VẤN ĐỀ SƯU TẦM THƯ TỊCH VÀ TRƯƠNG ĐÌNH NGUYÊN Những tư liệu Hán Nôm viết trên giấy mà ta thường gọi chung là thư tịch Hán Nôm, ngoài số sách vở ở các thư viện Nhà nưới như thư viện Hán Nôm thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia, thư viện Cục Lưu trữ Trung ương, thư viện Tổng hợp ở các tỉnh, thành phố, Thư viện các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm, … Số thư tịch hiện còn nằm trong dân gian “đền chùa, từ đường, thư viện tư gia…” gồm đủ các loại khác nhau như thi tập, văn tập, gia phả, thần tích, thần phả, tự phả, hương ước, khoán lệ, kinh luận nhà Phật, chân kinh thiện đànm văn phả, bằng sắc thời xưa…chắc chắn không phải là ít. Xin nêu một vài ví dụ. Căn cứ vào một số bản thư mục hiện lưu trữ tại Thư viện chùa Quán Sứ của Hội Phật giáo Việt Nam, căn cứ vào các số liệu do các nhà sư trụ trì ở một số chùa cung cấp trước ngàygiải phóng miền Nam, chỉ riêng ở hai trăm chùa thuộc Hà Nội và vùng phụ cận đã có tới hàng ngàn bộ sách Hán Nôm do nhà chùa khắc in và tồn trữ, trong đó, ngoài số kinh kệ nhà Phật in lại từ bản dịch Trung Quốc ra, còn có rất nhiều tác phẩm của tác giả Việt Nam. Ngoài một số bộ như Khoá hư lục, Thiền uyển tập lục, Thượng sĩ ngữ lục, vv…mà nhiều người đã biết, còn có nhiều tác phẩm cho đến nay còn nhiều người chưa biết tới như Trần triều Thập hội lục, Thiền điển thống yếu kê đăng lục (Trần gia cựu bản, cộng với phần tục biên Như Sơn và Phúc Điền), Phổ Đà chí (nói về chùa Phổ Đà ở Hà Bắc), Cổ Châu lục (nói về sự tích chùa dâu ở Hà Bắc), Ngự chế Như Lai ứng hiện đồ, Nhân quả lục diễn âm (khắc in 1865), Bích Câu quán lục (nói về đạo quán Bích Câu ở Hà Nội), Tại thế tục gia quốc âm ngữ giới (khắc in 1797), Chư kinh diễn âm (khắc in 1882), Quỳnh lâm tự phả (nói về chùa Quỳnh Lâm)… Đặc biệt có bộ cho đến nay hầu như rất ít người biết tới, kể cả giới tăng ni, như bộ Pháp Hoa đề cương của Minh chính thiền sư viết vào thời Gia Long thứ mười tám (1819). Một ví dụ khác: Chỉ riêng chùa Liên Phái, Hà Nội, cho đến 1975 vẫn còn 74 bộ sách Hán Nôm, trong đó có bộ Thiền điển thống yếu kế đăng lục in 1860. Thêm một ít con số nữa: Chùa Đồng Phúc (Hà Nội) hiện còn 98 bộ, chùa Huyền Thiên (Hà Nội) hiện còn 52 bộ, chùa Cầu Đông (Hà Nội) còn 36 bộ, chùa Chân Tiên còn 42 bộ, chùa Phổ Đà (Hà Bắc) còn 68 bộ, chùa Bà Đá (Hà Nội) còn 83 bộ, chùa Tràng An (ngõ Tràng An, phố Huế) còn có hai đạo sắc thời Tây Sơn,… Thêm một ví dụ khác: Gần đây, đồng chí Nguyễn Văn Huyền và một đồng chí khác thuộc Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh, do tổ chức tốt công tác sưu tầm, đã sưu tầm thêm được hàng trăm tác phẩm Hán Nôm có thể khẳng định dứt khoát là của nhà thơ Nguyễn Khuyến, như bản gia phả họ Nguyễn do chính Nguyễn Khuyến viết, bài văn tế Nguyễn Tri Phương do Nguyễn Khuyến viết thay cho quan dân tỉnh Thanh Hoá. Vì vậy, đã đến lúc việc sưu tầm và bảo quản tư liệu Hán Nôm phải đặt ra một cách khẩn cấp: 1. Cần tiến hành gấp công việc công việc sưu tầm trong phạm vi cả nước, nếu không thì các tư liệu Hán Nôm hiện còn nằm trong dân gian có nguy cơ bị huỷ hoại hoặc mất mát. Công việc này không thể tiến hành đơn thuần bằng con đường hành chính, mà chủ yếu là phải bằng con đường quần chúng, không phải chỉ là công việc của cơ quan chuyên trách, của cán bộ chuyên ngành, mà phải là công tác hiệp đồng của nhiều cơ quan, nhiều tập thể, nhiều người. Cần có sự phối hợp giữa các ngành giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm với các lực lượng nghiên cứu khác từ trung ương đến các địa phương, nhất là với các lực lượng nghiên cứu có mối quan hệ liên ngành. 2. Đối với mảng tư liệu Hán Nôm còn đọng lại trong dân gian, cần được bảo vệ thật tốt ngay tại chỗ. Để bảo vệ kho di sản Hán Nôm, đề nghị Nhà nước ban hành các luật lệ, các quy chế cần thiết như nghiêm cấm việc huỷ hoại, việc đem ra nước ngoài các tư liệu Hán Nôm, bao gồm các thư tịch Hán Nôm và các di vật văn hoá có chứa đựng các tư liệu Hán Nôm. 3. Để sưu tầm được hết những thư tịch và tư liệu Hán Nôm có giá trị, các địa phương nên tiến tới lập một bảng thống kê về các tư liệu Hán Nôm, một thư mục Hán Nôm hiện tồn trữ ở địa phương. Viện Nghiên cứu Hán Nôm cần liên hệ mật thiết với các địa phương để nắm được số lượng tư liệu Hán Nôm của các nơi rồi trên cơ sở trên lập bảng Tổng kê và bảng Tổng thư mục Hán Nôm trong cả nước. Ở các địa phương, tỉnh, thành, cần thiết lập kho Hán Nôm trong các thư viện tổng hợp của mình. Trong phạm vi toàn quốc, nên tiến tới thành lập một Viện bảo tàng về Hán Nôm, được coi là tổng kho tư liệu Hán Nôm để phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu của cả nước. 4. Để giới nghiên cứu có thể thông tin kịp thời cho nhau những kết quả sưu tầm và nghiên cứu Hán Nôm, đã đến lúc cần có một tập san hoặc một tạp chí chuyên ngành Hán Nôm. 5. Muốn cho công tác sưu tầm và bảo vệ tư liệu Hán Nôm thu được kết quả trong phạm vi cả nước, đề nghị nên tổ chức một Hội học thuật để tập hợp lực lượng quần chúng tham gia vào những công việc này. Tất nhiên, Hội học thuật này phải nằm trong hệ thống các đoàn thể quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nếu chưa thành lập được Hội học thuật như vậy, thì cũng nên lập một Ban liên lạc những người làm công tác Hán Nôm học như kiểu Ban liên lạc tâm lý học toàn quốc hiện nay. |
KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA CHỮ NÔM THÔNG QUA MÔ HÌNH NGỮ ÂM CỦA CHỮ NGUYỄN TÀI CẨN 1. Trước nay, trong việc nghiên cứu quá trình diễn biến của chữ Nôm, chúng ta thường chỉ dựa vào một cơ sở duy nhất: dựa vào các phương thức cấu tạo (như phương thức giả tá, phương thức hình thành, phương thức hội ý,vv…). Đối chiếu các văn bản thuộc các thới kỳ khác nhau về phương diện này, chúng ta thường cố gắng chỉ ra: 1) tỷ lệ giữa các phương thức đã diễn biến theo những chiều hướng như thế nào? 2) trong cách viết của từng chữ cụ thể đã có những sự cải tiến, chuyển đổi phương thức như thế nào? Đi theo hướng này, chúng ta không thể không gặp phải một số khó khăn nhất định: trong các giai đoạn xa xưa, chúng ta quá thiếu cứ liệu; từ thế kỷ XV trở về sau, tuy chúng ta có đủ cứ liệu hơn, nhưng những văn bản lớn, có niên đại thực sự chính xác lại không thật nhiều. Do các lẽ đó, đi theo hướng này, sự hiểu biết của chúng ta mãi đến nay vẫn còn bị hạn chế. 2. Để góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề quá trình diễn biến của chữ Nôm, dưới đây chúng tôi xin gợi ý thêm một hướng nghiên cứu mới: hướng nghiên cứu dựa vào cái gọi là “các mô hình ngữ âm” trong mỗi chữ. Trước hết, xin giới thiệu qua vài nét về mô hình ngữ âm. Lấy một ví dụ như trường hợp chữ Trèo ghi bằng thanh phù(liêu) chẳng hạn, căn cứ vào cách đọc hiện nay, có thể nói chúng ta hiện có những mô hình sau đây: |
- Về mặt phụ âm đầu | : mô hình TR(1) |
- Về mặt nguyên âm chính | : mô hình E(iê) |
- Về mặt âm cuối | : mô hình 0(u) |
- Về mặt thanh điệu | : mô hình THANH HUYềN (thanh ngang). |
Để giản tiện hơn, nhập một nguyên âm với một âm cuối, chúng ta cũng có thể nói |
- Về mặt phụ âm đầu, chúng ta có | : TR(1) |
- Về mặt vận bộ, chúng ta có | : EO(iêu) |
- Về mặt thanh điệu, chúng ta có | :THANH HUYềN (Thanh ngang) |
Hoặc để giản tiện hơn nữa, chúng ta cũng có thể rút gọn lại chỉ còn: |
- Về mặt phụ âm đầu | : mô hình TR(1) |
- Về mặt vần | : mô hình ÈO(iêu). |
TT | Từ hoặc cụm từ Việt | Nghĩa La Tinh tương ứng | Trang |
Ví dụ 1 | Tội Tội vạ Tội tổ tông Kẻ có tội |
Peccatuni Poeau peccati Peccatum originale Peccalor |
628 |
Ví dụ 2 | Trắp Sửa trắp nâng khăn |
Species pixidi Muliebre officium |
642 |
TT | Mục từ Việt | Nghĩa la tinh tương ứng | Trang |
Ví dụ 1 | 謨 Mua | Emere | 381 |
Ví dụ2 | Sợi | Numerale Filorum capillorum, pilorum herbae | 532 |
Ví dụ 3 | 律 Trút | Fundere | 662 |