THI KINH GIẢI ÂM - VĂN BẢN SỚM NHẤT NGUYỄN QUANG HÔNG Tiểu dẫn Trong số các bản giải âm chữ Nôm Thi kinh bằng văn xuôi hiện còn, thì văn bản Thi kinh giải âm 詩 經 解 音 khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) cho đến nay vẫn được giới nghiên cứu yên trí coi là bản cổ nhất. Về việc này, ngay từ năm 1952, GS. Hoàng Xuân Hãn đã có những khảo cứu sớm nhất, rất công phu và đáng trân trọng. Sau khi phân tích hai tờ chiếu của vua Quang Trung gửi Nguyễn Thiếp về việc dịch Nôm các kinh Thi, Thư, Dịch, một tờ đề ngày mồng một, một tờ đề ngày mồng bốn tháng sáu (âm lịch) năm 1792, Giáo sư viết: - “Nay xét tờ truyền của triều đường thì ba tháng phải dịch xong ba kinh mà kinh “Thi” phải dịch gấp trước. Nếu đúng hẹn thì non một tháng kinh “Thi” phải dịch xong, bấy giờ vào thượng tuần tháng bảy năm Quang Trung thứ 5 (1792). Xem vậy bản diễn âm của cụ [Nguyễn Thiếp] có thể đưa khắc vào mùa thu năm ấy, là khắc lần đầu, vì chỉ đề chữ “thuyên” là khắc, chứ không đề “tân thuyên” là mới khắc, hay “trùng thuyên” là khắc lại. Sự ấy chứng rằng bản ấy trước đó chưa khắc bao giờ, và có lẽ nó mới làm ra chưa được bao lâu”(1). - “Nói tóm lại, bởi nhiều lẽ, tôi nghĩ rằng quyển “Thi văn [kinh] giải âm” chính là bản của Sùng Chính viện”(2). Như vậy là Hoàng Xuân Hãn sau khi trình bày một số luận cứ xem ra rất đáng tin cậy, đã đi tới kết luận (mà GS. dùng chữ “nghĩ rằng”) là: bản Thi kinh giải âm khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) chính là bản của Sùng Chính viện, bản ấy trước đó chưa được khắc in bao giờ. Nhận định này của Hoàng Xuân Hãn đã được tiếp nhận khá rộng rãi ở các học giả sau này. Chắc hẳn nhà thư tịch học nổi tiếng Trần Văn Giáp cũng đã tiếp thu quan điểm đó khi ông viết: - “Sùng Chính thư viện được giao việc dịch Nôm chua nghĩa và giải thích một số sách để làm tài liệu giáo khoa, hiện nay còn giữ được bộ Thi kinh giải âm (TV. KHXH, kí hiệu AB.144/1-5) in năm Quang Trung thứ 5 (1792) là một trong những bộ sách do Sùng Chính thư viện biên soạn”(3). Trong công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tập II, 1990) khi liệt kê tác phẩm của Nguyễn Thiếp, tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi vào đấy cả “ Thi kinh giải âm 詩經解音 (chủ biên?)”(4). Dấu “hỏi chấm” (?) mà tác giả chua vào sau chữ “chủ biên” đã cho thấy thái độ thận trọng trong khoa học của học giả họ Trần, nhưng với những lời viết như trong trích dẫn trên đây thì rõ ràng ông đã khẳng định: bản Thi kinh giải âm 1792 là sản phẩm “dịch Nôm chua nghĩa và giải thích” của Sùng Chính viện thời vua Quang Trung. Tiếp theo hai nhà nghiên cứu tiền bối Hoàng Xuân Hãn và Trần Văn Giáp, các học giả ngày nay mỗi khi nhắc đến Thi kinh giải âm hầu như thảy đều cho rằng Sùng Chính viện là đơn vị dịch Nôm và cho khắc in văn bản này lần đầu tiên vào thời Quang Trung năm 1792. Chẳng hạn, có thể dẫn lời sau đây trong một cuốn sách viết khá công phu của Ngô Đức Thọ làm đại diện: - “ Thi kinh giải âm, sách do Sùng Chính thư viện dịch Nôm, khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) theo chỉ dụ của vua Quang Trung, gồm 5 quyển, hơn 900 [...] ”(5). Có lẽ mọi chuyện sẽ vẫn là như vậy, nếu như chúng ta không phát hiện được tư liệu gì mới hơn. Vậy mà thật bất ngờ khi chúng tôi (NQH) đã không khó khăn gì tìm thấy một bản Thi kinh giải âm in theo ván khắc năm Vĩnh Thịnh 10 nhà Lê (1714), nghĩa là trước bản khắc in năm Quang Trung 5 (1792) những 78 năm. Văn bản đó không biết từ bao giờ đã ẩn mình trong kho sách Hán Nôm của Viện Văn học tại Hà Nội, và tình cờ chúng tôi đã tiếp xúc được vào khoảng đầu năm 1999. 1. Giới thiệu và mô tả bản Vĩnh Thịnh 10 (1714) 1.1. Đó là một bộ sách đóng thành 4 tập (sách), lần lượt mang các kí hiệu HN.527, HN.528, HN.529, HN.530(6). Sau khi xem xét sơ bộ về bản giải âm này, nhân có GS. Vương Tiểu Thuẫn từ Trung Quốc sang muốn tìm hiểu về thư tịch Hán Nôm, chúng tôi (NQH) đã giới thiệu cho GS. Vương xem qua toàn bộ văn bản và tặng cho Giáo sư bức ảnh chụp trang bìa của bộ sách. Dựa trên những tư liệu do chúng tôi cung cấp, GS. Vương trong một bài viết đăng trên Tạp chí Hán Nôm năm 2000 đã giới thiệu sơ lược về bản dịch Nôm Thi kinh này. GS. Vương Tiểu Thuẫn viết (qua lời dịch tiếng Việt): “Theo ghi chép, triều Tây Sơn (1786 -1802) khi xây dựng thư viện Sùng Chính, Viện trưởng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng cho khắc in Thi kinh giải âm và diễn Nôm “Tiểu học”, “Tứ thư”. Sách Thi kinh giải âm hiện còn hai loại văn bản: một bản khắc năm 1792 (năm Quang Trung thứ 5) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản này có 12 quyển. Hai là bản khắc năm 1714 (năm Vĩnh Thịnh thứ 10) ở Viện Văn học Hà Nội, trang đầu đề mấy chữ “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nhật tập thành, Kế Thiện đường bản, Kỷ Quyết nhân san” là một tên sách có niên đại sớm nhất trong các sách diễn âm, giải âm được biết hiện thời. Sách này có tất cả 6 sách, hiện còn 4 sách, theo mục lục có 10 quyển. Cả hai văn bản có chữ Hán và chữ Nôm xen kẽ, chữ Hán chú âm, chữ Nôm chú nghĩa thơ. ý nghĩa của bộ điển tịch này ở chỗ, nó mở màn cho lịch sử thời đại văn học dịch - văn học Nôm Việt Nam”(7). Sau lần giới thiệu đó của GS. Vương, đến nay đã gần 5 năm, vậy mà dường như bản giải âm này vẫn chưa được học giới quan tâm đến. Điều này thật lạ, bởi đây là một văn bản giải âm thuộc loại sớm nhất (với niên đại xác tín) và rất quan trọng trong số các văn bản giải âm hiện còn. Như có thể thấy qua đoạn trích dẫn trên đây, GS. Vương Tiểu Thuẫn đã đưa ra một số nhận xét sơ bộ về hai loại văn bản Thi kinh giải âm, một bản khắc in năm 1714 và một bản khắc in năm 1792. Tuy nhiên, những lời giới thiệu của ông như đã dẫn trên là rất sơ lược, thậm chí có một số điểm chưa thật chính xác: Một là, bản Quang Trung 1792 có 10 quyển chứ không phải “12 quyển”. Hai là, không có bất kì chứng cớ nào để có thể đi đến khẳng định bản Vĩnh Thịnh 1714 “có tất cả 6 sách”, bởi một lẽ đơn giản là hiện không còn hai quyển cuối (IX & X) nên ta không thể quả quyết là với 2 quyển IX và X này người ta sẽ đóng thành 2 sách nữa để cùng với 4 sách hiện có làm thành một bộ 6 sách ! Nhưng ta có thể suy luận rằng, bởi các sách hiện còn mỗi sách đều gồm 2 quyển, nên nhiều khả năng là toàn bộ đã được đóng thành 5 sách (hay “tập”, “tập sách”, tức là một đơn vị lưu trữ trong thư viện hiện nay), sách cuối còn khuyết chính là dành cho 2 quyển IX và X. Trong kho sách Hán Nôm ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện vẫn còn một cuốn Thi kinh giải âm mang kí hiệu thư viện VNv.637, trong đó chỉ có quyển VI. Sau khi so sánh với quyển VI của hai bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792, chúng tôi đi đến kết luận rằng: bản lẻ VNv.637 này thuộc bộ ván khắc Vĩnh Thịnh 1714, bởi nó giống bản Vĩnh Thịnh về mọi mặt. Xin xem bảng so sánh sơ bộ những đặc điểm dễ nhận thấy dưới đây (đồng thời cũng thể hiện phần nào sự khác nhau giữa hai bản 1714 và 1792 trong quyển VI): |
TT | Trang/ Dòng |
Thứ tự chữ | Đặc điểm so sánh | Bản Vĩnh Thịnh 1714 | VNv.637 | Bản Quang Trung 1792 |
1 | 2a11 | 7 &8â | 擜昆 trắng con | Bị mờ một nửa bên phải 2 chữ | Bị mờ một nửa bên phải 2 chữ | Không bị mờ |
2 | 2b9 | 2á | 勜 người (có hai nét ngang ở giữa) | Nét ngang trên dài hơn nét ngang dưới | Nét ngang trên dài hơn nét ngang dưới | Nét ngang trên ngắn hơn nét ngang dưới |
3 | 3b9 | 6á | 蒸 chưng | Bốn chấm hỏa tách rời (灬 ) | Bốn chấm hỏa tách rời (灬 ) | Bốn chấm hỏa thành một nét ngang gập ( ) |
4 | 5a | Thứ tự câu chữ bị đảo lộn xộn. | Có | Có | Không (Thứ tự câu chữ vẫn đúng) | |
5 | 15a12 | 5á | Bị một vết đen 1 cm2 che mất(8) | Có | Có | Không (nửa trái là 去 khứ, nửa phải bị mất) |
6 | 16a11 | 9â | 醜 xú | Không bị che | Không bị che | Bị phủ bởi một vết đen |
7 | 32b3 | 9 á | 贑 lắm | Không bị che | Không bị che | Bị phủ bởi một vết đen |
8 | 50b15 | 7â | 拱 cũng | Thẳng đứng 拱 | Thẳng đứng 拱 | Đổ về bên trái |
9 | Tờ 9, 12, 14, 21, 23, 27, 31, 44, 45, 49 | Bị nhòe | Bình thường | Bình thường | Bị nhòe | |
Kết luận | Giống nhau | Khác |
Vị trí các chữ bị phủ đen trong hai bản 1714 & 1792 | |||
Bản 1714 | Bản 1792 | ||
Vị trí | Số chữ bị phủ đen | Vị trí | Số chữ bị phủ đen |
I14b | 2 | III6a | 1 (*) |
II18b | 1 | III40a | 1 |
II33b | 1 (*) | V22a | 1 |
II48b | 2 | VI10a | 2 (*) |
III23b | 2 | VI10b | 2 |
III51a | 2 | VI16a | 1 |
V16a | 16 | VI32b | 1 (*) |
V16b | 2 (*) 1 | VIII7b | 2 |
VI15a | 1 | VIII33a | 2 |
VII14a | 1 | VIII33b | 1 (*) |
Tổng số | 31 | 14 | |
Nhận xét: Những vị trí chữ bị phủ đen ở bản 1714 thì còn nguyên ở bản 1792, và ngược lại, những vị trí chữ bị phủ đen ở bản 1792 thì còn nguyên vẹn ở bản 1714. | |||
Ghi chú: 1. Kí hiệu (*): thuộc phần văn Nôm. 2. Những vị trí bị phủ đen trong phần Hán văn có chỗ không tương ứng với nội dung trong bản Thi kinh tập truyện 詩 經 集 傳 của Chu Hi. |
d. Một số đặc điểm khác Đầu tiên là một số trường hợp khi viết các từ láy song tiết, nếu như ở bản Vĩnh Thịnh viết lặp lại hoàn toàn hai chữ, thì ở bản Quang Trung chỉ khắc một chữ, còn chữ thứ hai thì nhắc lại bằng một “dấu láy” (“<” hoặc “匕”) lại mà thôi. Chẳng hạn, trên trang 16a (xin xem phụ lục H4) và tờ 27 quyển V ta thấy có sự khác nhau như sau: |
Vị trí (Quyển/trang/dòng) | Bản Vĩnh Thịnh 1714 | Bản Quang Trung 1792 |
V16a1 | 派 派 (*) | 派 < (*) |
V16a2 | 蕩 蕩 (*) | 蕩 < (*) |
V16a15 | 遲(14)遲 | 遲 < |
V27a4 | 爽 爽(*) | 爽匕(*) |
V27a11 | 潭 潭(*) | 潭 < (*) |
V27a13 | 鑍 鑍(*) | 鑍 < (*) |
V27a15 | 湛 湛 | 湛 < |
V27b1 | 湛 湛 | 湛 < |
V27b5 | 潭 潭(*) | 潭 < (*) |
V27b5 | 鑍 鑍(*) | 鑍 < (*) |
V27b11 | 潭 潭(*) | 潭 < (*) |
Kí hiệu (*) : thuộc phần văn Nôm. |
Những chữ viết tắt bằng “dấu láy” (tạm thể hiện bằng kí hiệu “ < ” và “匕”) như ở bản Quang Trung 1792 đã góp phần khẳng định về sự tồn tại thực của hai hệ ván khắc khác nhau, chứ hoàn toàn không phải người ta đã dùng lại một bộ ván cũ đã mòn, bởi dù có mòn đến đâu chăng nữa thì các chữ “派, 蕩, 遲, 爽, 潭, 鑍 ” cũng không thể mòn thành dấu “ < ” và “匕”được (xin xem phụ lục H4). Từ đây ta thấy bản Quang Trung 1792 có thiên hướng viết giản lược (bằng cách dùng “dấu láy”), thậm chí có chỗ còn dùng cách ghi tương ứng với chữ giản hóa đang dùng trong tiếng Hán, chẳng hạn ở dòng 5 trang 30a quyển IV, chữ 聲 thanh ở bản Vĩnh Thịnh đã được bản Quang Trung thay bằng 声 viết theo lối giản hóa. Hơn nữa, trang 5a quyển VI của hai bản cũng khác nhau rõ rệt về bố cục và nội dung câu chữ. Trong bản Vĩnh Thịnh 1714 (kể cả bản in VNv.637), không rõ vì nguyên nhân nào mà trang này thấy có những yếu tố bất thường: đang là trang 5a lại bỗng xuất hiện dòng tiêu đề 詩 經 解 音 卷 之 六 ( Thi kinh giải âm quyển chi lục); phần còn lại thì có câu thiếu chữ, vị trí các chữ (cả Hán và Nôm) lẫn lộn không ra lề lối gì. Tình hình này không xảy ra ở bản Quang Trung 1792 (xin xem phụ lục H5). Lại thêm ở trang 21a quyển IV ở cả hai bản đều để chừa ra một khoảng trống 3x12cm2, duy có điều trong bản Vĩnh Thịnh 1714, khoảng trống này ở phía dưới cùng, còn trong bản Quang Trung 1792 thì khoảng trống này lại ở bên trên cùng của khuôn khổ trang. Những đặc điểm trình bày trong phần (d) tuy không mang tính phổ biến, nhưng nó lại là những chứng cớ rất thuyết phục để khẳng định việc trùng thuyên, ít nhất là trùng thuyên những tờ / trang chứa các đặc điểm ấy. 3. Mấy nhận xét bổ sung 3.1. Về người giải âm. Trước hết, chúng tôi xin dành đôi dòng để kể đến những văn bản Thi kinh bằng chữ Nôm hiện chúng ta chỉ biết qua ghi chép của cổ nhân, chứ không còn văn bản để chứng thực, đó là các bản giải âm của Hồ Quý Li, Nguyễn Quý Kính và Miên Thẩm. Theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản Chính Hòa): “Tháng 11 [năm Quang Thái thứ 9 (1396)], [Hồ] Quý Ly làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa và bài tựa, sai nữ sư dạy hậu phi và cung nhân học tập. Bài tựa phần nhiều theo ý mình, không theo tập truyện của Chu Tử”(15). Theo ghi chú của người dịch bộ sử kí này, thì đây có lẽ là một bản “giải thích Kinh Thi bằng quốc ngữ hay dịch Kinh Thi ra quốc ngữ (chữ Nôm)”. Nhưng tư liệu này hiện không còn giữ được. Theo gia phả dòng họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội, Quốc sư công vị Đại vương Nguyễn Quý Kính (hay Cảnh (憼),1693 - 1766, đích tôn của Nguyễn Quý Đức) “tuy tham gia chính sự, có nhiều trọng trách song vẫn ham mê trước thuật. Ông đã bỏ công phu thích nghĩa bộ Tứ thư, Ngũ kinh ra quốc âm và soạn bộ Trung hiếu kinh chú giải để giảng dạy”(16). Tư liệu này hiện cũng không có gì đủ chứng thực, ngoài những ghi chép trong gia phả. Đại Nam liệt truyện 大 南 列 傳 liệt kê trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870), trong đó có Thi kinh quốc âm ca 詩 經 國 音 歌(17), đây hẳn phải là một bản diễn ca Thi kinh, phải chăng nó là một trong những bản diễn ca Thi kinh hiện còn ? Chúng tôi hi vọng sẽ trở lại với câu hỏi này trong một dịp khác. Theo suy luận của chúng tôi, người giải âm bản Vĩnh Thịnh 1714 không thể là Hồ Quý Ly, bởi bản 1714 hoàn toàn theo Chu Hi; cũng không thể là Nguyễn Quý Kính, bởi cho tới khi bản 1714 được khắc in thì Nguyễn Quý Kính mới có 22 tuổi, đó là độ tuổi quá trẻ, ở tuổi ấy người xưa thường để chí vào lập thân trên khoa trường và quan trường hơn là đi giải âm một kinh điển Nho gia; và hiển nhiên không thể là Miên Thẩm, bởi ông sinh sau thời điểm 1714, hơn nữa bản của Miên Thẩm lại là một bản diễn ca ( Thi kinh quốc âm ca ), không phải bản giải âm theo văn xuôi. Vậy phải chăng vấn đề người giải âm bản Thi kinh giải âm 1714 là bất khả khảo? Chúng tôi nghĩ đến một giả thiết, có phần hơi mạo hiểm, nhưng nếu không mạo hiểm một chút, thì chẳng gợi mở được gì. Vả lại giả thiết của chúng tôi cũng không phải hoàn toàn vô lí. Có một sự tương đồng đặc biệt giữa bản Thi kinh giải âm 1714 và bản Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú 傳 奇 漫 錄 增 補 解 音 集 註 (cũng khắc ván in năm Vĩnh Thịnh 1714, hiện lưu trữ tại Nhật Bản) khiến chúng tôi nghĩ đến giả thiết này. Theo những thông tin ghi nhận được từ công trình nghiên cứu của một học giả Nhật Bản về bản Truyền kì mạn lục giải âm Vĩnh Thịnh 1714(18), chúng tôi thấy giữa hai bộ sách giải âm này quả thật có rất nhiều điểm tương đồng: thời điểm khắc in (1714), nhà tàng bản (Kế Thiện đường 繼 善 堂(19)), cách thức để thành thư (tập thành 輯 成 ), hình thức trình bày văn bản (nét khắc, bố cục từng phần) v.v. Vậy còn một vấn đề duy nhất hiện chưa thể làm sáng tỏ, mà ở đây chúng tôi chỉ tạm đặt giả thiết, rằng người phiên Nôm của hai văn bản này phải chăng cũng là một người, tức theo ghi chép trong Công dư tiệp kí 公 餘 捷 記 thì có thể là Nguyễn (Thế) Nghi (?). Đi sâu khảo sát phong cách dịch thuật (dịch Hán sang Nôm) của hai văn bản này, chúng ta sẽ hi vọng có thể làm sáng tỏ vấn đề dịch giả, nếu không phải thực sự là Nguyễn Thế Nghi, thì chí ít ta cũng có thể biết được người giải âm hai văn bản Thi kinh và Truyền kì mạn lục là một người hay hai người khác nhau. Nhưng công việc này đòi hỏi khá nhiều thời gian và tâm sức, hiện chúng tôi chưa có điều kiện thực hiện trọn vẹn được. 3.2. Về thời điểm ra đời. Thời Lê Vĩnh Thịnh (1705-1719), theo một số tư liệu cho biết, là thời điểm chín muồi cho bản Thi kinh giải âm ra đời. Khẳng định điều này, chúng tôi căn cứ vào những ghi chép trong sử sách. Nhưng chính sử ít ghi nhận về những vấn đề liên quan đến chữ Nôm văn Nôm, chúng tôi chuyển hướng đi tìm tư liệu trong dã sử, đó là cuốn Lịch triều tạp kỉ 曆 朝 雜 紀 do Ngô Cao Lãng biên soạn, Xiển Trai bổ sung. Lịch triều tạp kỉ đã gián tiếp cho biết, trong những năm Vĩnh Thịnh (1705-1719) thời Lê Dụ Tông đã có một số yếu tố mang tính điều kiện để bản Thi kinh giải âm được khắc in và lưu hành phổ biến. Những ghi chép ấy là về các khía cạnh sau đây: Thái độ với chữ Nôm của nhà cầm quyền là khá mềm dẻo, chữ Nôm thậm chí còn được đưa vào khoa cử: ngày 4 tháng 7 mùa thu năm 1715, thi Sĩ vọng, trong đề thi có một bài cho phép: “Bài này cho làm bằng Nôm”(20). Năm 1718, Phủ liêu vâng mệnh truyền cho cả nước: “Phàm các sách vở gì có quan hệ đến việc giáo hóa ở đời thì mới nên khắc in và lưu hành. Gần đây, những kẻ hiếu sự lượm lặt càn bậy những truyện tạp nhạp và lời quê kệnh bằng quốc âm, không biết phân biệt nên hay chăng, cứ khắc vào ván gỗ, in ra để buôn bán. Việc đó đáng nên cấm. Từ nay về sau, hễ nhà nào có chứa chấp các ván in sách và các sách in nói trên thì cho phép viên quan đi ốp làm, việc ấy được lục soát, tịch thu, rồi tiêu hủy hết cả”(21) (những phần gạch chân là do chúng tôi nhấn mạnh - NQH & NTC). Như vậy là nhà cầm quyền dù cấm ngặt việc khắc in văn Nôm (quốc âm) những truyện tạp nhạp, nhưng lại có chủ trương khuyến khích “sách vở gì có quan hệ đến việc giáo hóa ở đời thì mới nên khắc in và lưu hành”. Ta cũng nhận thấy rằng sử liệu ghi “Gần đây, những kẻ hiếu sự lượm lặt càn bậy những truyện tạp nhạp và lời quê kệnh bằng quốc âm, không biết phân biệt nên hay chăng, cứ khắc vào ván gỗ, in ra để buôn bán” thì chứng tỏ cho đến năm 1718, ở lãnh thổ Việt Nam chắc chắn đã có rất nhiều văn bản Nôm khắc in được lưu hành, đáng tiếc là trong số ấy hiện chẳng còn bao nhiêu, nhưng chúng ta đã lưu giữ được hai văn bản cực kì quý giá: đó là các bản giải âm Truyền kì mạn lục và Thi kinh cùng khắc in năm 1714 ở Kế Thiện đường. Nhà cầm quyền đương thời mà cụ thể là chúa Trịnh Cương yêu thích thơ Nôm, ông làm nhiều thơ Nôm, không chỉ được ghi lại trong Lịch triều tạp kỉ mà còn ở nhiều nơi khác. Các chúa Trịnh làm rất nhiều thơ Nôm: Trịnh Căn (cụ nội của Trịnh Cương), Trịnh Doanh (con), Trịnh Sâm (cháu nội) đều có nhiều thơ Nôm truyền lại đến ngày nay(22). Thêm nữa, năm 1728, “chúa Trịnh [Cương] vời các triều sĩ vào phủ đường, sai làm bài Biểu chương ngũ kinh tự văn 表 章 五 經 序 文 (Bài tựa biểu dương năm kinh). Bài văn của Thám hoa Phạm Khiêm ích, Lại bộ Thị lang, được lấy vào bậc nhất, hạng trúng cách, trong đó có những đoạn: “[...] thời thường đưa ngòi bút thánh phê vào kinh văn, ngày ngồi trong tòa kinh diên giảng sách, dò tìm cho ra những nghĩa sâu sắc; giẫm trên đất chắc, sở đắc ở trong tâm mà thi thố ra thực hành, vùng vẫy trong bầu trời như diều bay cá nhảy tự do. Cái công biểu dương Ngũ kinh chúa thượng [chỉ Trịnh Cương] thực đủ hơn hẳn Hán, Đường và vượt cả Tống, Minh [...]”(23). Trịnh Cương yêu thích Ngũ kinh, lại thích làm thơ Nôm, vậy hẳn phải yêu thích Thi kinh, nhất là bản Thi kinh giải âm này, và dù vô tình hay hữu ý thì hẳn nhiên ông đã là người bật đèn xanh cho nó được khắc in và lưu hành. Với những điều kiện hết sức thuận lợi như trên, thời điểm ra đời của bản Thi kinh giải âm ở những năm Vĩnh Thịnh là vô cùng hợp lí, nếu sớm hơn thì chỉ có thể là thời Lê Hồng Đức (nhưng hiện không có chứng cứ để khẳng định điều này), mà cũng chẳng cần phải đợi đến những năm Quang Trung cuối thế kỉ XVIII mới vấn thế. 3.3. Về quá trình lưu truyền. Một vấn đề cũng cần phải quan tâm tìm hiểu là hai bản 1714 và 1792 đã tồn tại và lưu truyền như thế nào trong lịch sử ? Trong các công trình thư mục học nổi tiếng của mình, hai nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) và Phan Huy Chú (1782-1840) đều không ghi hai bản này(24). Họ đã bỏ qua ? Hay là bởi cả hai bản trên đều rất hiếm nên không đến được tay họ? Chúng ta cũng cần chú ý là họ Lê và họ Phan không hẳn đã thống kê đủ số sách vở đương thời, trong điều kiện tư liệu thời bấy giờ thì khả năng bỏ sót của hai ông là rất lớn. Nhưng một số thư tịch đã có những ghi chép về sự tồn tại của hai bản này. Theo Hoàng Việt văn tuyển 皇 越 文 選 của Bùi Huy Bích, trong bài Chu Dịch ca quyết tự 周 易 歌 訣 序 (bài tựa cuốn Chu Dịch quốc âm ca quyết của Đặng Thái Phương (hay Bàng 滂, 1674 - ?) đề năm Gia Long thứ 12 (1813), Phạm Quý Thích (1759-1825) đã nhắc đến một bản Thi kinh giải nghĩa “vốn đã lưu hành trên đời” (固 已 行 於 世 矣)(25). Như đã dẫn ở phần trước, Nội các thư mục (1908) có ghi rằng: “Thi kinh giải âm, 1 bộ 10 cuốn (bản)”(26). Ở thời điểm năm 1813 khi Phạm Quý Thích đặt tựa, hệ bản Thi kinh diễn nghĩa chưa có (mà phải đến các năm 1836, 1837 thời Minh Mệnh, hệ bản này chúng tôi sẽ giới thiệu cụ thể trong một dịp khác), cộng thêm chủ trương hủy diệt di văn Tây Sơn của chính quyền Gia Long, khiến chúng tôi ngờ rằng, bản Thi kinh giải âm (nghĩa) mà Phạm Quý Thích và Nội các thư mục nhắc đến có nhiều khả năng sẽ là bản giải âm Vĩnh Thịnh 1714, chứ khó có thể là một bản Thi kinh giải âm khắc in rất rõ hai dòng niên đại Quang Trung (như đã trình bày ở phần trước của bài viết này), mà lại “vốn đã lưu hành trên đời” ngay ở thời Gia Long. Tiểu kết Qua bài khảo cứu này, chúng tôi đi đến một số kết luận chủ yếu như sau: Bản Thi kinh giải âm sớm nhất hiện còn là bản khắc năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) nhà Lê, vốn đủ 10 quyển, nhưng nay chỉ còn giữ được 8 quyển đầu, thiếu 2 quyển cuối (quyển IX và quyển X), hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Văn học, Hà Nội. Bản Thi kinh giải âm đời Quang Trung 5 (1792) có thể là sản phẩm của Sùng Chính viện, nhưng Sùng Chính viện chỉ có vai trò khắc lại (có sửa chữa không đáng kể) bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 1714, chứ tuyệt đối không phải là người (đơn vị) thực hiện công việc giải âm. Chỉ cần như vậy thôi, vua Quang Trung và bề tôi của ông cũng đã xứng đáng được tôn vinh là những người coi trọng việc học hành và biết kế thừa di sản văn hóa của tiền nhân. Hai bản Thi kinh giải âm Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792 thuộc hai bộ ván khắc khác nhau, tức là bản Quang Trung đã trùng thuyên bản Vĩnh Thịnh, trên nguyên tắc là khắc lại gần như nguyên vẹn bố cục và kích cỡ từ một bản in theo ván khắc Vĩnh Thịnh (có sửa chữa nhưng không đáng kể). Mặc dù được khắc in trước, nhưng không thể nói chắc rằng bản Vĩnh Thịnh là hoàn thiện hơn bản Quang Trung. Không kể sự vắng thiếu quyển IX và quyển X ở bản Vĩnh Thịnh hiện chưa tìm thấy được, thì trong bản Vĩnh Thịnh 1714 vẫn có những chỗ cần được đối chiếu với bản Quang Trung 1792 để bổ cứu cho được chính xác và hoàn chỉnh hơn. Phát hiện bản in theo ván khắc năm Vĩnh Thịnh 1714 là rất có ý nghĩa không những cho việc nghiên cứu tác phẩm Thi kinh giải âm, mà còn góp thêm cứ liệu đáng tin cậy cho việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển văn chương dịch thuật từ Hán sang Nôm ở thời trung đại. Chúng tôi mong rằng sẽ có dịp trở lại với những vấn đề có liên quan tới các truyền bản Thi kinh giải âm khác nhau, cũng như mối liên quan giữa chúng với các văn bản giải âm khác trong kho tàng văn chương chữ Nôm của nước ta. N.Q.H - N.T.C CHÚ THÍCH: (1) Xin xem: Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, Nxb. Minh Tân, 1952; dẫn theo lần tái bản trong bộ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hữu Ngọc & Nguyễn Đức Hiền sưu tập biên soạn, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.1072. (2) La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr.1073. (3) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.121. (4) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Sđd, tr.121. (5) Ngô Đức Thọ. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, 1997, tr.110. (6) Trong hộp phích ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu sách Hán Nôm tại các thư viện khác tại Hà Nội có hai phích ghi tên sách Thi kinh giải âm ở Viện Văn học với kí hiệu sách HN.524 và HN.525, chúng tôi đã kiểm tra lại hai kí hiệu sách này ở Viện Văn học thì thấy đây là hai cuốn Thi vận tập yếu 詩 韻 集 要 chứ không phải Thi kinh giải âm (7) Vương Tiểu Thuẫn, Việt Nam phỏng thư trát kí, trích dịch phần 5: Diễn âm, diễn nghĩa, diễn ca và diễn tự. Tạp chí Hán Nôm, số 4 , 2000, tr. 94-99. (8) Chữ bị che vốn thuộc phần chú thích bằng Hán văn, nhưng đối chiếu với bản chú giải của Chu Hi thì không có chữ này. (9) Ví dụ xin xem Thập tam kinh chú sớ 十 三 經 注 疏 (tập thượng), Chiết Giang cổ tịch xuất bản xã, 1998, tr.498, thiên Miên man 綿 蛮, các chữ “miên” đều là chứ không viết là 綿. (10) Nội các thư mục, kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.113, phần Kinh bộ, tờ 6a. Chúng tôi hiểu khái niệm “本 bản” trong Nội các thư mục nghĩa là “số quyển”, so sánh với việc ghi chép các sách khác trong Nội các thư mục thì đúng như vậy. (11) Xin xem: Nguyễn Quang Hồng: “ Vấn đề niên đại của văn bản Đại Việt sử kí toàn thư (Nội các quan bản)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 + 6, 1988, tr.40-45; cũng xem: Vũ Minh Giang “ Về niên đại bản Nội các quan bản của sách Đại Việt sử kí toàn thư”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 + 6, 1988, tr.58-62. (12) Loại b3 có thể chia làm nhiều tiểu loại, theo sự khác nhau về bố cục các phần trắng và đen bên trong vòng tròn, như: trong vòng tròn có hình dấu cộng (+) trắng; có dấu nhân (x) màu trắng; trên trắng dưới đen; trên đen dưới trắng; bốn chấm trắng cách đều như hình hoa... chia như thế quá phức tạp, chúng tôi gộp chung vào một loại b3 để tiện trình bày. (13) Cụ thể số tờ có khác nhau về dấu ngăn cách trong từng quyển: quyển I có 4 tờ khác nhau trong số 27 tờ của quyển I, qII 21/51, qIII 19/57, qIV 18/46, qV 19/44, qVI 11/55, qVII 10/47, qVIII 14/56. (14) 遲 遲: Chữ 遲 thứ nhất vốn trong nguyên bản Vĩnh Thịnh 1714 là một vết phủ đen (do ván khắc), chúng tôi khôi phục lại thành nguyên dạng (遲) để tiện so sánh. (15) Đại Việt sử kí toàn thư, Nội các quan bản, bản dịch tập II, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. KHXH, H., tr.190. Nguyên văn: 十 一 月, 季 犛 作 國 语 诗 义 并 序, 令 女 師 教 厚 妃 及 宫 人 學 習. 序 中 多 出 己 意, 不 從 朱 子 集 傳.( Bản kỉ toàn thư, quyển VIII, tờ 27b). (16) Dẫn theo: Yến Trang: Dòng họ Nguyễn Quý với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài ở thế kỉ XVIII, in trong: Danh nhân Nguyễn Quý Đức- nhà chính trị văn hóa lớn thế kỉ XVII - XVIII (Kỉ yếu hội thảo Danh nhân văn hóa Nguyễn Quý Đức (1648 - 1720) tổ chức tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 23/12/2000), Viện Sử học & Ban liên lạc dòng họ Nguyễn Quý xuất bản, H. 2000, tr.150-160; cũng xem thêm: Nguyễn Thanh Tùng: Đóng góp của dòng họ Nguyễn Quý đối với lịch sử văn hóa dân tộc, in trong cùng cuốn kỉ yếu trên, tr.130-149. (17) Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, bản dịch của Viện Sử học, tập III, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.105. (18) Kawamoto Kuniye (川 本 邦 衛), 傳 奇 漫 錄 刊 本 攷 (Truyền kì mạn lục san bản khảo). Khánh Hưng nghĩa thục Đại học xuất bản. Tokyo, 1998. (19) Kế thiện đường 繼 善 堂: hiện chúng ta mới chỉ biết đến nhà tàng bản Kế thiện đường qua việc khắc in hai bản giải âm Thi kinh và Truyền kì mạn lục vào năm 1714, ngoài ra không có thông tin gì thêm. Trong công trình Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu (Trần Nghĩa & Franỗois Gros đồng chủ biên, bộ ba tập, Nxb. KHXH, 1993) ghi nhận bản Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇 kí hiệu AC.238 trong kho sách Hán Nôm là sản phẩm của Kế Thiện đường. Điều này e rằng không đúng, bởi chúng tôi kiểm tra lại nguyên bản Văn đế bách hạnh thiên AC.238 thì nhà tàng bản là Kế Thiện đàn (繼 善 壇) ở huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương cũ (nay thuộc Hải Phòng), chứ không phải Kế Thiện đường. Còn Kế Thiện đường và Kế Thiện đàn có liên quan gì với nhau hay không là vấn đề đòi hỏi phải được tiếp tục xem xét. Riêng trong danh sách các nhà tàng bản do Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi lập cũng không có tên nhà tàng bản Kế Thiện đường hay Kế Thiện đàn (xin xem Mai Hồng & Nguyễn Hữu Mùi, Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm, số 1-1986, tr.43-55). (20) Ngô Cao Lãng biên soạn, Xiển Trai bổ sung, Lịch triều tạp kỉ, Hoa Bằng & Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. KHXH, H. 1995, tr.202. (21) Lịch triều tạp kỉ, sđd, tr.269. (22) Xin liệt cử một số thơ Nôm của các chúa Trịnh: Trịnh Căn: Thiên hòa doanh bách vịnh (88 bài thơ Nôm); Trịnh Doanh: Càn nguyên ngự chế thi (240 bài thơ Nôm); Trịnh Sâm: rất nhiều thơ Nôm trên các bia đá và ma nhai hiện vẫn còn tại chùa Hương và nhiều di tích khác. Ông và bố Trịnh Cương đều mất sớm, không làm chúa, cũng không thấy có thơ văn truyền lại. (23) Lịch triều tạp kỉ, sđd, tr.433-434. (24) Xin xem: - Lê Quý Đôn, Nghệ văn chí 藝 文 誌, in trong Lê Quý Đôn toàn tập, tập III: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, Nxb. KHXH, H. 1978, tr.98-113. Tất nhiên, Lê Quý Đôn mất năm 1784 thì không thể biết tới bản Thi kinh giải âm khắc in năm Quang Trung 1792. - Phan Huy Chú, Văn tịch chí 文 籍 誌, in trong Lịch triều hiến chương loại chí, Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam phiên dịch và chú giải, tập IV, Nxb. Sử học, 1961, tr.41-133; hoặc in trong Lịch triều hiến chương loại chí, Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch, tập IX, Tủ sách cổ văn - ủy ban dịch thuật, Bộ Văn hóa Giáo dục và thanh niên, 1974. (25) Xin xem: Bùi Huy Bích, Hoàng Việt văn tuyển, bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, tập II, Tủ sách cổ văn - ủy ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1972, phần nguyên bản Hán văn quyển VII, tờ 18a; phần dịch văn trang 291. Nguyên văn: “越 之 與 諸 華, 學 同 而 音 異,老 儒 先 生 往 往 演 為 國 音, 取 其 便 初 學, 詩 經 解 義,固 已 行 於 世 矣”. Dịch văn: “Nước Việt ta đối với các nước Hoa Hạ, cùng học một sách mà phát âm khác nhau, nên các bậc lão nho thường diễn ra quốc âm để tiện cho người [mới] học, như bộ Thi Kinh giải nghĩa, đã được truyền bá ở đời”. (26) Nội các thư mục, tài liệu đã dẫn./. PHỤ LỤC |
ĐẶC ĐIỂM VĂN BẢN VÀ NỘI DUNG Chúng tôi giới thiệu một cách khái quát trước hết về văn bản và nội dung của các tục lệ làng xã cổ truyền, sau đó là vai trò của nó trong việc quản lí làng xã ở các thời kì lịch sử, cũng như mặt tích cực, hạn chế của tục lệ cổ truyền trong quản lý và xây dựng làng văn hóa hiện nay ở nước ta. 1. Tục lệ và văn bản tục lệ làng xã cổ truyền Mỗi làng xã cổ truyền Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng biệt, định hình thành tục lệ làng xã. Hầu hết các tục lệ này được ghi chép thành văn bản mà phần lớn trong đó đã được sưu tầm, sao chép và hiện đang được bảo quản trong kho sách Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ở một số thư viện khác ở trung ương, cũng như ở địa phương. Tên gọi cho các văn bản tục lệ này khá đa dạng, như tục lệ, khoán lệ, hương ước... trong đó phần lớn các văn bản cổ đều ghi là khoán lệ, tức là những điều lệ cụ thể của làng xã. Các điều lệ này về sau sao chép lại được gọi chung là tục lệ hay hương ước. Nhìn chung các văn bản này bao gồm các tục lệ của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của làng xã như những điều ước của giáp, của hội Tư văn, của làng nghề mua bán Long Đằng (Đông Ngạc, Từ Liêm), hay của phố chợ vàng bạc Kim Ngân (Phố Hàng Bạc, Hà Nội), hoặc của làng xã nói chung... Tuy nhiên chúng thường được gọi chung là hương ước, tức là các điều quy ước của làng, tương tự quy ước xây dựng làng văn hóa hiện nay ở các địa phương. Về mặt văn bản, tài liệu tục lệ hiện có trong kho sách Hán Nôm chủ yếu là phông sách kí hiệu AF, gồm các văn bản chép tay từ các địa phương gửi đến trong dịp sưu tầm và xây dựng kho tư liệu Hán Nôm của Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội vào những năm đầu thế kỷ XX. Ngoài ra là các sách chép tay hoặc in ấn khác như Đông Ngạc xã điều lệ, kí hiệu A.2506, hoặc La Nôi ỷ la hương lệ kí hiệu A.729... Số ít khác chưa có trong kho sách Hán Nôm, nhưng chúng tôi sao chép được ở các địa phương. Tuy phần lớn sách tục lệ không phải là bản gốc mà chủ yếu là bản sao, song các điều khoản có niên đại sớm đều được chép lại đầy đủ, thậm chí nhiều bản hương ước có khá nhiều niên đại khác nhau, bởi hương ước đó luôn được bổ sung và điều chỉnh vào các thời điểm khác nhau về sau. Chẳng hạn tục lệ làng Dương Liễu (Hà Tây) bao gồm các khoán ước lập năm Cảnh Trị 4 (1666), Cảnh Trị 6 (1668), Cảnh Trị 8 (1670), Chính Hòa 12 (1691), Vĩnh Hựu 5 (1739), Cảnh Hưng 10 (1749), Cảnh Hưng 15 (1754) và Cảnh Hưng 21 (1760)... Nhiều hương ước khác bao gồm các điều khoản lập vào thời Lê, sau đó bổ sung vào thời Nguyễn. Hầu hết niên đại sớm nhất của các văn bản tục lệ là từ thế kỷ XVII, trong đó điển hình là hương ước làng Dương Liễu vừa nêu trên, làng Mộ Trạch (Hải Dương) soạn thảo vào năm Cảnh Trị 3 (1665), làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) soạn vào thế kỷ XVII. Tục lệ làng Quỳnh Đôi chép trong sách Quỳnh Đôi hương biên, kí hiệu A.3154 do Hồ Phi Hội biên tập, sách chép về hương lệ của làng, song chỉ có một vài điều khoản, còn lại chép các công việc khác của làng. Cũng trong các bản tục lệ đó, ở một số làng chép lại được một số khoán ước được soạn dưới thời Lê Hồng Đức, như Đại Phùng tổng khoán ước, kí hiệu 2875 soạn vào năm Chính Hòa 5 (1684), nhắc lại một số điều ước từ năm Hồng Đức 6 (1475). Văn bản bia Trăn Tân từ lệ ở đền Trăn Tân huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh, khắc năm Hồng Đức 18 (1487) ghi lại việc các xã trong hai huyện Thiện Tài và Gia Định phủ Thuận An xứ Kinh Bắc định điều lệ tế Thần. Đây là hai trong số văn bản tục lệ hiếm hoi xuất hiện dưới niên hiệu Hồng Đức thế kỷ XV. Thế kỷ XVI tuy không tìm thấy văn bản tục lệ nào, song tục lệ khắc trên bia thì lại khá phổ biến, trong đó tiêu biểu là văn bia Phúc Lâm Hoằng Thệ tự đình thị bi ở chùa Phúc Lâm, xã Vĩnh Thệ, huyện Tiên Phong nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, dựng năm Hưng Trị 2 (1589) ghi điều ước rằng chùa Phúc Lâm của hương Chân Na, định lệ chia làm 12 khu phân chia sắm lễ vật và rước lễ. Đến thế kỷ XVII thì tục lệ khắc trên bia khá phổ biến, cùng với hàng loạt văn bản tục lệ được xuất hiện. Đây là giai đoạn tái biên soạn hương ước như nhận định của nhà Việt Nam học Nhật bản ShiMao Minoru. Thực tế, tục lệ ở làng xã thì xuất hiện khá sớm, song việc văn bản hóa thành văn bản để thi hành và lưu truyền thì thường lại diễn ra muộn hơn nhiều, thậm chí rất muộn, như khá nhiều hương ước ở các địa phương thuộc tỉnh Phú Thọ đều ghi rằng các điều lệ của làng chỉ truyền khẩu mà không có sách vở nào, mãi đến những năm đầu thế kỷ XX mới sao chép lại. Các văn bản tục lệ thực tế chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ XV trở đi ở làng xã đồng bằng Bắc bộ, khi mà xã trở thành đơn vị hành chính cơ sở và làng xã được tổ chức ngày càng chặt chẽ. Nhà nước phong kiến ban hành chính sách quân điền, quy chế hóa việc chia cấp phần ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của Nhà nước nằm trong các làng xã, nhằm can thiệp sâu vào từng đơn vị tụ cư đó. Tuy vậy làng nào cũng có lệ chia cấp riêng. Bởi thế Nhà nước có luật nước thì làng xã có lệ làng. Điều này thường được ghi trong các bài tựa của mỗi tục lệ hay hương ước, như hương ước xã Mộ Trạch (Hải Dương) cho biết: “Nhà nước giữ đạo trị bình ắt phải nêu rõ kỷ cương, xóm làng giữ tục thuần hậu cần phải làm rõ quy ước, theo khuôn mẫu một điều mà lập ra các điều”. Tuy nhiên, các điều ước này trở thành lệ làng, đôi khi đối lập với luật nước. Vì vậy Nhà nước phong kiến thời Lê sơ đã hạn chế dân gian thiết lập tư ước. Đạo dụ của Lê Thánh Tông khuyên các làng xã không nên có khoán ước riêng này chứng tỏ rằng từ giữa thế kỷ XV trở đi, hương ước đã tồn tại song song và phần nào mâu thuẫn với Luật pháp nhà nước, làm cho luật nước ít nhiều bị giảm hiệu lực trong từng luỹ tre xanh đó. Trải qua thế kỷ XVI, Nho giáo có phần nào nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo, song sang thế kỉ XVII, Nho giáo lại được đề cao. Bên cạnh các đạo luật có từ thời Hồng Đức được bổ sung sử dụng rộng rãi, Nhà nước phong kiến thời Lê Trịnh thế kỷ XVII còn ban bố 47 điều giáo hóa theo khuôn mẫu kinh điển Nho gia. Chính vì vậy, hương ước ở làng quê được tái biên một cách phổ biến. Số lượng hương ước cổ hiện biết chủ yếu là các văn bản biên soạn từ đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX (đầu thế kỷ XX là hương ước cải lương). 2. Nội dung của tục lệ làng xã cổ truyền Về nội dung cụ thể của tục lệ làng xã cổ truyền, do mỗi làng, tuỳ theo đặc điểm riêng, mà có những tập tục, quy ước riêng; bởi vậy, nhìn chung các điều khoản ghi trong tục lệ rất đa dạng và phong phú. a. Nội dung tục lệ thường tập trung ở một số điều khoản liên quan đến việc tế tự, cúng lễ trong làng và xác định rõ tôn ty trật tự; ngoài ra là các điều khoản về bảo vệ nông nghiệp, ruộng đồng, đóng góp với làng xóm, vấn đề khuyến khích học tập, tinh thần trọng lão... Tuy nhiên đối với làng nghề hay làng khoa bảng thì hầu như không có các điều khoản liên quan đến sản xuất nông nghiệp mà thay vào đó là các điều ước về nghề thủ công về khuyến học. Những quy ước trong tục lệ làng xã liên quan đến các khía cạnh tiêu biểu sau đây: - Về cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội trong làng Đây là nội dung chính của hương ước, bao gồm phần lớn các điều khoản liên quan tới nhiều mặt của đời sống xã hội làng xã. Trước hết là những quy ước liên quan tới các thiết chế tổ chức trong làng, chức năng, quyền hạn và lề lối làm việc của từng tổ chức cũng như các thành viên trong đó, như tổ chức bàn, giáp, ngõ xóm, quan viên chức sắc, những người có vai trò quan trọng nhất định trong sinh hoạt làng xã. - Về các quan hệ xã hội hay thứ bậc xã hội Đó là những quy ước về Lão quyền, tức là quyền của người già trong làng; Nam quyền - quyền của nam giới trong sinh hoạt làng xã (chỉ có nam giới mới được vào giáp, mới được ra đình, nam giới mới được coi trọng); Phụ quyền - quyền của người cha trong gia đình chịu trách nhiệm về mọi hành vi của các thành viên trong gia đình; trưởng quyền - quyền theo vị trí ngôi thứ, căn cứ vào phẩm hàm, chức tước, bằng cấp và tài sản. Có thể coi đây là những quan hệ xã hội làng xã theo trục dọc mà nét nổi bật là sự phân biệt giữa "quan viên" và "dân đinh", giữa già và trẻ, giữa trên và dưới, giữa nam và nữ, giữa chính cư và ngụ cư. - Những quy ước về việc bảo vệ an ninh làng xã Những điều khoản liên quan đến việc bảo vệ an ninh nơi làng xã được phản ánh khá phong phú trong hương ước. Ngoài các điều khoản nhằm ngăn ngừa việc đánh chửi nhau, là những điều nhằm hạn chế nạn trộm cắp trong làng, cũng như các điều ngăn cấm các tệ nạn cờ bạc, các quan hệ bất chính giữa nam và nữ, ... Nổi bật hơn cả là những điều khoản gắn liền với việc tổ chức vũ trang bảo vệ làng xã, như việc lập các điếm canh, điếm tuần phòng, trang bị khí giới và đặc biệt là việc trồng, tu bổ các luỹ tre bao quanh làng. Hương ước quy định trách nhiệm của từng xóm ngõ, phe giáp trong việc bảo vệ, tu bổ các luỹ tre theo định kì hàng năm và phải chịu kiểm tra của các chức dịch. Việc đẵn tre ở luỹ phải được cả xóm, có khi phải được chức dịch đồng ý, nếu tự tiện chặt, phá tre sẽ bị phạt. - Những quy ước nhằm bảo đảm đời sống tâm linh của cộng đồng Đây là các điều ước về tôn giáo tín ngưỡng mà việc tổ chức thờ cúng Thành hoàng là trọng tâm. Việc lo sắm lễ vật mỗi kì cúng lễ, thường giao cho các giáp thay nhau đảm nhận; còn việc tổ chức cúng lễ thì giao cho các vị chức sắc, chức dịch cùng hội tư văn đảm nhận. Việc chia biếu lễ vật sau khi cúng lễ được phân bổ theo thứ bậc ngôi thứ trong làng. - Những quy ước về việc bảo đảm các nghĩa vụ với nhà nước Các nghĩa vụ với nhà nước phong kiến mà trước hết là nghĩa vụ sưu thuế gồm hai loại: thuế đinh (hay sưu) bổ cho các nam giới từ 18 đến 60 tuổi và thuế điền (thuế ruộng đất). Tục lệ quy định việc quản lí và thu nạp đủ các mức thuế trên, ngăn chặn việc thiếu hụt, hoặc lạm thu của các xã giáp trưởng. Ngoài ra là các điều lệ về khuyến học, khuyến nông, bảo vệ môi trường, cùng những điều lệ mang tính đặc thù của mỗi làng xã. Đồng thời quy định các hình thức khen thưởng và xử phạt. Một trong các hình thức khen thưởng áp dụng cho các loại công trạng là thưởng tiền hay hiện vật, thậm chí còn ban thêm hay tăng vị trí ngôi thứ trong làng. Các hình thức phạt, áp dụng cho các hành vi vi phạm cũng diễn ra dưới hình thức phạt tiền hay hiện vật (như trâu, gà, cau trầu...), và đương nhiên cũng hạ vị trí ngôi thứ của người vi phạm vốn có chức vị, thậm chí còn có hình thức đánh roi, bắt bồi thường và trình quan xử lí theo pháp luật. Trên đây là những nội dung cơ bản của tục lệ làng xã cổ truyền trong các thời kì phong kiến. b. Nội dung các tục lệ nêu trên tuy phản ánh nét đặc thù về phong tục tập quán của từng làng, của từng thời kỳ lịch sử khác nhau, song đều cùng mang dấu ấn khá rõ nét của tư tưởng Nho giáo. Bởi lẽ trước hết văn bản tục lệ được biên soạn bởi các bậc Nho học với các kinh điển Nho gia như sách Chu Lễ, Lễ Ký, Kinh Thi, Luận Ngữ, Lam điền, Lã Thị hương ước làm nền tảng lý luận, đạo lý, chỗ dựa tinh thần để xây dựng nên quy ước. Tục lệ làng Đồng Lương, xã Thanh Bạn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (soạn năm 1868) dẫn sách Lễ Ký rằng: “Lễ theo nghi thức là khiến cho nó theo về điều mà mình mong muốn là có nguyên nhân vậy. Nếu bất cập thì tăng thêm, nếu thái quá thì bớt đi để cho cái đức của dân trở nên đầy đặn”. Tục lệ xã Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ghi: “Sách Lễ ký có các thiên hương sạ, hương ẩm tửu đều là để phân biệt trưởng ấu, định ra tôn ty rõ ràng để phong tục nhân luân được đầy đặn. Vậy nên Phu Tử ta quan sát hương đảng mà biết vương đạo để đổi thay, tin chắc có điều đó. Nay các vị trưởng lão trí thức, kính lễ nghĩa tiếng tăm, nắm chắc kỷ cương, dạy bảo người ta hướng về nơi sáng sủa, khiến cho dân trí được mở mang, dân đức được đầy đặn. Đó là lý do đặt ra lệ này”. Như vậy, tục lệ hay hương ước do các bậc Nho gia trong làng biên soạn, cho dù chỉ văn bản hóa các phong tục tập quán vốn có của làng thì cũng đều được thổi vào đó tư tưởng Nho gia luôn thường trực trong tầng lớp Nho sĩ này. Do đó các điều ước đều gián tiếp hoặc trực tiếp thấm nhuần giáo lý Nho gia. Mặt khác, tục lệ của làng thường được đọc trước toàn dân vào dịp lễ hội đầu xuân của làng và được duy trì thường ngày, vì vậy các điều khoản liên quan đến giáo lý Nho gia này được thâm nhập ngày một sâu rộng trong cộng đồng làng xã. Nho giáo thâm nhập vào làng xã trước hết qua các điều lệ trong khoán ước của làng liên quan đến răn bảo, thưởng phạt hành vi đạo đức. Những hành vi đạo đức này lại hoàn toàn dựa theo khuôn mẫu giáo lý đạo Nho, như khuyên răn trung hiếu, lễ nghĩa, phẩm hạnh. Tục lệ làng Quỳnh Đôi xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An soạn năm 1638 có điều ước sau: “Người ta lấy luân lý làm trọng, nghĩa là người làm cha thì tính nết hiền lành, phận làm con thì thờ cha mẹ cho có hiếu, làm anh thì ăn ở với em cho thuận hoà, làm em thì cung kính với anh, chồng nói thì vợ nghe. Làm người cần cư xử là thế, nếu không chẳng khác gì loài cầm thú”. Hầu như tục lệ nào cũng có điều khoản về hành vi đạo đức theo giáo lý Nho học như vậy, trong đó nổi bật là đạo hiếu đễ. Nhiều hương ước quy định mức phạt rất nặng với người bất hiếu (có cha mẹ mà bỏ bê không cung kính phụng dưỡng và chửi bới cha mẹ), bất uyên (chỉ người vợ có lỗi lăng nhục bất kính đối với cha mẹ chồng), bất mục (không hòa mục trong cửu tộc), bất thuận (không hòa thuận với xóm giềng). Điều ước thứ 15 làng Hoàng, xã Cổ Mộc, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (năm 1898) quy định: “Đàn bà chửa hoang, nếu phạm vào luân thường và người đàn bà đang có tang hoặc có chồng thì phạt 12 quan tiền”. Người xưa coi trọng đạo hiếu, coi trọng sự báo hiếu, nên cũng hết sức coi trọng việc tang lễ. Vì vậy trong các hương ước xuất hiện khá nhiều điều ước về việc tang ma. Lễ tang phải đảm bảo đúng quy ước, từ việc để tang, đến các nghi thức cúng lễ, mai táng, chịu tang... Có khá nhiều điều khoản phạt nặng người đang chịu tang cha mẹ mà phạm tội như gian dâm, trộm cắp, ca hát. Tuy nhiên việc báo hiếu đó đôi khi thái quá, dẫn đến tốn kém, phiền phức. Do vậy đã có không ít điều khoản quy định cụ thể việc tang ma nhằm hạn chế sự thái quá này. Khoán ước làng Phù Lưu Thượng, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh năm 1854 quy định: “Người chết ở giáp nào thì giáp đó đến viếng và đi đưa. Nếu nhà nghèo thì chỉ mời trầu, rượu tại chỗ, không ai được hạch hỏi. Nhiều đám tang bày cỗ linh đình mời người đến phúng viếng ăn uống. Tiếng là báo hiếu ông bà, cha mẹ, nhưng thực chất là trả nợ miệng. Một người chết mà muôn người say, gây tiếng xấu làm bại hoại phong tục”. Việc duy trì luân thường đạo lý theo khuôn mẫu lễ giáo Nho gia như vậy luôn được làng xã coi trọng và được định thành lệ làng. Ngoài việc đề cao đạo hiếu, luân thường theo Nho giáo, tục lệ còn phản ánh khá đậm nét về ngôi thứ ở đình trung, nơi tập trung quyền uy lớn nhất của làng. Đình làng là sản phẩm của Nho giáo xuất hiện từ khi Nho giáo trở thành độc tôn từ thế kỷ XV, vừa là nơi thờ phụng vừa là nơi phán quyết của chức sắc trong làng. Nói một cách cụ thể hơn, đình là nơi thực thi các nghi thức cúng rước Thần, tổ chức lễ hội, hát xướng, hương ẩm cỗ bàn trong ngày hội hay ăn khao, ăn khoán, hội họp của chức sắc trong làng. Vì thế thứ bậc ở đình trung hết sức quan trọng. Thứ bậc này thường được quy ước như sau: Gian giữa đình là chiếu ngồi của chủ tế và các trợ tế (bao gồm các vị độc chúc, độc văn, đông tây xướng, hai vị phụ hoạ vị độc văn, bốn vị tiến tửu). Gian bên phải là chiếu ngồi của các vị khoa trường đỗ đạt. Gian bên trái là chiếu ngồi của các cụ thượng thọ từ tuổi cao đến thấp, cùng các chức dịch hàng xã, các vị chức dịch binh lính mãn nhiệm và các trai đinh (từ 18 đến 37 tuổi). Nếu đình nào hẹp thì trai đinh phải đứng phía ngoài đình phục dịch việc tế lễ. Một số làng khác phân định chỗ ngồi ở chốn đình trung bằng gianh giới hai bên tả hữu đình cho quan văn ở bên phải, gồm các vị tiến sĩ, quan văn có phẩm tước từ nhất phẩm đến cửu phẩm; quan võ ở bên trái gồm các vị tạo sĩ, các võ quan có phẩm hàm từ nhất phẩm đến các chức chánh đội, suất đội. Cách sắp xếp này tương tự cách sắp đặt buổi thiết triều trong triều đình. Điều đó cho thấy tính tự trị nơi làng xã càng được định hình, như câu cửa miệng trong dân gian là “Hương đảng tiểu triều đình”. Mặt khác, mối liên hệ chặt chẽ của tầng lớp Nho sĩ với làng xã là cầu nối giúp Nho giáo thâm nhập vào làng xã. Thực tế Nho sĩ Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với làng xã và với sản xuất nông nghiệp hơn là gắn với đô thị và thương mại như phần đông Nho sĩ Trung Quốc. Dân cư người Việt trước đây tuyệt đại đa số sống ở làng xã. Những người có học trong làng đỗ đạt thì làm quan, nếu không thì trở thành hương sư dạy học ở làng, hoặc làm nghề thuốc, thày địa lý... Số lượng người có học sống ở làng ngày một đông. Hơn thế nữa, ngay cả những người đỗ đạt làm quan thì khi trí sĩ cũng lại trở về sống với dòng họ, làng xóm. Thậm chí khi đương chức, dù ở đâu thì họ đều có mối liên hệ thường ngày với làng xã, đều có quyền lợi và nghĩa vụ với làng xã và đương nhiên có vị trí nhất định nơi làng xã. Chẳng vậy mà trước ngày những người thành đạt rất coi trọng việc vinh quy bái tổ (tức là khi vinh hiển thì phải về làng bái tạ tổ tiên), lệ làng luôn coi trọng việc khao vọng, như khoán nước năm Cảnh Hưng 33 (1772) làng Mộ Trạch quy định: Ai ứng thí khoa bác cử mà đỗ Tạo sĩ, ngày vinh quy làng cũng làm lễ đón rước chúc mừng và đáp lễ giống như Tiến sĩ. Còn các chức Cai cơ, Thủ hiệu, Tạo sĩ thóat thủ kính cẩn nhận sắc mệnh thì cũng đón rước và đáp lễ như các quan lại khi được thăng chức. Trong tổ chức làng xã có hai thiết chế, một là chức dịch hai là kỳ mục. Chức dịch là đại diện của chính quyền Nhà nước phong kiến ở làng xã, còn Kỳ mục hay Hội đồng kỳ mục bao gồm các quan lại các cấp về hưu, đứng đầu là một vị Tiên chỉ. Ngoài ra còn có các vị đương triều, quan viên, tư văn tham gia vào các hoạt động chung của làng nhất là lễ hội, thờ cúng. Trong hầu hết các khoán ước đều thấy ghi rõ họ tên các vị chức sắc này. Chẳng hạn hương lệ làng Mộ Trạch năm Cảnh Trị 3 (1665) kê các vị Triều quan gồm Bồi tụng Binh bộ Thượng thư Phượng Lĩnh hầu họ Vũ, Hưng Hóa xứ Thừa Chánh sứ Vũ Lương, Thái bộc tự khanh Vũ Phương Trượng, Giám sát ngự sử Thanh Hoa xứ Vũ Duy Đoán, Hiến sát sứ Thanh Hoa xứ Lê Công Triều, Hiến sát sứ Sơn Tây xứ Vũ Bật Hài, Hình khoa Cấp sự trung Vũ Công Lượng, Giám sát ngự sử Thái Nguyên xứ Vũ Trác Oánh; Quan viên gồm Huyện thừa Phương Nhã Vũ Hạo, Đồng Tri phủ Khoái Châu Vũ Xuyền, Huyện thừa Thanh Lan Vũ Triệt, Huyện thừa Tân Minh Vũ Quyện; Văn thuộc gồm: Vũ Đức Thắng, Vũ Đăng Tiến; xã thôn trưởng gồm: Vũ Đình Sách, Lê Tiến Vinh, Nhữ Thế Lộc... Những chức quan trên đều có mặt trong các kỳ lễ lớn của làng và được định vị thứ bậc nơi đình trung, chốn linh thiêng trang trọng nhất của làng xã. Thiết chế như vậy của làng xã khiến cho mối liên hệ giữa các Nho sĩ với làng xã ngày càng gắn bó chặt chẽ. 3. Vai trò của tục lệ cổ truyền trong quản lý làng xã Tục lệ cổ truyền hay hương ước thực chất là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng làng xã, công cụ quản lý làng xã. Mặt khác, hương ước cũng lại trở thành công cụ để nhà nước can thiệp vào làng xã và quản lý làng xã, điều hoà lợi ích giữa làng với Nhà nước. Chính vị trí của con người trong làng xã được xác định bởi các mối quan hệ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng là ý thức hệ Nho giáo mà hương ước chính thức hóa và cụ thể hóa. Đó là quan hệ trong gia đình (dòng họ) và quan hệ cộng đồng. Trong quan hệ gia đình, làng xã khẳng định quyền của nam giới, quyền của người cha trong gia đình. Nam giới mới là thành viên chính thức đại biểu cho quyền thừa kế, thừa tự, và chỉ có người cha mới có quyền cao nhất trong quản lý gia đình. Bởi thế con cái phải có trách nhiệm vâng lời, nuôi dưỡng, hiếu thảo cha mẹ, ông bà. Các quan hệ gia đình này mở rộng ra dòng họ, chỉ có nam giới mới được vào giáp được ra đình trung, được chia ruộng và chịu nghĩa vụ Nhà nước. Có làng có một thành viên nào đó phạm tội thì cả dòng họ, thậm chí cả làng phải chịu phạt. Trong quan hệ cộng đồng thì vị trí con người được phân định theo tuổi tác và chức vị. Quan hệ theo tuổi tác xác định vị trí của người hơn tuổi và người già, tuy nhiên quan hệ này luôn phải nhường bước cho các quan hệ theo bằng cấp, phẩm hàm và chức tước của Nhà nước. Mỗi thành viên trong làng tuỳ theo bằng cấp, phẩm hàm, chức tước, tài sản và tuổi tác mà được phân định vào một cấp bậc riêng trong hệ thống ngôi thứ của làng. Từ đó được hưởng những quyền lợi riêng về khẩu phần ruộng công, phần chia biếu, chỗ ngồi ở đình, có chức năng, quyền hạn riêng trong tế lễ, trong khi bàn cũng như khi điều hành việc làng. Hệ thống thang bậc xã hội làng xã này theo mô hình dựa trên ý thức hệ Nho giáo càng củng cố thêm thế kiểm soát chặt chẽ của làng xã với con người. Như vậy, làng xã tuy là một đơn vị tụ cư khép kín tự cung tự cấp, được xem như một “tiểu triều đình” đối lập với hệ thống tư tưởng chính thống, trong đó tư tưởng Nho giáo là chủ đạo, song vẫn bị tư tưởng Nho giáo thâm nhập và thâm nhập khá sâu. Sự thâm nhập đó bằng chính việc văn bản hóa các tục lệ để làm thành hương ước thực thi phổ biến ở mỗi làng xã. Trong đó có vai trò hàng đầu và mối liên hệ mật thiết với gia đình, dòng tộc, cũng như làng xã của các Nho sĩ đương triều và các bậc Nho học sinh sống ở địa phương. Tuy nhiên, với việc kế thừa những tập tục dựa trên nền đạo đức và tín ngưỡng truyền thống, hương ước vẫn luôn đi vào lòng người và được duy trì như một truyền thống nghìn xưa. 4. Những mặt tích cực và hạn chế của tục lệ cổ truyền Tục lệ cổ truyền có nhiều mặt tích cực góp phần hình thành trong làng xã và người dân những đức tính và truyền thống quý báu. Đó là truyền thống đoàn kết và cố kết cộng đồng. Bằng các điều khoản cụ thể, tục lệ cổ truyền không chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với cộng đồng mà còn định rõ trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống hàng ngày. Tục lệ cổ truyền khuyên răn mọi người ăn ở hoà thuận theo đúng đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn. Trong tình xóm giềng, con người luôn có ý thức sống hoà thuận, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, luôn có ý thức trả ơn, giúp đỡ người khác. Điều đó được xem là lương tâm, là bổn phận của mỗi thành viên trong cộng đồng. Và chính điều đó là cái để gắn những người nông dân lại với nhau, gắn họ với làng và trở thành truyền thống đùm bọc, đoàn kết và cố kết làng xã, được từng người coi là nhu cầu, là lẽ sống và tình cảm sâu sắc, là nghĩa vụ thiêng liêng. Tục lệ cổ truyền quan tâm tới các việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã, hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với làng, với nước. Tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ mà làng đặt ra đều được người nông dân tuân thủ nghiêm túc, không chỉ trong ý thức mà bằng cả những hành động thực tế. Bởi vậy từ ý thức trách nhiệm, họ luôn coi trọng nghĩa vụ của mình. Tinh thần trách nhiệm đó ăn sâu trong tiềm thức của người nông dân, được họ chấp nhận một cách tự nhiên và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành truyền thống quý báu. Tục lệ cổ truyền góp phần làm phong phú đời sống văn hóa làng xã. Những quy ước của làng xã về trách nhiệm của các tổ chức, các giai tầng xã hội và các cá nhân trong việc tu bổ và bảo vệ đình chùa, đền miếu, việc biện lễ, rước sách thờ Thần, thờ Phật được người nông dân tuân thủ nghiêm ngặt. Cùng với các lễ nghi thờ cúng là tổ chức hội làng mà qua đó tái hiện được phần nào cốt lõi lịch sử và góp phần củng cố tinh thần cộng đồng. Bên cạnh những mặt tích cực của tục lệ cổ truyền, còn có một số mặt hạn chế. Đó là tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái hình thành trên cơ sở "tâm lí làng". Vì quyền lợi riêng mà đã có những điều khoản trốn tránh nghĩa vụ của Nhà nước, tranh chấp đưa "người của làng" vào các chức vụ chính quyền, ... Ngoài ra là tư tưởng địa vị ngôi thứ. Hệ thống thang bậc xã hội trong làng là nguyên do của sự tranh chấp gay gắt giữa các phe phái, là nguyên nhân dẫn tới việc thao túng việc làng của các chức dịch. Cuối cùng là tục lệ đã góp phần làm tăng thêm hủ tục nặng nề, tốn kém trong cưới xin, ma chay, khao vọng,... Dù có những mặt hạn chế, tục lệ cổ truyền đã có vai trò nhất định góp phần quản lí xã hội, đặc biệt là vai trò to lớn của nó trong các hoạt động văn hóa và phát huy truyền thống quý báu cha ông. Tóm lại, trong các thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XV trở đi, tục lệ cổ truyền ở các làng xã Việt Nam được văn bản hóa. Nội dung văn bản này khá phong phú, nhưng tập trung vào các mặt chính của đời sống xã hội. Với nội dung đó, tục lệ cổ truyền giữ một vị trí quan trọng trong đời sống làng xã, đồng thời là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, để quản lí làng xã. Đ.K.T TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Bùi Xuân Đính: Về một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, H. 1996. 2. Bùi Xuân Đính - Đinh Khắc Thuân: Hương ước làng ven đô, Tạp chí Hán Nôm, 1/1991, tr.11-15. 3. Hồng Đức thiện chính, Bản dịch, Nam Hà ấn quán, Sài Gòn 1959. 4. Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng hợp Sở Văn hóa thông tin & Thể thao Hà Tây, 1993. 5. Hương ước Hà Tĩnh, Sở Văn hóa thông tin Hà Tĩnh, 1996. 6. Hương ước Thanh Hóa, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian - Sở Văn hóa thông tin Nghệ An, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1998. 7. Vũ Duy Mền: Vài nét về hình thức văn bản hương ước làng Việt cổ truyền, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2000, tr. 21-27. 8. Mộ Trạch xã cựu khoán, Bản dịch từ văn bản chữ Hán, kí hiệu VHv. 121 Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 9. ShiMao MINORU: Sử liệu có liên quan đến việc tái biên hương ước ở Bắc bộ Việt Nam thời Lê, Tạp chí Hán Nôm, 2/2002, tr.12-22. 10. Nguyễn Tá Nhí: Tục lệ phường Long Đằng xã Đông Ngạc, Tạp chí Hán Nôm, 2/2004, tr.50-53. 11. Đinh Khắc Thuân: Tục lệ ở phố chợ Kim Ngân, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2004, tr.24-31./. |
QUANG CHÂU HƯƠNG ƯỚC ĐIỀU MỤC Bán đảo Triều Tiên nay gồm hai quốc gia: Hàn Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, đã từng sử dụng chữ Hán trong lịch sử như chữ quốc ngữ. Đặc điểm này cũng bắt gặp ở các nước Đông á như Nhật Bản, Việt Nam. Những tài liệu ghi chép bằng chữ Hán còn lại khá nhiều ở các nước này. Trong các thư tịch cổ của Triều Tiên trước kia, Hàn Quốc ngày nay còn rất nhiều loại hình văn bản chữ Hán khác nhau. Đó là các văn bản hành chính, các trước tác về văn học, các tác phẩm về sử học, các tài liệu chép tay về sắc phong, chúc thư, các văn bản liên quan đến sinh hoạt làng xã như hương ước, gia phả, tài liệu về ruộng đất... Bên cạnh đó còn khá nhiều các minh văn trên bia đá, chuông đồng. Những bài minh văn này đã được sưu tập và xuất bản. Các văn bản hương ước của Triều Tiên đã được tập hợp và xuất bản trong sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư 朝 鮮 時 代 社 會 史 研 究 史 料 叢 書 quyển 1, do hai tác giả Kim Nhân Kiệt 金 仁 杰 và Hàn Tướng Quyền 韓 相 權 biên soạn, nơi phát hành là Bảo Cảnh Văn Hóa xã 保 景 文 化 社, được in ấn và phát hành vào tháng 10 năm 1986 tại Seoul, Hàn Quốc. Trong tập sách này các tác giả đã giới thiệu 34 văn bản hương ước bao gồm 33 bản hương ước của Triều Tiên và một văn bản giải thích về bản hương ước đầu tiên của Trung Quốc cuối thời Bắc Tống là Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 và bản hương ước của Chu Tử một nhà tư tưởng thời Nam Tống biên soạn, chỉnh sửa lại Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 đó là bản Chu Tử tăng quyên Lã thị hương ước ngạn giải 朱 子 增 捐 呂 氏 鄉 約諺 解 dùng cả tiếng Hán theo nguyên bản của Chu Tử và giải thích bằng tiếng Hàn bên cạnh. Văn bản hương ước của Chu Tử được du nhập vào Triều Tiên ở giai đoạn đầu thời kỳ Chuson(1), đến năm 1517 đã được tác giả Kim An Kuk xuất bản và sau đó đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong xã hội Triều Tiên. Vì thế cũng có thể coi đây là văn bản hương ước của Triều Tiên. Ngoài ra trong sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư quyển 3 cũng do hai tác giả Kim Nhân Kiệt và Hàn Tướng Quyền biên soạn còn đưa ra nhiều loại tư liệu liên quan đến sinh hoạt làng xã như: Tộc khế 族 契, Tang khế 喪 契, Hương ẩm Hương xạ khế 鄉 飲 鄉 射 契, Giáp khế 甲 契, Nho khế 儒 契, Môn sinh khế 門 生 契... Cũng cần nói thêm là các văn bản hương ước của Triều Tiên sau này đều chịu ảnh hưởng từ Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 của Trung Quốc thông qua bản Chu Tử tăng quyên Lã thị hương ước ngạn giải 朱 子 增 捐 呂 氏 鄉 約諺 解và từ đó đã hình thành hương ước trong xã hội Triều Tiên. Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã tìm thấy văn bản hương ước của Triều Tiên trong các trước tác của một số học giả khi họ viết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, triết học, lịch sử như: Tú Nghiêm chí, quyển 1; Lật Cốc toàn thư, Bắc Nhai tiên sinh văn tập, tập 3; Hương lễ hợp biên, quyển 2; Tùy lục quyển 9; Mật Châu trưng tín lục, quyển 2…Trong quá khứ có thể những văn bản hương ước của Triều Tiên đã từng được lưu giữ trong các làng xã để xây dựng, chấn chỉnh kỷ cương, phong tục của hương thôn. Nếu so sánh với văn bản hương ước của Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt khá rõ cả về nguồn gốc, xuất xứ, nội dung. Trong 33 văn bản hương ước của Triều Tiên được sưu tập trong Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư, văn bản Quang Châu hương ước điều mục là văn bản có niên đại sớm nhất. Văn bản này được viết vào năm Cảnh Thái 2 (1455) đời Vua Minh Cảnh Đế của Trung Quốc. Đây là điều khác biệt rất rõ giữa các văn bản chữ Hán của Triều Tiên và Việt Nam, thể hiện ở cách ghi niên đại văn bản. Tất cả các văn bản chữ Hán của Triều Tiên đều dùng niên đại của Trung Quốc để ghi. Mặc dù ở Triều Tiên lúc đó đã có vua và chính quyền của chính người Triều Tiên. Còn ở Việt Nam sau khi giành được độc lập tự chủ từ thế kỷ X cho đến cuối triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XX, tất cả văn bản chữ Hán dù là bản in hay chép tay hoặc cho khắc trên bia đá, chuông đồng đều dùng niên đại các triều vua Việt Nam. Các văn bản hương ước còn lại của Triều Tiên được viết vào những giai đoạn sau: - 5 văn bản được viết ở thế kỷ XVI (các năm: 1517, 1556, 1560, 1578 và một bản được xác định vào cuối thế kỷ XVI). - 3 văn bản thế kỷ XVII (năm 1602, 1648 và một văn bản được xác định là cuối thế kỷ XVII). - 6 văn bản thế kỷ XVIII (các năm: 1706, 1730, 1747, 1765, 1771, 1797). - 8 văn bản thế kỷ XIX (các năm: 1801, 1871, 1888 (2), 1890, 1893, 1894 (2). - 11 văn bản viết ở thế kỷ XX (các năm: 1904 (4), 1905 (2), 1924, 1925, 1932, 1937. Khác với văn bản hương ước của Việt Nam vốn do một tập thể quan viên, chức sắc làng xã cùng họp bàn và soạn thảo, các văn bản hương ước của Triều Tiên lại do những bậc trí thức lớn trong làng viết ra. Trước khi soạn thảo, họ cũng có tham khảo ý kiến của các bậc hương lão và dựa trên tinh thần chính của Lam Điền Lã thị hương ước để từ đó đặt ra những điều lệ cho dân tuân thủ. Một điều cần đề cập ở đây là khái niệm về “hương ước” của Triều Tiên rộng hơn rất nhiều so với khái niệm “hương ước” của Việt Nam. Đơn vị “hương” trong lịch sử ở Triều Tiên là một địa danh hành chính có thể lớn hơn một huyện ngày nay, có lúc còn có thể sánh ngang với một tỉnh. Theo Từ Hải : Hương [鄉] là một khái niệm rộng của đơn vị hành chính, hương có thể có từ một vạn hai ngàn năm trăm (125.000) gia đình, phạm vi nhỏ nhất của hương cũng gồm 10 lý [里] tức 10 xóm nhỏ. Còn ở Việt Nam, khái niệm “hương” dùng để chỉ một làng hoặc một xã (xã có thể gồm nhiều làng hoặc một làng). Vì thế hương ước của Việt Nam là những điều lệ, quy ước chỉ của một xã hoặc một làng. ở Triều Tiên, hương ước có thể là quy định cho cả một vùng rộng đến 25 diện [面], mỗi diện tương đương với một hoặc hai ba xã. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bản hương ước Quang Châu hương ước điều mục 光 州 鄉 約 條 目 của Triều Tiên. Phiên âm: Quang Châu hương ước điều mục Cảnh Thái nhị niên Tân Mùi tức ngã Văn Tông nguyên niên, Tiên sinh dữ bản ấp Huyện giám An Triết Thạch tiến sớ thiên bệ thăng huyện vi Châu mục, nhân (kiếp?) lập Hỷ Khánh đường nhi sao tuyển cảnh nội sĩ tử văn chương, đức hạnh, môn phiệt hiển trứ giả, cửu thập viên, thư chí Biệt tịch dĩ chính hương cương hựu hành hương ước. Kỳ nhất viết: Phụ mẫu bất thuận giả, phụ mẫu bất hiếu chi tội, bang hữu thường hình, cố cô cử kỳ thứ. Huynh đệ tương huých giả, huynh khúc, đệ trực quân tội, huynh trực đệ khúc chỉ tội đệ, khúc trực tương bán huynh khinh đệ trọng. Gia đạo bột loạn giả, nam nữ vô biệt, đích thê đảo trị dĩ thiếp vi thê, dĩ [tuân?] vi đích, thương bất phủ tuân, tuân cập lăng thương, phu phụ tương ẩu mạ giả giảm đẳng. Sự thiệp quan phủ giả, hữu quan hương phong ủy tác uy thế nhương quan hành tư giả. Hương trưởng lăng miệt giả, dĩ thượng đẳng phạt, luận chi chấp cương, lẫm quan y luật khoa tội. Kỳ nhị viết: Thân thích bất mục giả, Chính thê sơ bạc giả, thiếp hữu tội giả giảm đẳng. Tề bối tương ẩu mạ giả, Bất hiềm liêm sỉ ô hủy sĩ phong giả, Trì cường lăng nhược đa hành cuồng bội giả, Công tư tụ hội thị phi chính pháp giả, Hoạn nạn lực cập tọa thị bất cứu giả, Thụ quan sai nhậm bằng công tác tư giả, Bất hữu chấp cương bất tòng hương lệnh giả, Đa tiếp nhân hộ bất phục quan dịch giả, Bất cẩn phú tô đồ miễn dao dịch giả, Chấp cương phát văn cảnh nội tề hội hương xã đường thi dĩ trung đẳng chi tội. Kỳ tam viết: Kỳ hội bất tham giả, Tề tọa thất nghi, tòa trung huyên [?] giả, tự tòa thượng hoặc diện tích thi dĩ hạ đẳng chi tội Hương lại chi thuộc uỷ quan hại dân giả, Phụng lệnh hành lý tác tệ dân gian giả, Cống vật phiến nhu lạm trưng giá vật giả, Đa thụ công trái mưu khuynh bất nạp giả, Tín nhậm lăng miệt sĩ tộc giả, chấp cương diệc lẫm quan y luật khoa tội. ( Tú Nghiêm chí quyển 1) Dịch nghĩa: Các điều mục hương ước Quang Châu Năm Tân Mùi Cảnh Thái thứ 2 tức năm Văn Tông thứ nhất triều ta, Tiên sinh cùng với Huyện giám An Triết Thạch là người bản ấp dâng sớ lên quan huyện là Châu mục. Nhân dịp lập Hỷ Khánh Đường mà tuyển chọn được 90 sĩ tử trong vùng có văn chương, đức hạnh, con nhà gia thế, đặt ghi vào sổ riêng để chủ trì những giềng mối trong hương và làm ra hương ước. Điều thứ nhất: - Kẻ không thuận theo cha mẹ, tội bất hiếu với cha mẹ, quốc gia đã có hình phạt chết, với đàn bà, con gái chưa có chồng cho giảm xuống một bực. - Anh em mà gây mâu thuẫn đánh nhau, nếu anh sai em đúng đều có tội; anh đúng em sai chỉ phạt tội em; cả anh em đều đúng sai một nửa thì anh tội nhẹ, em tội nặng. - Kẻ làm loạn trái với gia đạo, gồm không phân biệt nam nữ, vợ cả, thê thiếp bị đảo trật tự, lấy thiếp làm vợ, lấy thứ (?) làm đích dẫn đến không bảo ban được gia đình, khiến cho vợ chồng cùng đánh chửi nhau đều bị giảm đi một bậc. - Kẻ can thiệp vào việc quan phủ, - Kẻ có quan hệ đến phong tục của hương, cậy thế tác oai, nhiễu nhương, dùng việc quan để làm việc tư, - Kẻ lăng miệt Hương trưởng, tất cả các loại trên đều bị phạt ở mức cao nhất, luận ở cầm nắm kỷ cương, bẩm quan cứ chiếu theo pháp luật mà buộc tội. Điều thứ hai: - Kẻ không hòa mục với thân thích, - Kẻ sơ bạc với vợ chính (Kẻ có tội với vợ giảm đi một bực) - Kẻ tụ tập đánh chửi nhau, - Kẻ bất hiềm liêm sỉ (không có liêm sỉ) hủy hoại, bôi xấu phong thái kẻ sĩ, - Kẻ cậy mạnh để lăng nhục kẻ yếu, làm nhiều điều ngông cuồng trái với lẽ phải, - Kẻ tụ hội về việc công, việc tư, gây điều thị phi về pháp luật và chính trị, - Kẻ có sức lực nhưng thấy hoạn nạn chỉ ngồi nhìn mà không cứu, - Kẻ đã nhận việc quan nhưng dựa vào việc công để làm việc tư, - Kẻ không tuân theo Hương lệnh, không nắm được kỷ cương, - Kẻ nhiều lần tiếp người [người lạ] tại nhà, không theo làm việc quan dịch, - Kẻ bất cẩn với việc thu thuế, có ý đồ để được trừ công dịch, Người nắm giữ kỷ cương phát ra bằng văn bản trong toàn vùng, họp với hương, xã, đường lấy khung hình phạt loại trung để thi hành [với các loại tội vừa nêu trên]. Điều thứ ba: - Kẻ đến kỳ họp không tham gia, - Kẻ ngồi không đúng với nghi lễ, trong chỗ ngồi gây huyên náo ầm ĩ, - Từ chỗ ngồi bên trên hoặc bề mặt mà xin thay đổi thì phạt vào loại hạ đẳng [phạt vào tội thấp nhất]. - Kẻ thuộc vào hàng Hương lại nhưng lại ỷ vào thế quan để hại dân, - Kẻ vâng lệnh làm việc trong làng xóm nhưng gây ra nhiều điều tồi tệ trong dân, - Kẻ dùng cống vật [vật nộp thuế] để buôn bán cần dùng, lạm trưng giá của vật, - Kẻ nhận rất nhiều trái phiếu của Nhà nước nhưng âm mưu chiếm đoạt không nạp, - Kẻ có tín nhiệm mà lại lăng miệt gia tộc kẻ sĩ, [tất cả các loại người trên], người cầm giữ kỷ cương cũng bẩm lên quan, cứ y theo luật mà buộc tội. (Trích từ sách Tú Nghiêm chí, quyển 1) Sau đây chúng tôi có một số nhận xét xung quanh văn bản hương ước này của Triều Tiên. 1. Nội dung chính mà bản hương ước đề cập là các hành vi ứng xử của con người với con người, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ gia đình đến làng xóm, từ trách nhiệm với cha mẹ, anh em đến nghĩa vụ đối với hương đảng, quốc gia. Những quy định hành xử trong cộng đồng theo quan điểm của Nho giáo. Vị trí và hình ảnh của người đàn ông - chủ nhân của hương ước được thể hiện và giữ vai trò chính yếu trong cộng đồng. Tinh thần trọng xỉ - tôn trọng người cao tuổi được thể hiện rất rõ qua hương ước. Việc xét xử tội nặng nhẹ trong gia đình không căn cứ theo mức độ phạm tội mà căn cứ theo ai là người nhiều tuổi hơn thì phần thắng thuộc về người ấy. Điều này cho phép củng cố và thiết lập trật tự xã hội theo lớp lang nhất định, ở đó kẻ dưới phải phục tùng người trên, không cần phải tranh luận dài dòng. Trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, thái độ tôn trọng người cao tuổi hơn vẫn đang được duy trì, đó cũng là nét đẹp truyền thống của người Hàn Quốc nói riêng, Triều Tiên nói chung. 2. Theo quan niệm của người Triều Tiên được thể hiện qua bản hương ước này thì điều quan trọng nhất trong cuộc đời con người là phải có hiếu với cha mẹ, phải biết ơn các đấng sinh thành. Nếu ai bất hiếu với cha mẹ thì phép nước xử vào tội chết. Đây cũng là tôn ty trật tự lớn nhất trong đời sống làng xã. Khi một công dân biết đối xử với cha mẹ theo tinh thần đạo hiếu của Nho gia thì họ sẽ biết cách cư xử với cộng đồng. Tiếp đến là cách cư xử của anh em trong gia đình, sau bố mẹ là đến vị trí của người anh. Nếu hai anh em đánh nhau mà cùng sai thì chỉ xử anh tội nhẹ còn em thì xử nặng. Trong mọi trường hợp bất luận phân xử đúng sai thế nào thì phần thắng cũng luôn thuộc về người anh, người có tuổi cao hơn. Biện pháp răn đe này khiến cho những người làm em luôn bị thiệt thòi khi phán xử nhưng lại đảm bảo quyền lợi vĩnh viễn cho những ai may mắn được sinh ra trước làm anh. Bối cảnh trong gia đình với chuyện gây gổ đánh chửi nhau như đã nêu trong hương ước chỉ thấy đề cập đến anh em trai mà không thấy chị em gái. Có thể là người phụ nữ Triều Tiên bị đặt ở một vị thế rất thấp trong xã hội nên họ không có những hành vi phản kháng quyết liệt như đàn ông chăng? Hoặc giả những người phụ nữ không được tính đến trong cách hành xử ? Tuy nhiên, để bù đắp lại cho sự xuất hiện ít của người phụ nữ thì bản hương ước này cũng nhấn mạnh rất nhiều đến vị thế của người vợ cả. Không được sơ bạc với người vợ cả là một điều được đề cập đến trong văn bản Quang Châu hương ước và nhiều bản hương ước khác của Triều Tiên. Trong thực tế người vợ cả là người đã chịu nhiều vất vả, cùng chung lưng góp sức với người chồng và gia đình nhà chồng để gây dựng cuộc sống nên họ được tôn trọng và hương ước đã bảo vệ quyền lợi cho họ. Tội sơ bạc với vợ cả bao gồm cả người chồng và những người vợ sau. Điều này cũng nói lên xã hội Triều Tiên thời kỳ Trung đại, người đàn ông được phép lấy nhiều vợ, chỉ cần họ luôn coi trọng bà vợ cả là được. Tương tự như quy định không được sơ bạc với vợ cả là không được đảo lộn thứ tự giữa vợ cả và các loại thê thiếp tiếp theo, khiến cho gia đạo bị hỗn loạn, đảo lộn. Dù người đàn ông có thể yêu quý những người thê thiếp sau nhưng vị trí và quyền lợi của người vợ cả luôn luôn được đảm bảo bằng những ràng buộc quy định của cả cộng đồng và họ buộc phải tuân thủ. Đảm bảo vị thế cho vợ cả cũng như đảm bảo lớp lang cho người anh có thể là tiền đề để thiết lập và duy trì trật tự xã hội theo đẳng cấp của người Triều Tiên chăng ? 3. Vấn đề gia đình và việc xử lý những mối quan hệ mang tính đạo lý như: mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ anh em, quan hệ vợ chồng là điều được đặt lên đầu tiên trong văn bản hương ước. Có ổn định được gia đình với những mối quan hệ như thế thì người dân mới có những quan hệ tốt đẹp với xóm giềng, thân hữu. Tác giả văn bản muốn xây dựng tư cách cho người dân trong vùng từ việc phải cư xử phải đạo với chính gia đình của mình trước rồi tiếp đến mới là đối xử với làng xóm, có trách nhiệm với quốc gia. ý thức và trách nhiệm với xã hội được xếp sau ý thức về gia đình, đây là điểm khác biệt với truyền thống ứng xử của người Việt Nam. Trong các văn bản hương ước của Việt Nam không có những quy định cho việc phải đối xử với cha mẹ, anh em, vợ chồng như thế nào mà chỉ có những quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của họ với làng xã. Cùng với việc nhấn mạnh tư cách người đàn ông trong gia đình, những người đứng đầu trong hương thôn cũng được chú ý. Họ là người đã có ảnh hưởng đến phong tục của địa phương thông qua cách cai trị dân vì thế họ không được nhiễu nhương, cậy việc công để làm việc tư. Những người không có phận sự và nhiệm vụ mà can thiệp vào việc ở phủ quan và kẻ dám lăng miệt coi thường bậc Hương trưởng đều bị khép tội và bị xét xử ở bậc cao nhất. Ngoài ra những người đang được ngồi đúng vị trí giữa chốn đình trung nhưng lại tự tiện xin đổi chỗ dù cho muốn xuống chỗ thấp hơn cũng không được phép. Điều này lại một lần nữa nhằm để bảo vệ thứ bậc trong xã hội. 4. Những vấn đề còn lại là để xây dựng cách đối xử có văn hóa, có trách nhiệm với những người xung quanh và với làng xóm. Người trong hương phải có liêm sỉ, có nghĩa vụ phải cứu giúp người hoạn nạn, không được coi thường kẻ yếu hơn mình, có trách nhiệm với tô thuế của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là không được đi trái với những quy định pháp lý của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân... Nhân dịp được sang nghiên cứu tại Hàn Quốc, lần đầu tiên có điều kiện tiếp xúc và khảo cứu các văn bản hương ước chữ Hán của Triều Tiên, chúng tôi cho rằng có rất nhiều điểm lý thú về sự tương đồng và dị biệt giữa văn bản hương ước chữ Hán của Việt Nam và Hàn Quốc. Bài viết này chỉ là sự mở đầu cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Trong tương lai chúng tôi sẽ giới thiệu thêm nhiều văn bản hương ước khác của Triều Tiên qua các thời kỳ khác nhau để các học giả Việt Nam quan tâm có cảm nhận đầy đủ hơn về thể loại văn bản này trong tiến trình phát triển của xã hội Triều Tiên trước kia và Hàn Quốc ngày nay. P.T.T.V CHÚ THÍCH: (1) Dẫn lại theo sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư quyển 1, Bảo Cảnh Văn hóa xã xuất bản, Seoul, 1986, tr.2./. |
TRẢ LỜI ÔNG LÊ THÀNH LÂN VỀ TỜ BÌA BẢN KIỀU NÔM DO NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP Tạp chí Hán Nôm số 2 (69) - 2005 có đăng bài của ông Lê Thành Lân Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép. Nhận thấy ông Lê Thành Lân (LTL) có ý nghi ngờ tôi đã làm giả tờ bìa ấy, chúng tôi xin được trả lời lại như sau: I. Chúng tôi không hề làm giả tờ bìa ấy Ông LTL đã nêu ra những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu để nghi ngờ tôi đã làm giả tờ bìa bản Nôm quyển Đoạn trường tân thanh do Nguyễn Hữu Lập sao chép. Chúng tôi xin được trả lời ngay rằng: Chúng tôi không hề làm giả tờ bìa ấy mà chỉ chụp lại theo đúng bản photocopy mà ông Đàm Quang Hưng (ĐQH) đã gửi cho chúng tôi. Chúng tôi cũng xin nói thêm rằng khi nhận thấy bài Tựa ở 3 tờ đầu sách bị thủng rách ở nhiều chỗ không đọc được mà tờ bìa còn nguyên vẹn, chúng tôi ngay từ cuối tháng 8 năm 2000 đã có thư sang Houston để hỏi ông ĐQH về thực trạng của tấm bìa ấy thì được ông trả lời như sau: “Ba tờ đầu cuốn sách bị rách tả tơi thành nhiều mảnh vụn. Chúng tôi cố gắng ghép các mảnh vụn ấy với nhau cho ngay ngắn, đọc những chữ ngoài bìa sách, trích những chữ ấy từ những đoạn khác nhau ở bên trong cuốn sách, đem đi photocopy rồi dán lại với mục đích tái tạo lại những chữ ở ngoài bìa. Vì thế tờ bìa trong bản photocopy biếu thầy không đúng 100% với nguyên bản”. (Trích thư đề ngày 21/9/2000) Chính vì biết tờ bìa ấy đã được “tái tạo” nên chúng tôi đã không cho in trên tờ bìa sách hoặc ở đầu phần văn bản mà chỉ cho chụp nhỏ lại và cho in vào trang 19 quyển Truyện Kiều - Bản kinh đời Tự Đức để mọi người được biết Nhan đề bản Nôm do Nguyễn Hữu Lập sao chép. Chúng tôi cũng xin nhắc lại rằng: chúng tôi chỉ chụp lai theo bản photocopy mà ông ĐQH đã gửi cho chúng tôi, không có sửa chữa thêm bớt gì(1), kể cả bản tôi đưa cho Ban Tổ chức Hội thảo bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm, Huế - 2003 (2). Vấn đề đã quá rõ ràng nên chúng tôi thấy không cần phải biện minh gì thêm nữa. Tờ bìa do GS. Đàm Quang Hưng tái tạo II. Về lời bàn luận của ông Lê Thành Lân Ông LTL nên nhớ rằng chúng tôi chỉ chụp lại thôi chứ không có “dán” và “bồi” nên chẳng làm gì có chuyện “lấp lửng” như ông tưởng tượng. Cũng chẳng làm gì có chuyện phải “mập mờ” khi thoáng có sự nghi ngờ của ông Đào Thái Tôn và khi biết ông Nguyễn Tuấn Cường (NTC) nói rõ khiếm khuyết trong nội dung của tờ bìa mà phải đưa ra “cái phao cấp cứu” (chữ của LTL). Chúng tôi xin nói để ông LTL được biết rằng: Chúng tôi đã đặt vấn đề thực trạng của tờ bìa với ông ĐQH(3) từ tháng 8 năm 2000 trong khi ông NTC chỉ mới đưa ra vấn đề khiếm khuyết của nội dung tờ bìa trong Tạp chí Hán Nôm số 3-(2004). Chúng tôi không hể đổ lỗi cho chủ nhân của cuốn sách. Ngược lại, lúc nào chúng tôi cũng tin tưởng vào những gì mà ông ĐQH đã cho chúng tôi biết và chúng tôi cũng chẳng có gì phải giấu mọi người. Nguyên bản photocopy thế nào chúng tôi chụp lại đúng như vậy còn nếu độc giả có nghi vấn gì, chúng tôi xin vui lòng giải đáp. Ông LTL có nói đến một điều đáng tiếc là: “Ông NQT đã đi gần khắp 3 châu Âu, Á, Mỹ; vượt vạn dặm vòng quanh nửa quả địa cầu để đến tận thành phố Houston, vậy mà còn mấy cây số nữa là đến được nhà người “vốn quen biết từ hơn nửa thế kỉ nay” để có thể nhìn tận mặt, sờ tận tay cuốn sách vô cùng quí hiếm; vậy mà ông đã không có thực hiện cho được trọn vẹn công việc trong thời gian 3 tháng dừng chân ở Hoa Kỳ. Thực sự chúng tôi không chỉ tiếc mà còn cảm thấy hơi lạ nữa.” Mấy lời nói đó của ông LTL đã hoàn toàn đúng với tâm trạng của chúng tôi. Không phải chúng tôi chỉ tiếc mà còn rất tiếc nữa. Có thể là “tiếc vô cùng”. Đã sang Hoa Kỳ, về tận Houston mà không được nhìn tận mặt, sờ tận tay quyển sách quí hiếm ấy! Ông ĐQH hôm lại thăm tôi có cho biết quyển Đoạn trường tân thanh của Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu chép tay đang cho một người bạn ở California mượn nên không mang lại cho tôi xem bản gốc được. Ông chỉ đem tặng tôi một bản photocopy thôi. Nếu được nhìn tận mắt, sờ tận tay thì chúng tôi đã chẳng phải hỏi lại ông về thực trạng tờ bìa nhưng chúng tôi hoàn toàn tin vào những điều ông đã cho biết là tờ bìa đã được “tái tạo” đúng với nguyên bản tuy rằng “có thể” không đúng 100%. Nhưng nếu nghi ngờ như ông LTL là “có thể không có một chút nào của nguyên bản” thì thật là quá đáng. Chính vì vậy mà tất cả những nghi vấn trong phần III (phải chăng đây là cách tạo dựng tờ bìa?) và phần IV (Thảo luận đôi điều về tờ bìa) chúng tôi xin được miễn trả lời vì đã không hề làm giả tờ bìa ấy. Chúng tôi chỉ xin nói thêm về hai điểm sau đây trước khi kết thúc bài viết trả lời ông Lê Thành Lân. Điểm thứ nhất liên quan đến bài thơ Đề từ của Phạm Quí Thích. Chúng tôi đã không cho in bản viết tay bài thơ Đề từ của Phạm Quý Thích mà đã thay thế bằng bài thơ chế bản vi tính (Vì thấy bài thơ ấy trong tất cả các bản Kiều Nôm đều giống nhau, không có chữ nào khác biệt) để in gọn vào một trang cùng với bản phiên âm. Chúng tôi cũng nhận đây là một khuyết điểm. Vậy để cho các độc giả thấy được nguyên bản do Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu (Nguyễn Hữu Lập) sao chép, chúng tôi cho in lại bài thơ ấy theo đúng bản gốc. Ảnh chụp từ bản gốcBản Nguyễn Bá Thiện Nếu để ý, các độc giả sẽ thấy bài thơ trong bản gốc đã khác với bài thơ in trong bản của Nguyễn Bá Triệu về cách trình bày. Điểm thứ hai liên quan đến tên sách Đoạn trường tân thanh mà ông LTL đã cho rằng: “Trong khi hầu hết các sách thời đó đều ghi tên sách là Kim Vân Kiều truyện hoặc Kim vân Kiều tân truyện thì tờ bìa này chép là Đoạn trường tân thanh. Có lẽ phải 32 năm, sau Kiều Oánh Mậu là người đầu tiên cho sách cái tên như vậy. Tên sách rất quan trọng. Nếu quả đúng NHL viết tên sách như vậy thì có thể đây là một chứng lí hay cho việc thảo luận”. Chúng tôi nhận thấy điều thắc mắc ấy của ông LTL đã không được xác đáng vì như lời truyền - Cái tên Đoạn trường tân thanh đã được Nguyễn Du đặt cho tác phẩm của mình. Chính Phạm Quý Thích đã nhắc đến cái tên “Tân thanh” ấy trong bài thơ Đề từ và cũng chính ông - theo lời truyền - đã đổi tên Đoạn trường tân thanh ra là Kim Vân Kiều tân truyện. Một chứng cớ cụ thể là cái tên Đoạn trường tân thanh ấy đã được Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân nói đến trong bài Tựa viết vào đời Minh Mệnh như sau: “Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục phong tình cũng đã cũ rồi, Tố Như tử xem truyện thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm đề là Đoạn trường tân thanh... Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ “tạo vật đố tài, tóm cả một đời Thúy Kiều..... vui, buồn, tan, hợp mười mấy năm trời..... Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải... May được nối ở đằng sau quyển Đoạn trường tân thanh của Tố Như tử cùng làm một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.” Bùi Kỉ (dịch) Theo như lời nói ấy của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân thì cái tên Đoạn trường tân thanh đã được dùng để gọi quyển Truyện Kiều từ đời Minh Mạng. Cái tên ấy sau được dùng trong các bản Kinh mà Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu (Nguyễn Hữu Lập) đã sao chép lại vào năm 1870. Đến năm 1902, tức 32 năm sau Kiều Oánh Mậu mới dùng tên ấy để gọi bản Kiều Nôm do ông chú giải chứ không phải ông là người đầu tiên dùng cái tên ấy. * Qua các phần nói trên, chúng tôi chỉ vắn tắt trả lời ông LTL như vậy vì mục đích bài ông viết chỉ cốt nói “Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép” mà ông đã có ý nghi ngờ tôi làm giả. Sự thực chúng tôi không hề làm giả như ông nghĩ. Ở đoạn kết, ông LTL có nói rằng: “Ông viết mục II và mục III chỉ như một nghi vấn” bởi ông “không dám tin rằng sự thực lại có thể như vậy”. Ông lại nhã nhặn ngỏ ý rằng: “Nếu có gì hơi quá sa đà thì xin ông NQT và các độc giả lượng thứ”. Chúng tôi xin cám ơn lời nói xã giao ấy của ông và chỉ mong ông đừng quá sa đà như vậy mà chỉ nên đặt sự nghi ngờ cho có mức độ sao cho hợp tình và hợp lý thì quí hơn. N.Q.T CHÚ THÍCH: (1) Chúng tôi xin minh xác lại, chúng tôi đã không sửa chữa, thêm bớt gì ở tờ bìa và chúng tôi cũng không sửa chữa gì trong toàn bản Nôm quyển Đoạn trường tân thanh mà ông Đàm Quang Hưng gửi cho tôi. (2) Chúng tôi không biết tại sao lại có dị bản ấy. Ông LTL nếu muốn biết rõ sự thực, xin cứ hỏi Ban Tổ chức Hội thảo và người biên tập sẽ rõ. (3) Ông LTL đặt vấn đề “ông ĐQH phục chế từ lúc nào mà cái ngày ông NBT được biết đến bản NHL này thì đã thấy “tờ bìa ngoài rách nát không đọc được” rồi. Cứ theolời ông NBT ở trang 64 thì có lẽ ông đã từng cùng ông ĐQH đàm đạo với nhau..... Tôi chắc ông NBT đã từng gặp ông ĐQH và xem bản NHL rồi nên nhận xét của ông về tờ bìa là đáng tin cậy. Điều phỏng đoán này của ông LTL hoàn toàn sai vì ông ĐQH không có quen biết ông NBT và cũng chưa đàm đạo với ông NBT. Ông ĐQH không có biếu ông NBT bản Kiều Nôm do NHL chép mà ông NBT đã xin được từ ông Nguyễn Bách Bằng (anh họ ông ĐQH) ở Canađa. Bản photocopy của ông Bằng đã qua tay nhiều người mượn nên bị lem bẩn nhiều. Ông NBT có nói trong lời Tựa rằng: “Sách cũ, lại nhiều vết lem vì in đi in lại, vì những chú thích của Lâm Nọa Phu và của những người đọc sau nên tôi (NBT) phải mất nhiều công để làm sạch sẽ, tô lại những nét mờ đề làm tài liệu...” Vì làm “sạch sẽ” quyển sách nên ông NBT đã xóa bỏ tất cả những chữ khảo dị của bản NHL và những lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng./. |
GÓP BÀN VỀ MẤY CHỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ Gần đây, nhân đọc bài viết “Bàn về hai chữ “thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” của GS.TS. Lê Văn Quán, chúng tôi xin có mấy lời bàn lại như sau: 1. Tác giả bài viết trên đã trích dẫn đoạn văn: “Trời ở đây ẩn trên Thiên thư... Cả mớ lý luận về trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”... (2, tr.318)” trong bài viết của PGS. Bùi Duy Tân “cho là tác giả bài thơ đã dựa vào tư tưởng “thiên mệnh” (= mệnh trời), trời quyết định mọi sự việc ở đời” . Đọc xong, chúng tôi rất băn khoăn, không hiểu là PGS. Bùi Duy Tân có viết như thế thật không? Nhìn vào đoạn văn được trích, chúng tôi thấy có những hai lần ba chấm (...), và theo sự chỉ dẫn của số chú thích, số trang ở cuối bài viết, chúng tôi tìm đọc bài của PGS. Bùi Duy Tân. Hóa ra, đoạn văn trên được viết đầy đủ như sau: “Bài thơ cả quyết quyền ngự trị sông núi nước Nam là của vua Nam. Dám khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Nam nhỏ bé bên cạnh nước Bắc to lớn như thế chỉ có thể là Trời. Trời ở đây ẩn trên Thiên thư, nhưng cũng có hàng chục văn bản (của bài thơ Nam quốc sơn hà - LVH) có từ “Hoàng thiên” ở đầu câu thứ hai (Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư). Trời theo Khổng Nho là vô hình, linh diệu, chủ tể của vũ trụ, lấy thiên mệnh, thiên lý, thiên ý, thiên uy điều phối biến hóa việc thế gian, quyết định số phận cho muôn loài. Trời và Người là “tương dữ”, “hợp nhất”, “thông đạt”. Trời nhìn ở dân nhìn dân nghe. Trời thương dân, dân muốn là trời muốn... Vua thay trời trị dân thống nhất thiên ý dân tâm. Vua trị dân theo ý trời thì yên ổn, được mùa; trái ý trời thì trời ra tai, trời nổi can qua v.v... Cả mớ lý luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ “Thiên mệnh", được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”, chỉ cốt làm rõ: Nước Nam là của Vua/người Nam, đó là ý Trời, kẻ nào xâm lược nước Nam là trái nghịch ý Trời, là chống lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, tất sẽ bại vong” . Như thế, chỉ cần nhìn vào hai đoạn văn, ai cũng thấy là tác giả bài viết “Bàn về hai chữ ”thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” đã cố ý dẫn trích văn của PGS. Bùi Duy Tân theo kiểu “gọt chân cho vừa giày”. Điều đó không khỏi làm cho người đọc hiểu sai mạch văn và lập luận của PGS. Bùi Duy Tân. Kiểu trích dẫn làm méo mó văn của người khác như vậy để phê phán, theo chúng tôi nghĩ có lẽ nên chấm dứt. 2. Trong bài, tác giả cũng bàn đến hai chữ 分 野 và phiên âm là: phân dã, với nghĩa “phân chia bờ cõi”. Theo thiển ý, chúng tôi nghĩ hai chữ ấy ở đây phải phiên âm là phận dã, với nghĩa là cách quy định phận giới, địa phận. Tại sao thế ? Vì có vấn đề liên quan đến chữ 分 . Đúng là chữ này có hai âm đọc là “phân” và “phận”: - Đọc “phân”, với các nghĩa phân khai, phân giải, phân liệt, xuân phân,... - Đọc “phận”, với các nghĩa danh phận, chức phận, duyên phận, phúc phận, địa phận,... (4) Khi 分 đi với các tổ hợp từ thì Hán ngữ đại từ điển có chú rõ số (2) ở bên cạnh chữ để đọc với âm thứ hai là “phận”, trong đó có những cụm như: phận vị, phận ngoại, phận nội và cả “phận dã” - chính là cụm từ đang nói tới. Còn nếu phiên “phân dã” thì ý nghĩa khác hẳn chứ không liên quan gì đến việc “phân chia bờ cõi” . Do vậy, câu thứ hai của bài Nam quốc sơn hà đã được đọc là: Tiệt nhiên phận định tại Thiên thư Ở một vài văn bản hai chữ “phận định” được viết đảo là “định phận”. Dễ thấy là trong trường hợp ấy, không thể nào đọc “định phân” được. 3. Vậy thì cái quyết định “phận dã” (cách quy định phận giới, địa phận) ấy là do đâu ? Rõ ràng là ở “Thiên thư” - ở Trời, chỉ có uy Trời qua “Thiên thư” mới “định” được “phận”. Chúng tôi cho rằng, với lập luận của mình từ đoạn trích đầy đủ trên, PGS. Bùi Duy Tân đã cắt nghĩa một cách sáng rõ ý của câu thơ; kể cả hai chữ “Thiên mệnh” từ các hàm nghĩa thế nào, sự “tiếp biến” ra sao cũng đã được lý giải xác đáng, sát thực với tâm thức và quan niệm của người xưa. Quả thật, người xưa thường tin rằng sở dĩ con người có thêm niềm tin và có thêm dũng khí là được trời đất giúp sức, thần linh phù trợ. Chẳng phải Nam quốc sơn hà cũng đích thị là bài thơ mượn lời thần tuyên đọc đấy sao ? Có như thế mới thiêng, mới cổ lệ được tinh thần tướng sĩ. Tác giả bài viết “Bàn về hai chữ “thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” đã chỉ lẩy ra một quan niệm về “Thiên mệnh” của Đổng Trọng Thư, để cho rằng nói “Thiên mệnh” là duy tâm và vội vàng quy chụp, trong khi “Thiên mệnh” còn được quan niệm theo nhiều cách khác nhau; vả lại ngay trong đoạn trích đã thấy, PGS. Bùi Duy Tân cũng dùng trong mạch “thiên mệnh, thiên lý, thiên ý, thiên uy”. Tư duy cho phép lấy cái bộ phận để chỉ cái toàn thể (như kiểu “nếm một miếng biết cả vạc”), nhưng rất nhiều khi tư duy cũng không cho phép như vậy (như kiểu bảo “con voi là cái quạt”, “con voi là cái cột”, v.v...). Để bạn đọc tiện theo dõi và dễ tìm, chúng tôi xin mách: ngay trong tập Từ điển Nho - Phật - Đạo (Bản dịch, Nxb. Văn học, H. 2001) ở trang số 1441 có mục từ “Thiên mệnh” với các hàm nghĩa, các dẫn dụ khá là phong phú. L.V.H CHÚ THÍCH: (1) In trong Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (69) -(2005), tr.67-70. (2) Bđd; tr.67. (3) Xem Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) - Viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ), Bản thảo kỷ yếu, 2004; tr.318-319. (4), (5) Xem Hán ngữ đại từ điển, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1997, tr.978-980 và tr.984. /. |
NÓI THÊM VỀ BÀI THƠ GỞI VỢ THỨ BA CỦA TRẦN THIỆN CHÁNH 隴 頭 今 日 皓 題 詩 Tạp chí Hán Nôm số 5/2004 có đăng tải bài viết của tác giả Nguyễn Minh Tường góp ý văn bản phục hồi và bản dịch bài thơ gởi vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh của tôi được đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 210, tháng 4/2004. Trước hết, tôi cảm ơn tác giả Nguyễn Minh Tường đã quan tâm với bài viết của tôi, và còn tạo điều kiện cho tôi được nói thêm lần nữa về bài thơ này, vì trong bài trên Tạp chí Xưa & Nay, tôi chỉ có thể bước đầu phục hồi văn bản chủ yếu trên cơ sở ngôn ngữ và chữ Hán chứ chưa thể đi sâu vào nội dung, trong khi đây cũng là một dữ kiện quan trọng để phục hồi văn bản tác phẩm. Do sơ suất của tôi lúc đánh máy chữ Hán, hai chữ “mai” 梅 ở câu 7 và 8 trong văn bản in trên Tạp chí Xưa và Nay đã bị lầm thành “mai” 枚. Tôi cảm ơn tác giả Nguyễn Minh Tường và xin nhận lỗi với người đọc về điểm này. Tuy chưa yên tâm về văn bản phục hồi của tôi (mà điều này cũng hợp lý thôi vì cả tôi cũng chưa yên tâm), tác giả Nguyễn Minh Tường vẫn sử dụng văn bản ấy để đưa ra một bản dịch khác. Nói khác đi, tác giả Nguyễn Minh Tường chủ yếu góp ý về bản dịch chứ không phải về văn bản được phục hồi. Tuy nhiên, văn bản phục hồi bước đầu ấy vẫn chưa hoàn chỉnh. ít nhất, nó còn phải được sửa chữ “hữu” ở câu 7 thành chữ “nữ”. Sau đây là những lập luận của tôi, theo thứ tự từng câu và từ chữ tới nghĩa. 1. Về câu “Khách lý sơ cuồng hoàn tiếu ngã”. Dịch sát từng chữ, từ “khách lý” có nghĩa là “ở nơi đất khách (hay “Trong cảnh làm khách” như tác giả Nguyễn Minh Tường hiểu cũng được)”, đều chỉ việc đang ở xa quê hương, chứ tôi chưa từng thấy ai dịch thành “trong số khách” như tác giả Nguyễn Minh Tường. Còn từ “sơ cuồng” trong văn chương cổ thường được tác giả dùng để nói về bản thân, có khi mang ý than thở, có khi mang ý tự đắc pha lẫn màu sắc tự trào. Điều này hoàn toàn phù hợp với con người Trần Thiện Chánh, một nhà nho lúc thiếu thời thì “Tuổi trẻ hùng tâm bốc tận trời, Làm quan chẳng thích, thích chơi bời” (Thư hoài) còn sau này lúc ra Bắc làm Tán tương rồi Tán lý quân thứ Sơn Tây cũng có lần bị giáng cấp vì tội “Cấp phát tiền lương trái quy định, hút thuốc phiện, giả ốm để cưới vợ lẽ” (xem thêm Cao Tự Thanh: Thơ Trần Thiện Chánh, Nxb. KHXH, H. 1995). Và “sơ cuồng” không phải là “cuồng nhẹ, cuồng ít” như cách hiểu của tác giả Nguyễn Minh Tường. “Sơ” là sơ suất, không tinh tế cẩn thận (đây ý nói không quan tâm tới các quy định lễ giáo lễ nghi lặt vặt), “cuồng” là ngông nghênh (đây ý nói ngang tàng, cao ngạo), và ở trường hợp Trần Thiện Chánh thì từ này còn gói ghém sự đắc ý chua chát về bản thân. Ngay trong bài thơ gởi vợ thứ hai mà tôi đã giới thiệu trong quyển Thơ Trần Thiện Chánh, ông cũng từng viết “Tối nan tác phụ vị phu cuồng” (Thật khôn làm vợ bởi chồng cuồng), tức tự nhận mình là “cuồng”. Cho nên phải hiểu từ “sơ cuồng” ở bài thơ gởi vợ thứ ba này Trần Thiện Chánh tự nói về mình, còn dịch ra “ngông cuồng” cũng không có gì sai, sở dĩ tác giả Nguyễn Minh Tường cảm thấy “nặng quá” chỉ vì từ “ngông cuồng” hiện nay chủ yếu được dùng với nghĩa xấu, mất đi nét nghĩa trung tính và lối dùng kiểu phản nghĩa như trước kia mà thôi. Cần nói thêm rằng chữ “cuồng” của Trần Thiện Chánh là chữ “cuồng” trong văn chương, không đơn giản như chữ “cuồng” trong từ điển, không phải cứ tra đủ từ điển là có thể hiểu đúng văn chương. 2. Về câu “Hoa biên liễm nhiễm cánh bằng thùy”. Câu dịch “Bên hoa khép nép biết cậy vào ai” của tôi trên Tạp chí Xưa & Nay chưa thật rõ nghĩa. Hai câu thực bài thơ lập ý rất xuất sáo, chữ “bằng” (dựa, cậy) ở câu này lại càng tinh vi, thâu tóm và hóa giải hết câu “đất khách ngông cuồng vẫn tự cười mình” giống như lạc đề rất lạc lõng ở trên. Trần Thiện Chánh muốn nói không có người vợ hiền hậu nhu mì (khép nép bên hoa) bên cạnh để có một “cái phanh” trong cuộc sống và ứng xử, một chỗ dựa về tình cảm và tâm lý, nên “biết cậy vào ai” đây tức “biết có ai”. Nhưng trên câu chữ mà nói, cũng có thể đưa ra một cách hiểu khác hẳn về hai câu 3-4 là “Đất khách ngông cuồng còn đang cười ta, Bên hoa khép nép biết dựa vào ai”, tức Trần Thiện Chánh tưởng tượng người vợ nơi xa vẫn chế nhạo mình ngông cuồng song đang lẻ loi không có chồng bên cạnh. Lúc đầu tôi đã cân nhắc về ý nghĩa này, song bài của tác giả Nguyên Hùng trên Tạp chí Xưa & Nay số 208, 2004 giới thiệu đây là thư gởi vợ của Trần Thiện Chánh, nên tôi đã hướng tới cách dịch “Ký nội”. Chứ nếu nhan đề bài thơ là “Hoài nội” (nhớ vợ) thì chắc chắn phải dịch theo cách này. Trong trường hợp này thì tác giả Nguyễn Minh Tường đã đúng một nửa khi hiểu chữ “tiếu” (cười) là người khác cười Trần Thiện Chánh chứ không phải ông tự cười mình, có điều kẻ ấy chỉ có thể là người bạn đời đã quá rõ tính nết của ông mà thôi. 3. Về từ “tiên nữ”. Trong Hán tự, chữ “nữ” 女 và chữ “hữu” 友 có tự hình gần nhau, rất dễ lầm. “Tiên nữ sơn trung tín tức kỳ” (Tiên nữ trong non tin tức không đều) là lấy tích Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, ý Trần Thiện Chánh muốn ví vợ như tiên nữ trong núi sâu, sau khi chia tay không thể gởi thư cho mình thường xuyên. Tương tự, câu “Mỹ nhân nguyệt hạ tinh thần viễn” phía trên cũng có điển cố, là lấy ý từ câu “Hội hướng Dao đài nguyệt hạ phùng” (Dưới trăng sẽ gặp ở Dao đài) trong ba bài Thanh bình điệu của Lý Bạch, ý Trần Thiện Chánh muốn nói cuộc gặp gỡ dưới ánh trăng mà mình mong mỏi ấy cũng xa xôi như sao trời. Ngoài ra hai câu “Mỹ nhân... tín tức kỳ” là hai câu luận, phải tập trung vào việc bày tỏ tình cảm với vợ mà cụ thể ở đây là than thở chuyện “người thì xa xôi, thư thì thưa thớt” mới đúng thể cách Đường thi, chứ hiểu câu 5 là “Trần Thiện Chánh tự nói về mình” như tác giả Nguyễn Minh Tường thì tôi e lạc đề. Hơn thế nữa, tôi không rõ tác giả Nguyễn Minh Tưòng dựa vào chứng cứ nào để khẳng định lúc làm bài thơ gởi vợ này thì “Trần Thiện Chánh đang làm quan tại vùng núi non Ninh Bình”, có điều giả sử đúng như thế thì một người được điều về giữ chức Tuần phủ Ninh Bình sau khi quân Pháp trả lại tỉnh thành đầu năm 1874 như Trần Thiện Chánh cũng phải làm việc ở tỉnh lỵ, có phố xá chợ búa, chứ không lẽ nào lại dời nha môn vào trong núi sâu. 4. Về hai chữ “mai” trong hai câu 7 - 8. Hai chữ này bị lặp, nói chung là điều mà những người làm thơ Đường luật ngày trước rất tránh, nhưng ngoại trừ khả năng văn bản không chính xác, thì với một nhà thơ tài hoa như Trần Thiện Chánh đây là cố ý chứ không phải bí chữ. Tôi còn nghĩ có thể người vợ này của Trần Thiện Chánh tên Mai, nhưng như đã nói trong bài trên Tạp chí Xưa và Nay, tôi chưa có dịp được tiếp xúc với hậu duệ của ông để tìm hiểu, nên đành tạm gác lại không dám đoán bậy sửa bừa, bản dịch vì vậy cũng chưa rõ nghĩa. Nhưng tác giả Nguyễn Minh Tường dịch câu 7 không đúng ngữ pháp Hán ngữ, lại giải thích sai tích “tầm mai” nên hiểu chưa đúng câu này? “Tìm mai” đây không phải lấy ý từ bài Tạp thi của Vương Duy mà là từ bài Tuyết hậu tầm mai của Lục Du “Thanh đế cung trung đệ nhất phi, Bảo hương huân triệt tố tiêu y. Định tri trích tùy bất dung cửu, Vạn hộc ngọc trần lai sính quy (Trong điện vua xuân bậc ái phi, Áo tơ trắng toát nức hương bay. Vốn hay bị trích không lâu nữa, Bụi ngọc muôn thưng sẽ đón về). “Tìm mai” đây ý nói muốn trở về chỗ cũ của mình, như câu “Tìm mai đạp tuyết nguyệt xâm khăn” của Nguyễn Trãi lúc về Côn Sơn tỏ ý muốn trở lại làm quan trong triều đình, câu “Trong sương chịu lạnh bởi tìm mai” trong 20 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức làm lúc đi sứ Trung Quốc tỏ ý nhớ nước nhớ quê... đều rút từ điển này. Do vậy, “những khách tìm mai” mà Trần Thiện Chánh muốn nói tới là những người yêu nước Nam Kỳ ra tỵ địa ở vùng Nam Trung bộ cùng chỗ với vợ ông. Tóm lại trên cơ sở cấu tứ bài thơ và văn bản hiện có phải hiểu hai câu cuối là “Nhờ nhắn lời với những khách nhớ quê chỗ bà, Rằng ta vẫn buồn cho cành mai cũng đang gầy guộc ở phương Nam”./. C.T.T |
KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ TỤC BIÊN - MỘT PHO SỬ LIỆU ĐỒ SỘ VỀ TRIỀU NGUYỄN Năm 1993, Viện sử học Việt Nam đã phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế cho ra mắt bạn đọc một trong những bộ sử liệu đồ sộ nhất về triều Nguyễn, bộ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (gọi tắt là Hội điển ) do Nội các của triều đại này biên soạn và đã được các dịch giả lừng danh của Viện Sử học chuyển ngữ từ những năm 1960. Dù vẫn còn không ít khiếm khuyết nhưng với 15 tập sách, tổng cộng đến hơn 7600 trang, chứa đựng những nguồn thông tin hết sức phong phú về triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, công trình trên đã gây được sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và được bạn đọc chào đón nồng nhiêt. Tuy nhiên, sau khi đọc Hội điển, người ta lại mong chờ những phần tiếp theo của bộ sách này, bởi Hội điển mới chỉ là phần ghi chép các điển chương, pháp chế, các chiếu chỉ, chỉ dụ, sớ, tấu... của triều Nguyễn từ năm Gia Long thứ 1 (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851). Phần tiếp theo ấy thuộc về bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (gọi tắt là Hội điển tục biên) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ, đến nay vẫn chưa được chuyển ngữ sang tiếng Việt và xuất bản. Để đáp ứng các yêu cầu của công tác nghiên cứu tìm hiểu về triều Nguyễn và văn hóa Huế, đáp ứng các yêu cầu của công tác nghiên cứu, trùng tu các di tích và đặc biệt là nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các công trình tiêu biểu trong kho tàng di sản Hán Nôm của dân tộc, từ năm 2001 đến nay, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã phối hợp với Viện Sử học tổ chức biên dịch, chú giải và xuất bản bộ Hội điển tục biên. Vào dịp cuối năm 2004, hai tập đầu tiên của bộ sách đã được Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành. Có thể nói đây là một món quà hết sức có ý nghĩa đối với Huế trong dịp đón xuân Ất Dậu. 1. Vài nét về văn bản Theo nhà Hán học Trần Văn Giáp, bộ Hội điển tục biên được biên soạn vào năm Thành Thái thứ 1 (1889), đến năm Thành Thái thứ 7 (1895) thì hoàn thành nhưng vì nhiều lí do khác nhau nên chưa được đem khắc in. Mãi đến năm Khải Định thứ 2 (1917), công trình này mới được xuất bản(1). Điều này phù hợp với nội dung bản Tấu của Quốc sử quán vào ngày 16 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917), in ở phần đầu quyển Mục lục của bộ sách này. Dưới đây chúng tôi xin trích dịch một phần của bản Tấu trên: “Tháng 9 năm Duy Tân thứ 8, tiếp văn thư của Phụ Chính Phủ, xét thấy các điều lệ ở các Nha thuộc Lục bộ của bản triều từ năm Tự Đức thứ 4 trở về trước đã ghi chép rõ ở Hội điển. Những điều lệ có sau này được bổ túc, cải đổi bất nhất. Vào tháng 3 năm Thành Thái thứ nhất, Phụ Chính Phủ lập phiếu xin lệnh cho các Nha thuộc Lục bộ truy cứu các điều lệ áp dụng trong cơ quan, ngoài những điều lệ đã chép trong Hội điển, đã kê khai đầy đủ. Lại xin phái một viên Đổng lý đốc suất việc biên soạn. Đến nay, năm Thành Thái thứ 7 thì hoàn thành bản thảo rồi thông tư cho các Nha bộ sao chép lưu giữ để có đầy đủ mà tra cứu, còn nguyên bản bản thảo thì giao cho Nội các cất giữ. Bản thảo lần đó chưa được khắc in mà cũng không tránh được sai sót. Lại từ năm đó (Thành Thái thứ nhất) đến nay các điều lệ được bổ túc, sửa đổi cùng các điều lệ trong nghị định mới thuộc phía Bảo hộ rất nhiều, nếu không biên chép lâu ngày không thể không thất thoát, vậy nên Quốc sử quán chiếu theo thứ tự trong Hội điển mà biên soạn, được Trưởng quan đốc suất hoàn thành, lại xin giao khắc in để tiện việc áp dụng. Từ đó đến nay, chúng thần ở Quốc sử quán đã giao cho các thuộc viên (1 Biên tu, 1 Khảo hiệu) kiểm tra cứu xét các phần trong bản thảo thì thấy sai sót và chữ viết lầm khá nhiều. Chúng thần đã ra lệnh hết sức kiểm tra, chép chiếu theo thứ tự điều mục cùng phàm lệ trong Hội điển... “... Chép đóng thành 60 quyển cùng 1 quyển Mục lục tổng cộng là 61 quyển. Đã trình lên các quan Cơ mật viện duyệt, đem bản đó dâng lên vua xem. Chờ được giao lại rồi chiếu theo khuôn phép trong bản đó chép theo chữ in để đem giao khắc bản. Các điều lệ từ năm Thành Thái thứ 2 đến Duy Tân thứ 8, Sử quán đã biên soạn thành bản thảo, còn phải kiểm tra lại mới hoàn thành. Sẽ cho chép cẩn thận thành sách để trình dâng ngự lãm”. Như vậy, bộ Hội điển tục biên được Nội các biên soạn xong từ năm Thành Thái thứ 7 (1895) nhưng chưa được xuất bản ngay bởi nhiều lí do trong đó có một lí do là còn nhiều sai sót. Mãi đến năm Khải Định thứ 2 (1917), sau khi được Quốc sử quán tu chỉnh, bộ sách này mới được đem khắc in. Xét về mặt quy mô, bộ Hội điển tục biên chỉ bằng khoảng 1/3 phần Chính biên (bộ Hội điển gồm 264 quyển với hơn 17.000 trang chữ Hán, khổ sách 32x20cm, còn bộ Hội điển tục biên chỉ có 61 quyển với khoảng 6.000 trang chữ Hán, khổ sách 28x16cm). Tuy nhiên, đây vẫn là một công trình rất lớn với lượng thông tin hết sức phong phú về triều Nguyễn vào nửa sau thế kỷ XIX. Sách là phần ghi chép tiếp tục của bộ Hội điển trong 38 năm của triều Nguyễn, từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) đến năm Thành Thái thứ 1 (1889). Không rõ khi ấn hành bộ sách này vào năm 1917, sách Hội điển tục biên có bao nhiêu bản nhưng đến nay các bản in này rất khó tìm, nếu không nói là rất hiếm. Theo chúng tôi được biết, bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên ở Việt Nam hiện nay có ở hai nơi: Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Viện Sử học. Tuy nhiên, bản của Viện Sử học (mang số Hv.99 (1-60) mới là bản in nguyên gốc và khá đầy đủ (chỉ thiếu 2 quyển HV.99 (9) và HV.99 (10) còn bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (mang kí hiệu VHv.2793/1-30) chỉ là bản sao lại bản của Viện Sử học(2) nhưng không đủ, chỉ có từ quyển 1 đến quyển 43 (và cũng thiếu 2 quyển 9 và 10). Tại Pháp cũng có một bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên, hiện tàng trữ tại Thư viện của trường Viễn đông Bác cổ. Đây cũng là một trong số các bản in từ năm 1917, sách mang kí hiệu Paris. EFEO / VIET / A / Litt, 31 (1-26). Đã có một số tổ chức, cá nhân photocopy được vài phần từ bộ sách này(3). Qua đó, chúng tôi mới biết, tình trạng và chất lượng của bản in này hoàn toàn tương tự bản hiện lưu trữ tại Viện Sử học. Có thể nói, bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên mà chúng tôi sử dụng để chuyển ngữ và xuất bản có chất lượng khá tốt, chữ in đẹp, rõ ràng, số lượng chữ khắc in sai không đáng kể. Có lẽ đây cũng là bản tốt nhất hiện còn ở Việt Nam. 2. Về cách sắp xếp và nội dung bộ Hội điển tục biên Bộ Hội điển tục biên gồm 60 quyển chính và quyển Mục lục, cách sắp xếp các nội dung ghi chép về cơ bản gần tương tự như bộ Hội điển, cụ thể như sau: Quyển Mục lục: gồm các bản Sớ, Tấu của các triều Thành Thái (5 bản, đều vào năm Thành Thái thứ nhất), Duy Tân (1 bản, vào ngày 15 tháng 10 năm thứ 8) và Khải Định (1 bản, vào ngày 16 tháng 11 năm thứ 2) về việc biên soạn và in ấn bộ Hội điển tục biên và phần Mục lục sách Quyển 1: Tôn Nhân phủ. Quyển 2: Viện cơ mật. Quyển 3-10: Bộ Lại. Quyển 11-16: Bộ Hộ. Quyển 17-33: Bộ Lễ. Quyển 34-37: Bộ Binh . Quyển 38-43: Bộ Hình. Quyển 44-49: Bộ Công. Quyển 50: Nội các. Quyển 51: Đô sát viện. Quyển 52: Đại lí tự. Quyển 53: Thị vệ xứ và Cẩn tín ty. Quyển 54: Phủ nội vụ. Quyển 55: Võ khố. Quyển 56: Thương trường. Quyển 57: Khâm Thiên giám. Quyển 58: Phụng Hộ nha. /p> Quyển 59: Thông Bảo nha. Quyển 60: Hộ Thành nha. Về mặt nội dung, như trên đã nói, Hội điển tục biên là phần tiếp theo của bộ Hội điển, bộ sách này ghi chép lại khá đầy đủ, chính xác các hoạt động của triều Nguyễn ở nửa sau thế kỷ XIX, tương đương với thời kỳ làm vua của Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh. Đây là một giai đoạn lịch sử có rất nhiều biến động bởi âm mưu và hành động xâm lược của thực dân phương Tây. Trước tình hình ấy, triều Nguyễn phải vừa tìm cách đối phó vừa phải thay đổi nhiều luật lệ cũ để thích ứng với một xã hội đã có nhiều thay đổi. Mặt khác, trong các vua Nguyễn, có thể xem Tự Đức là vị vua có kiến thức uyên bác và tài hoa nhất về văn chương, chữ nghĩa. Dưới thời ông, Nho giáo và việc học hành thi cử được đặc biệt chú trọng. Toàn bộ những đặc điểm trên được phản ánh rất rõ trong Hội điển tục biên. Chúng ta sẽ đọc được những thông tin rất cụ thể về việc thay đổi cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của triều Nguyễn khi xem phần Cơ mật viện (Q.2), Bộ Lại (Q.3-Q.10). Các chủ trương chính sách về kinh tế của triều Nguyễn ở nửa sau thế kỷ XIX thì được thể hiện rất rõ qua phần Bộ Hộ (Q.11-Q.16). Phần chiếm tỉ trọng lớn và rất đáng chú ý của bộ Hội điển tục biên là phần Bộ Lễ (Q.17-Q.33). Sự quan tâm đặc biệt về giáo dục, khoa cử; các nghi thức và lễ hội cung đình, các chính sách về xã hội... của triều Nguyễn được thể hiện rất cụ thể trong phần này. Đặc biệt, tại phần Bộ Lễ có nhiều thông tin rất hữu ích cho các nhà nghiên cứu và có thể làm chấm dứt nhiều cuộc tranh luận, như: các chữ húy được quy định trong thời Nguyễn... Nghiên cứu phần Bộ Binh (Q.34-Q.37) và Bộ Hình (Q.38-Q.43), người ta sẽ thấy rõ thái độ của triều Nguyễn đối với an ninh của đất nước trước các hiểm họa xâm lăng qua các chủ trương, chính sách rất cụ thể. Phần Bộ Công (Q.44-Q.49) có lẽ sẽ là phần đáp ứng được nhiều nhất cho các nhà nghiên cứu về kiến trúc cổ, những người làm công tác bảo tồn, trùng tu di tích... . Đáng chú ý nữa là, tại phần này có nhiều thông tin mới, sẽ làm sáng tỏ rất nhiều về việc xây dựng Khiêm Lăng và cách thức mai táng vua Tự Đức, một vấn đề xưa nay vẫn được xem là đầy bí ẩn và đã bị không ít người xuyên tạc. Các quy định khá cụ thể về việc xây dựng Bồi Lăng (lăng vua Kiến Phúc), Tư Lăng (lăng vua Đồng Khánh), Hân Vinh từ đường v.v... cũng là những thông tin hết sức quý cho việc nghiên cứu về các di tích này. Phần Bộ Công cũng cho thấy rõ cách tổ chức và hoạt động của các tượng cục cuối thời Nguyễn. Sự tồn tại của tượng cục Pháp làm đến tận thời Đồng Khánh, hay sự tham gia với số lượng đông đảo của các thợ lành nghề miền Bắc tại kinh đô Huế trong giai đoạn này hẳn sẽ làm nhiều người rất ngạc nhiên. Các phần còn lại, thuộc 11 quyển cuối cùng (Q.50-Q.60), tuy khá ngắn nhưng hết sức quý vì chúng sẽ bổ sung nhiều thông tin cụ thể về bộ máy tổ chức và hoạt động của những cơ quan quan trọng của triều Nguyễn trong nửa sau thế kỷ XIX, như: Nội các (Q.50), Đô sát viện (Q.51), Đại lí tự (Q.52), Thị vệ xứ và Cẩn tín ty (Q.53), Phủ nội vụ (Q.54), Võ khố (Q.55), Thương trường (Q.56), Khâm Thiên giám (Q.57)... 3. Kế hoạch xuất bản Căn cứ vào khả năng cùng tiến độ thực hiện của công tác biên dịch và chuẩn bị xuất bản bộ Hội điển tục biên, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, Viện Sử học và Nhà xuất bản Giáo dục dự kiến sẽ lần lượt giới thiệu với bạn đọc toàn bộ các phần của công trình này trong kế hoạch 2 năm 2004-2005. Công trình sẽ chia thành 10 tập(4). Ngoài 2 tập đầu đã xuất bản cuối năm 2004 (gồm tập 1 với 460 trang và tập 2 với 968 trang), các tập còn lại mỗi tập, kể cả phần bản dịch và nguyên bản chữ Hán (quét in lại theo tỉ lệ 1/1) có khoảng 800-1000 trang. Hình thức và chất lượng sẽ là một ưu điểm đặc biệt của bộ sách quý này ! Được bài trí như là 2 cuốn sách nằm chung trong một tập sách (mặt trước là bản dịch tiếng Việt, giở từ trái sáng phải; mặt sau là phần chữ Hán, giờ từ phải qua trái) bộ Hội điển tục biên thực sự là một sản phẩm “hai trong một” mà các nhà nghiên cứu và những người làm sách xưa nay vẫn ước ao thực hiện. Sách được in với chất lượng cao tại Công ty in Tiến bộ (Hà Nội), khổ 28,5x18,5cm, đóng bìa cứng. Với chất lượng trên, Hội điển tục biên được Nhà xuất bản Giáo dục xếp vào hệ thống sách tham khảo đặc biệt và xem đây như là một sản phẩm để hướng tới kỷ niệm 50 năm thành lập Nhà xuất bản này (1957-2007). Như vậy, nếu đảm bảo kế hoạch xuất bản thì trong dịp kỷ niệm 10 năm thực hiện Dự án quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô, 1996-2010, chúng ta sẽ có thêm một công trình rất có ý nghĩ về di sản văn hóa Huế. P.T.H CHÚ THÍCH: (1) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học sử Việt Nam, tập 1. Thư viện Quốc gia xuất bản, H. 1970, tr.170. Có lẽ cũng căn cứ từ bản tấu trên của Quốc sử quán mà tác giả cho rằng, năm 1917, triều Nguyễn cho in bộ Hội điển tục biên (chép từ năm 1825 đến năm 1889), còn phần tiếp theo (chép từ năm 1890 đến năm 1914) mới chỉ có bản thảo lưu lại các Sử quán chứ chưa đem in. Nhưng theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì hiện ở Thư viện Trường Viễn đông Bác cổ (Pháp) có một bản in của phần tiếp theo này, gọi là bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ. Sách mang kí hiệu Paris. EFEO. VIET/A/Hist.32 (1-28), cùng khổ 28x16cm, in năm Khải Định thứ 2. Như vậy có thể, cùng trong năm 1917, sau khi xuất bản bộ Hội điển tục biên, vua Khải Định đã cho in luôn phần Tục biên hậu thứ (tức phần chép từ năm Thành Thái thứ 2 (1890) đến năm Duy Tân thứ 8 (1914). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không thể khẳng định chắc chắn về điều này vì chưa tận mắt thấy bộ sách trên. (2) Năm 1998, chúng tôi đã photocopy lại toàn bộ bản chữ Hán bộ Hội điển tục biên của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tổng cộng chỉ có 42 quyển (tính cả quyển Mục lục) với 4698 trang. Đây là bản sao lại từ bản gốc của Viện Sử học, được các ông Lê Tư Thực, Đỗ Huy Tăng và Nguyễn Xuân Thụ thực hiện vào năm 1966. Khi đối chiếu bản này với bản in của Viện Sử học chúng tôi thấy có không ít chỗ chép sai. (3) Theo các công bố tại cuộc Tọa đàm quốc tế về bảo tồn cảnh quan và chiếu sáng di tích Duyệt Thi Đường, tổ chức tại Huế trong 2 ngày 13-14/8/2001, thì Xưởng Nghiên cứu kiến trúc châu Á của Đại học Waseda, Nhật Bản (Waral - Waseda) và bà Colett Bernay đã photocopy được phần Công Bộ (Q.44 đến Q.49) của bản chữ Hán bộ Hội điển tục biên đang tàng trữ tại Pháp này. (4) Dự kiến phân chia các tập của Hội điển tục biên như sau: Toàn bộ: 61 quyển (60 quyển nội dung và quyển đầu - quyển Mục lục ). Dự kiến phân chia thành 10 tập: 1- Tập 1: quyển đầu + quyển 1 đến quyển 2: quyển Mục lục, Tôn Nhân phủ (Q.1), Viện cơ mật (Q.2). 2- Tập 2: quyển 3 đến quyển 10: Bộ Lại. 3- Tập 3: quyển 11 đến quyển 16: Bộ Hộ (Q.11 - Q.16). 4- Tập 4: quyển 17 đến quyển 22: Bộ Lễ I (Q17 - Q24). 5- Tập 5: quyển 23 đến quyển 27: Bộ Lễ II (Q.25 - Q.30). 6- Tập 6: quyển 28 đến quyển 33: Bộ Lễ III (Q.31 - Q.33). 7- Tập 7: quyển 34 đến quyển 37: Bộ Binh (Q.34 - Q.37). 8- Tập 8: quyển 38 đến quyển 43: Bộ Hình I (Q.38 - Q.43). 9- Tập 9: quyển 44 đến quyển 49: Bộ Công (Q44 - Q49). 10- Tập 10: quyển 50 đến quyển 60: Nội các (Q.50), Đô sát viện (Q.51), Đại lý tự (Q.52), Thị vệ xứ & Cẩn tín ty (Q.53), Phủ Nội vụ (Q.54), Võ khố (Q.55), Thương trường (Q.56), Khâm Thiên giám (Q.57), Phụng Hộ nha (Q.58), Thông Bảo nha (Q.59) và Hộ Thành nha (Q.60). |
THÔNG BÁO VỀ QUỸ Nhằm tạo điều kiện cho những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm trong cả nước có điều kiện đến Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội ) để tiếp xúc với các tài liệu Hán Nôm gốc, phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Viện Harvard-Yenching (Hoa Kỳ) thành lập Quỹ học bổng Hán Nôm - Harvard-Yenching. l- Điều kiện và đối tượng được nhận học bổng: - Ưu tiên những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm (không phân biệt độ tuổi), có trình độ đại học trở lên, có đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực Hán Nôm, được ủy ban tuyển chọn của Quỹ chấp nhận. - Cuối khóa học phải có sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng khoa học do ủy ban tuyển chọn của Quỹ đề ra. - Phải ghi lời cảm ơn tới Quỹ Hán Nôm - Harvard-Yenching, khi sản phẩm khoa học này được công bố. - Người được nhận học bổng của Quỹ phải chấp hành đầy đủ mọi quy định yêu cầu của Quỹ và ủy ban tuyển chọn đề ra. II- Số lượng học bổng hàng năm: - Hàng năm Uỷ ban tuyển chọn của Quỹ sẽ tuyển từ 03 - 05 người để cấp học bổng. Năm đầu tiên (2005) ưu tiên tuyển 03 người đang làm công tác nghiên cứu Hán Nôm ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. III- Về Học bổng do Quỹ cấp: Sau khi hồ sơ xin cấp học bổng được chấp nhận, mỗi người sẽ được cấp một khoản kinh phí là 15.000.000 VND (mười lăm triệu đồng) cho cả khóa học tập và công tác. Số tiền này bao gồm các khoản chi phí: đi lại, ăn ở, văn phòng phẩm, tiền tiêu vặt trong suốt thời gian học tập công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (Về chi tiết các khoản chi phí Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ có hướng dẫn cụ thể) IV- Thời hạn nộp hồ sơ xin cấp học bổng: - Từ ngày 1/8/2005 đến 15/8/2005 - Hồ sơ gồm: Đơn xin cấp học bổng, Lí lịch hoạt động khoa học có xác nhận của cơ quan chủ quản, Đề cương của đề tài nghiên cứu, 02 ảnh 4x6 cm. Mọi chi tiết xin liên hệ theo địa chỉ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm |