Phường Hồng Lục trước đó nửa thế kỷ, không muốn giữ lại những chữ “Vĩnh Định sơ niên” như là một dấu vết của nhà Nguỵ Mạc” Trong ấn phẩm của mình.

Về chính văn cựu biên TKML

Những mới mẻ do cựu biên TKML mang lại cho chúng ta, sau cùng, là ở phần chính văn, Chí ít có thể phân phát hiện được 2 dị bản qua những chú thích của bản in TKML năm Vĩnh Thịnh tám. Dị bản thứ nhất có nhiều nét tương đồng với loại bản in năm Cảnh Hưng hai mươi tư và Cảnh Hưng ba mươi lăm. Dị bản thứ hai (cũng có thể nhiều hơn một dị bản) hiện nay đã mất hoặc chưa sưu tầm được. Giữa các dị bản, sự xuất nhập có thể nói là không ít. Hãy lấy trường hợp truyện Tân Viên kỳ ngộ (quyển I, truyện thứ 5) làm một trong nhiều thí dụ. Gọi loại bản in năm Vĩnh Thịnh tám, hay bản in của Thư phường Hồng Lục là bản A; loại văn bản in năm Cảnh Hưng hai mươi tư và Cảnh Hưng ba mươi lăm, hay bản in của Thư phương Liễu Chàng là bản B; loại bản chưa sưu tầm được là bản C; ta có bảng đối chiếu sau đây:

Bản A (hồng lục) Bản B (Liễu Chàng) Bản C (?)
Tờ Dòng Câu chữ khảo dị ( in nghiêng) Câu chữ tương ứng (in nghiêng) Câu chữ tương ứng (in nghiêng)
36a 5 Khách du Trường An ngụ cư Trường An
7 nhị nữ tử nhị nữ
8 hoan hoa huyên hoa
9 sinh thù sinh đãi sinh đãi
36b 2-3 cựu thời Thái sư tỳ nữ Cựu thị Thái sư tỳ thiếp
37b 4 Diệc tục ngâm viết tái tục ngâm viết
8 phân lưu nhẫn phân lưu nhẫn phân lưu bất
38b 3 nhân hí viết nhân hí chi viết
3 nhan sắc kiều như hoa nhan sắc đào như hoa
8 thi vân thi nhất thủ thi vân
39a 1 thiên trước lực tư trước ý
4 tương tư nhất độ tương tư nhất đoạn tương tư nhất đoạn
39b 1 thời cập nguyên tịch thời trực nguyên tịch
8 Bất biện kỳ vi mỗ hoa Bất biện vi mỗ hoa
40a 1 tòng tịch xúc tịch
6 Dương Thị, Mai Thị Mai Thị, Dương Thị
6-7 thiên sắc tương hiểu thiên tương hiểu
9 sinh điện yến điện yến
41b 5 học bác tài xa học bác tài xa học bác tài hoa
8 phong hương lạc bạc phong hương lạc mạc
43b 1 hồi viên hồi lan
2 oanh huỳnh hoàng oanh hoàng oanh
9 sinh vị kỳ phụ mẫu viết sinh vị phụ mẫu viết sinh bái bắc đường trần kỳ phụ mẫu
44a 4 thê noa chi lạc thê noa chi lạc phòng liêm chi bạn
5 Giả huỳnh song giả vân song giả vân song
7 tư nương chi cố tư nương cố
8 tài đáo Tây Viên hành đáo Tây Viên
44b 6 bất phụ tầm phương bất phụ tầm xuân bất phụ tầm xuân
45a 1 thời tái canh đông thời tái canh đông thời canh lai đông
4 duy khủng tuyết xâm bệnh cốt duy khủng tuyết khi bệnh cốt
6 ngã dữ tử đẳng ngã dữ tử
46a 4 tư huống toàn vô tư huống toàn vô tư... toàn vô
46b 5 thủy thổ thực ngôn chi thủy dĩ thực ngôn chi
7 an hữu tính thị hữu tính thị
7 nhược bỉ sở ngôn như bỉ sở ngôn
47a 3 Thạch gia nương tử Thạch Thị nương tử
4 Mai Thị, Dương Thị Dương Thị, Mai Thị
5 ư thị sinh đại cảm ngộ sinh đại cảm ngộ
6 đối hoa miên giã đối hoa miên
8 tự vi văn tế chi vi văn tế chi
9 phụ thiên nhiên chi tư thượng thiên nhiên chi tư
47b 1 sỉ vi thời thế chi trang sỉ vi thời thế chi trang sỉ vi thời nữ chi trang
3 anh hoa anh hoa oanh hoa
48a 2-3 diểu diểu hề mai hương uất uất hề mai hương
9 lai cử hề ngô thương lai hưởng hề tử thương
9 Ô hô ai tai thượng hưởng Ô hô ai tai
48b 6-7 ư chính đại ư chính nhân ư chính nhân

Các trường hợp không giống nhau trên đây, khi là từ đồng nghĩa (như là 36a/8; 39b/1; 46b/7); khi thì là từ khác nghĩa (như 36a/5; 39a/1; 44a/4); cũng có khi là chữ thừa (38b/3, 38b/8); chữ thiếu (36a/7; 39b/8); hoặc chữ nghịch đảo (40a/6; 43b/2; 47a/4). Dùng hý hiệu Û chỉ từ đồng nghĩa; ký hiệu “ ¹” chỉ từ khác nghĩa; ký hiệu “+” chỉ chữ bản đồ này có mà bản kia có: ký hiệu “–” chỉ chữ bản này không có mà bản kia có; kí hiệu “~” chỉ chữ nghịch đảo, ta có bảng tổng hợp sau đây về tình hình khác nhau của Bản B, Bản C so với Bản A, qua 20 truyện trong TKML:

Quyển số Truyện số Bản B Bản C
= ¹ + ~ = ¹ + ~


I
1
2
3
4
5
9
9
4
7
4
6
16
8
8
20
7
5
5
4
3
12
8
10
12
13
1
6
4
4
3
1
1
4
5
1
2
15

1

1


II
1
2
3
4
5
7
9
8
3
1
8
13
12
9
2
7
1
4
11
7
7
5
8
8
14
5
3
3
1
1
1
1
1
9
4

6
2
1
1
1
2
1
1



1


III
1
2
3
4
5

7
4
2
4
14
11
23
11
2
7
5
4
5
3
15
9
18
13
5
1
2
3
2
10
4
4
5




1


IV
1
2
3
4
5
3
3
2
4
2
12
13
10
18
11
3
1

5
4
16
15
6
9
5
2
5
1
2
3

1


6
7
10
5
9




2
1
1
Cộng... 88 229 90 211 55 6 110 11 4

Qua bảng tổng hợp trên, ta thấy: Bản A khác với Bản B tất cả 88+229+90+211+55 = 673 chỗ, trong đó trường hợp dùng chữ khác nghĩa (229) và trường hợp dùng thêm từ (211) chiếm tỷ lệ cao nhất. Bản A khác với Bản C tất cả 6+110+11+4+1 = 131 chỗ, trong đó trường hợp dùng chữ khác nghĩa (110) chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này nói lên mặt độc đáo và giá trị nghiên cứu của phẩn chính văn Cựu Biên TKML.

Nếu như bản in năm Cảnh Hưng hai mươi tư và ba mươi lăm, tức bản in của Thư phường Liễu Chàng hay Tân biên TKML là một chỗ dựa khá tốt để tìm hiểu bản dịch Nguyễn Thế Nghi, thì bản in năm Vĩnh Thịnh tam, tức bản in của Thư phương Hồng Lục lại có tầm quan trọng riêng đối với việc nghiên cứu Cựu biên TKML của Nguyễn Dữ.

CHÚ THÍCH

(1) Xem Đông Dương văn khố An Nam bản mục lục, in kèm theo sau bản thư mục Triều Tiên Đông Dương văn khố Triều Tiên bản phân loại mục lục, xuất bản tại Nhatạ năm Chiêu Hoà XIV (tức năm 1939), mục “Truyền kỳ mạn lục”

(2) Xem ảnh chụp số 1, trang

(3) Xem ảnh chụp số 2, trang

(4) Trong nước hiện có hai loại bản in TKML: Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 24 (1763), và Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh hưng 35 (1774).

(5) Xem ảnh chụp số 3, trang

(6) Những chữ trong 2 ngoặc vuông [] là do chúng tôi thêm vào cho rõ nghĩa.

(7) Hồng châu: sau là phủ Bình Giang, Hải Dương (theo Nhất thống chí), nay thuọc tỉnh Hải Hưng.

(8) Những chữ trong ngoặc đơn () là cước chú vốn có trong văn bản.

(9) Hương tiến: tức Cử nhân.

(10) Chỗ này, nguyên văn chữ Hán chép “túc bất thành thị” (chân chẳng thành thị), thiếu một động từ. Động từ thiếu đó theo các bản Tân biên TKML, là “đạp”, tức đặt chân tới. Chúng tôi tạm thêm chữ “đạp” vào câu trân và dịch là “bén mảng” cho dễ hiểu.

(11) Đây chỉ Mạc Phúc Nguyên. Vĩnh Định sơ niên là năm 1547.

(12) Xem Nguyễn Thượng thư thì khâu thành chương (Công dư tiệp ký hâu biên; Danh thần, Phụ danh nho danh thần; sách của thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A. 44, các tờ 34b và 35a, 35b).

(13) Loại in năm Cảnh Hưng 24 (1763): A. 176. 1-2..., loại in năm Cảnh Hưng 35 (1774): VHv. 1491...; Sách của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(14) (15) Sở dĩ “cơ bản”, chứ không phải “toàn bộ”, vì vẫn có vài chỗ dùng chữ khác nhau, giữa bài tựa trong bản in 1712 với các bài tựa in năm Cảnh Hưng. Thí dụ trong bài tựa 1712, ta thấy in sót chữ “đạp” trong câu “túc bất đạp thành thị”, Câu “Hữu cảnh giới giả, hữu quy châm giả, kỳ quan ư thế giáo khí tiêu bổ vân”, ở các bản in năm Cảnh Hưng, chữ “giả” thứ hai đổi thành chữ “yên”, và sau chữ “kỳ” có thêm chữ “hữu”. nhưng ngoài các trường hợp đó, phần còn lại của bài tựa, từ chữ “thời” trở lên, đều nhất trí với nhau.

TB

BÚT TÍCH CHA CON NGÔ THÌ SĨ
NGÔ THÌ NHẬM TRÊN NÚI DỤC THÚY

THÙY VINH

Núi Dục Thuý nằm ở phía tây Bắc thị xã Ninh Bình (Hà Nam Ninh), sát đường quốc lộ 1, cạnh dòng sông đáy nên thơ. Đây là một danh thắng nổi tiếng của đất Trường Yên cũ, còn lưu lại nhiều bút tích của các danh nhân đất nước, từ vua chúa, công khanh, đến tao nhân, mặc khách các đời.

Từ phía thị xã Ninh Bình ra theo đường bộ dừng lại dưới chân núi, khách sẽ nhìn ngay thấy 4 chữ Vũ trụ dĩ lai khắc nổi, rất rõ nét. So với các bút tích để lại quanh đây, 4 chữ này có kích thước lớn nhất: 22cmx 30cm. Trèo qua những mộ đá nhấp nhô, vạch đám dây leo chằng chịt, đi đến gần ma nhai đó, chúng ta sẽ thấy mấy hàng chữ nhỏ đề bên cạnh. Đó là bút tích Ngô Thì Sỹ và người con cả của ông là Ngô Thì Nhậm.

Năm 1770, trên đường vào Nghệ An nhậm chức Tham Chính, Ngô Thì Sỹ đã lên thăm núi Dục Thuý và cho khắc 4 chữ Vũ trụ dĩ lai này lên vách núi. 13 năm sau, năm Cảnh Hưng Nhân Dần (1782). Ngô Thì Nhậm nhân có việc công qua đây, thấy chữ khắc của cha bị rêu phong nhiều, đã cho khắc lại và đề một bài thơ bên cạnh. Đáng chú ý là bên dưới bút tích của Ngô Thì Nhậm, có khắc cả dấu triện. Loại bia có khắc dấu triện này hiện nay rất hiếm.

Nguyên văn bia ma nhai phiên âm như sau:

- Vũ trụ dĩ lai, Cảnh Hưng, Canh Dần, xuân, Thanh Oai Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ đề”

- “Việt thập tam niên, Nhâm Dần, trưởng nam Thì Nhậm phụng lãnh cung sự. Tam niên, tiên thân hạc giá đăng vân, biểu lưu để di tích, thạch triển đài phong, toại trùng khắc yên, Cung ký cảm hoài nhất luật: Đạo đức văn chương hoàn tạo hoá, Yên ba phong nguyệt tại giang san. Đạt danh thắng cảnh trường như thử, Phụ tử chí tình thiên địa gian”

Chúng tôi tạm dịch như sau:

- (Núi Dục Thuý) từ khi có vũ trụ đến nay.

Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ, Người Thanh Oai đề vào mùa xuân, năm Cảnh Hưng, Canh Dần.

- Trải qua 13 năm, đến năm Nhâm Dần, con trai cả là Thì Nhậm vâng mệnh việc công (qua đây). Ba năm trước, tiên thân cưỡi hạc lên mây, đã để lại bút tích. (Chữ khắc vào) đá nông, (lại bị) rêu phong, bèn khắc lại. Kính ghi một bài cảm hoài:

Đạo đức văn chương trả về cho tạo hoá,
Gió trăng khói sóng ở lại với non sông.
Tên tuổi (của cha) và thắng cảnh mãi mãi như thế.
Tình cảm thắm thiết của cha con (ta) còn mãi giữa đất trời.

Thông thường các tầng lớp nho sỹ trước kia hay nói tới “nhân nghĩa” đến “sửa mình trị nước”, ít khi vươn tầm nhìn ra vũ trụ bao la... ở đây 4 chữ vũ trụ dĩ lai Ngô Thì Sĩ như muốn khẳng định sự trường tồn của vũ trụ trong thế vận động của nó, thể hiện một tâm hồn phóng khoáng, một cách nhìn lạc quan, một sự vươn lên trong nhận thức về thiên nhiên và vũ trụ.

Phát triển tư tưởng trên, trong bài thơ của mình. Ngô Thì Nhậm đi tới khẳng định sự tồn tại của con người và sự nghiệp con người gắn liền với non sông, đất nước. Theo nhà thơ, con người dù mất đi nhưng toàn bộ phẩm chất đạo đức của họ, sự nghiệp sáng tạo của họ vẫn còn lại mãi mãi với đất trời, gắn liền hoà chung cùng vũ trụ.

Phải chăng đó chính là cơ sở tư tưởng cho những hoạt động tích cực, năng động trong sự nghiệp chính trị, quân sự, ngoại giao, cũng như sự nghiệp văn chương của Ngô Thì Nhậm? Có phải chính cái nhìn có tính chất biện chứng trên đây đã khiến Ngô Thì Nhậm mau chóng rũ bỏ được gánh nặng “cô trung” lỗi thời đối với nhà Lê mà không ít trí thức thời ông thường mắc phải để đến với phong trào Tây Sơn cùng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và làm nên sự nghiệp bất hủ “trường tồn với vũ trụ”?

TB

QUẦN BIA ĐỒI VẢI

LÊ XUÂN QUANG

Khu đồi Vải rộng khoảng 30ha, nằm trên một cao nguyên đất đai màu mỡ giữa vùng núi non trùng điệp cách thị xã Tam Điệp 7km về phía đông nam.

Gần đây, nhân dân trong vùng đã phát hiện nhiều phiến đá có khắc chữ, nhô lên mặt đất khu đồi này. Có tấm chỉ khắc hai chữ như “Ngọc tỉnh”, “Long tỉnh. . . ” đáng chú ý là tấm bia ghi hai bài thơ của Ninh Hy Tăng (Ninh Ngạn) do con trai của ông là Đông các Đại học sỹ Ninh Tốn khắc năm Tân Sửu (1781).

Nhờ bài thơ mà chúng ta được biết đồi vải xưa có tên là bãi Vũ Vu (Vũ Vu nguyên), nơi Hy Tăng ở ẩn và viết hai tác phẩm là Phong vịnh tập Vũ Vu thiên thuyết. Bãi Vũ Vu, tương truyền còn là nơi Tiến Sỹ Ninh Tốn cất dấu kho vàng bạc châu báu của vua Lê trước khi vua Tây Sơn tiến ra Bắc. Phía bên phải hồ mùa thu gần đó, có vùng đất gọi là “Trại cụ Thượng”, nơi tiến sỹ Ninh Tốn ở ẩn, giữ lòng “cố trung” với nhà Lê, trước khi đi đến với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn.

Dưới đây là phần phiên âm và dịch lời cùng nguyên văn hai bài thơ đó.

Phiên âm:

Viện xứ cổ hiệu Vũ Vu nguyên. Cảnh Hưng trung, Cối Trì, Cán thôn Thị độc Hy Tăng tiên sinh ẩn cư nguyên thượng xướng minh lý học, dĩ đại hiền tự kỳ sở trước thư, hữu Vũ Vu thiển thuyết, cập Phong vịnh tập. Tân Sửu mộ xuân, kế thế đích nam Đông các đại học sĩ Ninh Tốn nhân tức sở cư lập miếu. Nhi bức khắc kỳ nhị thi vu thạch.

Kỳ nhất

Ngã ái Vũ Vu thú.
Xuất du thừa kiên xa.
Quần sơn tu cực hảo,
Vạn thụ hiến tân hoa.
Tâm hạ sinh phật ấn,
Nhãn trung kiến Thái Hoà.
Vũ tễ tuyền do sắt.
Phong cao thử bất ba;
Toạ đối thạch sơn ngữ,
Ngoạ thính sơn điểu ca.
Thần di tâm diệc khoáng,
Phú quý như ngã hà?

Vũ Vu Nguyên

Tạm dịch:

Chốn này xưa là bãi Vũ Vu(1). Trong năm Cảnh Hưng, Thị độc Hy Tăng tiên sinh, người thôn Cán, xã Côi Trì, ẩn ở trên bãi, nghiên cứu rõ môn lý học, noi theo bậc hiền triết, từ chốn này viết sách Vũ Vu thiển thuyết Phong Vịnh tập. Cuối mùa xuân năm Tân Sửu (1781), con trai nối dõi là Đông Các đại học sỹ Ninh Tốn, nhân chỗ ở cũ, dựng nhà thờ và khắc ngay vào đá hai bài thơ của Người.

Bài một

Ta yêu cảnh Vũ Vu,
Trên cáng đi ngao du.
Cây biếc rừng hoa mới,
Núi khoe mầu đẹp xưa.
Dấu Phật trong lòng?
Thái hoà trược mặt phô.
Gió cao đồng lặng sóng,
Mưa tạnh uốn gieo đàn.
Ngồi ngắm đá núi nói,
Nằm nghe chim rừng ca.
Thảnh thơi lòng rộng mở,
Giàu sang hơn gì ta.
Bùi Vũ Vu.

Phiên âm:

Kì nhị

Vũ Vu hà hữu?
Hữu tuyền hữu sơn.
Tuyền viết Long Tỉnh.
Sơn viết Kê Quan.
Hữu viết Lả Mát,
Hữu viết Thiên Quan.
Viết tư, viết Cầu
Thổ sơn hồi hoàn.
U kỳ thắng trí.
Khả thích du quan.
Hy tăng cư sĩ,
Vu thử bàn hoàn,
Đắc tâm ưng mục
Đàn bất lương nan.
Diện đối tiên phong hề, vô thướng ngôn chi lạc.
Tràng trung khúc thuỷ hề, hữu nhất thổ chi hoan
Kinh cứu vị khử hề tiễn kinh cức;
Chi lan chính mậu hề chủng chi lan.
Hứng lai sách cú,
Thời chí vấn san,
Trần hiếu bất năng mỗi,
Danh lợi bất tương can.

Vũ Vu cư sĩ Ninh Hy Tăng lãng ngâm(2)

Tạm dịch:

Bài hai

Vũ Vu có gì?
Có suối có non.
Suối tên Long Tỉnh,
Non tên Kê Quan
Có khe lá mát,
Có đền Thiên Quan,
Hòn cầu, hòn Cốc
đồi đất quây quần.
Vẻ thanh dáng đẹp
Tha hồ du quan.
Hy tăng cư sĩ,
Vấn vương bàn hoàn,
Thoả lòng ưng mắt,
Nốy bao cung đàn.
Trước mắt ngắm non tiên mộng dân lời tắt hẳn,
Trong lòng nghe suối cuộn, riêng một cõi vui tràn,
Gai góc chưa sạch chừ, chặt phăng gai góc;
Chi lan đang tốt chừ, trồng thêm chi lan.
Hứng lên ngâm vịnh,
Đến bữa tìm ăn.
Bụi bặm xa chẳng vướng,
Danh lợi mặc không bàn.
Vũ Vu cư sĩ Ninh Hy Tăng ngâm vịnh.

CHÚ THÍCH

(1) Dục hồ nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy, Phu Tử khoái nhiên viết: Ngô dữ Điểm dã (Lỗ luận).

(2) Lỗ luận: Tắm ở sông Nghi, hóng mát trên đàn Vũ Vu, ngâm vịnh mà trở về. Phu Tử than rằng: Ta tán thành Tăng Điểm.

TB

THƠ VĂN NINH TỐN

NGUYỄN VŨ CƯ

Cuốn sách là một công trình tập thể biên dịch thơ văn chữ Hán ra tiếng việt, do Hoàng Lê chủ biên. Với độ dày vừa phải 235 trang, in khổ 13x19, sách gồm 2 phần. Phần thứ nhất: Mấy nét tiểu sử Ninh Tốn, Văn bản thơ văn Ninh Tốn và Thơ văn Ninh Tốn . Phần thứ hai: Tuyển chọn biên dịch, tác phẩm. Đây là công trình biên dịch thứ tư sau cuốn thơ văn Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích, Đoàn Nguyễn Tuấn. Những sách này nằm trong kế hoạch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm là từng bước khai thác và công bố những tác phẩm ưu tú của các tác giả đã đi theo ngọn cờ khởi nghĩa Tây Sơn.

Phần thứ nhất: do Hoàng Lê viết. Tuy với số trang không nhiều (từ trang 7 đến trang 37), bạn đọc có thể tìm thấy ở phần này những tư liệu đáng tin cậy, do nguồn tư liệu sưu tầm được qua các lần đi thực tế ở các địa phương cũng như ở chính quê hương tác giả và sau nhiều năm tìm kiếm khá công phu qua sách vở lưu trữ ở các thư viện trung ương (Hà Nội) các tỉnh và các thành phố khác. Về tiểu sử Ninh Tốn và thơ văn của ông, tuy giới thiệu có chỗ còn sơ lược như năm mất của ông chưa được khẳng định cụ thể mà mới dừng ở mức độ phỏng đoán ông mất trong khoảng năm 1794 - 1802, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu được khá cặn kẽ quê hương của ông - xã Côi Trì, huyện Yên Mô, Tỉnh Ninh Bình (nay là Yên Mỹ huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh), Ngoài ra chúng ta còn hiểu được thân thế và sự nghiệp của nhà thơ, từ khi còn trai trẻ, lập chí học hành, thi cử, với hoài bão “Làm trai phải là chàng trai tốt” để giúp ích cho đời và những lúc thăng trầm của cuộc đời, khi ông làm quan, đến chức Tham tán quân vụ dưới triều Lê Trịnh, cũng như lúc chán ngán cảnh làm quan ông bỏ chạy trốn vào nhân dân để quyết định tìm đến và đi theo phong trào Tây Sơn. Đó là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến lớn lao trong quá trình nhận thức của ông đối với cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm giải phóng tổ quốc do Nguyễn Huệ đứng đầu. Từ đó ông đã trở thành nhà thơ yêu nước tiến bộ.

Phần thứ hai: Tuyển chọn và biên dịch tác phẩm là phần trọng tâm của cuốn sách. Phần này tuyển chọn 106 bài thơ, hai bài văn do một tập thể các dịch giả quen biết, có tiếng như: Nguyễn Đổng Chi, Khương Hữu Dụng, Đào Phương Bình, Đỗ Văn Hỷ, Hoàng Lê, Nguyễn Hữu Chế, Lâm Giang, Trần Thị Băng Thanh... đảm nhiệm dịch thuật. Nhìn chung các bài thơ, văn đã được phiên âm đúng, dịch nghĩa sát nguyên tác, phần dịch ra thơ Tiếng Việt có nhiều bài dịch hay. Đó là một đóng góp quý của các dịch giả và nhóm biên soạn. Việc tuyển chọn rất có thể còn bỏ sót nhiều chỗ, nhiều bài, nhưng tập thơ đã giúp chúng ta tìm hiểu chọn vẹn con người họ Ninh và dễ dàng cảm nhận hồn thơ của ông - một nhà thơ mà ngay từ tấm bé đã được đào luyện “Cửa Khổng sân Trình”, nhưng trong thơ, ông đã vượt ra ngoài cái khuôn khổ ấy. Ông ca ngợi vua Quang Trung, ca ngợi phong trào Tây Sơn và ca ngợi cảnh đẹp của quê hương đất nước là điều rất quý ở tầng lớp trí thức bấy giờ. Nhưng ông còn dám hoà mình với quần chúng, thông cảm với nỗi buồn vui của người lao động nghèo khổ, dám đứng lên bênh vực, ngợi ca người phụ nữ và những thân phận con người bị xã hội hắt hủi, vùi dập. Có được bản lĩnh ấy, trong điều kiện hoàn cảnh xã hội ở thời đại ông không phải nhà nho sĩ thi sĩ nào cũng có được. Đó là những nét đặc sắc, tiêu biểu được phản ánh trong thơ văn ông, thông qua một bút pháp điêu luyện. Đúng như các bạn ông đã từng nhận xét: “Ông là kẻ lão luyện trong văn mặc, sở trường cả thơ phú, trước thuật - tr.19”

Đọc thơ văn Ninh Tốn, chúng ta còn thấy có những bài thơ như bài Cẩm cơ hí tác (tr.54) đọc lên nghe âm điệu rất gần gũi với thơ lãng mạn hiện đại vào những năm 40 của thế kỷ 20. Nếu quả thật như vậy, thì theo cách nói của Bùi Huy Bích “ông là một con người tài tử” (tr.19) là một nhận xét đúng, phản ánh những nét rất riêng, độc đáo của con người và thơ văn của ông - ông là một tác gia xứng đáng được liệt vào hàng danh nhân đất nước.

“Thơ văn Ninh Tốn” là một công trình biên dịch có chất lượng, là một cống hiến đối với khoa học và đối với những bạn đọc say mê yêu thích văn học cổ của dân tộc. Rất tiếc cuốn sách còn một vài lầm lỗi ở khâu ấn loát, cần được bổ sung rút kinh nghiệm.

TB

TƯỞNG NHỚ NHÀ HÁN HỌC LÊ THƯỚC (1891 - 1975)

VŨ ĐÌNH LIÊN

Vừa qua, tại Hà Nội, giới văn hoá và văn học đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhà giáo, nhà hoạt động văn hoá nhiệt thành Lê Thước. ông Nguyễn Xiển, Phó chủ tịch Quốc hội. Giáo sư Tiến sỹ Phạm Huy Thông, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam; giáo sư Trần Nghĩa, Quyền Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm; nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu của Viện Văn học, Viện Sử học, Vụ bảo tồn bảo tàng, Viện bảo tàng lịch sử, Viện bảo tàng cách mạng, khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp... đã về dự.

Nhà giáo, nhà thơ Vũ Đình Liên và giáo sư Trương Chính trong Nhóm văn học Lê Quý Đôn là những người cộng tác với cụ Lê Thước suốt 20 năm cuối đời cụ (1955_ 1975), đã nhắc lại tiểu sử và những đóng góp của cụ đối với nền văn hóa dân tộc, đối với cách mạng trong gần ba phần tư thế kỷ qua.

Cụ Lê Thước sinh năm 1891 ở huyện Đức Thọ, tỉnh Nghệ Tĩnh trong một gia đình nhà Nho thanh bạch. Năm 1918 cụ dự khoa thi Hương cuối cùng trong lịch sử và đỗ đầu khoa này. Tiếp đó, cụ đi theo con đường “Tân học” và đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội năm 1921 với một luận án xuất sắc bàn về việc học chữ Hán trong nhà trường. Trong thời gian dạy học, cụ tham gia các hoạt động yêu nước như phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, thành lập Đảng Tân Việt...Do những hoạt động này, cụ bị bọn thực dân Pháp theo dõi, bị đổi đi hết Hà Nội, Lạng Sơn lại Thanh Hóa, và tháng 5 năm 1943 thì cụ bị cắt chức và buộc về hưu non.

Sau Cách mạng tháng 8, cụ được làm Chủ tịch Uỷ ban Tăng gia sản xuất tỉnh Thanh Hoá. Năm 1951 cụ được bầu vào ban Chấp hành mặt trận Liên Việt toàn quốc. Hoà bình lập lại, cụ ra công tác tại Ban Tu thư bộ giáo dục rồi Vụ Bảo tồn bảo tàng... năm 1962, cụ cùng với Đặng Xuân Thiều, cụ Trần Huy Bá và Hoà Thượng Thích Thanh Tốn phát hiện pho tượng Quang Trung và tấm bia lịch sử ở chùa Bộc. Năm 1963, cụ được về hưu trí theo nguyện vọng của mình. Nhưng cù vẫn viết sách, viết báo, và tham gia các hoạt động văn hóa, văn học cho đến khi mất (ngày1 tháng 10 năm 1975).

Nhà Hán họ Lê Thước thuộc số những người đi hàng đầu trong lĩnh vực Hán _ Nôm. Những năm trước Cách mạng cụ luôn quan tâm bảo vệ nền văn hóa dân tộc trước nguy cơ “Đồng hoá” của bọn thực dân. Cụ đã dồn cả tâm huyết, nghị lực và trí tuệ của mình để nghiên cứu và giới thiệu các tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm của những danh nhân, chính khách lớn của dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ.... ngay từ n hững năm 30, 40 của thế kỷ này. Sau cách mạng cụ lại càng có điều kiện đi sâu vào sự nghiệp cao quý ấy. Trong thời gian công tác tại ban Tu thư Bộ Giáo dục, cụ đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc như coi thơ văn chữ Hán của người Việt Nam là một dòng văn học dân tộc, phụ trách nền văn học chữ Hán trong sách giáo khoa... Đặc biệt trong nhóm văn học Lê Quý Đôn, cụ là người phụ trách chính trong việc nghiên cứu, biên dịch bộ Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích, thơ văn của Nguyễn Thượng Hiền và thơ chữ Hán của Nguyễn Du...

Sinh thời, có lần cụ Lê Thước và cụ Võ Liêm Sơn đàm đạo với nhau về Tryện Kiều nào. cụ Lê Thước đã chọn câu:

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ

Gắn bó với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hoá của Đảng bằng những sợi tơ vàng bền chặt, nhà giáo, nhà trí thức yêu nước Lê Thước đã “nhả tơ vàng” cho đời đến phút cuối của đời mình. Và ngày nay, sợi tơ vàng bền chặt ấy vẫn còn gắn bó chúng ta trong sự nghiệp bảo vệ và khai thác di sản văn hoá dân tộc.

TB

VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG HÁN NÔM
TẠI PHÁP

PHẠM VĂN THẮM

Việc nghiên cứu các mặt thuộc ngành khoa học xã hội như lịch sử học, kim thạch học, khảo cổ học và các thể chế tôn giáo, phong tục, ngôn ngữ.... của các nước Viễn đông, trong đó có các nước Đông Dương vẫn không ngừng được tiến hành tại các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu nhiều mặt của một nền văn minh cổ xưa được thực hiện tại nhiều cơ sở. Riêng chuyên ngành Hán Nôm, một ngành tương đối khó, nhưng còn có nhiều thành tựu đang được quan tâm.

Trước hết, việc tổ chức giảng dạy cho những người đăng ký theo học Hán Nôm được thực hiện tại khoa Tiếng Việt trường đại học Paris 7 (Université de Paris 7, U.E.R de langues et Civilisation de l’-Asie orientale section d’etudes vietnamiennes). Khoa giành cho môn này một tuần hai giờ vào đào tạo cho người theo học hết trình độ maitrise(1). Người có trình độ này muốn đi sâu nghiên cứu một chuyên đề nào đó thuộc lĩnh vực Hán Nôm hoặc muốn có bằng cấp cao hơn thì có thể đăng ký theo học với một giáo sư chuyên về lĩnh vực này tại phân hiệu 4 trường Cao học thực hành tại Sorbonne (Ecole Pratique de hautes études4è section Sorbonne). Những năm trước đây, người theo học có thể thực hành được điểm này, nhưng hiện nay, nhà trường có rất ít những người chuyên nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm. Nhà trường đã giành cho mộn học này mỗi tháng 4 giờ, người phụ trách chính là cụ Nguyễn Trần Huân, hiện nay đã nghỉ hưu. Lớp học đặt tại số nhà 22 Avenue du Président Wilson .

Ngôi nhà số 22 Avenue du Président Wilson là trụ sở làm việc chung của Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Nghiên cứu ấn Độ, trường Viễn Đông Pháp, Trung tâm nghiên cứu lịch sử và nền văn minh của bán đảo Đông Dương . Nơi đây có thư viện của trường Viễn Đông, thư viện của Hiệp hội châu á, Với một phòng đọc rộng lớn, đầy đủ sách công cụ để tra cứu bằng các thứ tiếng Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản, Triều Tiên. Phần lớn số sách Hán Nôm của thư viện Hiệp hội châu á rất phong phú có khoảng 154 tên sách, mang kí hiệu HM đang phục vụ bạn đọc. Đây là sách in ván gỗ hoặc sách chép tay do Maspéro và Chavannes sưu tập. Ngoài ra con một số sách mang ký hiệu A. Số sách này chưa phục vụ bạn đọc. Ô sách của Trường Viễn đông Pháp chủ yếu do ông Durat sưu tầm và có một số sách nhà trường mua đựơc từ trước năm 1958.Số sách này đang được lên ký hiệu để phục vụ bạn đọc trong và ngoài nước.Các tư liệu và sách vở Hán Nôm còn được lưu trữ tản mác ổ nhiều nơi. Đặc biệt mảng tư liệu về địa lý bao gồm các bản đồ được in hoặc chép tay rất cũ do Gallierri sưu tầp, hiện tại để thư viện của Hội nghiên cứu địa lý tại Paris (Bibliothèque de la Société de Géographie de Paris). Tại đây người ta có thể tìm danh mục những bản đồ cũ có liên quan đến Việt Nam tại các ô phiếu của Trung Quốc và ấn Độ(2).

Về lĩnh vực nghiên cứu, nhiều năm qua các thành tựu đã được công bố trên các tạp trí, tập san, đặc san của các cơ sở có bộ phận nghiên cứu về Hán Nôm như Đại học Paris 7 (Université de Paris 7, Section d’etudec vietnamiennes), Trường Viễn đông Pháp Ecole’ francaise d’Extrême Orient), Trung tâm nghiên cứu về lịch sử và văn minh của bán đảo Đông Dương (Centre d’his-toire et civilisation de la Péninsule indochinoise). Đại học Nice (U’niversité de Nice). Trung tâm tư liệu nghiên cứu về Đông Nam á (Centre de documentation et de recherches sur l’Asie du Sud-Est). Việc công bố trước hết là giới thiệu các công trình dịch thuật các tác phẩm Hán Nôm ra tiếng Pháp để giới thiệu cùng độc giả thế giới như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, truyện Phan Trần, Thơ Hồ Xuân Hương, Ký sự lên kinh của Hải Thượng Lãn Ông... các chuyên đề nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các tác phẩm, tác giả lớn của thời đại trước vấn đề chữ Nôm. Một điểm đáng chú ý là hiện nay nhiều học giả pháp đã để tâm nghiên cứu mối giao lưu văn hiến của vùng Viễn Đông mà mảng tư liệu Hán Nôm là một trong những đối tượng nghiên cứu quan trọng của họ. Trong lĩnh vực nghiên cứu Hán Nôm tại Pháp, chúng tôi kể đến các công trình nghiên cứu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Ngoài công trình đã xuất bản, các bài nghiên cứu đã đăng trên các báo Thanh Nghị, báo Dư luận, báo Sứ địa từ năm 1975 trước, những năm gần đây giáo sư còn có nhiều công trình nghiên cứu đăng trên tập san nghiên cứu của Hội Khoa học Xã hội Việt Nam tại Pháp, như:

- Thực trạng xã hội thời Gia Long qua một vài tư liệu sử học. Công bố năm 1976.

- Lễ Vu Lan với văn tế cô hồn (tạp chí Văn học, năm 1977).

- Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1688 (tập san Khoa học xã hội , Số 1977 và 1978).

- Văn Nôm và chữ Nôm thời Trần - Lê - Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử (số 12/1978. 12/1979, 10/1980).

- Lời thề Lũng Nhai (số / năm 1980)

- Lịch và lịch Việt Nam (số 2/1982).

Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, giáo sư vẫn miệt mài với công việc nghiên cứu của mình, tiếp tục giới thiệu những giá trị nền văn hiến cổ Việt Nam với độc giả thế giới.

Ngoài ra, các hoạt động trao đổi khoa học và hợp tác nghiên cứu cũng có những nét đáng lưu ý. Các cơ sở vừa nêu trên thường mời các nhà nghiên cứu các nước, trong đó có Việt Nam đến báo cáo những thành tựu nghiên cứu trong lĩnh vực này. Các nhà nghiên cứu đã tham gia trao đổi sung quanh các vấn đề xác định niên đại một tác phẩm. Cấu tạo chữ Nôm, chữ Hán của người Việt Nam...sự hợp tác nghiên cứu đã bắt đầu được thực hiện giữa những cơ sở có bộ phận nghiên cứu Hán Nôm tại Pháp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm của Việt Nam, như công trình Quốc âm thi tập Trường Đại học Nice (U’niversité de Nice) hợp tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm; Thư mục Hán Nôm trường Viễn Đông Pháp (école francaise d’ Extrême - Orient), hợp tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên đây mới chỉ là bước đầu, một số công trình khác sẽ được bàn bạc trao đổi sự hợp tác để thực hiện trong những năm tới.

TB

HỘI THẢO VỀ TỪ ĐIỂN CHỮ NÔM

Ngày 3 tháng 4 năm 1985. Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức một cuộc hội thảo về biên soạn cuốn từ điển chữ Nôm. Đây là công trình do Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ trương biên soạn để phục vụ cho việc đọc những văn bản Nôm trong kho di sản văn hóa dân tộc cũng như cho việc giảng dạy và học tập chữ Nôm.

Nhiều giáo sư và nhà nghiên cứu về Nôm, về Ngữ văn của Viện Văn học, Viện Ngôn ngữ học, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm của trường đại học Tổng Hợp và Đại học sư phạm ở Hà Nội và một số chuyên gia nghiên cứu Hán Nôm đã hưu trí như các cụ Phùng uông, Lê Tư Lành, Vũ Tuấn sán,... đã tham dự hội thảo.

Hội thảo do Giáo sư Trần Nghĩa. Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm điểu khiển. Đồng chí Cao Hữu Lạng, Chủ biên cuốn Từ điển chữ Nôm, đã biên sọan và danh sách 50 văn bản Nôm được chọn làm cứ liệu cho việc biên soạn.

Như ý kiến trong cuộc hội thảo cho rằng, những bộ từ điển có chữ Nôm và chữ Hán trước đây như Từ điển An Nam_ La tinh của ????????.soạn năm 1772 (chép tay) >???????? Đại Nam quốc âm tự vị cảu Huỳnh Tịnh .? của Sài Gòn 1895 đã có những đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu và học chữ Nôm. Nhưng mặt hạn chế của bộ từ điển ấy là ở chỗ các tác giả trên đã tiến hành việc biên soạn của mình trên cơ sở một bản khung có sẵn của tự mẫu La Tinh, những chữ Nôm được điền vào sau khi các từ điển đã hình thành, vì thế không thu nhặt được hết các chữ Nôm đặc biệt. Ngày nay muốn tra một số chữ Nôm ở các văn bản Nôm thế kỷ XIV, XX, thì những từ điển này không thoả mãn được, Đồng thời việc định nghĩa một số từ cổ của các từ điển trên, ở một vài chỗ không thích hợp với nghĩa trong văn cảnh cụ thể.

Rút kinh nghiệm các bộ từ điển vừa nói, đặc biệt là những từ điển chữ Nôm mới xuất bản gần đây như Từ điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Xỉ, Vũ Văn Kính, Sài Gòn, 1971; bảng tra chữ Nôm Hà Nội 1976; từ điển chữ Nôm của Nguyễn Hữu Quỳ. Sài Gòn bản đánh máy...

Từ điển chữ Nôm biên soạn lần này, theo nhiều ý kiến ở cuộc hội thảo, phần cố gắng phản ánh những mã chữ Nôm 50 văn bản chọn lọc, Từng chữ sẽ được trình bày theo trình tự thời gian, qua đây phần nào thấy được duyên cách của Chữ Nôm đó. Từ điều được rút ra từ thực tế văn bản, và được giải thích theo ngữ cảnh, đồng thời có minh hoạ bằng văn cảnh cụ thể.

Hội nghị đã giành thời gian để thảo luận danh sách 50 văn bản Những văn bản này bao gồm được các thể loại văn học Nôm, bao gồm được các thời đại và các địa phương, có thể đủ đại biểu kho từ vựng tiếng Việt qua chữ Nôm. Cái khó là việc sử lý những từ cổ trên góc độ ngữ văn học. Qua đấy sẽ tìm lại đựơc những từ cổ đã mất, để làm giàu cho kho từ ngữ tiếng Việt cổ. Việc xác định những từ thuần Việt cổ và những từ Hán Việt cũng được nhiều ý kiến bàn bạc trao đổi.

Hội nghị cũng nêu lên yêu cầu đối với việc biên sọan Từ điển chữ Nôm, một công việc mang tính chất hồi cố, đoi hỏi phải nghiêm túc, thận trọng tỉ mỉ, chu đáo để thực hiện được trình độ khoa học của Hán Nôm hiện nay

PV

TB

TIN ĐÀO TẠO CÁN BỘ NGÀNH HÁN NÔM

Ngày 19 tháng 7 năm 1985, Bộ môn Hán Nôm thuộc khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội đã tổ chức bảo vệ luân án tốt nghiệp cho sinh viên chuyên ngành Hán Nôm của trường. Sau 4 năm rưỡi học tập, các sinh viên này đã được trang bị những kiến thức cơ bản về văn học, Hán học và chữ Nôm cũng như phương pháp luận nghiên cứu Hán Nôm. Năm nay Tổ Hán Nôm của trường đại học đã hợp tác với các chuyên gia của Bộ Đại học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trường đại học Sư Phạm I để hướng dẫn sinh viên làm luận văn tốt nghiệp. Trong số 8 luận văn, có tới 6 luận văn nghiên cứu về Nôm với những đề tài mang ý nghĩa thực tiễn như : Khảo sát dấu vết âm Việt cổ trong tác phẩm Quốc âm thi tập; trong Hồng Đức Quốc âm thi tập; trong Chỉ Nam Ngọc âm; hay Tìm hiểu chữ Nôm trên các văn bia huyện Từ Liêm Hà Nội... Hội đồng bảo vệ đã đánh giá các điểm từng luận văn và nhất trí nhận xét rằng lớp sinh viên tốt nghiệp năm nay có đủ phẩm chất tư tưởng và vốn tri thức cần thiết để tham gia công tác nghiên cứu và giảng dạy về chuyên ngành Hán Nôm.

D.T.

TB

TIN HỢP TÁC KHOA HỌC

Thực hiện chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học đã được kí kết giữa Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam và trường Viễn Đông Pháp, và ?.///đại diện của trường đã sang công tác tại Việt Nam trong những ngày đầu tháng 9 -1985.

Trong hai ngày 9 và 10 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tiếp và làm việc với bà ???? . Hai bên đã thông báo cho nhau về tiến bộ thực hiện việc biên soạn bộ thư mục Hán Nôm, công trình hợp tác khoa học mà hai bên đã ký kết. Phía trường đã thông báo cho Viện biết nhóm biên tập thư mục sách Hán Nôm tại Paris đã bổ sung thêm 2 người, trong đó có ông Hoàng Xuân Hãn. Công việc biên soạn thư mục sách Hán Nôm tại Thư viện Trường Viễn Đông, Thư viện Hiệp hội Châu á, Thư viện Quốc gia Paris đã tiến hành theo đúng kế hoạch. Sách Hán Nôm ở các nơi khác, phía Trường dự định hoàn thành trong năm 1986.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đã thông báo cho phía trường biết công việc của nhóm biên soạn thư mục của Viện tiến hành theo đúng kế hoạch . Công việc còn lại chủ yếu là hiệu đính các phiếu tư liệu đã làm và dịch một phần các tư liệu đã biên soạn ra tiếng Pháp. Tiếp đó hai bên đã bàn tới các cơ cấu bộ sách, bao gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần sách dẫn và vấn đề in ấn để công bố.

Bà C Rageau cũng đã thông báo cho Viện biết một chủ đề mà nhà trường đang quan tâm và cũng đã được Uỷ ban Khoa Học xã hội Việt Nam đồng ý hợp tác, đó là việc biên soạn, khảo dị các tiểu thuyết cổ được viết bằng chữ Hán của các nước triều Tiên, Nhật bản, Việt Nam. Căn cứ vào các sách Hán Nôm tại Paris, nhà trường đã biên tập xong tập 1 và đưa in tại Hồng Công. Nhà trường mong muốn cùng Viện Nghiên cứu Hán Nôm xúc tiến việc hợp tác biên soạn công trình này càng sớm càng tốt. Viện đã nhất trí tham ra trong chừng mực có thể được. Công việc hợp tác giữa hai bên sẽ bắt đầu được thực hiện từ tập 2. Ngoài ra, hai bên cũng đã sơ bộ bàn tới các khả năng hợp tác trong việc biên soạn và in bộ Thư mục văn bia Việt Nam và cuốn Văn đài loại ngữ .

Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Trường Viễn Đông Pháp nhận định rằng sự hợp tác khoa học giữa hai cơ sở bước đầu đã được thực hiện nghiêm túc. Hai bên đều mong muốn sự hợp tác khoa học giữa hai cơ sở ngày càng được phát triển, và mở rộng hơn nữa.