TB

SUY NGHĨ VỀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC DẠY CHỮ HÁN CHO LỚP TRẺ HIỆN NAY

NGUYỄN MINH TƯỜNG

Trên Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 2005 có bài: Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam của GS. Nguyễn Đình Chú. Đọc bài viết của GS. Nguyễn Đình Chú, tôi cảm nhận được nỗi lo lắng, trăn trở của một nhà sư phạm có nhiều năm trong nghề đào tạo con người. Tôi đồng cảm với những suy nghĩ và kiến nghị của ông, bởi lẽ, nhiều năm qua, tôi cũng từng nghĩ và mong muốn Nhà nước ta phục hồi việc dạy chữ Hán cho lớp trẻ hiện nay.

Trong bài viết của mình, GS. Nguyễn Đình Chú đã chỉ ra những điểm mạnh của chữ Hán đối với công cuộc nâng cao đời sống văn hóa nhân dân, từ đó làm cơ sở để phát triển kinh tế đất nước. Giáo sư còn dẫn lại nhận định của nhà Hán học nổi tiếng Léon Vandermeersch trong tác phẩm Le nouveau monde sinisé (Thế giới Hán hóa ngày nay) rằng: Sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore phát triển thành những “con rồng” được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán. Điều khẳng định trên đây của Léon Vandermeersch, cũng cần nói thêm rằng, đã được nhiều học giả nổi tiếng trong nước và ngoài nước tán đồng.

Trong bài viết ngắn này, tôi chỉ xin bàn về lợi ích của việc dạy chữ Hán đối với lớp trẻ hiện nay mà thôi. Bởi mọi người đều hiểu rõ lớp người trẻ tuổi ở bất kỳ xã hội nào, thời gian nào cũng vô cùng quan trọng đối với việc tồn vong, phát triển của đất nước.

Ở đây tôi xin bàn trên ba phương diện:

1. Nắm vững chữ Hán khiến cho việc hiểu và sử dụng tiếng Việt được thuận lợi, chính xác hơn

Một trong những điều thật đáng phàn nàn hiện nay là mỗi khi xem tivi, đọc báo và nghe đài, chúng ta thường gặp phải các trường hợp sử dụng sai hoặc hiểu sai tiếng Việt, mà chủ yếu là các từ Hán - Việt. Thí dụ: người ta thường nhầm giữa từ “yếu điểm” với từ “điểm yếu”, như: “Yếu điểm nhất của đội bóng A là ở cánh phải, đội bóng B là hàng hậu vệ…”. Đúng ra là phải thay từ “yếu điểm” bằng “điểm yếu”. Vì “yếu điểm” có nghĩa là “điểm mạnh nhất, điểm quan trọng nhất” Cũng như vậy, “yếu nhân” là nhân vật quan trọng nhất của một tổ chức, đảng phái nào đó.

Còn chuyện đáng chê trách hơn nữa là: trên một số báo Văn nghệ, cách đây khoảng hơn một năm, trong mục Dọn vườn, có người “dọn lại” cái sai của một tác giả viết và giải thích câu: “Môn đăng hộ đối” thành “Môn đăng hậu đối”. Ông góp ý rằng viết “Môn đăng hậu đối” là sai mà phải viết “Môn đăng hộ đối”. Đọc đến đây, tôi thầm nghĩ “đúng là phải thế !”. Những buồn quá, đọc xuống dưới thì thấy chính tác giả viết bài “Dọn vườn” này lại giải thích “Môn đăng hộ đối” là: “Đèn ở cửa nhà này sánh được với câu đối treo trong nhà kia ! ”. (Chắc ông nghĩ rằng chữ “Đăng” ở đây có nghĩa là Đèn, và chữ “Đối” có nghĩa là Câu đối!). Ý của ông muốn nói hoàn cảnh, gia thế của hai nhà chẳng ai kém ai! Thật là vốn có ý định tốt “nhổ hộ cỏ dại”, lại vô tình “thả sâu độc” vào vườn! ở đây, trách tác giả “Dọn vườn” thì ít mà trách người phụ trách mục “Dọn vườn” của báo Văn nghệ thì nhiều. Vì ai cũng thừa biết báo Văn nghệ là cơ quan ngôn luận của nhà văn Việt Nam, những người nắm vững chữ nghĩa hơn ai hết ! Tôi nghe nói, trước đây khi còn sinh thời nhà thơ Chế Lan Viên thường được giao giữ mục Dọn vườn này. Nếu đúng là như thế thì: “Lạy cụ! ở dưới suối vàng, cụ phù hộ cho con cháu cầm bút ngày nay cũng được hay chữ như cụ!”

Cách đây khá lâu, một người biên tập của nhà xuất bản nọ, đọc bài viết về vấn đề hôn nhân thời Hùng Vương của một vị Giáo sư đáng kính ngành ngôn ngữ học. Đến câu “Việc hôn nhân lấy sính lễ làm đầu…”, chỉ vì không hiểu sính lễ (vốn chỉ lễ vật của nhà trai đem đến nhà gái để xin cưới) là gì, người biên tập bèn chữa thành: “Việc hôn nhân lấy sinh lý làm đầu…”. Vị Giáo sư đọc đến đây chỉ còn biết lắc đầu mà thở dài.

Tôi rất đồng ý với nhận định của GS. Nguyễn Đình Chú trong bài viết vừa dẫn ở trên: “… Hán Việt không phải là Hán hoàn toàn; Hán là của người Việt. Nó chiếm hơn 70% vốn tiếng Việt”. Để hiểu tiếng Việt và sử dụng thông thạo nó, thử hỏi nếu không nắm vững các từ Hán - Việt, thì có được không ? Chưa kể như GS. Nguyễn Đình Chú đã phân tích về tính năng, tính trội của từ Hán - Việt trên hai phương diện ngữ pháp và tu từ. Tôi nghĩ về mặt ngữ pháp, nếu viết thật cẩn thận, cụ thể thì một câu thuần Việt cũng có thể khắc phục được phần nào tính lỏng lẻo, thiếu chính xác và không chặt chẽ của nó. Nhưng về mặt tu từ thì rất nhiều trường hợp không thể thay thế từ Hán - Việt bằng từ thuần Việt. Thí dụ: ta chỉ có thể đưa tin: “Đồng chí Tổng Bí thư của Đảng và phu nhân đi thăm nước Trung Quốc” chẳng hạn, chứ ta không thể thay từ phu nhân bằng từ thuần Việt là người vợ, vì như thế sẽ thiếu trang nhã.

Tôi và các bạn sẽ dễ dàng dẫn ra tại đây hàng trăm, thậm chí hàng nghìn từ Hán - Việt với sắc thái ngữ nghĩa trang trọng, cổ kính… mà các từ thuần Việt với nghĩa tương đương không thể thay thế được. Thí dụ như: Học giả Hoàng Xuân Hãn, Học giả Nguyễn Hiến Lê, Thi hào Nguyễn Trãi, Thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh,…; tổ chức hôn lễ, đến dự lễ thành hôn…, v.v… Không ai vì muốn dùng từ thuần Việt, lại “dịch ra” thành Nhà học nhiều Hoàng Xuân Hãn… Bậc thơ giỏi Nguyễn Trãi… Người nổi tiếng văn hóa thế giới Hồ Chí Minh tổ chức lễ cưới xin v.v. Như trên, chúng ta thấy, có từ có thể dịch ra từ thuần Việt được, nhưng sắc thái ngữ nghĩa không trang nhã bằng từ Hán - Việt, và còn nhiều từ thì không thể dùng thay từ Việt được, nếu cố ý dùng chỉ tạo ra những từ lạ tai và ngô nghê mà thôi ! Người nắm vững tiếng Việt sẽ không bao giờ làm như vậy.

2. Nắm vững chữ Hán, văn hóa Hán là cơ sở quan trọng để hiểu rõ văn hóa truyền thống Việt Nam

Chỉ tính từ khi nước ta giành được độc lập vào thế kỷ X cho đến khi bỏ thi chữ Hán (năm 1919), cha ông ta đã có đúng 1.000 năm tiếp xúc với chữ Hán, sử dụng chữ Hán, văn hóa Hán vào 3 phương diện vô cùng quan trọng, đó là: tổ chức chính quyền Nhà nước; sáng tạo văn hóa, soạn thảo luật pháp và đào tạo, tuyển chọn nhân tài.. Có thể nói, trong văn hóa truyền thống Việt Nam, động đến lĩnh vực nào, chúng ta cũng thấy hiện diện của chữ Hán và văn hóa Hán. Như vậy, để hiểu văn hóa truyền thống Việt Nam, từ một người dân bình thường sống trong làng xã đến vị học giả khả kính ở các viện nghiên cứu, ở các trường đại học v.v… đều ít hay nhiều cần phải có vốn hiểu biết về chữ Hán, văn hóa Hán.

Tôi xin bắt đầu từ nông thôn nước ta. Hiện nay, có một hiện tượng đáng trân trọng và nên khuyến khích là việc phục hồi các phong tục, lễ hội… hoặc tu bổ các công trình kiến trúc cổ truyền như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ họ… Nhưng bởi vì nhiều vị phụ trách công tác văn hóa của tỉnh, của huyện và hầu hết nhân dân các địa phương đó đều không biết chữ Hán, không nắm vững văn hóa Hán, cho nên việc phục hồi các lễ hội hay xây dựng, tu sửa lại đình, chùa… gặp không ít khó khăn bất cập Công trình sau khi hoàn thành mặc dù xây dựng khá đẹp nhưng phần bố trí nội thất thường sai sót, các hoành phi, câu đối chữ Hán rất nhiều câu, nhiều chữ bị viết nhầm: chữ “tác” đánh chữ “tộ”; chữ “ngộ” đánh chữ “quá” Thí dụ chữ “lưu (留 ) thanh sử” là “để lại trong sử sách” lại viết thành lưu (流) là chảy, lưu chuyển.

Mấy năm gần đây, tôi thường được các cụ ở địa phương mời về quê hương đọc và dịch hộ các bức hoành phi, câu đối, thần phả, sắc phong đình làng của họ. Tôi mới vỡ ra một điều là: Cho đến đầu những năm của thế kỷ XXI này, sau khi nước ta bỏ thi chữ Hán được gần 100 năm, thì số người biết chữ Hán tại các làng quê Việt Nam là vô cùng hiếm. Có nhiều địa phương, vốn là quê hương từng có người đỗ Tiến sĩ Nho học (ông Nghè), mà nay cả làng không có một ai biết gọi là đôi chút chữ Hán. Thí dụ gần đây, tôi về xã Đôn Thư cũ (nay là xã Kim Thư) huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (để thăm viếng phần mộ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm), nhưng nghe nói ở đây hiện còn ngôi nhà thờ các đời chúa Trịnh khá khang trang, đẹp đẽ; con cháu của Trịnh Căn về cư trú từ lâu đời, nên có rẽ vào chiêm ngưỡng. Thật bất ngờ, ở ngôi nhà thờ “bị bỏ quên này” có đến 6 bức hoành phi sơn son thiếp vàng, được viết chữ Hán quá đẹp. Đặc biệt 3 bức hoành phi ở phía ngoài có niên đại cuối thế kỷ XVIII khắc 3 tác phẩm khá nổi tiếng: Thiên hòa doanh bách vịnh của Trịnh Căn, Đại Nam văn tuyển, Bình Nam nhật ký của Trịnh Sâm… Nếu cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm còn sống chắc không “đối xử” với Nhà thờ các chúa Trịnh như vậy…!

Ngay như ở thủ đô Hà Nội, tại đây, chúng ta có một ngôi đền thiêng văn hóa của cả dân tộc, đó là Văn miếu - Quốc tử giám. Thử hỏi, xem có bao nhiêu người từng vào chiêm ngưỡng Văn miếu - Quốc tử giám mà thấy hết được cái giá trị văn hóa của nó, nếu họ không có hiểu biết nhất định về chữ Hán ? Thật đáng buồn, cách đây chục năm, có vị đứng đầu khu công trình văn hóa - lịch sử này lại không biết gì nhiều về chữ Hán, văn hóa Hán. Họ không biết bức hoành phi to nhất, đẹp nhất được treo tại vị trí quan trọng nhất của nhà Tiền tế là bức Vạn thế sư biểu của ai viết, và để ca ngợi ai ! Vì thế, dẫn đến việc dở khóc, dở cười là cách đây dăm năm, tôi được vị phụ trách một câu lạc bộ văn hóa nọ, mời đến Văn miếu để tọa đàm khoa học về vị Vạn thế sư biểu Chu Văn An ! Nhưng có việc bận, nên tôi không thể tham dự được. Có lẽ, chỉ vì người ta vô tình đặt bức ảnh chụp bức vẽ Chu Văn An ở ngay dưới bức hoành phi Vạn thế sư biểu này, nên họ cho là câu đó nhằm ca ngợi Chu Văn An chăng ? Không biết, vào ngày diễn ra cuộc tọa đàm khoa học ấy, có ai giải thích cho Ban tổ chức rõ câu Vạn thế sư biểu là do vua Khang Hy nhà Thanh viết ra để ca tụng Khổng Tử không ? Tôi nghĩ, cụ Đại nho đời Trần là Chu Văn An vốn sống khôn, chết thiêng chắc chắn không dám nhận lời tôn vinh mình là Vạn thế sư biểu ? !...

Ai hành hương về khu Đền Hùng (Phú Thọ), ngay tại chân núi đã nhìn thấy cổng Tam quan khá bề thế, phía trên có viết 4 chữ Hán Cao Sơn Cảnh hàng (高 山 景 行). Tôi có hỏi Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (người phụ trách Đền Hùng) là đọc 4 chữ Hán như thế nào và nghĩa là gì, thì được chị cho biết có nhiều người đã đọc, mỗi người đọc một kiểu, và cũng nhiều cách hiểu khác nhau. Tôi trả lời Tiến sĩ Hạnh rằng chỉ có mỗi một cách hiểu thôi, là vì câu này nói tắt từ hai câu của bài Xa hạt phần Tiểu nhã trong Kinh Thi.

Nguyên văn:

“Cao sơn ngưỡng chỉ;
Cảnh hàng hành chỉ”.

Nghĩa là:

Núi cao thì ai cũng muốn trông
Đường lớn thì ai cũng muốn đi.

Đương nhiên, “Núi cao” và “Đường lớn” ở đây phải hiểu theo nghĩa bóng để chỉ “Đức lớn của các Vua Hùng” và “Con đường lớn trở về cội nguồn của dân tộc”. Rõ ràng, để đỡ phải “tranh luận” về cách đọc và hiểu 4 chữ Hán tại cổng Đền Hùng này, thì chỉ cần học chữ Hán, và đã từng đọc qua Kinh Thi là ổn cả !

Và ngay trong số gần 300 bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì có đến 165 bài thơ chữ Hán (133 bài trong Nhật ký trong tù và 32 bài làm thời kỳ sau này), nếu chúng ta chỉ đọc thơ của Bác trên các bản dịch thơ của Nam Trân, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Quách Tấn… chẳng hạn; dù cho được dịch rất hay chăng nữa, thì sao thực sự cảm được tứ thơ đích thực của Người ?

Biết chữ Hán và hiểu văn hóa Hán có lợi ích rất thiết thực khi tìm hiểu văn hóa cổ truyền của dân tộc và đương nhiên mới có thể kế thừa, phát huy nó trong đời sống văn hóa hiện đại.

3. Dạy chữ Hán góp phần không nhỏ trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho thanh niên từ khi còn ít tuổi

Mấy ngày gần đây (đầu Trung tuần tháng 5-2005), báo chí cũng như tivi đưa tin về việc công an quận Đống Đa - Hà Nội liên tục triệt phá các “Động lắc” ở trong quận. Những ngày này, Quốc hội cũng đang họp, nhiều đại biểu tỏ ra cũng lo lắng, bức xúc về việc này. Trong những ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, tôi chú ý tới ý kiến của ông Dương Trung Quốc, đại biểu quốc hội tỉnh Đồng Nai và là Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Xưa & Nay. Ông Dương Trung Quốc cho rằng: các em ở “Động” và “Lắc” tới gần 2 ngày liên tục rõ ràng là đáng trách rồi, nhưng còn đáng trách hơn là bố mẹ các em ! Vì làm sao trong thời buổi này, điện thoại di động hầu như em nào cũng có, con cái vắng nhà ngần ấy tiếng đồng hồ, mà cha mẹ không kiểm tra xem con mình đi đâu? đang làm gì ? Ông Dương Trung Quốc kết luận: Người lớn chúng ta giờ đây không mấy chú ý tới điều mà người xưa thường nhắc nhở là phải biết: “Tu thân, tề gia,..”. Đúng vậy, lâu nay chúng ta ít nhắc tới việc “Tu thân”, kể từ trẻ em đến người lớn ! Và càng ít chú ý tới việc “Tề gia” tức dạy dỗ con cái trong gia đình mình.

Việc “tu thân” này, tức luôn tự mình hoàn thiện đạo đức, nhân cách của mình, nếu học chữ Hán và văn hóa Hán, thì luôn luôn được nhắc nhở trong những câu chữ đọc hằng ngày. Chúng tôi hiểu rằng, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, nếu chỉ tu dưỡng theo đạo đức Nho giáo không thôi thì chưa đủ. Con người mới cần có nhiều đức tính mới, phẩm chất mới ngoài Nho giáo, nhưng trước khi để có thể tiếp thu những cái mới ấy, thì trước hết phải giữ vững đạo đức truyền thống đã.

Những người nghiên cứu lịch sử giáo dục Nho học Việt Nam đều nhận thấy điều này: Con cái của những gia đình nhà Nho rất ham học và phần lớn đều học giỏi. Nhận định này đã được các nhà nghiên cứu đi trước như: Đào Duy Anh, Nguyễn Hiến Lê, Phan Ngọc v.v.. từng viết trong các tác phẩm của họ. Tôi nghiệm thấy nhà Nho xưa kia có 3 điều sở trường: ham học suốt đời, thích đọc sách và yêu cuộc sống yên tĩnh, đạm bạc. Có bạn trẻ nghĩ rằng như thế kém hiện đại chăng ? Xin thưa, hiện đại hay không, chưa thể biết được, nhưng nếu ngay khi bạn còn trẻ, mà bạn đã có được 3 sở trường của nhà Nho nói trên thì, tôi xin đoán chắc bạn sẽ không bao giờ bị trượt chân rơi vào “Động lắc” như các bạn trẻ vừa nói ở trên kia !

Tôi nghĩ việc dạy chữ Hán cho lớp trẻ hiện nay là có nhiều lợi ích. Tôi mong các bậc thức giả trong cả nước góp thêm tiếng nói để mong muốn này sớm trở thành hiện thực. Vấn đề này theo tôi đã chậm lắm rồi! Vì nếu như Quốc hội chấp thuận, Nhà nước ta cho phép khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông ngay từ bây giờ, thì ít nhất phải chừng 10 năm nữa mới thực hiện được. Ai cũng biết phải đào tạo một đội ngũ giáo viên có đủ kiến thức để dạy chữ Hán là không phải việc dễ, không phải một sớm một chiều là thành công. Muốn có một đội ngũ giáo viên ấy, thì các nhà nghiên cứu, các Tiến sĩ, các Giáo sư ngành Hán học ngay lập tức phải vào cuộc: soạn giáo trình, tổ chức lớp, chọn người và giảng dạy… Tóm lại, còn nhiều việc phải làm !

Chúng ta nên học tập kinh nghiệm dạy chữ Hán trong trường phổ thông của các nước có hoàn cảnh văn hóa, địa lý tương tự như nước ta: Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore. Nếu không, tôi cho rằng việc một bộ phận giới trẻ ngày càng xa rời văn hóa, đạo đức truyền thống là điều không thể nào tránh khỏi trong hiện tại và trong tương lai không xa./.

N.M.T

TB

VẤN ĐỀ ĐƯA CHỮ HÁN VÀO
NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG

NGUYỄN THÌN XUÂN

Dưới thời Pháp thuộc, từ thuở còn học tiểu học đến cấp cao tiểu (Primaire supérieur) tôi vẫn được học chữ Hán mỗi tuần hai tiết và thường do một thầy đồ Nho mặc áo dài thâm, khăn xếp đến dạy. Lũ học trò chúng tôi thường coi nhẹ những tiết học này vì cho rằng học chữ Nho để làm gì nhỉ và thường là những giờ học “thoải mái”. Bởi vậy, suốt bao năm học chữ Nho, vốn liếng tiếp thu được chẳng là bao và càng bị mai một đi sau những năm dài công tác, kháng chiến và nhất là rất ít khi dùng đến. Kể lại chuyện trên đây cũng chính là để tôi muốn nêu lên câu hỏi: Đã đến lúc đưa chữ Hán vào nhà trường phổ thông hay chưa và nếu đưa vào thì nên đưa vào cấp học nào cho hợp lý ?

Gần đây trên sách báo, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy lại chữ Hán trong nhà trường phổ thông vì cho rằng bỏ học chữ Hán là dẫn đến tình trạng người Việt Nam hiện nay hiểu sai ngữ nghĩa tiếng Việt rất nhiều. Lại có người lớn tiếng cho rằng đứng trước bàn thờ tổ tiên, trước các bức hoành phi câu đối trong các đền thờ toàn bằng chữ Hán mà không biết đọc, không hiểu được ý nghĩa... thì cũng là những người mù chữ.

Hầu như ai cũng thấy đất nước ta trải qua gần một nghìn năm Bắc thuộc và cũng gần một ngàn năm dưới thời phong kiến, cho đến hồi Pháp thuộc, chữ Hán - sau đến chữ Nôm là văn tự chính trong các lĩnh vực hành chính, giáo dục, thi cử, văn học, lễ nghi... những ai biết thứ chữ này hầu như chỉ chiếm ước độ 5% dân số và ai không biết chữ Hán thì nghe như vịt nghe sấm. Vì sao chữ Hán hay, có ý nghĩa sâu sắc, ấy vậy mà không sao phát triển mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân ! Tạp chí Đăng cổ tùng báo của Nguyễn Văn Vĩnh (số 798 - thứ sáu - 28/3/1907) đã diễn giải như sau: “Vì chữ Nho quả là một hàng rào hiểm... làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn cơm gạo mới dùng được chữ; khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng; vì nỗi dùi mài một đời học các điều cao xa quá”... “... thường chỉ học để thi đỗ làm quan là mãn nguyện...”. Thứ chữ này chỉ phát triển được trong một số gia đình thế gia vọng tộc, một số gia đình có tiền của, tuyệt đại bộ phận nhân dân không có điều kiện đi học.

Việc bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ đã diễn ra khá nhanh chóng vì thứ chữ này có thể diễn tả được cả những khái niệm trừu tượng nhất, tư tưởng cao siêu bằng những lời văn nhẹ nhàng, sáng sủa, chính xác... mà không làm giảm ý nghĩa của câu văn, cái thứ chữ mà “... như đất nước này sinh ra là đã có thứ chữ này rồi” (Hoàng Tiến). Dân tộc ta, ai ai cũng tự hào về chữ Quốc ngữ của mình vừa dễ học, dễ đọc, dễ viết. Chính vì tính ưu việt của chữ Quốc ngữ, người sáng dạ thông minh chỉ vài ba ngày, chậm hiểu thì cũng chỉ vài ba tháng là đọc được thông viết được thạo. Ngày nay, hơn 94% dân số nước ta - do học được cái chữ này mà nhân dân ta đã xóa được mù chữ, tiến lên phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều tỉnh, thành phố đã phổ cập THCS... Chính vì vậy mà nền dân trí nước nhà được nhanh chóng nâng lên ngang tầm dân trí các nước trong khu vực. Đó là mốc son trong lịch sử giáo dục nước nhà. Có người nói chữ Quốc ngữ không phải do người Việt Nam sáng tạo ra mà đó là sản phẩm của các cố đạo phương Tây nhằm tạo công cụ truyền giáo. Nói như thế có phần đúng - nhưng chưa đủ - đã quên mất một phần rất quan trọng và cốt lõi - chính từ việc được la tinh hóa tiếng Việt để rồi dần dần thành chữ viết của dân tộc ta - chữ Quốc ngữ được sử dụng như một thứ chữ thống nhất, từ đồng bào Kinh đến đồng bào các dân tộc ít người - không có một ai phản đối - mọi người dân đều thừa nhận. Chữ Quốc ngữ ngày càng được trau chuốt, đủ sức diễn tả mọi tình cảm của con người, từ văn học đến triết học, khoa học... và được như ngày nay đó chính là nhờ công lao đóng góp của các thầy giáo Việt Nam, của các sư sãi, nhất là các nhà trí thức, học giả uyên thâm Hán học Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như các học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Tịnh Của, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Nguyễn Văn Tố... Chính họ, những người Việt Nam ta từ thế hệ này sang thế hệ khác trong thế kỷ XX đã góp phần tạo nên thứ chữ kỳ diệu này, một thứ chữ độc lập không bị lệ thuộc vay mượn một thứ chữ nào trên địa cầu này. Họ không chỉ truyền bá học chữ Quốc ngữ cho nhân dân ta mà họ còn góp phần xây dựng ngôn ngữ viết, văn phạm, văn chương và làm cho ngôn ngữ của ta giàu thêm bằng những từ ngữ mượn của nước ngoài. Hội truyền bá chữ Quốc ngữ đã đi tiên phong trong việc truyền bá học chữ Quốc ngữ đến những đối tượng cần lao như thợ thuyền, con ăn người ở... những người ở mức thang cùng khổ nhất của xã hội. Và phải nói rằng nền dân trí nước ta được như ngày nay là do chính Bác Hồ kính yêu cũng là nhà Nho cự phách đã khai sinh ra nền giáo dục bình dân (Bình dân học vụ) bằng chữ Quốc ngữ làm cho mọi người dân “ai cũng được học hành”. Hương thơm của đất nước được tỏa ra cũng chính một phần quan trọng do nhân dân ta có được thứ chữ Quốc ngữ này. Và liệu cứ dùng chữ Hán mà không học chữ Quốc ngữ thì dân tộc ta có được văn minh như ngày nay không ? Và như thế không thể nói, không thể cho rằng “Nước ta bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là một điều mất mát lớn”.

Không ai phủ nhận cái hay của chữ Hán nhưng trước hết phải thông chữ Quốc ngữ - đúng là dân tộc ta trải qua gần nghìn năm học chữ Hán, chữ Hán đã tồn tại trong nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Ngày nay văn bia, tờ sớ ở các khu di tích lịch sử, ở các đền chùa miếu mạo vẫn còn hiện diện toàn bằng chữ Hán. Người ta nhìn thấy, nghe đọc mà cứ tưởng chữ người nước ngoài đọc, không ai hiểu ý tứ gì. Nên chăng ở những nơi này cần có bản dịch ra chữ Quốc ngữ để mỗi khi ai đó cần tìm hiểu là có thể dễ dàng hiểu được.

Gần đây trong dư luận, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy chữ Hán trong nhà trường Phổ thông, có người còn đề xuất nên bắt đầu từ lớp 4. Tôi - một nhà giáo suốt đời gắn bó với ngành giáo dục, nhân có ý kiến này cũng đã trao đi đổi lại với các bạn đồng nghiệp lâu năm như tôi, cũng là những người ngày xưa đã từng học chữ Hán trong nhà trường xin có mấy ý kiến như sau:

1. Hiện nay, ai cũng cho rằng chương trình của nền giáo dục của nước ta là quá nặng. Ai cũng muốn giảm tải để cho phù hợp sức khỏe, tâm sinh lí học sinh. Nhưng bớt môn gì đây ? Do nền kinh tế phát triển, Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Hàng loạt trường ở ba cấp được xây dựng và đang tiến tới học hai buổi một ngày, nên ngành giáo dục mới có điều kiện cho học sinh học đủ các bộ môn. Nay chương trình đã nặng, thêm môn này phải bớt môn kia và biết bỏ hoặc giảm môn nào đây ?

2. Chữ Hán qua quá trình phát triển của dân tộc đã gia nhập trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam với cái tên Hán Việt. Nên chăng trong giờ giảng văn một số bài thơ chữ Hán tuy đều đã được dịch sang chữ Quốc ngữ nay cần tăng thêm phần giải thích từng từ Hán Việt để cho học sinh hiểu nội dung bài giảng được sâu sắc hơn.

3. Còn nếu muốn đưa chữ Hán vào nhà trường một cách thấu đáo thì trước tiên phải đào tạo và chuẩn bị đội ngũ giáo viên chữ Hán, điều này cũng cần được tính toán kỹ lưỡng có bài bản.

4. Việc học chữ Hán và chuyên sâu về Hán Nôm cần được chú trọng và đầu tư thỏa đáng đối với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu Hán Nôm trong cả nước. Đây là nơi duy trì và phát huy kho tàng văn hóa dân tộc cổ truyền trong xã hội hiện đại./.

N.T.X

TB

LỜI THÌ THẦM CỦA NGUYỄN DU VỚI CHÚNG TA
QUA ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

NGUYỄN THẠCH GIANG

Đoạn trường tân thanh là một kiệt tác, “một khúc nam âm tuyệt xướng. Lời lẽ xinh xắn mà văn hoa, âm điệu ngân vang mà tròn trịa. Nói tình thì vẽ được hình trạng, hợp ly, cam khổ, mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bày hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa, mà cảnh thì tự vướng tình, khiến người cười, khiến người khóc, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc, lại càng không biết chán” (Đào Nguyên Phổ), từ hàng vua quan, khoa bảng đến người dân đều nhiệt liệt ca ngợi.

Cuộc đời Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những khổ đau của con người trần thế, nên chi ai cũng có thể tìm thấy một phần đời của mình trong những cảnh ngộ khác nhau của thân phận Thúy Kiều, khi yêu đương trông ngóng, hy vọng, đợi chờ, khi hoạn nạn bị chà đạp phũ phàng.

Từ khi Mộng Liên Đường chủ nhân viết lời tựa Đoạn trường tân thanh: “Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được tình. Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ “Tạo vật đố tài” tóm cả một đời Thúy Kiều. Vui, buồn, tan hợp mười mấy năm trời, trong một cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy”. Từ đó bao nhiêu thơ văn viết về Đoạn trường tân thanh đều dựa dẫm than thở cho cái tài, cái tình theo thói quen trực giác của những tâm hồn vốn đa sầu đa cảm đó.

Chúng ta bị cuốn hút vào từng đoạn văn Kiều. Ta bị thôi miên mà không thấy được toàn cục Truyện Kiều, không tự hỏi cụ Nguyễn Du tả một cô Kiều hay như vậy để làm gì ? Cũng như chúng ta, cụ Nguyễn Du cũng tìm được mình trong những mảnh đời của Kiều, gửi được tâm sự mình vào đó ! Nhưng Cụ là tác giả, Cụ phải có ý đồ cao xa thiết kế cuốn truyện của Cụ, không chỉ có để gửi gắm tâm sự, bộc bạch lý do cân đai áo mũ phụng sự tân triều của mình.

Các tác gia Trung Hoa, kể từ Thiên Hoa Tàng chủ nhân đề bài tựa cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, cũng chỉ loanh quanh trong cái tình và cái tài “cảm vì tình nàng, tạm viết vài hàng, thay lời ngưỡng mộ. Nếu lấy tình của thế tục nói rằng hành vi nàng là đê tiện nhơ nhuốc con người, thì tôi đây sẽ vì nàng mà khóc lóc thảm thiết trong ngàn xưa vậy”. Và cả bài từ đầu cuốn truyện cũng chỉ thở than riêng cho số phận giai nhân đeo mệnh bạc, hồng nhan gặp sự không may, chẳng qua là tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ tất phải kém điều kia.

Các tác gia Việt Nam cũng theo điệu đó mà than thở cho tài, tình của thân phận Thúy Kiều, và hầu như Đoạn trường tân thanh được viết ra là để minh họa cho chủ đề đó. Từ Phạm Quý Thích cho rằng:

“Đoạn trường mộng tính căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
Tân thanh đáo để vị thùy thương”.

Trước đó, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân cũng đã có ý ấy:

“Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn nguyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả ”.

Cứ cho các cụ viết đúng như thế thì các cụ cũng chỉ nhìn thấy từng mảnh đời Thúy Kiều, xét toàn cục Truyện Kiều mà viết như vậy là không thỏa đáng. Theo Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, thì từ sau khi trẫm mình, đời Thúy Kiều đã khác:

“Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi,
……
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau…”
Và tiếng đàn cũng vậy, đã khác xưa:
“Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy,
……
Tẻ vui cũng bởi lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai.

Như vậy làm gì có chuyện: “Đoạn trường mộng tỉnh, căn nguyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chưa hả…

Trở nên là cách nhìn của nhà Nho vốn quen tư duy trực giác, chỉ thấy cái trước mắt không thấy cái chủ ý muốn nhắn gửi của tác giả đằng sau những từ ngữ hay cái ý ngoài lời của nó.

Ta thử xét lại tài và tình của Thúy Kiều. Tài thì có tài thơ và tài đàn. Nói về tài thơ của Kiều, theo những bài đã chép trong Kim Vân Kiều truyện, chỉ trừ một số rất ít bài có ý tưởng riêng, còn lại hầu hết là thơ câu lạc bộ, tài đàn cũng vậy, chắc là cũng “u, liu, xế, cồng, liu”. Và cả hai tài đều mang trạng thái tâm hồn sầu thảm, não ruột bi thương. Một cô gái mới lớn mà đã “đoạn trường, tạo vật đố tài, nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa…”. Bấy nhiêu điều đều phải được nảy mầm từ những hạt giống gia đình mấy đời trước truyền lại, như Kiều đã nói:

“Nhớ từ năm hãy thơ ngây
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời.
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa…

Tài, sắc như vậy mà thời trước chỉ đến với một anh thư sinh Kim Trọng, nên chi thực tế thì tài sắc ấy cũng chỉ ở mức khiêm tốn.

Quả thực, Đoạn trường tân thanh được viết ra để minh họa cho “tài mệnh tương đố, tạo vật đố tài” như quan niệm thông tục dân gian qua một cô Kiều khổ đau, đày đọa; một vấn đề tầm thường như vậy thì không làm nên được một cái gì cả. Đằng này Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du hẳn phải có một cái gì đó sâu rộng hơn mới làm nên một kiệt tác.

Trời xanh, tạo vật đố tài trong Thúy Kiều, thực chất là xã hội, là những con người bằng da bằng thịt, vì ghen tỵ mà làm khổ nhau, mà chà đạp Kiều… Nguyễn Du nhiều lần nói đến ý tưởng:

Phúc họa đạo trời
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra…

Trong tất cả các khổ nạn của Kiều đều có phần của con người, của Kiều tạo ra. Nguyễn Du nhấn mạnh đến ý này nhiều lần mà trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân không có. “Ở lòng người mà ra”, Nguyễn Du muốn nói cụ thể rõ ràng về việc Kiều tự gây ra khổ nạn cho đời mình trong những lần Kiều nương cửa Phật.

Lần đầu, Kiều ở Quan Âm Các:

Phật tiền thảm lấp sầu vùi
Ngày pho thủ tự đêm nhồi tâm hương

Quan phòng then nhặt lưới mau
Nói lời trước mặt rơi châu vắng người
Gác kinh viện sách đôi nơi
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.

Rõ ràng khổ đau gây ra cho mình từ sau lần đi tu ở Quan Âm Các là do Kiều tu mà chưa thực tâm tu, còn vướng víu quá nặng nề trần lụy. Thảm sầu phải được tu học để tự chuyển hóa chứ không phải lấp vùi. Lấp vùi thì thảm sầu vẫn còn nguyên đó. Nói lời trước mặt khi gặp người khác nhưng khi một mình đối diện với mình thì lại “rơi châu”, nghĩa là còn thấy mình bị tủi nhục, vẫn còn mong muốn gặp người yêu cũ Thúc Sinh. Đau khổ của Kiều sinh ra từ đó. Giá như Kiều dứt hẳn, cự tuyệt tình yêu đó thì Kiều vẫn được an toàn, yên vui ở Quan Âm Các.

Lần thứ hai ở Chiêu ẩn Am: Nếu Kiều ở đây “gửi thân được chốn am mây” mà không có chuyện phạm giới “chuông vàng, khánh bạc”, thì làm gì có chuyện bị lừa đảo bởi Bạc Bà, Bạc Hạnh ?

Lần thứ ba ở am bên sông, tu với Giác Duyên, Thúy Kiều thuật lại:

Đã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.

Trùng sinh ân nặng bể trời
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi.

Lần này, sau vụ tự trầm ở sông Tiền Đường “nạn xưa trút sạch lầu lầu”, Kiều thực sự tu học có kết quả, đã chuyển hóa được nghiệp của đời mình, tạo nên buổi đoàn viên. Theo Tam Hợp đạo cô, sở dĩ có như vậy là nhờ:

Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Hại một người, cứu muôn người
Biết đường kính trọng, biết lời phải chăng
Thửa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

Sau lần tu này, trong cuộc Kim - Kiều tái hợp, Nguyễn Du nhấn mạnh làm nổi rõ sự tu học có kết quả thực sự của Kiều:

1- Đêm “động phòng dìu dặt chén mồi”, Kiều cự tuyệt việc mây mưa mà Kim Trọng phải “một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm”. Trong nguyên truyện, Kiều nói quyết liệt hơn:

“Song riêng chuyện mây mưa non Vu đỉnh Giáp thì thân này đã như vật tàn tạ, nếu còn coi như đóa hải đường mơn mởn để ướm thử thì ấy là đã làm thẹn thiếp, làm nhục thiếp. Thiếp quyết không sao tuân mệnh được”.

“Vả, cái trinh của thiếp sau khi chịu nhục, chỉ còn lại một chút xíu này, nếu chàng cứ cố tình làm ô nhục nốt chỗ chút xíu ấy thì thiếp đành phải tan xương nát thịt, chứ không còn dám dự vào việc nâng khăn sửa túi nữa”.

Như vậy, Kiều không còn phải tu giữ giới nữa, mà giới vẫn được giữ nghiêm nhờ kết quả tu học, một lòng theo Phật.

2- Trong buổi “thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa”, tiếng đàn cô Kiều bây giờ khác hẳn, vì cái tâm đã được giác ngộ:

Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào ?
Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy !”
Trẻ vui bởi tại lòng này,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai ?
3- Nguyễn Du nhấn mạnh ý không có trong nguyên truyện:
Nặng vi chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai

Nguyễn Du muốn nói trong suốt phần đời còn lại, Kiều vẫn một lòng tu Phật:

4- Sau khi đàn lần cuối cho Kim Trọng nghe, Kim Trọng còn thòm thèm không quên được nghệ thuật cao siêu của Kiều, Kiều bèn nói:

“Chàng không quên thiếp thì thiếp xin trình bày nghệ thuật khác để đổi vị cho chàng. Bèn đề 10 bài thơ tặng Kim Trọng: “Đây là tình của thiếp, xin chuyển mối tình của chàng cho sát với tình của thiếp”.

Bài thứ 1:

“Nhớ xưa gặp quân tử
Không biết là có sống
Mới biết nhi nữ tính
Tức là nhi nữ tình”.
Và bài thứ 10, bài cuối:
“Ngày nay gặp lại chàng
Không biết là có chết
Xin chàng sớm định tình
Trước sau cho giống hệt”.

Từ bài 2 đến bài 9 trình bày lý do, thanh minh cho cách hành xử của mình trong từng cảnh ngộ.

Có thể nói đây là lời Kiều trình bày cả quá trình đau khổ từng trải qua của đời mình, mà bài đầu nói sự thật là sống theo dòng đời với những “hồng nhan bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố” nghĩa là sống ngụp lặn theo thói tục mà không biết tự do, hạnh phúc, không biết có sống. Và bài cuối là nói cuộc sống sau khi tu học có kết quả, đã vượt khỏi sự sống chết, nghĩa là sống tự do, tự mình làm chủ cuộc đời của mình bằng cách tạo ra những thiện nghiệp, năng lực chuyển hóa mọi cái thành cái tốt.

Ta quen nhìn từng quãng đời Kiều nên chỉ thấy cuộc đời và triết lý Kiều có nhiều mâu thuẫn. Trong đoạn kết, Nguyễn Du viết:

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Đó là thuyết định mệnh. Con người hoàn toàn là thứ đồ chơi trong tay tạo hóa, cho sao được vậy. Nhưng lại có cả nghiệp:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Trong một đoạn kết mà mâu thuẫn đến kỳ lạ của hai khái niệm triết lý: định mệnh của nhà nho và nghiệp của nhà Phật.

Đoạn kết Đoạn trường tân thanh chúng ta phải hiểu rằng: “Thế mới biết, người đời thường cho rằng: “muôn sự tại trời…” là không đúng. Do chỉ thấy những trường hợp cá biệt biểu hiện ra bên ngoài. Con người tự tạo ra nghiệp, chứ không ai khác, nghĩa là chính mình là tác giả của đời mình, tự tâm ta cả. Thiện căn ở tại lòng ta, phúc họa đạo trời, cội nguồn cũng ở trong lòng mà ra cả. Đó là lời dạy của Phật: Mỗi chúng ta là một vị Phật sắp thành. Phải trở về với chính ta, không cầu một cái gì ngoài ta.

Như vậy, viết Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du muốn trao gửi cho hậu thế sự tu học, tâm đắc của mình: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Thực tâm theo Phật, bản thân ta được bảo vệ an toàn trong mọi hoàn cảnh.

Văn Kiều quá hay, cuốn hút chúng ta nên chỉ thấy văn chương mà quên tìm hiểu cái hiện tượng được phô diễn ngọt ngào ra đó mục đích để nói cái gì. Văn nghệ Đông phương vốn gợi ý, chứ không khúc chiết. Đọc văn phải lĩnh hội cái ý… được gửi gắm của tác giả ở đằng sau những từ ngữ mỹ miều đó. Cái ý quán xuyến mà Nguyễn Du muốn trao gửi cho chúng ta là: Muốn có tự do và hạnh phúc thực sự, chỉ có một con đường duy nhất là tu Phật, vì chỉ có đạo Phật mới dạy ta chuyển hóa những cái không tốt ở ta thành những cái tốt, tự ta làm chủ cuộc đời của ta, không một thế lực bên ngoài nào khác làm thay ta.

Lấy một đời Kiều ra mà xét thì một phần đời trước, Kiều chỉ sống theo thói tục ngụp lặn trong vòng tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc mệnh, bị những thế lực xã hội đày đọa. Phần đời sau là phần đời đã tu học có kết quả, thành tâm đi theo Phật mà được sống tự do, hạnh phúc, làm chủ lấy cuộc đời của mình.

Đoạn trường là nói nỗi đau khổ do cả hai nguyên nhân (xã hội, tu mà không thực tâm tu) làm đày đọa Kiều; còn Tân thanh là tiếng mới, là lời giải thích mới, là sự quán chiếu về cái nguyên nhân chứ không phải Trời mệnh như dân gian thông tục. Cả hai nguyên nhân, Thanh Tâm Tài nhân và Nguyễn Du đều có, song thi phẩm Tố Như cả hai đều được khắc họa sắc nét, đậm đà hơn và riêng Nguyễn Du ý đồ sáng tác Đoạn trường tân thanh để nói cái nguyên nhân Tu là rõ rệt, sâu sắc như một điều tâm đắc của cả đời tu học của mình.

Qua Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã thì thầm chân lý vĩ đại đó với chúng ta, Nguyễn Du thì thầm để chúng ta thêm thấm thía lời dạy mà chính Cụ đã thể hội sâu sắc qua cuộc đời phong trần của Cụ trong hoàn cảnh đất nước cần nhà Nho xây dựng, kiến thiết, trong một môi trường xem Phật gia thoát ly cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm xã hội mà lánh vào cửa Thiền, không biết rằng Phật gia vì đời mà đi tu theo Phật nhập thế.

Lý tưởng thẩm mỹ Phật giáo đóng vai trò chủ đạo trong khi diễn tác Đoạn trường tân thanh. Và, như vậy chính Nguyễn Du đã tu học đời mình theo Nho, theo Đạo, theo Thiền tổng hợp trong cái gọi là Đạo học (neoconfucianisme), nguồn cảm hứng cho sáng tạo nghệ thuật của những nghệ sỹ lớn phương Đông.

Tôi tin bấy nhiêu điều mầu nhiệm như khi trầm ngâm lĩnh hội cái đẹp trí tuệ của câu thơ Kiều:

“Trời còn để có hôm nay…”

N.T.G

TB

SỰ ĐÓNG GÓP CỦA BẢN
LIỄU VĂN ĐƯỜNG TRONG VIỆC TÌM RA
NIÊN ĐẠI TRUYỆN KIỀU

NGUYỄN TÀI CẨN
ĐÀO THÁI TÔN

1/ Như chúng tôi đã có nhiều lần nói đến trong các bài viết, trong việc nghiên cứu các bản Kiều Nôm cổ thế kỉ XIX, cụ Hoàng Xuân Hãn đã có công lao đóng góp rất to lớn: Cụ đã gợi lên nhiều ý tưởng mới, Cụ cũng đã cất công sưu tầm, thu thập, thuê chép được rất nhiều bản chép tay có giá trị mặt này hay mặt khác; khoảng năm 1942-1943 Cụ lại phát hiện được một bản chép tay rất đặc sắc khiến Cụ phải chịu khó về đến tận Tiên Điền để tìm hỏi cụ Nghè Mai và để điều tra thêm trong dòng họ.

Tuy trong bài trả lời phỏng vấn trước khi qua đời, cụ Hoàng Xuân Hãn không hề nhắc tới tên văn bản mà cụ cho là rất quan trọng. Nhưng sau này, qua sự thuật lại trong hồi ức Nguyễn Văn Hoàn thì Cụ đã nói đến bản Duy Minh Thị (DMT). Nhà báo Thụy Khuờ cũng theo Nghiêm Xuân Hải mà cho biết: “trong 8 bản Kiều, Kiều tầm nguyên sẽ in một bản duy nhất, đó là bản DMT 1872 vì Hoàng Xuân Hãn đã đánh giá là nó gần bản gốc nhất (ngoài những chữ sai dễ chữa vì người khắc ván và người biên tập không thạo tiếng Việt”(1).

Chúng ta hiện chưa biết hết được mọi sự phát hiện của cụ Hoàng Xuân Hãn, bởi cuốn Kiều Tầm nguyên của Cụ chưa ra đời; bản mà Cụ hết lời ca ngợi là bản chép tay hay bản in DMT 1872 (?) vẫn là điều cần phải chờ đợi. Nhưng một điều chắc chắn là Cụ đã không ngớt lời ca tụng những cỏi quớ của một văn bản nào đó. Đó là bản cổ, chép lại từ một bản đời Gia Long; đó là một bản gần với lần sơ thảo đầu tiên vì có nhiều câu Cụ đang theo sát Thanh Tâm Tài Nhân, chưa kịp sửa chữa lại; đó là một bản có gia húy và có nhiều điều ăn khớp với các truyền thuyết thường nghe kể trong gia đình, làng xóm…Và khi so sánh với bản Kiều Oánh Mậu (KOM), cụ đã đặt bản DMT lên vị trí số 1, coi trọng hơn hẳn bản KOM.

Nhưng dù sao thì bài trả lời phỏng vấn của cụ Hoàng Xuân Hãn đã gợi ra một phương pháp nghiên cứu văn bản Truyện Kiều hoàn toàn mới. Thực tiễn nghiên cứu từ 1997 đến nay đã chứng tỏ điều đó. Dù vậy, chúng ta cũng không nên đi đến một thái độ cực đoan, coi thường các bản Kiều Nôm cổ còn lại. Ngay bản thân cụ Hoàng Xuân Hãn, Cụ cũng đã dùng đến 8 bản Kiều đời Tự Đức để so sánh, cân nhắc. Chúng tôi cũng có quan niệm như vậy. Trong cuốn Tư liệu Truyện Kiều - từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, chúng tôi cũng đã phân tích rõ: mỗi bản đều hoặc nhiều hoặc ít có phần đóng góp đáng quí của nó cả.

Để minh họa, dưới đây chúng tôi xin nêu lên những trường hợp bản DMT gần như thúc thủ mà bản Liễu Văn Đường (LVĐ) lại có công đóng góp được những vết tích kị húy Lê - Trịnh rất quí, góp phần làm sáng tỏ hẳn vấn đề niên đại của Truyện Kiều.

2/ Trong việc tìm tòi các vết tích kị húy may mắn còn sót lại được từ thời Lê -Trịnh, có thể chia thành 3 trường hợp chính:

- Trường hợp bản LVĐ có vai trò tương đương như bản DMT, hai bên bổ sung cho nhau;

- Trường hợp bản DMT có phần đóng góp nhiều hơn;

- Và trường hợp bản LVD có giá trị cao hơn hẳn, không có nó thì bản DMT thiếu hẳn tư liệu, hoặc có tư liệu nhưng tư liệu không đủ sức thuyết phục.

Trước hết xin điểm sơ qua một số dẫn chứng thuộc trường hợp đầu:

a) Về chữ NINH 寧 tên húy vua Lê Trang Tông (1533-1548), ông vua mở đầu giai đoạn Trung hưng, bản DMT đã chọn cách viết có bộ KHẨU ở câu 2789 để có tự dạng khác đi; ở câu 450 bản LVĐ cũng dùng biện pháp tương tự: viết thêm bộ NHÂN để kị húy;

b) Về chữ KIM 金, trùng âm với tên húy của Nguyễn Kim (1533-1545) ông tổ họ ngoại các chúa Trịnh, bản DMT 2 lần dùng chữ khác (chữ CHÂM 針 viết đá thảo ở câu 3175, chữ KINH 經 ở câu 2024); thì bản LVĐ cũng 3 lần đổi KIM thành CHÂM, ở câu 769, câu 1507 và câu 3175 .

c) Về 2 tên húy của chúa Minh Đô Vương Trịnh Doanh 楹 (1740-1767) bản DMT cũng như bản LVĐ đều dùng một biện pháp chính là thay bộ MỘC bằng bộ THẢO trong chữ DOANH (như ở câu 1885); ngoài ra đều còn dùng biện pháp phụ là viết bỏ bởt nét ở chữ MINH 明: như ở câu 1510 trong bản LVD / 1866 và trong 4 câu của bản DMT. Biện pháp phụ ở bản DMT có nhiều hơn, nhưng điều đó không quan trọng bằng biện pháp chính. Thay bộ MỘC bằng bộ THẢO để kị húy chữ DOANH là dùng biện pháp hoàn toàn giống như trường hợp thay bộ HÒA 種 bằng bộ THỦ để kị húy chữ GIỐNG / CHỦNG dưới triều Nguyễn.

3/ Trường hợp bản DMT cung cấp nhiều cứ liệu quí hơn cũng có, như trường hợp kị húy tên Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623-1657 ) hay trường hợp kị húy tên Uy Đô Vương Trịnh Giang (1729-1740): việc dùng chữ THANH 声 (với nghĩa là “tiếng”) thay cho chữ THANH 清 (với nghĩa là “trong”) ở câu 2209, cũng như việc viết bỏ bớt một nét trong chữ UY 威 ở câu 1821 đều là những đóng góp đáng quí của riêng bản DMT.

Theo vận thư xưa, THANH 声 (= tiếng) vừa khác tự dạng vừa không đồng âm với chữ THANH 清 (= trong). Hiện nay người Hán vẫn đọc hai chữ khác nhau.

Nhưng công bằng mà nói thì chính bản LVĐ mới là bản có giá trị cao hơn hẳn, trong việc góp phần làm sáng tỏ vấn đề niên đại Truyện Kiều. Đây là một điều bất ngờ, bất ngờ ngay cả đối với chúng tôi, nhưng đó quả đúng là một sự thực.

a) Về việc kị húy tên ông chúa mở đầu dòng họ Trịnh - chúa Trịnh Tùng (1570-1623) - bản DMT không lưu lại được một vết tích gì. Nhưng hệ thống 4 bản Kiều Nôm miền Bắc lại bổ sung được cho sự khiếm khuyết đó: ở câu 398 bản LVĐ và bản VNb.60(2) đều khắc rõ rành rành một chữ TÙNG 松 có tự dạng khác: bản LVĐ bỏ bộ MỘC và thay bằng bộ THỦ ; bản VNb.60 lại bỏ bộ MỘC và thay bằng bộ HÒA .

b) Trong chữ Nôm, ĐẦM thường phải ghi bằng chữ ĐÀM 潭 (xin xem các tự điển như Huúnh TÞnh Của, Nguyễn Quang Xĩ vµ Vũ Văn Kính…). Nhưng ĐÀM lại là tên húy của vua Lê Thế Tông (1573-1600)! Vậy có thời đã phải né tránh chữ ĐÀM. Hiện nay ở câu 82, việc né tránh đó đã được xóa bỏ: ĐẦM vẫn ghi bằng ĐÀM. Nhưng ở 2 câu vết tích kị húy cũ vẫn còn. Ở câu 3199:

“Khúc đâu đầm ấm dương hòa”

Bản DMT thay ĐÀM / ĐẦM bằng một chữ PHIÊU 漂 có thể dùng như trong PHIÊU DIÊU (= tiếng trong mà dài), hoặc có thể đọc Nôm thành VEO, XIÊU, XEO… Rõ ràng bản DMT có ý đồ kị húy, nhưng cách kị húy không rõ ràng: không hiểu người sao chép muốn bỏ bớt nét chữ ĐÀM để né tránh tự dạng cũ rồi vô tình tạo ra chữ PHIÊU, hay là người chép muốn thay hẳn bằng chữ PHIÊU, VEO, XIÊU, XEO? Bản LVĐ và cả hệ thống 4 bản miền Bắc thì cung cấp cứ liệu kị húy vừa phong phú vừa dễ nhận diện hơn nhiều. Ở câu 784 bản LVĐ nói riêng, cả 4 bản miền Bắc nói chung đều thay ĐÀM /ĐẦM bằng DÂM /DẦM 淫:

“Dàu dàu ngọn cỏ DẦM DẦM cành sương”

Mà đọc ĐẦM ĐẦM CÀNH SƯƠNG thì cũng được vì đúng cả qui tắc ngữ âm, cả qui tắc kị húy! Còn ở câu 3199 thì lại còn thêm một cách kị húy nữa là đổi chữ ĐÀM thành chữ 淡: ĐÀM đọc thành ĐẦM được thì ĐẠM cũng đọc thành ĐẦM được, vì trong chữ Nôm, dấu nặng rất dễ chuyển thành dấu huyền, so sánh với: NGHỊ - NGHÌ, NGHỆ - NGHỀ, MUỘN - BUỒN, CẬN - GẦN v.v. Việc dùng 2 chữ DẦM, ĐẠM ở đây để né tránh tên ĐÀM của vua Lê Thế Tông thiết nghĩ cũng không khác gì việc dùng ở сâu 2067 hai chữ THỰC 寔 (ở KOM) và THIỆT 舌 (ở L©m Näa Phu - LNP) ®ể né tránh chữ THẬT 實, tên húy của mẹ vua Thiệu Trị.

c) Tên húy Tây vương Trịnh Tạc (1657-1682) là chữ TÂY 西. Bản DMT chỉ có một biện pháp kị húy duy nhất là thêm bớt nét để thay đổi tự dạng vốn có. Biện pháp đó triều đại nào cũng thường dùng, nhưng đó là một biện pháp có nhược điểm rất lớn: qua sao chép, qua in ấn việc thay đổi một nét là việc rất dễ xảy ra làm cho việc kị húy hay không kị húy nhiều khi rất dễ lẫn lộn. Bản LVĐ nói riêng, các bản miền Bắc nói chung, đã đi theo một hướng khác, bảo đảm hơn nhiều: ở câu 583 cả 4 bản đều gia thêm một bộ THỦ, biến chữ TÂY thành chữ TAY 壦 ! Với chữ TAY, vừa tránh được cả âm, cả nghĩa vừa tránh được cả tự dạng, ai nhìn vào thì cũng biết ngay đây là biện pháp kị húy. Chỉ xin thử đọc câu 583 xem sao:

“Đồ tế nhuyễn, của RIÊNG TAY ( < RIÊNG TÂY)
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”

Câu lục đặt theo thế chia thành 2 vế: có đối ĐỒ với CỦA; có đối TẾ NHUYỄN với RIÊNG TÂY thì mới hợp! Rõ ràng cách viết RIÊNG TAY chỉ là cách viết né tránh hai chữ RIÊNG TÂY mà thôi. Không phải ngẫu nhiên mà từ trước đến nay chưa một nhà biên khảo nào chịu chấp nhận 3 chữ CỦA RIÊNG TAY, đưa in vào sách.

d) Trong các trường thi xưa có chức danh ĐỀ ĐIỆU chỉ vị quan thay mặt vua. Vì lí do đó chữ ĐIỆU ở Truyện Kiều cũng được kị húy như tên các vua Lê, chúa Trịnh. Có điều vết tích kị húy chữ ĐIỆU ở bản DMT thì đang quá sơ sài: chỉ thay bộ NGÔN 調 bằng bộ SÁCH , mà thay chỉ ở một câu 638. Nếu có người khó tính, họ có thể nghi ngờ và cho đây chỉ là một chuyện sơ suất, do in ấn, sao chép nên nhầm bộ này thành bộ kia mà thôi. Nhưng nếu nhìn sang các vết tích hiện còn lưu lại ở bản LVĐ nói riêng, ở 4 bản miền Bắc nói chung, thì ai cũng phải nhất trí, tin rằng quả có dấu vết kị húy thực. Có 2 cơ sở để tin như vậy:

- Ở câu 1134 cả 4 bản đều thay chữ ĐIỆU bình thường (NGÔN + CHU 調 ) bằng một chữ ĐIỆU đặc biệt (THỦ + TRÁC 掉 ). Chữ ĐIỆU đặc biệt này ở tiếng Hán dùng phổ biến hơn ở Việt Nam (không có trong mục ĐIỆU của Đào Duy Anh!) lại có cả khả năng đọc thành TRẠO! Thật là tìm được một chữ kị húy tuyệt vời! Hoàn toàn không thua gì trường hợp ở câu 2157 LNP dùng chữ HỒNG 紅 với nghĩa là “đỏ” để né tránh chữ HỒNG 洪 với nghĩa là “lớn” khi kị húy Tự Đức: bên nào chữ viết cũng khác nhau, né tránh được tự dạng, và khi cần kị húy về mặt âm thì HỒNG có thể đọc HƯỜNG, ĐIỆU có thể đọc TRẠO !

- Cơ sở thứ 2 là ở câu 638:

“Nét buồn như cúc, ĐIỆU [調] gầy như mai”

Cả 4 bản miền Bắc đều đổi thành: “Nét buồn như cúc, MÌNH [命] gầy như mai”. Đó là một cách đổi chữ kém hơn, trước nay chưa được ai đồng tình về mặt thưởng thức văn học! Nhưng sao lại phải đổi? Rõ ràng đổi chỉ là để tránh húy! Nghĩa là phải đổi như kiểu triều Nguyễn bắt đổi THIẾP LAN ĐÌNH thành THIẾP HƯƠNG ĐÌNH hay đổi LÀN THU THỦY thành HƯƠNG THU THỦY vậy!

4/ Về thời gian sáng tác Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, hiện đang có nhiều câu hỏi chưa được giải đáp một cách nhất trí:

- Cụ sáng tác sau khi đi sứ về hay Cụ đã sáng tác trước đó?

- Nếu Cụ đã sáng tác trước đó, thì Cụ sáng tác đầu đời Gia Long hay trước đời Gia Long?

Về câu hỏi đầu có một cứ liệu lịch sử có thể soi sáng: Theo bản KOM và bản LNP, một trong hai vị đã có lời bình về Truyện Kiều là ông “nguyên Thiên Trường Tri phủ… Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng”. Theo Đại Nam thực lục chính biên, tháng 11 năm 1807 giặc nổi lên ở Sơn Nam hạ, Tri phủ Nguyễn Lượng cùng Cai đội Nguyễn Văn Đại đều bị tử trận. Thế thì rõ ràng Truyện Kiều đã phải được viết trước khi cụ Nguyễn Du đi sứ.

Về câu hỏi sau mãi đến gần đây vẫn chưa có chứng cứ gì có thể dùng để làm chỗ dựa. Thiên hướng chung của các nhà nghiên cứu như Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Trương Chính v.v. đều chỉ đưa ra những sự phỏng đoán, nghiêng về hướng cho rằng chắc Truyện Kiều đã được hoàn thành trước đời Gia Long. Nhưng những sự phỏng đoán đó quả là những sự phỏng đoán tài tình vì hiện nay chúng tôi thấy vết tích kị húy thời Lê Trịnh hiện còn sót lại trong các bản Kiều Nôm cổ thế kỉ XIX nói chung, và nhất là trong bản DMT và trong 4 bản thuộc hệ thống LVĐ nói riêng, dường như đã cho phép chúng ta có chứng cứ để khẳng định Truyện Kiều được sáng tác trong đời Tây Sơn, chấm dứt hẳn được mọi sự ngờ vực trong các ý kiến còn dừng lại như những phỏng đoán trước đây.

5/ Các vết tích kị húy trên đây cho thấy cụ Nguyễn Du đã cơ bản hoàn thành Truyện Kiều trong không khí sáng tác của thời Lê - Trịnh. Nhưng Cụ hoàn thành cụ thể vào khoảng những năm nào ? Đứng trước câu hỏi này chúng ta lại phải quay trë lại bản DMT và 4 bản hệ thống LVĐ vì chỉ chúng mới có thể bổ sung được cho chúng ta những vết tích kị húy đặc biệt và hết sức cần thiết: kị hóy về vua Lê Chiêu Thống, kị húy về chúa Trịnh Bồng và kị húy trong gia đình về cái tên của ông chú Nguyễn Trọng.

a) Chữ tên vua Chiêu Thống và chúa Trịnh Bồng không có trong Truyện Kiều, nên chỉ kị húy về mặt âm. Chiêu Thống âm húy là KÌ 祈, trùng âm với âm húy của Lê Thần Tông (1619-1662) tuy 2 bên viết mặt chữ khác nhau.

Xin đọc 2 câu 3109, 3110 liên quan đến việc kị húy âm KÌ:

“Chàng dù nghĩ đến gần xa
Đem tình CẦM SẮT đổi ra CẦM CỜ”

Hai chữ CẦM CỜ ở cuối câu bát nên muốn gieo vần thế nào cũng được. Kể ra dùng kết cấu toàn Hán-Việt CẦM KÌ có lẽ còn hay hơn, vì chọi lại với CẦM SẮT ở trên. Nhưng phải chọn CẦM CỜ vì KÌ là tên húy của cả Lê Thần Tông cả Lê Chiêu Thống.

Việc kị húy theo âm này hiện lưu lại 3 kiểu vết tích:

- Chỉ kị húy bằng âm, ví dụ ở câu 2179, 2508;

- Đã kị húy bằng âm rồi nhưng thay đổi thêm cả tự dạng cho chắc (ví dụ đổi bộ MỘC thành bộ THỦ, bộ NHỤС, bộ TRÚC, như ở сáс сâu 1473, 3110, 3223, 1246 (DMT); và bộ NGỌC như ở câu 3110 (LVĐ, Quan V¨n ®­êng - QV§). Điều lệnh năm 1821 đời Thiệu Trị đã đúc kết kinh nghiệm: bộ THỊ rất dễ lầm với bộ MỘC, khi kiêng húy cần phải cẩn thận. Thay bộ MỘC của chữ KÌ 棋 (với nghĩa là “cờ tướng”) để khỏi nhầm với chữ KÌ bộ THỊ của Lê Thần Tông là chí phải.

- Trường hợp không kiêng đựợc âm thì phải gắng tìm được từ hợp văn cảnh, cùng gieo vần được, như thay KÌ bằng THÌ ở câu 2230 ba bản QVĐ, Thịnh Mỹ đường (TMĐ), VNb.60;

- Hoặc chí ít là gắng thay đổi tự dạng để báo tin có chuyện kị húy cho người ®ọc biết, giúp họ tự tìm ra cách ứng xử: như ở câu 2230: hai bản DMT, LVĐ thay KÌ 期 (= “thời hạn”) bằng chữ XÍ (= “cánh”), chữ XÍ này theo vận thư cổ cũng có khả năng đọc cả thành KÌ;

- Hoặc như ở câu 2407, bản QVĐ/ 1879 thay bộ phận bên trái của chữ KÌ (= “thời hạn”) bằng bộ BỐI .

b) Lại xin xem câu 2627 liên quan đến chúa Trịnh Bồng:

“Cửa BỒNG vội mở rèm châu”

BỒNG đồng âm với tên chúa nên cũng phải thay bằng những âm khác: bản LNP thay bằng BUỒNG, 4 bản hệ LVĐ thay bằng PHÒNG.

Riêng bản TMĐ ở câu 2937 còn thay đổi thêm cả tự dạng: thay bộ THẢO bằng một nét ngang.

c) Truyện Kiều kị húy Chiêu Thống, kị húy Trịnh Bồng nhất định phải là kị húy sau khi hai ông đã cầm quyền, tức năm 1786. Bản DMT dùng TRƯỢNG NGHĨA thay TRỌNG NGHĨA để kị húy tên TRỌNG của ông chú(3) nhất định cũng phải là thay sau năm ông chú qua đời, tức năm 1789. Theo PGS. Ngô Đức Thọ và chúng tôi, có thể phỏng đoán cái khoảng 4 năm 1787-1790 là cái khoảng cụ Nguyễn Du cơ bản hoàn thành bản phác thảo Truyện Kiều.

6. Đến đây hai câu hỏi có thể đặt ra:

- Đẩy lùi khoảng thời gian sáng tác xuống giai đoạn 1791-1795 hoặc giai đoạn 1796-1802 thì có được không ?

- Để tác giả sáng tác Truyện Kiều trong khoảng chỉ mới 20-25 tuổi, như vậy thì làm sao tác giả có đủ cái lịch lãm cần thiết để có thể có được cái bút lực “mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” như Mộng Liên đường chủ nhân đã từng ca tụng?

Theo ý chúng tôi, câu hỏi đầu đã được chính tiểu sử của cụ Nguyễn Du giải đáp:

a) Trong khoảng 1787-1790 cụ Nguyễn Du chỉ về quê vợ ở, không chạy theo Chiêu Thống, không tham gia các phong trào chống đối Tây Sơn, mà cũng không đi theo những người ra cộng tác với chính quyền mới. Hai lần 2 ông anh lên đường đi sứ cũng không thấy Cụ lên đưa tiễn hay làm thơ đưa tiễn. Rõ ràng trong 4 năm này Cụ đang để toàn tâm, toàn ý vào cái công việc chính Cụ ôm ấp suốt cả cuộc đời của Cụ: công việc hoàn thành về cơ bản toàn bản diễn âm của Truyện Kiều.

b) Sang hai giai đoạn sau thì chúng ta đã thấy khác: năm 1791, khi ông anh Nguyễn Nễ đi sứ về, đưa thơ bảo Cụ không có cái tài thiệp thế với đời, Cụ đã lên Thăng Long gặp anh ngay, cùng anh mở tiệc, tổ chức hát cô đầu, tổ chức tiễn đưa anh lên đường vào Phú Xuân nhận việc. Và khi ông anh vợ chuẩn bị vào kinh đô, héi họp bạn bè đưa tiễn, Cụ cũng tham gia họa thơ, rồi còn làm thơ riêng đưa ông anh rể và làm cả thơ cho cả ông anh ở tận Qui Nhơn. Theo cụ Hoàng Xuân Hãn, cũng chính giai đoạn này là giai đoạn Cụ bắt đầu có quan hệ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Thêm vào đó, năm 1793 Cụ còn dám làm cả một việc thật phi thường: dám cất công lên đường vào tận kinh đô Phú Xuân thăm anh.

Nhưng, nếu chúng ta có thể tin tất cả những gì mà gia phả chép, thì còn một chuyện “động trời” nhất có lẽ là cái chuyện Cụ định làm năm 1796: trở lại hoạt động chính trị, định vượt biển vào tận Gia Định tham gia phong trào nổi dậy chống Tây Sơn cùng với Nguyễn Ánh(4). Rõ ràng công việc diễn âm Truyện Kiều có hoàn thành được một cách thật mĩ mãn hoặc thật cơ bản trong giai đoạn đầu, thời kì 4 năm Cụ ở quê vợ tại Thái Bình thì trong hai giai đoạn sau Cụ mới có được cái thời gian rảnh rang cần thiết, và mới có được cái lòng thảnh thơi để có thể tham gia vào các công việc của cuộc đời thường, kể cả những công việc rất gian nan, có thể nguy đến cả tính mệnh.

7/ Về câu nghi vấn thứ hai, thiết nghĩ cũng không nên nói lí luận dài dòng làm gì. Thông thường người ta quả hay nói rằng người già thì hay lịch lãm. Nhưng sự lịch lãm đâu có nhất thiết phải gắn với tuổi già! Đọc Vũ Trọng Phụng ai mà không tin rằng đó là một nhà văn am hiểu mọi tầng lớp xã hội đến tận từng kẽ tóc chân tơ, biết đủ mọi ngõ ngách, mọi mánh khoé, của cuộc đời… thế nhưng khi mất nhà văn vẫn chưa đến tuổi 30. Nhà văn Sô-lô-khốp của Liên Xô (trước đây) cũng vậy. Khi viết về vùng sông Đông, ông vừa ngoài 20 tuổi. Nhưng sự lịch lãm của ông, sự hiểu biết của ông thì phải nói là phi thường. Phi thường đến mức độ đã có những người ngờ vực ông, tưởng ông lấy tác phẩm của người khác rồi tự nhận làm của mình. May rằng sự việc trắng đen rồi cuối cùng cũng rõ, và ông đã được nhận giải thưởng Nobel!

Năm 1943, Đào Duy Anh và Hoàng Xuân Hãn là những người đầu tiên nghiên cứu thời điểm sáng tác Truyện Kiều. Từ chỗ tin vào gia phả, ban đầu các cụ đều cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc. Nhưng rồi thực tiễn nghiên cứu đã khiến các cụ tự phủ nhận ý kiến trước đây của mình:

- Năm 1958, Đào Duy Anh cho rằng Truyện Kiều được sáng tác khi Nguyễn Du đang làm quan ở chức Đông các nghĩa là trước khi đi sứ Trung Quốc.

- Năm 1951 Hoàng Xuân Hãn “đã tìm thấy chứng cứ khá chắc chắn chứng tỏ rằng tập sau Truyện Kiều viết “trước tập trước Mai đình mộng ký” tức trước 1809; và đến năm 1996, Cụ nói rõ hơn: “viết đời Tây Sơn chứ không phải đời Gia Long”.

- Ý kiến cuối cùng (1996) của Hoàng Xuân Hãn đã gặp ý năm 1963 của Trương Chính, khi ông cho rằng thời gian sáng tác Truyện Kiều là vào khoảng những năm Nguyễn Du ở “dưới chân núi Hồng”.

Tại bài viết này, chúng tôi muốn qua các vết tích kị húy cũ thời Lê - Trịnh(5) mà các bản Kiều Nôm cổ còn may mắn lưu lại được mà tìm hiểu sâu hơn một vấn đề lưu cữu xưa nay của Truyện Kiều. Chúng tôi thấy các vết tích kị húy trên đây đó như phần nào giải quyết rõ hơn những vấn đề lưu cữu đó. Mà giải quyết có vẻ hợp lý và phần nào có vẻ ổn thỏa cả, nghĩa là Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trong những năm đầu của giai đoạn “mười năm gió bụi”.

Hi vọng rằng các cứ liệu khác hiện đang còn lại, nhất là đang còn lại trong các bản nổi tiếng như bản DMT, hoặc như bản LVĐ sẽ được lần lượt khai thác tiếp. Có đi vào các văn bản cổ nhất, quan trọng nhất và đi thật chi li vào cả các bản cổ khác nữa thì ngành Kiều học mới mong có khả năng mở nhanh sang những trang mới được.

N.T.C - Đ.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Xin xem:

* Nguyễn Văn Hoàn: Trên đường đi tìm nguyên tác Truyện Kiều in trong Văn bản Truyện Kiều nghiên cứu và thảo luận, Hội Nhà văn, H. 2001.

** Thụy Khuê: Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn & Tạ Trọng Hiệp, Văn nghệ, California - Hoa kỳ, 2002.

*** Đào Thái Tôn: Một băn khoăn về bản Duy Minh Thị, Tạp chí Hán Nôm số 4 (2004), cho rằng trong bài trả lời phỏng vấn, cụ Hoàng Xuân Hãn đã nói đến bản chép tay.

(2) Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.

(3) Tất cả các bản: “Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao”. Riêng bản 1872 không khắc trọng nghĩa 重 義 mà khắc trượng nghĩa 仗義。 Cụ Hoàng Xuân Hãn cho biết, theo cụ Nghè Mai, thì trượng là tên húy ông chú Nguyễn Du - Nguyễn Trọng. Nhưng PGS. Phan Văn Các cho biết, trong chữ Hán đã có sẵn từ 仗 義: 南 史 梁 武 帝 紀: “太 白 出 西 方, 仗 義 而 動, 天 時 人 謀, 有 何 不 利” (憑 仗 義 理 為 行 動 之 根 倨 也). Vì thế, chúng tôi ngờ rằng chữ trượng hoặc là do một bản chép tay ở Huế, hoặc do Duy Minh Thị chữa - ĐTT).

(4) Gia phả chép: “Năm Kỷ Dậu (1789) vua Lê chạy sang Bắc quốc, ông theo vua, song không kịp phải chạy về quê vợ ở nhờ nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Ông tập hợp hào mục để tính việc phục quốc, nhưng chí không thành ông trở về quê nhà, lấy cảnh núi sông làm vui, tự gọi mình là Hồng Sơn liệp hộ (phường săn núi Hồng… Năm Bính Thìn (1796) mùa đông ông toan vào Gia Định (giúp Nguyễn ánh), việc tiết lộ bị tướng Tây Sơn là Quận công Thận bắt giam. Quận Công Thận là bạn thân với người anh ruột cùng mẹ với ông là Nguyễn Nễ, vả lại cũng tiếc tài của ông, cho nên chỉ giam ông mấy tháng rồi tha”.

Gia phả không cho biết đến năm nào thì Nguyễn Du “trở về quê nhà”. Nhưng sau khi nghiên cứu đời sống và tâm sự của nhà thơ trong Thanh Hiên thi tập, theo Lê Thước và Trương Chính thì tập thơ này được sáng tác trong ba giai đoạn:

1. Giai đoạn “Mười năm gió bụi”, từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh, khoảng cuối năm 1795 đầu năm 1796.

2. Giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”, từ năm 1796 đến năm 1802.

3. Giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”, từ năm 1802 đến cuối năm 1802 (trong giai đoạn này có lần nhà thơ được cử đi nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho Gia Long) - ĐTT.

(5) Kị húy là một hiện tượng có khi lưu vết tích rất rõ, nhưng cũng có khi lưu vết tích rất khó đoán định. Chúng tôi đã cố gắng tra cứu nhiều sách, rút kinh nghiệm từ rất nhiều tiền lệ để giải quyết, nhưng cũng không dám loại trừ khả năng có thể có những trường hợp bạn đọc chưa thật hài lòng - Nguyễn Tài Cẩn./.

TB

THÔNG TIN MỚI NHẤT VỀ
CHỈ NAM NGỌC ÂM (CNNÂ)

NGÔ ĐỨC THỌ

1. Vấn đề niên đại bản in CNNÂ

Trong kho tàng di sản thư tịch Hán Nôm của nước ta có một cuốn sách mà giới nghiên cứu Hán Nôm cả trong và ngoài nước phần nhiều đều đã biết tiếng. Đó là cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Nói là biết đến nhưng cũng chỉ là mới mấy chục năm gần đây, người nói đến sớm nhất, mà tại đây tôi xin bày tỏ sự biết ơn, chính là cố học giả danh tiếng Trần Văn Giáp(1). Dù một số ý kiến của cụ về sau có những nhà nghiên cứu nêu lên để thảo luận đi sâu nghiên cứu, nhưng trên tất cả và đặc biệt có ý nghĩa là nhờ có đôi mắt tinh đời của nhà thư tịch học Thúc Ngọc mà giới nghiên cứu ngày nay mới biết đến để sử dụng và nghiên cứu về CNNÂ. Có nhiều vấn đề để nghiên cứu CNNÂ về niên đại biên soạn và niên đại bản in, về tác giả và nội dung biên soạn. Để cho được ngắn gọn, bài này tôi chỉ nghiên cứu và thông báo về kết quả nghiên cứu của tôi về niên đại của bản in và qua đó cũng tiến được một bước trong việc xác định tác giả.

Trong bài viết của mình cụ Trần đã giới thiệu khá rõ về văn bản CNNÂ mà bản in cụ đã nêu rõ là bản AB.372 của Thư viện Khoa học xã hội, tức là bản đã chuyển sang Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) hiện nay. Nhưng điều khó khăn liên quan đến việc xác định năm khắc in là trên văn bản không có dòng niên hiệu thường thấy, mà chỉ có năm can chi: 年 次 辛 巳 孟 春 榖 日 (Niên thứ Tân Tị mạnh xuân cốc nhật).

Cả 7 trang ảnh kèm theo trong bài của cụ Trần đều chụp từ bản AB.372. Nhưng sau khi nói về bản này, Cụ có dẫn một bản khác mà cụ cho biết: "Gần đây tôi lại mới mượn được của ông bạn Phùng Uông một bản sách CNNÂ bản in cổ, có đủ tờ mặt sách đến cuối cùng, cũng giống như bản in cổ của thư viện mà đủ hơn và in rõ hơn".

Cứ như Cụ nói, thì tờ mặt sách ở bản của Thư viện đã rách mất, mà ảnh tờ mặt sách in kèm bài vẫn là ảnh của bản Thư viện nhưng lấy từ bản chụp microfilms số 3836 do EFEO đã chụp từ trước. Còn tờ bìa ở bản sách của tôi thì từ lâu đã bị rách mất mảng lớn, chỉ còn mấy góc, nhưng nhờ có ảnh ấy, so qua cũng thấy giống bìa của bản Thư viện.

Sau khi giới thiệu bản ông Phùng Uông như trên, cụ Trần phiên và dịch đủ cả hai bài Tựa Nôm và Hán. Cuối bài Tựa chữ Hán không thấy phiên âm dòng có năm can chi, nhưng cuối có dịch dòng niên hiệu là "Hoàng triều niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 năm Tân Tị tháng giêng ngày tốt (1761)".

Tôi chưa được xem bản của cụ Phùng Uông, nhưng theo mô tả của Trần Xuân Ngọc Lan (TXNL) chắc đúng, vì so sánh các bản in chị cho biết ở bản của ông Đoàn Khoách - sao chụp từ bản in kí hiệu HM.2225 của Thư viện Hội á Châu (Paris) có dòng chữ như cụ Trần dịch trên mà nguyên văn chữ Hán là: "Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tị mạnh xuân cốc nhật".

Trước đây khi khảo cứu văn bản CNNÂ chị TXNL có đến xem và đối chiếu sơ qua với bản của tôi, tuy không dẫn kỹ nhưng có nói đến, nhân đây ghi lại để biết địa chỉ các bản in CNNÂ mà tác giả luận án đã điều tra hơn 20 năm về trước:

CNNÂ hiện có 7 truyền bản in và chép tay đang lưu trữ ở thư viện và ở tư nhân.

Ở thư viện: Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội giữ bản in, ký hiệu AB.372 (viết tắt bản T) và hai bản chép tay, ký hiệu VNv.201 và AB.163. Cả hai bản chép tay đều không đề tên người chép. Bản AB.163 do Viện Viễn Đông Bác Cổ thuê chép. Bản VNv.201 tiếp thu được từ Thư viện Long Cương của Cao Xuân Hạo sau Hòa Bình.

Thư viện Societe Asiatique (Hội châu Á) lưu trữ một bản in, ký hiệu HM. 2225 (viết tắt bản S). Hiện anh Đoàn Khoách có phóng ảnh của bản này.

Ở tư nhân: Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có một bản in (viết tắt bản NTC): Ông Phùng Uông và anh Ngô Đức Thọ mỗi người đều có một bản in”.

Như vậy có thể biết niên đại Cảnh Hưng Tân Tị (1761) mà tác giả đã ghi chỉ là niên đại của một bản in CNNÂ - cụ thể là bản của cụ Phùng Uông và bản của ông Đoàn Khoách (tức bản của HAC). Còn các bản: Bản AB.372 của VNCHN, bản của GS. Nguyễn Tài Cẩn và bản của Ngô Đức Thọ đều thuộc loại không có mấy chữ Hoàng triều Cảnh Hưng..., mà chỉ có 8 chữ “niên thứ Tân Tị” như đã mô tả ở trên.

Sau bài của cụ Trần có các tác giả sau đây lần lượt trao đổi hoặc có liên quan đến bài của Cụ: Hoa Bằng, Nguyễn Tài Cẩn, Đào Duy Anh, Lê Văn Quán và Trần Xuân Ngọc Lan(2). Để cho khỏi rối, bài này của tôi phải bám chặt vấn đề, chỉ đề cập đến ý kiến của các tác giả trên khi cần thiết phải có sự so sánh nhận xét trực tiếp. ở đây chúng ta đang bàn đến vấn đề năm Tân Tị - niên đại của bản in CNNA, Lê Văn Quán (LVQ) và TXNL là hai tác giả có trực tiếp khảo cứu vấn đề này. Cả hai tác giả đều đưa ra những chứng cứ, biện luận mà tóm tắt thì Lê Văn Quán kết luận:

“Cuối cùng, chúng ta chỉ có một con đường giải thích thỏa đáng hơn cả. Sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa xuất hiện phải sau khi những cứ liệu phân tích ở trên ra đời, nghĩa là phải sau thế kỷ XVI. Vì đấy là tiền đề và cũng là điều kiện cần thiết để tác giả hoàn thành tác phẩm”.

"Sau thế kỷ XVI" - như lời LVQ nói - tức là thế kỷ XVII, nhưng cụ thể là năm nào thì bỏ ngỏ, mà đồng thời cũng không thấy nói gì đến Tân Tị nữa.

Sau LVQ, TXNL nói rõ cho biết Tân Tị 1761 là niên đại ở bản chụp của ông Đoàn Khoách (cũng tức là ở bản in của HAC). Nhưng lường trước khả năng còn có một Tân Tị trước 1761, TXNL lần lượt theo niên biểu mà kê ra các năm Tân Tị trước: 1701 (Chính Hòa 22), 1641 (Dương Hòa 7), 1581 (Quang Hưng 4), 1521 (Lê Chiêu Tông, Quang Thiệu 6), 1461 (Lê Thánh Tông, Quang Thuận 2). Đến mốc 1461, TXNL dừng lại và giải thích rằng: "Sở dĩ chúng tôi dừng lại ở đây là vì nhiều chứng cứ về chữ Nôm, về tính chất của hệ thống chú âm, về địa danh v.v… không cho phép tác phẩm có thể biên soạn xong vào những năm Tân Tị sớm hơn "(tr.16).

Tính đến những Tân Tị trước 1761 là đúng, nhưng TXNL dừng lại ở Tân Tị 1461 và cho rằng không thể là Tân Tị nào sớm hơn thì ý kiến của tôi hoàn toàn khác, như sẽ trình bày dưới đây.

2. Xác định chữ in kiêng húy trong văn bản CNNÂ

a. Nhận diện chữ viết đặc biệt:

Như vậy "Niên thứ Tân Tị" là lạc khoản rất nan giải nhưng quan trọng, cần thiết phải tìm cho ra.

Chính tôi có một bản in CNNÂ như trên đã nói, nhưng mấy chục năm trôi qua phải bó tay "nhức đầu" về chuyện Tân Tị, dù từ lâu tôi đã nhận biết đó phải là một Tân Tị sớm hơn rất nhiều Tân Tị 1761. Nhưng là Tân Tị nào ? Chính mình lại làm chuyên môn văn bản nữa, chẳng lẽ không thể xác định được hay sao?

Có một điều mà tôi đã biết từ trước khi chị TXNL bảo vệ luận án, và khi sách chị in ra tôi phải mở ngay ra xem tác giả có nói đến hay không. Hơn 20 năm trước mà chị đã làm được một luận án như vậy quả thật đã rất xuất sắc. Nhưng có những vấn đề rất hóc búa như ở CNNÂ thì không thể cầu toàn, vì vậy có điểm nào vì học thuật phải đem ra thảo luận thì cũng là tự nhiên.

Điều nói đó, là ở một chữ trong câu sau đây:

Tình trạng văn bản tờ 33a ở bản VNCHN và bản của tôi đều tốt và giống nhau. Từ ghép gồm 2 chữ (trong đó có 1 chữ đặc biệt) được câu ra ngoài và phóng to để tiện theo dõi.

Tại trang tương ứng trong bản phiên âm chú giải của TXNL (tr.150).

Theo dẫn trên, TXNL đọc chữ ấy là Sào ty , coi như một chữ Hán bình thường, ở phần khảo cứu cũng như tại vị trí này không thấy tác giả giải thích hoặc nêu lên có gì đặc biệt về tự hình hay không. Như vậy tức là công trình của TXNL đã bỏ sót hoặc bỏ qua một chữ rất quan trọng. Với câu chữ thông thường nào khác thì sai sót chỉ là vấn đề cụ thể, nhưng chữ này - như tôi sẽ chứng minh ở dưới - rất quan trọng để tìm hiểu giải mã niên đại văn bản và do đó dẫn đến những vấn đề nội dung và giá trị của cả cuốn CNNÂ.

Vậy là có vấn đề cần phải khảo cứu chứng minh chữ nêu trên là chữ gì, có đúng là chữ Sào hay không ?

Chữ này quả thật phần bên phải có hình chữ sào 巢 (tổ), do đó cả chữ cũng có khả năng là Sào như TXNL đã đọc. Để quyết nghi vấn đề này tôi phải tìm nhặt và trích ảnh của hầu hết các chữ Sào trong CNNÂ. Tất cả 15 chữ, kê ở bảng dưới đây:

Trong bảng trên chúng ta chú ý các đặc điểm sau đây:

- Tất cả có 15 chữ sào, trong đó có 10 chữ chính tự 巢 và 5 chữ làm thiên bàng. Những chữ có thiên bàng sào đều có âm là sào.

- Cả 5 chữ lấy sào làm thiên bàng (số 2, 3, 8, 11, 12) thì chữ sào đều viết chính xác với bộ xuyên 巛 đặt đúng trên chữ quả 果 và đặt gọn ở vị trí thiên bàng (bên phải ), như chữ số 2: không có chữ nào bộ xuyên 巛 viết chờm lên cả bề mặt phía trên của toàn chữ không nằm gọn ở một phía thiên bàng:

Như vậy đã rõ, đến đây có thể kết luận: bộ ký hiệu 4 nét gãy đặt trên chữ đang khảo sát không phải là một phần của chữ "sào" (bị viết sai thừa nét), mà là một phần riêng biệt của chữ đang khảo sát. Bộ ký hiệu 4 nét gãy này là cách viết hai chữ "tòng” mà văn bản Việt Nam thường dùng để viết các chữ kiêng húy. Tôi đã thực hiện công trình nghiên cứu chữ húy(3) nên dễ dàng nhận ra đó là bộ ký hiệu bốn nét gãy đó là phần ghép trên để tạo ra một chữ viết kiêng húy.

b. Xác định chữ húy:

Xác định chữ đang khảo sátlà một chữ húy rồi, nhưng cụ thể đó là chữ gì (âm, nghĩa), và nhất là kiêng húy ai ?

Dưới đây tôi sẽ lần lượt khảo cứu vấn đề này.

Thông thường, khi đã nhận diện được một chữ là chữ viết kiêng húy thì việc đọc chính tự của nó cũng không mấy khó khăn, nhưng với chữ húy này có khác: tuy cả bản của VNCHN và bản của tôi đều in rõ ràng, nhưng do kiểu chữ khắc và nét in mực đậm, cho nên có một bộ phận khó đọc, cần có biện luận. Chúng ta tạm thời không nói gì đến bộ ký hiệu bên trên nữa mà chỉ tập trung vào phần dưới để xác định âm nghĩa của nó. Chữ đó, phía bộ thủ bên trái xem qua có thể đọc nhầm thành bộ nhật 日 (lường trước phòng xa như vậy!), nhưng rõ đó là bộ túc 足 () các sách in đều viết cách điệu như vậy. Dù sao, để chắc chắn cũng cần dẫn ra vài chữ đồng minh của nó: chỉ cần thấy 2 chữ Tử Lộ 子 路 và Thúc quyến 絹 phần bộ túc y hệt như chữ đang khảo sát.

Đến đây có thể kết luận chính tự của chữ đang khảo sát là một chữ bộ “túc” và thiên bàng chữ “quả” 踝.

Vừa khéo là văn bản CNNÂ còn có một chữ 踝 thứ 2 nữa. Đó là chữ 踝 ở tờ 13a. Tra tìm ở vị trí tương ứng, thấy TXNL đọc chữ này là Khỏa và phiên cả câu là:

"Cước khỏa: hai chân con khoai".

Không rõ chữ 踝 mà tác giả phiên là Khỏa có căn cứ theo từ điển nào hay không, nhưng tôi tra thấy Khang Hi cho âm của Quảng Vận là Hồ ngõa thiết = Hỏa.

Đề phòng còn có âm khác nên phải tìm cả trong Ngọc thiên - cũng vẫn là Hồ ngõa thiết. - Tất cả đều cho âm Hán Việt là Hỏa.

Đến đây xin thể hiện toàn vẹn chữ Hỏa viết kiêng húy: 踝 ®

Và đọc lại hoàn chỉnh cả 2 câu có chữ "踝 hỏa" như sau:

Tờ 13 a:

踝: 真 昆

Cuớc hỏa: Hai chân con khoai

Tờ 33a:

絲: 奄 絲 黃 卒 牢

Hỏa ti: ươm dã tơ vàng tốt sao !

Vậy Hỏa là tên húy của ai?

Việc khảo cứu chữ húy trong CNNÂ tiến đến đây rồi, nhưng dường như bị khựng lại vì chưa biết đó là tên húy của vị vua chúa nào. Là người đã khảo sát nghiên cứu chữ húy của các triều đại Việt Nam tôi phải tự lấy làm lạ là tại sao lại chưa bao giờ thấy chữ húy này? Húy triều Nguyễn thì không phải, chú ý nhiều vào giai đoạn triều Lê và cả Mạc nữa vì kiểu viết cùng kiểu với chữ húy triều Lê như đã dẫn trên. Điểm lướt qua cả: Lê sơ, Lê Trung hưng đã đọc những bi ký thư tịch nào, phả hệ các đời của vua Lê chúa Trịnh, của nhà Mạc v.v… thấy không thiếu sót mảng nào. Đời Lý - Trần thư tịch bi ký không nhiều như đời sau nên khảo đọc cũng kỹ. Rồi một hôm chậm rãi nhẩm kiểm lại: Ngô - Đinh - Lê - Lý - Trần… Thông thường sắp lướt qua để nhẩm đến triều Lê, tôi chợt đếm đến Hồ. Và, lần đầu tiên tôi nhận ra rằng chúng ta chưa có một chút tri thức nào về chữ húy đời Hồ!

3. Phả hệ nhà Hồ và chữ húy triều Hồ

Sơ đồ dưới đây căn cứ vào mấy bộ Quốc sử - chủ yếu vẫn là Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) và cuốn sách của Hồ Nguyên Trừng - tạm dựng như trên để theo dõi. Nhưng nhìn vào đó vẫn không thấy chữ Hỏa ở đâu!

Kiên trì đọc lại tìm lại. Tôi phải bật người ngồi thẳng khi thấy chữ Hỏa vốn đã nằm ngay trong Toàn thư nhưng vì ghi phụ vào trong kỷ Thiếu Đế nên đọc qua ít khi để ý.

Qua nguồn thư tịch, chúng tôi phác dựng phả hệ nhà Hồ như sau:

Bản dịch:

“... Đặt quốc hiệu là Đại Ngu, trở lại họ Hồ, chưa đầy một năm thì truyền ngôi cho là Hán Thương. Hán Thương tên cũ là Hỏa, tiếm ngôi được hơn 6 năm. Sau hai cha con đều bị người Minh bắt”.

Nguyên văn chữ Hán: (Xem kỹ ở trang chính và vùng phóng to chúng ta thấy rõ chữ "hỏa 火" đã được khắc in một cách khác thường).

Viết biến dạng ít nhiều là một cách thể hiện kiêng húy - 火 ở đây là tên húy của Hồ Hán Thương.

Nhưng tại sao bộ sử do Quốc sử viện đời Lê biên soạn, khắc in niên hiệu Chính Hòa lại có chữ kiêng húy của Hồ Hán Thương ?

Đây là lần đầu tiên trong văn bản Toàn thư tôi gặp trường hợp rất đặc biệt này. Chúng ta đều đã biết Toàn thư bản Chính Hòa không kiêng tên húy của bất cứ vua chúa nào, kể cả các vua chúa đời Lê Trung hưng khi in sách. Hồ Hán Thương có gì đặc biệt để sử đời Lê phải kiêng húy ? Vậy rất lạ, nhưng hiểu ngay lý do: Chúng ta biết rằng khi Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên… biên soạn Toàn thư đã sưu tập tham khảo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và các sử liệu khác thuộc các đời Trần - Hồ. Trong số tư liệu ấy có những văn bản đời Hồ viết kiêng húy chữ Hỏa. Khi đem vào bản thảo Toàn thư, theo nguyên tắc chung, người soạn cần biên tập khôi phục nguyên dạng không kiêng húy cho thống nhất toàn bộ sách. Nhưng vì chữ Hỏa khá thông dụng, mà chữ nói trên so với chữ thảo cũng không khác mấy, cho nên bỏ qua hoặc bỏ sót không xử lý. Người sao sau chép rất cẩn thận để làm sử cho nên thấy nguyên văn như thế vẫn cứ trung thành truyền chép cho đến tận khi khắc in. Vậy là do một sơ sót trong bản in bộ Quốc sử mà ta thu được một mẫu chữ Hỏa 火 tên húy của Hồ Hán Thương theo kiểu đã viết kiêng húy. ( Đại Việt sử ký tục biên, bản in đời Tây Sơn năm 1800 chép và khắc nhầm thành chữ Đại 大).

Như thế ta có 2 mẫu chữ kiêng húy chữ Hỏa viết kiêng húy ® 火 và 踝 ® , vậy chữ nào là chính tự tên thật của Hồ Hán Thương?

Ở trên đã tra âm chữ 踝, đến đây cũng phải tra âm chữ 火 cho chắc chắn: Quảng vận cho âm đời Đường Tống của chữ 火 là:

Có một chút dị biệt: chữ Hỏa 踝: 胡 瓦 切, 上, 馬, 匣 thuộc thanh mẫu "hạp 匣"; còn chữ Hỏa 火: 呼 果 切, 上, 果, 曉 thuộc thanh mẫu "hiểu". Nhưng dị biệt ấy không quan trọng: “Hiểu thanh hạp trọc, nhưng sang Việt Nam thanh trọc nhập một và đều là nguồn gốc của các âm Hán Việt có phụ âm H (xem sách của GS. Nguyễn Tài Cẩn(4)). Như vậy ta có thể xác định âm Hán Việt thời Đường Tống của 踝 (mắt cá chân) và 火 (lửa) đều là Hỏa và đó là 2 từ hoàn toàn đồng âm.

CNNÂ như đã nói trên, có 2 chữ 踝, nhưng chữ ở tờ 13a viết nguyên dạng không kiêng, chỉ ở tờ 33a từ Hỏa ti viết kiêng húy gia dạng bộ 4 nét gãy(). Đó là cách viết trân trọng, có tính chính thức mà cách vài chục năm sau người đầu đời Lê cũng đã dùng để viết chữ kiêng húy Lê Thái Tổ (như ta đã thấy trong Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh hay trong Bia Vĩnh Lăng chữ do Nguyễn Trãi soạn). Vì lý do đó tôi xác định chính tự tên húy của Hán Thương là Hỏa 踝 mà chữ Hỏa 火 là chữ đồng âm. Văn bản Toàn thư căn cứ theo một tài liệu nào đó có thể thuộc nguồn tại triều đình nhà Hồ, rất gần với nhà vua nên kiêng húy cả chữ chính tự và chữ đồng âm mà chữ ta gặp thuộc diện vừa viết biến dạng vừa dùng chữ đồng âm để tránh chữ tên chính tự. Còn văn bản CNNÂ tuy có thể cũng in tại kinh đô Thăng Long nhưng không phải là sách vở văn bản của triều đình nên người soạn không viết kiêng húy chữ đồng âm. Các chữ Hỏa (lửa) trong CNNÂ đều không viết kiêng húy.

Xác định đúng chữ đúng người rồi, đến khâu cuối cùng: tìm cứ liệu độc lập để chứng minh kiêng húy chữ Hỏa trong văn bản.

Trong điều kiện sách vở văn bia đời Hồ cực hiếm muốn tìm cho ra một chữ Hỏa đã là khó - mà đó lại phải là một địa danh hay nhân danh thì may ra mới còn vết tích kiêng húy - nhưng thực cũng còn một dịp may: Đại Việt sử lược ở ta cũng có, nhưng kho tùng thư sách Hán cổ từ lâu ở Thư viện Khoa học Xã hội chưa cho đọc. Năm 1987, GS. Trần Kinh Hòa là học giả nghiên cứu sâu về sử Việt Nam đã chú giải và xuất bản sách ấy tại Tokyo (khoảng 1987). Bạn nghiên cứu người Pháp là bà GS. Salmon có tặng tôi một cuốn. Trong lúc tôi không mấy hy vọng lật giở quyển ấy - thì thật may - nhờ đối chiếu chú giải rất kỹ càng của Trần Kinh Hòa mà tôi không mất công mấy cũng thấy ngay điều đang cần:

Sử ghi vua Lê Đại Hành năm Thiên Phúc 5 (984) cho làm nhiều cung điện nhà cửa ở kinh đô Hoa Lư, dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân để làm nơi coi chầu, sau đó lại xây ngôi lầu gọi là lầu Đại Vân 大 雲. Cả Toàn thư (BK1-16b) và Cương mục đều ghi tên núi và tên lầu là Đại Vân. Đại Việt sử lược có những chi tiết ấy, nhưng ghi là Hỏa Vân sơn 火 雲 山 và Hỏa Vân lâu 火 雲 樓. Điều đó có nghĩa là: Trần Chu Phổ đời Trần khi soạn Đại Việt sử lược tên núi và tên lầu ấy ở Hoa Lư vẫn gọi là Hỏa Vân. Đến đời Hồ Hán Thương do kiêng húy đồng âm với tên cũ của vua thứ hai triều Hồ là Hỏa mà được đổi tên núi Hỏa Vân đổi làm núi Đại Vân, lầu Hỏa Vân thành lầu Đại Vân. Đến đầu đời triều Lê, các tác giả Toàn thư theo tên đã quen gọi và văn bản ghi theo tên đã kiêng húy là Đại Vân mà chép tên núi và tên lầu là Đại Vân. Tư liệu văn bản này là một bằng chứng một lần nữa xác minh tên húy của Hồ Hán Thương là Hỏa và việc kiêng húy chữ Hỏa đã thực sự thi hành khi ông làm vua nước ta. Từ đầu đời Trần chúng ta đã biết đối với các địa danh và nhân danh không chỉ kiêng chữ húy chính tự mà phải kiêng cả các từ đồng âm. Chính tự tên thật của Hồ Hán Thương là Hỏa đã được viết kiêng húy như đã thấy trong CNNÂ, còn địa danh và nhân danh có chữ Hỏa đồng âm cũng phải thay đổi như trên đã dẫn (火 雲 Hỏa Vân ® 大 雲Đại Vân). Đó cũng là bổ sung mới của tôi về định lệ kiêng húy của giai đoạn trước nay thiếu các tư liệu văn hiến nên còn phải bỏ trống, nay thông qua việc nghiên cứu niên đại năm in của CNNÂ mà đồng thời hoàn thành được.

Quý vị và các bạn đồng nghiệp đã rõ cả rồi: Hồ Hán Thương là em Hồ Nguyên Trừng nhưng là con của Hồ Quý Ly và bà công chúa Huy Ninh nên sớm được vua cha truyền ngôi cho và ông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Thành đúng vào năm Tân Tị (1401). Vâng, đó đúng là năm Tân Tị - năm khắc in CNNÂ mà tôi và có lẽ cả nhiều bạn đồng nghiệp mấy chục năm này hằng mong có ngày xác minh giải mã cho được. Việc chứng minh giải mã đó đến đây tôi đã thực hiện xong.

4- Kết luận

Di sản Hán Nôm của Việt Nam dẫu không bao giờ có thể có được đầy đủ như đã có trong quá khứ nhưng văn khắc bia chuông số lượng sưu tập được đáng kể là phong phú. Về thư tịch chữ Hán chữ Nôm, những năm gần đây thỉnh thoảng có phát hiện thêm những cuốn mới. Nhưng đến nay nguyên bản sách in hiện có trong nước chỉ từ thế kỷ XVIII về sau là tương đối nhiều, còn thuộc thế kỷ XVII có chưa đầy một chục. Đầu thế kỷ XVII có 1 cuốn, nhưng từ thế kỷ XVI trở về trước thì các thư viện trong nước hiện nay đều không có. Như một cuộc Maraton về mốc xưa của lịch sử thư tịch, cuốn CNNÂ đã đứng ngay ở năm đầu tiên của thế kỷ XV. Nó vẫn đứng ở mốc ấy từ lâu trên giá của EFEO tại Hà Nội, nhờ cụ Thúc Ngọc giới thiệu mà nó trở thành danh thư, được đánh giá là một cuốn từ điển Hán Nôm cổ nhất, rất có giá trị của nước ta - nhưng vì chưa xác định được năm in nên nó chỉ mới được nói đến một cách dè dặt là ấn phẩm khoảng thế kỷ XVII - muộn hơn tuổi thực của nó ngót 3 thế kỷ ! Bài khảo chứng của tôi trong khi xác định được năm in chính xác của nó đồng thời cũng khiến cho niên đại triều Hồ trở thành niên đại hiện còn một nguyên bản sách in cổ nhất của nước ta (1401).

Riêng vấn đề tác giả của CNNÂ chuyên đề của tôi chưa trực tiếp thảo luận đến. Nhưng khảo chứng của tôi là độc lập và trực tiếp từ văn bản gốc, các kết quả đều lần lượt có các bằng cứ chứng minh CNNÂ là sách in năm 1401 đời nhà Hồ, thì đáp án cũng đã rõ là nó không có quan hệ gì với bà quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trúc thế kỷ XVIII.

Những vấn đề liên quan khác như có hay không về Sĩ Nhiếp, về sự tương thích giữa niên đại 1401 với hệ thống chú âm trong CNNÂ, về địa danh tên nước Phất Lang v.v… Mỗi vấn đề đó đều rất phức tạp, tôi đã và đang tiếp tục nghiên cứu, hiện đã có những kết quả rất bất ngờ và đột xuất, khi có điều kiện sẽ xin tiếp tục cuộc thảo luận.

N.Đ.T

CHÚ THÍCH:

(1) Trần Văn Giáp: Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm. Nghiên cứu Lịch sử , số 127, tháng 10-1969.

(2) - Hoa Bằng: Góp ý kiến với ông bạn Trần Văn Giáp về bài Nguồn gốc chữ Nôm. NCLS, 1971, số 140, tr.57- 62

- Nguyễn Tài Cẩn: Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm. Ngôn ngữ, 1971, số 1. In lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb. Đại học và THCN, H. 1985, tr.86-110.

- Đào Duy Anh: Chữ Nôm - nguồn gốc cấu tạo diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975, tr.115.

- Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981.

- Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H. 1985, 260 tr.

(3) Xem Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, E.Poisson dịch ra tiếng Pháp: Les caratères interdits au Vietnam à travers l'Histoire, Nxb. Văn hóa, H. 1997. 480 tr.

(4) Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Tái bản có sửa bổ sung. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2000, tr.221.

TB

THI KINH GIẢI ÂM - VĂN BẢN SỚM NHẤT
HIỆN CÒN KHẮC IN NĂM VĨNH THỊNH 1714

NGUYỄN QUANG HÔNG
NGUYỄN TUẤN CƯỜNG

Tiểu dẫn

Trong số các bản giải âm chữ Nôm Thi kinh bằng văn xuôi hiện còn, thì văn bản Thi kinh giải âm 詩 經 解 音 khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) cho đến nay vẫn được giới nghiên cứu yên trí coi là bản cổ nhất. Về việc này, ngay từ năm 1952, GS. Hoàng Xuân Hãn đã có những khảo cứu sớm nhất, rất công phu và đáng trân trọng. Sau khi phân tích hai tờ chiếu của vua Quang Trung gửi Nguyễn Thiếp về việc dịch Nôm các kinh Thi, Thư, Dịch, một tờ đề ngày mồng một, một tờ đề ngày mồng bốn tháng sáu (âm lịch) năm 1792, Giáo sư viết:

- “Nay xét tờ truyền của triều đường thì ba tháng phải dịch xong ba kinh mà kinh “Thi” phải dịch gấp trước. Nếu đúng hẹn thì non một tháng kinh “Thi” phải dịch xong, bấy giờ vào thượng tuần tháng bảy năm Quang Trung thứ 5 (1792). Xem vậy bản diễn âm của cụ [Nguyễn Thiếp] có thể đưa khắc vào mùa thu năm ấy, là khắc lần đầu, vì chỉ đề chữ “thuyên” là khắc, chứ không đề “tân thuyên” là mới khắc, hay “trùng thuyên” là khắc lại. Sự ấy chứng rằng bản ấy trước đó chưa khắc bao giờ, và có lẽ nó mới làm ra chưa được bao lâu”(1).

- “Nói tóm lại, bởi nhiều lẽ, tôi nghĩ rằng quyển “Thi văn [kinh] giải âm” chính là bản của Sùng Chính viện”(2).

Như vậy là Hoàng Xuân Hãn sau khi trình bày một số luận cứ xem ra rất đáng tin cậy, đã đi tới kết luận (mà GS. dùng chữ “nghĩ rằng”) là: bản Thi kinh giải âm khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) chính là bản của Sùng Chính viện, bản ấy trước đó chưa được khắc in bao giờ.

Nhận định này của Hoàng Xuân Hãn đã được tiếp nhận khá rộng rãi ở các học giả sau này. Chắc hẳn nhà thư tịch học nổi tiếng Trần Văn Giáp cũng đã tiếp thu quan điểm đó khi ông viết:

- “Sùng Chính thư viện được giao việc dịch Nôm chua nghĩa và giải thích một số sách để làm tài liệu giáo khoa, hiện nay còn giữ được bộ Thi kinh giải âm (TV. KHXH, kí hiệu AB.144/1-5) in năm Quang Trung thứ 5 (1792) là một trong những bộ sách do Sùng Chính thư viện biên soạn”(3).

Trong công trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tập II, 1990) khi liệt kê tác phẩm của Nguyễn Thiếp, tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi vào đấy cả “ Thi kinh giải âm 詩經解音 (chủ biên?)”(4). Dấu “hỏi chấm” (?) mà tác giả chua vào sau chữ “chủ biên” đã cho thấy thái độ thận trọng trong khoa học của học giả họ Trần, nhưng với những lời viết như trong trích dẫn trên đây thì rõ ràng ông đã khẳng định: bản Thi kinh giải âm 1792 là sản phẩm “dịch Nôm chua nghĩa và giải thích” của Sùng Chính viện thời vua Quang Trung.

Tiếp theo hai nhà nghiên cứu tiền bối Hoàng Xuân Hãn và Trần Văn Giáp, các học giả ngày nay mỗi khi nhắc đến Thi kinh giải âm hầu như thảy đều cho rằng Sùng Chính viện là đơn vị dịch Nôm và cho khắc in văn bản này lần đầu tiên vào thời Quang Trung năm 1792. Chẳng hạn, có thể dẫn lời sau đây trong một cuốn sách viết khá công phu của Ngô Đức Thọ làm đại diện:

- “ Thi kinh giải âm, sách do Sùng Chính thư viện dịch Nôm, khắc in năm Quang Trung thứ 5 (1792) theo chỉ dụ của vua Quang Trung, gồm 5 quyển, hơn 900 [...] ”(5).

Có lẽ mọi chuyện sẽ vẫn là như vậy, nếu như chúng ta không phát hiện được tư liệu gì mới hơn. Vậy mà thật bất ngờ khi chúng tôi (NQH) đã không khó khăn gì tìm thấy một bản Thi kinh giải âm in theo ván khắc năm Vĩnh Thịnh 10 nhà Lê (1714), nghĩa là trước bản khắc in năm Quang Trung 5 (1792) những 78 năm. Văn bản đó không biết từ bao giờ đã ẩn mình trong kho sách Hán Nôm của Viện Văn học tại Hà Nội, và tình cờ chúng tôi đã tiếp xúc được vào khoảng đầu năm 1999.

1. Giới thiệu và mô tả bản Vĩnh Thịnh 10 (1714)

1.1. Đó là một bộ sách đóng thành 4 tập (sách), lần lượt mang các kí hiệu HN.527, HN.528, HN.529, HN.530(6). Sau khi xem xét sơ bộ về bản giải âm này, nhân có GS. Vương Tiểu Thuẫn từ Trung Quốc sang muốn tìm hiểu về thư tịch Hán Nôm, chúng tôi (NQH) đã giới thiệu cho GS. Vương xem qua toàn bộ văn bản và tặng cho Giáo sư bức ảnh chụp trang bìa của bộ sách. Dựa trên những tư liệu do chúng tôi cung cấp, GS. Vương trong một bài viết đăng trên Tạp chí Hán Nôm năm 2000 đã giới thiệu sơ lược về bản dịch Nôm Thi kinh này. GS. Vương Tiểu Thuẫn viết (qua lời dịch tiếng Việt):

“Theo ghi chép, triều Tây Sơn (1786 -1802) khi xây dựng thư viện Sùng Chính, Viện trưởng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng cho khắc in Thi kinh giải âm và diễn Nôm “Tiểu học”, “Tứ thư”. Sách Thi kinh giải âm hiện còn hai loại văn bản: một bản khắc năm 1792 (năm Quang Trung thứ 5) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản này có 12 quyển. Hai là bản khắc năm 1714 (năm Vĩnh Thịnh thứ 10) ở Viện Văn học Hà Nội, trang đầu đề mấy chữ “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nhật tập thành, Kế Thiện đường bản, Kỷ Quyết nhân san” là một tên sách có niên đại sớm nhất trong các sách diễn âm, giải âm được biết hiện thời. Sách này có tất cả 6 sách, hiện còn 4 sách, theo mục lục có 10 quyển. Cả hai văn bản có chữ Hán và chữ Nôm xen kẽ, chữ Hán chú âm, chữ Nôm chú nghĩa thơ. ý nghĩa của bộ điển tịch này ở chỗ, nó mở màn cho lịch sử thời đại văn học dịch - văn học Nôm Việt Nam”(7).

Sau lần giới thiệu đó của GS. Vương, đến nay đã gần 5 năm, vậy mà dường như bản giải âm này vẫn chưa được học giới quan tâm đến. Điều này thật lạ, bởi đây là một văn bản giải âm thuộc loại sớm nhất (với niên đại xác tín) và rất quan trọng trong số các văn bản giải âm hiện còn.

Như có thể thấy qua đoạn trích dẫn trên đây, GS. Vương Tiểu Thuẫn đã đưa ra một số nhận xét sơ bộ về hai loại văn bản Thi kinh giải âm, một bản khắc in năm 1714 và một bản khắc in năm 1792. Tuy nhiên, những lời giới thiệu của ông như đã dẫn trên là rất sơ lược, thậm chí có một số điểm chưa thật chính xác: Một là, bản Quang Trung 1792 có 10 quyển chứ không phải “12 quyển”. Hai là, không có bất kì chứng cớ nào để có thể đi đến khẳng định bản Vĩnh Thịnh 1714 “có tất cả 6 sách”, bởi một lẽ đơn giản là hiện không còn hai quyển cuối (IX & X) nên ta không thể quả quyết là với 2 quyển IX và X này người ta sẽ đóng thành 2 sách nữa để cùng với 4 sách hiện có làm thành một bộ 6 sách ! Nhưng ta có thể suy luận rằng, bởi các sách hiện còn mỗi sách đều gồm 2 quyển, nên nhiều khả năng là toàn bộ đã được đóng thành 5 sách (hay “tập”, “tập sách”, tức là một đơn vị lưu trữ trong thư viện hiện nay), sách cuối còn khuyết chính là dành cho 2 quyển IX và X.

Trong kho sách Hán Nôm ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện vẫn còn một cuốn Thi kinh giải âm mang kí hiệu thư viện VNv.637, trong đó chỉ có quyển VI. Sau khi so sánh với quyển VI của hai bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792, chúng tôi đi đến kết luận rằng: bản lẻ VNv.637 này thuộc bộ ván khắc Vĩnh Thịnh 1714, bởi nó giống bản Vĩnh Thịnh về mọi mặt. Xin xem bảng so sánh sơ bộ những đặc điểm dễ nhận thấy dưới đây (đồng thời cũng thể hiện phần nào sự khác nhau giữa hai bản 1714 và 1792 trong quyển VI):

TT Trang/
Dòng
Thứ tự chữ Đặc điểm so sánh Bản Vĩnh Thịnh 1714 VNv.637 Bản Quang Trung 1792
1 2a11 7 &8â 擜昆 trắng con Bị mờ một nửa bên phải 2 chữ Bị mờ một nửa bên phải 2 chữ Không bị mờ
2 2b9 2á 勜 người (có hai nét ngang ở giữa) Nét ngang trên dài hơn nét ngang dưới Nét ngang trên dài hơn nét ngang dưới Nét ngang trên ngắn hơn nét ngang dưới
3 3b9 6á 蒸 chưng Bốn chấm hỏa tách rời (灬 ) Bốn chấm hỏa tách rời (灬 ) Bốn chấm hỏa thành một nét ngang gập ( )
4 5a Thứ tự câu chữ bị đảo lộn xộn. Không (Thứ tự câu chữ vẫn đúng)
5 15a12 5á Bị một vết đen 1 cm2 che mất(8) Không (nửa trái là 去 khứ, nửa phải bị mất)
6 16a11 9â 醜 xú Không bị che Không bị che Bị phủ bởi một vết đen
7 32b3 9 á 贑 lắm Không bị che Không bị che Bị phủ bởi một vết đen
8 50b15 7â 拱 cũng Thẳng đứng 拱 Thẳng đứng 拱 Đổ về bên trái
9 Tờ 9, 12, 14, 21, 23, 27, 31, 44, 45, 49 Bị nhòe Bình thường Bình thường Bị nhòe
Kết luận Giống nhau Khác

Giá mà bản sách mang kí hiệu VNv.637 không chỉ gồm một quyển VI, mà có cả 2 quyển cuối IX và X thì biết đâu lại là một bổ cứu thú vị cho sự khiếm khuyết hai quyển này ở bộ Thi kinh giải âm Vĩnh Thịnh 10 (1714) mà ta đang xem xét !

1.2. Bản Quang Trung 1792, như các học giả đã giới thiệu, gồm 10 quyển, đóng thành 5 tập (sách). Tập Một gồm tờ bìa, bài Đại tự, Mục lục, quyển I và quyển II; tập Hai gồm quyển III và quyển IV; tập Ba gồm quyển V và quyển VI; tập Bốn gồm quyển VII và quyển VIII; tập Năm gồm quyển IX và quyển X. Khổ sách 27x15cm. Về nội dung, phần Hán văn thì theo sát bản Thi kinh tập truyện 詩 經 集 傳 của Chu Hi, sử dụng cả phần nguyên văn Thi kinh và phần tập truyện của Chu Tử, phần văn Nôm giải âm chèn vào ngay sau từng câu nguyên văn Thi kinh. Bố cục chung cho từng câu thơ trong bản giải âm này là: câu thơ nguyên văn Thi kinh (chữ to) -> giải âm (dạng lưỡng cước, chữ nhỏ) -> tập chú của Chu Hi (dạng lưỡng cước, chữ nhỏ).

Bản Vĩnh Thịnh 1714 hiện còn 8 quyển, đóng thành 4 tập, về phân bố thứ tự và nội dung cũng tương tự 4 tập đầu của bản Quang Trung 1792.

Tờ bìa ghi ở trên cùng dòng niên đại 永 盛 十 年 甲 午 歲 冬 日 輯 成 “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nhật tập thành” (Biên tập nên vào ngày mùa đông năm Giáp Ngọ, năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Thịnh [1714]). Phía dưới tờ bìa chia làm ba cột, cột giữa to nhất đề tên tác phẩm 詩 經 解 音( Thi kinh giải âm ), cột phải ghi 繼 善 堂 板 “Kế Thiện đường bản” (ván khắc của Kế Thiện đường), cột trái là 劂 人 刊 “Kỉ quyết nhân san” (người thợ khắc san khắc). Tờ bìa bản Vĩnh Thịnh 1714 khắc chữ với nét khắc rõ ràng, ngay ngắn, khỏe khoắn, sắc nét, chứ không gầy gầy xương xương và hơi xiên xẹo (xem dòng niên đại) như tờ bìa bản Quang Trung 1792 (không đề nhà tàng bản và nhóm thợ khắc). Theo quan sát sơ bộ của chúng tôi, tờ bìa bản Vĩnh Thịnh 1714 là cùng chất giấy với phần nội dung bên trong của văn bản này (xin xem phụ lục H1).

Sau tờ bìa là bài Đại tự 2 tờ in chữ khổ lớn. Tiếp đến là phần Mục lục 11 tờ liệt kê chi tiết từng thiên trong Thi kinh, mỗi thiên có bao nhiêu chương. Theo Mục lục, toàn bản Thi kinh giải âm có 10 quyển. Cuối phần Mục lục, ở trang 11b ghi 永 盛 十 年 甲 午 歲 冬月 穀 日 - 繼 善 堂 輯 成 - 目 錄 畢 “Vĩnh Thịnh thập niên Giáp Ngọ tuế đông nguyệt cốc nhật - Kế Thiện đường tập thành - Mục lục tất” (Ngày lành tháng mùa đông năm Giáp Ngọ, năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Thịnh [1714] - Kế Thiện đường biên tập nên - Hết phần Mục lục) (xin xem phụ lục H3).

Trên tờ 56 quyển VIII, tờ cuối cùng của phần văn bản thuộc bản Vĩnh Thịnh 1714 hiện còn, có dòng chữ bút lông viết tay: 欠 蕩 蕩 上 帝 并 周 頌 以 下 “Khiếm tự "Đãng đãng thượng đế" tịnh Chu tụng dĩ hạ = Thiếu từ thiên Đãng (có câu đầu tiên là Đãng đãng thượng đế và phần Chu tụng trở đi)”. Dòng chữ Hán viết tay này có lẽ là của người chủ cũ sở hữu bộ Thi kinh giải âm 1714 mà chúng ta hiện may mắn giữ được, hoặc là của người kiểm sách trong thư viện khi kiểm tra bản này thấy thiếu hai quyển cuối cùng nên đã ghi vậy (xin xem phụ lục H2).

Chúng tôi đã dò xét qua các trang in nhưng chưa thấy trong văn bản có hiện tượng nào cầm chắc là kiêng húy. Có một chữ 綿 “miên” xuất hiện nhiều lần, được khắc đảo so với trật tự thường thấy thành dạng / (chữ 帛 “bạch” ở bên trái, bộ 糸 “mịch” ở bên phải), nhưng đây không phải là chữ kiêng húy đời Nguyễn, bởi ngay trong các cổ bản Thi kinh của Trung Hoa thì chữ miên cũng có dạng như vậy(9).

Rải rác ở các quyển có một số tờ nét chữ hơi khác so với phần lớn còn lại của văn bản. Đây có thể là dấu ấn của một tay thợ khắc khác. Điều này khiến ta nghĩ đến một trong hai khả năng như sau: Hoặc là trong khi khắc bộ ván năm Vĩnh Thịnh 1714, một đôi khi thợ khắc chính đã để cho người thợ khác làm thay một vài tấm ván. Hoặc là bộ ván là thuần nhất từ đầu nhưng về sau do hư hỏng hay thất lạc nên người sau đã khắc bổ sung khi cần in lại. Tình hình này thể hiện rõ nhất trên một số tờ sau đây: 23, 24, 27, 28, 31, 37 (QII); 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 (QVI); 15, 16, 45, 46 (QVIII); 48 (QVIII).

Một vấn đề cần đặt ra ngay: bản Vĩnh Thịnh 1714 có được khắc in đủ 10 quyển như bản Quang Trung 1792 hay không? Câu trả lời là có, chúng tôi căn cứ vào ba điều: một là theo nội dung phần Mục lục; hai là ghi chép của Nội các thư mục, và ba là thông tin rút ra từ việc phân tích nét khắc những dòng niên đại.

Theo phần Mục lục (ở tập Một) gồm 11 tờ ghi rất chi tiết, ta thấy có kê đủ 10 quyển, trong đó quyển IX gồm từ thiên Đãng 蕩 (thiên thứ 261 trong Thi kinh) đến thiên Thiệu mân 召 旻 (271), quyển X gồm từ thiên Thanh miếu 清 廟 (272) đến thiên ân vũ 殷武 (311, là thiên cuối cùng của Thi kinh). Điều này hoàn toàn tương đồng với tình hình phân quyển trong bản Quang Trung 1792.

Nội các thư mục 內 閣 書 目, một bản kê khai các sách lưu trữ ở Nội các triều Nguyễn vào năm Duy Tân 2 (1908), có ghi: “ Thi kinh giải âm, 1 bộ, 10 cuốn (bản)”(10). Bản Thi kinh giải âm ghi trong Nội các thư mục nhiều khả năng là bản Vĩnh Thịnh 1714, bởi nhà Nguyễn với tâm lí thù địch Tây Sơn, phá hủy những di chứng thời Tây Sơn thì sẽ không dễ gì giữ lại một bản giải âm đời Quang Trung, nhất là khi nó còn khắc in rành rành dòng niên đại “光 中 五 年 秋 月 穀 日 鐫 Quang Trung ngũ niên thu nguyệt cốc nhật thuyên” ở ngay trang bìa, và dòng “Quang Trung ngũ niên thu nguyệt cốc nhật” ở cuối phần Mục lục.

Hai dòng niên đại ở bản Quang Trung khắc với nét chữ xiêu vẹo, khác hẳn phong cách (và nội dung) phần tương ứng trong bản Vĩnh Thịnh. Vậy có thể suy ra rằng những phần vốn không có trong bản Vĩnh Thịnh thì được bản Quang Trung khắc bằng nét khắc khác với nét chữ trong 8 quyển đầu bản, mà nét chữ trong 2 quyển cuối (IX & X) của bản Quang Trung lại đồng nhất với nét khắc trong 8 quyển đầu của bản này. Vậy thì khi trùng thuyên từ bản Vĩnh Thịnh thành bản Quang Trung (như sẽ chứng minh ở phần sau), người ta đã dùng một bản in từ bộ ván đời Vĩnh Thịnh với trọn bộ 10 quyển (xin xem phụ lục H1 và H3).

Vậy bản Vĩnh Thịnh 1714 có phần chắc là vốn dĩ khắc in đủ 10 cuốn (trọn bộ), nhưng đáng tiếc là hiện chúng ta không giữ được hai quyển cuối cùng.

Xin xem bảng thống kê dưới đây để thấy được tình hình chi tiết về các bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792 hiện còn.

 Thi kinh giải âm (đủ bộ có 10 quyển)

Bản Vĩnh Thịnh khắc in 1714

Bản Quang Trung khắc in 1792

 Kí hiệu thư viện (VVH)

 Nội dung

 Đặc điểm

Số tờ ghi trên rốn sách

 Số tờ thực còn

 Kí hiệu thư viện (VNCHN)

 Nội dung

 Đặc điểm

 Số tờ ghi trên rốn sách

 Số tờ thực còn

HN.527

Bìa

- Trang 1b trắng

1

1

AB.144/1

Bìa

- Trang 1b trắng

1

1

Tự

 

2

2

Tự

 

2

2

Mục lục

 

11

11

Mục lục

- Thiếu tờ 5

11

10

qI

 

27

27

qI

- Tờ chép tay: 17. - 27b trắng

27

27

qII

 

51

51

qII

- Tờ chép tay: 3, 4, 23

51

51

HN.528

qIII

- Thừa 1 tờ 24

57

58

AB.144/2

qIII

- Thiếu tờ 24, 38

57

55

qIV

- Thừa 1 tờ 35 - 46b trắng

46

47

qIV

- Thiếu tờ 24 - 46b trắng

46

45

HN.529

qV

 

44

44

AB.144/3

qV

- Thiếu tờ 32

44

43

qVI

- 55b trắng

55

55

qVI

- 55b trắng

55

55

HN.530

qVII

 

47

47

AB.144/4

qVII

 

47

47

 qVIII

- 56b trắng

56

56

qVIII

- 56b trắng

56

56

Thiếu qIX

 AB.144/5

qIX

- 42b trắng

42

42

Thiếu qX

qX

- 49b trắng

49

49

Tổng số (thiếu 2 q (IX & X), phần còn lại, thừa 2 tờ)

397

399

 

 VNv.637

qVI

- 55b trắng

55

55

Tổng số (thiếu 9 quyển, phần còn lại đủ)

55

55

Tổng số (đủ quyển, thiếu 4 tờ)

488

483

Kết luận: chỉ còn 8 quyển (quyển VI có hai bản), thừa 2 tờ.

Kết luận: đủ 10 quyển, thiếu 5 tờ, chép tay 4 tờ.

2. Giám định hai bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792

Thoạt nhìn hai văn bản này (bản 1714 và bản 1792), chúng ta cảm thấy sao chúng giống nhau đến vậy! Trừ tờ bìa ra, thì từ khuôn khổ ván in, rồi bố cục (vị trí) các phần, thiên, chương, câu, đến chữ khắc in nhất luật đều giống nhau, thậm chí nét chữ khắc in cũng khá giống nhau, như đều được in rập từ cùng một bộ ván khắc vậy. Điều này dễ khiến người ta phải đặt nghi vấn: chúng là hai văn bản, hay chỉ là một?

Nhưng đó chỉ là “thoạt nhìn”. Đi vào khảo sát so sánh văn bản một cách tỉ mỉ, chúng tôi có thể khẳng định rằng: chúng là hai văn bản thuộc hai bộ ván khắc hoàn toàn khác nhau, nhưng bộ ván sau (Quang Trung 1792) đã được trùng san trên cở sở kế thừa gần như trọn vẹn (có chỉnh lí một số điểm) bộ ván trước (Vĩnh Thịnh 1714). Để đi đến khẳng định này, chúng tôi căn cứ vào những đặc điểm giữa hai văn bản như sau:

Lối khắc chữ với nét chữ không đồng nhất.

Về những dấu phân cách.

Sự hiện diện các vết phủ màu đen trên bản in.

Một số đặc điểm khác

a. Lối khắc với nét chữ không đồng nhất

Khi đem một tờ của bản này chồng lên tờ tương ứng của bản kia và soi dưới ánh sáng, chúng tôi thấy mặc dù bố cục vị trí và kích cỡ các chữ Hán và Nôm giữa hai bản là giống nhau, nhưng các nét chữ không trùng khít với nhau, hiện tượng này xuất hiện phổ biến giữa tất cả các tờ tương ứng trong hai văn bản. Đây là một thao tác văn bản học để nghiên cứu độ giống nhau giữa các truyền bản trùng san, trước đây đã được chúng tôi (NQH) sử dụng để nghiên cứu so sánh hai hệ bản Chính Hòa và Quốc Tử Giám của bộ Đại Việt sử kí toàn thư (11). Nét chữ (cả Nôm lẫn Hán) khắc hơi khác nhau đã góp phần chứng tỏ hai bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792 không phải là do một bản in trước và một bản in sau (khi ván khắc đã bị mòn) của cùng một bộ ván khắc. Nếu chỉ do ván khắc bị mòn, thì chữ khi in bộ ván mòn phải đồng loạt to hơn, thô hơn ở tất cả các nét so với khi in bộ ván chưa mòn, nhưng điều này đã không được thể hiện qua hai văn bản trên.

Đây là một chứng cứ quan trọng để đi đến khẳng định bản Quang Trung 1792 là văn bản được khắc lại toàn bộ dựa trên bản Vĩnh Thịnh 1714. Chúng tôi cho rằng việc trùng san Thi kinh giải âm từ bản Vĩnh Thịnh 1714 thành bản Quang Trung 1792 có thể cũng đã xảy ra tương tự như ở Đại Việt sử kí toàn thư, tức là người ta đã áp ngược tờ giấy của bản 1714 lên mặt gỗ rồi khắc theo (có so le không đáng kể) đường nét và bố cục chữ của bản 1714 thành bản 1792.

b. Về những dấu phân cách.

Dấu phân cách thường dùng để phân cách giữa phần giải âm Nôm với phần chú giải bằng chữ Hán, hoặc để ngăn cách từng đoạn trong nội bộ phần chú giải, mỗi dấu phân cách được nhường hẳn một vị trí tương ứng với vị trí một chữ khổ lưỡng cước. Tuy nhiên, cách thể hiện dấu phân cách không thống nhất trong mỗi văn bản, và điều quan trọng hơn là, ở cùng một vị trí phân cách thì hai bản lại có những cách thể hiện khác hẳn nhau.

Sơ bộ so sánh 8 quyển đầu (vì bản Vĩnh Thịnh không đầy đủ), chúng tôi nhận thấy chủ yếu có bốn loại phân cách:

- Loại b1: không có dấu phân cách (nhưng chỗ tương ứng ở bản kia lại có).

- Loại b2: dấu vòng tròn, bên trong hoàn toàn trắng.

- Loại b3: dấu vòng tròn, bên trong xen kẽ phần trắng với phần đen(12).

- Loại b4: dấu vòng tròn đen đặc.

Theo thống kê của chúng tôi (chỉ thống kê những chỗ thể hiện dấu phân cách khác nhau), trong 8 quyển đầu với 383 tờ (không kể tờ bìa, bài tựa, mục lục), thì đã có 116 tờ (hơn 30% số tờ) có sự khác nhau về cách đánh dấu, với 505 vị trí khác nhau, phân bố rải rác suốt chiều dài toàn bộ hai văn bản((13). Cá biệt một số tờ có tới 13 vị trí khác nhau (VIII33), lại có những tờ có nhiều kiểu đối ứng khác nhau, như tờ IV34 có 10 vị trí đối ứng b1 - b2, 1 vị trí b2 - b4, 1 vị trí b2 - b3; tờ II43 có 3 vị trí đối ứng b4 - b2, 7 vị trí đối ứng b3 - b2 lần lượt giữa hai bản Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792.

Sự khác nhau giữa cách thể hiện dấu phân cách như thế nhất định không phải do ván khắc bị mòn, mà nguyên nhân chỉ có một: văn bản (hay ít nhất là 116 tờ nêu trên) đã được khắc lại hoàn toàn.

c. Sự hiện diện các vết phủ màu đen trên bản in.

Bản Vĩnh Thịnh 1714 có 31 vị trí chữ bị phủ chỉ còn một vết đen 1cm2, bản Quang Trung 1792 có 14 chữ như vậy, những vị trí phủ đen ở bản 1714 thì còn nguyên vẹn ở bản 1792, còn những vị trí phủ đen ở bản 1792 thì còn nguyên vẹn ở bản 1714. Từ đó có thể thấy bản 1792 khi được khắc, người biên tập đã chỉnh lí sửa đổi những chỗ vốn bị phủ đen ở bản 1714, nhưng rồi bộ ván mới này cũng lại bị phủ đen một số chỗ khác mà chúng tôi chưa rõ nguyên nhân.

Trong bản Vĩnh Thịnh 1714, nhiều vị trí bị phủ đen trên bản in đã được người ta sửa lại bằng bút lông mực son viết tay đè lên ô vuông đen, chữ màu son đỏ hiện lên rất rõ (xin xem phụ lục H4).

Vị trí các chữ bị phủ đen trong hai bản 1714 & 1792
Bản 1714 Bản 1792
Vị trí Số chữ bị phủ đen Vị trí Số chữ bị phủ đen
I14b 2 III6a 1 (*)
II18b 1 III40a 1
II33b 1 (*) V22a 1
II48b 2 VI10a 2 (*)
III23b 2 VI10b 2
III51a 2 VI16a 1
V16a 16 VI32b 1 (*)
V16b 2 (*) 1 VIII7b 2
VI15a 1 VIII33a 2
VII14a 1 VIII33b 1 (*)
Tổng số 31 14
Nhận xét: Những vị trí chữ bị phủ đen ở bản 1714 thì còn nguyên ở bản 1792, và ngược lại, những vị trí chữ bị phủ đen ở bản 1792 thì còn nguyên vẹn ở bản 1714.
Ghi chú: 1. Kí hiệu (*): thuộc phần văn Nôm. 2. Những vị trí bị phủ đen trong phần Hán văn có chỗ không tương ứng với nội dung trong bản Thi kinh tập truyện 詩 經 集 傳 của Chu Hi.

d. Một số đặc điểm khác

Đầu tiên là một số trường hợp khi viết các từ láy song tiết, nếu như ở bản Vĩnh Thịnh viết lặp lại hoàn toàn hai chữ, thì ở bản Quang Trung chỉ khắc một chữ, còn chữ thứ hai thì nhắc lại bằng một “dấu láy” (“<” hoặc “匕”) lại mà thôi. Chẳng hạn, trên trang 16a (xin xem phụ lục H4) và tờ 27 quyển V ta thấy có sự khác nhau như sau:

Vị trí (Quyển/trang/dòng) Bản Vĩnh Thịnh 1714 Bản Quang Trung 1792
V16a1 派 派 (*) 派 < (*)
V16a2 蕩 蕩 (*) 蕩 < (*)
V16a15 遲(14)遲 遲 <
V27a4 爽 爽(*) 爽匕(*)
V27a11 潭 潭(*) 潭 < (*)
V27a13 鑍 鑍(*) 鑍 < (*)
V27a15 湛 湛 湛 <
V27b1 湛 湛 湛 <
V27b5 潭 潭(*) 潭 < (*)
V27b5 鑍 鑍(*) 鑍 < (*)
V27b11 潭 潭(*) 潭 < (*)
Kí hiệu (*) : thuộc phần văn Nôm.

Những chữ viết tắt bằng “dấu láy” (tạm thể hiện bằng kí hiệu “ < ” và “匕”) như ở bản Quang Trung 1792 đã góp phần khẳng định về sự tồn tại thực của hai hệ ván khắc khác nhau, chứ hoàn toàn không phải người ta đã dùng lại một bộ ván cũ đã mòn, bởi dù có mòn đến đâu chăng nữa thì các chữ “派, 蕩, 遲, 爽, 潭, 鑍 ” cũng không thể mòn thành dấu “ < ” và “匕”được (xin xem phụ lục H4). Từ đây ta thấy bản Quang Trung 1792 có thiên hướng viết giản lược (bằng cách dùng “dấu láy”), thậm chí có chỗ còn dùng cách ghi tương ứng với chữ giản hóa đang dùng trong tiếng Hán, chẳng hạn ở dòng 5 trang 30a quyển IV, chữ 聲 thanh ở bản Vĩnh Thịnh đã được bản Quang Trung thay bằng 声 viết theo lối giản hóa.

Hơn nữa, trang 5a quyển VI của hai bản cũng khác nhau rõ rệt về bố cục và nội dung câu chữ. Trong bản Vĩnh Thịnh 1714 (kể cả bản in VNv.637), không rõ vì nguyên nhân nào mà trang này thấy có những yếu tố bất thường: đang là trang 5a lại bỗng xuất hiện dòng tiêu đề 詩 經 解 音 卷 之 六 ( Thi kinh giải âm quyển chi lục); phần còn lại thì có câu thiếu chữ, vị trí các chữ (cả Hán và Nôm) lẫn lộn không ra lề lối gì. Tình hình này không xảy ra ở bản Quang Trung 1792 (xin xem phụ lục H5).

Lại thêm ở trang 21a quyển IV ở cả hai bản đều để chừa ra một khoảng trống 3x12cm2, duy có điều trong bản Vĩnh Thịnh 1714, khoảng trống này ở phía dưới cùng, còn trong bản Quang Trung 1792 thì khoảng trống này lại ở bên trên cùng của khuôn khổ trang.

Những đặc điểm trình bày trong phần (d) tuy không mang tính phổ biến, nhưng nó lại là những chứng cớ rất thuyết phục để khẳng định việc trùng thuyên, ít nhất là trùng thuyên những tờ / trang chứa các đặc điểm ấy.

3. Mấy nhận xét bổ sung

3.1. Về người giải âm. Trước hết, chúng tôi xin dành đôi dòng để kể đến những văn bản Thi kinh bằng chữ Nôm hiện chúng ta chỉ biết qua ghi chép của cổ nhân, chứ không còn văn bản để chứng thực, đó là các bản giải âm của Hồ Quý Li, Nguyễn Quý Kính và Miên Thẩm.

Theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản Chính Hòa): “Tháng 11 [năm Quang Thái thứ 9 (1396)], [Hồ] Quý Ly làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa và bài tựa, sai nữ sư dạy hậu phi và cung nhân học tập. Bài tựa phần nhiều theo ý mình, không theo tập truyện của Chu Tử”(15). Theo ghi chú của người dịch bộ sử kí này, thì đây có lẽ là một bản “giải thích Kinh Thi bằng quốc ngữ hay dịch Kinh Thi ra quốc ngữ (chữ Nôm)”. Nhưng tư liệu này hiện không còn giữ được.

Theo gia phả dòng họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội, Quốc sư công vị Đại vương Nguyễn Quý Kính (hay Cảnh (憼),1693 - 1766, đích tôn của Nguyễn Quý Đức) “tuy tham gia chính sự, có nhiều trọng trách song vẫn ham mê trước thuật. Ông đã bỏ công phu thích nghĩa bộ Tứ thư, Ngũ kinh ra quốc âm và soạn bộ Trung hiếu kinh chú giải để giảng dạy”(16). Tư liệu này hiện cũng không có gì đủ chứng thực, ngoài những ghi chép trong gia phả.

Đại Nam liệt truyện 大 南 列 傳 liệt kê trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870), trong đó có Thi kinh quốc âm ca 詩 經 國 音 歌(17), đây hẳn phải là một bản diễn ca Thi kinh, phải chăng nó là một trong những bản diễn ca Thi kinh hiện còn ? Chúng tôi hi vọng sẽ trở lại với câu hỏi này trong một dịp khác.

Theo suy luận của chúng tôi, người giải âm bản Vĩnh Thịnh 1714 không thể là Hồ Quý Ly, bởi bản 1714 hoàn toàn theo Chu Hi; cũng không thể là Nguyễn Quý Kính, bởi cho tới khi bản 1714 được khắc in thì Nguyễn Quý Kính mới có 22 tuổi, đó là độ tuổi quá trẻ, ở tuổi ấy người xưa thường để chí vào lập thân trên khoa trường và quan trường hơn là đi giải âm một kinh điển Nho gia; và hiển nhiên không thể là Miên Thẩm, bởi ông sinh sau thời điểm 1714, hơn nữa bản của Miên Thẩm lại là một bản diễn ca ( Thi kinh quốc âm ca ), không phải bản giải âm theo văn xuôi.

Vậy phải chăng vấn đề người giải âm bản Thi kinh giải âm 1714 là bất khả khảo? Chúng tôi nghĩ đến một giả thiết, có phần hơi mạo hiểm, nhưng nếu không mạo hiểm một chút, thì chẳng gợi mở được gì. Vả lại giả thiết của chúng tôi cũng không phải hoàn toàn vô lí. Có một sự tương đồng đặc biệt giữa bản Thi kinh giải âm 1714 và bản Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú 傳 奇 漫 錄 增 補 解 音 集 註 (cũng khắc ván in năm Vĩnh Thịnh 1714, hiện lưu trữ tại Nhật Bản) khiến chúng tôi nghĩ đến giả thiết này.

Theo những thông tin ghi nhận được từ công trình nghiên cứu của một học giả Nhật Bản về bản Truyền kì mạn lục giải âm Vĩnh Thịnh 1714(18), chúng tôi thấy giữa hai bộ sách giải âm này quả thật có rất nhiều điểm tương đồng: thời điểm khắc in (1714), nhà tàng bản (Kế Thiện đường 繼 善 堂(19)), cách thức để thành thư (tập thành 輯 成 ), hình thức trình bày văn bản (nét khắc, bố cục từng phần) v.v. Vậy còn một vấn đề duy nhất hiện chưa thể làm sáng tỏ, mà ở đây chúng tôi chỉ tạm đặt giả thiết, rằng người phiên Nôm của hai văn bản này phải chăng cũng là một người, tức theo ghi chép trong Công dư tiệp kí 公 餘 捷 記 thì có thể là Nguyễn (Thế) Nghi (?).

Đi sâu khảo sát phong cách dịch thuật (dịch Hán sang Nôm) của hai văn bản này, chúng ta sẽ hi vọng có thể làm sáng tỏ vấn đề dịch giả, nếu không phải thực sự là Nguyễn Thế Nghi, thì chí ít ta cũng có thể biết được người giải âm hai văn bản Thi kinh Truyền kì mạn lục là một người hay hai người khác nhau. Nhưng công việc này đòi hỏi khá nhiều thời gian và tâm sức, hiện chúng tôi chưa có điều kiện thực hiện trọn vẹn được.

3.2. Về thời điểm ra đời. Thời Lê Vĩnh Thịnh (1705-1719), theo một số tư liệu cho biết, là thời điểm chín muồi cho bản Thi kinh giải âm ra đời. Khẳng định điều này, chúng tôi căn cứ vào những ghi chép trong sử sách. Nhưng chính sử ít ghi nhận về những vấn đề liên quan đến chữ Nôm văn Nôm, chúng tôi chuyển hướng đi tìm tư liệu trong dã sử, đó là cuốn Lịch triều tạp kỉ 曆 朝 雜 紀 do Ngô Cao Lãng biên soạn, Xiển Trai bổ sung. Lịch triều tạp kỉ đã gián tiếp cho biết, trong những năm Vĩnh Thịnh (1705-1719) thời Lê Dụ Tông đã có một số yếu tố mang tính điều kiện để bản Thi kinh giải âm được khắc in và lưu hành phổ biến. Những ghi chép ấy là về các khía cạnh sau đây:

Thái độ với chữ Nôm của nhà cầm quyền là khá mềm dẻo, chữ Nôm thậm chí còn được đưa vào khoa cử: ngày 4 tháng 7 mùa thu năm 1715, thi Sĩ vọng, trong đề thi có một bài cho phép: “Bài này cho làm bằng Nôm”(20).

Năm 1718, Phủ liêu vâng mệnh truyền cho cả nước: “Phàm các sách vở gì có quan hệ đến việc giáo hóa ở đời thì mới nên khắc in và lưu hành. Gần đây, những kẻ hiếu sự lượm lặt càn bậy những truyện tạp nhạp và lời quê kệnh bằng quốc âm, không biết phân biệt nên hay chăng, cứ khắc vào ván gỗ, in ra để buôn bán. Việc đó đáng nên cấm. Từ nay về sau, hễ nhà nào có chứa chấp các ván in sách và các sách in nói trên thì cho phép viên quan đi ốp làm, việc ấy được lục soát, tịch thu, rồi tiêu hủy hết cả”(21) (những phần gạch chân là do chúng tôi nhấn mạnh - NQH & NTC). Như vậy là nhà cầm quyền dù cấm ngặt việc khắc in văn Nôm (quốc âm) những truyện tạp nhạp, nhưng lại có chủ trương khuyến khích “sách vở gì có quan hệ đến việc giáo hóa ở đời thì mới nên khắc in và lưu hành”. Ta cũng nhận thấy rằng sử liệu ghi “Gần đây, những kẻ hiếu sự lượm lặt càn bậy những truyện tạp nhạp và lời quê kệnh bằng quốc âm, không biết phân biệt nên hay chăng, cứ khắc vào ván gỗ, in ra để buôn bán” thì chứng tỏ cho đến năm 1718, ở lãnh thổ Việt Nam chắc chắn đã có rất nhiều văn bản Nôm khắc in được lưu hành, đáng tiếc là trong số ấy hiện chẳng còn bao nhiêu, nhưng chúng ta đã lưu giữ được hai văn bản cực kì quý giá: đó là các bản giải âm Truyền kì mạn lục Thi kinh cùng khắc in năm 1714 ở Kế Thiện đường.

Nhà cầm quyền đương thời mà cụ thể là chúa Trịnh Cương yêu thích thơ Nôm, ông làm nhiều thơ Nôm, không chỉ được ghi lại trong Lịch triều tạp kỉ mà còn ở nhiều nơi khác. Các chúa Trịnh làm rất nhiều thơ Nôm: Trịnh Căn (cụ nội của Trịnh Cương), Trịnh Doanh (con), Trịnh Sâm (cháu nội) đều có nhiều thơ Nôm truyền lại đến ngày nay(22). Thêm nữa, năm 1728, “chúa Trịnh [Cương] vời các triều sĩ vào phủ đường, sai làm bài Biểu chương ngũ kinh tự văn 表 章 五 經 序 文 (Bài tựa biểu dương năm kinh). Bài văn của Thám hoa Phạm Khiêm ích, Lại bộ Thị lang, được lấy vào bậc nhất, hạng trúng cách, trong đó có những đoạn: “[...] thời thường đưa ngòi bút thánh phê vào kinh văn, ngày ngồi trong tòa kinh diên giảng sách, dò tìm cho ra những nghĩa sâu sắc; giẫm trên đất chắc, sở đắc ở trong tâm mà thi thố ra thực hành, vùng vẫy trong bầu trời như diều bay cá nhảy tự do. Cái công biểu dương Ngũ kinh chúa thượng [chỉ Trịnh Cương] thực đủ hơn hẳn Hán, Đường và vượt cả Tống, Minh [...]”(23). Trịnh Cương yêu thích Ngũ kinh, lại thích làm thơ Nôm, vậy hẳn phải yêu thích Thi kinh, nhất là bản Thi kinh giải âm này, và dù vô tình hay hữu ý thì hẳn nhiên ông đã là người bật đèn xanh cho nó được khắc in và lưu hành.

Với những điều kiện hết sức thuận lợi như trên, thời điểm ra đời của bản Thi kinh giải âm ở những năm Vĩnh Thịnh là vô cùng hợp lí, nếu sớm hơn thì chỉ có thể là thời Lê Hồng Đức (nhưng hiện không có chứng cứ để khẳng định điều này), mà cũng chẳng cần phải đợi đến những năm Quang Trung cuối thế kỉ XVIII mới vấn thế.

3.3. Về quá trình lưu truyền. Một vấn đề cũng cần phải quan tâm tìm hiểu là hai bản 1714 và 1792 đã tồn tại và lưu truyền như thế nào trong lịch sử ? Trong các công trình thư mục học nổi tiếng của mình, hai nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) và Phan Huy Chú (1782-1840) đều không ghi hai bản này(24). Họ đã bỏ qua ? Hay là bởi cả hai bản trên đều rất hiếm nên không đến được tay họ? Chúng ta cũng cần chú ý là họ Lê và họ Phan không hẳn đã thống kê đủ số sách vở đương thời, trong điều kiện tư liệu thời bấy giờ thì khả năng bỏ sót của hai ông là rất lớn.

Nhưng một số thư tịch đã có những ghi chép về sự tồn tại của hai bản này.

Theo Hoàng Việt văn tuyển 皇 越 文 選 của Bùi Huy Bích, trong bài Chu Dịch ca quyết tự 周 易 歌 訣 序 (bài tựa cuốn Chu Dịch quốc âm ca quyết của Đặng Thái Phương (hay Bàng 滂, 1674 - ?) đề năm Gia Long thứ 12 (1813), Phạm Quý Thích (1759-1825) đã nhắc đến một bản Thi kinh giải nghĩa “vốn đã lưu hành trên đời” (固 已 行 於 世 矣)(25).

Như đã dẫn ở phần trước, Nội các thư mục (1908) có ghi rằng: “Thi kinh giải âm, 1 bộ 10 cuốn (bản)”(26).

Ở thời điểm năm 1813 khi Phạm Quý Thích đặt tựa, hệ bản Thi kinh diễn nghĩa chưa có (mà phải đến các năm 1836, 1837 thời Minh Mệnh, hệ bản này chúng tôi sẽ giới thiệu cụ thể trong một dịp khác), cộng thêm chủ trương hủy diệt di văn Tây Sơn của chính quyền Gia Long, khiến chúng tôi ngờ rằng, bản Thi kinh giải âm (nghĩa) mà Phạm Quý Thích và Nội các thư mục nhắc đến có nhiều khả năng sẽ là bản giải âm Vĩnh Thịnh 1714, chứ khó có thể là một bản Thi kinh giải âm khắc in rất rõ hai dòng niên đại Quang Trung (như đã trình bày ở phần trước của bài viết này), mà lại “vốn đã lưu hành trên đời” ngay ở thời Gia Long.

Tiểu kết

Qua bài khảo cứu này, chúng tôi đi đến một số kết luận chủ yếu như sau:

Bản Thi kinh giải âm sớm nhất hiện còn là bản khắc năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) nhà Lê, vốn đủ 10 quyển, nhưng nay chỉ còn giữ được 8 quyển đầu, thiếu 2 quyển cuối (quyển IX và quyển X), hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Văn học, Hà Nội.

Bản Thi kinh giải âm đời Quang Trung 5 (1792) có thể là sản phẩm của Sùng Chính viện, nhưng Sùng Chính viện chỉ có vai trò khắc lại (có sửa chữa không đáng kể) bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 1714, chứ tuyệt đối không phải là người (đơn vị) thực hiện công việc giải âm. Chỉ cần như vậy thôi, vua Quang Trung và bề tôi của ông cũng đã xứng đáng được tôn vinh là những người coi trọng việc học hành và biết kế thừa di sản văn hóa của tiền nhân.

Hai bản Thi kinh giải âm Vĩnh Thịnh 1714 và Quang Trung 1792 thuộc hai bộ ván khắc khác nhau, tức là bản Quang Trung đã trùng thuyên bản Vĩnh Thịnh, trên nguyên tắc là khắc lại gần như nguyên vẹn bố cục và kích cỡ từ một bản in theo ván khắc Vĩnh Thịnh (có sửa chữa nhưng không đáng kể).

Mặc dù được khắc in trước, nhưng không thể nói chắc rằng bản Vĩnh Thịnh là hoàn thiện hơn bản Quang Trung. Không kể sự vắng thiếu quyển IX và quyển X ở bản Vĩnh Thịnh hiện chưa tìm thấy được, thì trong bản Vĩnh Thịnh 1714 vẫn có những chỗ cần được đối chiếu với bản Quang Trung 1792 để bổ cứu cho được chính xác và hoàn chỉnh hơn.

Phát hiện bản in theo ván khắc năm Vĩnh Thịnh 1714 là rất có ý nghĩa không những cho việc nghiên cứu tác phẩm Thi kinh giải âm, mà còn góp thêm cứ liệu đáng tin cậy cho việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển văn chương dịch thuật từ Hán sang Nôm ở thời trung đại.

Chúng tôi mong rằng sẽ có dịp trở lại với những vấn đề có liên quan tới các truyền bản Thi kinh giải âm khác nhau, cũng như mối liên quan giữa chúng với các văn bản giải âm khác trong kho tàng văn chương chữ Nôm của nước ta.

N.Q.H - N.T.C

CHÚ THÍCH:

(1) Xin xem: Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, Nxb. Minh Tân, 1952; dẫn theo lần tái bản trong bộ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hữu Ngọc & Nguyễn Đức Hiền sưu tập biên soạn, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.1072.

(2) La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Sđd, tr.1073.

(3) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II, Nxb. KHXH, H. 1990, tr.121.

(4) Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Sđd, tr.121.

(5) Ngô Đức Thọ. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, 1997, tr.110.

(6) Trong hộp phích ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu sách Hán Nôm tại các thư viện khác tại Hà Nội có hai phích ghi tên sách Thi kinh giải âm ở Viện Văn học với kí hiệu sách HN.524 và HN.525, chúng tôi đã kiểm tra lại hai kí hiệu sách này ở Viện Văn học thì thấy đây là hai cuốn Thi vận tập yếu 詩 韻 集 要 chứ không phải Thi kinh giải âm

(7) Vương Tiểu Thuẫn, Việt Nam phỏng thư trát kí, trích dịch phần 5: Diễn âm, diễn nghĩa, diễn ca và diễn tự. Tạp chí Hán Nôm, số 4 , 2000, tr. 94-99.

(8) Chữ bị che vốn thuộc phần chú thích bằng Hán văn, nhưng đối chiếu với bản chú giải của Chu Hi thì không có chữ này.

(9) Ví dụ xin xem Thập tam kinh chú sớ 十 三 經 注 疏 (tập thượng), Chiết Giang cổ tịch xuất bản xã, 1998, tr.498, thiên Miên man 綿 蛮, các chữ “miên” đều là chứ không viết là 綿.

(10) Nội các thư mục, kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.113, phần Kinh bộ, tờ 6a. Chúng tôi hiểu khái niệm “本 bản” trong Nội các thư mục nghĩa là “số quyển”, so sánh với việc ghi chép các sách khác trong Nội các thư mục thì đúng như vậy.

(11) Xin xem: Nguyễn Quang Hồng: “ Vấn đề niên đại của văn bản Đại Việt sử kí toàn thư (Nội các quan bản)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 + 6, 1988, tr.40-45; cũng xem: Vũ Minh Giang “ Về niên đại bản Nội các quan bản của sách Đại Việt sử kí toàn thư”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 + 6, 1988, tr.58-62.

(12) Loại b3 có thể chia làm nhiều tiểu loại, theo sự khác nhau về bố cục các phần trắng và đen bên trong vòng tròn, như: trong vòng tròn có hình dấu cộng (+) trắng; có dấu nhân (x) màu trắng; trên trắng dưới đen; trên đen dưới trắng; bốn chấm trắng cách đều như hình hoa... chia như thế quá phức tạp, chúng tôi gộp chung vào một loại b3 để tiện trình bày.

(13) Cụ thể số tờ có khác nhau về dấu ngăn cách trong từng quyển: quyển I có 4 tờ khác nhau trong số 27 tờ của quyển I, qII 21/51, qIII 19/57, qIV 18/46, qV 19/44, qVI 11/55, qVII 10/47, qVIII 14/56.

(14) 遲 遲: Chữ 遲 thứ nhất vốn trong nguyên bản Vĩnh Thịnh 1714 là một vết phủ đen (do ván khắc), chúng tôi khôi phục lại thành nguyên dạng (遲) để tiện so sánh.

(15) Đại Việt sử kí toàn thư, Nội các quan bản, bản dịch tập II, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. KHXH, H., tr.190. Nguyên văn: 十 一 月, 季 犛 作 國 语 诗 义 并 序, 令 女 師 教 厚 妃 及 宫 人 學 習. 序 中 多 出 己 意, 不 從 朱 子 集 傳.( Bản kỉ toàn thư, quyển VIII, tờ 27b).

(16) Dẫn theo: Yến Trang: Dòng họ Nguyễn Quý với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài ở thế kỉ XVIII, in trong: Danh nhân Nguyễn Quý Đức- nhà chính trị văn hóa lớn thế kỉ XVII - XVIII (Kỉ yếu hội thảo Danh nhân văn hóa Nguyễn Quý Đức (1648 - 1720) tổ chức tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội ngày 23/12/2000), Viện Sử học & Ban liên lạc dòng họ Nguyễn Quý xuất bản, H. 2000, tr.150-160; cũng xem thêm: Nguyễn Thanh Tùng: Đóng góp của dòng họ Nguyễn Quý đối với lịch sử văn hóa dân tộc, in trong cùng cuốn kỉ yếu trên, tr.130-149.

(17) Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, bản dịch của Viện Sử học, tập III, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.105.

(18) Kawamoto Kuniye (川 本 邦 衛), 傳 奇 漫 錄 刊 本 攷 (Truyền kì mạn lục san bản khảo). Khánh Hưng nghĩa thục Đại học xuất bản. Tokyo, 1998.

(19) Kế thiện đường 繼 善 堂: hiện chúng ta mới chỉ biết đến nhà tàng bản Kế thiện đường qua việc khắc in hai bản giải âm Thi kinh Truyền kì mạn lục vào năm 1714, ngoài ra không có thông tin gì thêm.

Trong công trình Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu (Trần Nghĩa & Franỗois Gros đồng chủ biên, bộ ba tập, Nxb. KHXH, 1993) ghi nhận bản Văn đế bách hạnh thiên 文 帝 百 行 篇 kí hiệu AC.238 trong kho sách Hán Nôm là sản phẩm của Kế Thiện đường. Điều này e rằng không đúng, bởi chúng tôi kiểm tra lại nguyên bản Văn đế bách hạnh thiên AC.238 thì nhà tàng bản là Kế Thiện đàn (繼 善 壇) ở huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương cũ (nay thuộc Hải Phòng), chứ không phải Kế Thiện đường. Còn Kế Thiện đường và Kế Thiện đàn có liên quan gì với nhau hay không là vấn đề đòi hỏi phải được tiếp tục xem xét. Riêng trong danh sách các nhà tàng bản do Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi lập cũng không có tên nhà tàng bản Kế Thiện đường hay Kế Thiện đàn (xin xem Mai Hồng & Nguyễn Hữu Mùi, Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm, số 1-1986, tr.43-55).

(20) Ngô Cao Lãng biên soạn, Xiển Trai bổ sung, Lịch triều tạp kỉ, Hoa Bằng & Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. KHXH, H. 1995, tr.202.

(21) Lịch triều tạp kỉ, sđd, tr.269.

(22) Xin liệt cử một số thơ Nôm của các chúa Trịnh: Trịnh Căn: Thiên hòa doanh bách vịnh (88 bài thơ Nôm); Trịnh Doanh: Càn nguyên ngự chế thi (240 bài thơ Nôm); Trịnh Sâm: rất nhiều thơ Nôm trên các bia đá và ma nhai hiện vẫn còn tại chùa Hương và nhiều di tích khác. Ông và bố Trịnh Cương đều mất sớm, không làm chúa, cũng không thấy có thơ văn truyền lại.

(23) Lịch triều tạp kỉ, sđd, tr.433-434.

(24) Xin xem:

- Lê Quý Đôn, Nghệ văn chí 藝 文 誌, in trong Lê Quý Đôn toàn tập, tập III: Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, Nxb. KHXH, H. 1978, tr.98-113. Tất nhiên, Lê Quý Đôn mất năm 1784 thì không thể biết tới bản Thi kinh giải âm khắc in năm Quang Trung 1792.

- Phan Huy Chú, Văn tịch chí 文 籍 誌, in trong Lịch triều hiến chương loại chí, Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam phiên dịch và chú giải, tập IV, Nxb. Sử học, 1961, tr.41-133; hoặc in trong Lịch triều hiến chương loại chí, Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch, tập IX, Tủ sách cổ văn - ủy ban dịch thuật, Bộ Văn hóa Giáo dục và thanh niên, 1974.

(25) Xin xem: Bùi Huy Bích, Hoàng Việt văn tuyển, bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, tập II, Tủ sách cổ văn - ủy ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1972, phần nguyên bản Hán văn quyển VII, tờ 18a; phần dịch văn trang 291. Nguyên văn: “越 之 與 諸 華, 學 同 而 音 異,老 儒 先 生 往 往 演 為 國 音, 取 其 便 初 學, 詩 經 解 義,固 已 行 於 世 矣”. Dịch văn: “Nước Việt ta đối với các nước Hoa Hạ, cùng học một sách mà phát âm khác nhau, nên các bậc lão nho thường diễn ra quốc âm để tiện cho người [mới] học, như bộ Thi Kinh giải nghĩa, đã được truyền bá ở đời”.

(26) Nội các thư mục, tài liệu đã dẫn./.

PHỤ LỤC

TB

ĐẶC ĐIỂM VĂN BẢN VÀ NỘI DUNG
TỤC LỆ LÀNG XÃ CỔ TRUYỀN

ĐINH KHẮC THUÂN

Chúng tôi giới thiệu một cách khái quát trước hết về văn bản và nội dung của các tục lệ làng xã cổ truyền, sau đó là vai trò của nó trong việc quản lí làng xã ở các thời kì lịch sử, cũng như mặt tích cực, hạn chế của tục lệ cổ truyền trong quản lý và xây dựng làng văn hóa hiện nay ở nước ta.

1. Tục lệ và văn bản tục lệ làng xã cổ truyền

Mỗi làng xã cổ truyền Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng biệt, định hình thành tục lệ làng xã. Hầu hết các tục lệ này được ghi chép thành văn bản mà phần lớn trong đó đã được sưu tầm, sao chép và hiện đang được bảo quản trong kho sách Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ở một số thư viện khác ở trung ương, cũng như ở địa phương.

Tên gọi cho các văn bản tục lệ này khá đa dạng, như tục lệ, khoán lệ, hương ước... trong đó phần lớn các văn bản cổ đều ghi là khoán lệ, tức là những điều lệ cụ thể của làng xã. Các điều lệ này về sau sao chép lại được gọi chung là tục lệ hay hương ước. Nhìn chung các văn bản này bao gồm các tục lệ của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của làng xã như những điều ước của giáp, của hội Tư văn, của làng nghề mua bán Long Đằng (Đông Ngạc, Từ Liêm), hay của phố chợ vàng bạc Kim Ngân (Phố Hàng Bạc, Hà Nội), hoặc của làng xã nói chung... Tuy nhiên chúng thường được gọi chung là hương ước, tức là các điều quy ước của làng, tương tự quy ước xây dựng làng văn hóa hiện nay ở các địa phương.

Về mặt văn bản, tài liệu tục lệ hiện có trong kho sách Hán Nôm chủ yếu là phông sách kí hiệu AF, gồm các văn bản chép tay từ các địa phương gửi đến trong dịp sưu tầm và xây dựng kho tư liệu Hán Nôm của Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội vào những năm đầu thế kỷ XX. Ngoài ra là các sách chép tay hoặc in ấn khác như Đông Ngạc xã điều lệ, kí hiệu A.2506, hoặc La Nôi ỷ la hương lệ kí hiệu A.729... Số ít khác chưa có trong kho sách Hán Nôm, nhưng chúng tôi sao chép được ở các địa phương. Tuy phần lớn sách tục lệ không phải là bản gốc mà chủ yếu là bản sao, song các điều khoản có niên đại sớm đều được chép lại đầy đủ, thậm chí nhiều bản hương ước có khá nhiều niên đại khác nhau, bởi hương ước đó luôn được bổ sung và điều chỉnh vào các thời điểm khác nhau về sau. Chẳng hạn tục lệ làng Dương Liễu (Hà Tây) bao gồm các khoán ước lập năm Cảnh Trị 4 (1666), Cảnh Trị 6 (1668), Cảnh Trị 8 (1670), Chính Hòa 12 (1691), Vĩnh Hựu 5 (1739), Cảnh Hưng 10 (1749), Cảnh Hưng 15 (1754) và Cảnh Hưng 21 (1760)... Nhiều hương ước khác bao gồm các điều khoản lập vào thời Lê, sau đó bổ sung vào thời Nguyễn.

Hầu hết niên đại sớm nhất của các văn bản tục lệ là từ thế kỷ XVII, trong đó điển hình là hương ước làng Dương Liễu vừa nêu trên, làng Mộ Trạch (Hải Dương) soạn thảo vào năm Cảnh Trị 3 (1665), làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) soạn vào thế kỷ XVII. Tục lệ làng Quỳnh Đôi chép trong sách Quỳnh Đôi hương biên, kí hiệu A.3154 do Hồ Phi Hội biên tập, sách chép về hương lệ của làng, song chỉ có một vài điều khoản, còn lại chép các công việc khác của làng. Cũng trong các bản tục lệ đó, ở một số làng chép lại được một số khoán ước được soạn dưới thời Lê Hồng Đức, như Đại Phùng tổng khoán ước, kí hiệu 2875 soạn vào năm Chính Hòa 5 (1684), nhắc lại một số điều ước từ năm Hồng Đức 6 (1475). Văn bản bia Trăn Tân từ lệ ở đền Trăn Tân huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh, khắc năm Hồng Đức 18 (1487) ghi lại việc các xã trong hai huyện Thiện Tài và Gia Định phủ Thuận An xứ Kinh Bắc định điều lệ tế Thần. Đây là hai trong số văn bản tục lệ hiếm hoi xuất hiện dưới niên hiệu Hồng Đức thế kỷ XV. Thế kỷ XVI tuy không tìm thấy văn bản tục lệ nào, song tục lệ khắc trên bia thì lại khá phổ biến, trong đó tiêu biểu là văn bia Phúc Lâm Hoằng Thệ tự đình thị bi ở chùa Phúc Lâm, xã Vĩnh Thệ, huyện Tiên Phong nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, dựng năm Hưng Trị 2 (1589) ghi điều ước rằng chùa Phúc Lâm của hương Chân Na, định lệ chia làm 12 khu phân chia sắm lễ vật và rước lễ. Đến thế kỷ XVII thì tục lệ khắc trên bia khá phổ biến, cùng với hàng loạt văn bản tục lệ được xuất hiện. Đây là giai đoạn tái biên soạn hương ước như nhận định của nhà Việt Nam học Nhật bản ShiMao Minoru. Thực tế, tục lệ ở làng xã thì xuất hiện khá sớm, song việc văn bản hóa thành văn bản để thi hành và lưu truyền thì thường lại diễn ra muộn hơn nhiều, thậm chí rất muộn, như khá nhiều hương ước ở các địa phương thuộc tỉnh Phú Thọ đều ghi rằng các điều lệ của làng chỉ truyền khẩu mà không có sách vở nào, mãi đến những năm đầu thế kỷ XX mới sao chép lại.

Các văn bản tục lệ thực tế chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ XV trở đi ở làng xã đồng bằng Bắc bộ, khi mà xã trở thành đơn vị hành chính cơ sở và làng xã được tổ chức ngày càng chặt chẽ. Nhà nước phong kiến ban hành chính sách quân điền, quy chế hóa việc chia cấp phần ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của Nhà nước nằm trong các làng xã, nhằm can thiệp sâu vào từng đơn vị tụ cư đó. Tuy vậy làng nào cũng có lệ chia cấp riêng. Bởi thế Nhà nước có luật nước thì làng xã có lệ làng. Điều này thường được ghi trong các bài tựa của mỗi tục lệ hay hương ước, như hương ước xã Mộ Trạch (Hải Dương) cho biết: “Nhà nước giữ đạo trị bình ắt phải nêu rõ kỷ cương, xóm làng giữ tục thuần hậu cần phải làm rõ quy ước, theo khuôn mẫu một điều mà lập ra các điều”. Tuy nhiên, các điều ước này trở thành lệ làng, đôi khi đối lập với luật nước. Vì vậy Nhà nước phong kiến thời Lê sơ đã hạn chế dân gian thiết lập tư ước. Đạo dụ của Lê Thánh Tông khuyên các làng xã không nên có khoán ước riêng này chứng tỏ rằng từ giữa thế kỷ XV trở đi, hương ước đã tồn tại song song và phần nào mâu thuẫn với Luật pháp nhà nước, làm cho luật nước ít nhiều bị giảm hiệu lực trong từng luỹ tre xanh đó. Trải qua thế kỷ XVI, Nho giáo có phần nào nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo, song sang thế kỉ XVII, Nho giáo lại được đề cao. Bên cạnh các đạo luật có từ thời Hồng Đức được bổ sung sử dụng rộng rãi, Nhà nước phong kiến thời Lê Trịnh thế kỷ XVII còn ban bố 47 điều giáo hóa theo khuôn mẫu kinh điển Nho gia. Chính vì vậy, hương ước ở làng quê được tái biên một cách phổ biến. Số lượng hương ước cổ hiện biết chủ yếu là các văn bản biên soạn từ đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX (đầu thế kỷ XX là hương ước cải lương).

2. Nội dung của tục lệ làng xã cổ truyền

Về nội dung cụ thể của tục lệ làng xã cổ truyền, do mỗi làng, tuỳ theo đặc điểm riêng, mà có những tập tục, quy ước riêng; bởi vậy, nhìn chung các điều khoản ghi trong tục lệ rất đa dạng và phong phú.

a. Nội dung tục lệ thường tập trung ở một số điều khoản liên quan đến việc tế tự, cúng lễ trong làng và xác định rõ tôn ty trật tự; ngoài ra là các điều khoản về bảo vệ nông nghiệp, ruộng đồng, đóng góp với làng xóm, vấn đề khuyến khích học tập, tinh thần trọng lão... Tuy nhiên đối với làng nghề hay làng khoa bảng thì hầu như không có các điều khoản liên quan đến sản xuất nông nghiệp mà thay vào đó là các điều ước về nghề thủ công về khuyến học. Những quy ước trong tục lệ làng xã liên quan đến các khía cạnh tiêu biểu sau đây:

- Về cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội trong làng

Đây là nội dung chính của hương ước, bao gồm phần lớn các điều khoản liên quan tới nhiều mặt của đời sống xã hội làng xã.

Trước hết là những quy ước liên quan tới các thiết chế tổ chức trong làng, chức năng, quyền hạn và lề lối làm việc của từng tổ chức cũng như các thành viên trong đó, như tổ chức bàn, giáp, ngõ xóm, quan viên chức sắc, những người có vai trò quan trọng nhất định trong sinh hoạt làng xã.

- Về các quan hệ xã hội hay thứ bậc xã hội

Đó là những quy ước về Lão quyền, tức là quyền của người già trong làng; Nam quyền - quyền của nam giới trong sinh hoạt làng xã (chỉ có nam giới mới được vào giáp, mới được ra đình, nam giới mới được coi trọng); Phụ quyền - quyền của người cha trong gia đình chịu trách nhiệm về mọi hành vi của các thành viên trong gia đình; trưởng quyền - quyền theo vị trí ngôi thứ, căn cứ vào phẩm hàm, chức tước, bằng cấp và tài sản. Có thể coi đây là những quan hệ xã hội làng xã theo trục dọc mà nét nổi bật là sự phân biệt giữa "quan viên" và "dân đinh", giữa già và trẻ, giữa trên và dưới, giữa nam và nữ, giữa chính cư và ngụ cư.

- Những quy ước về việc bảo vệ an ninh làng xã

Những điều khoản liên quan đến việc bảo vệ an ninh nơi làng xã được phản ánh khá phong phú trong hương ước. Ngoài các điều khoản nhằm ngăn ngừa việc đánh chửi nhau, là những điều nhằm hạn chế nạn trộm cắp trong làng, cũng như các điều ngăn cấm các tệ nạn cờ bạc, các quan hệ bất chính giữa nam và nữ, ... Nổi bật hơn cả là những điều khoản gắn liền với việc tổ chức vũ trang bảo vệ làng xã, như việc lập các điếm canh, điếm tuần phòng, trang bị khí giới và đặc biệt là việc trồng, tu bổ các luỹ tre bao quanh làng. Hương ước quy định trách nhiệm của từng xóm ngõ, phe giáp trong việc bảo vệ, tu bổ các luỹ tre theo định kì hàng năm và phải chịu kiểm tra của các chức dịch. Việc đẵn tre ở luỹ phải được cả xóm, có khi phải được chức dịch đồng ý, nếu tự tiện chặt, phá tre sẽ bị phạt.

- Những quy ước nhằm bảo đảm đời sống tâm linh của cộng đồng

Đây là các điều ước về tôn giáo tín ngưỡng mà việc tổ chức thờ cúng Thành hoàng là trọng tâm. Việc lo sắm lễ vật mỗi kì cúng lễ, thường giao cho các giáp thay nhau đảm nhận; còn việc tổ chức cúng lễ thì giao cho các vị chức sắc, chức dịch cùng hội tư văn đảm nhận. Việc chia biếu lễ vật sau khi cúng lễ được phân bổ theo thứ bậc ngôi thứ trong làng.

- Những quy ước về việc bảo đảm các nghĩa vụ với nhà nước

Các nghĩa vụ với nhà nước phong kiến mà trước hết là nghĩa vụ sưu thuế gồm hai loại: thuế đinh (hay sưu) bổ cho các nam giới từ 18 đến 60 tuổi và thuế điền (thuế ruộng đất). Tục lệ quy định việc quản lí và thu nạp đủ các mức thuế trên, ngăn chặn việc thiếu hụt, hoặc lạm thu của các xã giáp trưởng.

Ngoài ra là các điều lệ về khuyến học, khuyến nông, bảo vệ môi trường, cùng những điều lệ mang tính đặc thù của mỗi làng xã. Đồng thời quy định các hình thức khen thưởng và xử phạt. Một trong các hình thức khen thưởng áp dụng cho các loại công trạng là thưởng tiền hay hiện vật, thậm chí còn ban thêm hay tăng vị trí ngôi thứ trong làng. Các hình thức phạt, áp dụng cho các hành vi vi phạm cũng diễn ra dưới hình thức phạt tiền hay hiện vật (như trâu, gà, cau trầu...), và đương nhiên cũng hạ vị trí ngôi thứ của người vi phạm vốn có chức vị, thậm chí còn có hình thức đánh roi, bắt bồi thường và trình quan xử lí theo pháp luật.

Trên đây là những nội dung cơ bản của tục lệ làng xã cổ truyền trong các thời kì phong kiến.

b. Nội dung các tục lệ nêu trên tuy phản ánh nét đặc thù về phong tục tập quán của từng làng, của từng thời kỳ lịch sử khác nhau, song đều cùng mang dấu ấn khá rõ nét của tư tưởng Nho giáo.

Bởi lẽ trước hết văn bản tục lệ được biên soạn bởi các bậc Nho học với các kinh điển Nho gia như sách Chu Lễ, Lễ Ký, Kinh Thi, Luận Ngữ, Lam điền, Lã Thị hương ước làm nền tảng lý luận, đạo lý, chỗ dựa tinh thần để xây dựng nên quy ước. Tục lệ làng Đồng Lương, xã Thanh Bạn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (soạn năm 1868) dẫn sách Lễ Ký rằng: “Lễ theo nghi thức là khiến cho nó theo về điều mà mình mong muốn là có nguyên nhân vậy. Nếu bất cập thì tăng thêm, nếu thái quá thì bớt đi để cho cái đức của dân trở nên đầy đặn”. Tục lệ xã Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh ghi: “Sách Lễ ký có các thiên hương sạ, hương ẩm tửu đều là để phân biệt trưởng ấu, định ra tôn ty rõ ràng để phong tục nhân luân được đầy đặn. Vậy nên Phu Tử ta quan sát hương đảng mà biết vương đạo để đổi thay, tin chắc có điều đó. Nay các vị trưởng lão trí thức, kính lễ nghĩa tiếng tăm, nắm chắc kỷ cương, dạy bảo người ta hướng về nơi sáng sủa, khiến cho dân trí được mở mang, dân đức được đầy đặn. Đó là lý do đặt ra lệ này”.

Như vậy, tục lệ hay hương ước do các bậc Nho gia trong làng biên soạn, cho dù chỉ văn bản hóa các phong tục tập quán vốn có của làng thì cũng đều được thổi vào đó tư tưởng Nho gia luôn thường trực trong tầng lớp Nho sĩ này. Do đó các điều ước đều gián tiếp hoặc trực tiếp thấm nhuần giáo lý Nho gia. Mặt khác, tục lệ của làng thường được đọc trước toàn dân vào dịp lễ hội đầu xuân của làng và được duy trì thường ngày, vì vậy các điều khoản liên quan đến giáo lý Nho gia này được thâm nhập ngày một sâu rộng trong cộng đồng làng xã.

Nho giáo thâm nhập vào làng xã trước hết qua các điều lệ trong khoán ước của làng liên quan đến răn bảo, thưởng phạt hành vi đạo đức. Những hành vi đạo đức này lại hoàn toàn dựa theo khuôn mẫu giáo lý đạo Nho, như khuyên răn trung hiếu, lễ nghĩa, phẩm hạnh. Tục lệ làng Quỳnh Đôi xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An soạn năm 1638 có điều ước sau: “Người ta lấy luân lý làm trọng, nghĩa là người làm cha thì tính nết hiền lành, phận làm con thì thờ cha mẹ cho có hiếu, làm anh thì ăn ở với em cho thuận hoà, làm em thì cung kính với anh, chồng nói thì vợ nghe. Làm người cần cư xử là thế, nếu không chẳng khác gì loài cầm thú”.

Hầu như tục lệ nào cũng có điều khoản về hành vi đạo đức theo giáo lý Nho học như vậy, trong đó nổi bật là đạo hiếu đễ. Nhiều hương ước quy định mức phạt rất nặng với người bất hiếu (có cha mẹ mà bỏ bê không cung kính phụng dưỡng và chửi bới cha mẹ), bất uyên (chỉ người vợ có lỗi lăng nhục bất kính đối với cha mẹ chồng), bất mục (không hòa mục trong cửu tộc), bất thuận (không hòa thuận với xóm giềng). Điều ước thứ 15 làng Hoàng, xã Cổ Mộc, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (năm 1898) quy định: “Đàn bà chửa hoang, nếu phạm vào luân thường và người đàn bà đang có tang hoặc có chồng thì phạt 12 quan tiền”.

Người xưa coi trọng đạo hiếu, coi trọng sự báo hiếu, nên cũng hết sức coi trọng việc tang lễ. Vì vậy trong các hương ước xuất hiện khá nhiều điều ước về việc tang ma. Lễ tang phải đảm bảo đúng quy ước, từ việc để tang, đến các nghi thức cúng lễ, mai táng, chịu tang... Có khá nhiều điều khoản phạt nặng người đang chịu tang cha mẹ mà phạm tội như gian dâm, trộm cắp, ca hát. Tuy nhiên việc báo hiếu đó đôi khi thái quá, dẫn đến tốn kém, phiền phức. Do vậy đã có không ít điều khoản quy định cụ thể việc tang ma nhằm hạn chế sự thái quá này. Khoán ước làng Phù Lưu Thượng, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh năm 1854 quy định: “Người chết ở giáp nào thì giáp đó đến viếng và đi đưa. Nếu nhà nghèo thì chỉ mời trầu, rượu tại chỗ, không ai được hạch hỏi. Nhiều đám tang bày cỗ linh đình mời người đến phúng viếng ăn uống. Tiếng là báo hiếu ông bà, cha mẹ, nhưng thực chất là trả nợ miệng. Một người chết mà muôn người say, gây tiếng xấu làm bại hoại phong tục”. Việc duy trì luân thường đạo lý theo khuôn mẫu lễ giáo Nho gia như vậy luôn được làng xã coi trọng và được định thành lệ làng.

Ngoài việc đề cao đạo hiếu, luân thường theo Nho giáo, tục lệ còn phản ánh khá đậm nét về ngôi thứ ở đình trung, nơi tập trung quyền uy lớn nhất của làng. Đình làng là sản phẩm của Nho giáo xuất hiện từ khi Nho giáo trở thành độc tôn từ thế kỷ XV, vừa là nơi thờ phụng vừa là nơi phán quyết của chức sắc trong làng. Nói một cách cụ thể hơn, đình là nơi thực thi các nghi thức cúng rước Thần, tổ chức lễ hội, hát xướng, hương ẩm cỗ bàn trong ngày hội hay ăn khao, ăn khoán, hội họp của chức sắc trong làng. Vì thế thứ bậc ở đình trung hết sức quan trọng. Thứ bậc này thường được quy ước như sau:

Gian giữa đình là chiếu ngồi của chủ tế và các trợ tế (bao gồm các vị độc chúc, độc văn, đông tây xướng, hai vị phụ hoạ vị độc văn, bốn vị tiến tửu).

Gian bên phải là chiếu ngồi của các vị khoa trường đỗ đạt.

Gian bên trái là chiếu ngồi của các cụ thượng thọ từ tuổi cao đến thấp, cùng các chức dịch hàng xã, các vị chức dịch binh lính mãn nhiệm và các trai đinh (từ 18 đến 37 tuổi). Nếu đình nào hẹp thì trai đinh phải đứng phía ngoài đình phục dịch việc tế lễ.

Một số làng khác phân định chỗ ngồi ở chốn đình trung bằng gianh giới hai bên tả hữu đình cho quan văn ở bên phải, gồm các vị tiến sĩ, quan văn có phẩm tước từ nhất phẩm đến cửu phẩm; quan võ ở bên trái gồm các vị tạo sĩ, các võ quan có phẩm hàm từ nhất phẩm đến các chức chánh đội, suất đội.

Cách sắp xếp này tương tự cách sắp đặt buổi thiết triều trong triều đình. Điều đó cho thấy tính tự trị nơi làng xã càng được định hình, như câu cửa miệng trong dân gian là “Hương đảng tiểu triều đình”.

Mặt khác, mối liên hệ chặt chẽ của tầng lớp Nho sĩ với làng xã là cầu nối giúp Nho giáo thâm nhập vào làng xã. Thực tế Nho sĩ Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với làng xã và với sản xuất nông nghiệp hơn là gắn với đô thị và thương mại như phần đông Nho sĩ Trung Quốc. Dân cư người Việt trước đây tuyệt đại đa số sống ở làng xã. Những người có học trong làng đỗ đạt thì làm quan, nếu không thì trở thành hương sư dạy học ở làng, hoặc làm nghề thuốc, thày địa lý... Số lượng người có học sống ở làng ngày một đông. Hơn thế nữa, ngay cả những người đỗ đạt làm quan thì khi trí sĩ cũng lại trở về sống với dòng họ, làng xóm. Thậm chí khi đương chức, dù ở đâu thì họ đều có mối liên hệ thường ngày với làng xã, đều có quyền lợi và nghĩa vụ với làng xã và đương nhiên có vị trí nhất định nơi làng xã. Chẳng vậy mà trước ngày những người thành đạt rất coi trọng việc vinh quy bái tổ (tức là khi vinh hiển thì phải về làng bái tạ tổ tiên), lệ làng luôn coi trọng việc khao vọng, như khoán nước năm Cảnh Hưng 33 (1772) làng Mộ Trạch quy định: Ai ứng thí khoa bác cử mà đỗ Tạo sĩ, ngày vinh quy làng cũng làm lễ đón rước chúc mừng và đáp lễ giống như Tiến sĩ. Còn các chức Cai cơ, Thủ hiệu, Tạo sĩ thóat thủ kính cẩn nhận sắc mệnh thì cũng đón rước và đáp lễ như các quan lại khi được thăng chức.

Trong tổ chức làng xã có hai thiết chế, một là chức dịch hai là kỳ mục. Chức dịch là đại diện của chính quyền Nhà nước phong kiến ở làng xã, còn Kỳ mục hay Hội đồng kỳ mục bao gồm các quan lại các cấp về hưu, đứng đầu là một vị Tiên chỉ. Ngoài ra còn có các vị đương triều, quan viên, tư văn tham gia vào các hoạt động chung của làng nhất là lễ hội, thờ cúng. Trong hầu hết các khoán ước đều thấy ghi rõ họ tên các vị chức sắc này. Chẳng hạn hương lệ làng Mộ Trạch năm Cảnh Trị 3 (1665) kê các vị Triều quan gồm Bồi tụng Binh bộ Thượng thư Phượng Lĩnh hầu họ Vũ, Hưng Hóa xứ Thừa Chánh sứ Vũ Lương, Thái bộc tự khanh Vũ Phương Trượng, Giám sát ngự sử Thanh Hoa xứ Vũ Duy Đoán, Hiến sát sứ Thanh Hoa xứ Lê Công Triều, Hiến sát sứ Sơn Tây xứ Vũ Bật Hài, Hình khoa Cấp sự trung Vũ Công Lượng, Giám sát ngự sử Thái Nguyên xứ Vũ Trác Oánh; Quan viên gồm Huyện thừa Phương Nhã Vũ Hạo, Đồng Tri phủ Khoái Châu Vũ Xuyền, Huyện thừa Thanh Lan Vũ Triệt, Huyện thừa Tân Minh Vũ Quyện; Văn thuộc gồm: Vũ Đức Thắng, Vũ Đăng Tiến; xã thôn trưởng gồm: Vũ Đình Sách, Lê Tiến Vinh, Nhữ Thế Lộc...

Những chức quan trên đều có mặt trong các kỳ lễ lớn của làng và được định vị thứ bậc nơi đình trung, chốn linh thiêng trang trọng nhất của làng xã. Thiết chế như vậy của làng xã khiến cho mối liên hệ giữa các Nho sĩ với làng xã ngày càng gắn bó chặt chẽ.

3. Vai trò của tục lệ cổ truyền trong quản lý làng xã

Tục lệ cổ truyền hay hương ước thực chất là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng làng xã, công cụ quản lý làng xã. Mặt khác, hương ước cũng lại trở thành công cụ để nhà nước can thiệp vào làng xã và quản lý làng xã, điều hoà lợi ích giữa làng với Nhà nước.

Chính vị trí của con người trong làng xã được xác định bởi các mối quan hệ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng là ý thức hệ Nho giáo mà hương ước chính thức hóa và cụ thể hóa. Đó là quan hệ trong gia đình (dòng họ) và quan hệ cộng đồng. Trong quan hệ gia đình, làng xã khẳng định quyền của nam giới, quyền của người cha trong gia đình. Nam giới mới là thành viên chính thức đại biểu cho quyền thừa kế, thừa tự, và chỉ có người cha mới có quyền cao nhất trong quản lý gia đình. Bởi thế con cái phải có trách nhiệm vâng lời, nuôi dưỡng, hiếu thảo cha mẹ, ông bà. Các quan hệ gia đình này mở rộng ra dòng họ, chỉ có nam giới mới được vào giáp được ra đình trung, được chia ruộng và chịu nghĩa vụ Nhà nước. Có làng có một thành viên nào đó phạm tội thì cả dòng họ, thậm chí cả làng phải chịu phạt. Trong quan hệ cộng đồng thì vị trí con người được phân định theo tuổi tác và chức vị. Quan hệ theo tuổi tác xác định vị trí của người hơn tuổi và người già, tuy nhiên quan hệ này luôn phải nhường bước cho các quan hệ theo bằng cấp, phẩm hàm và chức tước của Nhà nước. Mỗi thành viên trong làng tuỳ theo bằng cấp, phẩm hàm, chức tước, tài sản và tuổi tác mà được phân định vào một cấp bậc riêng trong hệ thống ngôi thứ của làng. Từ đó được hưởng những quyền lợi riêng về khẩu phần ruộng công, phần chia biếu, chỗ ngồi ở đình, có chức năng, quyền hạn riêng trong tế lễ, trong khi bàn cũng như khi điều hành việc làng. Hệ thống thang bậc xã hội làng xã này theo mô hình dựa trên ý thức hệ Nho giáo càng củng cố thêm thế kiểm soát chặt chẽ của làng xã với con người.

Như vậy, làng xã tuy là một đơn vị tụ cư khép kín tự cung tự cấp, được xem như một “tiểu triều đình” đối lập với hệ thống tư tưởng chính thống, trong đó tư tưởng Nho giáo là chủ đạo, song vẫn bị tư tưởng Nho giáo thâm nhập và thâm nhập khá sâu. Sự thâm nhập đó bằng chính việc văn bản hóa các tục lệ để làm thành hương ước thực thi phổ biến ở mỗi làng xã. Trong đó có vai trò hàng đầu và mối liên hệ mật thiết với gia đình, dòng tộc, cũng như làng xã của các Nho sĩ đương triều và các bậc Nho học sinh sống ở địa phương. Tuy nhiên, với việc kế thừa những tập tục dựa trên nền đạo đức và tín ngưỡng truyền thống, hương ước vẫn luôn đi vào lòng người và được duy trì như một truyền thống nghìn xưa.

4. Những mặt tích cực và hạn chế của tục lệ cổ truyền

Tục lệ cổ truyền có nhiều mặt tích cực góp phần hình thành trong làng xã và người dân những đức tính và truyền thống quý báu. Đó là truyền thống đoàn kết và cố kết cộng đồng. Bằng các điều khoản cụ thể, tục lệ cổ truyền không chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với cộng đồng mà còn định rõ trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống hàng ngày. Tục lệ cổ truyền khuyên răn mọi người ăn ở hoà thuận theo đúng đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn. Trong tình xóm giềng, con người luôn có ý thức sống hoà thuận, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, luôn có ý thức trả ơn, giúp đỡ người khác. Điều đó được xem là lương tâm, là bổn phận của mỗi thành viên trong cộng đồng. Và chính điều đó là cái để gắn những người nông dân lại với nhau, gắn họ với làng và trở thành truyền thống đùm bọc, đoàn kết và cố kết làng xã, được từng người coi là nhu cầu, là lẽ sống và tình cảm sâu sắc, là nghĩa vụ thiêng liêng.

Tục lệ cổ truyền quan tâm tới các việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã, hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với làng, với nước. Tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ mà làng đặt ra đều được người nông dân tuân thủ nghiêm túc, không chỉ trong ý thức mà bằng cả những hành động thực tế. Bởi vậy từ ý thức trách nhiệm, họ luôn coi trọng nghĩa vụ của mình. Tinh thần trách nhiệm đó ăn sâu trong tiềm thức của người nông dân, được họ chấp nhận một cách tự nhiên và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành truyền thống quý báu. Tục lệ cổ truyền góp phần làm phong phú đời sống văn hóa làng xã. Những quy ước của làng xã về trách nhiệm của các tổ chức, các giai tầng xã hội và các cá nhân trong việc tu bổ và bảo vệ đình chùa, đền miếu, việc biện lễ, rước sách thờ Thần, thờ Phật được người nông dân tuân thủ nghiêm ngặt. Cùng với các lễ nghi thờ cúng là tổ chức hội làng mà qua đó tái hiện được phần nào cốt lõi lịch sử và góp phần củng cố tinh thần cộng đồng.

Bên cạnh những mặt tích cực của tục lệ cổ truyền, còn có một số mặt hạn chế. Đó là tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái hình thành trên cơ sở "tâm lí làng". Vì quyền lợi riêng mà đã có những điều khoản trốn tránh nghĩa vụ của Nhà nước, tranh chấp đưa "người của làng" vào các chức vụ chính quyền, ... Ngoài ra là tư tưởng địa vị ngôi thứ. Hệ thống thang bậc xã hội trong làng là nguyên do của sự tranh chấp gay gắt giữa các phe phái, là nguyên nhân dẫn tới việc thao túng việc làng của các chức dịch. Cuối cùng là tục lệ đã góp phần làm tăng thêm hủ tục nặng nề, tốn kém trong cưới xin, ma chay, khao vọng,...

Dù có những mặt hạn chế, tục lệ cổ truyền đã có vai trò nhất định góp phần quản lí xã hội, đặc biệt là vai trò to lớn của nó trong các hoạt động văn hóa và phát huy truyền thống quý báu cha ông.

Tóm lại, trong các thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XV trở đi, tục lệ cổ truyền ở các làng xã Việt Nam được văn bản hóa. Nội dung văn bản này khá phong phú, nhưng tập trung vào các mặt chính của đời sống xã hội. Với nội dung đó, tục lệ cổ truyền giữ một vị trí quan trọng trong đời sống làng xã, đồng thời là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, để quản lí làng xã.

Đ.K.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Bùi Xuân Đính: Về một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử, H. 1996.

2. Bùi Xuân Đính - Đinh Khắc Thuân: Hương ước làng ven đô, Tạp chí Hán Nôm, 1/1991, tr.11-15.

3. Hồng Đức thiện chính, Bản dịch, Nam Hà ấn quán, Sài Gòn 1959.

4. Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng hợp Sở Văn hóa thông tin & Thể thao Hà Tây, 1993.

5. Hương ước Hà Tĩnh, Sở Văn hóa thông tin Hà Tĩnh, 1996.

6. Hương ước Thanh Hóa, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian - Sở Văn hóa thông tin Nghệ An, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1998.

7. Vũ Duy Mền: Vài nét về hình thức văn bản hương ước làng Việt cổ truyền, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2000, tr. 21-27.

8. Mộ Trạch xã cựu khoán, Bản dịch từ văn bản chữ Hán, kí hiệu VHv. 121 Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

9. ShiMao MINORU: Sử liệu có liên quan đến việc tái biên hương ước ở Bắc bộ Việt Nam thời Lê, Tạp chí Hán Nôm, 2/2002, tr.12-22.

10. Nguyễn Tá Nhí: Tục lệ phường Long Đằng xã Đông Ngạc, Tạp chí Hán Nôm, 2/2004, tr.50-53.

11. Đinh Khắc Thuân: Tục lệ ở phố chợ Kim Ngân, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2004, tr.24-31./.

TB

QUANG CHÂU HƯƠNG ƯỚC ĐIỀU MỤC
(光 州 鄉 約 條 目)
BẢN HƯƠNG ƯỚC CỔ NHẤT CỦA
TRIỀU TIÊN

PHẠM THỊ THÙY VINH

Bán đảo Triều Tiên nay gồm hai quốc gia: Hàn Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, đã từng sử dụng chữ Hán trong lịch sử như chữ quốc ngữ. Đặc điểm này cũng bắt gặp ở các nước Đông á như Nhật Bản, Việt Nam. Những tài liệu ghi chép bằng chữ Hán còn lại khá nhiều ở các nước này.

Trong các thư tịch cổ của Triều Tiên trước kia, Hàn Quốc ngày nay còn rất nhiều loại hình văn bản chữ Hán khác nhau. Đó là các văn bản hành chính, các trước tác về văn học, các tác phẩm về sử học, các tài liệu chép tay về sắc phong, chúc thư, các văn bản liên quan đến sinh hoạt làng xã như hương ước, gia phả, tài liệu về ruộng đất... Bên cạnh đó còn khá nhiều các minh văn trên bia đá, chuông đồng. Những bài minh văn này đã được sưu tập và xuất bản.

Các văn bản hương ước của Triều Tiên đã được tập hợp và xuất bản trong sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư 朝 鮮 時 代 社 會 史 研 究 史 料 叢 書 quyển 1, do hai tác giả Kim Nhân Kiệt 金 仁 杰 và Hàn Tướng Quyền 韓 相 權 biên soạn, nơi phát hành là Bảo Cảnh Văn Hóa xã 保 景 文 化 社, được in ấn và phát hành vào tháng 10 năm 1986 tại Seoul, Hàn Quốc. Trong tập sách này các tác giả đã giới thiệu 34 văn bản hương ước bao gồm 33 bản hương ước của Triều Tiên và một văn bản giải thích về bản hương ước đầu tiên của Trung Quốc cuối thời Bắc Tống là Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 và bản hương ước của Chu Tử một nhà tư tưởng thời Nam Tống biên soạn, chỉnh sửa lại Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 đó là bản Chu Tử tăng quyên Lã thị hương ước ngạn giải 朱 子 增 捐 呂 氏 鄉 約諺 解 dùng cả tiếng Hán theo nguyên bản của Chu Tử và giải thích bằng tiếng Hàn bên cạnh. Văn bản hương ước của Chu Tử được du nhập vào Triều Tiên ở giai đoạn đầu thời kỳ Chuson(1), đến năm 1517 đã được tác giả Kim An Kuk xuất bản và sau đó đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong xã hội Triều Tiên. Vì thế cũng có thể coi đây là văn bản hương ước của Triều Tiên. Ngoài ra trong sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư quyển 3 cũng do hai tác giả Kim Nhân Kiệt và Hàn Tướng Quyền biên soạn còn đưa ra nhiều loại tư liệu liên quan đến sinh hoạt làng xã như: Tộc khế 族 契, Tang khế 喪 契, Hương ẩm Hương xạ khế 鄉 飲 鄉 射 契, Giáp khế 甲 契, Nho khế 儒 契, Môn sinh khế 門 生 契... Cũng cần nói thêm là các văn bản hương ước của Triều Tiên sau này đều chịu ảnh hưởng từ Lam Điền Lã thị hương ước 藍 田 呂 氏 鄉 約 của Trung Quốc thông qua bản Chu Tử tăng quyên Lã thị hương ước ngạn giải 朱 子 增 捐 呂 氏 鄉 約諺 解và từ đó đã hình thành hương ước trong xã hội Triều Tiên.

Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã tìm thấy văn bản hương ước của Triều Tiên trong các trước tác của một số học giả khi họ viết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, triết học, lịch sử như: Tú Nghiêm chí, quyển 1; Lật Cốc toàn thư, Bắc Nhai tiên sinh văn tập, tập 3; Hương lễ hợp biên, quyển 2; Tùy lục quyển 9; Mật Châu trưng tín lục, quyển 2…Trong quá khứ có thể những văn bản hương ước của Triều Tiên đã từng được lưu giữ trong các làng xã để xây dựng, chấn chỉnh kỷ cương, phong tục của hương thôn. Nếu so sánh với văn bản hương ước của Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt khá rõ cả về nguồn gốc, xuất xứ, nội dung.

Trong 33 văn bản hương ước của Triều Tiên được sưu tập trong Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư, văn bản Quang Châu hương ước điều mục là văn bản có niên đại sớm nhất. Văn bản này được viết vào năm Cảnh Thái 2 (1455) đời Vua Minh Cảnh Đế của Trung Quốc. Đây là điều khác biệt rất rõ giữa các văn bản chữ Hán của Triều Tiên và Việt Nam, thể hiện ở cách ghi niên đại văn bản. Tất cả các văn bản chữ Hán của Triều Tiên đều dùng niên đại của Trung Quốc để ghi. Mặc dù ở Triều Tiên lúc đó đã có vua và chính quyền của chính người Triều Tiên. Còn ở Việt Nam sau khi giành được độc lập tự chủ từ thế kỷ X cho đến cuối triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XX, tất cả văn bản chữ Hán dù là bản in hay chép tay hoặc cho khắc trên bia đá, chuông đồng đều dùng niên đại các triều vua Việt Nam.

Các văn bản hương ước còn lại của Triều Tiên được viết vào những giai đoạn sau:

- 5 văn bản được viết ở thế kỷ XVI (các năm: 1517, 1556, 1560, 1578 và một bản được xác định vào cuối thế kỷ XVI).

- 3 văn bản thế kỷ XVII (năm 1602, 1648 và một văn bản được xác định là cuối thế kỷ XVII).

- 6 văn bản thế kỷ XVIII (các năm: 1706, 1730, 1747, 1765, 1771, 1797).

- 8 văn bản thế kỷ XIX (các năm: 1801, 1871, 1888 (2), 1890, 1893, 1894 (2).

- 11 văn bản viết ở thế kỷ XX (các năm: 1904 (4), 1905 (2), 1924, 1925, 1932, 1937.

Khác với văn bản hương ước của Việt Nam vốn do một tập thể quan viên, chức sắc làng xã cùng họp bàn và soạn thảo, các văn bản hương ước của Triều Tiên lại do những bậc trí thức lớn trong làng viết ra. Trước khi soạn thảo, họ cũng có tham khảo ý kiến của các bậc hương lão và dựa trên tinh thần chính của Lam Điền Lã thị hương ước để từ đó đặt ra những điều lệ cho dân tuân thủ.

Một điều cần đề cập ở đây là khái niệm về “hương ước” của Triều Tiên rộng hơn rất nhiều so với khái niệm “hương ước” của Việt Nam. Đơn vị “hương” trong lịch sử ở Triều Tiên là một địa danh hành chính có thể lớn hơn một huyện ngày nay, có lúc còn có thể sánh ngang với một tỉnh. Theo Từ Hải : Hương [鄉] là một khái niệm rộng của đơn vị hành chính, hương có thể có từ một vạn hai ngàn năm trăm (125.000) gia đình, phạm vi nhỏ nhất của hương cũng gồm 10 lý [里] tức 10 xóm nhỏ. Còn ở Việt Nam, khái niệm “hương” dùng để chỉ một làng hoặc một xã (xã có thể gồm nhiều làng hoặc một làng). Vì thế hương ước của Việt Nam là những điều lệ, quy ước chỉ của một xã hoặc một làng. ở Triều Tiên, hương ước có thể là quy định cho cả một vùng rộng đến 25 diện [面], mỗi diện tương đương với một hoặc hai ba xã.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bản hương ước Quang Châu hương ước điều mục 光 州 鄉 約 條 目 của Triều Tiên.

Phiên âm:

Quang Châu hương ước điều mục

Cảnh Thái nhị niên Tân Mùi tức ngã Văn Tông nguyên niên, Tiên sinh dữ bản ấp Huyện giám An Triết Thạch tiến sớ thiên bệ thăng huyện vi Châu mục, nhân (kiếp?) lập Hỷ Khánh đường nhi sao tuyển cảnh nội sĩ tử văn chương, đức hạnh, môn phiệt hiển trứ giả, cửu thập viên, thư chí Biệt tịch dĩ chính hương cương hựu hành hương ước.

Kỳ nhất viết:

Phụ mẫu bất thuận giả, phụ mẫu bất hiếu chi tội, bang hữu thường hình, cố cô cử kỳ thứ.

Huynh đệ tương huých giả, huynh khúc, đệ trực quân tội, huynh trực đệ khúc chỉ tội đệ, khúc trực tương bán huynh khinh đệ trọng.

Gia đạo bột loạn giả, nam nữ vô biệt, đích thê đảo trị dĩ thiếp vi thê, dĩ [tuân?] vi đích, thương bất phủ tuân, tuân cập lăng thương, phu phụ tương ẩu mạ giả giảm đẳng.

Sự thiệp quan phủ giả, hữu quan hương phong ủy tác uy thế nhương quan hành tư giả.

Hương trưởng lăng miệt giả, dĩ thượng đẳng phạt, luận chi chấp cương, lẫm quan y luật khoa tội.

Kỳ nhị viết:

Thân thích bất mục giả,

Chính thê sơ bạc giả, thiếp hữu tội giả giảm đẳng.

Tề bối tương ẩu mạ giả,

Bất hiềm liêm sỉ ô hủy sĩ phong giả,

Trì cường lăng nhược đa hành cuồng bội giả,

Công tư tụ hội thị phi chính pháp giả,

Hoạn nạn lực cập tọa thị bất cứu giả,

Thụ quan sai nhậm bằng công tác tư giả,

Bất hữu chấp cương bất tòng hương lệnh giả,

Đa tiếp nhân hộ bất phục quan dịch giả,

Bất cẩn phú tô đồ miễn dao dịch giả,

Chấp cương phát văn cảnh nội tề hội hương xã đường thi dĩ trung đẳng chi tội.

Kỳ tam viết:

Kỳ hội bất tham giả,

Tề tọa thất nghi, tòa trung huyên [?] giả, tự tòa thượng hoặc diện tích thi dĩ hạ đẳng chi tội

Hương lại chi thuộc uỷ quan hại dân giả,

Phụng lệnh hành lý tác tệ dân gian giả,

Cống vật phiến nhu lạm trưng giá vật giả,

Đa thụ công trái mưu khuynh bất nạp giả,

Tín nhậm lăng miệt sĩ tộc giả, chấp cương diệc lẫm quan y luật khoa tội.

( Tú Nghiêm chí quyển 1)

Dịch nghĩa:

Các điều mục hương ước Quang Châu

Năm Tân Mùi Cảnh Thái thứ 2 tức năm Văn Tông thứ nhất triều ta, Tiên sinh cùng với Huyện giám An Triết Thạch là người bản ấp dâng sớ lên quan huyện là Châu mục. Nhân dịp lập Hỷ Khánh Đường mà tuyển chọn được 90 sĩ tử trong vùng có văn chương, đức hạnh, con nhà gia thế, đặt ghi vào sổ riêng để chủ trì những giềng mối trong hương và làm ra hương ước.

Điều thứ nhất:

- Kẻ không thuận theo cha mẹ, tội bất hiếu với cha mẹ, quốc gia đã có hình phạt chết, với đàn bà, con gái chưa có chồng cho giảm xuống một bực.

- Anh em mà gây mâu thuẫn đánh nhau, nếu anh sai em đúng đều có tội; anh đúng em sai chỉ phạt tội em; cả anh em đều đúng sai một nửa thì anh tội nhẹ, em tội nặng.

- Kẻ làm loạn trái với gia đạo, gồm không phân biệt nam nữ, vợ cả, thê thiếp bị đảo trật tự, lấy thiếp làm vợ, lấy thứ (?) làm đích dẫn đến không bảo ban được gia đình, khiến cho vợ chồng cùng đánh chửi nhau đều bị giảm đi một bậc.

- Kẻ can thiệp vào việc quan phủ,

- Kẻ có quan hệ đến phong tục của hương, cậy thế tác oai, nhiễu nhương, dùng việc quan để làm việc tư,

- Kẻ lăng miệt Hương trưởng, tất cả các loại trên đều bị phạt ở mức cao nhất, luận ở cầm nắm kỷ cương, bẩm quan cứ chiếu theo pháp luật mà buộc tội.

Điều thứ hai:

- Kẻ không hòa mục với thân thích,

- Kẻ sơ bạc với vợ chính (Kẻ có tội với vợ giảm đi một bực)

- Kẻ tụ tập đánh chửi nhau,

- Kẻ bất hiềm liêm sỉ (không có liêm sỉ) hủy hoại, bôi xấu phong thái kẻ sĩ,

- Kẻ cậy mạnh để lăng nhục kẻ yếu, làm nhiều điều ngông cuồng trái với lẽ phải,

- Kẻ tụ hội về việc công, việc tư, gây điều thị phi về pháp luật và chính trị,

- Kẻ có sức lực nhưng thấy hoạn nạn chỉ ngồi nhìn mà không cứu,

- Kẻ đã nhận việc quan nhưng dựa vào việc công để làm việc tư,

- Kẻ không tuân theo Hương lệnh, không nắm được kỷ cương,

- Kẻ nhiều lần tiếp người [người lạ] tại nhà, không theo làm việc quan dịch,

- Kẻ bất cẩn với việc thu thuế, có ý đồ để được trừ công dịch,

Người nắm giữ kỷ cương phát ra bằng văn bản trong toàn vùng, họp với hương, xã, đường lấy khung hình phạt loại trung để thi hành [với các loại tội vừa nêu trên].

Điều thứ ba:

- Kẻ đến kỳ họp không tham gia,

- Kẻ ngồi không đúng với nghi lễ, trong chỗ ngồi gây huyên náo ầm ĩ,

- Từ chỗ ngồi bên trên hoặc bề mặt mà xin thay đổi thì phạt vào loại hạ đẳng [phạt vào tội thấp nhất].

- Kẻ thuộc vào hàng Hương lại nhưng lại ỷ vào thế quan để hại dân,

- Kẻ vâng lệnh làm việc trong làng xóm nhưng gây ra nhiều điều tồi tệ trong dân,

- Kẻ dùng cống vật [vật nộp thuế] để buôn bán cần dùng, lạm trưng giá của vật,

- Kẻ nhận rất nhiều trái phiếu của Nhà nước nhưng âm mưu chiếm đoạt không nạp,

- Kẻ có tín nhiệm mà lại lăng miệt gia tộc kẻ sĩ,

[tất cả các loại người trên], người cầm giữ kỷ cương cũng bẩm lên quan, cứ y theo luật mà buộc tội.

(Trích từ sách Tú Nghiêm chí, quyển 1)

Sau đây chúng tôi có một số nhận xét xung quanh văn bản hương ước này của Triều Tiên.

1. Nội dung chính mà bản hương ước đề cập là các hành vi ứng xử của con người với con người, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ gia đình đến làng xóm, từ trách nhiệm với cha mẹ, anh em đến nghĩa vụ đối với hương đảng, quốc gia. Những quy định hành xử trong cộng đồng theo quan điểm của Nho giáo. Vị trí và hình ảnh của người đàn ông - chủ nhân của hương ước được thể hiện và giữ vai trò chính yếu trong cộng đồng. Tinh thần trọng xỉ - tôn trọng người cao tuổi được thể hiện rất rõ qua hương ước. Việc xét xử tội nặng nhẹ trong gia đình không căn cứ theo mức độ phạm tội mà căn cứ theo ai là người nhiều tuổi hơn thì phần thắng thuộc về người ấy. Điều này cho phép củng cố và thiết lập trật tự xã hội theo lớp lang nhất định, ở đó kẻ dưới phải phục tùng người trên, không cần phải tranh luận dài dòng. Trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, thái độ tôn trọng người cao tuổi hơn vẫn đang được duy trì, đó cũng là nét đẹp truyền thống của người Hàn Quốc nói riêng, Triều Tiên nói chung.

2. Theo quan niệm của người Triều Tiên được thể hiện qua bản hương ước này thì điều quan trọng nhất trong cuộc đời con người là phải có hiếu với cha mẹ, phải biết ơn các đấng sinh thành. Nếu ai bất hiếu với cha mẹ thì phép nước xử vào tội chết. Đây cũng là tôn ty trật tự lớn nhất trong đời sống làng xã. Khi một công dân biết đối xử với cha mẹ theo tinh thần đạo hiếu của Nho gia thì họ sẽ biết cách cư xử với cộng đồng. Tiếp đến là cách cư xử của anh em trong gia đình, sau bố mẹ là đến vị trí của người anh. Nếu hai anh em đánh nhau mà cùng sai thì chỉ xử anh tội nhẹ còn em thì xử nặng. Trong mọi trường hợp bất luận phân xử đúng sai thế nào thì phần thắng cũng luôn thuộc về người anh, người có tuổi cao hơn. Biện pháp răn đe này khiến cho những người làm em luôn bị thiệt thòi khi phán xử nhưng lại đảm bảo quyền lợi vĩnh viễn cho những ai may mắn được sinh ra trước làm anh. Bối cảnh trong gia đình với chuyện gây gổ đánh chửi nhau như đã nêu trong hương ước chỉ thấy đề cập đến anh em trai mà không thấy chị em gái. Có thể là người phụ nữ Triều Tiên bị đặt ở một vị thế rất thấp trong xã hội nên họ không có những hành vi phản kháng quyết liệt như đàn ông chăng? Hoặc giả những người phụ nữ không được tính đến trong cách hành xử ?

Tuy nhiên, để bù đắp lại cho sự xuất hiện ít của người phụ nữ thì bản hương ước này cũng nhấn mạnh rất nhiều đến vị thế của người vợ cả. Không được sơ bạc với người vợ cả là một điều được đề cập đến trong văn bản Quang Châu hương ước và nhiều bản hương ước khác của Triều Tiên. Trong thực tế người vợ cả là người đã chịu nhiều vất vả, cùng chung lưng góp sức với người chồng và gia đình nhà chồng để gây dựng cuộc sống nên họ được tôn trọng và hương ước đã bảo vệ quyền lợi cho họ. Tội sơ bạc với vợ cả bao gồm cả người chồng và những người vợ sau. Điều này cũng nói lên xã hội Triều Tiên thời kỳ Trung đại, người đàn ông được phép lấy nhiều vợ, chỉ cần họ luôn coi trọng bà vợ cả là được. Tương tự như quy định không được sơ bạc với vợ cả là không được đảo lộn thứ tự giữa vợ cả và các loại thê thiếp tiếp theo, khiến cho gia đạo bị hỗn loạn, đảo lộn. Dù người đàn ông có thể yêu quý những người thê thiếp sau nhưng vị trí và quyền lợi của người vợ cả luôn luôn được đảm bảo bằng những ràng buộc quy định của cả cộng đồng và họ buộc phải tuân thủ. Đảm bảo vị thế cho vợ cả cũng như đảm bảo lớp lang cho người anh có thể là tiền đề để thiết lập và duy trì trật tự xã hội theo đẳng cấp của người Triều Tiên chăng ?

3. Vấn đề gia đình và việc xử lý những mối quan hệ mang tính đạo lý như: mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ anh em, quan hệ vợ chồng là điều được đặt lên đầu tiên trong văn bản hương ước. Có ổn định được gia đình với những mối quan hệ như thế thì người dân mới có những quan hệ tốt đẹp với xóm giềng, thân hữu. Tác giả văn bản muốn xây dựng tư cách cho người dân trong vùng từ việc phải cư xử phải đạo với chính gia đình của mình trước rồi tiếp đến mới là đối xử với làng xóm, có trách nhiệm với quốc gia. ý thức và trách nhiệm với xã hội được xếp sau ý thức về gia đình, đây là điểm khác biệt với truyền thống ứng xử của người Việt Nam. Trong các văn bản hương ước của Việt Nam không có những quy định cho việc phải đối xử với cha mẹ, anh em, vợ chồng như thế nào mà chỉ có những quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của họ với làng xã.

Cùng với việc nhấn mạnh tư cách người đàn ông trong gia đình, những người đứng đầu trong hương thôn cũng được chú ý. Họ là người đã có ảnh hưởng đến phong tục của địa phương thông qua cách cai trị dân vì thế họ không được nhiễu nhương, cậy việc công để làm việc tư. Những người không có phận sự và nhiệm vụ mà can thiệp vào việc ở phủ quan và kẻ dám lăng miệt coi thường bậc Hương trưởng đều bị khép tội và bị xét xử ở bậc cao nhất. Ngoài ra những người đang được ngồi đúng vị trí giữa chốn đình trung nhưng lại tự tiện xin đổi chỗ dù cho muốn xuống chỗ thấp hơn cũng không được phép. Điều này lại một lần nữa nhằm để bảo vệ thứ bậc trong xã hội.

4. Những vấn đề còn lại là để xây dựng cách đối xử có văn hóa, có trách nhiệm với những người xung quanh và với làng xóm. Người trong hương phải có liêm sỉ, có nghĩa vụ phải cứu giúp người hoạn nạn, không được coi thường kẻ yếu hơn mình, có trách nhiệm với tô thuế của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là không được đi trái với những quy định pháp lý của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân...

Nhân dịp được sang nghiên cứu tại Hàn Quốc, lần đầu tiên có điều kiện tiếp xúc và khảo cứu các văn bản hương ước chữ Hán của Triều Tiên, chúng tôi cho rằng có rất nhiều điểm lý thú về sự tương đồng và dị biệt giữa văn bản hương ước chữ Hán của Việt Nam và Hàn Quốc. Bài viết này chỉ là sự mở đầu cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Trong tương lai chúng tôi sẽ giới thiệu thêm nhiều văn bản hương ước khác của Triều Tiên qua các thời kỳ khác nhau để các học giả Việt Nam quan tâm có cảm nhận đầy đủ hơn về thể loại văn bản này trong tiến trình phát triển của xã hội Triều Tiên trước kia và Hàn Quốc ngày nay.

P.T.T.V

CHÚ THÍCH:

(1) Dẫn lại theo sách Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư quyển 1, Bảo Cảnh Văn hóa xã xuất bản, Seoul, 1986, tr.2./.

TB

TRẢ LỜI ÔNG LÊ THÀNH LÂN VỀ TỜ BÌA BẢN KIỀU NÔM DO NGUYỄN HỮU LẬP CHÉP

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Tạp chí Hán Nôm số 2 (69) - 2005 có đăng bài của ông Lê Thành Lân Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép.

Nhận thấy ông Lê Thành Lân (LTL) có ý nghi ngờ tôi đã làm giả tờ bìa ấy, chúng tôi xin được trả lời lại như sau:

I. Chúng tôi không hề làm giả tờ bìa ấy

Ông LTL đã nêu ra những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu để nghi ngờ tôi đã làm giả tờ bìa bản Nôm quyển Đoạn trường tân thanh do Nguyễn Hữu Lập sao chép.

Chúng tôi xin được trả lời ngay rằng: Chúng tôi không hề làm giả tờ bìa ấy mà chỉ chụp lại theo đúng bản photocopy mà ông Đàm Quang Hưng (ĐQH) đã gửi cho chúng tôi.

Chúng tôi cũng xin nói thêm rằng khi nhận thấy bài Tựa ở 3 tờ đầu sách bị thủng rách ở nhiều chỗ không đọc được mà tờ bìa còn nguyên vẹn, chúng tôi ngay từ cuối tháng 8 năm 2000 đã có thư sang Houston để hỏi ông ĐQH về thực trạng của tấm bìa ấy thì được ông trả lời như sau: “Ba tờ đầu cuốn sách bị rách tả tơi thành nhiều mảnh vụn. Chúng tôi cố gắng ghép các mảnh vụn ấy với nhau cho ngay ngắn, đọc những chữ ngoài bìa sách, trích những chữ ấy từ những đoạn khác nhau ở bên trong cuốn sách, đem đi photocopy rồi dán lại với mục đích tái tạo lại những chữ ở ngoài bìa. Vì thế tờ bìa trong bản photocopy biếu thầy không đúng 100% với nguyên bản”.

(Trích thư đề ngày 21/9/2000)

Chính vì biết tờ bìa ấy đã được “tái tạo” nên chúng tôi đã không cho in trên tờ bìa sách hoặc ở đầu phần văn bản mà chỉ cho chụp nhỏ lại và cho in vào trang 19 quyển Truyện Kiều - Bản kinh đời Tự Đức để mọi người được biết Nhan đề bản Nôm do Nguyễn Hữu Lập sao chép.

Chúng tôi cũng xin nhắc lại rằng: chúng tôi chỉ chụp lai theo bản photocopy mà ông ĐQH đã gửi cho chúng tôi, không có sửa chữa thêm bớt gì(1), kể cả bản tôi đưa cho Ban Tổ chức Hội thảo bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm, Huế - 2003 (2).

Vấn đề đã quá rõ ràng nên chúng tôi thấy không cần phải biện minh gì thêm nữa.

Tờ bìa do GS. Đàm Quang Hưng tái tạo

II. Về lời bàn luận của ông Lê Thành Lân

Ông LTL nên nhớ rằng chúng tôi chỉ chụp lại thôi chứ không có “dán” và “bồi” nên chẳng làm gì có chuyện “lấp lửng” như ông tưởng tượng. Cũng chẳng làm gì có chuyện phải “mập mờ” khi thoáng có sự nghi ngờ của ông Đào Thái Tôn và khi biết ông Nguyễn Tuấn Cường (NTC) nói rõ khiếm khuyết trong nội dung của tờ bìa mà phải đưa ra “cái phao cấp cứu” (chữ của LTL).

Chúng tôi xin nói để ông LTL được biết rằng: Chúng tôi đã đặt vấn đề thực trạng của tờ bìa với ông ĐQH(3) từ tháng 8 năm 2000 trong khi ông NTC chỉ mới đưa ra vấn đề khiếm khuyết của nội dung tờ bìa trong Tạp chí Hán Nôm số 3-(2004). Chúng tôi không hể đổ lỗi cho chủ nhân của cuốn sách. Ngược lại, lúc nào chúng tôi cũng tin tưởng vào những gì mà ông ĐQH đã cho chúng tôi biết và chúng tôi cũng chẳng có gì phải giấu mọi người. Nguyên bản photocopy thế nào chúng tôi chụp lại đúng như vậy còn nếu độc giả có nghi vấn gì, chúng tôi xin vui lòng giải đáp.

Ông LTL có nói đến một điều đáng tiếc là: “Ông NQT đã đi gần khắp 3 châu Âu, Á, Mỹ; vượt vạn dặm vòng quanh nửa quả địa cầu để đến tận thành phố Houston, vậy mà còn mấy cây số nữa là đến được nhà người “vốn quen biết từ hơn nửa thế kỉ nay” để có thể nhìn tận mặt, sờ tận tay cuốn sách vô cùng quí hiếm; vậy mà ông đã không có thực hiện cho được trọn vẹn công việc trong thời gian 3 tháng dừng chân ở Hoa Kỳ. Thực sự chúng tôi không chỉ tiếc mà còn cảm thấy hơi lạ nữa.”

Mấy lời nói đó của ông LTL đã hoàn toàn đúng với tâm trạng của chúng tôi.

Không phải chúng tôi chỉ tiếc mà còn rất tiếc nữa. Có thể là “tiếc vô cùng”. Đã sang Hoa Kỳ, về tận Houston mà không được nhìn tận mặt, sờ tận tay quyển sách quí hiếm ấy! Ông ĐQH hôm lại thăm tôi có cho biết quyển Đoạn trường tân thanh của Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu chép tay đang cho một người bạn ở California mượn nên không mang lại cho tôi xem bản gốc được. Ông chỉ đem tặng tôi một bản photocopy thôi.

Nếu được nhìn tận mắt, sờ tận tay thì chúng tôi đã chẳng phải hỏi lại ông về thực trạng tờ bìa nhưng chúng tôi hoàn toàn tin vào những điều ông đã cho biết là tờ bìa đã được “tái tạo” đúng với nguyên bản tuy rằng “có thể” không đúng 100%. Nhưng nếu nghi ngờ như ông LTL là “có thể không có một chút nào của nguyên bản” thì thật là quá đáng.

Chính vì vậy mà tất cả những nghi vấn trong phần III (phải chăng đây là cách tạo dựng tờ bìa?) và phần IV (Thảo luận đôi điều về tờ bìa) chúng tôi xin được miễn trả lời vì đã không hề làm giả tờ bìa ấy.

Chúng tôi chỉ xin nói thêm về hai điểm sau đây trước khi kết thúc bài viết trả lời ông Lê Thành Lân.

Điểm thứ nhất liên quan đến bài thơ Đề từ của Phạm Quí Thích.

Chúng tôi đã không cho in bản viết tay bài thơ Đề từ của Phạm Quý Thích mà đã thay thế bằng bài thơ chế bản vi tính (Vì thấy bài thơ ấy trong tất cả các bản Kiều Nôm đều giống nhau, không có chữ nào khác biệt) để in gọn vào một trang cùng với bản phiên âm.

Chúng tôi cũng nhận đây là một khuyết điểm. Vậy để cho các độc giả thấy được nguyên bản do Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu (Nguyễn Hữu Lập) sao chép, chúng tôi cho in lại bài thơ ấy theo đúng bản gốc.

Ảnh chụp từ bản gốcBản Nguyễn Bá Thiện

Nếu để ý, các độc giả sẽ thấy bài thơ trong bản gốc đã khác với bài thơ in trong bản của Nguyễn Bá Triệu về cách trình bày.

Điểm thứ hai liên quan đến tên sách Đoạn trường tân thanh mà ông LTL đã cho rằng: “Trong khi hầu hết các sách thời đó đều ghi tên sách là Kim Vân Kiều truyện hoặc Kim vân Kiều tân truyện thì tờ bìa này chép là Đoạn trường tân thanh. Có lẽ phải 32 năm, sau Kiều Oánh Mậu là người đầu tiên cho sách cái tên như vậy. Tên sách rất quan trọng. Nếu quả đúng NHL viết tên sách như vậy thì có thể đây là một chứng lí hay cho việc thảo luận”.

Chúng tôi nhận thấy điều thắc mắc ấy của ông LTL đã không được xác đáng vì như lời truyền - Cái tên Đoạn trường tân thanh đã được Nguyễn Du đặt cho tác phẩm của mình. Chính Phạm Quý Thích đã nhắc đến cái tên “Tân thanh” ấy trong bài thơ Đề từ và cũng chính ông - theo lời truyền - đã đổi tên Đoạn trường tân thanh ra là Kim Vân Kiều tân truyện.

Một chứng cớ cụ thể là cái tên Đoạn trường tân thanh ấy đã được Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân nói đến trong bài Tựa viết vào đời Minh Mệnh như sau: “Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục phong tình cũng đã cũ rồi, Tố Như tử xem truyện thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm đề là Đoạn trường tân thanh...

Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ “tạo vật đố tài, tóm cả một đời Thúy Kiều..... vui, buồn, tan, hợp mười mấy năm trời..... Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải...

May được nối ở đằng sau quyển Đoạn trường tân thanh của Tố Như tử cùng làm một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.” Bùi Kỉ (dịch)

Theo như lời nói ấy của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân thì cái tên Đoạn trường tân thanh đã được dùng để gọi quyển Truyện Kiều từ đời Minh Mạng. Cái tên ấy sau được dùng trong các bản Kinh mà Tiểu Tô Lâm - Nọa Phu (Nguyễn Hữu Lập) đã sao chép lại vào năm 1870. Đến năm 1902, tức 32 năm sau Kiều Oánh Mậu mới dùng tên ấy để gọi bản Kiều Nôm do ông chú giải chứ không phải ông là người đầu tiên dùng cái tên ấy.

*
**

Qua các phần nói trên, chúng tôi chỉ vắn tắt trả lời ông LTL như vậy vì mục đích bài ông viết chỉ cốt nói “Về tờ bìa bản Kiều Nôm do Nguyễn Hữu Lập chép” mà ông đã có ý nghi ngờ tôi làm giả.

Sự thực chúng tôi không hề làm giả như ông nghĩ.

Ở đoạn kết, ông LTL có nói rằng: “Ông viết mục II và mục III chỉ như một nghi vấn” bởi ông “không dám tin rằng sự thực lại có thể như vậy”. Ông lại nhã nhặn ngỏ ý rằng: “Nếu có gì hơi quá sa đà thì xin ông NQT và các độc giả lượng thứ”.

Chúng tôi xin cám ơn lời nói xã giao ấy của ông và chỉ mong ông đừng quá sa đà như vậy mà chỉ nên đặt sự nghi ngờ cho có mức độ sao cho hợp tình và hợp lý thì quí hơn.

N.Q.T

CHÚ THÍCH:

(1) Chúng tôi xin minh xác lại, chúng tôi đã không sửa chữa, thêm bớt gì ở tờ bìa và chúng tôi cũng không sửa chữa gì trong toàn bản Nôm quyển Đoạn trường tân thanh mà ông Đàm Quang Hưng gửi cho tôi.

(2) Chúng tôi không biết tại sao lại có dị bản ấy. Ông LTL nếu muốn biết rõ sự thực, xin cứ hỏi Ban Tổ chức Hội thảo và người biên tập sẽ rõ.

(3) Ông LTL đặt vấn đề “ông ĐQH phục chế từ lúc nào mà cái ngày ông NBT được biết đến bản NHL này thì đã thấy “tờ bìa ngoài rách nát không đọc được” rồi. Cứ theolời ông NBT ở trang 64 thì có lẽ ông đã từng cùng ông ĐQH đàm đạo với nhau..... Tôi chắc ông NBT đã từng gặp ông ĐQH và xem bản NHL rồi nên nhận xét của ông về tờ bìa là đáng tin cậy.

Điều phỏng đoán này của ông LTL hoàn toàn sai vì ông ĐQH không có quen biết ông NBT và cũng chưa đàm đạo với ông NBT. Ông ĐQH không có biếu ông NBT bản Kiều Nôm do NHL chép mà ông NBT đã xin được từ ông Nguyễn Bách Bằng (anh họ ông ĐQH) ở Canađa. Bản photocopy của ông Bằng đã qua tay nhiều người mượn nên bị lem bẩn nhiều. Ông NBT có nói trong lời Tựa rằng: “Sách cũ, lại nhiều vết lem vì in đi in lại, vì những chú thích của Lâm Nọa Phu và của những người đọc sau nên tôi (NBT) phải mất nhiều công để làm sạch sẽ, tô lại những nét mờ đề làm tài liệu...”

Vì làm “sạch sẽ” quyển sách nên ông NBT đã xóa bỏ tất cả những chữ khảo dị của bản NHL và những lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng./.

TB

GÓP BÀN VỀ MẤY CHỮ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ

LẠI VĂN HÙNG

Gần đây, nhân đọc bài viết “Bàn về hai chữ “thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” của GS.TS. Lê Văn Quán, chúng tôi xin có mấy lời bàn lại như sau:

1. Tác giả bài viết trên đã trích dẫn đoạn văn: “Trời ở đây ẩn trên Thiên thư... Cả mớ lý luận về trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ Thiên mệnh, được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”... (2, tr.318)” trong bài viết của PGS. Bùi Duy Tân “cho là tác giả bài thơ đã dựa vào tư tưởng “thiên mệnh” (= mệnh trời), trời quyết định mọi sự việc ở đời” . Đọc xong, chúng tôi rất băn khoăn, không hiểu là PGS. Bùi Duy Tân có viết như thế thật không? Nhìn vào đoạn văn được trích, chúng tôi thấy có những hai lần ba chấm (...), và theo sự chỉ dẫn của số chú thích, số trang ở cuối bài viết, chúng tôi tìm đọc bài của PGS. Bùi Duy Tân. Hóa ra, đoạn văn trên được viết đầy đủ như sau: “Bài thơ cả quyết quyền ngự trị sông núi nước Nam là của vua Nam. Dám khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Nam nhỏ bé bên cạnh nước Bắc to lớn như thế chỉ có thể là Trời. Trời ở đây ẩn trên Thiên thư, nhưng cũng có hàng chục văn bản (của bài thơ Nam quốc sơn hà - LVH) có từ “Hoàng thiên” ở đầu câu thứ hai (Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư). Trời theo Khổng Nho là vô hình, linh diệu, chủ tể của vũ trụ, lấy thiên mệnh, thiên lý, thiên ý, thiên uy điều phối biến hóa việc thế gian, quyết định số phận cho muôn loài. Trời và Người là “tương dữ”, “hợp nhất”, “thông đạt”. Trời nhìn ở dân nhìn dân nghe. Trời thương dân, dân muốn là trời muốn... Vua thay trời trị dân thống nhất thiên ý dân tâm. Vua trị dân theo ý trời thì yên ổn, được mùa; trái ý trời thì trời ra tai, trời nổi can qua v.v... Cả mớ lý luận về Trời, Khổng Nho thường hay dùng danh ngữ “Thiên mệnh", được người Việt tiếp biến theo quan niệm “thực dụng”, chỉ cốt làm rõ: Nước Nam là của Vua/người Nam, đó là ý Trời, kẻ nào xâm lược nước Nam là trái nghịch ý Trời, là chống lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, tất sẽ bại vong” .

Như thế, chỉ cần nhìn vào hai đoạn văn, ai cũng thấy là tác giả bài viết “Bàn về hai chữ ”thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” đã cố ý dẫn trích văn của PGS. Bùi Duy Tân theo kiểu “gọt chân cho vừa giày”. Điều đó không khỏi làm cho người đọc hiểu sai mạch vănlập luận của PGS. Bùi Duy Tân. Kiểu trích dẫn làm méo mó văn của người khác như vậy để phê phán, theo chúng tôi nghĩ có lẽ nên chấm dứt.

2. Trong bài, tác giả cũng bàn đến hai chữ 分 野 và phiên âm là: phân dã, với nghĩa “phân chia bờ cõi”. Theo thiển ý, chúng tôi nghĩ hai chữ ấy ở đây phải phiên âm là phận dã, với nghĩa là cách quy định phận giới, địa phận. Tại sao thế ? Vì có vấn đề liên quan đến chữ 分 . Đúng là chữ này có hai âm đọc là “phân” và “phận”:

- Đọc “phân”, với các nghĩa phân khai, phân giải, phân liệt, xuân phân,...

- Đọc “phận”, với các nghĩa danh phận, chức phận, duyên phận, phúc phận, địa phận,... (4)

Khi 分 đi với các tổ hợp từ thì Hán ngữ đại từ điển có chú rõ số (2) ở bên cạnh chữ để đọc với âm thứ hai là “phận”, trong đó có những cụm như: phận vị, phận ngoại, phận nội và cả “phận dã” - chính là cụm từ đang nói tới. Còn nếu phiên “phân dã” thì ý nghĩa khác hẳn chứ không liên quan gì đến việc “phân chia bờ cõi” .

Do vậy, câu thứ hai của bài Nam quốc sơn hà đã được đọc là:

Tiệt nhiên phận định tại Thiên thư

Ở một vài văn bản hai chữ “phận định” được viết đảo là “định phận”. Dễ thấy là trong trường hợp ấy, không thể nào đọc “định phân” được.

3. Vậy thì cái quyết định “phận dã” (cách quy định phận giới, địa phận) ấy là do đâu ? Rõ ràng là ở “Thiên thư” - ở Trời, chỉ có uy Trời qua “Thiên thư” mới “định” được “phận”. Chúng tôi cho rằng, với lập luận của mình từ đoạn trích đầy đủ trên, PGS. Bùi Duy Tân đã cắt nghĩa một cách sáng rõ ý của câu thơ; kể cả hai chữ “Thiên mệnh” từ các hàm nghĩa thế nào, sự “tiếp biến” ra sao cũng đã được lý giải xác đáng, sát thực với tâm thức và quan niệm của người xưa. Quả thật, người xưa thường tin rằng sở dĩ con người có thêm niềm tin và có thêm dũng khí là được trời đất giúp sức, thần linh phù trợ. Chẳng phải Nam quốc sơn hà cũng đích thị là bài thơ mượn lời thần tuyên đọc đấy sao ? Có như thế mới thiêng, mới cổ lệ được tinh thần tướng sĩ.

Tác giả bài viết “Bàn về hai chữ “thiên thư” trong bài thơ Nam quốc sơn hà” đã chỉ lẩy ra một quan niệm về “Thiên mệnh” của Đổng Trọng Thư, để cho rằng nói “Thiên mệnh” là duy tâm và vội vàng quy chụp, trong khi “Thiên mệnh” còn được quan niệm theo nhiều cách khác nhau; vả lại ngay trong đoạn trích đã thấy, PGS. Bùi Duy Tân cũng dùng trong mạch “thiên mệnh, thiên lý, thiên ý, thiên uy”. Tư duy cho phép lấy cái bộ phận để chỉ cái toàn thể (như kiểu “nếm một miếng biết cả vạc”), nhưng rất nhiều khi tư duy cũng không cho phép như vậy (như kiểu bảo “con voi là cái quạt”, “con voi là cái cột”, v.v...).

Để bạn đọc tiện theo dõi và dễ tìm, chúng tôi xin mách: ngay trong tập Từ điển Nho - Phật - Đạo (Bản dịch, Nxb. Văn học, H. 2001) ở trang số 1441 có mục từ “Thiên mệnh” với các hàm nghĩa, các dẫn dụ khá là phong phú.

L.V.H

CHÚ THÍCH:

(1) In trong Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (69) -(2005), tr.67-70.

(2) Bđd; tr.67.

(3) Xem Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) - Viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ), Bản thảo kỷ yếu, 2004; tr.318-319.

(4), (5) Xem Hán ngữ đại từ điển, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1997, tr.978-980 và tr.984. /.

TB

NÓI THÊM VỀ BÀI THƠ GỞI VỢ THỨ BA CỦA TRẦN THIỆN CHÁNH

CAO TỰ THANH

隴 頭 今 日 皓 題 詩
七 夕 分 襟 又 一 期
客 裡 疏 狂 還 笑 我
花 邊 襝 衽 更 憑 誰
美 人 月 下 星 辰 遠
仙 女 山 中 信 息 歧
記 語 尋 梅 多 少 客
還 愁 梅 亦 瘐 南 枝

Tạp chí Hán Nôm số 5/2004 có đăng tải bài viết của tác giả Nguyễn Minh Tường góp ý văn bản phục hồi và bản dịch bài thơ gởi vợ thứ ba của Trần Thiện Chánh của tôi được đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 210, tháng 4/2004. Trước hết, tôi cảm ơn tác giả Nguyễn Minh Tường đã quan tâm với bài viết của tôi, và còn tạo điều kiện cho tôi được nói thêm lần nữa về bài thơ này, vì trong bài trên Tạp chí Xưa & Nay, tôi chỉ có thể bước đầu phục hồi văn bản chủ yếu trên cơ sở ngôn ngữ và chữ Hán chứ chưa thể đi sâu vào nội dung, trong khi đây cũng là một dữ kiện quan trọng để phục hồi văn bản tác phẩm.

Do sơ suất của tôi lúc đánh máy chữ Hán, hai chữ “mai” 梅 ở câu 7 và 8 trong văn bản in trên Tạp chí Xưa và Nay đã bị lầm thành “mai” 枚. Tôi cảm ơn tác giả Nguyễn Minh Tường và xin nhận lỗi với người đọc về điểm này.

Tuy chưa yên tâm về văn bản phục hồi của tôi (mà điều này cũng hợp lý thôi vì cả tôi cũng chưa yên tâm), tác giả Nguyễn Minh Tường vẫn sử dụng văn bản ấy để đưa ra một bản dịch khác. Nói khác đi, tác giả Nguyễn Minh Tường chủ yếu góp ý về bản dịch chứ không phải về văn bản được phục hồi. Tuy nhiên, văn bản phục hồi bước đầu ấy vẫn chưa hoàn chỉnh. ít nhất, nó còn phải được sửa chữ “hữu” ở câu 7 thành chữ “nữ”. Sau đây là những lập luận của tôi, theo thứ tự từng câu và từ chữ tới nghĩa.

1. Về câu “Khách lý sơ cuồng hoàn tiếu ngã”. Dịch sát từng chữ, từ “khách lý” có nghĩa là “ở nơi đất khách (hay “Trong cảnh làm khách” như tác giả Nguyễn Minh Tường hiểu cũng được)”, đều chỉ việc đang ở xa quê hương, chứ tôi chưa từng thấy ai dịch thành “trong số khách” như tác giả Nguyễn Minh Tường. Còn từ “sơ cuồng” trong văn chương cổ thường được tác giả dùng để nói về bản thân, có khi mang ý than thở, có khi mang ý tự đắc pha lẫn màu sắc tự trào. Điều này hoàn toàn phù hợp với con người Trần Thiện Chánh, một nhà nho lúc thiếu thời thì “Tuổi trẻ hùng tâm bốc tận trời, Làm quan chẳng thích, thích chơi bời” (Thư hoài) còn sau này lúc ra Bắc làm Tán tương rồi Tán lý quân thứ Sơn Tây cũng có lần bị giáng cấp vì tội “Cấp phát tiền lương trái quy định, hút thuốc phiện, giả ốm để cưới vợ lẽ” (xem thêm Cao Tự Thanh: Thơ Trần Thiện Chánh, Nxb. KHXH, H. 1995). Và “sơ cuồng” không phải là “cuồng nhẹ, cuồng ít” như cách hiểu của tác giả Nguyễn Minh Tường. “Sơ” là sơ suất, không tinh tế cẩn thận (đây ý nói không quan tâm tới các quy định lễ giáo lễ nghi lặt vặt), “cuồng” là ngông nghênh (đây ý nói ngang tàng, cao ngạo), và ở trường hợp Trần Thiện Chánh thì từ này còn gói ghém sự đắc ý chua chát về bản thân. Ngay trong bài thơ gởi vợ thứ hai mà tôi đã giới thiệu trong quyển Thơ Trần Thiện Chánh, ông cũng từng viết “Tối nan tác phụ vị phu cuồng” (Thật khôn làm vợ bởi chồng cuồng), tức tự nhận mình là “cuồng”. Cho nên phải hiểu từ “sơ cuồng” ở bài thơ gởi vợ thứ ba này Trần Thiện Chánh tự nói về mình, còn dịch ra “ngông cuồng” cũng không có gì sai, sở dĩ tác giả Nguyễn Minh Tường cảm thấy “nặng quá” chỉ vì từ “ngông cuồng” hiện nay chủ yếu được dùng với nghĩa xấu, mất đi nét nghĩa trung tính và lối dùng kiểu phản nghĩa như trước kia mà thôi. Cần nói thêm rằng chữ “cuồng” của Trần Thiện Chánh là chữ “cuồng” trong văn chương, không đơn giản như chữ “cuồng” trong từ điển, không phải cứ tra đủ từ điển là có thể hiểu đúng văn chương.

2. Về câu “Hoa biên liễm nhiễm cánh bằng thùy”. Câu dịch “Bên hoa khép nép biết cậy vào ai” của tôi trên Tạp chí Xưa & Nay chưa thật rõ nghĩa. Hai câu thực bài thơ lập ý rất xuất sáo, chữ “bằng” (dựa, cậy) ở câu này lại càng tinh vi, thâu tóm và hóa giải hết câu “đất khách ngông cuồng vẫn tự cười mình” giống như lạc đề rất lạc lõng ở trên. Trần Thiện Chánh muốn nói không có người vợ hiền hậu nhu mì (khép nép bên hoa) bên cạnh để có một “cái phanh” trong cuộc sống và ứng xử, một chỗ dựa về tình cảm và tâm lý, nên “biết cậy vào ai” đây tức “biết có ai”.

Nhưng trên câu chữ mà nói, cũng có thể đưa ra một cách hiểu khác hẳn về hai câu 3-4 là “Đất khách ngông cuồng còn đang cười ta, Bên hoa khép nép biết dựa vào ai”, tức Trần Thiện Chánh tưởng tượng người vợ nơi xa vẫn chế nhạo mình ngông cuồng song đang lẻ loi không có chồng bên cạnh. Lúc đầu tôi đã cân nhắc về ý nghĩa này, song bài của tác giả Nguyên Hùng trên Tạp chí Xưa & Nay số 208, 2004 giới thiệu đây là thư gởi vợ của Trần Thiện Chánh, nên tôi đã hướng tới cách dịch “Ký nội”. Chứ nếu nhan đề bài thơ là “Hoài nội” (nhớ vợ) thì chắc chắn phải dịch theo cách này. Trong trường hợp này thì tác giả Nguyễn Minh Tường đã đúng một nửa khi hiểu chữ “tiếu” (cười) là người khác cười Trần Thiện Chánh chứ không phải ông tự cười mình, có điều kẻ ấy chỉ có thể là người bạn đời đã quá rõ tính nết của ông mà thôi.

3. Về từ “tiên nữ”. Trong Hán tự, chữ “nữ” 女 và chữ “hữu” 友 có tự hình gần nhau, rất dễ lầm. “Tiên nữ sơn trung tín tức kỳ” (Tiên nữ trong non tin tức không đều) là lấy tích Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, ý Trần Thiện Chánh muốn ví vợ như tiên nữ trong núi sâu, sau khi chia tay không thể gởi thư cho mình thường xuyên. Tương tự, câu “Mỹ nhân nguyệt hạ tinh thần viễn” phía trên cũng có điển cố, là lấy ý từ câu “Hội hướng Dao đài nguyệt hạ phùng” (Dưới trăng sẽ gặp ở Dao đài) trong ba bài Thanh bình điệu của Lý Bạch, ý Trần Thiện Chánh muốn nói cuộc gặp gỡ dưới ánh trăng mà mình mong mỏi ấy cũng xa xôi như sao trời. Ngoài ra hai câu “Mỹ nhân... tín tức kỳ” là hai câu luận, phải tập trung vào việc bày tỏ tình cảm với vợ mà cụ thể ở đây là than thở chuyện “người thì xa xôi, thư thì thưa thớt” mới đúng thể cách Đường thi, chứ hiểu câu 5 là “Trần Thiện Chánh tự nói về mình” như tác giả Nguyễn Minh Tường thì tôi e lạc đề. Hơn thế nữa, tôi không rõ tác giả Nguyễn Minh Tưòng dựa vào chứng cứ nào để khẳng định lúc làm bài thơ gởi vợ này thì “Trần Thiện Chánh đang làm quan tại vùng núi non Ninh Bình”, có điều giả sử đúng như thế thì một người được điều về giữ chức Tuần phủ Ninh Bình sau khi quân Pháp trả lại tỉnh thành đầu năm 1874 như Trần Thiện Chánh cũng phải làm việc ở tỉnh lỵ, có phố xá chợ búa, chứ không lẽ nào lại dời nha môn vào trong núi sâu.

4. Về hai chữ “mai” trong hai câu 7 - 8. Hai chữ này bị lặp, nói chung là điều mà những người làm thơ Đường luật ngày trước rất tránh, nhưng ngoại trừ khả năng văn bản không chính xác, thì với một nhà thơ tài hoa như Trần Thiện Chánh đây là cố ý chứ không phải bí chữ. Tôi còn nghĩ có thể người vợ này của Trần Thiện Chánh tên Mai, nhưng như đã nói trong bài trên Tạp chí Xưa và Nay, tôi chưa có dịp được tiếp xúc với hậu duệ của ông để tìm hiểu, nên đành tạm gác lại không dám đoán bậy sửa bừa, bản dịch vì vậy cũng chưa rõ nghĩa. Nhưng tác giả Nguyễn Minh Tường dịch câu 7 không đúng ngữ pháp Hán ngữ, lại giải thích sai tích “tầm mai” nên hiểu chưa đúng câu này? “Tìm mai” đây không phải lấy ý từ bài Tạp thi của Vương Duy mà là từ bài Tuyết hậu tầm mai của Lục Du “Thanh đế cung trung đệ nhất phi, Bảo hương huân triệt tố tiêu y. Định tri trích tùy bất dung cửu, Vạn hộc ngọc trần lai sính quy (Trong điện vua xuân bậc ái phi, Áo tơ trắng toát nức hương bay. Vốn hay bị trích không lâu nữa, Bụi ngọc muôn thưng sẽ đón về). “Tìm mai” đây ý nói muốn trở về chỗ cũ của mình, như câu “Tìm mai đạp tuyết nguyệt xâm khăn” của Nguyễn Trãi lúc về Côn Sơn tỏ ý muốn trở lại làm quan trong triều đình, câu “Trong sương chịu lạnh bởi tìm mai” trong 20 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức làm lúc đi sứ Trung Quốc tỏ ý nhớ nước nhớ quê... đều rút từ điển này. Do vậy, “những khách tìm mai” mà Trần Thiện Chánh muốn nói tới là những người yêu nước Nam Kỳ ra tỵ địa ở vùng Nam Trung bộ cùng chỗ với vợ ông. Tóm lại trên cơ sở cấu tứ bài thơ và văn bản hiện có phải hiểu hai câu cuối là “Nhờ nhắn lời với những khách nhớ quê chỗ bà, Rằng ta vẫn buồn cho cành mai cũng đang gầy guộc ở phương Nam”./.

C.T.T

TB

KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ TỤC BIÊN - MỘT PHO SỬ LIỆU ĐỒ SỘ VỀ TRIỀU NGUYỄN

PHAN THANH HẢI

Năm 1993, Viện sử học Việt Nam đã phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế cho ra mắt bạn đọc một trong những bộ sử liệu đồ sộ nhất về triều Nguyễn, bộ sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (gọi tắt là Hội điển ) do Nội các của triều đại này biên soạn và đã được các dịch giả lừng danh của Viện Sử học chuyển ngữ từ những năm 1960. Dù vẫn còn không ít khiếm khuyết nhưng với 15 tập sách, tổng cộng đến hơn 7600 trang, chứa đựng những nguồn thông tin hết sức phong phú về triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, công trình trên đã gây được sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu và được bạn đọc chào đón nồng nhiêt. Tuy nhiên, sau khi đọc Hội điển, người ta lại mong chờ những phần tiếp theo của bộ sách này, bởi Hội điển mới chỉ là phần ghi chép các điển chương, pháp chế, các chiếu chỉ, chỉ dụ, sớ, tấu... của triều Nguyễn từ năm Gia Long thứ 1 (1802) đến năm Tự Đức thứ 4 (1851). Phần tiếp theo ấy thuộc về bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (gọi tắt là Hội điển tục biên) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ, đến nay vẫn chưa được chuyển ngữ sang tiếng Việt và xuất bản.

Để đáp ứng các yêu cầu của công tác nghiên cứu tìm hiểu về triều Nguyễn và văn hóa Huế, đáp ứng các yêu cầu của công tác nghiên cứu, trùng tu các di tích và đặc biệt là nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các công trình tiêu biểu trong kho tàng di sản Hán Nôm của dân tộc, từ năm 2001 đến nay, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã phối hợp với Viện Sử học tổ chức biên dịch, chú giải và xuất bản bộ Hội điển tục biên. Vào dịp cuối năm 2004, hai tập đầu tiên của bộ sách đã được Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành. Có thể nói đây là một món quà hết sức có ý nghĩa đối với Huế trong dịp đón xuân Ất Dậu.

1. Vài nét về văn bản

Theo nhà Hán học Trần Văn Giáp, bộ Hội điển tục biên được biên soạn vào năm Thành Thái thứ 1 (1889), đến năm Thành Thái thứ 7 (1895) thì hoàn thành nhưng vì nhiều lí do khác nhau nên chưa được đem khắc in. Mãi đến năm Khải Định thứ 2 (1917), công trình này mới được xuất bản(1).

Điều này phù hợp với nội dung bản Tấu của Quốc sử quán vào ngày 16 tháng 11 năm Khải Định thứ 2 (1917), in ở phần đầu quyển Mục lục của bộ sách này. Dưới đây chúng tôi xin trích dịch một phần của bản Tấu trên:

“Tháng 9 năm Duy Tân thứ 8, tiếp văn thư của Phụ Chính Phủ, xét thấy các điều lệ ở các Nha thuộc Lục bộ của bản triều từ năm Tự Đức thứ 4 trở về trước đã ghi chép rõ ở Hội điển. Những điều lệ có sau này được bổ túc, cải đổi bất nhất. Vào tháng 3 năm Thành Thái thứ nhất, Phụ Chính Phủ lập phiếu xin lệnh cho các Nha thuộc Lục bộ truy cứu các điều lệ áp dụng trong cơ quan, ngoài những điều lệ đã chép trong Hội điển, đã kê khai đầy đủ. Lại xin phái một viên Đổng lý đốc suất việc biên soạn. Đến nay, năm Thành Thái thứ 7 thì hoàn thành bản thảo rồi thông tư cho các Nha bộ sao chép lưu giữ để có đầy đủ mà tra cứu, còn nguyên bản bản thảo thì giao cho Nội các cất giữ. Bản thảo lần đó chưa được khắc in mà cũng không tránh được sai sót. Lại từ năm đó (Thành Thái thứ nhất) đến nay các điều lệ được bổ túc, sửa đổi cùng các điều lệ trong nghị định mới thuộc phía Bảo hộ rất nhiều, nếu không biên chép lâu ngày không thể không thất thoát, vậy nên Quốc sử quán chiếu theo thứ tự trong Hội điển mà biên soạn, được Trưởng quan đốc suất hoàn thành, lại xin giao khắc in để tiện việc áp dụng. Từ đó đến nay, chúng thần ở Quốc sử quán đã giao cho các thuộc viên (1 Biên tu, 1 Khảo hiệu) kiểm tra cứu xét các phần trong bản thảo thì thấy sai sót và chữ viết lầm khá nhiều. Chúng thần đã ra lệnh hết sức kiểm tra, chép chiếu theo thứ tự điều mục cùng phàm lệ trong Hội điển...

“... Chép đóng thành 60 quyển cùng 1 quyển Mục lục tổng cộng là 61 quyển. Đã trình lên các quan Cơ mật viện duyệt, đem bản đó dâng lên vua xem. Chờ được giao lại rồi chiếu theo khuôn phép trong bản đó chép theo chữ in để đem giao khắc bản. Các điều lệ từ năm Thành Thái thứ 2 đến Duy Tân thứ 8, Sử quán đã biên soạn thành bản thảo, còn phải kiểm tra lại mới hoàn thành. Sẽ cho chép cẩn thận thành sách để trình dâng ngự lãm”.

Như vậy, bộ Hội điển tục biên được Nội các biên soạn xong từ năm Thành Thái thứ 7 (1895) nhưng chưa được xuất bản ngay bởi nhiều lí do trong đó có một lí do là còn nhiều sai sót. Mãi đến năm Khải Định thứ 2 (1917), sau khi được Quốc sử quán tu chỉnh, bộ sách này mới được đem khắc in.

Xét về mặt quy mô, bộ Hội điển tục biên chỉ bằng khoảng 1/3 phần Chính biên (bộ Hội điển gồm 264 quyển với hơn 17.000 trang chữ Hán, khổ sách 32x20cm, còn bộ Hội điển tục biên chỉ có 61 quyển với khoảng 6.000 trang chữ Hán, khổ sách 28x16cm). Tuy nhiên, đây vẫn là một công trình rất lớn với lượng thông tin hết sức phong phú về triều Nguyễn vào nửa sau thế kỷ XIX.

Sách là phần ghi chép tiếp tục của bộ Hội điển trong 38 năm của triều Nguyễn, từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) đến năm Thành Thái thứ 1 (1889).

Không rõ khi ấn hành bộ sách này vào năm 1917, sách Hội điển tục biên có bao nhiêu bản nhưng đến nay các bản in này rất khó tìm, nếu không nói là rất hiếm. Theo chúng tôi được biết, bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên ở Việt Nam hiện nay có ở hai nơi: Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Viện Sử học. Tuy nhiên, bản của Viện Sử học (mang số Hv.99 (1-60) mới là bản in nguyên gốc và khá đầy đủ (chỉ thiếu 2 quyển HV.99 (9) và HV.99 (10) còn bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (mang kí hiệu VHv.2793/1-30) chỉ là bản sao lại bản của Viện Sử học(2) nhưng không đủ, chỉ có từ quyển 1 đến quyển 43 (và cũng thiếu 2 quyển 9 và 10).

Tại Pháp cũng có một bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên, hiện tàng trữ tại Thư viện của trường Viễn đông Bác cổ. Đây cũng là một trong số các bản in từ năm 1917, sách mang kí hiệu Paris. EFEO / VIET / A / Litt, 31 (1-26). Đã có một số tổ chức, cá nhân photocopy được vài phần từ bộ sách này(3). Qua đó, chúng tôi mới biết, tình trạng và chất lượng của bản in này hoàn toàn tương tự bản hiện lưu trữ tại Viện Sử học.

Có thể nói, bản chữ Hán của bộ Hội điển tục biên mà chúng tôi sử dụng để chuyển ngữ và xuất bản có chất lượng khá tốt, chữ in đẹp, rõ ràng, số lượng chữ khắc in sai không đáng kể. Có lẽ đây cũng là bản tốt nhất hiện còn ở Việt Nam.

2. Về cách sắp xếp và nội dung bộ Hội điển tục biên

Bộ Hội điển tục biên gồm 60 quyển chính và quyển Mục lục, cách sắp xếp các nội dung ghi chép về cơ bản gần tương tự như bộ Hội điển, cụ thể như sau:

Quyển Mục lục: gồm các bản Sớ, Tấu của các triều Thành Thái (5 bản, đều vào năm Thành Thái thứ nhất), Duy Tân (1 bản, vào ngày 15 tháng 10 năm thứ 8) và Khải Định (1 bản, vào ngày 16 tháng 11 năm thứ 2) về việc biên soạn và in ấn bộ Hội điển tục biên và phần Mục lục sách

Quyển 1: Tôn Nhân phủ.

Quyển 2: Viện cơ mật.

Quyển 3-10: Bộ Lại.

Quyển 11-16: Bộ Hộ.

Quyển 17-33: Bộ Lễ.

Quyển 34-37: Bộ Binh .

Quyển 38-43: Bộ Hình.

Quyển 44-49: Bộ Công.

Quyển 50: Nội các.

Quyển 51: Đô sát viện.

Quyển 52: Đại lí tự.

Quyển 53: Thị vệ xứ và Cẩn tín ty.

Quyển 54: Phủ nội vụ.

Quyển 55: Võ khố.

Quyển 56: Thương trường.

Quyển 57: Khâm Thiên giám.

Quyển 58: Phụng Hộ nha. /p>

Quyển 59: Thông Bảo nha.

Quyển 60: Hộ Thành nha.

Về mặt nội dung, như trên đã nói, Hội điển tục biên là phần tiếp theo của bộ Hội điển, bộ sách này ghi chép lại khá đầy đủ, chính xác các hoạt động của triều Nguyễn ở nửa sau thế kỷ XIX, tương đương với thời kỳ làm vua của Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh. Đây là một giai đoạn lịch sử có rất nhiều biến động bởi âm mưu và hành động xâm lược của thực dân phương Tây. Trước tình hình ấy, triều Nguyễn phải vừa tìm cách đối phó vừa phải thay đổi nhiều luật lệ cũ để thích ứng với một xã hội đã có nhiều thay đổi. Mặt khác, trong các vua Nguyễn, có thể xem Tự Đức là vị vua có kiến thức uyên bác và tài hoa nhất về văn chương, chữ nghĩa. Dưới thời ông, Nho giáo và việc học hành thi cử được đặc biệt chú trọng. Toàn bộ những đặc điểm trên được phản ánh rất rõ trong Hội điển tục biên.

Chúng ta sẽ đọc được những thông tin rất cụ thể về việc thay đổi cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của triều Nguyễn khi xem phần Cơ mật viện (Q.2), Bộ Lại (Q.3-Q.10). Các chủ trương chính sách về kinh tế của triều Nguyễn ở nửa sau thế kỷ XIX thì được thể hiện rất rõ qua phần Bộ Hộ (Q.11-Q.16). Phần chiếm tỉ trọng lớn và rất đáng chú ý của bộ Hội điển tục biên là phần Bộ Lễ (Q.17-Q.33). Sự quan tâm đặc biệt về giáo dục, khoa cử; các nghi thức và lễ hội cung đình, các chính sách về xã hội... của triều Nguyễn được thể hiện rất cụ thể trong phần này. Đặc biệt, tại phần Bộ Lễ có nhiều thông tin rất hữu ích cho các nhà nghiên cứu và có thể làm chấm dứt nhiều cuộc tranh luận, như: các chữ húy được quy định trong thời Nguyễn...

Nghiên cứu phần Bộ Binh (Q.34-Q.37) và Bộ Hình (Q.38-Q.43), người ta sẽ thấy rõ thái độ của triều Nguyễn đối với an ninh của đất nước trước các hiểm họa xâm lăng qua các chủ trương, chính sách rất cụ thể.

Phần Bộ Công (Q.44-Q.49) có lẽ sẽ là phần đáp ứng được nhiều nhất cho các nhà nghiên cứu về kiến trúc cổ, những người làm công tác bảo tồn, trùng tu di tích... . Đáng chú ý nữa là, tại phần này có nhiều thông tin mới, sẽ làm sáng tỏ rất nhiều về việc xây dựng Khiêm Lăng và cách thức mai táng vua Tự Đức, một vấn đề xưa nay vẫn được xem là đầy bí ẩn và đã bị không ít người xuyên tạc. Các quy định khá cụ thể về việc xây dựng Bồi Lăng (lăng vua Kiến Phúc), Tư Lăng (lăng vua Đồng Khánh), Hân Vinh từ đường v.v... cũng là những thông tin hết sức quý cho việc nghiên cứu về các di tích này.

Phần Bộ Công cũng cho thấy rõ cách tổ chức và hoạt động của các tượng cục cuối thời Nguyễn. Sự tồn tại của tượng cục Pháp làm đến tận thời Đồng Khánh, hay sự tham gia với số lượng đông đảo của các thợ lành nghề miền Bắc tại kinh đô Huế trong giai đoạn này hẳn sẽ làm nhiều người rất ngạc nhiên.

Các phần còn lại, thuộc 11 quyển cuối cùng (Q.50-Q.60), tuy khá ngắn nhưng hết sức quý vì chúng sẽ bổ sung nhiều thông tin cụ thể về bộ máy tổ chức và hoạt động của những cơ quan quan trọng của triều Nguyễn trong nửa sau thế kỷ XIX, như: Nội các (Q.50), Đô sát viện (Q.51), Đại lí tự (Q.52), Thị vệ xứ và Cẩn tín ty (Q.53), Phủ nội vụ (Q.54), Võ khố (Q.55), Thương trường (Q.56), Khâm Thiên giám (Q.57)...

3. Kế hoạch xuất bản

Căn cứ vào khả năng cùng tiến độ thực hiện của công tác biên dịch và chuẩn bị xuất bản bộ Hội điển tục biên, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, Viện Sử học và Nhà xuất bản Giáo dục dự kiến sẽ lần lượt giới thiệu với bạn đọc toàn bộ các phần của công trình này trong kế hoạch 2 năm 2004-2005. Công trình sẽ chia thành 10 tập(4). Ngoài 2 tập đầu đã xuất bản cuối năm 2004 (gồm tập 1 với 460 trang và tập 2 với 968 trang), các tập còn lại mỗi tập, kể cả phần bản dịch và nguyên bản chữ Hán (quét in lại theo tỉ lệ 1/1) có khoảng 800-1000 trang.

Hình thức và chất lượng sẽ là một ưu điểm đặc biệt của bộ sách quý này !

Được bài trí như là 2 cuốn sách nằm chung trong một tập sách (mặt trước là bản dịch tiếng Việt, giở từ trái sáng phải; mặt sau là phần chữ Hán, giờ từ phải qua trái) bộ Hội điển tục biên thực sự là một sản phẩm “hai trong một” mà các nhà nghiên cứu và những người làm sách xưa nay vẫn ước ao thực hiện. Sách được in với chất lượng cao tại Công ty in Tiến bộ (Hà Nội), khổ 28,5x18,5cm, đóng bìa cứng. Với chất lượng trên, Hội điển tục biên được Nhà xuất bản Giáo dục xếp vào hệ thống sách tham khảo đặc biệt và xem đây như là một sản phẩm để hướng tới kỷ niệm 50 năm thành lập Nhà xuất bản này (1957-2007).

Như vậy, nếu đảm bảo kế hoạch xuất bản thì trong dịp kỷ niệm 10 năm thực hiện Dự án quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô, 1996-2010, chúng ta sẽ có thêm một công trình rất có ý nghĩ về di sản văn hóa Huế.

P.T.H

CHÚ THÍCH:

(1) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học sử Việt Nam, tập 1. Thư viện Quốc gia xuất bản, H. 1970, tr.170.

Có lẽ cũng căn cứ từ bản tấu trên của Quốc sử quán mà tác giả cho rằng, năm 1917, triều Nguyễn cho in bộ Hội điển tục biên (chép từ năm 1825 đến năm 1889), còn phần tiếp theo (chép từ năm 1890 đến năm 1914) mới chỉ có bản thảo lưu lại các Sử quán chứ chưa đem in. Nhưng theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì hiện ở Thư viện Trường Viễn đông Bác cổ (Pháp) có một bản in của phần tiếp theo này, gọi là bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ. Sách mang kí hiệu Paris. EFEO. VIET/A/Hist.32 (1-28), cùng khổ 28x16cm, in năm Khải Định thứ 2. Như vậy có thể, cùng trong năm 1917, sau khi xuất bản bộ Hội điển tục biên, vua Khải Định đã cho in luôn phần Tục biên hậu thứ (tức phần chép từ năm Thành Thái thứ 2 (1890) đến năm Duy Tân thứ 8 (1914). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không thể khẳng định chắc chắn về điều này vì chưa tận mắt thấy bộ sách trên.

(2) Năm 1998, chúng tôi đã photocopy lại toàn bộ bản chữ Hán bộ Hội điển tục biên của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tổng cộng chỉ có 42 quyển (tính cả quyển Mục lục) với 4698 trang. Đây là bản sao lại từ bản gốc của Viện Sử học, được các ông Lê Tư Thực, Đỗ Huy Tăng và Nguyễn Xuân Thụ thực hiện vào năm 1966. Khi đối chiếu bản này với bản in của Viện Sử học chúng tôi thấy có không ít chỗ chép sai.

(3) Theo các công bố tại cuộc Tọa đàm quốc tế về bảo tồn cảnh quan và chiếu sáng di tích Duyệt Thi Đường, tổ chức tại Huế trong 2 ngày 13-14/8/2001, thì Xưởng Nghiên cứu kiến trúc châu Á của Đại học Waseda, Nhật Bản (Waral - Waseda) và bà Colett Bernay đã photocopy được phần Công Bộ (Q.44 đến Q.49) của bản chữ Hán bộ Hội điển tục biên đang tàng trữ tại Pháp này.

(4) Dự kiến phân chia các tập của Hội điển tục biên như sau:

Toàn bộ: 61 quyển (60 quyển nội dung và quyển đầu - quyển Mục lục ).

Dự kiến phân chia thành 10 tập:

1- Tập 1: quyển đầu + quyển 1 đến quyển 2: quyển Mục lục, Tôn Nhân phủ (Q.1), Viện cơ mật (Q.2).

2- Tập 2: quyển 3 đến quyển 10: Bộ Lại.

3- Tập 3: quyển 11 đến quyển 16: Bộ Hộ (Q.11 - Q.16).

4- Tập 4: quyển 17 đến quyển 22: Bộ Lễ I (Q17 - Q24).

5- Tập 5: quyển 23 đến quyển 27: Bộ Lễ II (Q.25 - Q.30).

6- Tập 6: quyển 28 đến quyển 33: Bộ Lễ III (Q.31 - Q.33).

7- Tập 7: quyển 34 đến quyển 37: Bộ Binh (Q.34 - Q.37).

8- Tập 8: quyển 38 đến quyển 43: Bộ Hình I (Q.38 - Q.43).

9- Tập 9: quyển 44 đến quyển 49: Bộ Công (Q44 - Q49).

10- Tập 10: quyển 50 đến quyển 60: Nội các (Q.50), Đô sát viện (Q.51), Đại lý tự (Q.52), Thị vệ xứ & Cẩn tín ty (Q.53), Phủ Nội vụ (Q.54), Võ khố (Q.55), Thương trường (Q.56), Khâm Thiên giám (Q.57), Phụng Hộ nha (Q.58), Thông Bảo nha (Q.59) và Hộ Thành nha (Q.60).

TB

THÔNG BÁO VỀ QUỸ
HỌC BỔNG HÁN NÔM – HAWARD YENCHING

Nhằm tạo điều kiện cho những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm trong cả nước có điều kiện đến Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội ) để tiếp xúc với các tài liệu Hán Nôm gốc, phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình, Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Viện Harvard-Yenching (Hoa Kỳ) thành lập Quỹ học bổng Hán Nôm - Harvard-Yenching.

l- Điều kiện và đối tượng được nhận học bổng:

- Ưu tiên những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm (không phân biệt độ tuổi), có trình độ đại học trở lên, có đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực Hán Nôm, được ủy ban tuyển chọn của Quỹ chấp nhận.

- Cuối khóa học phải có sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng khoa học do ủy ban tuyển chọn của Quỹ đề ra.

- Phải ghi lời cảm ơn tới Quỹ Hán Nôm - Harvard-Yenching, khi sản phẩm khoa học này được công bố.

- Người được nhận học bổng của Quỹ phải chấp hành đầy đủ mọi quy định yêu cầu của Quỹ và ủy ban tuyển chọn đề ra.

II- Số lượng học bổng hàng năm:

- Hàng năm Uỷ ban tuyển chọn của Quỹ sẽ tuyển từ 03 - 05 người để cấp học bổng. Năm đầu tiên (2005) ưu tiên tuyển 03 người đang làm công tác nghiên cứu Hán Nôm ở các tỉnh miền Trung và miền Nam.

III- Về Học bổng do Quỹ cấp:

Sau khi hồ sơ xin cấp học bổng được chấp nhận, mỗi người sẽ được cấp một khoản kinh phí là 15.000.000 VND (mười lăm triệu đồng) cho cả khóa học tập và công tác. Số tiền này bao gồm các khoản chi phí: đi lại, ăn ở, văn phòng phẩm, tiền tiêu vặt trong suốt thời gian học tập công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (Về chi tiết các khoản chi phí Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ có hướng dẫn cụ thể)

IV- Thời hạn nộp hồ sơ xin cấp học bổng:

- Từ ngày 1/8/2005 đến 15/8/2005

- Hồ sơ gồm: Đơn xin cấp học bổng, Lí lịch hoạt động khoa học có xác nhận của cơ quan chủ quản, Đề cương của đề tài nghiên cứu, 02 ảnh 4x6 cm.

Mọi chi tiết xin liên hệ theo địa chỉ:

Viện Nghiên cứu Hán Nôm
183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội.
ĐT: 84.4.8516809; Fax: 84.4.8570940