TB

SỰ TRUYỀN BÁ, PHÁT TRIỂN VÀ
BIẾN ĐỔI CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIA
Ở VIỆT NAM

TÔN DIỄN PHONG

I. Sự truyền bá và phát triển tư tưởng Nho gia ở Việt Nam

Hai nước Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ lâu đời, sự giao lưu văn hóa bắt đầu từ rất sớm. ảnh hưởng của văn hóa Hán đối với Việt Nam đặc biệt sâu sắc. Riêng tư tưởng Nho gia - nội dung mang tính tiêu chí của văn hóa Hán - đã trở thành bộ phận quan trọng trong truyền thống văn hóa Việt Nam, có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.

Ngay ở thời kỳ Tần Hán, tư tưởng Nho gia đã truyền vào vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam hiện nay.

Vào năm 207 TCN, nhà Tần mất. Viên úy quận Nam Hải là Triệu Đà đánh chiếm Quế Lâm và quận Tượng, lập ra nước Nam Việt, một chính quyền cát cứ địa phương. Triệu Đà sai hai viên sứ giả đến trông coi hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân thuộc lãnh thổ Việt Nam hiện nay, thi hành chính sách cai trị từ xa. Trong bài Việt giám thông khảo tổng luận của mình, Lê Tung, nhà sử học Việt Nam đã ca ngợi Triệu Đà là người “về mặt võ công, trấn áp Tàm Tùng(2); về mặt văn giáo, chấn hưng quận Tượng; dùng Thi Thư làm thay đổi tục nước, dùng nhân nghĩa để cố kết lòng người”. Có thể thấy hồi này, Triệu Đà đã bãi bỏ việc dựa vào hình phạt và luật pháp hà khắc để dựng nước của nhà Tần, và thay vào đó bằng việc dùng Thi Thư để làm thay đổi tục nước, dùng nhân nghĩa để cố kết lòng người. Đây có thể xem như mào đầu của việc đưa tư tưởng Nho gia vào Việt Nam.

Vào năm 111 TCN, sau khi bình định được Nam Việt, Hán Vũ Đế lập ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Từ đó về sau, trải qua các triều đại Đông Hán, Tam quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc triều, Tùy, Đường cho đến Ngũ đại của Trung Quốc, Việt Nam trở thành quận huyện của Trung Quốc kéo dài trong hơn nghìn năm. Trong khoảng thời gian này, do sự xướng xuất của các viên Thái thú, Thứ sử nhậm chức tại Việt Nam, kết hợp với sự tuyên truyền cổ động của văn nhân học sĩ, sự qua lại xúc tiếp mỗi lúc một nhiều của dân gian, tư tưởng Nho gia dần dần ăn sâu vào Việt Nam, có tác dụng thúc đẩy lịch sử Việt Nam phát triển. Nhất là vào thời kỳ Lưỡng Hán, một số nhân vật lịch sử đã có tác dụng quan trọng trong việc truyền bá tư tưởng Nho gia. Những người có công lớn về mặt này là Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cuối đời Tây Hán và Thái thú Cửu Chân Nhâm Diên đầu đời Đông Hán. Họ một mặt dạy cho dân bản địa kỹ thuật canh tác, đặt ra phép cưới xin và các kiểu quần áo; mặt khác lập trường học, dẫn dắt người bản địa theo lễ nghi, chú trọng việc dạy Nho học ở Việt Nam, lấy tư tưởng Nho học làm mục tiêu dịch chuyển phong tục, chấn chỉnh trật tự xã hội Việt Nam đương thời. Từ đó, Việt Nam bắt đầu tiếp nhận y quan văn vật(3), chế độ hôn nhân và văn hóa giáo dục của Trung Quốc. Thậm chí trong một bộ sử Việt Nam, sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Ngoại kỷ, Thục Tây Hán kỷ, tác giả còn tán dương Tích Quang và Nhâm Diên như sau: “Văn phong ở Lĩnh Nam bắt đầu có từ hai vị Thái thú đây”.

Trong việc truyền bá Nho học, Sĩ Nhiếp thời Tam quốc lại càng nổi bật. Sách Tam quốc chí, phần Ngô chí ca ngợi ông là “học vừa giỏi, vừa uyên bác”, “thấu hiểu việc trị dân”. Ông cai quản Giao Chỉ trong 40 năm, dân chúng đều an cư lạc nghiệp, khắp cõi bình yên vô sự. Trong lúc ở Trung Nguyên binh đao loạn lạc, ông không những giữ cho bản thổ được yên bình, bảo toàn một phương, mà còn sáng lập trường học, mở rộng việc học chữ Hán, giảng dạy kinh điển Nho gia cùng các thư tịch cổ đại, ra sức truyền bá văn hóa Trung Quốc. Ông lấy lễ đối xử với người hiền tài, cất nhắc kẻ sĩ từ địa vị thấp, mở ra phong thái học thuật Giao Châu, làm cho nó trở thành đóa hoa học thuật khác lạ ở phương Nam trong lịch sử học thuật Trung Quốc vào cuối đời Hán, bước đầu đặt nền móng cho sự phát triển Nho học ở Việt Nam. Sử gia Việt Nam đánh giá Sĩ Nhiếp rất cao, tôn xưng ông là “Sĩ Vương”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, phần Ngoại kỷ toàn thư, Sĩ kỷ ca ngợi ông: “Nước ta thông Thi Thư, quen lễ nhạc, trở thành nước có văn hiến, bắt đầu từ Sĩ Vương. Công đức của ông nào chỉ thấm đượm ở đương thời, mà còn lan xa đến hậu thế. Há chẳng thịnh sao !”. Giai cấp thống trị Việt Nam qua các đời đều rất mực tôn sùng ông, trước hết đưa ông vào thờ ở miếu các bậc vua chúa, sau đó chuyển ra phối thờ ở miếu Khổng Tử. Vì họ cho rằng Sĩ Nhiếp đã đem Nho học cùng văn hóa tiên tiến của Trung Châu truyền vào Việt Nam, công đức của ông không nói sao cho xiết, có thể gọi ông là “Ông tổ của học thuật Nam Giao” (Nam Giao học tổ).

Đến năm 934 (Tương đương với năm Thiên Phúc 4 đời Hậu Tấn của Trung Quốc), Ngô Quyền tuyên bố độc lập, dựng lên nhà Ngô, triều đại mở đầu cho giai đoạn Việt Nam độc lập. Sau đó, tiếp đến nhà Đinh, nhà Tiền Lê. Nhưng các triều đại này đều tồn tại không lâu và phần nhiều dựa vào võ công để dựng nước, chưa có điều kiện chăm lo về văn hóa giáo dục, sự phát triển của Nho học nói chung không có gì đáng trình bày. Cho mãi đến triều Lý, Nho học của Việt Nam mới bước vào giai đoạn phát triển mới.

Trong lịch sử Việt Nam, đến triều Lý, xã hội phong kiến bước đầu phát triển. Vào năm 1010, Lý Công Uẩn sau khi lên ngôi, liền bắt đầu từng bước xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước phong kiến; về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa đều có những chính sách cụ thể. Khác với cách hoạt động của các triều đại trước, nhà Lý ra sức đề cao Nho học. Vì nhận thức được rằng chỉ có tư tưởng Nho gia mới khả dĩ cung cấp cho giai cấp thống trị những phương pháp quản lý đất nước hữu hiệu. Để phát triển chế độ chính trị phong kiến tập quyền và kinh tế phong kiến, ổn định trật tự trong nội bộ giai cấp thống trị phong kiến, việc không ngừng đề cao địa vị của Nho học là hết sức cần. Biện pháp cụ thể là tổ chức giảng dạy Nho học, thực hiện chế độ khoa cử lấy Nho học làm nội dung chính, sửa sang Văn miếu để thờ Khổng Tử, du nhập sách kinh điển của Nho gia... Trong các hoạt động nói trên, việc tổ chức khoa cử và tu tạo Văn miếu đã có ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến đời sau. Về mặt khoa cử, nhà Lý đã mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những nhân tài Nho học, nêu cao vị trí Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và phát triển Nho học. Việc tu tạo Văn miếu của nhà Lý về sau cũng đã dẫn tới tình trạng Nho học được tôn giáo hóa, Khổng Tử được thần thánh hóa ở Việt Nam.

Triều Trần (1225 - 1400) sau khi thiết lập, các mặt chính trị, kinh tế về cơ bản vẫn theo triều Lý. Rút ra bài học từ các cuộc nổi dậy của nông dân vào cuối đời nhà Lý, giai cấp thống trị nhà Trần càng cảm thấy việc dùng tư tưởng tôn ti đẳng cấp của Nho gia để chấn chỉnh trật tự xã hội là điều không thể không làm. Vì vậy, nhà Trần không những tiếp tục thực hiện việc giảng dạy Nho học, phát triển và hoàn thiện chế độ khoa cử, mà còn tôn tạo Văn miếu, tế tự Khổng Tử, du nhập sách kinh điển Nho gia, làm cho Nho học từ vốn sẵn có của triều Lý phát triển lên một tầm cao mới. Điều đáng nói là vào triều Trần, đã xuất hiện một số đại sư Nho học nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, trong đó, tiêu biểu nhất có Chu Văn An hay “Chu Thánh nhân”, người đứng vào hàng Thái Sơn, Bắc Đẩu của Nho học Việt Nam, một “Khổng Phu Tử của Việt Nam”. Ông hiểu khắp kinh sử, học nghiệp tinh thâm, một đời quang minh lỗi lạc, được người đời sau ngưỡng mộ, trở thành vị thầy lớn và nhà giáo dục số một trong lịch sử Việt Nam. Sau khi qua đời, ông được vua ban cho thụy hiệu là “Văn Trinh Công” và được đưa vào tòng tự tại Văn miếu, có thể nói ông đã chiếm một vị trí tối cao vô thượng trong tâm khảm người đời. Những vị khác như Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán, Phạm Sư Mạnh v.v. cũng rất nổi tiếng. Sự xuất hiện những đại sư như thế chứng tỏ Nho học ở triều Trần đã tương đối phát triển. Ngoài ra, trên cơ sở Quốc tử giám được lập ra từ đời Lý, nhà Trần còn thiết lập các trường như Quốc tử viện, Quốc học viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện đường, Thiên Trường phủ học, Lạn Kha thư viện v.v. Từ Hoàng thái tử đến con em của trăm quan đều phải học qua các trường rồi mới được bước vào hoạn lộ. Do vậy mà địa vị Nho học càng được nâng cao.

Sau khi nhà Trần mất, sang nhà Hồ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi (7 năm) rồi đến “Bắc thuộc” lần thứ 2 (1407 - 1428), lịch sử Việt Nam bước vào thời kỳ phong kiến cực thịnh - nhà Hậu Lê. Nho học Việt Nam cũng theo đó bước vào thời kỳ toàn thịnh. Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi, bèn “đặt trăm quan, lập trường học, dùng hai khoa kinh nghĩa và từ phú để chọn kẻ sĩ, rõ ràng nho nhã Hoa phong” (Minh sử. Ngoại quốc. An Nam truyện). Từ đấy về sau, các vua nhà Lê kế tiếp nhau độc tôn Nho thuật, từ các mặt chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, giáo dục, kể cả chế độ xã hội nữa, đều lấy tư tưởng Nho gia làm quy phạm. Do vậy, về tư tưởng cũng như về văn hóa, Nho học hoàn toàn chiếm địa vị thống trị, trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị phong kiến. Trên các phương diện như tổ chức giảng dạy Nho học, đẩy mạnh việc dùng khoa cử để lựa chọn kẻ sĩ, mở rộng và sửa sang Văn miếu để tế tự Khổng Tử, du nhập và khắc in lại các sách kinh điển của Nho gia, tăng cường giao lưu Nho học Trung - Việt v.v., quy mô và cách làm của nhà Hậu Lê đều vượt xa các triều đại trước. Vào thời kỳ này, Nho học phát triển hơn bao giờ hết, tư tưởng Nho gia phổ cập rộng rãi, kinh học phồn vinh, danh nho liên tiếp xuất hiện. Chẳng hạn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn v.v. đều là những nhân vật tiêu biểu quan trọng trong lịch sử phát triển Nho học Việt Nam. Việc các nhà Nho học lớn ra đời có thể xem như tiêu chí quan trọng của Nho học Việt Nam bước vào thời kỳ toàn thịnh của nó. Chính ở thời Hậu Lê này, Khổng Tử được thần thánh hóa cao độ, Nho giáo trên thực tế đã trở thành quốc giáo, tư tưởng Nho gia là chỗ dựa duy nhất về mặt lý luận của chế độ chính trị, kinh tế hồi bấy giờ. Những thuyết giáo của Nho gia được xem như khuôn vàng thước ngọc; những tín điều của Nho gia trở thành thanh quy giới luật mang tính quy phạm đối với các mặt đời sống xã hội.

Đến cuối Lê đầu Nguyễn, do nội loạn, ngoại xâm, chiến tranh liên miên, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu rệu rã, địa vị chính thống của Nho học cũng vì thế mà bắt đầu lung lay, suy yếu dần. Mặc dù triều Nguyễn đã cố sức khôi phục trật tự phong kiến, tìm mọi cách đề cao tư tưởng Nho gia, mong củng cố cho được địa vị thống trị của Nho học, nhưng rốt cục khó mà xoay chuyển được tình thế. Đến khi thực dân Pháp thiết lập nền thống trị của chúng ở Việt Nam vào năm 1884, thì đây là một báo hiệu về sự sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam và sự mất địa vị thống trị của Nho học. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, các mối liên hệ truyền thống giữa Trung Quốc và Việt Nam cơ hồ đều bị mất đi, Nho học bị áp chế, bài xích; chữ Hán lưu hành hơn nghìn năm ở Việt Nam và chữ Nôm được sáng tạo ra trên cơ sở chữ Hán đều bị bãi bỏ. Tư tưởng Nho gia cũng do Việt Nam bị thực dân hóa mà mất cơ sở xã hội của nó với tư cách là một tư tưởng thống trị.

Nhưng Nho học mất đi địa vị độc tôn, không có nghĩa là ở mảnh đất Việt Nam, nó không còn tăm dạng. Trái lại, qua 2000 năm truyền bá, phát triển ở Việt Nam, Nho học đã ngấm sâu vào văn hóa, tư tưởng và mọi mặt đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam, hình thành những tập quán dai dẳng, có ảnh hưởng xã hội sâu sắc. ảnh hưởng này, thực dân Pháp không thể xóa bỏ trong một thời gian ngắn.

Trên thực tế, trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam, dù ở thời kỳ xã hội phong kiến đi lên, tư tưởng Nho gia mang tác dụng tiến bộ, hay ở thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn, tư tưởng Nho gia mang tác dụng cản trở, thì tác dụng tiến bộ hay cản trở này đều phải nói là rất lớn. ở Việt Nam thời cổ, chế độ chính trị kinh tế, phép tắc lễ nghi, phong tục tập quán của nhân dân đều chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho gia. Tư tưởng Nho gia là một nguồn quan trọng của văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là bộ phận trọng yếu làm thành văn hóa dân tộc Việt Nam. Đúng như Phan Ngọc, một học giả nổi tiếng đã nói: “Văn hóa Việt Nam, dù là văn học, chính trị, phong tục, lễ nghi, nghệ thuật hay tín ngưỡng, không một mặt nào là không mang dấu ấn của Nho giáo; bất cứ một người Việt Nam nào, ngay dù họ phản đối Nho giáo như thế nào chăng nữa, thì họ cũng đều không thoát khỏi ảnh hưởng của Nho giáo”(4). Có thể nói trong các nước Phương đông, nước có tư tưởng Nho gia truyền bá rộng rãi, lâu dài và ảnh hưởng sâu sắc như Việt Nam chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

II. Một số biến đổi (biến dị) của tư tưởng Nho gia ở Việt Nam

Trên thực tế, Nho học mà chúng ta nói ở đây không phải nhất thành bất biến. Nó là một thứ kết cấu động thái, một hệ thống mở. Trên cơ sở cốt lõi tư tưởng một mực ủng hộ chủ nghĩa tông pháp phong kiến, nó tùy theo tình hình cụ thể của các thời kỳ lịch sử khác nhau mà không ngừng phát triển, biến hóa và tự hoàn thiện.

Nho học Tiên Tần mà Khổng Tử, Mạnh Tử là đại diện đã chủ trương thi hành chính sách nhân ái, dùng đức chính và lễ trị để xây dựng trật tự xã hội.

Kinh học đời Lưỡng Hán mà Đổng Trọng Thư là đại diện đã hình thành từ việc giải thích sách kinh điển Nho gia, là một hệ thống tư tưởng lấy quân quyền thần thụ(5) làm hạt nhân, lấy tam cương ngũ thường(6) làm phép tắc, lấy tư tưởng Đạo gia làm cơ sở triết học, có xen lẫn học thuyết âm dương ngũ hành.

Lý học Tống Minh mà Chu Hy là đại diện là một thứ học thuyết lấy “đạo thể”(7) và “tính mệnh”(8) làm hạt nhân; lấy “cùng lý”(9) làm tinh túy; lấy “chủ tĩnh” và sự tồn dưỡng “cư kính”(10) làm công phu; lấy tề gia, trị quốc, bình thiên hạ làm thực chất; lấy “vi thánh”(11) làm mục đích, lấy Nho giáo - Thích giáo - Đạo giáo hợp nhất làm đặc trưng.

Thực học Minh Thanh lấy “sùng thực chuyết hư” làm đặc trưng cơ bản. Đây là một tư trào xã hội lấy tinh thần phê phán, tinh thần khoa học, tư tưởng kinh thế, ý thức khải mông kết hợp làm một mà ta có thể xem như là sự phản ánh tất yếu của xã hội phong kiến Trung Quốc hậu kỳ trước nguy cơ xã hội sắp sửa bùng phát và sự manh nha của chủ nghĩa tư bản.

Như trên đã nói, Nho học từ thời Tần Hán bắt đầu truyền vào Việt Nam, đến nay đã hơn 2000 năm. Các giai đoạn phát triển của Nho học Trung Quốc đều có những ảnh hưởng trong chừng mực khác nhau đối với Việt Nam, trong đó, ảnh hưởng lớn nhất vẫn là Lý học Tống Minh. Thời kỳ mà Nho học Việt Nam bước đầu phát triển vào đời Lý và đạt tới trình độ cực thịnh vào đời Hậu Lê, cũng chính là thời kỳ Lý học Tống Minh của Trung Quốc phát triển rầm rộ. Nho học Trung Quốc truyền vào Việt Nam trong giai đoạn này tất nhiên là Lý học Tống Minh. Bởi lẽ các thứ mà Lý học Tống Minh đưa ra như tư tưởng luân lý, quy phạm đạo đức và phương pháp tu dưỡng đều là vũ khí tư tưởng hùng mạnh và hữu hiệu nhất trong việc duy trì và bảo vệ chế độ thống trị phong kiến tập quyền, nên Lý học đương nhiên được giai cấp thống trị phong kiến đương thời của Việt Nam ra sức đề xướng. Các bậc danh nho trong lịch sử Việt Nam như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn v.v. không người nào là không phát ngôn nhân của Lý học. Có thể nói, tư tưởng Lý học đã trở thành tư tưởng chính thống, giữ vai trò chi phối hoàn toàn ở Việt Nam trong giai đoạn từ triều Lý đến triều Hậu Lê, và có ảnh hưởng sâu xa không thể nào lường hết đối với hậu thế.

Nhưng, tư tưởng Nho gia sau khi truyền vào Việt Nam, không phải không biến dạng chút nào như người ta vẫn tưởng. Trên thực tế, quá trình tư tưởng Nho gia truyền bá, phát triển ở Việt Nam, cũng là quá trình nó được tiếp thụ, hấp thu và cải tạo ở Việt Nam. Nếu đem so với Trung Quốc, nhất định sẽ thấy có sự khác biệt về mặt này mặt nọ. Những khác biệt này chính là sự thể hiện tất yếu của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Trước hết đối với Nho học, người Việt Nam có hai cách hiểu khác nhau: cách hiểu mang tính học thuật và cách hiểu mang tính dân gian. Cách hiểu đầu là thuộc về giới nhà nho và những người được đào tạo chính quy về Nho học; còn cách hiểu thứ hai là của những con người bình thường - bao gồm dân chúng rộng rãi - hiểu tư tưởng Nho gia một cách phi học thuật.

Nếu chúng ta đọc, nghiên cứu các tác phẩm Nho học của Việt Nam, sẽ thấy dường như về nội dung, chúng đều chẳng có gì khác với sách Nho học của Trung Quốc. Đó là vì rất nhiều sách Nho nguyên bản vốn dĩ là của Trung Quốc, được đưa vào Việt Nam để khắc in lại. Trong khi đó thì các trước tác của nhà nho Việt Nam phần nhiều đều theo chủ trương “thuật nhi bất tác”, tức chỉ giải thích, xiển phát kinh sách mà ít đưa ý kiến riêng của mình vào đó. Thế nhưng nếu chúng ta nghiên cứu, phân tích kỹ những cách hiểu mang tính phi học thuật của người Việt Nam đối với tư tưởng Nho gia, thì sẽ phát hiện có một số khác biệt rõ ràng.

Chúng ta sẽ thấy sự khác biệt này chủ yếu thể hiện trong các quan niệm về “trung”, “hiếu” và nhận thức về địa vị người phụ nữ.

“Trung” và “hiếu” là hai mệnh đề quan trọng trong tư tưởng Nho gia. ở đây, trong “tam cương” của “tam cương ngũ thường”, có “quan vi thần cương” và “phụ vi tử cương” được gắn với “trung” và “hiếu”, có thể thấy tầm quan trọng của chúng. Còn tư tưởng “nam tôn nữ ti” của Nho gia và tác hại nghiêm trọng của lễ giáo phong kiến đối với phụ nữ cũng là một chủ đề quan trọng khi nghiên cứu tư tưởng Nho gia. Khảo sát sự khác biệt về nhận thức giữa Trung Quốc và Việt Nam đối với các vấn đề trên, rõ ràng là một việc làm rất có ý nghĩa.

1. Về “trung”

Theo giải thích của Thuyết văn giải tự Từ hải thì nghĩa gốc của “trung” là “kính”, “tận tâm”, “một lòng một dạ”. Về sau nghĩa mở rộng thành trung thành, trung quân. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, “trung” trong phần lớn trường hợp có nghĩa là “trung quân”. Trung quân, tức trung với vua, trung với nhà thiên hạ (trung vu gia thiên hạ), một lòng thờ vua (trung tâm sự quân), bỏ mình vì vua (vị quân hiệu tử), một mực theo vua (duy quân thị tùng). Muôn sự mông mênh, chỉ có vua là lớn. Dẫu vua có là hôn quân, bạo chúa chăng nữa, thì cũng vẫn phải thực hiện tín điều “vua bảo thần chết, thần không chết là bất trung”.

Với tư cách là một thứ luân lý đạo đức phong kiến, tư tưởng trung quân cơ hồ đã thống trị xã hội phong kiến Trung Quốc hơn 2000 năm. Từ quan điểm trung quân của Hàn Phi Tử đến Lý học Trình Chu, tư tưởng trung quân từng bước phát triển, cuối cùng trở thành tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá đạo đức tiết tháo của bề tôi và dân chúng, đồng thời cũng là tư tưởng luân lý đạo đức chính thống của xã hội phong kiến Trung Quốc.

Mục đích cơ bản của tư tưởng trung quân là làm tăng thêm quyền lực của Hoàng đế, duy trì và bảo vệ nền thống trị phong kiến trung ương tập quyền của chế độ quân chủ chuyên chế. Cái mà nó đề xướng là quan niệm trung với quân vương, trung với chính thống. “Khắp dưới gầm trời, không nơi nào không phải là đất của nhà vua, trong cả bốn biển, không người nào không phải là bề tôi của nhà vua” (Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; suất thổ chi tân, mạc phi vương thần)(12). Quân vương có quyền uy tuyệt đối, chí cao vô thượng, là đại diện của quốc gia, là biểu tượng của xã tắc. Trong xã hội phong kiến, khi có ngoại tộc xâm lược, mâu thuẫn dân tộc phát triển thành mâu thuẫn chủ yếu của xã hội, thì trung quân có thể trở thành sức mạnh tinh thần để chống lại ngoại xâm, lúc này trung với vua thường nhất trí với trung với nước, trung với dân tộc. Nhưng với quốc quân là kẻ hôn dung bạo ngược, hoang dâm vô đạo, thì mù quáng trung với vua sẽ là một sự ngu muội, đáng buồn. Tư tưởng trung quân lúc này sẽ trở thành xiềng xích trói buộc tư tưởng và hành vi của người ta, là vũ khí nguy hiểm của quân chủ chuyên chế phong kiến dùng để duy trì sự thống trị mục nát của chúng.

Người Việt Nam cũng nói đến “trung”. Nhưng họ hiểu “trung” ngoài hàm nghĩa “trung thành”, “trung quân”, còn có một hàm nghĩa nữa, đó là “trung với nước”, và xem đó như thể hiện cao độ của “trung”.

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, trung quân vẫn được nhắc tới. Đặc biệt là khi giai cấp thống trị phong kiến cần tăng cường địa vị thống trị, bao giờ cũng bằng mọi giá đề cao tư tưởng trung quân. Trong lịch sử Việt Nam rõ ràng không thiếu những trường hợp trung quân. Chẳng hạn, Nguyễn Quán, một đại thần của vua Quang Trung triều Tây Sơn, sau khi Nguyễn Huệ băng hà, đã chết theo để tỏ lòng trung, được một thời ca tụng. Nhưng, trong quan niệm của người Việt Nam, trình độ mù quáng trung quân dường như có bớt đi một chút. Trong tâm khảm của họ, lòng trung cao nhất vẫn là trung với nước. Nước nặng hơn vua, Hoàng đế chẳng qua là người quản lý đất nước, chứ không phải là đấng chúa tể chí cao vô thượng. Về điểm này, Việt Nam và Trung Quốc có chỗ khác biệt mà ít người để ý.

Trong lịch sử Trung Quốc, khi ngoại tộc xâm lăng, non sông tan nát, đất nước đứng trước cơn nguy cấp sinh tử tồn vong, bên văn có kẻ liều thân can gián, bên võ có kẻ liều chết xông trận, người hiên ngang vì nghĩa cả, thà chết không chịu khuất cũng có; nhưng người xuất phát từ nghĩa lớn của dân tộc, xuất phát từ lợi ích tối cao của đất nước, lên nơi cao hô một tiếng, đòi phế bỏ Hoàng đế hôn dung, để chỉnh đốn lại sơn hà, đặc biệt là trong đám Nho sinh, thì thật là hy hữu như lông phượng sừng lân vậy. Chẳng hạn vào thời Bắc Tống, khi người Kim vào xâm chiếm Trung Nguyên, ở Trung Quốc có anh hùng dân tộc Nhạc Phi, có vô số trung thần nghĩa sĩ khảng khái lao mình vào chỗ chết, nhưng hiếm kẻ dám chủ trương lật đổ Hoàng đế hôn dung, giải cứu muôn dân ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, đặc biệt là trong đám Nho sinh.

Nhưng ở Việt Nam tình hình có khác. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, vua Tự Đức triều Nguyễn cắt nhượng ba tỉnh miền Nam cho Pháp, khiến người trong nước vô cùng phẫn uất. Cử nhân Phan Văn Trị thét lên: “Hãy chém đầu Tự Đức, mổ gan Tự Đức, uống máu Tự Đức”, Nho sinh trong cả nước cơ hồ đều đứng lên hưởng ứng. Đây là một nghĩa cử trong lịch sử, được người đời truyền tụng. Hành động trái ngược hẳn với tín điều trung quân này ở Trung Quốc thật khó mà tưởng tượng.

Cho nên, nếu quan niệm “trung” ở Trung Quốc nặng về phía trung quân, thì ở Việt Nam, nó lại nghiêng về phía trung với nước.

2. Về “hiếu”

Nghĩa gốc của “hiếu” là giỏi phụng sự cha mẹ, chỉ việc con cái biết phụng dưỡng, ngoan ngoãn đối với cha mẹ. Quan niệm hiếu đã ra đời theo với sự ra đời của chế độ xã hội phụ hệ và sớm trở thành quy phạm luân lý cơ bản của xã hội. Tư tưởng Nho gia mà Khổng Tử là đại diện đã nêu khá cao vị trí của hiếu trong luân lý đạo đức xã hội. Hạt nhân của tư tưởng Nho gia là “nhân”, mà biểu hiện cụ thể về mặt đạo đức của “nhân” lại chính là “hiếu”. Trong sách Luận ngữ có nói: “Hiếu đễ có lẽ là gốc của nhân chăng ! (Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư !). Tư tưởng Nho gia cho rằng không có hiếu đễ thì chẳng biết dựa vào đâu để nói về nhân. Mà nếu không có nhân, thì lễ sẽ trở thành cái xác không hồn, nhạc cũng chẳng có chút ý nghĩa. “Người mà bất nhân, thì lễ đối với anh ta liệu có tác dụng gì; người mà bất nhân, thì nhạc đối với anh ta liệu có tác dụng gì ?” (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà; nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?) (Bát dật). “Hiếu” là gốc rễ của mọi đạo đức, là điểm xuất phát của mọi giáo hóa. Sách Hiếu kinh nói: “Hiếu kia, là cái gốc của đức vậy” (Phù hiếu, đức chi bản dã). Trong tư tưởng Nho gia, hiếu là một loại tư tưởng, đồng thời cũng là một thứ hành vi, nó là nội dung cơ bản của tư tưởng “nhân” học, và cũng là quy phạm đạo đức quan trọng của Nho gia.

Hiếu không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, mà hơn thế, còn mở rộng ra đến quốc gia, xã hội, mang không ít màu sắc chính trị. Thí dụ Khổng Tử đề xướng hiếu, chính là từ gia đình mở rộng ra xã hội, từ cá nhân mở rộng đến quân vương. “Con em vào thì hiếu với cha mẹ, ra thì yêu kính mọi người, cẩn thận trong lời nói, nói ra là làm, rộng yêu thương dân chúng, gần gũi với kẻ có lòng nhân” (Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng, nhi thân nhân) (Học nhi). “Ra thì phục vụ công khanh, vào thì phục vụ cha mẹ” (Xuất tắc sự công khanh, nhập tắc sự phụ mẫu) (Tử hãn)(13). Khổng Tử cho rằng “phục vụ công khanh” và “phục vụ cha mẹ”, về nguyên tắc cơ bản cũng như về phương pháp và tinh thần là nhất trí với nhau. Người có khả năng hiếu kính đối với cha mẹ, thì tất có khả năng trung thành đối với quân vương. “Hiếu từ, tắc trung” (Vi chính) là ý như vậy. Cho nên hiếu trong quy phạm đạo đức của Nho gia chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng, trong luân lý đạo đức xã hội truyền thống cũng được đặc biệt coi trọng.

Người Việt Nam cũng nói đến hiếu. “Hai mươi bốn điều hiếu” (Nhị thập tứ hiếu) của Trung Quốc, không ít người Việt Nam đều quen thuộc, am tường. Hiếu với tư cách là một thứ luân lý đạo đức xã hội, ở Việt Nam được bảo vệ và tôn sùng có thể nói không kém mà còn hơn ở Trung Quốc. Nhưng hiếu của người Việt Nam có hai lớp nghĩa, trong đó, quan niệm về hiếu kính đối với cha mẹ của họ hoàn toàn giống như Trung Quốc. Trừ điểm đó ra, họ còn có một thứ hiếu khác, đó là lớp nghĩa hiếu đối với đất nước. Người Việt Nam gọi hiếu đối với cha mẹ là “tiểu hiếu”, và gọi hiếu đối với đất nước là “đại hiếu”.

Vào thế kỷ XV, Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải đi nơi khác. Con ông là Nguyễn Trãi (bấy giờ đỗ Thái học sinh, tương đương với Tiến sĩ của Trung Quốc) cùng em khóc lóc tiễn đưa. Nguyễn Phi Khanh bèn bảo Nguyễn Trãi: “Hãy để cho em con làm chuyện tiểu hiếu. Còn con là người có học, có tài, nên nghĩ đến việc cứu nước cứu dân để thực hiện đại hiếu, chứ đi theo cha khóc lóc ích gì ?” Đó là đoạn đối thoại giữa hai nhà nho Việt Nam, đại ý có thể hiểu là: khi mà lòng hiếu kính cha mẹ và lòng báo đền ơn nước không thể lưỡng toàn, thì nên bỏ “tiểu hiếu” để thực hiện “đại hiếu”. Điều này so với cách nói “trung hiếu không thể lưỡng toàn” của Trung Quốc thật là “dị khúc đồng công”, khúc hát tuy khác, nhưng đều hay như nhau vậy. Có điều “trung” hay “trung hiếu” trong xã hội phong kiến Trung Quốc phần nhiều chỉ “trung với vua”, còn “đại hiếu” của người Việt Nam lại chỉ lòng báo đền ơn nước. Điểm này không thể không xét đến.

3. Về địa vị phụ nữ

Như mọi người đều biết, trong xã hội phong kiến Trung Quốc, địa vị người phụ nữ vô cùng bị hạ thấp, mà nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương “trọng nam khinh nữ” (nam tôn nữ ti) trong tư tưởng Nho gia. Khổng Tử nói: “Riêng phụ nữ cùng tiểu nhân là khó dạy” (Duy nữ dữ tiểu nhân nan dưỡng dã). Đổng Trọng Thư cũng đã nói: “Âm thấp dương cao, dương quý mà âm hèn. Cái thuộc về xấu đều là âm, cái thuộc về tốt đều là dương” (Ti âm cao dương, quý dương nhi tiện âm. ác chi thuộc tận vi âm, thiện chi thuộc tận vi dương) (Xuân thu phồn lộ, dương tôn âm ti ). Ở đây, sự phân biệt giữa nam và nữ được nâng lên trình độ tuyệt đối. Cho dù người đời sau lý giải câu nói này của Khổng Tử có chỗ khác nhau, nhưng việc tư tưởng Nho gia chủ trương “nam tôn nữ ti” là điều chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa.

Quan niệm “nam tôn nữ ti” là hạt nhân trên cơ sở tư tưởng của lễ giáo phong kiến Trung Quốc. Một mớ luân lý đạo đức phong kiến trói buộc, chà đạp lên người phụ nữ đều phát sinh từ quan niệm hết sức thiếu bình đẳng này. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ Trung Quốc ở vào địa vị phụ thuộc trong sản xuất xã hội. Chế độ tông pháp lại tước đoạt địa vị chính trị và kinh tế của họ. Lễ giáo phong kiến còn quàng lên người phụ nữ đủ thứ xiềng xích về mặt tinh thần. Vì vậy mà người phụ nữ Trung Quốc trong xã hội phong kiến dài dằng dặc thời cổ đại, trước sau vẫn rơi vào địa vị phục tùng và bị chi phối; trước sau vẫn rơi vào tầng lớp thấp nhất của xã hội, trở thành những người bị ức hiếp, đáng thương, chịu đựng mọi thứ chà đạp.

Một là, lễ giáo phong kiến đóng khung tác dụng của người phụ nữ trong nội bộ gia đình, đặt họ ra bên ngoài công tác xã hội.

Hai là, lễ giáo phong kiến tước đoạt nhân cách riêng của người phụ nữ. Phụ nữ phải nghe lời nam giới, phục tùng nam giới, trước sau đều rơi vào địa vị tòng thuộc.

Ba là, lễ giáo phong kiến quy định nam nữ không được bình đẳng. Người chồng có thể năm thê bảy thiếp, nhưng người vợ chỉ được chính chuyên một chồng; người chồng có thể bỏ vợ (có “bảy điều bỏ vợ”), còn vợ thì trái lại, không thể “bỏ chồng”; chồng có thể tái lấy vợ, nhưng vợ thì không thể cải giá.

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, do bị ảnh hưởng tư tưởng “nam tôn nữ ti” của Nho gia, địa vị xã hội của người phụ nữ cũng vô cùng thấp kém. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, sinh ra một trai gọi rằng có, sinh ra mười gái cũng bằng không, đấy là câu tục ngữ mà nhà nhà đều biết, người người đều hay. “Tam tòng tứ đức” của phụ nữ, người Việt Nam nghe cũng rất quen tai. Phụ nữ không thể tham gia khoa cử, không thể làm quan, không thể tham gia các hoạt động cúng tế công cộng. Nhưng nếu so với Trung Quốc, Việt Nam vẫn có chỗ khác.

Một là, tác dụng của phụ nữ Việt Nam không đóng khung trong nội bộ gia đình. Họ có thể tham gia một số hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất kinh doanh như mở hiệu buôn, mở hàng ăn, làm xưởng gia công v.v. Việc chợ búa, buôn bán phần nhiều do phụ nữ đảm nhiệm. Đến như sản xuất nông nghiệp, càng không thể thiếu phụ nữ. Có thể nói phụ nữ Việt Nam không đứng ngoài hoạt động xã hội.

Hai là, trong gia đình, phụ nữ Việt Nam không phải tất cả đều nghe lời nam giới. Trái lại họ có quyền có tiếng nói trong công việc gia đình; đối với những việc trọng đại, cả vợ lẫn chồng đều cùng nhau bàn bạc. Do mua bán là việc của phụ nữ, nên kinh tế gia đình phần nhiều do phụ nữ quản lý.

Ba là, trong việc hôn nhân, nam nữ Việt Nam rõ ràng có bình đẳng hơn một chút. Theo quy định của bộ Luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông, nếu vợ chồng hai bên không có con cái mà chồng bỏ nhà đi 5 tháng, vợ có thể tái giá; nếu vợ chồng hai bên có con cái, chồng bỏ nhà đi 1 năm, vợ có thể tái giá”(14).

Còn một điểm nữa là quyền thừa kế của phụ nữ Việt Nam được bảo vệ. Luật Hồng Đức còn quy định khi cha mẹ qua đời, con trai và con gái đều có thể kế thừa ruộng đất. Nếu gia đình không có con trai, thì con gái thay mặt cúng giỗ cha mẹ(15).

Ngoài ra, trong xã hội phong kiến Việt Nam, phụ nữ thuộc tầng lớp xã hội nào chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia càng lớn thì sự trói buộc của lễ giáo phong kiến đối với họ càng nặng nề hơn, địa vị xã hội của họ càng thấp kém hơn. Như gia đình các hoàng tộc, quan lại, Nho sĩ chẳng hạn. Còn phụ nữ trong các gia đình bình dân do chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia tương đối ít, nên sự trói buộc của lễ giáo phong kiến đối với họ cũng tương đối ít.

III. Nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi (biến dị)

Như chúng ta thấy, cách hiểu của Việt Nam về “trung”, “hiếu” có những khác biệt nhất định so với tư tưởng Nho gia chính thống của Trung Quốc. Cách nhận thức của họ về phụ nữ và địa vị phụ nữ cũng thế. Những khác biệt này chính là sự biểu hiện tất yếu của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, nơi gặp gỡ của hai vòng văn hóa (văn hóa khuyên) lớn: văn hóa Trung Quốc và văn hóa ấn Độ. Vị trí địa lý đặc thù đã tạo nên bản sắc dân tộc riêng của người Việt Nam. Từ xa xưa, đặc biệt là sau khi độc lập tự chủ đến nay, ý thức dân tộc cũng như quan niệm về độc lập của đất nước đã trở thành nội dung trung tâm trong tư duy của dân tộc Việt Nam. Điều này được biểu hiện cụ thể qua sự tự ý thức về cộng đồng dân tộc (dân tộc tự ngã nhận đồng), lòng tự hào dân tộc, quan điểm về đất nước thống nhất tự cổ xưa, đặt nền độc lập của nước nhà lên trên hết v.v. Đấy là một trong những bản sắc nổi bật của văn hóa Việt Nam.

Như trên đã nói, tư tưởng Nho gia ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam, đó là điều ai cũng biết. Nhưng sau khi truyền vào Việt Nam, nó đã trải qua một quá trình bản địa hóa, cũng tức là được tiếp thụ, được hấp thu, được cải tạo. Mà nguyên tắc cao nhất của việc hấp thu, cải tạo một văn hóa ngoại lai lại chính là “để ta sử dụng, để có lợi cho ta” (vị ngã sử dụng, dữ ngã hữu lợi). Như chúng ta thấy, quan niệm “trung”, “hiếu” - nội dung chính của tư tưởng Nho gia, ở Trung Quốc là nhằm củng cố quyền uy tuyệt đối của quân quyền, phụ quyền, nhấn mạnh sự phục tùng tuyệt đối của kẻ dưới đối với bề trên, trong khi ở Việt Nam, chúng được thêm nội dung “trung với nước”. Đây chính là sự phản ánh tất yếu của bản sắc dân tộc “đặt tổ quốc lên trên hết” của người Việt Nam.

Đến như sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam trên phương diện nhận thức về phụ nữ và về địa vị người phụ nữ, cũng là thể hiện tất yếu của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Việt Nam nằm ở Đông Nam Á, văn hóa bản địa mang màu sắc Đông Nam Á. Trong lịch sử, tàn dư của chế độ mẫu quyền tồn tại khá dai dẳng ở xã hội Việt Nam, từng có quan niệm truyền thống “trọng nữ không trọng nam”. Vào thế kỷ III, khi ở Trung Quốc phụ nữ còn bị các cấm điều của chế độ phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” (con trai con gái không được phép trực tiếp trao nhận quà vật) giam chặt trong mảnh trời chật hẹp nơi khuê các, thì phụ nữ Việt Nam lại có thể “khi nhân dân hội hè, trai gái thích nhau, bèn kết thành vợ chồng” (nhân dân tập hội chi thời, nam nữ tự tương khả thích, nãi vi phu thê) mà “cha mẹ không thể ngăn cản” (phụ mẫu bất năng chỉ) ( Tam quốc chí Q.53), họ được yêu đương tự do. Đến tận thế kỷ V, ở Việt Nam vẫn còn phong tục “trọng nữ khinh nam” (quý nữ tiện nam), “phụ nữ đưa sính lễ trước để xin rể” (phụ tiên khiển sính cầu tế) ( Nam Tề thư Q.58).

Việt Nam là một nước nông nghiệp, của cải làm ra chủ yếu là lúa nước. Phương thức sản xuất lúa nước đòi hỏi phải có sự dày công, bắt buộc người phụ nữ phải tham gia phần lớn các khâu công việc. Ngoài ra, phụ nữ còn phải lo việc chợ búa, buôn bán và tham gia các hoạt động kinh tế xã hội khác. Do vậy, trong gia đình, phụ nữ Việt Nam không phải là thứ phụ dung, mà là nhân vật quan trọng tạo ra nguồn kinh tế, thậm chí đôi lúc còn là nhân vật chính. Địa vị kinh tế quan trọng của người phụ nữ trong gia đình quyết định chỗ đứng của họ không thể là tòng thuộc tuyệt đối.

Ngoài ra, từ trước đến nay, Việt Nam lâm vào cảnh chiến tranh liên miên, không lúc nào hết lo âu hoạn nạn. Đám trai trẻ phần lớn phải ra mặt trận. Các công việc gia đình như nuôi dạy con cái, phụng dưỡng người già, duy trì sinh kế, đối phó với các biến cố v.v. phần nhiều thường đặt lên vai người phụ nữ. Cảnh đời ly loạn khiến người phụ nữ Việt Nam nếm đủ mùi cay cực trong cuộc sống, nhưng đồng thời cũng làm cho họ có cơ hội gánh vác một số trách nhiệm và nghĩa vụ lẽ ra thuộc về nam giới. Qua rèn luyện, phát triển tài năng, họ tăng thêm năng lực tự lập và lòng tự tin, đồng thời cũng nâng cao địa vị của họ trong gia đình.

Do các nguyên nhân nói trên, sự ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của Nho gia ở Việt Nam không thể nào giống như ở Trung Quốc; sự trói buộc giam cầm của lễ giáo phong kiến đối với phụ nữ Việt Nam cũng không thể nào triệt để như ở Trung Quốc. Từ đó, những khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam trong việc nhận thức về phụ nữ cũng như về địa vị của người phụ nữ sẽ không còn khó lý giải nữa(16).

Tuấn Nghi dịch (17)

CHÚ THÍCH:

(1) Trong lịch sử, tên vùng cũng như tên nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Thời Bắc thuộc, từng có các tên như Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam Đô hộ phủ..., sau khi độc lập, lại có các tên như Đại Cồ Việt, An Nam, Đại Ngu, Đại Việt, Việt Nam... Chữ “Việt Nam” dùng trong bài này, nhiều trường hợp trên thực tế là để chỉ vùng đất nằm trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. (Từ đây trở xuống, các chú thích như thế này của tác giả sẽ đánh dấu bằng hai chữ viết tắt TG, để phân biệt với các chú thích của người dịch, đánh dấu bằng hai chữ viết tắt ND).

(2) Tàm Tùng: tên chúa nước Thục thời Thượng cổ (ND).

(3) Y quan văn vật: “y quan” có nghĩa là áo và mũ, tức cách ăn mặc; “văn vật” chỉ lễ nhạc, điển chương, chế độ và khí vật liên quan đến một nước (ND).

(4) Xem Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, tr.209 (TG).

(5) Quân quyền thần thụ: quyền lực của nhà vua hay Hoàng đế là do thần trao cho (ND).

(6) Tam cương ngũ thường: “tam cương” chỉ ba mối quan hệ lớn trong xã hội phong kiến, đó là quan hệ vua tôi (quân thần), quan hệ cha con (phụ tử), quan hệ vợ chồng (phu phụ); “ngũ thường” chỉ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, năm đức tính được xem là có giá trị vĩnh viễn trong xã hội phong kiến (ND).

(7) Đạo thể: thể chất của “đạo” của Lão Tử.

(8) Tính mệnh: chỉ mối quan hệ giữa “tính” ở người và “mệnh” ở trời.

(9) Cùng lý: ý nói tìm tới chỗ cùng cực của cái lý của mọi sự mọi vật (theo cách hiểu của Khổng Dĩnh Đạt) (ND).

(10) Cư kính: ý nói ăn ở với thái độ cung kính (theo cách hiểu của Chu Hy) (ND).

(11) Vi thánh: trở thành bậc thánh (ND).

(12) Câu này trích từ bài thơ Bắc sơn trong phần Tiểu nhã, sách Kinh Thi (ND).

(13) Hai câu này nguyên văn chép nhầm là “xuất tắc sự phụ mẫu, nhập tắc sự công khanh”. Khi dịch, chúng tôi dựa vào nguyên văn trong sách Luận ngữ để đính chính lại (ND).

(14), (15) Bộ Luật Hồng Đức nguyên văn viết bằng chữ Hán, vì tác giả bài viết này chưa có điều kiện xem nguyên văn, nên chỉ có thể dựa vào bản dịch tiếng Việt mà dịch lại sang chữ Hán. Xem Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, tr.240-241 (TG).

(16) Sách tham khảo (TG):

- Chu Vân ảnh: Trung Quốc văn hóa đối Nhật, Hàn, Việt đích ảnh hưởng [M]. Đài Loan: Lê minh văn hóa xuất bản xã, 1981.

- Dương Hoán Anh: Khổng Tử tư tưởng tại Việt Nam đích truyền bá dữ ảnh hưởng [M]. Bắc Kinh: Giáo dục khoa học xuất bản xã, 1987.

- Trần Ngọc Long: Hán văn hóa luận cương [M]. Bắc Kinh: Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 1993.

- Tuấn Anh (Việt Nam): Cựu tập tục - Việt Nam tín ngưỡng [M]. Sài Gòn: Khai trí thư xã, 1970.

- Phan Kế Bính (Việt Nam): Việt Nam phong tục. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1990.

- Đào Duy Anh (Việt Nam): Việt Nam văn hóa sử cương [M]. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992.

- Vũ Khiêu (Việt Nam): Nho giáo xưa nay [M}. Nxb. Văn hóa, H. 1994.

- Phan Ngọc (Việt Nam): Bản sắc văn hóa Việt Nam [M]. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1998.

(17) Dịch theo nguyên bản tiếng Trung Quốc Nho gia tư tưởng tại Việt Nam đích truyền bá phát triển dữ biến dị của Tôn Diễn Phong.

TB

THƠ LÊ KHẮC CẨN
NHỮNG NĂM 80 CỦA THẾ KỶ XIX

TRẦN THỊ BĂNG THANH

Lê Khắc Cẩn sinh năm Quý Tỵ (1833), còn năm mất thì Lược truyện các tác gia Việt Nam (1), Các nhà khoa bảng Việt Nam (2), Quốc triều khoa bảng lục (3), đều ghi là năm Giáp Tuất (1874). Nhưng nhà nghiên cứu sử học Ngô Đăng Lợi căn cứ vào chính các bài Khai bút trong Hải Hạnh thi tập đã tìm ra năm mất của Lê Khắc Cẩn sớm nhất cũng là 1889. Tuy nhiên trong Hải Hạnh thi tập còn có một bài đề là Lục thập tự thuật chép trong chùm thơ làm năm 1882. Nếu người sao chép không lầm lẫn thì hoặc là Lê Khắc Cẩn sinh năm Quý Mùi (1823), hoặc là ông mất năm Quý Tỵ (1893) ? Đây là một vấn đề cũng cần tìm hiểu thêm trong tiểu sử Lê Khắc Cẩn. Ngoài ra trong Hải Hạnh thi tập cũng có những bài có thể nêu nghi vấn về văn bản hay về tiểu sử một vài nhân vật, như bài Làm thay các quan tỉnh tiễn Trần đại lão về hưu (số 30) và bài Họa thơ mừng thọ Hiệp biện Đại học sĩ hưu trí Trần Trọng Cung 80 tuổi (số 90) liên quan đến tuổi tác và năm mất của Trần Trọng Cung cũng cần được thẩm định.

Lê Khắc Cẩn đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Tuất (1862), mới ba mươi tuổi, cũng là người thành đạt sớm. Ông được vua Tự Đức yêu mến đổi tên cho, lại giữ làm việc ở những cơ quan gần vua như Viện Tập hiền, Tòa Kinh diên, sau đó mới chuyển đi làm Tri phủ, án sát, rồi Bố chính. Lê Khắc Cẩn chứng kiến gần trọn nửa sau thế kỷ XIX, thời kỳ đất nước gặp nhiều gian truân, tác động mạnh mẽ đến con đường lập thân và thử thách nhân cách kẻ sĩ. Không rõ ông có về hưu hay không nhưng khoảng những năm tám mươi của thế kỷ XIX ông sống ở vùng hồ Trúc Bạch, Hà Nội. Những bài thơ ông sáng tác trong thời gian này được PGS. TS. Trần Bá Chí tuyển dịch trong Thơ văn Lê Khắc Cẩn(4), khoảng một trăm bài, chủ yếu là thơ tặng đáp. Đối tượng được nhắc đến trong các bài thơ đó chủ yếu là quan chức, các nhân vật trọng yếu đương thời, như án sát họ Nguyễn, Tuần phủ họ Vũ, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Gia Bích, Quyền Đốc học Bắc Ninh Tô Ngọc Nữu, ông nghè Giao Cù Vũ Hữu Lợi, Khâm sai đại thần Trần Đình Túc, Bùi Văn Dị, Đặng Xuân Bảng, Nguyễn Thuật, Tổng đốc Hoàng Diệu, Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San, Trần Trọng Cung, Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải và cả Vũ Văn Báo, người về sau đã tham tiền phản bạn, lập kế bắt Vũ Hữu Lợi nộp cho giặc Pháp lấy thưởng. Có lẽ phải nói ngay rằng ở những bài thơ này, do tính chất giao đãi, thù tạc, có khi phải ứng đối ngay trong bữa tiệc (“tức tịch”)... cho nên về nghệ thuật cũng không có nhiều đóng góp mới, tuy nhiên chúng lại rất có ý nghĩa. Trước hết nó cho thấy sự phân hóa của tầng lớp nho sĩ văn thân đương thời. Họ đều xuất thân khoa bảng, ít ra cũng đỗ Phó bảng, Cử nhân, đều là bạn bè và đồng sự của Lê Khắc Cẩn. Vì lẽ đó, cho đến khoảng 1884-1885, ông vẫn chia sẻ buồn vui cùng họ. Mỗi khi họ đỗ đạt, được trao trách nhiệm quan trọng, họ có chuyện vui, được thăng chức... Lê Khắc Cẩn đều có thơ mừng, ví như: trên tiệc tặng Cử nhân họ Nguyễn ở Thịnh Liệt mở tiệc đầy tháng cho cháu trai; mừng Nguyễn Gia Tích được sắc thực thụ chức Bố Chính Hà Nội; họa thơ mừng Tổng đốc Hoàng Cao Khải; mừng Đốc đường Nguyễn Hữu Độ; tặng Vũ Văn Báo đến Nam Định nhậm chức Bố chính; mừng Đặng Đình Tuân đỗ Cử nhân và năm sau tiễn Đặng đi thi Tiến sĩ; tặng tân khoa Cử nhân bản tỉnh... Mỗi khi có ai đi nhận chức mới được về kinh, được cử đi sứ nhà Thanh, một công việc liên quan đến những vấn đề lớn của quốc gia, ông đều có thơ tiễn. Ví như tiễn Chánh sứ Nguyễn Thuật đi sứ nhà Thanh, tiễn Vũ Hữu Lợi vào kinh, mừng Bùi Văn Dị thăng Tham tri Bộ Lại, tiễn án sát Nguyễn Hữu Độ..., Lê Khắc Cẩn đều gửi gắm và nhắn nhủ nhiều ở họ. Ông hy vọng Nguyễn Hữu Độ, với một cương vị quan trọng - coi sóc ba thừa tuyên, sẽ đem lại yên vui, phồn thịnh cho dân một vùng biên rộng lớn và cũng bày tỏ lòng lưu luyến của những người ở lại:

Khẳng khái hành biên sớ lũy trần,
Tam tuyên sứ mệnh tiết mao tân.
Thanh sương, Tử điện gia binh lược,
Ngọc diệp kim chi quốc thế thần.
Cao vũ cửa chiêm đào lý địa,
Hòa phong biến tác cốc nhai xuân.
Trường đình tổ tiễn xu bồi hạ,
Già lộ nan câm quách ngoại dân.

Dịch nghĩa:

Nhiều lần khảng khái dâng sớ về việc biên giới,
Nay được trao sứ mệnh mang cờ tiết làm Phó sứ Tam tuyên.
Kiếm Thanh sương, Tử điện, vốn dòng dõi nhà tướng,
Lá ngọc cành vàng, vào hàng thế thần quốc gia,
Mưa mầu mỡ thấm đất đào lý đã lâu,
Gió nhân hòa thổi hương xuân khắp hang sâu núi thẳm.
Xin theo lệ làm lễ tiễn đưa đến trường đình,
Khó mà ngăn nổi dân ngoài thành chắn đường níu giữ.

Ngay cả Vũ Văn Báo trước khi thực sự làm tay sai cho thực dân Pháp, Lê Khắc Cẩn vẫn chờ mong những chính tích tốt ở một tay Bố chính giỏi, bởi vì cục diện chính trị Bắc Bộ lúc đó đang nhiều bối rối. Phong trào Cần vương còn bồng bột mà Nam Định cũng là một “điểm nóng”, Hà Nội đã thất thủ lần thứ hai, hòa hay chiến vẫn còn là sự bất đồng ý kiến trong triều đình. Lê Khắc Cẩn không nói rõ quan niệm của ông về chính tích tốt là thế nào, nhưng ông vẫn coi Vũ Văn Báo là một nhà chiến lược:

Trù biên lâu hạ hựu phùng kim,
Đắc tiện Nam phong tống hạc cầm.
Cục sự tương khan Hà thủy trọc,
Hoạn tình thiên khủng Vị giang thâm.
Cửu trùng đặc giản hàm tân mệnh,
Nhất phiến tiên ưu bão túc tâm.
Quân tử tế thời thi hữu chính,
Lão do phù trượng vọng giai âm.
(Tiễn Hà Thương Vũ công tuân chỉ phó Nam phiên).

Dịch nghĩa:

Dưới lầu trù biên(5) ngày nay lại gặp,
Được gió nam thuận tiện đưa ông đến nhiệm sở.
Thời cuộc, xem ra sông Nhị Hà đục,
Cảnh tình quan trường, riêng e sông Vị sâu.
Chín trùng đặc ân ban sắc mệnh mới,
Một tấm lòng “lo trước thiên hạ” ôm ấp từ lâu.
Bậc quân tử phải có chính sách để thi hành,
Lão tôi còn được chống gậy chờ tin tốt lành.
(Tiễu Thương biện họ Vũ đi nhậm chức Bố chính Nam Định).

Ông cũng tỏ ra rất tin tưởng ở Nguyễn Hữu Độ:

Vạn lý cô phàm thiên ngoại quy,
Vĩ nhân khí nghiệp tối hy kỳ.
Thần tâm tự tích đông tây mệnh,
Cục sự như kim Tả Hữu kỳ.
Trung tín ba đào phương thốn định,
Kinh luân thời tiết chích thân chi.
Nam minh khởi kiến thùy vân dực,
Ly yến vô tình khủng vị tri.
(Thừa Nguyễn đại nhân họa Niết đài tiễn thi).
< /p>

Dịch nghĩa:

Cánh buồm lẻ loi từ ngoài muôn dặm trở về,
Sự nghiệp của vĩ nhân rất hiếm hoi kỳ lạ.
Từ xưa tấm lòng kẻ bề tôi là đi đông đi tây theo mệnh vua,
Còn thế cuộc ngày nay chỉ là chuyện Tả Kỳ và Hữu Kỳ.
Trong sóng gió tấm lòng trung tín vẫn kiên định,
Với thời tiết đổi thay một thân gìn giữ kinh luân.
Đã thấy cánh chim bằng rợp mây bay trên bể Nam,
Con chim yến bên bờ rào vô tình e không hiểu được.
(Vâng lệnh Tổng đốc Nguyễn đại nhân họa thơ tiễn án sát).

Trong bài thơ tiễn trên Lê Khắc Cẩn có nói đến Tả Kỳ và Hữu Kỳ, coi đó là “thế cuộc ngày nay”. Có thể câu này Lê Khắc Cẩn nói bóng gió đến tầm nhìn thiển cận của nhà Nguyễn hay thực trạng bi đát của đất nước ? Bấy giờ Nam Kỳ và Bắc Kỳ đều đã lệ thuộc Pháp, nhà Nguyễn chỉ còn chủ quyền một dải Trung Kỳ gồm Hữu Kỳ (từ Thanh Hóa đến Quảng Trị), Tả Kỳ (từ Quảng Nam đến Bình Thuận) và kinh thành Huế. Ông hy vọng những nhân vật “kỳ tài” như Nguyễn Hữu Độ đã cất cánh chim bằng, may chi có thể làm thay đổi cục diện chính sự đương thời. Với Hoàng Cao Khải ông cũng tin tưởng nên đã ngỏ lời trách khi Hoàng đang giữ chức Tri phủ Thọ Xương lại xin về quê giữa lúc Hà Thành bị bao vây bởi “mây mù khí độc”:

Cộng đạo thác bàn nhu lợi khí,
Na tri chỉ cức viễn linh cầm.

(Cùng nói rằng trong lúc khó khăn phải cần đến bậc dao sắc,
Nào ngờ nơi gai góc lại làm cho con chim khôn lánh xa).
(Tiễn Tri huyện Thọ Xương Hoàng Cao Khải xin về quê).

Có thể là Lê Khắc Cẩn cũng chưa lường trước được con đường đi của các đồng sự của mình, nhưng nhìn chung đối với giới quan chức ông luôn mong đợi ở họ sự liêm cần, thanh sạch, hữu ích cho dân. Trong những bài thơ thù tạc, ông thường dùng những nhóm từ ngữ, những điển cố thể hiện ý đó, như: cầm hạc, bàn thác, lợi khí, hư đường, hiếu thiện, tự tín, cần năng, thần tâm tử đạo... Những điển cố, từ ngữ đã quá quen thuộc, nhiều khi trở thành sáo ngữ nhưng Lê Khắc Cẩn đã sử dụng chúng với những yêu cầu và nội dung xác thực. Riêng đối với những người đã đến tuổi và được vua cho nghỉ hưu, Lê Khắc Cẩn ân cần đưa tiễn và thường đằm thắm trong quan hệ giao du. Ông mừng họ thỏa mộng ước vui thú điền viên, được nhàn tản và tránh được mọi sự phiền toái nơi quan trường; nhưng mặt khác, đôi khi ông lại tỏ ra bâng khuâng và tiếc. Điều đó dường như mâu thuẫn, nhưng lại cũng là tình cảm thực, bởi nghỉ quan là lệ đối với những người tuổi đã cao, sức đã yếu, tài đã cạn, đất nước không trông mong được gì, và dù có còn tài sức cũng không thuận tiện về danh vị và điều kiện để thi thố. Thế mà vào thời điểm đó đất nước chưa hẳn đã không cần đến những thứ gừng quế càng già càng cay như họ. Trần đại lão (tức Trần Trọng Cung?) về hưu, Lê Khắc Cẩn cũng đã có những tình cảm như vậy:

Thất thập huyền xa phản cố viên,
Long Biên hựu thử lý xung phiền.
Nhất phương tĩnh nạn thương sinh vọng,
Lưỡng độ hồi hưu thánh chủ ân.
Quy mộng đốn tinh tùng cúc kính,
Biệt tình thiên hệ lý đào môn.
Sổ thanh phong địch quan san nguyệt,
Ẩn ẩn dư tình bất tân ngôn.
(Đại nghĩ tỉnh thuộc cung tiễn Trần đại nhân hưu trí).

Dịch nghĩa:

Bảy mươi tuổi treo xe về vườn cũ,
Đất Long Biên lại là vị trí quan trọng và nhiều việc bối rối.
Dân chúng một vùng trông mong người dẹp nạn,
Thánh chúa hai lần đặc ân cho nghỉ hưu.
Giấc mộng trở về chợt tỉnh nơi ba luống tùng luống cúc,
Lòng lưu luyến khi chia tay bối rối chốn cửa mận cửa đào.
Văng vẳng mấy tiếng sáo trúc, trăng quan hà xa xôi,
Tình vương vấn ẩn chứa trong lòng nói không hết.
(Làm thay các quan tỉnh tiễn Trần đại lão về hưu).

Song dẫu sao đối với những người đã “thoát vòng cương tỏa”, quý nhất vẫn là sống nhàn vui, giữ được nhân cách thanh cao, khí tiết vững vàng và đạt được điều “tôn” thứ ba của thiên hạ: tuổi thọ. Dường như trong số bạn bè của Lê Khắc Cẩn có người cũng đạt được niềm vui và vinh dự nho nhỏ đó trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước cũng như của Hà Thành lúc đó:

Cầm thư kỷ độ lịch phong trần,
Sái lạc hung hoài bão nhất chân.
Nhàn duyệt tuế hoa chu lịch giáp,
Tiết phùng thọ tửu chước tam xuân.
Đạt tôn dĩ tự hương trung xỉ,
Đãi sính ưng tàng tịch thượng trân.
Thả dục dữ ông kỳ tác hội,
Giang san mi mấn cánh tương thân
(Hạ Từ Đông lão hữu
Phan Chí Phủ lục thập thọ).

Dịch nghĩa:

Đã mấy phen đèn sách trải nhiều gió bụi,
Nay lòng trần đã thanh thản ôm giữ cái thiên chân.
Thư thả đếm năm tháng thấy mình đã tròn sáu chục,
Gặp tiệc rượu thọ rót chén rượu ba xuân.
Trong ba điều tôn quý, đã được xếp hạng trung thọ trong làng,
Đối chiếu với lệ đãi ngộ thì đã vào hàng chiếu trên.
Lại muốn cùng ông vào Hội kỳ lão,
Núi sông râu tóc lại có dịp gần gũi nhau.
(Mừng bạn già Phan Chí Phủ người Đông Ngạc, Từ Liêm sáu mươi tuổi).

Và chính Lê Khắc Cẩn cũng có lúc tìm được sự thanh thản ấy trong thời gian ông sống ở vùng hồ Trúc Bạch, mặc dù những phút giây như vậy có thể không nhiều trong những năm tháng này:

Nguyên triêu thụy khởi vũ sơ qua,
Tiễn tiễn khinh phong chính thược trà,
Xuân sắc mãn tiền khan bất yếm,
Nhất hồ thúy trúc nhất viên hoa.
(Đinh Hợi nguyên đán thí bút).

Dịch nghĩa:

Đầu xuân tỉnh giấc trận mưa qua,
Gió thổi hiu hiu thơm ngát trà.
Khắp chốn sắc xuân nhìn chẳng chán,
Một hồ trúc biếc một vườn hoa.
(Khai bút đầu năm Đinh Hợi (1887). Trần Bá Chí dịch)

Theo các nhà sử học, Lê Khắc Cẩn “luôn luôn đứng về phe chủ chiến, chống lại bọn thực dân Pháp”, là người “thực lòng yêu nước thương dân, muốn làm hết mọi việc khi sức khỏe còn cho phép” (Lời mở đầu sách Thơ văn Lê Khắc Cẩn). Phẩm chất và ý tưởng ấy của ông có dịp bộc lộ nhiều trong các tập thơ, và văn, viết trong thập niên tám mươi tuy không nói được nhiều nhưng cũng thể hiện được khá rõ nét tâm sự ấy của ông. Có lẽ thời gian này Lê Khắc Cẩn không còn tham gia chính sự nữa, trước mọi sự biến của Hà Thành ông nhìn nhận với cách nhìn của người dân và chia sẻ hoạn nạn với dân. Trong thơ ông thể hiện nỗi thấp thỏm lo âu vì đất nước đang bị họa xâm lăng đe dọa. “Thăng Long đã mấy lần xảy ra chiến trận” (Kỷ độ nhung trần cách ngạn biên - Họa vần bài thơ “Chơi xuân đền Ngọc Sơn say đề” của Phác Ông); “Quân Pháp lại đánh thành Nam Định” (Dương phiên cánh phục hạ Nam Thành - Xảy ra việc tháng hai, làm thơ dâng Tổng đốc Nguyễn đại nhân); “Trên sông hỏa thuyền lớn rẽ sóng ào ào, hàng chục ngày chẳng được tin tức gì (Hà thượng phân phân đại hỏa thuyền, Kinh tuần tiêu tức cánh mang nhiên - Gửi Nguyễn đường trước làm Tri huyện Hàm Yên, nay làm văn phòng cho quân thứ). Bản thân ông cũng chịu cảnh trôi nổi ly tán thiếu thốn, tài năng chẳng giúp ích được gì: “Suốt dọc đường trôi dạt như cánh bèo, đáng thương chưa dừng lại được, hai mươi năm kiêm văn gồm võ, đáng cười không nên việc gì (Nhất lộ bình bồng liên vị định, Trấp niên thư kiếm tiếu vô thành - Trên tiệc họa nguyên vần bài “Đêm mùa hạ cảm hoài” của Phác Ông); “Căn nhà vắng tanh chỉ làm bạn với hai đứa hầu nhỏ, qua lại duy có một Tử Chi” (Tịch mịch u trai bạn lưỡng đồng, Vãng lai duy hữu Tử Chi ông - Cả nhà lánh nạn trước, ở lại một mình ngẫu nhiên làm thơ gửi Phác Ông). Lê Khắc Cẩn ở lại một mình nơi Giang Thành trong loạn lạc không được lâu, rồi ông cũng phải xách nón ra đi, nay Đại Từ, mai Chi Nê Nội... mà không kịp từ biệt bạn bè. Có khi chỉ trong vài ngày mà ông phải dời chỗ đến mấy lần, “Ngày 2 tháng 5 (Giáp Thân 1884) tôi từ Phượng Dực về nhà, ngày 8 gặp Phác Ông. Nhân đó ông mời tôi về quê ông ở làng Tử Nê, huyện Tiên Du. Ngày 12 tôi tới Chi Nê Nội trú nghỉ” (Lời chú thích bài Dời đến xã Chi Nê Nội gửi Phác Ông)... Người sống đã vậy, trong tình hình mới của đất nước, người chết cũng không được yên. Năm Bính Tuất (1886), nhân làm đường, nhiều ngôi mộ phải dời đi trong tình trạng gấp gáp rất đáng thương tâm:

Cựu trủng tân oanh tự bố kỳ,
Lộ bàng khai phá sử nhân bi.
Vạn trùng khô cốt ân nan cập,
Thiên cổ thương tâm sự dị vi.
Lệnh cấp phong lôi hoàng kế thực,
Công cần nhật dạ diệc vong ky.
Tịch dương nha thảo hồ biên thụ,
Điểm kiểm phong đề bất nhẫn phi.
(Thứ nguyên vận Tĩnh Đạo Tô Ông kiến ký).

Dịch nghĩa:

Mộ cũ, mộ mới bày la liệt như bàn cờ,
Việc khai phá bên lề đường khiến người ta đau lòng.
Ơn vua thấm đến vạn bộ xương khô thì khó,
Nỗi thương tâm đối với nghìn xưa là việc dễ làm.
Lệnh truyền gấp gáp như sấm như gió, vội đến không kịp ăn,
Công việc làm mải miết ngày đêm quên cả đói.
Buổi chiều đàn quạ kêu rộn trên cây ven hồ,
Cầm phong thơ đề ngần ngừ không nỡ mở.
(Họa vần bài thơ Tô Ông Tĩnh Đạo gửi cho).

Từng là người có chức trách với dân chúng, lại chứng kiến cảnh khổ cực của dân trong những ngày gió bụi, chứng kiến tội ác của quân xâm lược, Lê Khắc Cẩn đã có một thái độ khá dứt khoát đối với người Pháp. “Nghe tin Sứ Pháp đến sứ quán” (Văn Dương sứ để quán), Lê Khắc Cẩn tỏ nỗi căm hận:

Lao khổ sa trường kỷ tuyết sương,
Tọa khan lỗ sứ đạt Minh đường.
Cánh vô kê áp sung trường trác,
Ninh hữu quan thường giảo quỷ trang.
Khổn ngoại lục quân hoàn đối lũy,
Chu trung nhất giới dĩ lai vương.
Vị ưng quốc kế cùng hòa học,
Thả vị sinh linh trí quỷ phương.

Dịch nghĩa:

Đã mấy tuyết sương lao khổ nơi sa trường,
Thế mà phải ngồi nhìn sứ giặc vào nhà Minh đường.
Đã không có gà vịt để cung cấp cho cái mỏ dài của bọn chúng,
Đành đem áo xiêm đối trọi với loại “giả trang”.
Ngoài cõi sau quân còn đối lũy chiến đấu,
Trong thuyền một kẻ trung trinh cũng dễ lại chầu vua.
Chưa nên nói kế sách quốc gia đã hết đường chỉ vì còn cách hòa,
Hãy vì dân sinh mà tìm ra kế hay để đối phó với Tây dương.
(Nghe tin Sứ Pháp đến sứ quán).

Lê Khắc Cẩn cầu mong Pháp sẽ bị đánh thua, phải rút chạy. Và ông rất xót xa khi từng miền của đất nước bị rơi vào tay giặc. Ông nghĩ đến biên thùy phía Nam mà “nước mắt chảy tràn”. Ông nghĩ việc nghị hòa là do các bậc thày, bậc trưởng, còn chiến thư thì không thoát khỏi tay của đạo Nho lúc này “Đạo Nho cùng hay thông, năm tháng cứ tuần tự qua, bận hay nhàn thì có làm gì được trong thời thế này” (Ngô đạo cùng thông tuế tự qua, Mang nhàn tranh nại thử thời hà - Tết Đoan Ngọ uống rượu một mình nhớ Chi Lân). Song dù vậy ông vẫn trông chờ những tài năng kinh bang tế thế trong đám đồng sự của ông và càng kính trọng, thương xót những người đã quyên sinh vì đất nước. Hà Thành thất thủ, Hoàng Diệu tuẫn tiết, ông không ngại hiểm nguy “Khóc trước mộ Tổng đốc Hoàng Diệu”:

Nhị Hà yên khởi trú trầm trầm,
Nhất phiến cô thành nhất phiếm tâm.
Chuyên khổn cơ nghi thần chức phận,
Toàn gia vinh lộc chúa ân thâm.
Tử sinh nghĩa mệnh duy thiên địa,
Thành bại anh hùng tự cổ câm (kim).
Khả thị học đường trung thấn cốt,
Thiên thu tráng khí tác nho lâm.
(Chế đài Hoàng tướng công mộ tiền khóc).

Dịch nghĩa:

Sông Nhị Hà khói lửa, ban ngày mà nặng nề,
Một mảnh thành lẻ loi, một tấm lòng son.
Tướng ngoài khổn tự ứng phó mọi tình huống, đã hết sức bề tôi,
Vinh lộc của cả nhà là ơn sâu của chúa thượng.
Sống hay chết, nghĩa hay mệnh đều do trời đất,
Xưa nay chớ đem sự thành bại mà luận anh hùng.
Bộ xương người anh hùng đáng được quàn trước nhà học,
Nghìn năm tráng khí vẫn sừng sững nơi rừng nho.

Trong những bài thơ mang tính thời sự của Lê Khắc Cẩn. Khóc trước mộ Tổng đốc Hoàng Diệu là bài hay nhất. Giọng thơ bi hùng mà tình cảm sâu sắc, chữ nghĩa bình dị mà chọn lọc tinh. Bài thơ vừa bày tỏ được lòng kính trọng tiếc thương người anh hùng nhưng cũng ngậm ngùi vì tình thế khó bề cứu vãn.

Thơ Lê Khắc Cẩn không nhiều nhưng cũng không phải quá ít. Ông làm thơ chữ Hán vào thời điểm mà Nho học và văn học nhà Nho cũng không còn thịnh vượng, đang dần đi vào thế bế tắc. Khó có thể đòi hỏi ông có những đóng góp gì nhiều về mặt nghệ thuật, song đó là bộ phận văn học theo sát tình hình thời sự. Chẳng những qua đó người đọc có thể thấy được phần nào hiện tình của đất nước mà còn có thể hiểu được sự phân hóa, trạng thái tư tưởng và nhân cách tầng lớp kẻ sĩ một thời. Họ là những đồng môn, đồng sự của nhau nhưng rồi cũng chia lìa, “tan đàn sẻ nghé”, mỗi người tự chọn cho mình một con đường, tự quyết lấy một thái độ chính trị và sẽ chịu sự phán xét của lịch sử.

Tuy nhiên, một chặng đường thơ mười năm chưa thể tiêu biểu cho cả một sự nghiệp sáng tác, hơn thế nói thơ Lê Khắc Cẩn không có đóng góp gì thêm nhiều về nghệ thuật không có nghĩa là thơ ông không có đặc sắc riêng. Nét riêng đó trội lên ở chất trào phúng, tự trào nhẹ nhàng. Nó đem lại một chút thư tâm, an ủi, khích lệ lòng người trước những vấn đề bế tắc “đáng chán” của thời cuộc. Nó góp phần tạo dựng dần dòng trào phúng trong thi ca Việt Nam.

T.T.B.T

CHÚ THÍCH:

(1) Lược truyện các tác gia Việt Nam, (tập 2). Trần Văn Giáp chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1962, 1972.

(2) Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993.

(3) Quốc triều khoa bảng lục, dẫn theo Ngô Đăng Lợi.

(4) Thơ Lê Khắc Cẩn. Nxb. Hải Phòng. 2003. Thơ dẫn trong bài chúng tôi đều dẫn theo sách này, trong trường hợp cần thiết, có hiệu chỉnh lại bản dịch.

(5) Lầu trù biên: Ngôi nhà do Lý Đức Dụ đời Đường xây dựng, bốn bên vách đều vẽ bản đồ các vùng biên, hàng ngày vạch kế sách đánh giữ... Đây chỉ nói kế sách đánh giữ đất nước lúc bấy giờ./.

TB

TỤC LỆ Ở PHỐ CHỢ KIM NGÂN

ĐINH KHẮC THUÂN

Phố chợ Kim Ngân xưa còn gọi là phố Hàng Bạc, một trong ba mươi sáu phố phường của Hà Nội cổ, vốn là tên phố chuyên nghề vàng bạc, nay thuộc phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện nay phố này còn có đình Kim Ngân ở số nhà 50, từng là ngôi đình chung của phố, hiện đang bảo lưu được nhiều di văn Hán Nôm quý giá. Trong đó tiêu biểu là tài liệu về tục lệ của phường thợ kim hoàn được soạn vào năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794) dưới thời Tây Sơn, sau đó được bổ sung và in lại vào đầu thời Nguyễn. Đây là một trong số ít tài liệu tục lệ được khắc in có niên đại khá sớm ở Thăng Long, nhất là tục lệ của phường thợ nghề. Tài liệu này chưa có trong kho sách Hán Nôm và các thư viện khác ở Hà Nội. Vì vậy chúng tôi thiết nghĩ nên tóm lược giới thiệu đặc trưng của văn bản và nội dung chính của nguồn tư liệu tục lệ này cùng bạn đọc.

1. Nội dung văn bản:

Tài liệu gồm hai bản, bản thứ nhất viết tay, gồm 22 trang, đóng thành quyển, có dấu giáp lai hình chữ nhật, trong khắc chữ triện có lẽ là dấu của Lý trưởng; bản thứ hai, khắc in, gồm 44 trang, khắc in tục lệ được biên soạn bổ sung và san lập lại vào năm Minh Mệnh 6 (1825) và năm Thiệu Trị 3 (1843). Cả hai văn bản đều có chữ “cửu” viết dưới dạng chữ húy: đổi bộ và thêm ba dấu nháy ở đầu. Thực chất chữ húy này vốn là chữ huý thời Lê, song vẫn được quen dùng ở thời Tây Sơn. Khi điều ước được san cải và khắc lại dưới thời Nguyễn, thì chữ viết trên vẫn được giữ nguyên như ở bản thời Tây Sơn. Tổng số có 58 điều ước, trong các điều ở bản in phần lớn trùng với bản viết tay năm Cảnh Thịnh 3 (1794). Nội dung của các tục lệ phố Kim Ngân này xin được dịch tóm tắt như sau:

Các điều 1, 2, 3 liên quan đến lệ cúng giao thừa và tết nguyên đán ở đình, như định lệ lễ phẩm cúng giao thừa gồm cau trầu 100 miếng, chuẩn giá tiền 1 mạch 40 văn, rượu tinh khiết 1 chai chuẩn giá tiền 18 văn.

Điều thứ 4, tiết khai hạ, dâng lễ gồm 1 con lợn, xôi 1 mâm, giấy tiền 100 tờ, cau trầu 100 miếng, rượu 1 chai chuẩn giá tiền 5 quan (khi khá giả thì không theo lệ này).

Điều thứ 5, 6, 7, 8 và 10 liên quan đến lễ nhập tịch mồng 2 tháng 2, như việc chọn người bài trí đồ tế khí, túc trực đêm ngày tại đình.

Điều thứ 9, 11, 12, 13, 14 và 15 liên quan đến việc hát cửa đình vào dịp nhập tịch tháng 2. Giáp bàn ngồi ở giữa, từ trùm bàn trở xuống chiếu thứ tự ngồi từ phải qua trái, phân biệt tôn ti cao thấp để giữ nghiêm. Lệ có nhất canh nhất điểm. Người vắng bị phạt tiền cổ 3 mạch, còn người có tiểu cố, đại tang thì ngồi chỗ riêng. Kiểm soát trong ngoài đình, nhưng không o ép trên dưới để cùng vui vẻ. Hoặc biện cỗ bàn, định từ trùm bàn trở xuống thay nhau biện lễ cho đến kết thúc.

Điều thứ 16, 17 lệ cầu phúc hàng năm (vào ngày 12 tháng tứ trọng: tháng 2, tháng 5, tháng 8, tháng 11), bản phố chiếu cấp từ trùm bàn trở xuống đến nam nữ ngoài phố và người miễn quan dịch, mỗi suất 2 mạch cổ tiền, đương trưởng dự liệu 10 ngày trước thu đủ số. Nếu còn thiếu thì đương trưởng trình bản phố ứng cho đủ, ai thiếu vắng thì bắt phạt 1 con gà giá tiền 3 mạch. Bản phố chiếu cấp tiền để tùy ý mua sắm lễ phẩm, gồm lợn 1 con chuẩn giá tiền 5 quan, gạo nếp chuẩn tiền 6 mạch (khi lễ lớn thì không theo lệ này), cau trầu 100 miếng chuẩn giá tiền là 1 mạch 40 văn, do đương trưởng thu; rượu tinh khiết 1 chai chuẩn giá tiền 18 văn. Hôm đó đương trưởng thông báo trên dưới tề chỉnh mũ áo, hành lễ, không bắt buộc người có sự cố nhỏ. Ai vắng mặt bị phạt tiền 1 mạch. Lễ xong, từ bàn thứ ba trở xuống chia đều, số còn lại làm cỗ.

Điều thứ 18, 19, 20 và 21 nghi thức các tiết lễ hàng năm bốn mùa tám tiết, lễ dâng xôi gà, cau trầu 60 miếng, rượu 1 chai, chân lợn 1 đôi, mỗi lễ chuẩn giá tiền 1 quan (tiết thanh minh tháng 3, ngày 8 tháng tư, đoan dương tháng 5, trung nguyên tháng 7, trung thu tháng 8, trùng cửu tháng 9, trùng thập tháng 10, mồng 2 tháng 12), duy tiết thường tân hoặc lễ ngày 9 tháng 8 chuẩn tiền 3 mạch. Lễ thổ địa 1 bộ áo mũ khăn đai, giá tiền 3 mạch, cau trầu tinh khiết 60 miếng, rượu 1 chai 18 văn. Lễ do cựu trưởng chỉnh biện theo như lệ.

Điều thứ 22, 23 và 24 liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người trong phố chợ, như nhà nào có con cháu thành gia thất, người buôn bán trong nghề phường nếu là nhiêu nam thì miễn các tạp dịch 1 năm, mãn hạn thì bản phường chiếu khoán cho nhập bạ tịch, cha truyền con nối vào phường nội, chịu sưu dịch, nếu không sẽ ra dân ngoại cư. Người nào khinh mạn, làm trái đi sẽ bị bắt phạt và chịu tiền tổn phí. Hoặc trong phố chợ người nào có con cháu đã thành gia thất, thì phải chịu quan dịch, còn gia đình có người thành danh trong việc học tập thì tạm hoãn quan dịch, cho nạp tiền thay thế theo kỳ hạn. Hàng năm vào tháng tư nạp tiền 6 mạch, nếu học hành không thành, thì tái thu quan dịch theo lệ. Lại quy định rằng trong phố chợ người nào có con cháu đã có gia thất, lại theo nghề của phường thì tiền thuế, quan dịch 1 năm sau sẽ chiếu bổ vào sổ bạ bản phường nạp 1 quan, cau trầu 100 khẩu chuẩn giá tiền 1 mạch 40 văn, được ngồi ở dưới thứ bàn. Người đó dù tuổi nhiều, cũng không vượt quá hàng thượng thứ hoặc tam tứ, được ngồi theo thứ bậc của cha đẻ, còn như con dể cháu dể, con nuôi được dân xã xác nhận đã theo lệ nạp tiền 1 quan 2 mạch, cau trầu đủ lệ thì cũng được vào ngồi. Người ngoài không được xác thực thì dừng việc buôn bán. Như vậy để phân biệt người khinh kẻ trọng.

Điều thứ 25, 26, 27, 28 và 29 liên quan đến ngôi thứ trong đình, như người được tôn bầu làm trưởng lễ, sắm lễ gồm xôi gà cau trầu 60 miếng, rượu 1 chai, chân lợn 1 đôi chuẩn giá 1 quan tiền dâng đến đương trưởng, trước 10 ngày có tờ trình xin viên thủ bạ chọn ngày tốt tôn bầu trưởng theo lệ. Lệ từ thứ sang làm trưởng, từ trùm cự bàn đệ tứ viên trở xuống kế tiếp luân phiên đến hết thì lại quay trở về đầu. Mỗi trưởng đảm nhận 3 tháng, không kể tháng nhuận, mỗi năm có 4 vị trưởng, khi mãn hạn được 30 ngày sắm lễ 1 thủ lợn, xôi cau trầu 60 miếng, rượu và chân lợn 1 đôi chuẩn tiền 1 quan 2 mạch. Lễ tạ thì sắm 100 khẩu cau trầu. Đương trưởng nhận và thông báo cho bản phường hành lễ. Sổ bạ ghi chép, tính toán đầy đủ (lệ có điểm số hễ ai thiếu trừ người có đại tang, tiểu cố, thì mỗi viên bị phạt 36 văn tiền). Chiếu bổ từ trên xuống dưới chi tiêu, đều vào sổ bạ, cấp tiền giấy mực trong 3 tháng là 3 mạch. Lại hứa cấp gạo ngon, rượu giá cổ tiền 3 mạch.

Điều thứ 30, 31, 32, 33, 34, 35 và 36 liên quan đến khao vọng, như viên nào luân phiên thăng giáp bàn lên đệ nhất viên có lễ cáo yết gồm xôi gà cau trầu. Lễ phẩm kính biếu bản phường. Bản phường họp định viên nào từ thứ hạng luân lưu thăng lên giáp bàn, cùng đệ nhất viên chưa mãn hạn hương ẩm của bản phường mà luân lưu thăng lên đến đệ nhị thứ viên, thì nạp đơn xin bản phường chiếu xét theo khoán lệ. Cho luân lưu thăng lên giáp bàn đệ nhất. Nếu viên nào không khao vọng thì chỉ dừng ở đệ nhị thứ, không được thăng nữa.

Trong bản phường có viên nào đỗ Tiến sĩ bên văn và Tạo sĩ bên võ, trong ngày yết bảng, bản phường ăn mặc tề chỉnh đón rước. Lệ có lễ khao là 1 con bò giá tiền 10 quan. Các vị tân khoa yết kiến Thánh sư, lễ vật tuỳ nghi. Còn như việc quan dịch, khao thưởng do thứ thủ phiên và Trưởng phường châm chước miễn giảm. Duy những người từ thứ luân thăng lên giáp bàn, chiếu như khoán lệ. Hễ đến ngày kỳ phúc tháng tư, hoặc có trâu bò, lợn thì kính biếu 1 cái thủ để làm trọng thêm nho phong, đẹp thêm phong tục trong phường.

Trong phường có viên nào thi trúng tứ trường, sau ngày yết bảng, được mừng lễ vật là 1 con lợn giá 5 quan tiền. Viên đó ăn mặc tề chỉnh sắm lễ đến cáo tế Thánh sư, lễ tùy gia chủ, một lễ khác trình bản phường. Còn việc quan dịch, mua bán (danh vị), phụ trợ (tài chính) do thủ phiên và phường trưởng châm chước chiếu giảm. Duy viên nào từ hạng thứ lên trưởng sẽ được miễn. Lệ định viên trưởng nạp 3 quan tiền. Hễ luân lưu thăng lên giáp bàn thì theo như chiếu khoán. Đến ngày lễ cầu phúc mùa xuân, mùa thu, viên đó ăn mặc tề chỉnh, sắm lễ cau trầu dâng lên bản phường. Khi có lễ trâu bò thì được biếu 1 khoanh thịt, 1 oản xôi để làm trọng phong hóa. Nay làm lệ.

Lệ trong phố có vị nào từ sơ thụ các chức sắc đến sinh viên trong xã trở lên, từ tam tiết đến khai hạ, đều có lời mời thì bản phố đến chúc mừng cau trầu 1 buồng giá 3 mạch tiền, trà bánh tuỳ theo lễ phẩm to nhỏ. Người ngoài phố có viên nào thi trúng Tiến sĩ và tứ trường, tam trường, nếu có thịnh tình mời bản phố đến chúc mừng 1 buồng cau. Duy người trúng Tiến sĩ và trúng tứ trường thì sắm 1 lễ phẩm cáo yết Thánh sư (tùy lễ phẩm), 1 lễ dâng bản phố, và việc quan dịch nhất nhất được châm chước miễn trừ.

Điều thứ 37, lệ chúc thọ, nếu ai đến tuổi thọ 70 thì bản phố đến chúc mừng 1 tấm vải lụa, giá 3 quan tiền; người thượng thọ 80 thì bản phường đến chúc mừng 1 tấm vải lanh giá 5 quan tiền; người thượng thượng thọ 90 và 100 tuổi được chúc mừng bộ áo quần lanh, mũ tiên, trượng trúc chuẩn giá tiền 10 quan. Hàng năm, vào hai kỳ lễ xuân thu được biếu 1 oản xôi, 1 khoanh thịt. Nếu ai có tứ thân phụ mẫu, mệnh phụ và người ngoài phố thượng thọ mà có lời mời thì bản phố đến mừng cau 1 buồng, biếu xén theo lệ định. Các việc quan dịch nhất nhất được châm chước miễn trừ. Nay làm lệ.

Điều thứ 38, lệ nạp tiền hương giai (tiền nộp cho phường khi đi lấy chồng) không phân biệt người trong, ngoài phố chợ. Có ai xuất giá lấy chồng trong phố thì nạp tiền 6 mạch, cau trầu 100 khẩu giá tiền 1 mạch 40 văn. Còn ai lấy chồng người ngoài phố chợ thì nộp 1 quan tiền 2 mạch, cau trầu đủ dùng theo lệ. Những nào lấy chồng biệt xứ thì chia làm 3 loại: một loại nạp 10 quan 8 mạch tiền, cau trầu 100 khẩu, loại thứ hai nạp 7 quan 2 mạch tiền, cau trầu như lệ định, loại thứ ba nạp 4 quan 8 mạch tiền, cau trầu đủ dùng theo lệ.

Điều thứ 39, về tang ma, như trong phường có ai trăm tuổi về già, sau 3 ngày, Trưởng phố thông báo với dân trong phố đến điếu phúng. Viên hàng nhất của Giáp bàn phúng 6 quan tiền, cau trầu 1 khay (30 khẩu). Các viên Giáp bàn phúng tiền 5 quan, cau trầu 1 khay, ất bàn phúng tiền 3 quan, cau trầu 1 khay, bàn Bính Đinh trở xuống chỉ phúng 3 quan tiền. Chiếu theo thứ hạng hành lễ, trên chắp, dưới vái. Ngày tống chung, đương trưởng thông báo với bản phố trên dưới và người ngoài phố đến đưa tiễn.

Điều thứ 40, 41 và 42 về việc quan dịch, người nào có vợ sinh con, hoặc con đau ốm thì trình cau trầu lên bản phường, nhưng báo trước 1 tháng. Bản phường thực thi công vụ gặp lúc khó khăn thì việc ăn uống không nhất thiết phải có mặt đông đủ trên dưới. Bản phố mỗi khi hội họp đều điểm số, ai vắng mặt bị phạt tiền 1 mạch, cau trầu trình tương đương 36 văn. Những người có việc khẩn cấp thì tuỳ nặng nhẹ mà không áp dụng điều lệ này.

Điều thứ 43, 44, 46, 47 lệ về thu tiền đúc vàng để lấy tiền làm lễ hội vào tháng tư, hễ trong phố có ai nhận đúc vàng, mỗi lượng thu 36 văn tiền (thu từ 5 tiền trở lên). Vàng mỗi hốt (không kể tốt xấu) thu tiền 30 văn. Người ngoài ngụ cư ở phường thì thu một nửa. Nếu việc chi dùng còn thiếu thì thu thêm. Người nào cố tình gian lận thì không kể người già, phụ nữ, chánh, thứ mà bị bản phường tra rõ thực trạng sẽ bị phạt 1 con lợn giá 1 quan 8 mạch tiền. Còn tiền công đúc vàng thì sẽ bị truy thu để giữ nghiêm tục lệ.

Hàng năm làm vàng cống phẩm, phải mua nguyên liệu nấu, không cứ nhiều ít mà chia làm 3 loại: thượng toát và lão phụ miễn dịch thu 1 phần, từ trùm bàn trở xuống thu 1 phần rưỡi, còn nửa phần thì nam nữ ngoài phố cùng chịu. Người ngoài phố có ai buôn bán chịu quan dịch thì theo như dân trong phố. Duy người phụ nữ ngoài phố thì cho nộp nửa phần.

Điều thứ 47, 48 và 49, 50, 55 tiếp về quan dịch và việc chung của phố, như bản phố thực thi quan dịch, bổ cho tam trực (ba cơ sở thường trực) thuộc các lò đúc vàng: lò đúc 2 lượng 5 hốt, lò đúc 2 hốt 10 hốt và lò nấu than củi để thu tiền công tạm chi việc chung. Chi phí xong, thông báo toàn phố để chiếu bổ thu giao cho đương trực hoàn trả. Người ngoài không dùng lệ này. Đương trực báo cáo với thị trưởng để thông báo với toàn phường thực hành công vụ. Ai để khiếm khuyết sẽ bị định tội.

Bản phường tuân thủ duy trì lệ cũ, đã phân làm tam trực để ứng phó công vụ, luân lưu hễ đến đương trực nào nếu có mua bán, nhận đúc vàng thì trực đó nhận lo việc cho chu tất, nếu trực nào chậm trễ, khất lần để kéo dài càng làm phức tạp thêm thì bị phạt không tha. Trong phố chợ ở trực nào có ai đến kỳ ứng hành theo thủ phiên cắt cử mà không làm hoặc để khiếm khuyết, lại có lòng tham tơ hào tài vật chung bị phát giác tất bị phạt. Còn những đương trực, thủ phiên không gắng sức đốc thúc công việc cũng bị phạt không tha. Lại bắt cả những người trốn tránh để làm răn. Nay thành lệ.

Trong phố khi có việc quan dịch thì đương trực, cán sự trình với trưởng phố để thông báo với toàn dân trong phố để có mặt đầy đủ, chờ tam phiên, đương trưởng về bản phố chiếu theo sổ bạ điểm số. Ai vắng mặt sẽ bị phạt 3 mạch tiền, hoặc phải trình cau trầu nộp với 1 mạch tiền để thế vào. Còn có ai đi xa không về kịp mà quả có việc cần thiết thì châm chước. Những ai khi trở về làng mà không theo lệ này, cùng gia đình bày mưu tính kế ngầm ý với viên trưởng đương trực để thoái thác, lấy tư làm công mà bị phát giác thì bị phạt 1 con lợn giá 1 quan 8 mạch tiền, còn viên trưởng đương trực cũng bị phạt như lệ trên để nghiêm khoán ước.

Bản phố hội họp bàn định khi có việc quan dịch phải nghiêm cẩn. Nếu cố tình gian lạm dụng hoặc vì công vì tư không kể to nhỏ, có người nào tố cáo mà bản phố điều tra thấy quả tang thì tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt phạt 1 con trâu giá tiền 5 quan; nếu nặng thì tước bỏ (ngôi thứ), như vậy để cảnh tỉnh tà tâm.

Trong phố chợ có ai đang ứng hành quan dịch mà sợ vất vả nghĩ cách trốn tránh đến nơi khác để bỏ khuyết quan dịch. Bản phố họp bàn chiếu theo danh vị người đó ở bàn nào, thứ nào không cho tuần tự thăng tiến. Nếu vượt kỳ thăng tiến 1 năm, mà người đó có cơi trầu trình bản phố, thì tùy theo sự châm chước mà truy thu tiền gốc và tiền phí tổn. Nếu nạp đủ thì viên ấy từ đó về sau tuần tự thăng tiến. Nếu quá hạn mà không nạp số tiền đó thì định lệ tước bỏ (thành người ngoài phố) để răn đe người khác; còn số tiền đó thì cả phố cùng chịu.

Điều thứ 52, nghề riêng của phố ta là của báu quốc gia, từ trước đã thành khuôn thước, phải giữ phép phụng sự việc công không thể xem nhẹ. Nếu có ai nhộn nhạo, xem thường phép tắc, bản phố tra xét mà đúng thì sẽ bị phạt 1 con trâu giá 5 quan tiền hoặc viên nào đi tra xét có ý thiên lệch cũng bị phạt như trên.

Điều thứ 53, trong phố chợ có ai tiêu mất tiền quan, tiền công, bản phố họp định truy thu gia sản, ruộng vườn người đó, mang bán đi để lấy tiền bồi hoàn. Nếu nhà đó nghèo túng không có gì để thu thì đến thu gia tộc nội ngoại số tiền đó và cả tiền tổn phí cho đủ số. Còn người đó sẽ bị tước danh vị ra thành người ngoài phố; người nào sinh ý ngang ngược không chịu thì bản phố nhất nhất bắt phải chịu.

Điều thứ 54, trong phố chợ có ai ỷ vào quyền thế mà bỏ bễ khiếm khuyết quan dịch nhiều lần, thì bản phố họp định bắt phạt 1 con trâu chuẩn giá tiền 10 quan cùng tiền phí tổn bao nhiêu thì người đó phải chịu cả. Nếu người đó ngang ngạnh sinh ý làm khác đi thì cả phố trên dưới nhất thảy bắt phải chịu để cảnh tỉnh và giữ nghiêm tập tục.

Điều thứ 55, trong phố có người nào gia thế khó khăn không kham nổi thì trình phố cau trầu để xin làm người ngoại thị, nếu được xem là thực tình thì thu tiền cho đủ theo lệ. Còn người đó về sau gia đình khá giả mà xin nạp quyên tiền (tiền góp góp của phố) thì lại được tái ngồi vào vị trí cũ. Bản phố chiếu theo thứ hạng cũ tại bàn nào, thứ hạng nào thì cho hạ xuống 3 bậc. Còn người nào trước ở dưới bàn thứ thì tái chiếu dưới bàn hạ 3 bậc. Làm như vậy để giữ nghiêm khoán lệ.

Điều thứ 56, việc chơi cờ bạc ở đình, nhất thiết cấm hẳn. Nếu có ai lẻn chơi bị phát giác thì bắt cả bàn mỗi người 1 con lợn giá 3 quan tiền.

Điều thứ 57, bản phố có đồ tế khí phụng thờ lưu giữ tại cung cấm trong đình, có ai manh tâm lấy trộm mà bị tố giác. Bản phố điều tra đúng sự thực thì truy thu số đồ vật đó và bắt phạt 1 con trâu giá tiền 10 quan và treo thưởng cho người tố giác là 5 quan tiền, cùng tiền phí tổn bao nhiêu truy thu người lấy trộm. Làm như vậy để chấn chỉnh tệ đoan.

Điều thứ 58, bản phố có đồ tế khí lưu giữ tại đình, nếu có ai bất cẩn làm vỡ, không cứ đồ vật lớn nhỏ đều hạn trong 1 tháng phải tìm mua để thế vào. Nếu quá hạn định mà không bồi hoàn thì định tội không tha.

Trở lên là các điều lệ mà bản phố trên dưới cùng các người kế thừa về sau nghiêm chỉnh thực thi không được làm trái. Trong các điều lệ đó có chỗ cần được thêm bớt thì bản phố hội họp trên dưới đủ mặt mới được sửa đổi và phụ chép vào. Nếu có ai không tuân theo điều lệ mà tư tình sửa chữa tuỳ tiện thì bản phố định tội phạt 1 con trâu giá 10 quan tiền để cho nghiêm khoán lệ. Nay lập điều lệ.

[Ngày lành tháng trọng thu năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), Thượng toát Lê Đức Trương ký, Cai hợp Trần Đình Cường ký, Cai hợp Trần Vũ Quốc ký, Sinh viên Vũ Nguyễn Trạc ký, Cai hợp Hoàng Đình Duy ký, Huyện thừa Vũ Đình Bân ký, Trùm cự bàn Nho sinh Vũ Đình Luyện ký, Cai hợp Nguyễn Đình Ngoạn ký, Phạm Đình Chu ký, Vũ Nguyễn Hoằng ký, Phạm Quang Biểu ký, Lê Đình Khiêm ký, Sinh đồ Hoàng Gia Hiến ký, Hương nhiêu Trần Vũ Cơ ký, Nguyễn Đình Tuấn ký, Vũ Nguyễn Nhương ký, Sinh viên Trần Vũ Huy ký, Hợp bàn nhiêu nam Vũ Đình Trưởng ký, Hoàng Đình Yên ký, Nguyễn Đình Thư ký, cùng toàn phố trên dưới ký].

Ngày 20 tháng 11 năm Minh Mệnh 13 (1832) toàn phố trên dưới hội họp tu bổ điều lệ phàm là 4 mùa 8 tiết trong năm thêm thịt lợn cho đủ 2 lễ, xôi 2 mâm, cau trầu 20 khẩu, rượu 1 chai chuẩn giá tiền là 3 mạch. Nay họp định.

Ngày 16 tháng 2 năm Minh Mệnh 18 (1837) toàn phố trên dưới hội họp bàn về lễ xướng ca luân phiên làm cỗ. Theo trước ngày tuy có định lệ, nhưng lễ sắm nhiều thành ra thái quá, nay bản phố họp định mỗi cỗ chuẩn giá tiền là 1 quan 5 mạch. Còn các cỗ bát kê ra sau đây để về sau chiếu theo mà sắm không được tăng giảm. Nay lập điều lệ mới. Kê:

Chim 1 bát, gà 1 bát, ngan 1 bát, chân lợn 1 bát, thịt nướng 1 bát, thịt nạc 1 bát, cua 1 bát, lươn 1 bát, cá bào ngư 1 bát, cá trắm1 bát, giả dê 1 bát, giả ba ba 1 bát, giả cầy 1 bát, cơm nén 1 đĩa, nước mắm 1 bát, trà 1 bát, xôi vừng 2 đĩa, giò lụa 1 đĩa, giò vân 1 đĩa, giò hoa 1 đĩa, chả hoa 1 đĩa, chả phồng 1 đĩa, chả quế 1 đĩa, chả rau 1 đĩa, chả dồi 1 đĩa, bánh lá 1 đĩa màu vàng, bánh ít 1 đĩa màu vàng, bánh bột bọc 1 đĩa màu màu trắng, giò thái lẻ 1 đĩa, mất bít 1 đĩa, mất cam 1 đĩa, mất hạt sen 1 đĩa.

Ngày 4 tháng 8 năm Thiệu Trị 3 (1843), bản phố hội họp bổ sung 1 điều là hễ viên nào đến kỳ luân chuyển lên giáp bàn, vào tiết xướng ca biện cỗ bàn giá 6 quan tiền. Lại thêm 1 điều nữa là hàng năm vào lễ nhập tịch, biện xôi trầu rượu lễ tại đình trung phải tinh khiết, không được làm trái. Bản phố họp định lệ từ thứ bàn đến trưởng bàn, mỗi ngày 1 viên biện lễ, hết lượt lại quay trở lại. Có ai đến lượt mà làm trái sẽ bị phạt tiền như lệ định. Làm như vậy để giữ việc phụng sự Thần cho nghiêm cẩn. Nay định lệ.

2. Một vài nhận xét:

Đây là hương ước của một phố chợ hàng nghề có các điều lệ tương tự như tục lệ ở các làng nghề cũng như làng xã cổ truyền khác, nhất là các tiết lễ chung của làng, hay của phố, như tế đêm giao thừa, ngày tết nguyên đán, lễ khai hạ, đặc biệt là lễ cầu phúc diễn ra ở đình cùng ca hát cửa đình... Tiếp đó là các hoạt động chung của phố như ngôi thứ, khao vọng, khích lệ việc học hành, việc chung, quan dịch, tang ma cưới xin, chống trộm cắp... Chúng ta từng biết đến tục lệ của phường Long Đằng, thuộc xã Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội), nhưng dường như là khoán lệ của riêng việc mua bán song mây của phường buôn này, nên chỉ tập trung ở các điều ước về việc mua bán song mây(1). Tương tự hương ước của làng ven đô, như làng Hồ Khẩu (Tây Hồ, Hà Nội)(2), tục lệ phố chợ Kim Ngân hoàn toàn không có điều khoản nào liên quan đến sản xuất nông nghiệp và ruộng đất. Tuy nhiên làng Hồ Khẩu thì chủ yếu sống bằng nghề làm giấy và buôn bản nhỏ, nhưng lại không có điều khoản nào liên quan đến việc đó. Trái lại hương ước phố chợ Kim Ngân chủ yếu phản ánh về nghề vàng bạc và buôn bán vàng bạc. Đó chính là điều đặc sắc của hương ước này.

Điều khác biệt nữa ở đây là những điều về thu tiền từ doanh thu các lò đúc bạc, vàng và buôn bán vàng bạc cho quỹ chung của phố chợ dùng trong việc quan dịch và các hoạt động công cộng khác. Nguồn thu cho các chi phí chung của phố, kể cả việc tế lễ, hội hè đều không có hoa lợi đem đến từ ruộng đất như thường gặp ở các làng quê khác, mà ở đây phải thu trực tiếp của các thành viên trong cộng đồng và từ doanh thu của các cửa hàng. Họ đặt ra “tam trực”, luân lưu làm ứng trực để ứng phó công vụ.

Đây là hương ước được hoàn chỉnh và thi hành vào thời gian từ thời Tây Sơn đến đầu thời Nguyễn, cho thấy thời kỳ này, việc buôn bán và đúc vàng bạc ở phố chợ Kim Ngân khá phát triển. Nơi đây còn đảm nhiệm thêm việc đúc đồ cống phẩm hàng năm cho triều đình để làm vật tuế cống.

Một số điều ước bổ sung vào thời Nguyễn, nhất là về việc quy định cỗ bàn ngày lễ hội, cung cấp nhiều thông tin thú vị như các món ăn trong ngày lễ hội của phố, tệ nạn cỗ bàn thái quá, mặt khác cũng cho biết đời sống kinh tế thời kỳ trước chiến tranh (năm 1858) ở khu phố này nói riêng và ở Thăng Long nói chung rất khá giả và sôi động.

CHÚ THÍCH:

1. Nguyên bản ghi là “Kim Ngân thị tục lệ”, nói về tục lệ ở khu chợ trao đổi hàng hóa kim ngân theo một dãy dài, trên cơ sở đó sau này lập ra phố Hàng Bạc, do vậy chúng tôi chuyển dịch là Phố chợ Kim Ngân để hình dung đầy đủ chức năng của khu chợ này.

2. Xem Nguyễn Tá Nhí: Tục lệ phường Long Đằng xã Đông Ngạc, Tạp chí Hán Nôm, 2/2004, tr.50-53.

3. Bùi Xuân Đính - Đinh Khắc Thuân: Hương ước làng ven đô, Tạp chí Hán Nôm, 1/1991, tr.11-15.

TB

VỀ SỰ KHÁC BIỆT CỦA MỘT SỐ MÃ CHỮ NÔM GIỮA HAI BẢN IN SÁCH THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

TRƯƠNG ĐỨC QUẢ

Chúng ta đều biết đến nay sách Thiền Tông bản hạnh hiện còn hai bản in. Một bản khắc in thời Lê (Cảnh Hưng 6 - 1745) đã được cụ Hoàng Xuân Hãn giới thiệu, phiên âm trong bài Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê phái thiền Trúc Lâm Yên Tử in trong tập san Khoa học xã hội các số 5 (1978) số 6 (1979), xuất bản tại Paris. Bản thứ hai khắc in thời Nguyễn (Bảo Đại 7 - 1932) hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.562.

Theo cụ Hoàng Xuân Hãn nội dung của bản in Cảnh Hưng có 4 bài văn Nôm và 1 bài kệ bằng chữ Hán được sắp xếp theo trình tự như sau:

1. Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh.

2. Yên Tử sơn đệ nhất tổ Trúc Lâm Đầu đà tĩnh tuệ giác hoàng diệu ngự chủ Phật: Cư Trần lạc đạo phú.

3. Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.

4. Yên Tử sơn Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tôn giả Vịnh Hoa Yên tự phú.

5. Phụ: Hậu ngộ đạo nhân tuyên đẳng kệ.

Tác giả bài 1 là hòa thượng Tuệ Đăng tự Chân Nguyên trụ trì chùa Long Động và Dược Am trên núi Yên Tử. Hòa thượng sinh năm 1653 và mất năm 1743. Tác giả bài 2, 3 là vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258 - 1308). Tác giả bài 4 là của sư Huyền Quang (Lý Đạo Tái 1254 - 1334) và bài kệ bằng Hán văn là của Ni sư hiệu Diệu Thuần, sa môn chùa Liên Hoa (nay là chùa Liên Phái, Hà Nội).

Ở bản in Bảo Đại về nội dung có một số khác biệt:

Mở đầu sách là bài tựa bằng Hán văn: Yên Tử sơn Trần triều thiền tông chỉ nam truyền tâm quốc ngữ hạnh tự dẫn, do Tỳ khưu chùa Vĩnh Nghiêm(1) tự Thanh Hanh viết. Sau đó là bốn bài phú Nôm nội dung và thứ tự sắp xếp như ở bản in Cảnh Hưng, trong đó có hai điểm khác: Bài 1 tên đề đổi là: Trần triều thiền tông chỉ nam truyền tâm quốc ngữ hạnh. Cuối bài Vịnh Hoa Yên tự phú không có bài kệ như ở bản in Cảnh Hưng. Tiếp theo là các bài văn Nôm mà ở bản in Cảnh Hưng không có đó là: Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi; Du Yên Tử sơn nhật trình, Thiếu thất phú của Bạch Liên tiểu sĩ; Thiền tịch phú của Chân Nguyên tổ sư và cuối cùng là trang lạc khoản bằng Hán văn.

Về xuất xứ của bản in Cảnh Hưng, theo giới thiệu của cụ Hoàng Xuân Hãn ở trang cuối sách nêu rõ là bản khắc lại (trùng san) nhưng không dẫn được khắc lại từ bản nào của thời trước đó. ở bản in Bảo Đại, trong bài dẫn của Tỳ khưu Thanh Hanh nêu rõ: vào niên hiệu Gia Long 4 (1805) vị tăng trụ trì chùa Hoa Yên là Tuệ Thân cùng các sư đồ đã cho khắc in lại, nhưng bản này đã thất truyền. Nay tìm được một bản đem khắc in để lưu truyền rộng rãi và đây là lần khắc lại thứ ba (Thị vi đệ tam phiên trùng san).

Về quá trình truyền bản của sách Thiền tông bản hạnh cần được khảo sát kỹ hơn trong một bài viết khác. ở bài viết này mục đích của chúng tôi là tìm hiểu các mã chữ Nôm trong cùng tên sách sau hai lần in ấn có gì thay đổi hay không? Do đó dù hai bản in của sách Thiền tông bản hạnh có xuất phát từ cùng một bản gốc trước đó hay không, thì chúng vẫn là những bản in có niên đại rõ ràng, cách nhau hơn 200 năm, là cứ liệu xác thực khá tốt để nghiên cứu diễn biến cấu trúc của chữ Nôm. Tuy nhiên có một hạn chế là: đến nay hiện vẫn chưa tìm lại được hai bộ ván khắc của hai bản in trên, nhất là của bản in Cảnh Hưng; và trong bài viết của mình, cụ Hoàng Xuân Hãn chỉ cho in bản sao chụp bản in chữ Nôm của ba bài phú (Hai bài của Trần Nhân Tông, một bài của Huyền Quang). Vì vậy chúng tôi cũng mới chỉ đối sánh được mã chữ Nôm của ba bài phú giữa hai bản in. Phương pháp của chúng tôi là đối chiếu so sánh từng câu, từng từ, từng mã chữ Nôm của ba bài phú giữa hai bản in Cảnh Hưng (CH) và Bảo Đại (BĐ).

Kết quả cho thấy có sự khác biệt của một số mã chữ Nôm theo hai dạng chính sau:

1. Sự khác nhau về từ vựng(2) (xem Bảng 1).

Bảng 1

TT Văn bản Chữ Nôm Phiên âm Xuất xứ văn cảnh

1

CH



Lo
Lựa
Cư trần lạc đạo phú
Hội 1: ~ hoán cốt ước phi thăng đan thần mới phục
2 CH

Thỏ
Quỷ
Nhắm trường sinh về thượng giới thuốc ~ còn đem.
3 CH

Tấc
Sức
Hội 3: Phúc ấy càng yêu hết ~.
Sở thạch đầu đá trơn hết ~ (Hội 9)
4 CH

đồ
uổng
Sơn lâm chẳng cốc họa kia thực cả ~ công
5 CH

Xể
Chỉ
Hội 5: áo miễn chăn đầm ấm qua ngày hoặc chằm hoặc ~
6 CH

thảy
bỏ
Buông lửa giác ngộ đốt hoại ~ rừng tà ngày trước.
7 CH

Giồi
xây
Hội 7: Dựng cầu đò, ~ chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
8 CH

Dấu
sách
Hội 8: Cầm vốn thiếu huyền xá đàn ~ xoang vô sinh khúc.
9 CH

Kén
Thấy
Hội 9: Đãi cát ~ vàng
10 CH

0
lưỡi
0
Hội 10: ~ gươm lâm tế
11 CH

Chuộng
chẳng
~ công danh lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu.
12 CH

Day
đưa
~ phiến tử, cất trúc bề.

13

CH



ẩc
rằng
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Ai hay cốc được mới ~ là đã
14 CH

Dong
Thong
Dầu lòng ~ thả
15 CH

Phô
So
~ người học đạo vô số nhiều đời

16

CH


0

Dòng
0
Vịnh Hoa Yên tự phú:
~ nước suối chảy tràn sâu đòi khúc những dò đòi khúc
17 CH

Chiều
Miếu
Cỏ ~ gió lướt dợm vui vui
18 CH

tưới
miệng
Hang nước ~ hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục
19 CH

Mẽ
Mở
Chỉn ấy trời thiêng ~ khéo
20 CH

đông
nam
Coi ~ sơn tựa hòn kim lục
21 CH

Lẻ
Dễ
Chác tấc bóng nghìn vàng còn ~
22 CH

nên
lên
Đầu khách dễ ~ biến bạc
23 CH

Nhựa
Mùa
~ đông hổ phách sáng khắp rừng thông
24 CH
倍 匕
汰 夕
vợi vợi
thảy thảy
Thoát rẽ lòng phàm ~ ~

Ở dạng này chúng tôi thống kê được 24 trường hợp do khác nhau về từ vựng dẫn đến mã chữ khác nhau là tất nhiên. Trong đó bài Cư trần lạc đạo phú 12 mã, bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca 3 mã, Bài Vịnh Hoa Yên tự phú: 9 mã.

2. Sự khác nhau về mã chữ

Dạng này trên cơ sở từ vựng không đổi nhưng mã chữ lại có sự khác biệt, ở dạng này có 3 loại khác biệt như sau:

2.1 Nhóm mã khác nhau toàn phần (xem bảng 2)

Bảng 2

TT Cảnh Hưng Bảo Đại Phiên âm Tần số Ghi chú
1 cháo 2
2 dọc 1
3 đến 6
4 đứa 2
5 hang 1
6 hơn 3
7 kiêng 1
8 mấy 2
9 một 8
10 nhẽ 1
11 thay 3
12 thơ 1 ngây ~
13 trong 1
14 trong 3
15 trong 1

Nhóm này chúng tôi thống kê được 15 trường hợp. ở bảng CH mã số 1 mượn nguyên chữ Hán có âm Hán Việt là “Chúc” với nghĩa là “cháo” (thuộc loại mã chữ đọc theo nghĩa). Mã 12 và 15 hội đủ hai thành tố biểu âm và biểu nghĩa. Còn lại 11 mã thuần túy biểu âm. Nhưng ở bản BĐ chúng ta thấy có sự khác biệt gần như hoàn toàn. Các mã chữ không chỉ có thành tố biểu âm được thay thế, mà còn thêm vào đó thành tố biểu nghĩa. Ngoại trừ các mã số 2, 6, 8, 9 chỉ có đơn thuần một thành tố biểu âm, còn lại 11 mã hội đủ hai thành tố biểu âm và biểu nghĩa.

Như vậy sự khác biệt về cấu trúc của các mã giữa hai bản CH và BĐ ở nhóm này cho thấy một hiện tượng khá rõ nét là xu thế tạo chữ từ những mã biểu âm sang những mã hội đủ hai thành tố biểu âm và biểu nghĩa. Việc thay đổi mã ở thành tố biểu âm có nhiều nguyên nhân, trong đó có một là do âm đọc đã thay đổi như ở mã 13, 14 (3).

2.2. Nhóm mã chỉ khác nhau ở thành tố biểu âm (xem Bảng 3)

Bảng 3

TT Cảnh Hưng Bảo Đại Phiên âm Tần số Ghi chú
1 bốn 1
2 chác 2 bán ~
3 dễ 1
4 giơ 1
5 hãy 3
6 lài 1 lạc ~
7 lặng 2
8 lọ 1 ~ là
9 mọi 1
10 náu 1 ẩn ~
11 Nơi 1
12 nữa 1
13 tới 1
14 trở 1
15 vắng 2
16 vướng 1
17 lẻo 1
18 mụ 1
19 say 1
20 tay 3
21 trắng 1

Chúng ta thấy ở nhóm này lại có thể phân biệt thành hai loại nhỏ: loại a: thêm vào mã chữ dấu nháy(4). Trong bảng 3 này, từ mã 1 đến mã 16 bản BĐ chỉ thêm vào dấu “nháy”.

Loại b: thay thế thành tố biểu âm bằng một mã chữ Hán khác, mã 19-20 bản BĐ giữ nguyên thành tố biểu nghĩa, chỉ thay đổi thành tố biểu âm, có lẽ để cho sát với âm Nôm đương đại.

Sự khác biệt ở bảng 3 này thể hiện xu hướng “chính xác hóa” trong cách tạo chữ Nôm ở bản BĐ.

2.3. Nhóm mã chỉ khác biệt ở thành tố biểu nghĩa (xem bảng 4)

Bảng 4

TT Cảnh Hưng Bảo Đại Phiên âm Tần số Ghi chú
1 ắt 1
2 Ba 1
3 bấm 2
4 1
5 cả 4
6 Coi 1
7 chân 2
8 chịu 1
9 Chớ 4
10 chưa 5
11 chứa 1
12 1
13 dối 1
14 dứt 1
15 đả 1 đon ~
16 đắp 1
17 đêm 2
18 đon 1 ~ đả
19 đói 3
20 đời 1
21 đời 1
22 đời 1
23 đứng 1
24 Ghê 1
25 Gió 1
26 Gió 4
27 giữa 1
28 Hai 3
29 Hay 7
30 lành 2
31 lâu 1
32 Lo 1
33 Lon 1
34 Lọ 1
35 Lỗi 2
36 lướt 1
37 mình 1
38 miệng 1
39 mong 1
40 Mở 1
41 mũi 1
42 mừng 1
43 nằm 1
44 nên 11
45 No 1
46 nức 1
47 ngây 1
48 Ngỏ 1
49 ngọt 1
50 ngón 1
51 người 5
52 nghe 2
53 nghe 1
54 nhiều 4
55 nhớ 1
56 ẩc 1
57 sau 4
58 sáng 6
59 ra 1
60 ra 2
61 rẽ 1
62 rối 1
63 tăm 1
64 tấc 4
65 tấm 1
66 thay 1
67 thấy 7
68 退 thói 1
69 thuốc 1
70 trời 2
71 trước 5
72 vua 1
73 vui 3

Trong 73 trường hợp ở loại này, bản BĐ hầu như giữ nguyên mã ghi âm của bản CH, và tạo ra mã mới bằng cách thêm vào thành tố biểu nghĩa hoặc là một chữ Hán hoặc là một bộ.

Trong nhóm này ở bản CH ngoại trừ các mã 20/21 là mã chỉ có một thành tố biểu nghĩa, và mã 53, 59, 60 hội đủ hai thành tố âm và nghĩa, và mã 29 từ mã biểu âm trong bản BĐ lại được thay thế bằng mã biểu nghĩa. Còn lại 67 mã thể hiện rõ rệt hiện tượng: từ mã thuần tuý chỉ có thành tố biểu âm sang bản BĐ đã được chỉnh sửa thêm thành mã chữ hội đủ hai thành tố biểu âm và biểu nghĩa.

Từ ba dạng khác biệt nêu trên (từ bảng 2 đến bảng 4) có thể quy vào hai dạng khác biệt cơ bản:

Một là dạng thay đổi mã ở thành tố biểu âm. Dạng này chúng ta thấy có 15 trường hợp ở bảng 2 và 4 trường hợp ở bảng 3 (từ 17-20), tức là 19 trên tổng 109 mã, chiếm tỷ lệ 20,7 % không nhiều lắm so với tổng số các mã khác biệt. Tuy nhiên về sự thay đổi thành tố biểu âm cần được nghiên cứu từng trường hợp một mới có thể đi đến kết luận cụ thể xác đáng. Trong các trường hợp trên về đại thể có thể nêu hai lý do:

Thứ nhất: âm Nôm của một số mã đến thời BĐ đã có cách đọc khác trước. Ví dụ như trường hợp 工 đổi thành , từ giữa thế kỷ XVIII về trước có âm đọc “klong” hoặc “krong”, từ giữa thế kỷ XVIII đến nay có bước chuyển sang âm đọc là “trong” do đó cần thay đổi mã ở thành tố biểu âm cho sát với âm đọc đương đại.

Thứ hai: Cách lựa chọn mã biểu âm còn tuỳ thuộc vào quan điểm và trình độ của cá nhân người tạo lập văn bản. Ví dụ như trường hợp đổi mã 軒 sang 欣 (hơn) hoặc là thêm dấu nháy vào mã ghi âm vốn có từ thời kỳ trước (Bảng 3).

Hai là dạng thay đổi mã ở thành tố biểu nghĩa.

Chúng ta thấy từ các bảng thống kê, dạng này chiếm tỷ lệ chủ yếu trong các các mã khác biệt ở bản BĐ so với bản CH. Bảng 2 có 10 trường hợp, bảng 4 có 67 trường hợp, tức là 77 trên tổng số 109 mã bằng 84 %. Điều này thể hiện xu hướng chính là thêm vào những mã biểu âm, thành tố biểu nghĩa có thể là một chữ Hán hay bộ thủ, với ý thức nhằm cung cấp thêm những yếu tố xác định về ngữ nghĩa để người đọc (có tri thức về chữ Hán) dễ dàng đọc được âm Nôm của những mã này một cách chính xác nhất. Chúng ta có thể gọi là xu hướng chính xác hoá trong cách tạo chữ Nôm.

Tóm lại, mặc dù mới chỉ là kết quả đối sánh mã chữ của ba bài văn Nôm giữa hai bản in sách Thiền tông bản hạnh CH và BĐ, nhưng đây là một trong cứ liệu cụ thể bước đầu cho thấy có bước chuyển trong cách sáng tạo chữ Nôm từ thời Lê sang thời Nguyễn, chủ yếu là việc cải biến những mã chữ Nôm đơn thuần biểu âm sang loại mã hội đủ hai thành tố biểu âm và biểu nghĩa. Đây là nhận xét mang tính tiền đề quan trọng của chúng tôi, tạo điều kiện cho việc định hướng khảo sát ở những văn bản Nôm khác nhằm đi tới những kết luận phục vụ việc nghiên cứu diễn biến cấu trúc chữ Nôm và xác định văn bản Nôm.

T.Đ.Q

CHÚ THÍCH:

(1) Trong lạc khoản cuối sách ở bản in Bảo Đại có ghi chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Đức La tổng Trí Yên phủ Lạng Giang tỉnh Bắc Giang; (nay là thôn Quốc Khánh xã Trí Yên huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang).

(2) Mục đích của chúng tôi là xem xét sự khác biệt về mã chữ, còn việc khác biệt từ vựng, một số trường hợp đã được GS. Nguyễn Huệ Chi biện luận trong Thơ văn Lý - Trần tập II (Nxb. KHXH, H. 1989, tr.505; 710) do đó ở phần này chúng tôi chỉ nêu kết quả thống kê mà thôi.

(3) Trường hợp của các mã 13-15 xin xem thêm bài: Về sự hiện diện của các mã chữ “trong” ở một số văn bản Nôm - Tạp chí Hán Nôm, số 6 - 2003.

(4) Dấu “nháy” có chức năng văn tự là ký hiệu chỉ báo cho người đọc phải đọc âm Nôm của mã chữ đó khác với âm Hán Việt của nó. Có thể xem dấu nháy là loại ký hiệu có chức năng điều chỉnh âm đọc trong cấu trúc chữ Nôm./.

TB

VĂN BẢN ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA HIỆN LƯU GIỮ TẠI CÁC THƯ VIỆN
Ở HÀ NỘI

LÃ MINH HẰNG

Sách Đại Nam Quốc sử diễn ca (ĐNQSDC) hiện tồn tại dưới hai dạng văn bản - văn bản in và văn bản chép tay. Thực trạng các văn bản này ra sao? Đã có bao nhiêu bản in được lưu giữ tại các thư viện ở Hà Nội ngày nay? Tình trạng các văn bản chép tay (bản nhuận chính) như thế nào? ở bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu từng văn bản cụ thể để qua đó giúp cho người đọc có một cách nhìn tổng quan về hệ thống văn bản này.

I. Về các bản in sách ĐNQSDC

Bản in sách ĐNQSDC được lưu truyền cho đến ngày nay là nhờ Phạm Đình Toái đã có công lớn trong việc nhuận sắc bản diễn ca lịch sử của ông Lê Ngô Cát và sau đó đưa cho quan Bình Chuẩn Đặng Huy Trứ khắc in vào năm 1870 (Tự Đức 23). Ngay sau lần khắc in đầu tiên đó, ĐNQSDC đã nhanh chóng được phổ cập rộng rãi trong dân chúng và đã được liên tiếp các nhà in cho khắc in lại: Chuyết Hiên đường (Tự Đức 26), Trí Trung đường (Tự Đức 34), Quan Văn đường (Duy Tân 2), Liễu Văn đường (Duy Tân 2) và Quảng Thịnh đường (Khải Định 9). Sau đây là diện mạo cụ thể của từng văn bản:

1.1 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VHN)

1. ĐNQSDC ký hiệu VNv.3, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách được đóng bằng bìa cậy và in trên giấy dó, khổ 15x26cm. Sách bị nát nhiều, nhất là ở các tờ in tên sách, tờ in bài tựa và các tờ 44, tờ 49 đến 65 của phần nội dung chính do quá rách nát nên đã được bồi thêm tờ giấy bản ở giữa. Sách gồm 72 tờ: 1 tờ tên sách, 2 tờ in bài thuật, 4 tờ Đại Nam ca mục lục và 65 tờ nội dung chính.

2. ĐNQSDC ký hiệu AB.1, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách đóng bằng bìa cậy, in trên giấy dó và được bảo quản khá tốt, khổ 14,5x25,5cm. Sách gồm đầy đủ 70 tờ: 1 tờ in tên sách và quốc hiệu thông khảo, 4 tờ Đại Nam ca mục lục và phần nội dung chính được đánh số từ 1 đến 65 diễn ca lịch sử từ thời Hồng Bàng đến Lê Chiêu Thống.

3. ĐNQSDC, ký hiệu VNv.165, in năm Tự Đức 34 tại nhà in Trí Trung đường. Sách được đóng bằng bìa cậy và được đóng lót bằng hai tờ giấy dó có ghi chữ. Sách gồm 70 tờ in trên giấy dó, khổ 14,5x26cm: tờ đầu in tên sách, năm và nhà in và mặt sau là Quốc hiệu thông khảo; bốn tờ tiếp theo là Đại Nam ca mục lục. Phần nội dung chính được đánh số từ tờ 1 đến tờ 65. Mỗi tờ in hai mặt, mỗi mặt 8 dòng chữ và được phân làm hai phần - chữ Hán ở trên và phần diễn Nôm (gồm một đôi câu lục bát) ở dưới. Cách bố trí trên mỗi mặt trang sách là nhất quán trong các văn bản in, nên sẽ không giới thiệu lại ở những văn bản in dưới đây nữa. Trong sách có nhiều dấu son ngắt câu nhất là ở phần chữ Hán. Các tờ lót trước in Nghĩ đề học đường viên hoa, Tiên đan cộng tế, tờ lót sau là nội dung Đệ tam sách vấn đề.

4. ĐNQSDC ký hiệu AB.328, in năm Tự Đức 34 tại nhà in Trí Trung đường. Sách được bảo quản khá tốt, được đóng bằng bìa học sinh màu hồng và được đóng lót bằng một tờ giấy dó. ở mặt sau tờ lót phía sau có ghi dòng chữ quốc ngữ: Thiên Nam quốc sử diễn ca đã microfiml 4/1966. Sách gồm đầy đủ 70 tờ, được in trên giấy dó, khổ 14x25cm. Đây cùng là bản in năm Tự Đức 34 của nhà in Trí Trung đường nên cách bố trí trang sách như đã mô tả ở VNv.165, có điều chất lượng bản in này không tốt, nét chữ mờ và nhòe hơn nhiều so với bản VNv.165.

5. ĐNQSDC ký hiệu VNv.117, in năm Tự Đức 34 tại nhà in Trí Trung đường. Sách đóng bằng bìa cậy, khổ 14,5x25cm, in trên giấy dó, nét chữ rõ ràng. Sách quá cũ nát, đặc biệt ở những tờ đầu ghi mục lục (hầu như rách gần hết) đã được bồi thêm giấy bản ở giữa. Sách gồm 66 tờ: 1 tờ in tên sách và Quốc hiệu thông khảo, 4 tờ Đại Nam ca mục lục và 61 tờ nội dung chính (mất các tờ 62 đến 65).

6. ĐNQSDC ký hiệu VNv.1, in năm Duy Tân 2 tại nhà in Quan Văn đường. Sách được đóng bằng bìa cậy và được đóng lót bằng một tờ giấy lệnh, khổ sách 14,5x26cm. Sách gồm 70 tờ: các tờ 1 (tên sách và uốc hiệu thông khảo) 4 tờ tiếp theo (Đại Nam ca mục lục) cùng với 3 tờ cuối - từ 63 đến 65 được in trên giấy lệnh; các tờ này bị rách nát ở phần mép và đã được bồi thêm 1 tờ giấy bản ở giữa. Phần nội dung chính được đánh số từ 1 đến 65 và được in trên giấy dó dày. Chất lượng bản in không tốt, nhiều nét chữ bị mờ nhòe. Tờ 64 và 65 thay vì khắc in chữ Hán ở trên lại thấy viết bài thuật của sách (viết tay).

7. ĐNQSDC ký hiệu VNv.4, in năm Duy Tân 2 tại nhà in Liễu Văn đường. Sách đóng bằng bìa cậy, nội dung được in trên giấy lệnh, khổ 15x26cm. Bản in chữ khá nhòe, sách rách nát và đã được bồi dán thêm giấy bản ở giữa, có nhiều dấu mực tím ở tờ 4 của Đại Nam ca mục lục và tờ đầu của phần nội dung chính. Sách gồm 69 tờ, thiếu mất tờ 65 của phần nội dung chính.

1.2. Thư viện Quốc gia (TVQG)

9. ĐNQSDC ký hiệu R.303, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách được đóng bằng bìa học sinh màu xanh. Đây là bản lành lặn nhất trong số 3 văn bản Tự Đức 23 hiện lưu giữ tại Thư viện Quốc gia. Sách không bị hoen ố, sờn nát như hai văn bản nêu sau vì đã được bảo quản khá tốt. Sách được in trên giấy dó chất lượng tốt, giấy khá mỏng.

10. ĐNQSDC ký hiệu R.1934, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách in trên giấy dó khá mỏng, khổ 14,5x26cm, không có bìa cậy và được bọc ngoài bằng bìa học sinh màu xanh lá cây. Sách bị hoen ố nhiều, các góc sách bị sờn và nát nhiều đặc biệt là ở tờ ghi Quốc hiệu thông khảo. Tổng số gồm 65 tờ, mất các tờ 56, 57 và 58 của phần nội dung chính.

11. ĐNQSDC ký hiệu R.8, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách chỉ còn bìa cậy ở mặt sau, phía ngoài đóng thêm bìa màu gạch non. Sách được in trên giấy dó mỏng, khổ 15x26cm. Sách bị nát và hoen ố nhiều. Sách gồm đầy đủ 70 tờ, trong đó nội dung chính gồm 65 tờ.

12. ĐNQSDC ký hiệu R.145, in năm Tự Đức 34 tại nhà in Trí Trung đường, không còn bìa cậy và được đóng thêm bìa học sinh. Sách được in trên giấy dó, khổ 14x25cm, gồm đầy đủ 70 tờ: 1 tờ in tên sách và Quốc hiệu thông khảo, 4 tờ Đại Nam ca mục lục và 65 tờ nội dung chính.

13. ĐNQSDC ký hiệu R.282, in năm Duy Tân 2 tại nhà in Quan Văn đường. Sách được đóng bằng bìa cậy nhưng lại đóng thêm bìa học sinh màu xanh ở ngoài. Sách được in trên giấy lệnh, khổ 14,5x26cm. Bản in nhòe, chữ khắc xấu nhiều chỗ nhìn không rõ chữ. Khuôn chữ to hơn so với các bản in khác. Bản in đôi chỗ không có dấu khuyên tròn ở đầu những câu biểu thị Phạm Đình Toái đã giữ nguyên như nguyên tác, chữ in sai khác khá nhiều. Hai tờ đầu và tờ cuối do quá cũ nát nên đã được bồi thêm giấy bản mỏng ở giữa. Việc đóng quyển cũng có những sơ suất nhỏ như tờ 46 đóng lộn sau tờ 48.

14. ĐNQSDC ký hiệu R.478, in năm Duy Tân 2 tại nhà in Quan Văn đường. Sách không còn bìa cậy và đã được đóng thêm hai lớp bìa - bìa học sinh màu đỏ (ở trong) và bìa màu xanh (ở ngoài), khổ 14,5x28cm. Sách được in trên giấy dó chất lượng khá tốt, giấy khá mỏng. Chữ in rõ ràng sắc nét tuy nhiên cũng có một số chữ, một số trang nét chữ bị nhòe.

15. ĐNQSDC ký hiệu R.213, in năm Duy Tân 2 tại nhà in Liễu Văn đường. Sách không còn bìa cậy mà đã được đóng bằng bìa học sinh màu xanh. Sách được in trên giấy dó, khổ 15x26,5cm. Sách gồm đầy đủ 70 tờ. Một số tờ bị mối xông nhất là tờ cuối cùng bị mối xông nát. Trong hai bản Duy Tân này, bản R.213 được in rõ hơn, chữ viết cũng không sai khác so với các bản in trước đó.

1.3. Viện Sử học (VSH)

16. ĐNQSDC ký hiệu Hv.326, in năm Tự Đức 26 tại nhà in Chuyết Hiên đường. Sách vẫn còn giữ được bìa cậy nhưng đã được đóng thêm 2 tờ bìa lót (1 tờ bìa học sinh màu hồng và một tờ xi măng), ngoài cùng là bìa cứng hoa gáy vải, được in trên giấy lệnh, khổ 16x27cm. Sau phần nội dung chính của sách còn thấy đóng thêm bản in Quy khứ lai từ (gồm 4 tờ) và bài bạt của Quy khứ lai từ (gồm 3 tờ viết tay).

17. ĐNQSDC ký hiệu Hv.327. Sách không có bìa cậy mà đã được đóng lót bằng bìa học sinh màu xanh trứng sáo và ngoài cùng là bìa cứng hoa gáy vải. Sách được in trên giấy dó, khổ 26x14,5cm. Tờ ghi niên đại bị rách nát chỉ còn lại dòng chữ Hán ... niên Mậu Thân thu Liễu Văn đường tàng bản. Những dòng chữ này cho phép khẳng định đây là bản in vào mùa thu năm Mậu Thân niên hiệu Duy Tân thứ hai của nhà in Liễu Văn đường. Sách gồm đầy đủ 70 tờ: 1 tờ ghi tên sách (tuy đã bị rách nát), 4 tờ Đại Nam ca mục lục và 65 tờ nội dung. Sách cũng bị rách nát và in nhòe nhiều chỗ.

1.4. Viện Văn học (VVH)

18. ĐNQSDC ký hiệu HN.551, in năm Tự Đức 23 tại nhà in Trí Trung đường. Sách vẫn còn giữ được bìa cậy nhưng đã đóng thêm bìa học sinh màu xanh ở giữa và ngoài cùng là bìa cứng hoa gáy vải. Bản in trên giấy lệnh chất lượng xấu, bản in mờ nhòe nhiều chỗ, trong sách có nhiều vết ố. Các tờ in tên sách và tờ 65 bị rách nát ở góc phải.

19. ĐNQSDC ký hiệu HN.332, in năm Tự Đức 34 tại nhà in Trí Trung đường. Sách không còn bìa cậy, được đóng bằng bìa cứng hoa đỏ gáy bằng vải đen và được đóng lót bằng giấy báo và giấy xi măng. Ở tờ in niên đại có dòng chữ Hán Nguyễn Văn Cần mãi quyển sách (Sách do Nguyễn Văn Cần mua). Sách bị rách nát ở phần mép sách in thứ tự các tờ (từ tờ 46 đến 65). Sách được in trên giấy dó mỏng, trong văn bản còn lưu lại nhiều dấu điểm son đỏ của người đọc sách.

* Về các văn bản chưa rõ năm in

20. ĐNQSDC ký hiệu Hv.591 hiện lưu giữ tại VSH. Sách vẫn còn giữ được bìa cậy đen nhưng lại được đóng lót bằng tờ giấy xi măng và ngoài cùng là bìa cứng hoa gáy vải. Ở tờ bìa cậy đen có dán thêm mẩu giấy nhỏ ghi dòng chữ Hán 大 南 國 史 演 歌 và phía dưới là dòng chữ quốc ngữ Đại Nam Quốc sử diễn ca (sách Hoa Bằng). Sách được in trên giấy dó, khổ 14,5 x 26 cm. Sách quá cũ nát và đã bị để mất tờ đầu in tên sách, năm và nhà in. ở nhiều trang, chữ mờ không rõ đều được tô lại bằng bút mực đỏ. Sách gồm 69 tờ: 4 tờ mục lục và 65 tờ nội dung chính. Phần mục lục còn lưu lại nhiều dấu bút đỏ viết chữ Hán chằng chịt suốt mặt trang sách.

21. ĐNQSDC ký hiệu VNv.118 hiện lưu giữ tại VHN. Sách bị mất tờ in tên sách, niên đại và nhà in. Sách được đóng bằng bìa cậy và được bảo quản khá tốt. Nội dung được in trên giấy lệnh, chữ in đôi chỗ bị mờ nhòe không rõ, khổ 15x26cm. Sách gồm 67 tờ: 3 tờ Đại Nam ca mục lục (mất tờ 1), phần nội dung chính bị mất tờ 65. Trong khi đóng quyển đã để lại một số sai xót như: tờ 14 đóng sau tờ 19, tờ 21 đóng sau tờ 28 và tờ 24 đóng sau tờ 13.

22. ĐNQSDC ký hiệu VNv.5 hiện lưu giữ tại VHN. Sách bị mất tờ in niên đại và nhà in. Sách được đóng bằng bìa cậy và được in trên giấy dó khổ 14,5x26cm. Văn bản quá cũ nát: tờ in Đại Nam ca mục lục và các tờ 60 đến 65 đều bị nát và bị mất nhiều chữ nên đã được bồi thêm 1 tờ giấy bản ở giữa. Sách gồm 68 tờ: 4 tờ Đại Nam ca mục lục và 64 tờ nội dung chính (bị mất tờ cuối và được đóng thêm tờ viết tay ghi nội dung của tờ 65 thay vào chỗ bị mất).

23. ĐNQSDC ký hiệu R.1637 hiện lưu giữ tại TVQG. Sách bị mất tờ in tên sách, niên đại và nhà in; không đóng bìa mà chỉ bọc ngoài bằng tờ bìa học sinh màu xanh. Sách được in trên giấy dó gồm 69 tờ (mất tờ đầu ghi niên đại), khổ15x25,5cm. Chất lượng bản in tồi, nhiều chỗ chữ in mờ nhìn không rõ chữ. Sách đã không được bảo quản tốt: văn bản quá cũ nát, ở nhiều tờ phần nếp gấp giữa hai mặt a và b đã bị tách rời hẳn ra.

24. ĐNQSDC ký hiệu R.491 hiện lưu giữ tại TVQG. Sách vẫn còn bìa cậy nhưng lại được đóng thêm ngoài bằng bìa học sinh màu xanh. Sách được in trên giấy dó mỏng, khổ 14,5x25cm, gồm 65 tờ. Chất lượng bản in không đồng đều: có chỗ chữ rõ nét dễ đọc nhưng cũng không ít chỗ bị mờ, những chữ bị mờ này đều được tô lại bằng mực tàu hoặc mực đỏ. Sách bị mất tờ in tên sách, niên đại và nhà in.

Với những bản chưa rõ năm in này, chúng tôi đã khảo cứu bằng cách chọn ra một số chữ ở hai văn bản Tự Đức 23 và Tự Đức 34 làm căn cứ để đối chiếu với 5 văn bản này. Ví dụ ở văn bản Tự Đức 34 có một số đặc điểm sau: Chữ con viết thiếu nét ngang ở giữa của bộ nhật trong câu sau:

Đã phong Đinh Liễn con đầu
Hạng Lang là thứ lẽ nào đổi thay
(25a,6)

Chữ kết đã viết bộ sĩ ở trên giống như là bộ giàng đầu trong câu:

Họ Trần từ ấy nổi lên
Kết bè thích lý dựng nền tiếm giai
(31a, 6)

Chữ đêm viết thiếu nét ngang ở giữa của bộ nhật trong câu:

Đêm ngày riêng một buồng the
Cướp quyền đích trưởng dựng bè đồng mông (56b, 5)

Các chữ học trong bản Tự Đức 34 đều ở dạng giản thể :

Tuyên Phi học thói buông mành
Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghi
(57a,5)

Lại nữa văn bản Tự Đức 34 có hai tờ 31 và 40 đều không có dải phân cách giữa hai câu lục và bát mà lại là viết liền nhau. Căn cứ vào những chỗ khác nhau trên, chúng tôi đã đối chiếu với 5 văn bản không rõ niên đại vừa nêu thì thấy bản VNv.5 của VHN mang đầy đủ các đặc điểm của bản Tự Đức 34, các bản còn lại: bản Hv.591 của VSH, VNv.118 của VHN và hai bản R.491 và R.1637 của TVQG đều được chúng tôi xếp vào nhóm văn bản Tự Đức 23.

II. Về các bản chép tay sách ĐNQSDC

Với số lượng khiêm tốn, các văn bản chép tay đã có thể giúp ta phần nào hiểu thêm về lịch sử truyền bản của tác phẩm. Như ta đã biết, văn bản khởi thảo tác phẩm diễn ca này do ông Lê Ngô Cát vâng mệnh vua sửa chữa sử cũ. Từ bản khởi thảo này đến bản khắc in hoàn chỉnh vào năm 1870, tác phẩm đã trải qua nhiều lần sửa chữa, cũng có không ít các nhà nho đã cùng tham gia nhuận chính tác phẩm này như các ông Trương Phúc Hào, Phạm Xuân Quế... và phần nổi trội hơn cả là ông Phạm Đình Toái. Các văn bản chép tay hiện còn tìm thấy được gồm:

25. ĐNQSDC ký hiệu R.540 hiện đang lưu giữ tại TVQG, gồm 76 tờ. Nét chữ đa dạng (chữ to và nhỏ, chữ chân phương và thảo, nét chữ cứng và mềm mại...) được viết trên các chất liệu giấy khác nhau, khổ 27x15,5cm. Mỗi tờ viết 2 mặt, mỗi mặt 2 dòng. Sách được đóng bằng bìa màu hồng luồn chỉ theo suốt chiều dọc của sách. Sách không ghi mục lục và Quốc hiệu thông khảo. Phần nội dung chính diễn ca lịch sử đến hết đời Trần và được ghi ở tờ đầu tiên ngay sau tờ bìa hồng. Phần diễn Nôm được viết liên tục các câu lục và bát, sau một đoạn thơ Nôm là phần giải thích bằng chữ Hán được viết to hơn và nhô cao hơn phần chữ Nôm.

26. ĐNQSDC mang ký hiệu R.267 của TVQG, gồm 71 tờ. Chữ viết tương đối đều đặn tròn trịa trên giấy lệnh khổ 27,5x15,5cm. Mỗi tờ viết 2 mặt, mỗi mặt 7 dòng và mỗi dòng gồm có một đôi câu lục bát. Toàn bộ được đóng bằng bìa cậy và lót sau tờ bìa là một tờ giấy có viết chữ. Phần nội dung diễn ca hết câu 1017 của bản in 1870.

27. ĐNQSDC ký hiệu Hv.329 hiện đang lưu giữ tại VSH, được viết trên giấy lệnh khổ 12,5x27cm. Sách đóng bằng bìa cứng gáy vải, bên trong được đóng lót bằng bìa học sinh màu xanh. Sau tờ bìa lót là phần nội dung gồm Đại Nam ca mục lục (7 tờ), phần diễn ca đánh số từ tờ 1 đến 49, cuối sách là phần tạp chép (Hộ mệnh thần chú). Sách viết 2 mặt, mỗi mặt 6 dòng. Sách không có phần chữ Hán, các câu thơ Nôm được viết liên tục không có dải ngăn cách giữa câu lục và câu bát. Sách chép hết câu 994 của bản in AB.1.

28. ĐNQSDC mang ký hiệu Hv.328 của VSH, được viết trên giấy dó khổ 15x26,5cm. Sách vẫn được bảo quản bằng bìa cậy nhưng lại đóng thêm bìa cứng gáy vải ở ngoài. Trên mỗi mặt trang giấy là 8 dòng chữ chia làm hai phần - phần chữ Hán và chữ Nôm riêng biệt. Sau tờ bìa cậy là nội dung sách: tờ đầu mặt trước ghi bài tựa; mặt sau ghi tên sách, niên đại và nhà in (Tự Đức 34 Tân Tỵ thu Trí Trung đường) sau đó là Quốc hiệu thông khảo. Tờ 2 ghi Đại Nam sử ca mục lục, từ tờ 4 đến 68 ghi nội dung chính (phần diễn ca).

29. Việt sử quốc ngữ, ký hiệu AB.6 của VHN. Sách đóng bìa cậy và được bảo quản khá tốt; nội dung được viết trên giấy lệnh khổ 23x32,5cm. Ở mặt sau của tờ giấy lót thứ 3 có ghi “phàm quốc hiệu gia (4), phàm nhân tính danh gia (1)” ... Phần diễn ca (có kèm thêm cả phần chữ Hán viết nhỏ ở trên) được viết ngay tờ tiếp sau (tờ 1 quyển 1). Dòng thứ nhất của tờ 1 có dòng chữ Đại Nam sử ký quốc ngữ quyển chi nhất, sách (hiện còn giữ được) gồm 4 quyển diễn ca lịch sử từ thời Hồng Bàng đến hết đời Lê Thuần Tông. Sách chép 2 mặt, mỗi mặt có 9 dòng chữ. Đáng lưu ý là ở phần mép gập giữa hai mặt a và b của sách có viết tên sách là Việt sử quốc ngữ (chứ không phải là Đại Nam sử ký quốc ngữ).

Văn bản Hv.328 có ghi rõ niên đại nên có thể đoán định đây là bản nháp trước khi hiệu Trí Trung đường cho tái bản sách này vào năm Tự Đức 34. Bởi vậy chúng tôi sẽ chỉ tìm hiểu các truyền bản ĐNQSDC dựa vào 4 văn bản còn lại không ghi niên đại (bản số 25, 26, 27 và 29). Căn cứ vào mức độ sai khác của 4 văn bản chép tay này với bản in AB.1(1870), chúng tôi sẽ chia thành 2 nhóm để khảo sát như sau:

1. So sánh văn bản R. 540 và R. 267 với bản in AB. 1

Sự khác biệt giữa bản in với hai bản chép tay R.540 và R.267 chính là sự khác nhau ở cách dùng từ, đặt chữ. So với hai bản chép tay, từ ngữ được dùng trong bản in hay hơn, chuẩn xác hơn, các chữ viết sai ở hai bản chép tay cũng đã được sửa chữa lại ở bản in. Điều này chứng tỏ bản in đã qua ít nhất là hai lần sửa chữa.

- Theo số liệu thống kê của chúng tôi, bản in đã sửa chữa được những chữ viết sai hoặc dùng chưa chuẩn của hai bản chép tay: 23 chữ ở bản R.540 và 10 chữ ở bản R.267. Đó là việc tu từ ở đoạn sử ca viết về hai vị quan thanh liêm Hòa Chi và Nguyên Cán vào thời Bắc thuộc khi mà đất Giao Châu gặp biến loạn. Sau khi dẹp yên giặc Lâm ấp hai ông liền bỏ quan về quê, bọn Tràng Nhân và Lưu Mục nhân đó mà làm loạn, bản in đã dùng từ “vắng kẻ” thay cho từ “vắng mặt” ở bản R.540:

Từ khi vắng kẻ chiết xung
Tràng Nhân Lưu Mục tranh hùng mấy phen.

Ca ngợi tài mưu lược của Lê Đại Hành, bản in đã sửa dùng từ “trí lược” thay cho “trí dũng” của bản R.540:

“Đại Hành trí lược thực là cũng ghê”

Để thực hiện việc đối ý đối chữ trong một câu thơ, bản in đã sửa dùng biển thay cho vắng của bản R.267:

“Bốn phương biển lặng trời thanh một mầu” (3a. 7).

Bản in thấy dùng từ “mới có” chỉ sự thay đổi khi vua nhà Hán bắt đầu sai Tích Quang sang làm thái thú đất Giao Chỉ thay cho từ “trước gọi” như ở bản R.267:

Tuần tuyên mới có Tích Quang
Dạy dân lễ nghĩa theo đường Hoa phong.

Hai bản chép tay có một số chữ ngờ là sai do tự dạng gần giống nhau, các chữ này đều được chữa lại ở bản in: Sửa chữ đà , 思 và chửa 渚 của bản R.540 thành các chữ bao 包, úy 畏 và nước 渃 ở bản AB.1:

“Trải bao phân loạn mới sang trị bình” (24a.8).

“Quan hiền ai chẳng úy uy”(20a. 3)

“Bặc, Điền vì nước liều mình”.

sửa chữ khéo thay cho không 空 ở bản R.267:

Hổ lui lang tới khéo thay
Mạc kia vừa dẹp Trịnh này lại lên

Những lỗi sửa như trên chỉ là sửa chữa nhỏ sau khi Phạm Đình Toái nhuận chính bản của Lê Ngô Cát. Có thể nói đây là hai văn bản do các nhà nho nhuận sắc thêm sau khi đọc bản nhuận chính của Phạm Đình Toái. Điều cần quan tâm là đi tìm nguyên bản nhuận chính của Phạm Đình Toái.

2. So sánh văn bản Hv. 329 và AB. 6 với bản in AB. 1

Bản chép tay Hv.329 diễn ca lịch sử đến hết câu 994 của bản in (hết thời Lê mạt). Nếu đem so sánh bản Hv.329 với bản in thì thấy bản Hv.329 đi sát từng câu, từng sự kiện lịch sử mà bản in đã diễn. Sự khác nhau của hai văn bản này phần lớn là về mặt chữ nghĩa, ở cách dùng từ đặt chữ: bản in đã sửa các chữ đào, lâm, trong ai của bản Hv.329 thành các chữ vàng, thôn, một khi như đã thấy ở đoạn nói về Triệu Kiều:

Cửu Chân có ả Triệu Kiều
Vú dài ba thước tài cao muôn người
Gặp cơn thảo muội cơ trời
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang
Đầu voi phất ngọn cờ vàng
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà
khi chiến tử còn là hiển linh.
(AB.1).

Tuy nhiên cũng không phải là không có chỗ thêm bớt sửa chữa câu so với bản in. Chúng tôi đã tiến hành điều tra và thấy rằng bản Hv.329 có 28 câu đã được sửa chữa lại ở bản in, có 11 câu của bản in không thấy có trong bản Hv.329 và 4 câu của bản Hv.329 bị lược bớt ở bản in. Xin tham khảo thêm một sự sửa chữa:

Đại La bốn cửa mở thông
Hai châu Hoan Ái nên công đắp thành
(Hv.329)

thì bản AB.1 sửa là:

Đại La mới đắp lũy vòng
Ái Châu thành cũ đều cùng tái tu

Sự sửa chữa như trên là không nhiều, đọc bản Hv.329 ta vẫn thấy như đọc chính bản mà Phạm Đình Toái đưa in. Có thể nghĩ đến khả năng Hv.329 chính là nguyên bản nhuận chính (nguyên bản X) của Phạm Đình Toái ?

* Văn bản Việt sử quốc ngữ (AB.6) và bản in AB.1

So với bản in AB.1, bản AB.6 có sự khác biệt khá lớn về số câu, cách sử dụng từ ngữ và cả cách diễn đạt. Có những đoạn về Hùng Vương ở bản AB.6 chỉ diễn ca thành 4 câu:

Hùng Vương ra ở Châu Phong
Thu ngoài Âu Việt vào trong thê hàng
Đặt tên là nước Văn Lang
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng dày
Dần dần phép tắc đã hay
Vua rày có hiệu, quan rày có tên
Lạc hầu là tướng điều nguyên
Võ là lạc tướng chức chuyên nhung trù.

Trong khi đó ở bản in đã diễn thành một đoạn dài 12 câu. Bản này giữ lại các câu thứ nhất, hai và tư ở bản AB.6, câu thứ ba được thay thế bằng một đoạn dài lê thê gồm 9 câu nói về địa chí nước ta thời vua Hùng.

Trái lại có rất nhiều đoạn ở bản in đã rút gọn đi khá nhiều so với bản AB.6 như đoạn diễn ca lịch sử thời Đông Hán chẳng hạn. Bản in đã rút gọn chỉ còn 6 câu trong khi đó ở bản AB.6 thì lại diễn ca dài tới 37 câu (!) Nếu đối chiếu nội dung đoạn này ở AB.6 và Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) thì thấy các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử được diễn ca ở AB.6 xuất hiện tuần tự theo thời gian giống như sách ĐVSKTT và điều cần chú ý là bản AB.6 cũng không hề bỏ sót một nhân vật nào mà ĐVSKTT đã ghi. Nhưng ở bản in thì lại khác: một số nhân vật và sự kiện lịch sử không nổi bật đã bị lược bỏ; hơn nữa các nhân vật lịch sử gắn với các sự kiện chính cũng được tổ chức sắp xếp lại theo nhu cầu chỉnh sửa gọt giũa câu, nhu cầu đặt vần thơ. Điều này có thể thấy rõ ở đoạn diễn ca thời từ Thuận Đế về sau. ở thời kỳ này có hai nhân vật đáng được dân chúng kính trọng là Hạ Phương và Giả Phụ, cũng có hai sự kiện chính là việc bọn Khu Liên đánh phá quận huyện giết trưởng lại và bọn Man Ô Hử làm loạn. Đó là tất cả những gì mà bản in nhắc đến. Với tác giả của bản in AB.1 thì bọn người như Khu Liên và Ô Hử không đáng để cho ông lưu tên trong sử sách, cho nên tuy là nhắc đến hai sự kiện đó nhưng ông lại chỉ nêu tên những người ít nhiều đã có công đánh dẹp chúng; đoạn Lý Cố trả lời vua Hán về phương lược đánh bọn Khu Liên (dài tới 5 câu) cũng bị cắt bỏ ở bản AB.1.

Mối quan hệ của hai văn bản này với bản in có thể hình dung như sau: Bản Hv.329 là kết quả của sự sửa chữa từ bản AB.6 để rồi đến lượt mình, bản Hv.329 lại là đối tượng của sự sửa chữa để cho ra đời bản AB.1 ngắn gọn súc tích hơn. Đoạn thứ sử Lý Tiến dâng lời tâu lên vua Hán về việc tuyển dụng người hiền tài nước Việt là một ví dụ:

Ba năm thăng trạc về chầu
Có ngươi Lý Tiến người đâu nước mình
Chức là phu tự đã đành
Lại mong tiến kẻ tài lành bên ta
Tâu rằng Thánh đức cao xa
Cỏ cây đâu đó cũng là khí xuân
Khắp trời ai cũng Vương thần
Dùng tài há hạn kẻ gần người xa
(AB.6)

bản Hv.329 sửa thành:

Ba năm thăng trạc về chầu
Nước ta Lý Tiến nối vào quan giai
Nam phiên dành một chức ngoài
Lại mong suy tiến hiền tài nước ta
Rằng sao Nam Bắc một nhà
Kẻ gần quý hiển người xa oán sầu

và cuối cùng bản AB.1 đã rút gọn đi chỉ còn có hai câu:

Ba năm thăng trạc về chầu
Thổ quan Lý Tiến mới đầu nam nhân
Sớ kêu ai chẳng vương thần
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhau.

Trong khi chưa có điều kiện khảo cứu kỹ càng các văn bản cũng như chưa thể tìm thêm được các di văn của hai ông, chúng tôi chưa thể đưa ra những nhận định xác đáng về văn bản khởi thảo của Lê Ngô Cát, về nguyên bản nhuận chính của Phạm Đình Toái. Thế nhưng những gì đã thấy ở trên có thể giúp ta vẽ nên quá trình truyền bản của các văn bản chép tay ở trên như sau:

AB.6® Hv.329® R.540 / R.267® AB.1 và các bản in tiếp sau đó

Các văn bản ĐNQSDC hiện lưu giữ tại các thư viện ở Hà Nội hiện nay có thể hệ thống ở bảng sau:

Bảng phân bố các văn bản ĐNQSDC tại các Thư viện ở Hà Nội



L.M.H

TB

TỪ MỘT BẢN DỊCH ĐẾN VẤN ĐỀ VĂN BẢN CỦA HOÀNG VIỆT ĐỊA DƯ CHÍ

NGUYỄN ĐỨC TOÀN

Hoàng Việt địa dư chí (HVĐDC) là một bộ sách về địa lý Việt Nam, được khắc in lần đầu tiên vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Sau lại được nhiều nhà in khác cho tái bản và nhiều người sao chép, truyền tay nhau lưu giữ. Hiện nay trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) có tới 17 ký hiệu trong đó có 5 ký hiệu là chép tay. Đó là chưa kể đến các bản hiện còn đang lưu giữ tại các thư viện khác.

Trước hết xem xét HVĐDC so sánh với phần Dư địa chí trong Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú ta thấy rất gần gũi, nếu như không nói là tương đối giống nhau. Cùng một tác giả, cùng ra đời trong một thời đại là dưới triều Minh Mệnh (1820-1840). Năm 1819 Phan Huy Chú soạn xong LTHCLC, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) ông dâng bộ sách này lên vua Minh Mệnh và được nhà vua khen thưởng(1). Mười hai năm sau HVĐDC cũng được khắc in, căn cứ vào bản in cũ nhất hiện còn là năm 1833. LTHCLC chủ yếu là nghiên cứu khảo sát từ thời Lê trở về trước(2) lấy phần trấn Thanh Hoa là đất căn bản của nhà Lê - Trịnh làm mở đầu. Trong khi đó HVĐDC khảo sát được cả những thay đổi, địa danh mới dưới thời Nguyễn, chép thêm được thành Gia Định, trấn Hà Tiên, lấy phần kinh sư của vương triều Nguyễn làm phần mở đầu, phần này trong LTHCLC không có. Xét về nguồn gốc văn bản, chúng ta có thể xem phần Dư địa chí trong LTHCLC là phần tư liệu nền tảng để Phan Huy Chú sắp xếp, chỉnh lý lại mà biên soạn ra HVĐDC thành một bộ sách địa lý riêng, hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.

Cách trình bày của HVĐDC được chia làm hai quyển. Bắt đầu từ diên cách các trấn (hoặc tỉnh thành), nói bao quát chung về toàn trấn; thứ đến là từng phủ, bao gồm các khu vực hành chính trực thuộc (Có phần nói về đền chùa, danh thắng, con người, sản vật, công nghệ, học hành khoa cử..., có nhiều địa danh còn nhắc đến cả thơ đề vịnh của các danh nhân đời trước).

Quyển 1: + Thuận Hóa, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận; Gia Định, Vĩnh Thanh, Phiên An, Định Tường, Biên Hòa, Hà Tiên; Hà Nội, Nam Định, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương.

Quyển 2: + Yên Quảng, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An.

Tìm hiểu về lịch sử vấn đề nghiên cứu HVĐDC, chúng tôi được biết tác phẩm này đã được nhà nghiên cứu Phan Đăng phiên dịch và đã được xuất bản(3). Tuy nhiên, khi đọc bản dịch này, chúng tôi phát hiện ra nhiều điểm còn chưa được thống nhất, có nhiều chỗ nhầm lẫn về số trang, mâu thuẫn trong việc đặt thứ tự các địa danh lịch sử văn hóa. Nhất là trong phần dịch về Hà Nội, bản dịch đã nhầm lẫn khi sắp xếp những địa danh lịch sử văn hóa nổi tiếng, vốn có ở ngay giữa lòng Hà Nội như: chùa Huy Văn, Báo Thiên, Trấn Quốc, Một Cột, Yên Lãng (chùa Láng), Bà Ngô, Quán Sứ, Huyền Thiên, Trấn Võ lại được xếp sau mục phủ Lý Nhân (một phân phủ trực thuộc tỉnh thành Hà Nội dưới triều Nguyễn, mà hiện nay thuộc tỉnh Hà Nam)(4). Từ những băn khoăn về bản dịch của tác phẩm địa dư nổi tiếng này, chúng tôi đi vào khảo sát văn bản của nó nhằm tìm lời giải đáp cho những nhầm lẫn của bản dịch.

I. Giới thiệu văn bản

VNCHN hiện có 17 ký hiệu khác nhau mang tên HVĐDC (trong đó có 5 ký hiệu chép tay). Thư viện Quốc gia (TVQG) hiện còn 8 ký hiệu mang tên HVĐDC (trong đó có 2 ký hiệu chép tay). Chúng tôi soát lại 25 ký hiệu thì nhận thấy trên thực tế chỉ có 22 văn bản, vì có những bản được đóng chia thành hai quyển nên các bộ thư mục để hai ký hiệu khác nhau. Hai bản cùng ở TVQG là R.130 (quyển 1) và R.1775 (quyển 2) là một bộ. Hai bản mang hai ký hiệu khác nhau theo thứ tự là: VHv.2423 và VHv.2424 là một bộ đóng thành 2 quyển. (bản VHv.2423 là quyển 1, VHv.2424 là quyển 2). Hai bản viết tay mang hai ký hiệu VHv.1836/1; VHv.1837/2, cũng là một tập chép tay chia đóng làm 2 quyển. Căn cứ vào niên đại, nơi phát hành và thể loại văn bản, chúng tôi chia 22 văn bản sẵn có này thành 4 nhóm. Ký hiệu A VHv là ký hiệu của VNCHN; Ký hiệu R là ký hiệu của TVQG:

+ Nhóm 1 là những văn bản được khắc in năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), nhóm này gồm 7 văn bản: A.1074 in tại Hội Văn đường; VHv.1653, VHv.625, VHv.1476, A.2617, VHv.1710 in tại Quảng Văn đường và R.962 (không đề nhà in chỉ còn quyển 1).

+ Nhóm 2 là những văn bản khắc in năm Thành Thái thứ 9 (1897), nhóm này gồm 7 văn bản: A.71, VHv.1475, VHv.1654, VHv.1910, R.257, R.164, R.1775 (quyển 2) - R.130 (quyển 1) in tại Tụ Văn đường.

+ Nhóm 3 là những văn bản khắc in năm Duy Tân nguyên niên (1907), nhóm này gồm 2 văn bản: VHv.2423 - VHv.2424, R.408 in tại Quan Văn đường.

+ Nhóm 4 là những văn bản viết, nhóm này gồm 6 văn bản: VHv.175, VHv.1836/1- VHv.1837/2, A.880, A.1475, R.268 (Tự Đức 24 - 1871), R.1982 (Ngoài bìa đề là Nam Việt địa dư sử ký)

II. Khảo sát văn bản

1. Phân tích các bản chép tay

Các bản chép tay đều có nguồn gốc sao lại từ một trong ba nhóm bản in. Trong đó, bản A.880 và bản VHv.175 đề dòng chữ ở bìa lót là: “Minh Mệnh thập tứ niên tân thuyên”. Tức là hai bản này chép lại từ bản in thuộc nhóm 1. Bản VHv.1836/1-1837/2 có những điểm nhầm lẫn nhiều so với các bản khác, kiểu nhầm gần giống với bản dịch của Phan Đăng. Đó là thứ tự trình bày, nhất là trong phần địa dư về Hà Nội mà chúng tôi sẽ giới thiệu, bản này đã thể hiện những mâu thuẫn cơ bản trong thứ tự trình bày địa lý hành chính, chứng tỏ được chép lại từ một bản in đóng lộn xộn không có thứ tự.

2. Phân tích các bản in

Về các bản in, tuy rằng niên đại in khác nhau, song theo nhà thư tịch học Trần Văn Giáp thì: bản khắc in năm 1907 chỉ là bản khắc lại bản in năm Minh Mệnh thứ 14 (1833). Theo chúng tôi, cả bản in năm Thành Thái thứ 9 (1897) cũng giống với các bản nhóm 1 và nhóm 3. Có nghĩa là khắc in lại y nguyên bản cũ, vẫn mỗi trang 9 dòng, mỗi dòng 21 chữ, các hàng chữ nhỏ chú thích trong các bản in trước cũng được giữ nguyên không có bổ sung thay đổi gì về mặt nội dung và kết cấu. Vậy vấn đề là ở đâu ? Đếm lại từng số trang, chúng tôi nhận thấy vấn đề nảy sinh ở chỗ thứ tự các tờ của các bản nhóm 2 khác với thứ tự các bản nhóm 1 và nhóm 3. Thứ tự sắp xếp các trang của các nhóm văn bản trong phần về tỉnh Hà Nội có sự khác biệt, tạo thành những nhầm lẫn cơ bản về thứ tự địa danh hành chính, lịch sử của vùng Hà Nội.

Phần Hà Nội bắt đầu từ dòng thứ nhất, tờ 18a, quyển 1 và kết thúc ở dòng 8 tờ 27a, quyển 1. Bao gồm 5 phủ, 20 huyện: 1. Phủ Hoài Đức: huyện Thọ Xương, huyện Từ Liêm (phụ thêm phần Linh Từ tự quán); 2. Phủ Thường Tín: huyện Thanh Trì, huyện Thượng Phúc, huyện Phú Xuyên; 3. Phủ ứng Thiên: huyện Thanh Oai, huyện Sơn Minh, huyện Chương Đức, huyện Hoài An; 4. Phủ Lý Nhân: huyện Nam Xương, huyện Duy Tiên, huyện Thanh Liêm, huyện Bình Lục, huyện Kim Bảng; 5. Phủ Khoái Châu: huyện Đông An, huyện Tiên Lữ, huyện Kim Động, huyện Phù Dung, huyện Thiên Thi.

Nhưng trong phạm vi từ tờ 18a đến tờ 27a, lại có hiện tượng thêm các tờ đánh số theo kiểu có chua thêm chữ “thượng” ở trên số trang. Bắt đầu từ phần chép các danh thắng thuộc tỉnh Hà Nội, tờ 19 có phần Linh Từ tự quán của phủ Hoài Đức. Nghĩa là ở mép gấp của tờ đôi, bên trên đề tên sách là 皇 越 地 輿 誌 Hoàng Việt địa dư chí", dưới là hình ngư vĩ đơn úp xuống, đề “卷 一 Quyển nhất", rồi đến số trang, đề “上, 十 九 Thượng, thập cửu", lẫn cùng các trang đánh số bình thường không có chua chữ "thượng". Từ tờ 19 đến tờ 26 có tất cả 16 tờ, trong đó 8 tờ có chữ "thượng" (19 thượng, 20 thượng, 21 thượng, 22 thượng, 23 thượng, 24 thượng, 25 thượng, 26 thượng); 8 tờ không có chữ "thượng" (19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26). Còn các phần về tỉnh khác đánh số bình thường. Vậy cách đánh số như vậy có dụng ý gì ? và sắp xếp thứ tự của chúng như thế nào là đúng ? Đối chiếu thứ tự số tờ trong phần Hà Nội có thể chia thành ba kiểu sắp xếp thứ tự như sau:

Cách 1 (C1). Xếp hết tất cả các tờ có chua chữ "thượng" lên trên, rồi mới quay trở lại các tờ không chua chữ "thượng".

Tờ 19 thượng => tờ 20 thượng... tờ 26 thượng => tờ 19 => tờ 20... tờ 26.

Cách 2 (C2). Là sắp xếp theo lớp thứ tự cứ 1 tờ có chữ "thượng" để lên trên 1 tờ không chua chữ "thượng".

Tờ 19 thượng => tờ 19 ... tờ 26 thượng => tờ 26.

Cách 3 (C3). Là kiểu sắp xếp lẫn lộn, không theo 2 cách trên. Đây là trường hợp của bản A.71, nhóm 2.

19 => 20 => 21 => 19 thượng => 20 thượng => 20 (in nhầm thành 32) =>21 thượng => 22 thượng => 23 thượng => 24 thượng => 25 thượng => 23 => 24 => 26 thượng => 25 => 26.

Đối chiếu theo các sách về địa dư khác như: Đại Nam nhất thống chí; LTHCLC - Địa dư chí; chúng tôi thấy các văn bản có số tờ sắp xếp như C1 là rất nhất quán về nội dung, mạch văn không bị đứt quãng. Thứ tự hành chính các cấp trong phạm vi trình bày không bị lộn xộn, không hề có sự nhầm lẫn về vị trí các địa danh văn hóa, lịch sử. Đây là trường hợp của các văn bản nhóm 1, nhóm 3 và hai bản VHv.1654 và R.257 của nhóm 2. Các văn bản có tờ xếp theo C2 và C3, ta thấy mạch văn có chỗ bị đứt quãng rời rạc, không đúng thứ tự các đơn vị hành chính mà các sách về địa dư khác mô tả về tỉnh Hà Nội, phạm những sai lầm cơ bản về địa danh như chúng tôi đã nhắc đến ở phần mở đầu. Đây là trường hợp của các văn bản nhóm 2 và bản VHv.1836/1 - 1837/2 của nhóm 4. Bản thân các văn bản thuộc nhóm 2 cũng có một số lời phê của người duyệt sách đề ở lề trên:

a/ Bản VHv.1475, lề trên của các tờ trong phần về Hà Nội có những hàng chữ chua mực son, kiểu đọc sách của các cụ đồ xưa. Cụ thể là:

Tờ 19: 此 張 舛, 在 下 (Thử trương suyễn, tại hạ) = Trang này sai, nằm ở phía dưới.

Tờ 20 thượng, 20: 此 張 舛, 在 上 (Thử trương suyễn, tại thượng) = Trang này sai, nằm ở trên.

Tờ 21 thượng: 此 數 張 錯, 在 上 (Thử số trương thác, tại thượng) = ở đây mấy trang nhầm, đặt ở trên.

Tờ 21: 剩 (Thặng) = Thừa (ý nói trang này xếp thừa, không có)

Tờ 23: 錯 (Thác) = Nhầm.

Hơn nữa còn thiếu hai phủ Lý Nhân, Khoái Châu. Đến tờ thứ 61, 62, lại bị mất và phải chép lại bằng bút lông đóng bổ sung thêm vào. Nghĩa là bản này đã bị mất mát, người sau phải chép thêm đóng vào cho đủ sách.

b/ Bản A.71 là bản có lời tựa của Duy Minh Thị(5), qua lời tựa này chúng ta biết được HVĐDC đã từng được Duy Minh Thị cho tái bản 1 lần vào năm Nhâm Thân (có lẽ là năm Tự Đức 25-1872) tại Việt Đông, Phật Sơn, Phúc Lộc đại nhai, do Kim Ngọc lâu tàng bản (壬 申 年 新 鐫 粵 東 佛 山 福 祿 大 街 金 玉 樓 藏 板). Nhưng thực chất lời tựa này chỉ là chép tay lại của người sưu tầm đề tên Duy Minh Thị đóng kèm vào với một bản in năm Thành Thái 9 của Tụ Văn đường, vì ngay sau bài tựa chép tay là tờ in tên sách đề "Thành Thái cửu niên tân thuyên - Tụ Văn đường". Nghĩa là bản này vẫn là bản thuộc nhóm 2. Người duyệt sách nhận ra được ít chỗ đặt nhầm:

Tờ 22: 宜 在 二 十 三 之 下 二 十 四 之 上

(Nghi tại nhị thập tam chi hạ, nhị thập tứ chi thượng) = Nên đặt ở bên dưới tờ 23, trên tờ 24.

Tờ 25 thượng b: Phần về chùa Bà Ngô ở cuối tờ b rồi sang tờ, được khuyên tròn bằng bút lông, cách mấy tờ rồi sang đến tờ 26 thượng (bị đặt cách đó mấy tờ - xem lại C3, mà đáng lẽ tờ này phải đặt kế ngay sau tờ 25 thượng), dòng đầu tiên có chữ "Tông" (宗), bên trên chú bằng bút lông: 婆 吳 寺 在 壽 昌 縣 婆 吳 村 舊 名 玉 壺 後 改 仙 福 寺 世 傳 黎 聖 (chùa Bà Ngô ở thôn Bà Ngô, huyện Thọ Xương, trước là chùa Ngọc Hồ sau đổi là chùa Tiên Phúc, thế truyền vua Lê Thánh). Nghĩa là tờ này đã bị xếp nhầm, người duyệt đã chép lại đoạn ở tờ 25 thượng b để chú lên trên chữ "Tông" cho người đọc hiểu là chữ "Tông" của tờ 26 thượng a là nối tiếp của từ "... Lê Thánh" của tờ 25 thượng b.

c/ Bản VHv.1910: Sách đã bị đóng lại, thiếu mất tờ 22. Lề trên một số tờ phần Hà Nội, cứ cách tờ lại phải chú lại tên phủ lên trên.

d/ Hai bản R.164; R.130 - R.1775 cũng có dấu hiệu của việc đã bị đóng lại, vì mép giấy lô nhô không cân phẳng như kiểu sách cũ nguyên bản.

Những điều này chứng tỏ các bản trên đã bị đóng nhầm (có thể ngay từ lúc đóng sách), các cụ ta ngày xưa khi đọc đến thấy nhầm, nên đã khuyên mực son để chú lên trên. Nếu người đọc không để ý mà cứ theo số trang thì sẽ bị lẫn lộn thứ tự các trang từ những văn bản này. Các bản theo kiểu này sẽ sai lầm ở một số điểm như:

+ Phủ Hoài Đức là một phủ có phạm vi nằm nhiều trên địa bàn nội thành Hà Nội ngày nay lại có đền Bộ Đầu (theo Từ điển di tích lịch sử văn hóa Việt Nam (6), địa danh này thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Tây).

+ Hai huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên cũng là hai huyện thuộc Thường Tín lại bị đặt sau tờ về phủ Hoài Đức (đúng phải thuộc phủ Thường Tín)

+ Sau phủ ứng Thiên (tức địa bàn các huyện Thanh Oai, Sơn Minh, Chương Đức, Hoài An) lại xếp một loạt các di tích thuộc nội thành Hà Nội (hồ Tả Vọng, miếu Văn Thánh, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột,...).

+ Hơn nữa có bản còn thiếu tờ, thiếu phần hai phủ Lý Nhân và Khoái Châu (VHv.1475; VHv.1910), hai phủ này đầu thời Minh Mệnh vẫn còn trực thuộc tỉnh thành Hà Nội.

Trong các nhóm văn bản mà ta có thì nhóm 1 và nhóm 3 là các tờ đặt theo thứ tự như C1. Nhóm 2 chỉ có hai văn bản mang ký hiệu VHv.1654 và R.257 là cũng theo thứ tự như C1. Nhóm 4 có văn bản VHv.175; A.880; A.1475 là có nguồn gốc chép lại từ một bản in thuộc nhóm 1 nên thứ tự các đơn vị chép trong các văn bản viết này cũng không khác. Duy chỉ 5 văn bản thuộc nhóm 2 là A.71; VHv.1475; VHv.1910; R.164; R.130 - R.1775 và một văn bản thuộc nhóm 4 là VHv. 1836/1-1837/2 không có thứ tự các trang như trên mà theo sắp xếp của C2 và C3 (A.71).

Xem xét lại bản dịch của Phan Đăng, đối chiếu lời dịch với số trang của văn bản chúng tôi thấy văn bản mà dịch giả dùng để dịch có sự nhầm lẫn tương tự như sự sắp xếp theo C2 và C3 của các văn bản nhóm 2 mà chúng tôi vừa phân tích ở trên. Chỉ khác là bản này từ tờ 25 trở đi lại đặt theo: Tờ 25a => tờ 25 thượng => tờ 26 thượng a => tờ 25b => tờ 26 => tờ 27a => tờ 26 thượng b => tờ 36a. Điều này cho thấy bản dịch được dịch từ nguồn văn bản bị khiếm khuyết thiếu sót. Người dịch trong "Lời nói đầu" có nói:

"... Bản in năm Thành Thái thứ 9 mà chúng tôi dùng để dịch có một số tờ do sắp xếp sai, đem nội dung của phủ này sang phủ khác, hoặc nhiều chỗ ghi sai về tên đất, tên người. Do đó khi dịch chúng tôi đã cố gắng tham khảo một số sách địa dư cùng thời, hoặc sách về sử học để lập lại đúng logic của bộ sách..." và "...nguyên bản in rất mờ, khó đọc, lại có sự sơ xuất trong khi sắp xếp một số tờ..."(7).

Có nghĩa là nhà nghiên cứu Phan Đăng cũng nhận ra sự nhầm lẫn trong thứ tự sắp xếp các trang sách của văn bản (văn bản mà dịch giả dùng để dịch là văn bản cùng loại với nhóm 2, là bản in năm Thành Thái 9). Tuy thế, mặc dù có nói là "cố gắng lập lại đúng logic của bộ sách" song do không tìm hiểu kỹ để giải quyết vấn đề văn bản học của tác phẩm, nên bản dịch của Phan Đăng đã chưa phản ánh được chính xác logic nội dung của tác phẩm.

III. Nhận xét:

Sau khi đối chiếu văn bản, chúng tôi nhận thấy phần địa dư Hà Nội là rất phong phú, nhất là phủ Hoài Đức (trung tâm của Hà Nội) nên sau phần diên cách chung của cả tỉnh Hà Nội, người biên soạn đã đặt thêm riêng cho phần phủ Hoài Đức một mục là “靈 祠 寺 觀 Linh Từ tự quán” phần này chỉ riêng phần phủ Hoài Đức, các tỉnh trấn khác đều không có, có đánh số chua thêm cho có chữ “thượng” ở trên các số tờ đặt làm phần riêng, như kiểu đặt phụ lục thêm vào, còn các phần khác để bình thường. Điều này chứng tỏ người soạn sách đã dành cho kinh đô cũ một sự ưu đãi đặc biệt. Có thể nói còn hơn các vùng khác, đó cũng rất gần gũi với tư tưởng của Phan Huy Chú khi soạn LTHCLC. Chuyên về triều Lê, chỉ khảo sát diên cách từ thời Lê trở về trước, đặt trấn Thanh Hoa lên đầu. Sang phủ khác (không phải Hoài Đức, nhưng vẫn thuộc Hà Nội), kết cấu trình bày lại giống như các tỉnh khác đã trình bày trước, đánh lại số tờ như bình thường. Lý giải về sự nhầm lẫn thứ tự của một số văn bản nhóm 2, có thể do 2 nguyên nhân:

+ Nguyên nhân 1: Do lần tái bản năm Thành Thái thứ 9 (1897), ở khâu đóng sách người thợ khi đóng xếp thứ tự các trang của một số bản đã không đối chiếu lại với bản in cũ, lại không hiểu dụng ý của bản in trước đặt các số trang theo thứ tự phải xếp tất cả các trang "thượng" lên trước, rồi sau mới đến các trang khác không có chữ "thượng", dẫn đến một số văn bản bị nhầm lẫn về thứ tự các tờ.

+ Nguyên nhân 2: Do người sau khi tu bổ lại sách đã vô tình không hiểu dụng ý của nguyên bản, chỉ căn cứ vào số tờ. Tưởng rằng cứ tờ có chua chữ "thượng" và tờ không chua chữ "thượng" là xếp thành một đôi, có chữ "thượng" thì bên trên rồi đến tờ không, thành đôi. Lần lượt như thế tạo ra sự nhầm lẫn về thứ tự các tờ trong văn bản.

Tuy trong những văn bản nhóm 2 vẫn có những bản đóng đúng, như bản VHv.1654 và bản R.257. Nhưng nếu không nhắc đến hai khả năng trên thì sẽ khó lý giải được tại sao trong cả bốn nhóm văn bản chỉ có nhóm khắc in năm Thành Thái 9 là có hiện tượng nhầm như thế, mà lại không phải ngẫu nhiên mà ở nhóm 2, cả 3 bản của VNCHN (A.71; VHv.1475; VHv.1910) và 2 bản ở TVQG (R.164; R.130 - R.1775) và bản mà Phan Đăng dùng để dịch lại cùng có những nhầm lẫn kiểu như vậy.

Qua những bước phân tích và suy luận trên, chúng tôi thấy các bản thuộc nhóm 1 và nhóm 3 là những bản tốt, nhất là các bản của nhóm 1. Vì nó còn nguyên vẹn giá trị là bản in đầu tiên gần thời với tác giả nhất, không bị xáo trộn, các bản thuộc nhóm khác đều từ bản nhóm này mà tái bản lại. Tuy có một số chỗ nhầm lẫn về tên người (quân nhà Hồ 胡 thành quân nhà Lê 黎, Lý Thái Tông 李 太 宗 thành Lý Thái Tổ 李 太 祖, Trần Phỉ 陳 斐, thành Trần Bùi Khanh 陳 裴 卿), một số lỗi do chữ in (chữ Phù 浮 là nổi thành ra chữ Lý - họ Lý với bộ chấm Thủy; chữ Khánh 慶 trong niên hiệu Đoan Khánh thành ra chữ Cộng với bộ Thủ 拱)(8), nhưng đó là lỗi chung của bản in HVĐDC chứ không phải của riêng nhóm văn bản nào. Chúng tôi đã cố gắng đối chiếu với các sách địa dư khác cùng các nguồn sử liệu đáng tin cậy để đính chính lại trong phần dịch về địa dư Hà Nội. Các bản sau kể cả các bản chép cũng không có bổ sung thêm hay thay đổi gì về mặt nội dung cũng như kết cấu của văn bản. Vậy chúng tôi cho rằng các bản thuộc nhóm 1 là nhóm văn bản tốt không hề bị xáo trộn vị trí các trang, là nguồn văn bản đáng tin cậy để nghiên cứu và tham khảo.

N.Đ.T

CHÚ THÍCH

(1) "Phan Huy Chú bắt tay vào biên soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí khi ông còn đi học, năm 1809 (Gia Long thứ 8) và đến năm 1819 thì hoàn thành. Năm 1821 khi làm Biên tu ở Viện Hàn lâm ông dâng bộ sách này lên Minh Mệnh và được vua thưởng 30 lạng bạc, 1 cái áo sa, 30 cái bút, 30 thỏi mực." Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. KHXH, H. 1992. Tiểu sử Phan Huy Chú.

(2) "Phan Huy Chú chỉ nghiên cứu từ thời Lê trở về trước, và thường chỉ chú trọng nghiên cứu đặc biệt về triều Lê, còn triều Nguyễn thì ông không nói đến (có lẽ để tránh các sự lôi thôi làm phiền lụy cho mình)". LTHCLC, Giới thiệu (Sđd.).

(3) Phan Huy Chú. Hoàng Việt địa dư chí. Phan Đăng dịch. Nxb. Thuận Hóa. 1997.

(4) Phan Huy Chú. Hoàng Việt địa dư chí. Sđd., tr.32- 54.

(5) Duy Minh Thị: tên thật là Trần Quang Quang ( ? - ? ), ở Gia Định, ông là người sưu tầm và cho tái bản nhiều sách vở dưới triều Nguyễn, trong đó có Truyện Kiều.

(6) Từ điển di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2003.

(7) HVĐDC, Phan Đăng dịch, Sđd., tr.VII; VIII.

(8) 皇 越 地 輿 誌, 河 內 省 (Bản chữ Hán). VNCHN, Sđd.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 皇 越 地 夷 輿 誌 (bản chữ Hán), VNCHN, TVQG.

2. Lịch triều hiến chương loại chí - Dư địa chí. (Bản dịch), Nxb. KHXH, H. 1992.

3. Từ điển di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2003.

4. Đại Nam nhất thống chí. (Bản dịch), Nxb. Thuận Hóa, 2002.

5. Tên làng xã Việt Nam, Dương Thị The - Phạm Thị Thoa dịch, Nxb. KHXH, H. 1982.

6. Đại Việt sử ký toàn thư, (Bản dịch), Nxb. KHXH, H.1998.

7. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hóa, 2000.

8. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. VH, 1997.

9. Niên biểu các triều đại Việt Nam, Nxb. Sở VH - TT, H. 1987.

10. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Nxb. KHXH, H. 1972.

TB

THẾ TÀI "THẦN QUÁI" TRONG
TRUYỆN NÔM VIỆT NAM

TRẦN QUANG HUY

Tôn giáo là động cơ quan trọng cho sự ra đời của tiểu thuyết Trung Quốc, như tiểu thuyết chí quái thời Lục Triều, biến văn thời Đường cho tới bảo quyển thời Minh - Thanh phần nhiều đều thuật lại các truyện về tôn giáo để tuyên truyền giáo nghĩa. Do đó, những tiểu thuyết nhằm mục đích giải trí cũng lấy chuyện tôn giáo và thần quái làm đề tài. Các tác phẩm thuộc truyền kì thời Đường như: Cổ kính kí, truyện Khỉ trắng , truyện Người hổ, truyện Du tiên quật (Đi chơi chốn tiên), truyện Nhậm thị, truyện Viên thị cùng các thoại bản thời Tống như: Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại, Tây Đô tam tháp kí, Lạc Dương tam quái kí, Tây Sơn nhất quật quỷ, Chủng qua Trương lão đều thuộc vào loại này. Ngay trong các tiểu thuyết thông tục thời Minh - Thanh tác phẩm lấy tôn giáo và linh quái làm đề tài, theo ghi chép của Tôn Khải Đệ trong Mục lục tiểu thuyết thông tục Trung Quốc cũng lên đến 54 tác phẩm, có thể thấy đây là bộ phận trọng yếu trong tiểu thuyết thông tục Trung Quốc. Một số tác phẩm tuy cũng có nhiều quan hệ với việc thuyết giáo và khuyến thiện, nhưng dù nhiều hay ít vẫn có tính chất du hí. Do vậy, ngay tác phẩm mang đậm tính tôn giáo như Tây du kí cũng được coi là tác phẩm “ra đời từ sự du hí”. Sở dĩ truyện thần quái được hoan nghênh có 2 lí do cơ bản:

Thứ nhất, do người Trung Quốc phần nhiều đều tin vào tôn giáo. Họ tin rằng Thần Phật, thiên đường và địa ngục là có thực, do vậy họ tiếp nhận truyện thần quái một cách dễ dàng, đúng như điều mà sách Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc đã viết:

Đại khái người đương thời cho rằng chốn âm dương tuy khác nẻo, nhưng người và quỷ đều là có thực. Do vậy, thuật lại các sự lạ và ghi chép việc thường gặp ở chốn nhân gian, tự xem là không phân biệt là hư hay thực vậy(1).

Vả lại, trong các tiểu thuyết này, đạo hạnh của những nhân vật theo chuẩn mực tôn giáo chính là những thần tượng trong lòng họ, nên được đón nhận là lẽ đương nhiên. Mặt khác, tiểu thuyết thần quái có nhiều tính chất li kì, rất thích hợp với những người thưởng thức, nhất là đối với nhu cầu tâm lí của giới bình dân. Các nhà phê bình tiểu thuyết đều cho là chuyện trong tiểu thuyết cần phải có 2 điều kiện mới có thể khơi dậy niềm hứng khởi của người đọc:

- Thứ nhất: tình tiết phải gần gũi với thực tế, khiến cho người đọc có thể tự thể nghiệm bằng chính kinh nghiệm bản thân họ:

- Thứ hai: li kì nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt.

Trong tiểu thuyết thần quái Trung Quốc, các thần linh đều được nhân cách hóa, chốn thiên đường, địa ngục cũng được trần thế hóa, tình tiết trong sách cùng các nhân vật và sự việc mà độc giả thường thấy hàng ngày rất gần gũi, đồng thời nó lại có tính li kì, khác thường nên tự nhiên dễ dàng được quần chúng yêu thích.

Truyện Nôm trực tiếp lấy đề tài từ tiểu thuyết thần quái Trung Quốc chỉ có 3 tác phẩm: Lâm tuyền kì ngộ, Tây du Phật bà Quan Âm. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của tiểu thuyết thần quái Trung Quốc không rộng bằng loại tài tử giai nhân. Nguyên nhân chủ yếu là: Có thể do yếu tố làm môi giới cho mối quan hệ giữa tiểu thuyết hai nước Trung - Việt không ngoài những người có sự tu dưỡng về Hán học và các nhà sư. Những người có học ở Việt Nam thích sáng tác truyện Nôm đều là các bậc danh sĩ hiển đạt, tuy họ không xem trọng tiểu thuyết song vẫn có thể lấy tiểu thuyết làm thứ tiêu khiển, mà tiểu thuyết tài tử giai nhân là thứ phù hợp nhất đối với họ. Một số người có học vấn đứng trên lập trường Nho gia nên không dốc lòng tin vào Phật giáo, đồng thời đối với các truyện thần quái, họ ắt sẽ là những thứ không kê cứu được. Còn như các nhà sư, ngoài các kinh điển nhà Phật, các sách khác nhất là tiểu thuyết đều bị xem là có hại cho sự tu tâm định trí. Do vậy đương nhiên họ không viết những sách dạng này. Trên thực tế, đại đa số biến văn thời Đường và bảo quyển thời Minh - Thanh do các tăng lữ sáng tác, tuy cũng mang tính chất tiểu thuyết, song mục đích chủ yếu lại không giống tiểu thuyết. Họ thuật lại các chuyện là nhằm tăng cường hiệu quả cho việc thuyết giáo mà thôi. Tiểu thuyết thần quái thông tục tuy khai mở cho sự ra đời của biến văn và bảo quyển song mục đích và bản chất lại hoàn toàn khác nhau. Tác giả của chúng chắc chắn không phải các nhà sư. Trong tình hình đó, tiểu thuyết thần quái Trung Quốc rất ít được truyện Nôm tiếp thu là điều có thể hiểu được.

Những truyện Nôm thần quái không lấy đề tài từ tiểu thuyết Trung Quốc cũng không nhiều. Sáng tác của sĩ đại phu như truyện Bích Câu kì ngộ và Mai đình mộng kí, cả hai đều đề cập đến thần tiên. Truyện thứ nhất thuật lại một kẻ thư sinh si tình, lấy cái chí tình làm cho thần tiên cảm động mà được tiên nữ rồi cùng nhau lên tiên giới. Truyện sau thuật việc tác giả một hôm mơ thấy mình vào cõi tiên và cầu hôn với người tiên nữ. Xét từ các truyện đó, mục đích chủ yếu là diễn thuật tình yêu của tài tử và tiên nữ, chứ không phải là bàn về thần tiên quỷ quái. Nói cách khác, hai truyện này gần gũi với tiểu thuyết tài tử giai nhân mà khác xa tiểu thuyết thần quái. Truyện Nôm thần quái trong truyện Nôm bình dân chỉ có 4 truyện: Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Tống Tử bản hạnh, Địa Tạng bản hạnh Nam vô tân truyện mà thôi. Tinh thần tôn giáo của giới bình dân Việt Nam cũng sâu đậm như giới bình dân Trung Quốc, nhưng tại sao truyện Nôm thần quái lại không phát triển như tiểu thuyết thần quái Trung Quốc? Nguyên nhân chủ yếu rất có thể là: như trên đã nói, tiểu thuyết thần quái lấy tình tiết li kì để thu hút người đọc. Tiểu thuyết Trung Quốc sử dụng lối tản văn, lại được sự thêm thắt của những người giảng sách các đời nên các tình tiết li kì đều được biểu đạt ra một cách tinh tế và sinh động, đồng thời chúng cũng phù hợp với tâm lí hiếu kỳ của tiểu thị dân nên được đón nhận, do đấy cũng phát triển dễ dàng. Truyện Nôm chọn dùng thể loại văn vần, tinh tế ở sự miêu tả, bày tỏ tâm tình, nhưng bất tiện cho việc thuật sự. Một số truyện Nôm tôn giáo đã dẫn ở trên chẳng qua là thuật lại các sự tích về sự tu hành, cứu khổ của chư Phật, không có tình tiết gì li kì đáng nói. Điều đáng chú ý là trong các truyện cổ tích Việt Nam các truyện thần quái vẫn là bộ phận quan trọng. Điều đó chứng minh thể văn vần của truyện Nôm thực sự không thích hợp cho việc miêu tả các truyện thần quái có tính li kì, phức tạp. Vả lại ở Việt Nam không có đội ngũ giảng sách chuyên nghiệp có quy mô, cuộc sống đô thị ở Việt Nam cũng không sôi động như ở Trung Quốc, những người nông dân thuần phác vẫn là đối tượng chủ yếu của truyện Nôm. Do vậy, truyện Nôm thần quái không có cách gì phát triển như tiểu thuyết thần quái Trung Quốc. Thậm chí ngay các truyện cổ tích thần quái chẳng qua cũng chỉ là những truyện ngắn đơn giản, không được lớn như các tiểu thuyết thần quái Trung Quốc. Điều đó cho thấy rõ rằng, cuộc sống đô thị làm nảy sinh nhu cầu giải trí và các tổ chức giảng sách nhằm thỏa mãn nhu cầu đó là nguyên nhân chủ yếu cho sự phát triển của tiểu thuyết thần quái. Tôn giáo ở hai nước Việt Nam và Trung Quốc không có nhiều khác biệt, tinh thần tôn giáo của dân chúng hai nước cũng sâu đậm như nhau, song do tình trạng kinh tế không giống nhau nên tiểu thuyết thần quái ở hai nước nhiều ít có sự khác nhau.

Các đề tài không được tiếp thu là giảng sử, hiệp nghĩa, đả kích và loại nói sự bỉ ổi.

Trong tiểu thuyết Trung Quốc các tiểu thuyết giảng sử, hiệp nghĩa, đả kích, bỉ ổi cũng rất phát triển. Mặc dù có sức hấp dẫn lớn, lưu hành rộng song dường như chúng không được truyện Nôm tiếp thu. Ngoài một số nguyên nhân cá biệt, đề tài này sở dĩ không được cộng đồng tiếp nhận do hai nguyên nhân: một là do lập trường của người đứng ra làm môi giới, hai là xuất phát từ sự khó khăn do thể tài đem lại.

Như đã sơ bộ ở trên, những người có sự tu dưỡng về Hán học đủ làm môi giới tạo ra mối quan hệ giữa tiểu thuyết Trung Quốc và Việt Nam, không ai khác ngoài những người được học hành và đội ngũ tăng lữ. Tiểu thuyết giảng sử có khi “bẩy phần thực ba phần hư” hoặc “ba phần thực bẩy phần hư” đều được cho là nói không có căn cứ. Từ sự phê bình của các sĩ đại phu Trung Quốc đối với tiểu thuyết giảng sử như: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, chúng ta dễ dàng nhận thấy họ đã không đứng trên lập trường của những nhà tiểu thuyết mà chỉ căn cứ vào sự thực lịch sử để phê bình tác phẩm. Do vậy, đương nhiên họ không coi trọng tiểu thuyết giảng sử. Giới sĩ đại phu Việt Nam cũng có lập trường và tâm lí tương tự như vậy. Tiểu thuyết thuật chuyện các anh hùng nơi thảo dã, nằm ngoài pháp luật như truyện Thủy hử bị coi là làm ra để dạy thói trộm cắp. Vả lại, sĩ đại phu vốn tiêm nhiễm quan niệm thiên lệch là trọng văn khinh võ nên đối với sự hành hiệp của võ sĩ cũng không xem trọng. Tiểu thuyết châm biếm đả kích đều là các tác phẩm ra đời do những người có quan điểm bất mãn dùng nó để thể hiện sự bất mãn của mình, hay những người yếu đuối, cô thế dùng nó biểu hiện rằng mình không yếu đuối và cô thế. Địa vị xã hội của sĩ đại phu khá cao, lại được giai cấp thống trị đương thời đãi ngộ và xem trọng nên không thể biểu hiện những bất mãn quá lớn với tình hình xã hội và chế độ chính trị. Đồng thời, vì sự an toàn của bản thân và gia tộc, sĩ đại phu mang thái độ “không oán trời, không trách người” nên cũng không dám đắc tội với triều đình hay những nhân vật khác cùng giai cấp với mình. Do vậy, tiểu thuyết châm biếm đả kích không phải là cái họ thích viết ra. Loại tiểu thuyết bỉ ổi là thứ sách vở mà luân lí xã hội không thể khoan thứ. Sĩ đại phu Việt Nam do ảnh hưởng sâu sắc về luân lí nên tự nhiên không chịu tiếp nhận. Những tiểu thuyết này lại càng không thích hợp đối với các nhà sư. Do không có yếu tố môi giới nên chúng đã không được diễn thành truyện Nôm.

Về thể tài, tiểu thuyết Trung Quốc dùng lối tản văn, lại kế thừa truyền thống giảng sách (thuyết thư) nên sở trường của nó là tinh tế trong việc miêu tả các tình tiết của truyện. Thể tản văn đòi hỏi phải miêu tả tinh tế của các tiểu thuyết hiệp nghĩa, giảng sử, châm biếm, bỉ ổi tỏ ra hết sức thích hợp. Truyện Nôm dùng lối văn vần, lấy miêu tả và bày tỏ tâm tình làm chủ yếu. Thể văn vần do bị câu thúc vào vần điệu và số chữ nên rất khó miêu tả tỉ mỉ các tình tiết của cả một đoạn dài. Các loại tiểu thuyết giảng sử, hiệp nghĩa, châm biếm đả kích nếu dùng lối viết ấy nhất định sẽ không thể thành công như tản văn. Trong truyện Nôm có Thiên Nam ngữ lục Đại Nam quốc sử diễn ca cũng dùng thể lục bát để diễn lại các sự kiện lịch sử Việt Nam. Song chúng chỉ có thể khái quát sự kiện lịch sử, giúp người đọc dễ nhớ, chứ không đựơc đầy đủ và sinh động bằng giảng sử của Trung Quốc. Như đoạn tả trận giao chiến của La Thành với nàng Đậu Tuyến trong Trung quân đối truyện, sự miêu tả của văn vần cũng rất sinh động nhưng không thể miêu tả cuộc chiến một cách tỉ mỉ và lời đối thoại sống động như nguyên tác Tùy - Đường diễn nghĩa. Những người giảng sách tuy thích dùng thơ ca để xen thêm vào, nhưng không thể bỏ bộ phận tản văn cũng chính vì nguyên nhân đó.

Phạm Văn Ánh dịch
(Từ nguyên bản tiếng Trung Quốc: Nghiên cứu so sánh Việt Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết chi quan hệ. Đài Loan, 1974)

CHÚ THÍCH:

(1) Lỗ Tấn: Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc ; tr.47.

TB

MỘT BĂN KHOĂN VỀ VĂN BẢN
DUY MINH THỊ 1872

ĐÀO THÁI TÔN

1. Từ khi cuốn Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 (1) của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn ra đời, nhiều người đã tưởng rằng đây là bản Kiều Nôm mà học giả Hoàng Xuân Hãn xem là bản rất quý, có thể giúp ích nhiều trong việc dò tìm nguyên tác Truyện Kiều.

Ban đầu, chúng tôi cũng tưởng như vậy. Nhưng càng nghiên cứu kỹ, càng thấy ngờ. Lần đọc lại bài trả lời phỏng vấn của học giả Hoàng Xuân Hãn(2) trước khi cụ qua đời thì thấy cụ không hề nói tới thậm chí là cái tên bản in này. Cụ chỉ nói tới một bản chép tay đã thấy từ năm 1942, 1943. Chúng tôi cho rằng bản chép tay này mới chính là bản Kiều rất quý mà cụ Hoàng Xuân Hãn cho rằng có thể dựa vào đó mà dò tìm nguyên tác chứ không phải là bản in Duy Minh Thị.

2. Vậy Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn dựa vào cơ sở nào mà tin như vậy? Thì ra, Giáo sư đã dựa vào một đoạn văn trong hồi ức của ông Nguyễn Văn Hoàn. Tại trang 539, Giáo sư viết:

“…Anh Nguyễn Văn Hoàn cho biết cách đây 20 năm, nhân sang Paris, anh đã có dịp gặp Giáo sư, bàn bạc về Truyện Kiều, và anh đã thấy rõ được Giáo sư quan tâm đến bản này như thế nào”.

Vì vậy, chúng tôi trích lại đoạn hồi ức của ông Nguyễn Văn Hoàn:

“… Bác Hãn trách tôi là đã không tiếp nhận ý kiến của bác chứng minh Phan Huy Ích là dịch giả bản Chinh phụ ngâm. Còn tôi thì chỉ quan tâm đến ý kiến của ông Nguyễn Tường Phượng nói với tôi từ 1959 rằng “Ông Hoàng Xuân Hãn nói, ở Paris có một bản Kiều đời Gia Long”. Sự thực không có. Bác Hãn chỉ lập luận là “Truyện Kiều được viết vào đầu đời Gia Long, hoặc trước đời Gia Long”. Bác quan tâm đến bản Kiều của Duy Minh Thị và chủ trương rằng cách viết chữ Nôm sai lệch như vậy có khả năng dễ tra cứu ra nguyên tác hơn”(3).

Chúng tôi thấy đoạn hồi ức của ông Hoàn có câu văn dấp dính: chữ như vậy khiến người đọc hiểu rằng: “cách viết chữ Nôm [của bản Duy Minh Thị] sai lệch như vậy. Nhưng lần theo chú thích của ông Nguyễn Văn Hoàn, thì người ta thấy rằng, tại bài in trên Tạp chí Văn học Tập san Hợp lưu, cụ Hoàng Xuân Hãn không hề nói dù là cái tên bản Duy Minh Thị! Hơn nữa, bản Duy Minh Thị là bản in chứ đâu phải bản viết tay mà bảo rằng “cách viết chữ Nôm sai lệch như vậy”!

Nhưng có lẽ do nhận được một văn bản mong ước từ lâu(4), Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã tin ngay đoạn hồi ức. Thành thử tại trang 539, ông cũng để lại một câu văn dấp dính dễ gây hiểu lầm, khi viết:

“Người thấy được sớm nhất cái quý của bản Duy Minh Thị và quan tâm nhiều nhất đến cái quý đó là Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Theo lời Giáo sư kể, cách đây 60 năm, khoảng 1942 - 43, Giáo sư đã gặp được một bản sao - chắc chính là bản đã gợi lên những thắc mắc buộc Giáo sư phải tiến hành điều tra, xác minh, qua dòng họ tác giả, ngay trong những dịp nghỉ hè hồi ấy. Và về sau thì Giáo sư cũng đã tìm cách để có được bản in năm 1872. Anh Nguyễn Văn Hoàn cho biết cách đây 20 năm, nhân sang Paris, đã có dịp gặp Giáo sư, bàn bạc về Truyện Kiều, và anh đã thấy rõ được Giáo sư quan tâm đến bản này như thế nào. Theo Giáo sư, đây là một bản Kiều đáng được coi trọng. Tuy nó bị sai lầm nhiều chỗ, nhưng phần lớn đó là những sai lầm khá “giản dị”, dễ đính chính; mặt khác, nó lại có được một điểm quý rất cơ bản: có những chi tiết về một số phương diện chứng tỏ rằng nó có một bản gốc rất xưa và rất gần với nguyên tác”.

Chúng tôi nói đoạn văn trên đây có chỗ dấp dính, dễ gây hiểu lầm là bởi:

- Một là, câu văn viết liền mạch “cách đây 60 năm, khoảng 1942 - 43, Giáo sư đã gặp được một bản sao (…). Và về sau thì Giáo sư cũng đã tìm cách để có được bản in năm 1872” dễ khiến người đọc hiểu rằng bản sao năm 1942, 43 là bản gốc của bản in Duy Minh Thị.

- Hai là, câu “Và về sau thì Giáo sư cũng đã tìm cách để có được bản in năm 1872” thì “về sau” là bao giờ ? (trong khi, như chúng ta sẽ thấy, theo điều tra của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì “về sau”, tức là “Phải khi sang Paris cụ mới có điều kiện gặp được những bản cổ hơn” (tr.11, 12 Sđd). Đây là chi tiết đáng chú ý trong câu chuyện chúng ta đang bàn.

- Ba là, đến câu: “Anh Nguyễn Văn Hoàn cho biết cách đây 20 năm, nhân sang Paris, anh đã có dịp gặp Giáo sư, bàn bạc về Truyện Kiều, và anh đã thấy rõ được Giáo sư quan tâm đến bản này như thế nào. Theo Giáo sư…”, thì sự dấp dính câu văn là ở ba chữ “Theo Giáo sư”. Vì “theo Giáo sư…” là lời văn của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn chứ không phải của cụ Hoàng Xuân Hãn hay ông Nguyễn Văn Hoàn!

3. Đọc lại cụ Hoàng, có điều rất cần lưu ý như sau: Tạp chí Văn học số 3/1997 đăng lại bài trả lời phỏng vấn của cụ, in trên Tập san Hợp lưu (Bđd) đã lược đi những câu hỏi của phóng viên (Thụy Khuê), chỉ in chắp những câu trả lời của cụ Hoàng, nên dễ gây hiểu lầm. Vì thế, chúng tôi trích lại nguyên văn đoạn trong bài in trên Hợp lưu, liên quan đến vấn đề chúng ta đang nghiên cứu (nhưng xin tách ra lần lượt làm ba ý Một, Hai, Ba để tiện phân tích).

* Một:

TK: "Bác nói lại tên cụ đưa bản Đoạn trường tân thanh về Bắc".

HXH: “Cụ tên là Đào Nguyên Phổ”. [sau khi nói về Đào Nguyên Phổ và những chuyện khác, cụ nói tiếp]: “Trong các bản, có một bản ở trong Nam thấy đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng. Thì mình chắc chắn bản ấy người ta sao lại một bản từ đời Gia Long”. Thụy Khuê hỏi ngay:

* Hai:

TK: “Bản này bác khám phá ra hồi nào ạ”?

HXH: “Từ hồi đầu trước, khoảng 42 - 43, tôi đã thấy bản này rồi. Nhưng không ai để ý tới vì bản ấy có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn. Còn những bản khác, người ta sửa lại mà sửa một cách khôn ngoan, thì không thể đoán được, hoặc là có thể đoán được nhưng mà khó đoán lắm”. Thụy Khuê hỏi tiếp luôn:

* Ba:

TK: “Thưa bác, đấy là một bản chép tay”?

HXH: “Hiện bây giờ có bản in, nhưng in sai rất nhiều, cho nên không mấy người để ý tới. Nhiều khi người ta cho là bản một người dốt chép lại, không ai để ý. Nhưng sự thực bản ấy là bản quý nhất. Tôi chắc chắn với sự suy xét ấy, tôi thấy không những về mặt niên đại, về chữ húy của mình, chỉ có huý đời Gia Long, không húy đời Minh Mạng, thì biết rằng bản viết người ta theo đó để mà sao lại, chắc chắn đầu đời Gia Long” (…).

Chúng ta thấy những câu hỏi của phóng viên là rất tinh và rốt ráo: ở ý Một thì “Bác khám phá ra hồi nào ạ?”, khi biết là từ hồi 42, 43, liền hồi hộp hỏi luôn “đấy là một bản chép tay?”, thì tiếc rằng trước một câu hỏi căn cốt đến như thế, mà vị trưởng lão ở độ tuổi 90, do lơ đãng hay mỏi mệt (?) không trả lời trúng vào câu hỏi !

Rõ ràng là tại ý Một và ý Ba, Cụ nói đến bản in ở trong Nam. Thì đúng là bản Duy Minh Thị 1872 rồi. Nhưng khốn nỗi, bản Duy Minh Thị 1872 lại kị húy đời Minh Mạng - trong khi cụ nhấn mạnh chỉ có húy đời Gia Long! Cho nên, cái bản mà cụ nói ở ý Một “đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng”, chính là bản ở ý Hai, tức bản chép tay mà cụ “khám phá ra” từ năm 1942, 43. (Vì như ta sẽ thấy ngay dưới đây, năm 42, 43 cụ chưa có bản Duy Minh Thị). Đấy là một lẽ.

Lẽ thứ hai là: dù là nhà văn bản học lão luyện, đọc chữ Nôm giỏi như cụ Hãn chăng nữa, trước bản in sai đến mức như bản Duy Minh Thị, cũng không thể nói rằng tuy “có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắn chắn”, vì sai lầm của bản Duy Minh Thị không “giản dị” chút nào: có chữ Nôm Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng chỉ đoán mà phiên tạm chứ không dám tin là đã phiên đúng.

Lẽ thứ ba là, theo điều tra của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, trong một bài ký viết chậm nhất là vào khoảng cuối năm 1947, cụ Hãn nhớ lại:

“Trong mươi năm nay tôi đã ra công tìm mua một bản Kiều cũ, ít ra cũng xuất từ đời Tự Đức. Tôi đã đi các vùng quê..., đã tìm tòi. Tôi cũng đã lục các tủ sách cũ của các cụ nho già hay đã quá cố. Tôi lại thuê người tìm hộ. Nhưng tuyệt nhiên không thấy. Nhưng may sau đó, vào năm 1946, cụ đã mua được ở bờ hè Hàng Nón một bản Kiều in năm Kỷ Mão 1789, và năm 1947 cụ lại được tiếp xúc thêm với một bản Kiều cổ nữa, in năm 1882, thuộc thư viện gia đình cụ Hoàng Huấn Trung. Cụ mừng lắm. Nhưng trong nước cũng chỉ tìm được đến thế. Phải khi sang Paris cụ mới có điều kiện gặp được những bản cổ hơn” (tr.11, 12, Sđd).

Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn còn điều tra thêm về đoạn ký ấy:

“Bài ký này có hai đoạn ghi thêm năm 1953 và năm 1988, nhờ đoạn ghi thêm năm 1988 ta mới biết mực cũ bị nhòe hết, cụ phải gắng đồ lại. Có lẽ do vậy, và do lúc này mắt cụ đã mờ nên cụ nhận nhầm và đồ nhầm là bài ký viết năm Ất Hợi 1945; viết năm 1945 sao lại có thể kể chuyện hai năm 1946, 1947 được? Vả lại 1945 thì Ất Dậu chứ sao lại Ất Hợi ? Chắc là Đinh Hợi, chậm nhất là cuối năm đó” (Sđd, tr.11,12).

Rõ ràng là: năm 1946, cụ mới mua được bản Kiều in năm Kỷ Mão 1789; năm 1947 mới “được tiếp xúc” thêm một bản Kiều cổ nữa, in năm 1882. Nghĩa là năm 1947, cụ chưa hề biết đến bản Duy Minh Thị 1872.

Vậy thì cái bản mà cụ nói tại ý Hai: “Vào khoảng 42 - 43 tôi đã thấy bản này rồi (...) có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn”, chỉ có thể là bản chép tay chứ không thể là bản in Duy Minh Thị 1872.

Đọc kỹ lại câu nói trong ý Hai của cụ, lại càng thấy đúng là cụ nói về bản chép tay thật.

Một là, “Vào khoảng 42 - 43, tôi đã thấy bản này rồi”, thì như trên đã phân tích, về thời điểm 1942 - 43 cụ chưa có bản in, cho nên chữ này không thể thay cho chữ "một bản ở trong Nam" tại câu trên(5).

Hai là, khi cụ so sánh: “Còn những bản khác, người ta sửa lại mà sửa một cách khôn ngoan…” thì hẳn là so bản chép tay với bản chép tay mà thôi !

Cho nên chúng tôi cũng nghĩ như Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, rằng:

“Trong khi nói chuyện với nhà báo, rất có thể cụ Hoàng Xuân Hãn chỉ dựa vào trí nhớ, nên khi nhớ đến bản viết tay, khi nhớ tới bản in, khi nói áng chừng, thậm chí có đôi khi dẫn đôi chi tiết không thật chính xác 100%”, vì vậy việc “tìm hiểu ý kiến của các nhà nghiên cứu đã mất là một chuyện phải tiến hành một cách hết sức thận trọng, vì tìm hiểu, cốt là để cuối cùng thấy được đúng sự thật” (tr.540, 553, Sđd.).

Ba là, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã thấy bản Duy Minh Thị “không kị húy chữ khang ở 2 câu” 447 và 1135, thể hiện lệnh kị húy của Minh Mạng năm 1825 (tr.24), thì cụ Hãn nhất định cũng đã thấy. Cho nên khi cụ nói tới hai lần rằng “đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng” thì nhất định không phải cụ nói tới bản in của Duy Minh Thị.

4. Còn một chứng cứ quan trọng là: tại bài trả lời phỏng vấn, cụ Hoàng Xuân Hãn đã phân tích một số chữ Nôm. Những chữ mà cụ phân tích (như: “đã đau đớn lòng”, chữ gieo và treo; chữ đội đọc là trọi; chữ tha la)… thì đều không phải là những chữ Nôm sai lệch mà đều được khắc rõ ràng. Chỉ có một chữ Nôm sai lệch do viết tháu mà cụ say sưa phân tích là chữ “vuông” trong câu thơ 327. Nhưng cụ cũng không cho biết dựa vào bản nào, mà chỉ lập luận:

- Chữ Nằm đọc sai từ âm gần là năm, chữ năm có chữ ngũ 五 bên chữ nam 南 Chữ nam viết tháu trông giống như chữ phương 方 là vuông. Chữ ngũ 五 bên phải, cũng gần giống như chữ bông . Nên chữ phương bên chữ bông sẽ là chữ VUÔNG . Chữ dưới là TRÒN thì dựa vào chữ viết tháu để đoán chữ trên là VUÔNG là đúng. Câu thơ 327 sẽ đọc là:

VUÔNG TRÒN nhờ cậy khung mây

Rõ ràng là cụ phân tích chữ viết tháu là phân tích qua bản viết tay chứ không phải qua bản in Duy Minh Thị 1872. Hơn nữa, câu thơ 327 tại bản in Duy Minh Thị khắc rõ chữ NAM 南 chữ NGŨ 五 nên cũng không thể qua bản in này mà cho rằng: chữ PHƯƠNG 方 do chữ NAM 南 viết tháu, chữ BÔNG do chữ NGŨ 五 viết tháu ! Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng phiên ngay chữ ấy là Năm:

NĂM tròn như gởi cung mây

rồi chú thích(6).

Nhưng chú thích như thế, có khác nào cho rằng cụ Hoàng Xuân Hãn đã đọc câu thơ 327 tại bản in của Duy Minh Thị 1872 là VUÔNG. Nếu thế thì oan cho cụ, vì chữ trong bản in được khắc rất rõ, bất kỳ ai cũng phải đọc là NĂM.

Chỉ qua một chứng cứ này thôi, chúng ta cũng đã phải nghĩ rằng khi biện luận về chữ VUÔNG cũng như khi nói tới một bản “có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắn chắn” là cụ Hoàng nói về bản viết tay có chữ viết tháu chữ VUÔNG chứ không phải nói về bản in Duy Minh Thị !

Vì những lẽ trên, chúng tôi cho rằng: Khi nói “nhưng sự thực bản ấy là bản quý nhất” là lúc mà cụ Hoàng Xuân Hãn nhớ đến bản chép tay đã thấy năm 1942, 43, chứ không phải bản in Duy Minh Thị 1872.

*
**

Nếu như năm 1902, cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu cho ra đời cuốn Đoạn trường tân thanh, mở đầu việc biên soạn Truyện Kiều theo phương pháp hiệu đính trong suốt thế kỷ XX thì đúng 100 năm sau (2002), công trình Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872 của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã mở đầu thế kỷ XXI trên phương diện nghiên cứu văn bản học Truyện Kiều theo phương pháp đính ngoa mà học giả Hoàng Xuân Hãn là người có công đầu.

Công trình của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là công trình đầu tiên nghiên cứu về văn bản học Truyện Kiều trong đó có nhiều vấn đề lý thú về ngữ âm lịch sử, giúp chúng tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu bản Liễu Văn Đường 1871. Đó là một chuyện. Nhưng bản Duy Minh Thị 1872 có đúng là bản Kiều rất quý, có thể dựa vào đó mà dò tìm nguyên tác hay không, lại là chuyện khác.

Trong quá trình nghiên cứu bản Duy Minh Thị, chúng tôi đã có cơ sở chắc chắn để cho rằng: cũng như bản chép tay của Nguyễn Hữu Lập năm 1870 (mà người ta gọi lầm là bản Lâm Nọa Phu) hay bản in của Kiều Oánh Mậu năm 1902, bản Duy Minh Thị 1872 cũng là một trong những văn bản đã sửa chữa Truyện Kiều một cách có ý thức trong đời Tự Đức(7). Ngoài việc bị ảnh hưởng của các bản chép tay trong đời Tự Đức, văn bản này cũng đã chữa nhiều câu chữ Truyện Kiều mà sự có mặt của một số chữ Nôm miền Nam trong văn bản là chứng cớ hiển nhiên. Đây chính là lý do để chúng tôi nảy ra ý định trình bày những băn khoăn về bản Duy Minh Thị. Thực tiễn nghiên cứu về câu chữ Truyện Kiều cũng đã cho thấy rằng, thật khó có thể xem bản Duy Minh Thị như một văn bản căn cốt trong việc nghiên cứu. Hy vọng rằng đến một lúc nào đó, một bản chép tay chỉ có húy đời Gia Long mà học giả Hoàng Xuân Hãn đã thấy từ những năm 1942, 1943… hoặc một bản tốt hơn - không có chữ húy Gia Long - sẽ đến với chúng ta, vì Nguyễn Du viết Truyện Kiều trong đời Tây Sơn(8).

Thành thử, sau khi trình bày về những băn khoăn trong cách hiểu về bản Duy Minh Thị, chúng tôi thấy việc tìm kiếm một văn bản cổ hơn nữa vẫn còn là công việc phải đặt ra.

Chúng ta đang còn có cái để mà phấp phỏng trông chờ. Trông chờ vào sự “ú tim” của văn bản, vào cơ duyên của người nghiên cứu…

Đ.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872. Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2002.

(2) Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều. Tạp chí Văn học, số 3-1997.

(3) Nguyên chú của Nguyễn Văn Hoàn: “Có thể tham khảo bài Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều”. Tạp chí Văn học, số 3-1997 và Tập san Hợp lưu, California - Mỹ, số 29, tháng 6 và 7 năm 1996.

(4) Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho biết, kể từ 1982, mấy lần qua Pháp ông đã làm hồ sơ về bản Duy Minh Thị in năm 1879 vì thấy ở văn bản này có hiện tượng kiêng húy. Đến khi biết cụ Hãn đang nghiên cứu bản 1872, ông gói hồ sơ lại, có ý chờ sách cụ ra, xem có gì cần thì sẽ bổ sung. Sau khi cụ Hãn mất, ông muốn công bố bộ hồ sơ về bản 1879 thì gia đình và bè bạn khuyên rằng đã có công đưa in thì nên in bản 1872 là bản đã gắn liền với những kỷ niệm về Cụ. Thế rồi mọi người gửi cho bản chụp cuốn 1872. May là bản 1879 không khác gì nhiều so với bản 1872 nên chỉ tính từ tháng 3/2000 đến đầu năm 2002, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã hoàn chỉnh bộ hồ sơ cũ thành bản thảo cuốn sách, đưa in.

(5) Thật tai hại , vì câu “Vào khoảng 42 - 43, tôi đã thấy bản này rồi, thì chữ này đứng ngay sau câu trả lời câu hỏi tại ý Một, mà khi in lại bỏ câu hỏi đi, nên người đọc dễ hiểu chữ này là thay cho chữ "một bản ở trong Nam" ở câu trên, tức là bản in Duy Minh Thị !

(6) Nguyên chú của Nguyễn Tài Cẩn: “Khắc chữ NĂM với dạng chữ NĂM chỉ con số dịch NGŨ LUÂN ? Theo AM, 1884, vẫn phải hiểu là nói đến NĂM THÁNG (…). Theo cụ Hoàng Xuân Hãn: VUÔNG tròn nhờ cậy”.

(7) Xin xem Nguyễn Tuấn Cường: Đi tìm Lâm Nọa Phu (người san cải nên bản Kiều Nôm 1870). Tạp chí Hán Nôm, số 3/2004 và Đào Thái Tôn: Nghĩa của hai chữ Trùng san trong bản Kiều do Duy Minh Thị khắc in năm 1872. Tạp chí Hán Nôm, số 3/2003.

(8) Xin xem: Đào Thái Tôn: Thời điểm sáng tác Truyện Kiều và chữ húy trong bản Duy Minh Thị. Tạp chí Hán Nôm, số 2/2003.

TB

VỀ BẢN TẤU: XỬ TRÍ NAM KỲ LỤC TỈNH TẤU NGHĨ CỦA TRẦN SƠN LẬP

VIỆT ANH

Trần Sơn Lập 陳 山 立 (1809-1878) là một cái tên không mấy quen thuộc trong số các tác gia Hán Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Ông thuộc dòng họ Trần định cư tại vùng đất bảy làng Canh cổ, nay thuộc xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ông tổ của họ Trần nguyên quán ở miền Khoái Châu, đến khoảng thế kỷ XIV - XV thì chuyển lên lập nghiệp tại làng Hoàng Bảng vùng Canh, sau làng Hoàng Bảng gộp với làng Kim Bảng thành tên Kim Hoàng. Kim Hoàng chính là nơi làm ra một loại tranh dân gian đặc sắc, sánh cùng Đông Hồ, Hàng Trống trở thành bộ ba tranh dân gian nổi tiếng một thời ở xứ Bắc. Dòng họ Trần ở đây, trước đã có Trần Hiền 陳 賢 đỗ Đồng Tiến sĩ đời vua Lê Thuần Tông (1733), từng có Trần Bá Lãm 陳 伯 覽 đỗ Đệ nhất Chế khoa (tương đương Hoàng giáp) đời vua Lê Chiêu Thống (1787), lại có Trần Bá Kiên đỗ Giải nguyên trường Sơn Tây trong kỳ thi Hương đầu tiên (1807) của triều Nguyễn. Trần Sơn Lập là con trai thứ của Trần Bá Kiên, gọi Trần Bá Lãm là ông nội, gọi Trần Hiền là cụ nội.

Trần Sơn Lập nguyên húy là Chân 真, tự là Phong Chương 豐 彰, có hiệu là Thứ Trai 次 齋, sau mới đổi tên thành Sơn Lập. Chuyện nhà kể rằng, ông được đặt tên là Chân bởi ông sinh ra khi cha ông làm Tri huyện huyện Nam Chân (nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông đỗ Cử nhân đời vua Tự Đức (1855), từng được bổ chức Huấn đạo ở các huyện Quế Dương, Võ Giàng (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh); chức Giáo thụ ở phủ Quảng Hóa; từng làm Tri huyện ở Đông Sơn (Thanh Hóa), và Tùng Thiện (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Trần Sơn Lập được thăng Đô Sát viện Lễ khoa Cấp sự trung năm 1865 và ở chức quan này trong vòng hai năm. Chính ở cương vị đó, ông đã soạn một bản tấu dâng triều đình về việc xử trí sáu tỉnh Nam kỳ trong tình thế thực dân Pháp đang ngày càng lấn lướt hòng thôn tính đất đai miền Nam nước Việt. Bản tấu này được con cháu dòng họ Trần ở Vân Canh chép trong Thứ Trai văn tập hiện lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Cùng với văn tập, tác phẩm của Trần Sơn Lập còn có cả thi tập và đối thảo tập. Bên cạnh văn chương thù tạc vịnh tả, bản tấu về vấn đề trọng điểm của nước nhà vào nửa cuối thế kỷ XIX là sự thể hiện trách nhiệm của công chức là sự biểu hiện năng lực của nhân sĩ trí thức trong xu thế thời đại đang biến động.

Xin được giới thiệu nguyên văn phần phiên âm và dịch nghĩa bản tấu này sau đây:

Phiên âm:

XỬ TRÍ NAM KỲ LỤC TỈNH TẤU NGHĨ

Tấu:

Nam kỳ lục tỉnh, hệ quốc gia long hưng chi địa, hiền tài đa do thử xuất, phú thứ giáp ư tha châu, ngã bang nhất đại đô hội xứ dã. Nãng giả dương di hợp đảng cấu biến, kinh tứ ngũ niên, lục tỉnh chi dân thiên thụ kỳ hại. Triều đình nghị tòng yêu thỉnh hòa hiếu tức dân. Cái bất dĩ kỳ sở dĩ dưỡng nhân giả hại nhân, tư tâm tức Chu Thái vương tỵ Địch khử Mân chi nhân tâm dã. Bỉ ký ngoại cứ kỳ tam tắc hổ phệ lang thôn; kỳ nội chi tam dĩ hữu tất bất khả thủ chi thế. Tư bỉ ngoan giảo bội minh phục cầu tính quản; niệm kỳ sài lang chi tâm ký bất khả dĩ ân tín kết; nhi giảo hoạt chi thế diệc vị khả dĩ binh lực trừ. Lượng thời đạc lực, tốn dĩ hành quyền, thời nghĩa ư đương nhiên dã. Nhiên nhi nhân dân thổ địa thụ chi quyết sơ, tuy quyền nghi cẩu tế vu nhất thời, tất tư tập dĩ đối vu thiên hạ. Phương kỳ thủy dữ chi tế, tảo vị chung thu chi mưu. Hữu chí giả sự cánh thành, thị diệc kỳ cơ chi đáng nghiên dã.

Thiết văn: lục tỉnh chi dân suất đa hiếu nghĩa. Tức như dương sư thượng sơ bá chiếm, viêm hốt chấn đãng, mạc cảm thuỳ hà; nhi hào cường củ hợp dữ bỉ kháng hành, huỷ đồng trù pháo, triệt sản vi lương. Dân khí dĩ khả khái hiện, tế đại sự giả tại nhân tâm. Nhân kỳ cố hữu phủ nhi dụng chi, lục tỉnh chi nhân tâm vị vong tắc lục tỉnh chi thổ địa do hữu khả phục chi nhật hỹ. Bất nhiên thổ địa ký ủy chi tha, chí kỳ nhân dân hựu vô nhất sách vi chi duy trì điều hộ tắc hướng nghĩa chi tâm cửu nhi hoặc trở; chung thu chi kế phục tương hà sở thị tai. Vị nghi cập kim tam tỉnh do vi quốc gia sở hữu hiệu lệnh đắc hành, tức ưng mật hành phi sức thủ thổ chi quan, các ư sở hạt tùy thế dũ dân, thị dĩ triều đình quyền nghi chế biến, cái bất đắc dĩ nhi hàm nhẫn dĩ sĩ thời, nguyên vô khinh khí kỳ dân đẳng đại ý. Mật vi chi ước, thử hậu nhược năng tương suất vi nghĩa tắc Bình Định dĩ bắc, triều đình tất lượng lực nhi xử chi. Vụ nông mẫu giả lượng thụ điền trù. Hữu tài lược giả giản liệt quan sứ. Chí nhược trùng thiên an thổ thính kỳ tự tại, nhưng khuyến mật tương củ hợp, niệm loạn dĩ đồ tồn, loại như tạc nhật nghĩa dân đẳng bối chi sở dĩ hành. Hựu mật mộ phương thuật chi sĩ sử dữ gián cư, tùy cơ sĩ thế, hoặc thiêu kỳ tích tụ, hoặc tàn kỳ bằng đồ, đam độc dĩ cổ kỳ tâm, kích thích dĩ tàn kỳ mệnh. Thả khả tẩm tích ưu nhụ thâm nhập chi, sử bỉ chi khả tín. Nhiên hậu duy ngô cho sở dục vi. Phàm khả dĩ quyết bỉ chi thế, chí bỉ chi lao giả các nghi phấn bất cố thân dĩ lánh sĩ triều đình chú thác. Phù như thị tắc quy nghĩa chi dân, phân cư yếu hạt, ký túc tăng tráng ngã chi phiên cán, nhi tự tại chi chúng địch khí tiêm cừu diệc năng vi bỉ phúc tâm chi đố. Bỉ kiến lục tỉnh chi dân đới quân duy cựu tắc chu trung địch quốc, tưởng dĩ mặc nhiên tâm hàn; nhi dân tâm chi bất khả sử tắc địa bất khả cư; tham giảo chi tình diệc bất đắc bất phản nhi tự lượng hỹ.

Ngã tắc tuân dưỡng thời hối, dưỡng dân dĩ cường binh, thừa thời nhi động, tướng cơ nhi vi, suất tôn quân thân thượng chi dân, phụ chi dĩ hoài thổ tư hương chi sĩ. Nghĩa thanh ký chấn, hưởng ứng tất đa, tắc luân cương khôi phục chi kỳ hữu khả bốc hỹ. ức hựu tư chi, dũ dân ư kim nhật cố đáng như tiền chi sơ trần; nhiên quy bỉ chi hậu phi hữu phẩm vọng tài khí giả vi chi chủ trương tắc sự quá ý tức, thử chí hoặc hôi, nguyên nguyên chi tâm vị tất bất cửu nhi hoặc giải dã. Thiết thường ám khuy quan tịch, kỳ quán ư lục tỉnh; phàm lục bách dư nhân. Tựu trung trạch kỳ trạng mạo phong hậu, tài trí dĩnh xuất, dữ phàm cẩn mẫn hữu tâm cơ giả, mật hành phỏng sát, lượng kỳ năng vi, tắc gia chi phẩm trật, hậu dĩ tư tài, dương vi biếm truất, lục tục nhi quy, khiển chi sử chi phục hồi cố thổ, ám củ đồng cừu, duy trì hiếu nghĩa chi dân tâm, kinh lý đương vi chi thiện sách. Cơ nhi kiến khả, tiềm dĩ thượng văn, lý ứng ngoại hợp chi cơ, tưởng diệc đắc thắng toán dã.

Nhất ngôn hồ giản binh

Nhi Bắc kỳ chi binh đa vi vô dụng giả, hà dã? Cái Bắc kỳ giản binh lệ thủ đa đinh cường phú; nhi vô lại đệ tử giả tuy khu tài tráng đại diệc dĩ sản thiển đinh đơn, bất trúng giản duyệt. Phù phú giả đa dịch hoài thổ nhi thâu an; bần giả vô dĩ tự tồn tắc cùng nhi vi lạm. Cố phàm lệ binh tịch giả đa thị phú ư tư tài, bình nhật tắc hối lộ quản quan hồi gia tác nghiệp, hữu sự trưng phát tắc cố tá đính đại cẩu tỵ phiền lao. Hựu thả tư lập khoá trình, hạn mãn hồi tịch, gián hữu bần hàn lệ ngạch tắc ngưỡng chi nguyệt hưởng, bất túc dĩ thiệm kỳ gia. Triêu thế mộ đào thế phi đắc dĩ. Cầu kỳ an tâm hành ngũ, thao diễn tri phương giả thập bất đắc nhất. Thị dĩ binh số tuy đa nhi tổng quy vô dụng. Chí ư vô lại chi đồ vô sở tư ngưỡng, doanh doanh sở đắc, hựu thả cấp dĩ dưỡng binh, tuế nhất bất đăng toại tương tụ nhi vi đạo. Tòng lai chi tệ lịch tại kiến văn. Thiết tưởng giản binh chi lệ bất tắc chuyên thủ phú cường. Phàm bần cùng cô độc nhi thân thể cương nghị giả giai khả giản chi; tại quan tắc chiếu thường cấp hưởng dĩ tư kỳ thân; tại dân tắc lượng chuẩn phú thất chi điền, thập thủ kỳ nhất, cấp vi khẩu phần, mỗi binh tam mẫu, sử dụng dĩ thiệm kỳ gia. Tráng tuế tòng quân, đáo lão nhi thải. Phù như thị tắc phú giả phân sản dĩ tư binh, bất quá thích như hối lộ quản quan phóng hồi chi trị; nhi an cư nông mẫu đắc dĩ phục sắc nhi lực điền. Vô lại tử đệ thúc chi vi binh, thân gia các hữu sơ tư tắc hành ngũ khả dĩ thê thân, bất chí thất sở nhi vi đạo. Lư diêm vô thâu thiết chi hoạn, hàng ngũ hữu tuế nguyệt chi an. Xích tịch thường sung, gian đồ bất tác. Phù nhiên hậu tỷ chi thập ngũ thời gia giản giáo, kỳ sĩ dũng nhi kỹ tinh giả thăng chi thượng quân, ưu kỳ lẫm thực, tác hưng cổ lệ, sử khả tức nhung nhi binh vi hữu dụng chi binh hỹ.

Nhất ngôn hồ trưng lương

Tòng lai công điền tư điền, thuế hữu định ngạch. Hạ vụ đông vụ, trưng hữu định kỳ. Nhiên đà khiếm giả đa, thôi đốc lao khổ, tắc dĩ hào cường chi tệ tích tập ký thâm; hoặc ẩn lậu mẫu sào, canh đa nạp thiểu; hoặc tiện nghi bá chiếm, bội quả ích đa. Tổng lý tại kỳ hạ lưu , lại ty duyệt kỳ xu sự. Cố kỳ điền liên thiên mạch giả, phân thu tiển khắc thủ doanh nhi cẩu hữu nhiêu bạc chi điền, tắc đa thủ bất tri kỷ bội. Hựu hoặc bất thu dân túc, cạnh mậu giá lương, túc giá đằng ngang, đăng thâu trì trệ.

Thiết tưởng kim nghi phỏng cổ tỉnh điền chi ý, lượng chiếu dân gian tư điền, thập phần nhi thủ kỳ nhất, trạch kỳ địa lực phì ốc, thủy hạn bất năng vi tai giả, liên mẫu nhi thủ chi; bán hạ bán thu định hữu thường xứ, như nhất xã chi trung hữu tư điền tam bách mẫu tắc thủ kỳ tam thập mẫu dĩ vi công điền. Lý trưởng giả suất kỳ dân chi hữu ngưu canh điền khí giả, tính lực nhi canh giá chi. Ký thực nhi thu tức dĩ đăng nạp. Tòng lai điền cốc sở nhập, kỳ trung thục giả diệc đắc mỗi sào tam ky, lượng đương lục thập quan đồng bát, tắc lượng thu mỗi sào thành túc nhất hộc; kỳ dư thính do lý trưởng lượng hoàn canh công. Kỳ thử ngoại tư điền bất phục canh trưng kỳ thuế. Duy nguyên hệ quan điền giả chiếu thủ như sơ. Như thử tắc tại dân điền địa tuy hữu nhất thời quy thủ chi phiền, nhi thế nghiệp sở canh vĩnh hữu vạn thế quyên tô chi lợi. Hào cường bất đắc dĩ ẩn lậu bá chiếm, hạ hộ bất chí hữu xưng đại ích doanh. Quốc khoá tảo hoàn, trưng thôi sự giản. Thả như tư điền thuế ngạch, điền hữu nhất đẳng nhị đẳng tam đẳng chi phân, nhi tam đẳng du di, đại suất tam bách mẫu chi điền, nhị vụ chỉ trưng nhị bách hộc thượng hạ. Kim nhi quy vi công điền tắc tam thập mẫu sở thu, nhất tuế khả đắc tam bách hộc. Thuế ngạch ký tăng, dân diệc vô khốn. Chí ư tư điền bất phục trưng thuế tắc dân tài nhật dụ nhi xã thương lạc quyên chi chính, khả dĩ thứ đệ cử hành, chẩn tuất hàm tư, phong hung hữu bị. Nhi trưng lương chi chính ư tư thiện hỹ.

Hữu xử trí Nam kỳ lục tỉnh tấu tính thôi binh trưng lương nhị điều giai Lễ khoa Cấp sự trung thời sở nghĩ dã.

Dịch nghĩa:

TỜ TẤU VỀ VIỆC XỬ TRÍ SÁU TỈNH NAM KỲ

Thần kính tâu rằng: sáu tỉnh Nam kỳ là đất dấy nghiệp của quốc gia, hiền tài có nhiều bậc xuất thân từ đó, sự giàu có hơn hẳn so với các miền khác. Đó là chốn đại đô hội của cả nước ta. Ngày trước, giặc Tây tụ đảng gây biến, trải bốn năm năm, dân sáu tỉnh đã chịu tổn hại. Triều đình nghị bàn xin hòa hiếu để an dân. ấy là bởi, không muốn cái nuôi sống người lại làm hại người, giống như tấm lòng nhân của Chu Thái vương tránh Địch trừ Mân đó. Bọn người kia đã chiếm được ba tỉnh bên ngoài với cái thói hổ báo ăn tươi nuốt sống, thì ba tỉnh bên trong đã ở thế không thể giữ. Nay chúng giảo hoạt bội thề, lại toan chiếm cả. Nghĩ rằng lòng dạ sài lang của chúng đã không thể kết lòng tin mà cái thế hung hãn giảo hoạt thì cũng chưa thể dùng binh để trừ. Tùy thời lượng sức, cân nhắc quyền nghi, ấy là làm theo nghĩa của chữ thời. Nhưng mà việc trao dân chúng và đất đai cho chúng dẫu là quyền nghi tạm cứu nhất thời, nhưng phải nghĩ để đổi lấy về cả thiên hạ. Ngay lúc ban đầu mới trao cho chúng cũng phải sớm mưu toan để cuối cùng lại thu về. Người có chí thì việc ắt thành, việc này có lẽ cũng đáng để suy xét kỹ. Trộm nghe: dân sáu tỉnh đa phần chuộng nghĩa. Đến như hồi quân Tây lúc đầu vào xâm chiếm, thế như gió cuốn, chẳng ai dám làm gì. Thế mà các bậc hào trưởng bừng bừng tập họp, đương đầu với chúng, nấu đồ đồng đúc súng, góp cơ nghiệp làm lương. Hào khí trong dân đà rõ mạnh, cứu vãn đại sự chính tại lòng người. Nhân vốn đã có, khích lệ mà dùng, lòng người sáu tỉnh chưa mất thì đất sáu tỉnh còn có ngày khôi phục. Không làm thế thì đất đai đành phó mặc cho người Tây, mà ngay cả nhân dân, nếu lại không có một kế sách nào để duy trì gìn giữ thì tấm lòng mộ nghĩa lâu dần sẽ nản. Kế khôi phục về sau sẽ trông cậy thế nào đây ?

Nay nói đến chuyện ba tỉnh, vẫn còn thi hành hiệu lệnh quốc gia; vậy hãy nên mật báo gấp cho các quan giữ đất, ở mỗi địa phương của mình, tuỳ thế khuyên dân, bảo cho biết triều đình tuỳ nghi ứng biến, thảy vì bất đắc dĩ mà nhẫn nhục đợi thời, chứ vốn không chủ ý bỏ mặc dân mình. Hãy bí mật kết ước, sau này nếu có thể dấy quân vì nghĩa thì từ Bình Định ra Bắc, triều đình nhất định sẽ lượng sức mà xử trí. Người làm ruộng thì xét mà cấp ruộng, người mưu lược thì cho dự hàng quan lại. Còn những ai muốn chuyển đến ở những vùng đất yên ổn thì cứ để thuận theo ý của họ, nhưng khuyên họ bí mật tụ họp, trong loạn lạc mà mưu tính tồn tại, như cách làm của nghĩa dân trước kia. Lại bí mật chiêu mộ thuật sĩ, sai trà trộn với người Tây, tùy cơ đợi thế, hoặc đốt phá kho tàng hoặc giết chết đồ đảng của chúng, đầu độc từ trong lòng chúng, kích thích sát hại lẫn nhau, cho đến khi đã quen thuộc, thâm nhập vào sâu, làm cho chúng tin. Sau đó tùy theo ý muốn của ta, nếu có thể thì bẻ gãy thế của chúng, làm cho chúng suy nhọc. Ai ai cũng cần gắng sức không nghĩ đến thân mình, để đợi giải pháp của triều đình. Như vậy, người ứng nghĩa nên chia ở các miền trọng yếu, đủ để tăng thêm vây cánh của ta; còn dân chúng tại chỗ thì nuôi chí căm thù ngấm ngầm gặm nhấm trong lòng địch. Bọn chúng thấy dân sáu tỉnh vẫn thờ vua như cũ, chung quanh đâu cũng hận thù, chắc rằng chúng sẽ run sợ. Lòng dân đã không sai khiến được, thì đất ở cũng chẳng yên. Thói tham lam giảo hoạt cũng không thể không cân nhắc lại. Ta thì tùy thời an dưỡng, nuôi dân để hưng binh, thừa cơ mà dấy, xét dịp mà làm, lôi kéo dân chúng biết tôn kính bề trên, tập hợp binh sĩ yêu thương đất nước. Nghĩa khí đà dấy lên, hưởng ứng ắt đông nhiều, cơ hội vãn hồi lãnh thổ có thể đoán trước.

Nhưng lại nghĩ rằng, khuyên dụ dân trong thời buổi này vốn phải làm như đã trình bày ở trên. Nhưng sau khi về với bọn người kia, những ai nếu không có phẩm chất chí khí, về làm việc cho chúng, việc qua rồi tình ý bặt; ý chí có thể nguội tàn, tấm lòng ban đầu lâu dần cũng có thể phai nhạt. Từng ngầm xét thân thế các quan, những vị quê ở sáu tỉnh này có tới hơn 600 người, trong đó hãy chọn ra những vị có dáng hình đầy đặn, tài trí hơn người, lại có tính cẩn trọng mẫn cán, ta hãy bí mật dò xét; nếu thấy có năng lực thì tăng thêm phẩm trật, hậu thưởng tiền của, vờ là biếm truất, lần lượt cho trở về quê cũ, ngầm tụ họp người chung chí thù giặc, duy trì lòng dân chuộng nghĩa, sắp đặt kế sách hợp thời; thấy cơ hội thích hợp thì ngầm báo lên trên, thừa cơ trong ngoài ứng hợp, thiết tưởng cũng là kế sách chắc thắng.

Xét về việc tuyển quân

Quân Bắc kỳ phần nhiều vô dụng, là bởi tại sao? Lệ tuyển quân ở Bắc kỳ thường chọn nhà giàu có đông con. Những con em nhà nghèo khó dù có vóc người cao to, nhưng lấy nê nhà nghèo con độc nên không trúng tuyển. Kẻ giàu thì lắm việc, tiếc đất mà ham an nhàn, người nghèo thì không biết sống bằng gì, cùng quẫn đành làm quá. Cho nên tên binh trong sổ sách phần nhiều là bọn giàu tiền của, bình thường thì hối lộ quan cai quản để về nhà sinh sống, khi có việc trưng dụng thì thuê người thay thế để tránh vất vả. Lại lập ra khóa luyện riêng để mãn hạn về quê. Với những kẻ thuộc ngạch bần hàn, chỉ trông chờ vào lương tháng thì không đủ nuôi nhà, nên sớm có mặt tối đào ngũ, không sao tránh được. Muốn tìm người an tâm trong quân để thao luyện phương lược thì trong mười kẻ kiếm không nổi một. Cho nên quân số tuy nhiều mà quy lại thảy vô dụng cả. Còn những người nghèo vốn không nơi trông cậy, có ở khắp nơi thì lại cho nuôi quân, hễ gặp năm mất mùa là tụ tập đi trộm cướp. Tệ nạn xưa nay từng nghe từng thấy. Thiết tưởng việc tuyển quân, không cứ phải nhằm vào nhà giàu. Những kẻ nghèo khó độc thân mà vóc sức tráng kiện đều nên lấy chứ. Làm quan thì theo lệ cấp lương để nuôi thân, làm dân thì chiếu trong số ruộng vườn của những nhà giàu có, cứ mười lấy một, cấp khẩu phần cho mỗi lính ba mẫu dùng để nuôi gia đình. Khỏe mạnh thì tòng quân, đến già thì cho về. Như vậy thì người giàu sẽ chia tài sản để đóng góp việc binh, không còn phải hối lộ quan cai quản để được ở nhà; an cư làm ruộng, dốc sức cấy cày. Bọn con em nhà nghèo thì gắn bó với nghiệp binh, bản thân cùng gia đình đều được chu cấp; vậy thì đội ngũ là nơi đáng gửi thân, không đến nỗi thất cơ phải đi làm đạo tặc. Xóm làng không còn lo trộm cướp, đội ngũ được ổn định lâu dài. Quân số luôn đủ đầy, gian tà không dấy nổi. Sau lại thi đua trong từng đội ngũ, rèn luyện thường xuyên; những binh sĩ dũng cảm và tinh nhuệ thì thăng lên thượng quân, cho hưởng bổng lộc cao hơn, có khích lệ khen tặng, để cho dầu có nghỉ đao binh thì quân vẫn là quân hữu dụng.

Xét về việc trưng lương

Xưa nay ruộng công ruộng tư, thuế đều có định mức. Vụ hạ vụ đông trưng nộp đều có định kỳ. Nhưng có nhiều kẻ dây dưa thiếu nợ, đốc thúc vất vả, tất xảy ra nạn cường hào, tích tụ lâu ngày đã thành lề thói. Hoặc là giấu lậu số sào, cấy nhiều nộp ít, hoặc tùy tiện chiếm đất nộp ít thu lợi nhiều. Chức sắc ở tổng ở làng thì lấy của dân đen, các viên ty lại thì mừng vì được biếu xén. Cho nên ruộng liền bờ ít khi thu được đầy đủ, còn những ruộng đất xấu thì lại thu không biết gấp bao nhiêu lần. Có khi lại không thu thóc của dân, cạnh tranh buôn lương thực. Giá thóc cao vọt, lưu thông trì trệ. Thiết nghĩ, nay nên học theo ý tỉnh điền thời cổ, ước lượng ruộng tư của dân, cứ mười phần thì lấy một, chọn nơi ruộng tốt đất màu, úng hạn không suy suyển mà lấy liền mẫu. Cứ nửa ruộng mùa, nửa ruộng chiêm ở từng xứ cố định. Ví như trong một xã có ba trăm mẫu ruộng tư thì lấy ba mươi mẫu làm ruộng công. Lý trưởng cai quản những người dân có trâu cày, dốc sức mà canh tác trên ruộng công đó, khi lúa chín thì thu nộp. Xưa nay, khi thu hoạch lúa, lúa chín cứ mỗi sào là ba thúng, tương đương sáu mươi bát đồng quan. Như vậy, cứ mỗi sào thành thóc thu một hộc, còn lại do Lý trưởng tính toán trả công làm. Ngoài ra các ruộng tư khác không phải nộp thuế nữa. Chỉ có những ruộng công thì chiếu thu như trước. Như vậy thì ruộng đất trong dân tuy có nhất thời phiền phức ở quy định trưng thu nhưng ruộng canh tác thuộc hạng thế nghiệp sẽ được lợi không phải thu thuế; cường hào không thể giấu lậu bá chiếm được; mà các hộ nghèo khó không đến nỗi phải vay nợ ngày một nhiều. Thuế nhà nước sớm xong, việc trưng thu đơn giản. Cứ theo mức thuế ruộng tư, có chia ra loại ruộng nhất đẳng nhị đẳng tam đẳng, thì ba loại ấy bù trừ cho nhau, nói chung ba trăm mẫu ruộng, hai vụ chỉ thu xấp xỉ hai trăm hộc. Nay quy thành ruộng công, thì ba mươi mẫu một năm cũng phải thu được ba trăm hộc, mức thuế thì tăng mà dân cũng không bị khó khăn. Ruộng tư không bị trưng thu thuế nữa thì của dân ngày một sung túc, từ đó xã có thể tiến hành lạc quyên vào kho dự trữ nguồn trợ cấp chu toàn, bội thu hay mất mùa đều có chuẩn bị đủ. Chính sách trưng lương, như vậy tốt quá!

(Bản tấu Xử trí việc sáu tỉnh Nam kỳ và hai việc tuyển lính, thu lương, đều soạn khi nhậm chức Lễ khoa cấp sự trung).

V.A

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VĂN BẢN
LƯỢN SLƯƠNG CỦA DÂN TỘC TÀY - NÙNG

PHẠM HOÀNG GIANG

Sli lượn của người Tày - Nùng ở vùng cao là lối hát giao duyên giữa thanh niên nam nữ gặp nhau trong những ngày hội, ngày tết, hay những ngày chợ để chào hỏi nhau, và cũng để thổ lộ tình yêu với nhau. Những làn điệu Sli lượn của họ được ngân lên hòa vào không gian bao la, đã gợi cho mọi người một tình yêu quê hương đất nước rất đậm đà sâu sắc.

Trước đây đã có một số người quan tâm,nghiên cứu đến hát lượn. Họ đã phân Lượn làm ba loại: Lượn khắp theo thể thơ tự do; Lượn cọi theo thể phong slư; Lượn Lạng Sơn theo thể thơ tứ tuyệt. Tuy nhiên việc phân chia này chỉ là tương đối. ở từng nơi, đồng bào Tày - Nùng thể hiện, ghi chép khác nhau về những làn điệu hát lượn đó. Những ghi chép này đều là những tư liệu quí.

Với mong muốn được góp phần nghiên cứu một loại hình lượn, chúng tôi xin giới thiệu một loại văn bản lượn, đó là: Lượn Slương, một kiểu lượn trong loại hình Lượn khắp. Một số văn bản này hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với các kí hiệu như: VNv.687; VNb.158; VNb.154; VNb.152; VNv.688... Đặc điểm của loại hình văn bản Lượn Slương này là được chia làm 13 cung lượn, mỗi cung từ 4 đến 16 câu. Nội dung các cung cũng được sắp xếp theo thứ tự của quá trình hát giao duyên từ lúc gặp nhau đến lúc chia tay và được lặp lại.

1. 宮 勸 乃 Cung khuyên nai (Cung khuyên mời)

Những buổi Lượn, Sli thường được thể hiện vào những ngày hội làng, những buổi chợ phiên và thường là về buổi tối. Những người tham gia lượn gồm người địa phương và cả những người từ nơi khác đến. Những cuộc hát lượn này, có cả những người lớn tuổi đến xem và chứng kiến.

Về hình thức, mỗi Cung khuyên mời khoảng 5 đến 12 câu, mỗi câu 7 chữ.

Mở đầu cuộc lượn là những lời chào hỏi để làm quen của các chàng trai với các cô gái tham gia trong buổi vui đó:

意 如 枚 交
生 達 報 眉 數
矣 獻 對 塘 地 色 空
酉 欺 保 惵 根 回 茶
Pi bươn y như bóng mạy giao
Bân slinh tặt báo slao mì slí
Hãy hỉn đuổi táng tỉ slắc không
Dẫu khi bấu điếp căn cỏi dá...

Dịch nghĩa:

Năm tháng như bóng thoi đưa
Trời sinh nên có thời con trai con gái
Hãy vui Lượn cùng bạn khác mường đôi cung
Khi nào không thương nhau mới thôi.

2. 宮 Cung chối hỉn (Cung chối không lượn)

Trong cung này, về hình thức thường từ 6 đến 12 câu, mỗi câu 7 chữ. Nội dung của cung này là những lời từ chối khéo léo, nhẹ nhàng của cô gái trước lời mời của chàng trai.

秋 歡
秋 磊

那 眉 字 配 嚕
侖 坤 帝 過 於 愁
個 勸 乃
恩 伴 祥 乃 坤 巧
Củ pác noọng xo van pỉ hợi
Củ heng noọng xo lội pỉ quan
Nọng lẻ cần táng mường tu tầư
Ná mì chự phuối lủ pỉ khua
Lượn khôn đẩy quá ư slẩu nả!
Mất cầm phuối pỉ cá khuyên nai
Chậư ơn bạn táng nơi khôn khéo

Dịch nghĩa:

Cất lời em xin van anh hỡi
Cất tiếng em xin lỗi quan anh
Em là người hèn kém mường khác
Dốt chữ nghĩa, vụng về anh cười
Lượn chẳng nên thẹn lắm !
Mất lời anh cả mời khuyên
Cảm ơn anh mường người khôn khéo.

3. 宮 答 Cung đáp lượn (Cung đáp nhận)

Trong cung này thường từ 5 đến 7 câu, mỗi câu 7 chữ. Nội dung là những điệu hát lượn bầy tỏ tình cảm của người con trai đã nghe lời “chối khéo’ của người con gái. Người con trai chủ động bày tỏ nỗi niềm

會 乃 許 遇 雙 緣
眉 福 泣 傖 上 各
除 乃 羅 講 對 根
千 萬 緣 雙 寬 茶 洛
Hội nẩy bân hẩư ngộ slong duyên
Mì phúc chặp noọng slương thượng các
Giờ nẩy là cảng pác đuổi căn
Xiên vạn duyên slong khoăn dá lạc
(1)

Dịch nghĩa:

Hội này trời xui khiến lương duyên
Có phúc gặp người hiền quí khách
Giờ này được ngỏ ý tỏ lời
Nên duyên đẹp suốt đời trọn vẹn.

4. 宮 探 塘 Cung tham tàng (Cung hỏi đường)

Trong cung này, thường có từ 8 đến 12 câu, mỗi câu có thể từ 4 đến 7 chữ. Cung này thể hiện tình cảm của người con trai khi biết được tình cảm của người con gái qua cử chỉ và ánh mắt.

塘 虛 塘

塘 虛 塘

Tàng hâư tàng khẩu bản?
Slĩ tẻ phác lục nhạn mừa nòn
Tàng hâư tàng khảu Mường?
Slĩ tẻ phác lục luổng mừa tổ…

Dịch nghĩa:

Đường nào đường vào bản của em
Cho anh gửi cánh nhạn về đỗ!
Đường nào đường về mường của em
Cho anh gửi theo rồng về tổ!...

5. 宮 Cung mừng, tạ (Cung mừng, tạ)

Nếu như các cung ở trên, phần nhiều dành cho người con trai chủ động thổ lộ tình cảm, thì đến cung này, chúng ta thấy lời lượn người con trai thể hiện nỗi mừng khi được nghe lời lượn chấp nhận của người con gái. Mỗi bài trong cung từ 4 đến 18 câu: nội dung lời mừng là mừng thổ công, mừng đồng ruộng, mừng nguồn nước…; và nội dung lời tạ là tạ thổ công, tạ đồng ruộng, tạ nguồn nước…

Chồm Pác Bó (Mừng nguồn nước)
乃 眉
百 花
Bản nẩy mì pác bó nặm vàng
Slong bưởng bách va phông rỡ rỡ

Dịch nghĩa:

Bản này có nguồn nước vàng nước bạc
Hai bên bờ trăm hoa rực rỡ…

謝 針 Chạ chồm Pác Bó (Tạ mừng nguồn nước)
謝 恩 玉
沛 乃 保 眉 眉 花
沛 乃 尖 仍 羅 芽
功 配 祥 坤 頑
玉 帝 針 配 琴 聲 貴
謝 恩 玉 貳 針
Chạ ơn nguộc khao bang noọng á
Bó nẩy bấu mì pjá mì va
Bó nẩy têm nhưng là nhả nặm
Mất công phuối táng bản khôn ngoan
Nguộc đảy chồm phuối cằm thanh quí !
Chạ ơn nguộc noọng nhỉ chồm mừng

Dịch nghĩa:

Cảm ơn em ngọc ngà trong trắng
(đã mừng nguồn nước của bản anh)
Nguồn nước ở đây không có cá và hoa
Nguồn nước ở đây đầy cỏ nước
Mất công lời người bản bên khôn ngoan
Em đã giành lời quí, lời thanh để chúc
Cảm ơn em vàng, em ngọc đã mừng !

6. 宮 蓋 梂 Cung cái cầu (Cung bắc cầu)

Cung bắc cầu thường khá dài, khoảng từ 10 đến 20 câu. Mở đầu của cung này và thường bắt đầu bằng lời lượn mời của người con trai. Khi đã quen, gần gũi nhau qua những làn điệu hát đối về bản mường, chàng trai như muốn bày tỏ tấm lòng muốn xây dựng một quan hệ gần gũi hơn, thân thiết hơn tình bạn:

勸 麻 耒 荊 針 命
眉 傖 坎 梂
眉 傖 坎 梂 鸞 除 乃
Khuyên mà lội kinh châm mỉnh noọng
Mì slương khảm Cờu Ngàn đuổi pỉ
Mì slương khảm Cốu Loan giờ nẩy...

Dịch nghĩa:

Ơi em gái ngọc ngà
Thương nhau sang Cầu Bạc cùng anh
Thương nhau sang Cầu Loan giờ này...

7. 宮 針 三 光 Cung chồm háng Tam Quang (Cung thăm chợ Tam Quang)

Trong cung này có từ 8 đến 16 câu, mỗi câu 7 chữ. Cung này thể hiện những mơ ước về một cuộc sống tươi đẹp của đôi lứa. Họ cho rằng, trong thế giới này, vẫn tồn tại một nơi mà ở đó thóc lúa dồi dào, có chợ để người ta nắm tay nhau cùng đi. Chợ là biểu trưng của cuộc sống phồn vinh, chính vì thế, sau khi kết thành đôi bạn thân thiết, nam nữ dân tộc Tày thường hát những bài hát nói về chợ, như lời bạt về chợ Tam Quang, chợ Ngọc Lương. Họ như mơ ước được xây dựng một cuộc sống đôi lứa ấm no, hạnh phúc.

勸 麻 耒 荊 針 命
十 塘 廣 化 須
塘 能 羅
塘 能 羅
塘 能 羅 開 須 波
塘 能 羅 世 良 間
塘 能 三 光 坤 安
摩 獻 伴 制 春
Khuyên mà lội kinh châm mỉnh váng
Slíp tàng ngài quảng hóa tu Bân
Tàng nâng là khửn thâng Mẻ Bjoóc
Tàng nâng là lồng lỏt Mẻ Va
Tàng nâng là lồng khai tu Pé
Tàng nâng là lồng thế lương gian
Tàng nâng khửn Tam Quang khổn án
Rà tẻ mừ hỉn bạn chơi xuân...

Dịch nghĩa:

Khuyên là khuyên hỡi em vàng em ngọc
Mười con đường thênh thênh cửa trời
Một đường lên lâu đài Quốc Mẫu(2)
Một đường xuống điện các Mẹ Hoa(3)
Một đường rẽ về đi ra biển
Một đường là xuống cõi Lương gian
Một đường lên chợ Tam Quang thăm thú
Tay nắm tay hội bạn, ta chơi xuân...

8. 宮 Cung tồng vọng (Cung trông vọng)

Cung này có số lượng từ 6 đến 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nội dung thể hiện mối tình đôi lứa. Lời lượn đượm vẻ buồn vì mới quen nhau mà đã phải chia tay:

祥 地
竹 枚 隔 千 里 慘 侵
荊 針 保 遇
對 燕 廚 知 音
Cừn vằn tông phả mươi táng tỉ
Trúc mai cách xiên lí xảm xâm
Slĩ pỉ tông kinh châm bấu ngộ
Tông đuổi én nưa chủa tri âm...

Dịch nghĩa:

Ngày đêm trông sương phủ quê người
Trúc cách mai ngàn dặm buồn thương
Anh trông em ngọc ngà chẳng gặp
Trông cánh nhạn tri âm am Bụt…

9. 宮 約 Cung ước bươn (Cung ước tháng)

Đây là một cung xuất hiện khá đều đặn trong các văn bản Sli lượn. Cung này thường từ 4 đến 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Trong cung này, chàng trai với tư cách là chủ lượn, đã thể hiện tấm lòng, nỗi nhớ người bạn gái:

喲 娘 來 段
湢 從
Bươn chiêng pỉ ước nàng lai đoạn
Mọi cần lồng au hỉn bức tung

Dịch nghĩa:

Tháng giêng anh ước trông nàng mọi khúc
Con trai con gái du ngoại nơi nơi.

Hay:

十 湯 務 冬
玉 珠 哉
約 許
姪 姪 累 如 波
Bươn slíp thâng mủa đông pỉ ước
Cừn vằn ước Noọng nguộc chùa tai
Chang cừn ước hẩư rủng tẻ pây
Chỏi chỏi nặm tha luẩy như pể…

Dịch nghĩa:

Tháng mười vào đông anh ước
Đêm ngày mong người ngọc
Mùa lại mùa sương giá sao lo
Đêm lạnh ước mong trời sáng anh đi.

10. 宮 四 季 Cung buồn tứ quý (Cung buồn bốn mùa)

Với thể thơ 4 câu, mỗi câu 7 chữ. Nội dung của cung này thể hiện tâm trạng, nỗi nhớ của chàng trai trong những tháng ngày phải xa cách:

二 十 望 親 對 橤
四 季 對 娘
定 家 山 宮 各
Slíp sloong bươn vọng tông đuổi nhị
Pỉ lại puồn tứ quý đuổi nàng
Slắng lo định gia san cung các !

Dịch nghĩa:

Mười hai tháng vọng trông em Nhụy
Anh lại buồn tứ quí với em
Ước gì nên giang sơn cửa nhà !

11. 宮 夢 Cung mơ (Cùng mơ)

Đây cũng là một cung xuất hiện khá nhiều trong các văn bản hát lượn, mỗi bài từ 4 đến 10 câu, mỗi câu 7 chữ. Cung này, thường có sự tham gia của cả chủ lượn và khách lượn, thể hiện niềm ước vọng của đôi lứa. Với người con trai thì

男 分 Nam phăn (Nam mơ)
分 欣 鴈 對 鴛
分 欣 講 傖 對
職 革 祥 地 欣 塘
惵 命 分 家
Phăn hăn nhạn khảu hỉn đuổi uyên
Phăn hăn noọng cảng slương đuổi pỉ
Rụ chắc cách táng tỉ cần tàng ?
Cừn vằn điếp mỉnh váng phăn chả…

Dịch nghĩa:

Mơ gặp nhạn vào chơi với uyên
Mơ gặp em nói lời yêu thương
Hỡi người đường xa có thấy
Đêm ngày anh nhớ bạn vàng, anh mơ !

và đến người con gái thì:

數 羅 幽 國

雙 儸 庄
洛 根 三 光 梂 管
祥 準
除 乃 欣 士 官 仍 庄
Số là dú quắc phạ slinh lồng
Sinh mừa thâng bẻn luông tàng áp
Slong rà chắng phít lạc cần tàng
Lạc căn chợ Tam Quang cẩu quán
Phít căn pây táng chổn cần mường
Giờ nẩy cần slí quan nhằng chắng

Dịch nghĩa:

Số phận do trời sinh ra
Sinh ở nơi bến cả, đường sâu
Duyên đôi ta mới trệch đường người
Lạc nhau nơi chợ Tam Quang
Trệch nhau, khác chốn mường người.
Giờ này gặp chàng, chàng còn thương nhớ?

12. 宮 車 結 Cung xe kết (Cung xe kết)

Cung này thường chỉ từ 4 đến 6 câu, 7 chữ, Cung xe kết thể hiện lòng quyết tâm xây dựng hạnh phúc đôi lứa:

燕 洛 除 車 許 士
神 內 祥 來 那 欣
Rụ yến lạc giờ xe hẩư slí
Slấn nội tàng pây quây lại ná hăn

燕 士 麻 汩 伴 欣
幽 祥 且 興
燕 洛 除 車 許
神 內 祥 車 來 那 欣
Yến slĩ slống mà thâng bạn hăn
Noọng dú táng mường thả hâng vằn
Rụ yến lạc giờ xe hẩư noọng
Slân nội tàng xa lại ná hoan

Dịch nghĩa:

Yến đến cho anh duyên xe kết
Thỏa nỗi đường xa mong đợi hoài.
Yến chàng bay đến gặp bạn đời
Em ở đường xa mong từng ngày
Yến đến giờ này duyên xe kết
Thỏa nỗi đường xa trông đợi hoài.

13. 宮 勝 伴 Cung Slắng bạn (Cung dặn bạn)

Kết thúc buổi hát lượn, cũng là lúc chủ và khách phải chia tay. Cung này từ 8 đến 10 câu, thể hiện nỗi lòng của người đi, kẻ ở. Niềm mong mỏi, hi vọng về một cuộc gặp gỡ trong tương lai. Đây cũng là cung kết của loại Lượn Slương.

勝 尸 伴
圭 鴈
洛 根 來 段 興
保 職 仍 悟 陵 遇 保
許 士 愁 約 大
Slắng sle bạn noọng á táng mường
Nhạn tẻ pjản mừa rườn quê nhạn
Pjiạc căn pây lai đoạn hâng vằn
Bâú chắc nhằng vằn lăng ngộ bấu Rụ hẩư slĩ puồn sấu ước đai...

Dịch nghĩa:

Xin dặn lại em gái khác mường
Nhạn trở về quê hương của nhạn
Tạm biệt nhau xa vắng lâu ngày
Liệu sau này mình có còn gặp lại
Hay mình anh đây mãi đợi trông...

Người Tày có quan niệm “sống phải có cộng đồng”. Khái niệm cuộc sống cộng đồng được hiểu như là trai phải lấy vợ, gái phải lấy chồng. Vợ chồng, một cộng đồng nhỏ có cuộc sống nương tựa vào nhau (Nẻn gở khẩu căn đẳng sổng đẩy). Trước khi tổ chức lễ cưới, người Tày thực hiện tự do yêu đương. Người con gái, con trai được tự do chọn bạn đời của mình. Một trong những phương thức lựa chọn được thông qua lượn trong các ngày hội.

Với 13 cung hát lượn, được thể hiện theo thể thơ tự do, cho chúng ta thấy loại hình Lượn Slương (hát giao duyên), là một trong những đặc trưng hát dân ca, thể hiện một nét bản sắc của người dân tộc.

Hiện nay, Viện nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đang lưu giữ một số lượng lớn văn bản Lượn Slương của người Tày - Nùng. Hi vọng trong thời gian tới, số lượng văn bản này sẽ được khảo cứu và giới thiệu với bạn đọc.

P.H.G

CHÚ THÍCH:

(1) Sloong khoăn dá lạc: Hai tâm hồn không dời nhau.

(2) Quốc Mẫu, Mẹ Hoa: Theo văn học (cổ) Tày, Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa), hay Quốc Mẫu là một. Là Bụt cả của Mường trời có quyền lớn để ban phúc, ban cho con người ở trần gian. Mẻ Bjóoc còn được quyền gọi người trần trở về trời (tức là chết).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn hóa truyền thống Tày - Nùng. Nxb. Văn hóa Dân tộc, 1984.

2. Văn hóa Tày Nùng. Nxb. Văn hóa, H. 1984.

3. Từ điển chữ Nôm Tày. Nxb. KHXH, H. 2003.

4. Hoàng Tuấn Nam - Bế Thanh Tuyền: Việc dựng vợ gả chồng của người Tày ở Cao Bằng. Trung tâm văn hóa thông tin Cao Bằng xuất bản (tháng 6. 2001).

5. Cung Khắc Lược: Cung Lượn. Bản thảo đánh máy của TS.

TB

HỘI THẢO VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ HAI

Trong 3 ngày (từ 14/7 đến 16/7/2004), tại Tp. Hồ Chí Minh đã diễn ra Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ hai với chủ đề Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại. Ban Tổ chức Hội thảo đã tuyển chọn để trình bày tại Hội thảo 212 báo cáo của các nhà khoa học Việt Nam ở hầu hết các địa phương trong cả nước và 104 báo cáo của các nhà khoa học quốc tế từ 26 nước, vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhìn chung các báo cáo đã đề cập đến những vấn đề theo các chủ đề, như: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, lịch sử, văn học, ngôn ngữ học, dân tộc học, tôn giáo, địa lý, môi trường sinh thái, nguồn nhân lực, nghiên cứu khu vực... Để các nhà khoa học tham dự Hội thảo có điều kiện trình bày báo cáo và thảo luận. Hội thảo đã chia thành 10 tiểu ban:

- Những vấn đề kinh tế,

- Những vấn đề xã hội,

- Các vấn đề dân tộc,

- Nghiên cứu giáo dục, con người và nguồn nhân lực,

- Lịch sử cổ - trung đại,

- Lịch sử cận đại - hiện đại,

- Văn hóa Việt Nam: Bản sắc hội nhập và phát triển,

- Văn hóa Việt Nam: Truyền thống - tôn giáo,

- Những vấn đề văn học và ngôn ngữ,

- Những vấn đề khu vực.

Hội thảo đã diễn ra trong bầu không khí học thuật thân mật của các nhà Việt Nam học trong nước và quốc tế, đánh dấu một chặng đường phát triển mới của Việt Nam học về chất lượng và số lượng. Tại Hội thảo này, đã xúc tiến thành lập Hội đồng quốc tế về Việt Nam học với nhiệm vụ giữ mối liên hệ giữa các nhà Việt Nam học và các tổ chức Việt Nam học trên thế giới, để trao đổi thông tin tư liệu, những kết quả nghiên cứu và đào tạo về Việt Nam học. Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ hai, thực sự đã mở ra một thời kỳ mới của lịch sử Việt Nam học trong bối cảnh xu thế giao lưu và hội nhập, xu thế toàn cầu hóa của thời đại.

TB

VỀ HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Năm 2003, việc phát lộ di tích Hoàng Thành Thăng Long đã gây sự chú ý trong dư luận xã hội và nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và của nhân dân cả nước cũng như cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tính đến thời điểm tháng 10 năm 2003, Viện Khảo cổ học đã khai quật được 17.000m2 và đã đã thu được hàng triệu hiện vật có giá trị.

Theo sự chỉ đạo của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học - cơ quan chủ quản dự án khai quật Hoàng Thành Thăng Long đã thành lập 7 tiểu ban nghiên cứu về các vấn đề của khu di tích đang khai quật:

- Nghiên cứu những vấn đề chung về Hoàng Thành Thăng Long

- Nghiên cứu vị trí, quy hoạch và dấu tích kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long

- Nghiên cứu vật liệu kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long

- Nghiên cứu gốm sứ di tích Hoàng Thành Thăng Long

- Nghiên cứu môi trường cổ khu vực Hoàng Thành Thăng Long

- Nghiên cứu đề xuất phương án bảo vệ, bảo tồn di tích Hoàng Thành Thăng Long

- Tổng hợp và xây dựng báo cáo.

Các tiểu ban cũng đã tập hợp các chuyên gia thuộc các ngành khoa học liên quan và đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hội nghị khoa học về Hoàng Thành Thăng Long.

Nhìn chung, qua các dấu tích kiến trúc, các hiện vật khảo cổ, cùng các thông tin trong thư tịch cổ đã thu nhập được, các nhà khoa học đều nhất trí khẳng định khu vực khai quật hiện nay là nằm trong khu vực Hoàng Thành và Cấm Thành thời Lý - Trần - Lê. Các cuộc hội thảo khoa học vẫn đang tiếp tục triển khai và cũng đã mở một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.