TB

KHẢO THUẬT VỀ CỔ TỊCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆT NAM THUỘC CÁC TRIỀU ĐẠI Ở TRUNG QUỐC

HÀ THIÊN NIÊN

TÓM TẮT NỘI DUNG

Số lượng văn hiến có liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc khá phong phú, nhưng nhiều tác phẩm đã thất lạc, số còn lại thì việc chỉnh lý và sử dụng cũng chưa được bao nhiêu. Bài viết này, trên cơ sở thư mục xưa nay và các điển tịch liên quan, thử tìm hiểu rõ tình trạng cơ bản của loại văn hiến này về các mặt: phân bố lịch sử, hiện trạng mất còn, quan hệ giữa chúng với nhau, đồng thời trình bày vắn tắt giá trị của chúng. Với bài viết này, hy vọng sẽ cung cấp một đầu mối văn hiến cơ bản cho công tác nghiên cứu về Việt Nam.

Từ khóa:

Cổ tịch liên quan đến Việt Nam, Thư mục, An Nam, Giao Chỉ.

Năm thứ 33 Tần Thủy Hoàng (năm 214 TCN), Tần Thủy Hoàng bình định Lĩnh Nam, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Tượng Quận bao gồm miền đất Trung bộ và Bắc bộ của Việt Nam hiện nay. Năm 939 (năm thứ 4 niên hiệu Thiên Phúc đời Hậu Tấn), Ngô Quyền tự lập, xưng vương, đây được coi là sự mở đầu của nền độc lập của Việt Nam. Trong khoảng thời gian chừng một nghìn năm đó, vùng Bắc và Trung bộ Việt Nam hoặc được gọi là Giao Chỉ, Giao Châu, hoặc được gọi là An Nam. Việt Nam sau khi độc lập thường tự xưng là Đại Việt - Sau năm thứ 7 niên hiệu Gia Khánh đời Thanh (năm 1802) mới gọi là Việt Nam, nhưng Trung Quốc vẫn thường gọi Giao Chỉ, An Nam.

Tình hữu nghị giữa hai nước Trung - Việt có nguồn gốc lâu đời. Việt Nam cũng như Triều Tiên và Nhật Bản là những quốc gia mà tầng lớp sĩ đại phu Trung Quốc rất đồng cảm, được coi là nước dùng chung một thứ chữ viết, cho nên trong lịch sử Trung Quốc đã sản sinh rất nhiều thư tịch hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ghi chép lịch sử, địa lý, phong tục Việt Nam. Và có một số cổ tịch viết bằng chữ Hán do người Việt Nam biên soạn ra đời và lưu truyền trên đất Trung Quốc, như Việt sử lược, An Nam chí lược của Lê Trắc, Nam Ông mộng lục của Lê Trừng. Những thư tịch này truyền về trong nước Việt Nam, có ảnh hưởng không nhỏ đối với sử học và văn học của quốc gia này. Bài viết này muốn giới thiệu những điển tịch mà đối tượng ghi chép của chúng là Việt Nam, hy vọng sẽ làm rõ một số nét cơ bản của cổ tịch chuyên ghi chép về Việt Nam - trong lịch sử, thực lục, địa chí, loại thư cũng có rất nhiều sử liệu liên quan đến Việt Nam, nhưng vì chúng rất phân tán, ở đây không giới thiệu gì đặc biệt. Đối với sách vở cận đại, vì đã được các sách thư mục Thanh sử cảo Thanh sử cảo nghệ văn chí thập di giới thiệu rất rõ, nên cũng không bàn đến nữa.

Sách chuyên thư chép về Giao Châu sớm nhất có Giao Châu dị vật chí 1 quyển do Dương Phu cuối đời Hán soạn, Nam Việt chí 8 quyển do Thẩm Hoài Viễn đời Tấn soạn, Giao Châu tiên hiền truyện 3 quyển do Phạm Viên soạn, Giao Châu tạp sự(1) 9 quyển, Giao Châu quảng ký của Vương ẩn, Giao Quảng nhị châu ký 1 quyển của Vương Phạm, Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ. Các sách nói trên được nhắc tới trong sử chí, còn chúng thì đã thất truyền từ lâu lắm rồi. Một số đoạn văn của các sách đó thấy dẫn, chép trong các sách Thủy kinh chú, Sử ký sách ẩn, Bắc đường thư sao, Thái Bình hoàn vũ ký. Trong Lĩnh Nam di thư có bản chép Giao Châu dị vật chí. Giao Châu ký đã mất. Thủy kinh chú từng dẫn Giao Châu ngoại vực ký, sách này không thấy chép trong Tùy kinh tịch chí Đường thư nghệ văn chí. Theo Nghệ văn loại tụ, quyển 6, mục Châu bộ Giao Châu thì Địch Cung cũng có Giao Châu ký. Trong Thái Bình ngự lãm, chữ Địch 苖 viết thành chữ Hoàng 黃 (2). Diêu Chấn Tông đời Thanh dựa vào một câu "Sĩ Nhiếp trước lục, Lưu Bỉnh tải thư, tắc lỗi lạc anh tài, xán nhiên doanh trục giả hĩ (Sĩ Nhiếp làm sách, Lưu Bỉnh chép sách, là những bậc anh tài lỗi lạc, rõ ràng được (người đời) rất chú ý)" được chép trong Thông sử - Tạp thuyết để đoán định Sĩ Nhiếp có sách Giao Châu nhân vật chí(3), nhưng rốt cuộc cũng chưa thấy đời nào có sách này, cũng chưa thấy có sách nào dẫn dụng cả.

Đời Đường hầu như không có sách chuyên chép về Giao Châu - Những sách mà Tân cựu Đường thư thu nạp đều là sách đã có từ trước đời Tùy. Nhưng Lĩnh Biểu lục dị, 3 quyển của Lưu Tuân có nhiều đoạn nói tới Giao Chỉ. Sách này đã mất, trong Thuyết phu, Tụ trân bản tùng thư của Uyển ủy Sơn đường, có bản tập hợp các bản đã mất. Quan coi thư viện Tứ khố toàn thư từng lẩy ra được 3 quyển từ Vĩnh Lạc đại điển, và nói rằng nguyên thư mười phần chỉ còn tám chín Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư(4) không thấy chép.

Đến thời Tống có An Nam biểu trạng, 1 quyển, do Lý Thiên Tộ tức vua Lý Anh Tông (ở ngôi năm 1138 - 1175) của Việt Nam biên soạn và Giao Chỉ sự tích, 10 quyển, của Triệu Hiệp. Trong quyển 7 sách Trực Trai thư lục giải đề, Trần Chấn Tôn nói: "Giao Chỉ sự tích gồm 10 quyển, quan Tri Châu ở Tân Châu là Triệu Hiệp soạn". Tân Châu ở đời Tống thuộc đông lộ phía nam Quảng Đông, rất gần Việt Nam. Tác giả có thể vì vậy mà hiểu biết về Việt Nam rất rộng. Cùng trong quyển đó lại nói: "An Nam biểu trạng gồm 1 quyển, năm thứ 25 niên hiệu Thiệu Hưng Lý Thiên Tộ tiến cống. Từ năm thứ 2 niên hiệu Tĩnh Khang trở đi, đến lúc này mới thông". Năm thứ 25 niên hiệu Thiệu Hưng, ở triều Lý là năm thứ 16 niên hiệu Đại Định, tức là năm dương lịch 1155. Sách này cũng được Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm chép. Ngoài ra, Tống sử nghệ văn chí (5) còn chép quyển 2 của 10 thiên An Nam nghị của Trần Thứ Công, (như trên) An Nam biên thuyết 5 quyển, của Triệu Thế Khanh, An Nam thổ cống phong tục 1 quyển (quyển 3)(6). Bí thư sảnh tục tứ khố thư mục thu chép An Nam hội yếu nhất quyển (Sử bộ địa lý loại), Trung hưng quản các thư mục thu chép Giao Quảng đồ 1 quyển (Sử bộ địa lý loại). Theo lời tổng tựa đầu sách Việt Kiệu thư, thời Tống Ninh Tông, quan Trực các Trương Hiệp còn biên soạn An Nam chí. Giao Chỉ sự tích An Nam hội yếu, đến đời Minh, Tiêu Hoằng với tác phẩm Quốc sử kinh tịch chí tuy có chép, nhưng chỉ là sao từ các bộ thư mục khác(7). Cho nên, các sách kể trên đã mất từ lâu.

Đời Nguyên, An Nam chí lược là một bộ sử thư quan trọng chuyên chép về An Nam. Sách này ở Trung Quốc có bản chỉnh lý của Trung Hoa thư cục, ở Việt Nam cũng có một bản được lưu truyền(8). Thời gian định cư ở Trung Quốc, cả Lê Trắc và Trần Ích Tắc đều có làm thơ được lưu truyền các đời. Lê Trắc có Tĩnh Lạc cảo 1 quyển, chép ở quyển 16 Nguyên thi tuyển tam tập, ngoài ra Lê Trắc còn có Lư Sơn du ký(9) 3 quyển, nhưng không thấy lưu truyền. Trần ích Tắc có An Nam tập 1 quyển, thấy chép trong quyển 68 sách Nguyên thi tuyển sơ tập. Ngoài ra, người Trung Quốc khi đi sứ sang Việt Nam thường biên chép về phong cảnh núi non sự vật ở những nơi họ đi qua, và cũng thường làm thơ đề vịnh những nơi đó. Văn Uyên các thư mục (quyển 2) của Dương Sĩ Kỳ đời Minh có chép 1 bộ 1 sách tác phẩm Trần Cương Trung An Nam lục, 1 bộ 1 sách Trần Cương Trung xuất sứ thi . Trần Cương Trung tức Trần Phu. Năm thứ 29 niên hiệu Chí Nguyên, Nguyên Thế tổ sai Lương Tằng đi sứ An Nam, Trần Phu làm Phó sứ với tư cách là Hàn lâm viện Biên tu. Trong thơ của Trần Phu chép ở quyển 6 tập thơ Nguyên thi tuyển nhị tập có nội dung đề vịnh những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi sứ Việt Nam. Tứ khố toàn thư tập bộ biệt tập loại cũng chép tập thơ của Trần Phu, trong đó có Giao Châu cảo, nội dung giống như Nguyên thi tuyển nhị tập. Thế thì, Giao Châu cảo phải là Trần Cương Trung xuất sứ thi trong Văn Uyên các thư mục. Trong Trần Cương Trung thi tập Tứ khố toàn thư đã thu nạp, ngoài Giao Châu cảo, còn phụ chép 1 quyển, quyển ấy chép Dụ An Nam chiếu thư, An Nam tạ tội biểu và thư từ qua lại giữa Trần Phu với An Nam, nội dung có thể tương đương với Trần Cương Trung An Nam lục. Ngoài ra, Thuyết phu bản Uyển ủy Sơn đường có An Nam hành ký, có chỗ chép là Thiên Nam hành ký, do Từ Minh Thiện đời Nguyên soạn. Sách này cũng được chép trong Tích thốn âm trai tùng sao. Theo như quyển 3 An Nam chí lược đã chép thì Tiêu Phương Nhai có soạn Sứ giao lục. Căn cứ vào Nguyên sử Trương Lập Đạo truyện, thì đời Nguyên, Trương Lập Đạo có soạn An Nam lục. Theo như Bổ tam sử nghệ văn chí của Tiền Đại Hân, còn có hai vị sứ thần tên là Nguyên Trinh và Văn Tử Phương, mỗi người soạn một tác phẩm Sứ Giao lục An Nam hành ký.

Đời Minh Thanh, qua lại giữa Trung Quốc và Việt Nam càng mật thiết hơn, càng có nhiều tác phẩm ra đời, số tác phẩm được truyền ở đời không phải là ít. Trong số đó phần nhiều là tác phẩm của các sứ giả ngoại giao, cũng có một bộ phận mang tính chất du ký.

Đời Minh có bộ Đại Việt sử lược, tác giả là người Việt Nam. Ghi chép sớm nhất về bộ sách này là Văn Uyên các thư mục của Dương Sĩ Kỳ. Về sau có Bí các thư mục của Tiền Phổ, Lục Trúc đường thư mục của Diệp Thịnh và Tứ khố toàn thư tổng mục đều có chép. Nội dung của Đại Việt sử lược có thể tìm thấy trong Thủ Sơn các tùng thư, Tứ khố toàn thư. ở Thư viện Thượng Hải có bản sao sách này của Tri Thánh Đạo Trai đời Thanh. Ngoài Đại Việt sử lược còn có Nam Ông mộng lục của Lê Trừng được chép trong Kỷ lục vựng biên, sử địa loại của Tùng thư tập thành sơ biên cũng có chép.

Đời Minh do có một thời kỳ ngắn chiếm đóng Việt Nam, về sau lại có chuyện họ Mạc soán đoạt ngôi nhà Lê, xoay quanh những hoạt động chính trị ấy, đã ra đời hàng loạt tác phẩm sử học phản ánh tình hình chính trị địa lý Việt Nam - Hoàng Phúc có Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký, 1 quyển. Sách này hiện còn trong Kỷ lục vựng biên phần sử địa loại của sách Tùng thư tập thành sơ biên cũng có chép. Sách ghi chép những năm thuộc niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, về chiến tranh Việt Nam có Bình định Giao Nam lục, 1 quyển, của Khâu Tuấn, sách còn có tên là Định Hưng vương bình định Giao Nam lục. Sách này xưng nhân vật chính trong truyện là "vương" tức chỉ Trương Phụ, nội dung nhiều chỗ giống với quyển 6 Việt Kiệu thư, cuối sách có câu "Nam Kỷ Tỵ niên hiệu Chính Thống, mất trong khi làm việc công, đến đây là 37 năm". Lời tựa Việt Kiệu thư đề tháng 6 năm Canh Tý niên hiệu Gia Tĩnh (1540). Vậy là Việt Kiệu thư được làm tiếp nối thêm cho Bình định Giao Nam lục. Nhiều thư mục đời Minh có ghi chép về sách này, hiện thấy chép trong các tùng thư: Quốc triều điển cố, Kim hiến vựng ngôn, Kỷ lục vựng biên, Trạch Cổ trai trùng sao.

Sách liên quan đến họ Mạc, có An Nam tấu nghị. Tạp sử loại tồn mục trong Tứ khố toàn thư có chép sách này, không ghi tác giả, chỉ nói là tập sớ của Trương Toàn, gồm 1 quyển. Sử bộ sách Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục thì đề là Trương Toàn soạn, gồm 2 quyển. Tồn mục tùng thư có chép sách này. Một tác giả gần đây là La Chấn Thường, với tác phẩm Thiện bản thư sở kiến lục, quyển 2, có chép về một quyển sách cùng tên, và chua: "Nghiêm Tung đời Minh soạn, bản chép trên giấy, bìa màu lam, sao từ đời Minh. Sách chép những việc về giao thiệp với An Nam, cuối sách có phụ chép Nghị phủ An Nam sự nghị, có chú thích bên cạnh: Quốc triều điển cố 93, có lẽ chuyển chép từ một sách khác. Tàng thư Thiên Nhất Các, nay quy về kho sách Đại Vân của họ La"(10). Xét thấy rằng, những điều mà họ La biết cũng được chép vào trong Quốc sử kinh tịch chí - Tập bộ Tấu nghị của Tiêu Hoằng và quyển 2 sách Vạn Quyển đường thư mục của Chu Mục Lương đều ghi là Nghiêm Tung soạn. Sau khi Đặng Dung cướp ngôi nhà Lê, hậu duệ họ Lê là Lê Ninh sai Trịnh Duy Liêu chạy sang Bắc Kinh cáo nạn và xin viện binh. Triều đình bàn thảo, mỗi người một ý. Căn cứ các đoạn chép trong Minh sử - An Nam truyện: "Bọn Hạ Ngôn và Trương Toàn ra sức nói rằng nghịch thần cướp ngôi đoạt nước, không chịu triều cống, đáng đánh lắm", "Bấy giờ Nghiêm Tung nắm bộ Lễ, cho rằng lời nói của nó (chỉ Trịnh Duy Liêu) chưa thể tin hết được", "Nghiêm Tung, Trương Toàn nom thấy sắc chỉ của vua, ra sức can ngăn nhưng không được", như vậy bấy giờ cả Nghiêm Tung và Trương Toàn đều có sớ biểu. Một bộ sách khác có liên quan đến họ Mạc là Nghị xử An Nam sự nghi. Năm thứ 18 niên hiệu Gia Tĩnh, sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn chinh phạt An Nam. Bộ sách này chép các tài liệu liên quan đến sự kiện này, như sớ văn của Mao Bá Ôn, công văn và chiếu thư của bộ Binh. Tác giả của Tứ khố toàn thư đề yếu nghi ngờ sách này hãy còn thiếu sót. Văn bản hiện còn của sách này khá nhiều. Ngoại trừ Tồn mục tùng thư có chép, các bộ tùng thư Hoàng Minh tu văn bị sử, Quốc triều điển cố cũng thu nạp sách này. ở Thư viện Nam Kinh còn lưu giữ bản sao chép tay thời Minh, trong Thiên Nhất các tàng thư mục lục có chép một tên sách An Nam nghị nghi và còn tàng trữ một bản sao nhan đề Thẩm vấn An Nam sự lược, ngờ rằng đây là tên khác của sách kể trên.

Sách có liên quan họ Mạc còn có một quyển nữa: An Nam Mạc Mậu Hợp liệt truyện, được thu nạp vào trong Hoàng Minh tu văn bi sử, hiện được lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh.

Vào những năm thuộc niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, Lý Văn Phương đã biên soạn "Việt Kiệu thư, gồm 20 quyển, đây là bộ trước tác sử học cổ đại Trung Quốc, liên quan đến Việt Nam, trình bày có hệ thống, có độ dày khá đồ sộ. Lời tựa sách này nói đến bối cảnh sáng tác: Khi họ Mạc soán đoạt ngôi vua Lê, triều đình định khởi binh tiến đánh, nhưng ý kiến bàn luận còn phân vân, tác giả bèn soạn sách này, khảo sát phong tục, núi sông, lịch sử An Nam. Sách phân ra các mục: diên cách, núi sông, sản vật, phong tục, thư chiếu, biểu chương, chế độ, thơ. Những điều sử chép từ đời Minh trở về trước đại thể lấy từ An Nam chí lược của Lê Trắc, phần chép về đời Minh thì tác giả sưu tập từ các sách khác, trong đó phần chiếu dụ của vua Vĩnh Lạc cấp cho Trương Phụ, Mộc Thạnh, Trần Hiệp coi là tư liệu quan trọng hơn cả. Chu Di Tôn trong Việt Kiệu thư bạt khen sách này "mạch lạc rõ ràng, dã sử ghi chép về đất nước như thế này thật tuyệt diệu"(11). Sách này được Tồn mục tùng thư thu nạp, căn cứ vào bản in ảnh bản sao Minh Lam Cách hiện tàng trữ tại thư viện Đại học Bắc Kinh, thì quyển 1 và quyển 2 khớp với bản sao đời Thanh. Ngoài ra, thư viện Thượng Hải cũng giữ bản sao sách này.

Đời Minh, sách liên quan đến Việt Nam, còn có An Nam khí thủ thủy mạt, 1 quyển. Hai chữ "thủy mạt" có bản chép là "bản mạt". Thư viện Nam Kinh có bản sao đời Thanh, sách An Sấu sơn phòng dục tồn thiện bản thư mục, quyển 5, Bức Tống lâu tàng thư chí, quyển 22 đều chép. An Nam đồ chí, 1 quyển, do Đặng Chung đời Minh soạn, Thư viện Bắc Kinh lưu giữ, có chép tập 1 sách Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán thiện bản tùng thư, có bài tự tựa đề năm thứ 36 niên hiệu Vạn Lịch (1608). Sứ Giao lục do Tiền Phổ soạn, trong tùng thư Nghệ hải vựng hàm có chép, các bộ thư mục đề số quyển không thống nhất, tồn mục 6, truyện ký loại, sách Tứ khố đề yếu ghi là 18 quyển, là do dựa vào Thiên Nhất các tàng bản(12). ở quyển 8 Thiên Khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc có chép về sách này nhưng chỉ nói là 1 quyển. Cũng ở quyển 8 Thiên Khoảnh đường thư mục còn thu nạp bộ Sứ Giao lục, tác giả là Hoàng Gián. Ngoài ra, quyển 1 sách Giáng Vân lâu thư mục của Tiến Khiếm Ích lại thu nạp bộ Sứ Giao lục, tác giả là Ngô Bá Tông, và chú thích là danh nhân đầu đời Minh. Sách Giao Lê tiễu bình sự lược, gồm 5 quyển, do Âu Dương Tất Tiến đời Minh soạn, Thư viện Bắc Kinh lưu giữ. Tứ khố đề yếu cho rằng [sách này] do Phương Duyệt Dân đời Minh soạn. Năm thứ 28 niên hiệu Gia Tĩnh, Phạm Tử Nghi người An Nam và Lê Na Yên quê ở Quỳnh Châu vào quấy rối, Âu Dương Tất Tiến hịch Du Đại Du đánh dẹp. Tứ khố đề yếu nói quyển 1 là bản đồ, từ quyển 2 đến quyển 4 là tấu sớ, quyển 5 là công văn giấy tờ. Phần Tồn mục tùng thư chép là dựa vào bản in ảnh của bản khắc niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, đề là Âu Dương Tất Tiến soạn, Phương Duyệt Dân biên tập, đầu sách có lời tựa của Trương Ngạo, cả phần mục lục và chính văn chỉ có 4 quyển, không có quyển 5 chép công văn giấy tờ. Bản mà Thư viện Bắc Kinh lưu giữ tuy là bản sao đời Thanh nhưng lại có 5 quyển, không biết tại sao Tồn mục tùng thư lại không chép. An Nam lại uy đồ sách, gồm 3 quyển, do Phùng Thời Thích, Lương Thiên Tích biên tập. Tập lược gồm 3 quyển, do Giang Mỹ Trung biên tập, được chép trong Huyền Lãm đường tùng thư. Sự thực mà sách này lấy làm căn cứ, về đại thể là giống nhau, mục đích của người biên tập là ca công tụng đức Giang Nhất Quế. Trong đó, phần "đồ sách" thu thập được rất nhiều tranh ảnh hình vẽ, nhưng nội dung giản lược. Phần "tập lược" thấy chép trong Thiên Khoảnh đường thư mục, đề là An Nam lại uy tập lược, gồm 3 quyển, chú thích là "Cha của Mỹ Trung là Nhất Quế, quê ở Vụ Nguyên, niên hiệu Gia Tĩnh làm Tri phủ Thái Bình Quảng Tây. Mao Bá Ôn, Nhất Quế đi chiêu dụ Mạc Đăng Dung xưng thần, nộp cống, xây thành Thu Hàng và đài Chiêu Đức ở Trấn Nam quan, được phong á trung đại phu, được người Giao Châu thờ phụng. Mỹ Trung tập hợp thư từ văn cáo qua lại làm thành sách, Cấp sự trung Nghiêm Tòng Giản đề tựa". Nội dung phần Tập lược kỹ càng hơn, chép nhiều chiếu dụ và tấu biểu của họ Mạc và của kỳ mục địa phương Việt Nam, phần này giá trị hơn Đồ sách. Thư viện tỉnh Phúc Kiến lưu giữ An Nam chí, 1 quyển, bản khắc, do Tô Tuấn đời Minh soạn. Sách này từng được chép trong Sử bộ, Ngoại di loại sách Từ thị Hồng Vũ lâu thư mục(13) của Từ (Hỏa Bột) đời Minh. Quyển 3 sách Đạm Sinh đường thư mục của Kỳ Thừa (Hỏa Nghiệp) đời Minh có chép sách An Nam chí, không đề tên người soạn, có lẽ cũng là sách đó. Đời Minh, sách ghi chép về Việt Nam còn có An Nam truyện của nhà văn nổi tiếng Vương Thế Trinh, được thu nạp vào các bộ tùng thư loại sử địa như Ký lục vựng biên, Tùng thư tập thành sơ biên. An Nam đồ thuyết, Quách Nhược Tằng soạn, được thu nạp vào loại địa lý Tồn mục tùng thư. An Nam cung dịch kỷ sự, 1 quyển, do một di dân cuối đời Minh tên là Chu Chi Du soạn, được thu nạp vào trong Thuấn thủy di thư. Thư viện Bắc Kinh lưu giữ Chinh An Nam sắc chinh An Nam sự thực, không phân quyển, bản sao đời Thanh. Sách này có lẽ là bản sao gộp của hai tác phẩm Bình An Nam sắc dụ, Chinh An Nam sự tích mà các bộ thư mục Thiên Khoảnh đường thư mục và Vạn Quyển đường thư mục đã chép.

Trên đây là thư tịch do người đời Minh biên soạn hiện nay vẫn còn. Thiên Khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc người đời Thanh, chép toàn sách đời Minh. Theo sách này vẫn còn một số thư tịch liên quan đến Việt Nam chưa được lưu truyền. Trong đó có các tác phẩm của Hoàng Phúc: An Nam sự nghi 1 quyển, Tuy Giao lục 2 quyển, Tuy Giao ký 1 quyển. Theo quyển 6 sách Nội các tùng thư mục lục do Tôn Năng Truyền và Tôn Huyên đời Minh soạn, có sách Bình An Nam bi, do Đại học sĩ Hồ Quảng người đầu đời Minh phụng sắc soạn(14). Thiên Nhất các tàng thư mục lục có chép 1 bản An Nam sớ cảo. Quyển 2 Vạn Quyển đường thư mục chép Bình Giao kỷ lược, 10 quyển. Quyển 3 Đạm Sinh đường tàng thư mục chép An Nam kỷ hành chí, 1 quyển, Giao Lê mạt nghị, 3 sách, Tưởng Quang Ngạn soạn.

Sách ghi chép về Việt Nam ở đời Thanh không phải là ít. Trong Tứ khố đề yếu chép 3 tên sách: tạp sử loại tồn mục 3 có An Nam sứ sự ký, 1 quyển, Lý Tiên Căn soạn, trong mục lục và tùng thư, sách này có nhan đề An Nam tạp ký yếu hoặc An Nam tạp ký; địa lý loại tồn mục 7 chép An Nam kỷ dụ, 1 quyển, của Phạm Đỉnh Khuê, Hải ngoại kỷ sự, 6 quyển, của Trạch Đại Sán. Ba tên sách trên đây, ngoài Tồn mục tùng thư có chép, trong các bộ tùng thư cũng thấy chép, chẳng hạn Thuyết linh, Học hải loại biên, Chiêu đại tùng thư, Biên dư kỷ lược hội sao, và mục Sử địa loại sách Tùng thư tập thành sơ biên. Trung Hoa thư cục năm 2000 xuất bản bản điểm hiệu hợp đính hai tác phẩm An Nam chí lược Hải ngoại kỷ sự.

Đời Thanh có 3 tác phẩm đề là An Nam kỷ lược, một tác phẩm gồm 2 quyển do Nhiệm Đống soạn, được chép trong phần bổ sung của Trì Tĩnh trai thư mục, một tác phẩm khác do Tra Lễ soạn, cũng 2 quyển, hiện được lưu giữ ở Thư viện Đại học Vũ Hán, còn một tác phẩm nữa có tên khác Khâm định An Nam kỷ lược, gồm 32 quyển, phụng sắc biên soạn năm thứ 56 niên hiệu Càn Long. Nội dung này ghi sự tích vào khoảng năm thứ 53 đến 56 niên hiệu Càn Long, triều đình nhà Thanh giúp An Nam quốc vương Lê Duy Kỳ lấy lại ngôi vua và sắc phong Nguyễn Quang Bình làm vương. Sách này có bản in ảnh bản sao lưu giữ tại Thư viện Bắc Kinh do Nhà xuất bản Văn vật xuất bản năm 1986. Bài tựa trong đó nói rằng truyền bản của sách này rất ít, "chỉ có Viện Bảo tàng Cố cung và Thư viện Bắc Kinh giữ bản sao. Nhưng theo Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục thì Thư viện Đại học Dân tộc Trung Ương có giữ bản sao nội phủ Càn Long đời Thanh, hẳn là văn bản tốt nhất.

Đời Thanh, sách chuyên ghi chép về địa lý Việt Nam càng nhiều, nội dung thêm phong phú. Liệt kê như sau: Tòng nhung Việt Nam ký, 1 quyển, của Âu Dương Văn Tĩnh, Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc; Việt Nam tân văn lục, 1 quyển, của Vương Nghĩa Phật, Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc; An Nam quân doanh kỷ lược của Trần Nguyên Nhiếp (xem thêm Quân doanh kỷ lược), Thư viện Bắc Kinh; An Nam chí, 1 quyển của Dương Trọng Hưng, phụ chép An Nam quốc hình thế khảo lược, 1 quyển, Thư viện tỉnh Hồ Bắc; Việt Nam dư địa lược, 1 quyển, bản sao của họ Viên ở thôn Tiệm Tây, Thư viện Thượng Hải; Sứ Giao kỷ sự, 1 quyển, của Ô Hắc; Nam Giao hảo âm, 1 quyển, Chu Xán biên tập; Sứ Giao ngâm, 1 quyển, An Nam thế hệ lược, 1 quyển, của Chu Xán; bản khắc thời Khang Hy đều thấy ở Thư viện Thượng Hải; Việt Nam ký, 1 quyển; Việt Nam cương vực khảo, 1 quyển, của Ngụy Nguyên; Chinh phủ An Nam ký, 1 quyển, của Ngụy Nguyên; Chinh An Nam kỷ lược, 1 quyển của Sư Phạm; Việt Nam chí, 1 quyển, của 1 người Phương Tây; Việt Nam địa dư đồ thuyết, 1 quyển; Việt Nam thế hệ diên cách lược, 1 quyển, của Từ Diên Húc; Việt Nam đạo lộ lược, 1 quyển; Việt Nam khảo lược, 1 quyển, của Cung Sài; Việt Nam du ký, 1 quyển, của Trần Mỗ, đều thấy chép ở Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao; Du Việt Nam ký, 1 quyển; An Nam luận, 1 quyển, của Lý Đề Ma Thái nước Anh, thấy chép ở Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao tam bổ biên; Việt Nam phong tục ký, 1 quyển, An Nam biến thông hưng thịnh ký của Lý Đề Ma Thái nước Anh, xem Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao tam bổ biên; Trùng đính Việt Nam đồ thuyết, 6 quyển, của Thịnh Khánh Phật đời Thanh, xem Quan tượng lư tùng thư; Sứ Giao tập, 1 quyển, của Ngô Trường Canh đời Thanh, xem Ngô Hưng tùng thư; Tiếp hộ Việt Nam cống sứ ký, 1 quyển, của Giả Trăn, xem Giả thị tùng thư giáp tập; Hộ tống Việt Nam cống sứ nhật ký, 1 quyển và Tái tống Việt Nam cống sứ nhật ký, 1 quyển, của Mã Tiên Đăng, xem Mã thị tùng khắc; Việt Pháp chiến thư, không chia quyển, 4 sách, Vương Tử Cần biên tập, bản in năm thứ 10 niên hiệu Quang Tự; Việt Nam vong quốc sử, không chia quyển, 1 sách, Tân Dân xã biên soạn, bản in năm thứ 31 niên hiệu Quang Tự; Pháp Việt sự kỷ không chia quyển, Ông Đồng Hòa soạn, xem bản Bình Lư tùng cảo; An Nam sử, 4 quyển, người Nhật Bản Dẫn Điền Lợi Chương soạn, Mao Nãi Dung dịch, năm thứ 29 niên hiệu Quang Tự, bản in đá của Thượng Hải Giáo dục thế giới xã; Việt sự bị khảo, 12 quyển, Lưu Danh Dự biên tập, bản khắc Quế Lâm năm thứ 21 niên hiệu Quang Tự; An Nam tiểu chí, không có số quyển, Diêu Văn Đống soạn; An Nam kỷ lược, 1 quyển, Thẩm Sâm Nhất soạn, xem bản Ngũ châu liệt quốc chí vựng.

Trong lịch sử, giao lưu văn hóa Trung - Việt đương nhiên là hai chiều, cho dù ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam là mặt chủ yếu. Vì vậy, có một số thư tịch ra đời trên đất nước Việt Nam đã lưu truyền sang Trung Quốc(15). Trong số những tác phẩm ấy, Việt sử lược phải coi là quan trọng nhất, ngoài ra, quyển 6 sách Khai Hữu ích trai độc thư ch í của Chu Tự Tằng có chép Việt Nam thi tuyển gồm 6 quyển, Bùi Bích biên tập, bản khắc; trong quyển 4 sách Gia Tùng đường tàng thư ch í có chép Trích diễm tập gồm 6 quyển, Hoàng Đức Lương biên soạn, bản sao, do Mâu Thuyên Tôn giải đề. Theo Bản thư ngẫu ký, còn có Hoàng Việt địa dư chí, 2 quyển, bản khắc Kim Ngọc lâu núi Phật Sơn Việt Đông khoảng năm thứ 11 niên hiệu Đồng Trị(16). Nhưng 3 bộ sách kể trên hiện giờ ở đâu thì không được biết. Tác phẩm hiện còn thì có thể tìm thấy ở Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc một bộ sách Nam Chi tập của nhà yêu nước Việt Nam chống Pháp Nguyễn Thượng Hiền, niên đại khá muộn, sách có tựa của Chương Bính Lân viết năm 1913.

Giá trị của số sử tịch kể trên trước tiên đương nhiên là về sử học, Việt Nam từ triều Ngô trở đi có lịch sử riêng của mình để ghi chép, nhưng phần lớn bị thất lạc. Lịch sử trước đó hàng nghìn năm chủ yếu bảo tồn trong thư tịch Trung Quốc. Tuy những ghi chép đó sơ lược nhưng chúng đều rất quý giá đối với hai nước Việt - Trung. Chẳng hạn, sách Giao Châu ngoại vực ký tuy đã tản mát, nhưng trong các sách như Thủy kinh chú với những trích dẫn giản lược, có thể thấp thoáng nhìn thấy một vài diện mạo xã hội Việt Nam thời thượng cổ. Thủy kinh chú quyển 37, điều "Diệp Du hà" trích dẫn "Giao Chỉ xưa khi chưa chia quận huyện, đất đai có lạc điền, đất ruộng ấy, theo thủy triều lên xuống, dân đến khai khẩn làm ăn, nên gọi là Lạc dân. Đặt ra Lạc vương, Lạc hầu cai quản quận huyện, huyện phần nhiều là Lạc tướng, Lạc tướng có ấn đồng giải xanh. Về sau, con trai vua Thục đem ba vạn binh sang đánh Lạc vương Lạc hầu, qui phục được Lạc tướng. Con trai vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương". Đây là một ghi chép sớm nhất khá hoàn chỉnh về xã hội Việt Nam thượng cổ. Niên hiệu truyền thuyết của Việt Nam sau này về Hùng vương và Thục Phán, An Dương Vương có thể được khởi đầu từ đây(17).

Tác giả của Tứ khố đề yếu khen An Nam chí lượ c "Có thể chứng minh điều nói ngoa của nhà chép sử", "có thể tham khảo, kê cứu lẫn nhau". Bành Nguyên Thụy trong Tri Thánh Đạo trai độc thư bạt, nói Việt sử lược "nhiều chỗ bổ sung cho những gì còn thiếu của tiền sử", coi Giao Châu cảo trong Trần Cương Trung thi tập và phần phụ chép thư từ gửi An Nam là "có thể bổ sung cho sự bất cập của Nguyên sử và địa chí". Sự đánh giá này không nghi ngờ gì nữa, quả là chính xác.

Chẳng hạn, con trai của Đặng Tất là Đặng Dung. Các sách của Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư, sách Trung Quốc xuất bản mới đây Việt Nam thông sử đều viết chữ "Dung" (容), nhưng tác phẩm tương đối sớm của Trung Quốc như Việt Kiệu thư lại viết chữ "Dung" (鎔). Minh sử - An Nam truyện, Minh Thái Tông thực lục (quyển 73, 91) cũng viết "Dung" (鎔), và đề cập tới hai anh em của Dung tên là Doãn, Thiết đều có bộ kim bên cạnh, vậy là viết chữ "Dung" (鎔) là chính xác.

Lại như việc sách vở Việt Nam nhiều lần nhắc đến chuyện người Minh trong thời gian chiếm đóng Việt Nam đã cướp đi nhiều trước tác của nước này. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 7 mùa thu năm Mậu Tuất kỷ Lê Thái Tổ (tức năm thứ 16 niên hiệu Vĩnh Lạc đời Minh), "Người Minh sai hành nhân Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thời đến lấy các sách ghi chép sự tích cổ kim của nước ta"; lời tựa Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí của Phan Huy Chú nói: “Cuối đời Trần do sự biến người Minh, thư tịch đã mất hết...", [Phan Huy] Chú nói rằng "nhà Hồ thất thủ, bấy giờ tướng nhà Minh Trương Phụ thu lấy sách vở cổ kim đưa hết về Kim Lăng". Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mụ c (sau đây gọi tắt là Việt sử thông giám) phần chính biên quyển 13, Bình Định Vương năm thứ 2 (tương đương với niên hiệu Vĩnh Lạc năm thứ 17, tức năm 1419) chú thích và có kèm theo danh mục thư tịch bị cướp đi. Trong các thuyết nêu trên, thì Đại Việt sử ký toàn th ư là sớm nhất. Nay soát lại Minh Thanh Tiến sĩ đề danh bi ký, tìm thấy ở đó Hạ Thời là người thi đỗ Nhị giáp khoa thi năm thứ 6 niên hiệu Vĩnh Lạc đời Minh; Minh sử Thành Tổ kỷ chép: "Mùa xuân tháng 3 Giáp Dần năm thứ 16, cho bọn Lý Kỳ đỗ Tiến sĩ cập đệ và Tiến sĩ xuất thân. Nếu như vậy thì điều mà Đại Việt sử ký toàn thư nói là có căn cứ. Nhưng theo các chiếu dụ thời Vĩnh Lạc từ năm thứ 4 đến năm thứ 5 chép trong Việt Kiệu thư, có nhiều lần nhắc đến chuyện đốt sách, trong đó ngày 21 tháng 5 năm thứ 5, sắc cho bọn Trương Phụ: "[Ta] nhiều lần dụ cho các ngươi phàm tất cả sách vở, ván khắc chữ của An Nam, kể cả mảnh giấy con chữ của trẻ con làng quê dùng để mới học chữ và những tấm bia xứ ấy dựng lên, hễ thấy là hủy ngay, chớ bỏ sót. Nay nghe nói trong quân bắt được nhiều giấy tờ mà chưa lập tức sai quân lính thiêu hủy, mà còn để tra soát xong rồi mới đốt đi. Nhưng quân lính nhiều người không biết chữ, nếu mọi mệnh lệnh đều như vậy ắt truyền đạt sẽ nhiều sai sót. Các ngươi nay phải làm theo sắc chỉ trước đây, lệnh cho quân lính hễ gặp một mảnh văn tự của xứ ấy thì phải đốt ngay, không được giữ lại". Thư mục đời Minh cũng không thấy chép số sách bị cướp đi như Việt sử thông giám đã nói. Xét về độ tin cậy của sử liệu, niên đại của các sách Văn Uyên các thư mục, Việt Kiệu thư sớm hơn Việt sử thông giámLịch triều hiến chương loại chí(18). Theo Minh Thái Tông thực lục, tháng 6 năm thứ 16, "chiếu sai toản tu sách địa chí quận huyện cả nước, sai Thượng thư Hộ bộ hành tại Hạ Nguyên Cát, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Hữu Xuân phường hữu thứ tử Dương Vinh và Hàn lâm viện học sĩ kiêm Hữu Xuân phường hữu dụ đức Kim ấu Tử cai quản toàn bộ công việc; chiếu lệnh sai Lễ bộ cắt cử các quan đi khắp các quận huyện sưu tập rộng rãi các sự tích và sách vở cũ". [Qua đây] chúng ta có thể suy luận điều mà Đại Việt sử ký nói chính là vào tháng 7 mấy người Hạ Thanh, Hạ Thời sang Việt Nam tìm sách vở để hoàn thành nhiệm vụ toản tu địa chí. Có thể về sau người Việt đọc lầm câu đó, tưởng rằng người Minh vơ vét hết thư tịch trên đất Việt Nam mà dẫn đến văn tịch nước Việt bị hủy diệt. Kỳ thực, điều mà người Minh thi hành ở Việt Nam là chính sách đốt sách, hủy sách rất triệt để.

Đứng về nghiên cứu văn học mà nói, những điển tích kể trên cũng có thể có tác dụng bổ sung tư liệu về Việt Nam. Chẳng hạn trong Việt Kiệu thư có nói đến hoạt động văn học của Việt Nam. Quyển 5 sách này nói "Trần Toại là cháu Trần Nhật Cảnh, được phong là Uy Văn Vương. Ông thông minh, hiếu học, tự hiệu là Sầm Lâu, có văn tập truyền ở đời. Thơ ông có câu:

古 來 何 物 不 成 土
死 後 惟 詩 可 勝 金

(Xưa nay vật gì mà chả biến thành đất
Sau khi chết chỉ có thơ là quý hơn vàng).

Viếng cháu là Văn Hiếu hầu, ông lại có câu:

山 豈 忍 埋 成 器 玉
月 空 自 照 少 年 魂

(Núi nỡ nào vùi lấp viên ngọc đã mài thành khí
Ánh trăng soi mãi hồn phách thiếu niên).

Toại mất lúc 30 tuổi, người trong nước ai cũng thương tiếc"(19). Quý giá nhất là quyển 20 của sách này chép trọn 1 quyển toàn thơ của các bậc vua tôi An Nam, gồm 40 vị, phần lớn trong số tác giả và tác phẩm thơ này không thấy chép trong Toàn Việt thi lục. Tập hợp tác phẩm này mà gộp lại với số thơ của các danh nhân An Nam được chép trong quyển 18 sách An Nam chí lược thì hẳn sẽ làm phong phú thêm kho báu văn học Việt Nam.

Do đó có thể thấy rằng, văn hiến liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc khá phong phú về số lượng, trong đó hàm chứa những tài liệu sử học, văn học rất quý giá. Phần lớn những tác phẩm này chưa được chỉnh lý kỹ càng, nhất là các sách Việt Kiệu thư, An Nam lai uy tập lược, Khâm định An Nam kỷ lược, chúng có nội dung phong phú, tính hệ thống cao và thái độ biên soạn nghiêm túc. Nếu các sách này được chỉnh lý, sẽ trở thành những trước tác ghi chép lịch sử đất nước Việt Nam và giao lưu chính trị văn hóa Trung Việt giống như An Nam chí lược.

Đinh Văn Minh (dịch)

CHÚ THÍCH

(1) Tùy thư kinh tịch chí chú thích "Ghi chép chuyện về Sĩ Nhiếp và Đào Hoàng".

(2) Xem Bổ Tấn thư nghệ văn chí san ngộ, phụ chép của Bổ Tấn thư nghệ văn chí, bản tùng thư tập thành.

(3) Xem Diêu Chấn Tông: Tam Quốc nghệ văn chí, bản Tùng thư tập thành tục biên.

(4) Do ủy ban biên soạn Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư biên soạn, Tề Lỗ thư xã, tháng 9 năm 1995, sau đây gọi tắt là Tồn mục tùng thư.

(5) Xem Tống sử nghệ văn chí - Bổ - Phụ biên, Thương vụ ấn thư quán, tháng 12 năm 1957. Sách này thu nạp các tác phẩm: Tống sử nghệ văn chí, Tống sử nghệ văn chí bổ, Tứ khố khuyết thư mục, Bí thư sách tục tứ khố thư mục, Trung hưng quán các thư mục, Tống quốc sử nghệ văn chí.

(6) Nguyên chú: "Vào năm thuộc niên hiệu Càn Đạo, An Nam sang triều cống, nơi tiếp khách nhận được chiếu chỉ, sai tâu rõ phong tục nước này và danh mục số lượng cống vật".

(7) Tứ khố đề yếu nói rằng Kinh tịch chí của Tiêu Hoằng "Bộ tùng thư ấy sao chép thư mục cũ, không khảo cứu gì cả, không nói rõ sách nào mất sách nào còn, ghi chép dễ dãi. Các bộ thư mục xưa nay chỉ có sách ấy là không đáng tin nhất". Nay khảo các sách Giao Châu tạp sự, Giao Quảng nhị châu ký, Giao Quảng dĩ nam ngoại quốc truyện, Giao Châu tiên hiền truyện thì chỉ Tùy chí Lưỡng Đường thư chí có chép, còn Tống chí Văn hiến thông khảo không chép nữa. Có thể thấy, điều mà Tiêu Hoằng nói trong lời tự tựa "Những gì hôm nay ghi chép được cũng đáng khích lệ. Sách vở mà thời nay biết vẫn còn đều đã xếp vào tứ bộ" quả là không thể tin được.

(8) Theo Việt Nam Hán Nôm di sản mục lụ c do Việt Nam biên soạn, sách này được truyền vào Việt Nam ở thời cận đại.

(9) Tiền Đại Hân: Bổ tam sử nghệ văn chí, quyển 2, bản Tùng thư tập thành. Trong lời bạt An Nam chí lược bạ t in ở quyển 44 tác phẩm Bộc thư đình tập của Chu Di Tôn, có nhắc đến sách này, nhưng đương thời họ Chu chưa được tận mắt nhìn thấy sách.

(10) La Chấn Thường: Thiện bản thư sở kiến lục, Thương vụ ấn thư quán, năm 1958.

(11) Xem Bộc thư đình tập, quyển 44.

(12) Các tỉnh tiến trình thư mục, sách tỉnh Triết Giang tặng cũng 18 quyển. Sách này Tứ khố tồn mục tùng thư chưa thu nạp.

(13) Triệu thị Bảo Văn đường thư mục - Từ thị Hồng Vũ lâu thư mục, Cổ điển văn học xuất bản xã, tháng 12 năm 1957.

(14) Sách này cũng được nhắc tới trong Bình định Giao Nam lục: "Tôi nhân tham khảo bảng văn lộ bố chép trong sách ghi chép về quận Giao Chỉ và tấm bia nói về bình định An Nam do ông Hồ Văn Mục phụng sắc soạn... phụ chép điều tôi biết được vào trong sách này".

(15) Lê Trắc, Trấn ích Tắc, Lê Trừng về sau đều định cư ở Trung Quốc. Tác phẩm của họ sáng tác tại Trung Quốc, nên cũng có thể coi là tác phẩm Trung Quốc.

(16) Việt sử lược, Việt thi tuyển, Trích diễm tập, Hoàng Việt địa dư chí đều được bảo quản ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội. Trong đó, Hoàng Việt địa dư chí có bản khắc in Kim Ngọc lâu.

(17) Xem Mông Văn Thông: Việt sử tùng khảo, An Dương Vương tạp khảo, Nhân dân xuất bản xã, tháng 3 năm 1983.

(18) Việt sử thông giám bắt đầu biên soạn vào năm thứ 9 niên hiệu Tự Đức (1856), hoàn thành vào năm thứ 34 niên hiệu Tự Đức (1881); Lịch triều hiến chương loại chí biên soạn vào năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh triều Nguyễn.

(19) Đoạn văn này trong Việt Kiệu thư chắc là trích từ quyển 15 sách An Nam chí lược.

Văn hiến tham khảo chủ yếu

- Tùng thư tông lục. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, tháng 2 năm 1990.

- Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã tháng 12 năm 1990.

- Thanh sử cảo nghệ văn chí thập di. Trung Hoa thư cục, tháng 9 năm 2000.

- Tùng thư tập thành sơ biên, phần Thư mục.

- Tùng thư tập thành tục biên, phần Thư mục.

- Tứ khố toàn thư, phần Thư mục.

- Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư, phần Thư mục.

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU LOẠI HÌNH VĂN KHẮC CHỮ HÁN CỦA NHẬT BẢN

PHẠM THỊ THUÝ VINH

Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia ở hai khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á, nhưng lại cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và cùng sử dụng chữ Hán trong lịch sử như là quốc ngữ. Cả hai nước đều có loại hình tư liệu viết bằng chữ Hán được khắc lên đá, đồng và gỗ. Là người nghiên cứu về văn khắc chữ Hán của Việt Nam, tôi rất muốn có điều kiện tiếp xúc với các văn bản chữ Hán của Nhật Bản để tìm hiểu về nội dung cũng như hình thức thể hiện, qua đó so sánh với các văn bản chữ Hán của Việt Nam. Bởi vì, ở Việt Nam chưa có bất kỳ thông tin nào cho biết về tình hình tư liệu văn khắc chữ Hán ở Nhật Bản, chưa có học giả nào ở Việt Nam cho biết về nguồn tư liệu này.

Thật may mắn, thời gian vừa qua tôi đã được sang nghiên cứu tại Đại học Tổng hợp Hiroshima (Nhật Bản), tại đây tôi đã trực tiếp đọc và khảo cứu các tài liệu về văn khắc chữ Hán của Nhật và đi tham quan khảo sát một số di tích có văn khắc. Sau đây là một số khảo cứu bước đầu dựa trên các tài liệu mà tôi đã tìm hiểu, kết hợp với quá trình đi tìm hiểu thực tế tại các địa điểm có lưu giữ văn khắc.

Trước hết, ở đây cần có sự phân biệt về thuật ngữ. Trong nội dung khảo cứu của mình, chúng tôi muốn tiếp xúc và nghiên cứu các văn bản chữ Hán của Nhật Bản được khắc trên đá, đồng, gỗ, tức là chỉ những văn bản mà chữ được khắc trên đó bằng các dụng cụ như dao, đục một cách thủ công. Đó là minh văn 銘 文 tức là những bài văn được khắc lên những vật thể rắn như đã nêu trên. Chúng tôi nhấn mạnh loại hình văn khắc chữ Hán, vì trên thực tế ở Nhật Bản, các học giả Nhật Bản gọi tất cả những chữ trên đồng, đá, gỗ là minh văn dù chúng được viết bằng mực hay được chạm khắc bằng các dụng cụ khác. Vì thế nội hàm của minh văn Nhật Bản rộng hơn văn khắc và trong số các minh văn chữ Hán của Nhật Bản còn lại đến nay, số được viết bằng mực lên các vật thể gỗ và đá cũng không phải là ít. Nhưng chúng tôi chỉ quan tâm đến loại hình văn khắc. Sau đây là một số nhận xét bước đầu.

a. Địa điểm lưu giữ văn khắc

Các hiện vật có khắc chữ của Nhật Bản phần lớn đều được đặt tại các ngôi đền (còn gọi là thần xã 神 社), chùa, một số được lưu giữ trong các bảo tàng và một số lượng nhỏ khác đặt tại các địa điểm khác như bên đường, trên núi hoặc tại các tư gia.

b. Chất liệu để tạo văn khắc

Có ba loại chất liệu để tạo văn khắc, đó là đá, đồng và gỗ. Ngoài ra có một số văn bản được khắc trên ngói và đất. Theo điều tra bước đầu của tôi thì chất liệu đồng để tạo văn khắc chiếm số lượng nhiều nhất.

c. Các loại hình minh văn

- Với chất liệu đá, minh văn được khắc trên bia, cột trụ đá, trên các ngôi tháp, trên mộ chí, trên các pho tượng, trên các cột đèn, lồng đèn hoặc trên các nghiên bút.

- Với chất liệu đồng, minh văn được khắc trên chuông, khánh, ngạc, trên các hộp đựng kinh Phật, trên các ngôi tháp nhỏ bằng đồng và đôi khi minh văn còn được khắc trên các tích trượng để ghi nhớ lưu niệm. Có minh văn được khắc trên những lá đồng có cấu tạo như một chiếc quạt đang xòe cánh.

- Với chất liệu gỗ, chủ yếu minh văn được khắc trên các pho tượng, trên những tấm biển gỗ và một số ít trên các tráp đựng giấy tờ.

Như vậy là trong các loại hình khắc minh văn nói trên thì các pho tượng được tạo bằng đồng, bằng đá và bằng gỗ, phía sau lưng hoặc trên thân tượng đều có khắc chữ Hán, đôi chỗ xen kẽ cả chữ Nhật... Đây là hiện tượng rất phổ biến ở Nhật Bản nhưng lại thật hiếm khi xuất hiện ở Việt Nam. Chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này ở sau.

d. Hình thức hoa văn trang trí

Trong quá trình khảo cứu các tài liệu đã đề cập, kết hợp với quan sát trên thực địa, chúng tôi thấy trên bia đá Nhật Bản rất ít có hoa văn trang trí. Một số bia ở phía trên trán có hình chóp nhọn, thân bia hình chữ nhật. Nhưng phần lớn các bia của Nhật dù là khắc chữ Hán hay chữ Nhật thì đều tạo dáng hình chữ nhật, không có phần trán bia, đáy bia đặt trên bệ đá. Có nhiều bia cổ khắc trên những tảng đá được tạo dáng tự nhiên, chỉ làm phẳng một phía khắc chữ. Còn trên chuông thì hình thức cũng giản đơn. Bộ phận đầu tiên của chuông là đầu rồng, sau đó là thân chuông. Thân chuông được chia làm 3 hoặc 4 khu; khu thứ nhất có những hàng núm nhỏ được khắc lồi ra phía trên thân chuông. Khu thứ hai là những hình vuông hoặc hình chữ nhật đều nhau. Khu ba là những hình chữ nhật nhỏ hơn khu hai, hai khu này được phân tách bởi ba bốn vạch phân chia. Tận góc cùng của các vạch phân chia đó là những núm chuông để gõ. Các núm chuông được trang trí bằng hoa cúc giống như chuông Việt Nam. Minh văn được khắc trên khu ba hoặc trên các gờ bên cạnh dọc theo thân chuông.

Có hai loại hình được quan tâm tỷ mỷ về hoa văn trang trí, đó là ngạc 鄂 - loại vật dụng này dùng để gõ lên khi tế lễ và các hộp đựng kinh Phật mà thuật ngữ chữ Hán gọi là tương (sương) 箱. Có rất nhiều motip trang trí trên ngạc và tương, trong đó chủ yếu là khắc hoa cùng với các hoa văn phụ xung quanh với đường nét rất tinh xảo. Phần tâm giữa của loại hình ngạc khắc hoa sen, đường diềm ngoài cùng khắc hoa văn là hoa lá, rồng. Minh văn được khắc vào những vòng tròn đồng tâm ở bên cạnh những vòng tròn có khắc hoa văn. Trên hộp đựng kinh Phật hoa văn được khắc xung quanh, minh văn được khắc vào khoảng trống giữa hộp.

e. Nội dung phản ánh

Bước đầu khảo cứu các văn khắc chữ Hán của Nhật Bản, chúng tôi tạm thời đưa ra mấy nội dung chính sau đây:

- Về niên đại: văn khắc chữ Hán của Nhật Bản có niên đại khá sớm. Văn khắc cổ nhất của Nhật Bản là minh văn khắc trên tháp Sương Bàn chùa Nguyên Hưng tỉnh Na Ra, niên đại Suy Cổ 4 (595). Sau đó là văn khắc trên lưng tượng Phật Thích ca, niên đại Suy Cổ 13 (605). Nhưng văn khắc chữ Hán của Nhật Bản (qua những tài liệu mà chúng tôi đã khảo cứu) xuất hiện nhiều nhất trong thế kỷ XVI với các niên đại Thiên Văn 天 文 (1532-1555), Vĩnh Lộc 永 祿 (1558-1570), Thiên Chính (1596-1615).

- Về nội dung: Với loại hình văn khắc sau lưng tượng cho biết niên đại đúc tượng, lý do tạo tượng, tên người đứng ra hưng công tạo tượng. Thường là một người hay một nhóm người đứng ra góp tiền tạo tượng với lý do cầu bình yên cho người thân, diệt tội lỗi ở kiếp hiện sinh để kiếp sau được vãng sinh nơi cực lạc.

Với văn bản được khắc trên chuông và khánh đồng: hầu hết ở các minh văn này đều ghi lại ngày tháng năm đúc chuông và sự kiện đúc chuông. Minh văn cũng cho biết địa điểm treo quả chuông đó là chùa hay thần xã. Nội dung chủ yếu của minh văn trên chuông là cầu được diệt tội và sinh điều thiện cùng với những triết lý về lẽ sinh diệt của Phật giáo. Chuông và nội dung văn khắc trên chuông đều gắn với tôn giáo. Đại bộ phận các chuông ở Nhật Bản đều đặt ở các đền của tôn giáo như đạo Sinto hoặc chùa của Phật giáo. Các minh văn trên chuông không dài, nội dung giản dị gắn với ước muốn được trường thọ, hưởng niềm vui ở cõi niết bàn, cầu cho cha mẹ, người thân đều được hưởng sự giáo hóa của Phật pháp. Nội dung này xuyên suốt trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của Nhật Bản từ thế kỷ VIII, IX đến thế kỷ XVII, XVIII. Cá biệt có một vài văn bản trên chuông có liên quan đến những nhân vật có thế lực ở trong triều đình đã hưng công đúc chuông tạo thiện duyên sau này.

Với loại văn bản khắc trên bia đá: nếu tính theo tỷ lệ phần trăm thì số lượng bia đá của Nhật Bản qua các tài liệu mà chúng tôi nêu ở trên không nhiều, thậm chí chiếm một vị trí rất khiêm tốn dưới 5% trong toàn bộ số văn khắc. Nhưng nếu tính tất cả những văn bản được khắc lên đá như cột trụ nhỏ, hàng rào đá xung quanh các ngôi chùa, thần xã, hoặc tượng đá thì số lượng văn bản này sẽ nhiều hơn. Nội dung của loại văn khắc trên đá phần lớn là để lưu danh kỷ niệm và ghi ngày tháng năm tạo minh văn. Thảng hoặc có văn bia khá dài kể về một vị hòa thượng người Trung Quốc đời Đường đã sang khuyến giáo ở Nhật Bản như thế nào… Chỉ có tập văn bia của tỉnh Hiroshima Nghệ bị văn tập 藝 備 碑 文 集 quyển thượng là tương đối phong phú liên quan đến nhiều hoạt động khác của đời sống thường nhật ngoài lĩnh vực tôn giáo như: ghi lại việc tòng quân và đầu quân của nhân dân tỉnh Hiroshima dưới thời Minh Trị, ghi lại tiểu sử những nhân vật có đóng góp thiết thực cho quê hương như một vị hiệu trưởng trường trung học dưới thời Minh Trị đã từng sang du học tại Mỹ sau đó trở về quê để mở trường dạy học. Lại cũng có văn bia nói về việc xây dựng cầu, tu sửa chùa, có bia ghi về gia phả một tộc họ; nhưng phần lớn những bia này đều ghi sự đóng góp về công sức hoặc tiền của của một cá nhân, một gia đình hoặc một nhóm nhỏ người trong các hoạt động trên, điều này khác hẳn với Việt Nam. ở Việt Nam muốn xây dựng hoặc tu bổ một công trình, một di tích phải huy động nguồn vốn từ rất nhiều người, mỗi người một ít. Vì thế ở phần ghi tên người đóng góp bao giờ cũng kéo dài từ vài chục người đến hàng trăm người.

Với loại văn bản khắc trên gỗ, hầu hết đây là các văn bản khắc trên các pho tượng như tượng Phật, tượng các vị Bồ Tát, tượng các nhà sư, nên nội dung gắn liền với tôn giáo. Văn khắc trên các pho tượng chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn bộ văn khắc chữ Hán của Nhật Bản. Điều này lại phản ánh vai trò rất quan trọng của tôn giáo trong đời sống của người dân Nhật Bản. Trong số các tượng có minh văn thì tượng Phật Thích ca, tượng A Di Đà, tượng Dược Sư Như Lai được khắc nhiều hơn cả, sau đó mới đến tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Các pho tượng phần nhiều được tạo dáng ở thế đứng. Đây cũng là điều khác so với cách tạo tượng Phật ở Việt Nam. Ngoài việc ghi tên người hưng công tạc tượng và lý do tạo tượng thì còn có rất nhiều những bài kinh Phật được khắc lên như là một sự nhắn nhủ khuyên chúng sinh tuân theo những giáo lý của Phật giáo để cho bản thân và cha mẹ, người thân cùng được lên chốn cực lạc. Còn có những tấm biển gỗ khắc cả bộ kinh Liên hoa cho chúng sinh cùng đọc và suy ngẫm.

4. Một số suy nghĩ về việc so sánh văn khắc chữ Hán Nhật Bản và Việt Nam

Trước hết là cách nhìn nhận, đánh giá của giới học thuật hai nước về tài liệu văn khắc chữ Hán.

- Ở Việt Nam: là đất nước thường xuyên bị bão lụt thiên tai, vì thế các loại hình văn bản viết trên giấy không thể chống đỡ nổi với thời gian và khí hậu, chúng dễ bị mục nát hư hại. Mặt khác, Việt Nam từ hàng ngàn năm nay luôn bị các thế lực ngoại xâm đến xâm chiếm, rất nhiều tài liệu quí đã bị cướp phá và hủy hoại. Các thư tịch cổ của Việt Nam còn lại đến ngày nay hầu hết là được in và sao chép lại từ cuối thế kỷ XVIII, XIX đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Vì thế lượng thông tin trong các thư tịch có nhiều chỗ cần phải bổ khuyết và đính chính do tam sao thất bản. Trong khi đó các văn bản khắc trên đá, trên đồng, trên gỗ lại còn lưu giữ lại được khá nhiều tư liệu(1). Vì thế chúng được giới nghiên cứu rất coi trọng và thường được dùng làm tài liệu gốc để đối chứng khi khảo cứu các vấn đề liên quan đến lịch sử, văn hóa, xã hội. Đó là nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất vì có niên đại tuyệt đối chính xác và có nhiều giá trị thông tin cao.

- Ở Nhật Bản: theo tôi được biết thì hiện nay nguồn tài liệu văn khắc của Nhật Bản không được giới học thuật đánh giá cao, chúng ít được quan tâm hơn các nguồn tài liệu viết hoặc in trên giấy. Có một thực tế là Nhật Bản vẫn còn lưu giữ lại được rất nhiều những văn bản gốc viết tay hoặc in trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau từ cổ trung đại đến cận đại với lượng thông tin về lịch sử văn hóa xã hội rất phong phú. Chỉ riêng xử lý, nghiên cứu các tài liệu này đã quá đủ để tìm kiếm những thông tin trong quá khứ. Có lẽ vì thế mà các học giả Nhật Bản ít quan tâm đến nguồn tài liệu văn khắc. Tuy nhiên, qua những tài liệu về văn khắc chữ Hán của Nhật Bản mà tôi có dịp khảo cứu tại Đại học Tổng hợp Hiroshima, lại cho tôi một cảm nhận khác về văn khắc Nhật Bản. Các học giả Nhật Bản đã từng rất quan tâm đến loại hình này từ đầu thế kỷ XX. Nguồn tài liệu văn khắc đã từng đựơc sưu tập và biên soạn xuất bản thành sách theo đơn vị hành chính cấp tỉnh trong toàn quốc từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, hiện được lưu trữ tại từng tỉnh: tại Thư viện của Đại học Hiroshima, tôi mới chỉ được tiếp cận với một số lượng nhỏ.

- Nếu ở Nhật bản có ít văn bia hơn các loại văn khắc trên chuông, trên tượng và các loại khác thì ở Việt Nam lại có rất nhiều văn bia, đây là loại văn bản chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn bộ văn khắc chữ Hán của Việt Nam. Văn bia Việt Nam vừa phong phú về nội dung vừa đa dạng về hình thức thể hiện so với văn bia của Nhật Bản. Trên mỗi tấm bia đá của Việt Nam đều có trang trí hoa văn hình rồng, hoa lá cùng với các con vật liên quan đến đời sống như: chó, ngựa, tôm, cua, cá…tất cả đều đang ở trong tư thế vận động như cá đang đớp mồi, chó ngựa đang chạy, rồng đang uốn mình v.v. Điều này dường như không thấy trong văn bia của Nhật Bản.

- Cả hai nước đều có loại hình văn khắc chữ Hán được khắc trên đá, đồng và gỗ. Nhưng ở Việt Nam loại văn khắc trên gỗ còn lại không nhiều, chủ yếu là các bức hoành phi câu đối, các biển gỗ treo trong đình, chùa. Trong đó, minh văn trên chuông cũng chỉ mới được quan tâm cho in rập vào khoảng vài chục năm trở lại đây. Trước đây, Viện Viễn đông Bác cổ của Cộng hòa Pháp tại Hà Nội chủ yếu cho in rập văn khắc trên bia đá, chỉ có một số rất ít các minh văn trên khánh đá, chuông đồng đã được in rập từ trước năm 1945. Cho đến những năm 80 của thế kỷ XX, công việc sưu tập các văn khắc Hán Nôm nói riêng, các tài liệu Hán Nôm nói chung mới được Viện Nghiên cứu Hán Nôm triển khai tiếp tục. Tại Việt Nam cũng có những hiện vật có chữ Hán như: ấm chén trà, bình gốm, chân đèn… nhưng loại này ít được quan tâm và chưa được sưu tập đầy đủ.

- Tượng gỗ cổ có niên đại ba bốn trăm năm ở Việt Nam còn khá nhiều nhưng lại không có niên đại chính xác mà chỉ là sự đoán định qua phong cách nghệ thuật của từng thời kỳ. Bởi vì hầu như các loại tượng cổ của Việt Nam không có minh văn. Có lẽ, đây cũng là một phong cách của việc tạo tượng ở Việt Nam. Trong khi đó trên tất cả các pho tượng của Nhật Bản đều có minh văn, trên mỗi pho tượng của Nhật đều khắc ghi năm tháng tạo tượng cùng mục đích lý do tạo tượng... Bên cạnh việc khắc chữ Hán cả hai nước đều có khắc chữ của dân tộc mình như chữ Nhật hoặc chữ Nôm của Việt Nam xen lẫn với văn khắc chữ Hán trên các hiện vật.

- Ở Việt Nam, minh văn trên chuông, khánh chỉ chiếm một số lượng rất ít, khoảng từ 3-4 % so với toàn bộ văn khắc. Nội dung văn khắc của Việt Nam trong đó đóng vai trò chủ đạo là văn bia đã đề cập đến mọi mặt của đời sống xã hội, nó như là những trang sử của từng làng xã được viết trên đá từ thời kỳ này đến thời kỳ khác. Văn bia của Việt Nam mang tính cộng đồng rất cao vì nó liên quan đến nhiều hoạt động của sinh hoạt làng xã, nhất là giai đoạn từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Trong từng bài văn khắc trên bia hoặc chuông bao giờ tầng lớp quan viên làng xã cũng được ghi danh đầu tiên vì họ giữ vai trò chỉ đạo trong các hoạt động chung của làng xã. Điều này chúng tôi không thấy xuất hiện trong văn khắc của Nhật Bản. Văn khắc của Nhật Bản chỉ ghi lại những sự việc của các cá nhân cụ thể hoặc một nhóm nhỏ có liên quan đến nhau. Văn khắc của Nhật Bản mang tính đơn lẻ là chính. Để tạo một pho tượng phật bằng đá dù nhỏ thì ở Việt Nam bao giờ cũng phải do một nhóm người đứng ra cùng quyên góp tiền của, một cá nhân ít có đủ điều kiện để làm công việc đó. Trong khi ở Nhật Bản chuyên tạo dựng tượng Phật bằng đồng rất bề thế do một người hoặc do một gia tộc đứng ra hưng công lại khá phổ biến. Điều này cho thấy ngay từ thời kỳ trung đại, nền kinh tế của Nhật Bản đã có sự khác biệt khá rõ so với Việt Nam. Mỗi cá thể [qua văn khắc] đều đủ sức đóng góp những khoản kinh phí không nhỏ để tạo bia, dựng tượng và họ làm với mục đích cá nhân là chính, không phải vì lợi ích chung của cộng đồng. Mục đích hay được đề cập nhất trong văn khắc Nhật Bản là mong muốn được diệt tội lỗi ở kiếp hiện sinh và được lên cõi niết bàn ở kiếp sau. Họ không chỉ mong muốn điều đó cho bản thân, cha mẹ ở kiếp hiện sinh mà còn mong muốn cho cha mẹ anh em ở bảy kiếp trước cùng được hưởng niềm sung sướng ở nơi cực lạc. Về quan điểm này chúng tôi chưa từng thấy xuất hiện trong văn khắc chữ Hán của Việt Nam. ở Việt Nam những người thân được nhắc đến trong quan hệ huyết thống chỉ là ông bà cha mẹ, anh em, con cháu… và như vậy chỉ có ba đến bốn đời thôi, còn khái niệm cha mẹ anh em bảy đời thì chưa bao giờ được nhắc tới. Cũng ở Việt Nam có quan niệm “ngũ đại mai thần chủ” nghĩa là năm đời thì không phải thờ cúng nữa.

- Văn khắc Việt Nam có niên đại cổ nhất còn lại đến ngày nay là văn bia niên đại Tùy Đại Nghiệp 7 (614) ở xã Đông Minh huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, còn văn khắc có niên đại cổ nhất của Nhật Bản là minh văn có niên đại Suy Cổ 4 (595). Như vậy nhìn chung về niên đại, văn khắc hai nước không có khoảng cách đáng kể. Nhưng văn khắc chữ Hán của Nhật Bản xuất hiện nhiều nhất trong thế kỷ XVI, còn văn khắc của Việt Nam xuất hiện nhiều nhất vào thế kỷ XVII, XVIII và thế kỷ XIX.

- Văn khắc chữ Hán của cả hai nước đều có nội dung phản ánh về tôn giáo, tín ngưỡng, về những con người cụ thể, về phả hệ và một số mặt của đời sống xã hội. Nhưng ở Nhật Bản nội dung về tôn giáo và tín ngưỡng chiếm đa số còn nội dung liên quan đến đời sống văn hóa xã hội chỉ là điểm xuyết. ở Việt Nam, nội dung của văn khắc chữ Hán đề cập đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ tín ngưỡng đến kinh tế văn hóa, giáo dục...; trong đó nội dung liên quan đến sinh hoạt làng xã như trả nợ thuế Nhà nước, xin giảm sưu dịch, xây đình, dựng chùa, mở mang đường sá, chợ quán, xât dựng văn chỉ, vũ chỉ, xây từ đường dòng họ, chiếm phần chủ yếu.

- Ở Việt Nam có một loại hình di tích lưu giữ văn khắc mà ở Nhật Bản không có, đó là đình làng 亭. Tại các ngôi đình của Việt Nam còn lưu giữ khá nhiều những tài liệu văn khắc như bia, chuông, biển gỗ (bao gồm các hoành phi và câu đối).

Qua khảo cứu các tài liệu văn khắc chữ Hán của Nhật Bản, chúng tôi bước đầu đưa ra một vài nhận định có tính chất so sánh với văn khắc chữ Hán của Việt Nam. Với những kiến văn ban đầu, chúng tôi không dám nói đã bao quát được các vấn đề cơ bản của văn khắc Nhật Bản, hy vọng rằng chúng tôi sẽ có điều kiện khảo cứu sâu trên qui mô rộng hơn nữa cả trên tư liệu và thực địa để có cách nhìn nhận chính xác và tổng quan hơn.

P.T.T.V

CHÚ THÍCH:

(1) Xem Hà Văn Tấn: Chữ trên đá, trên đồng, minh văn và lịch sử, Nxb. KHXH, H. 2001.

Tư liệu tham khảo

- Đại Nhật Bản kim thạch sử 大 日 本 金 石 史. Xuất bản năm Đại Chính 10, Thư viện Đại học Hiroshima.

- Nhật Bản kim thạch 日 本 金 石, Xuất bản năm 1989, Thư viện Đại học Hiroshima.

- Nại Lương huyện minh văn tập thành 奈 良 縣 銘 文 集 成. Thư viện Đại học Hiroshima: 1500013852.

- Nghệ bị bi văn tập 藝 備 碑 文 集.

Xuất bản năm Đại Chính 10, Thư viện Đại học Hiroshima.

- Sơn Khẩu huyện kim thạch văn 山 口 縣 金 石 文. Xuất bản năm Bình Thành 2, Thư viện Đại học Hiroshima: 210-02/U14/LD 194728.

- Tạo tượng minh ký tập thành 造 像 銘 記 集 成. Xuất bản năm Chiêu Hòa 60, Thư viện Đại học Hiroshima: 210-02/Ku-48/148418.

- Kim thạch văn nghiên cứu 金 石 文 研 究. Xuất bản năm Đại Chính 10, Thư viện Đại học Hiroshima: 210-01/Sh-96/0100102310.

- Bình An di văn 平 安 遺 文. Xuất bản năm Chiêu Hòa 35, Thư viện Đại học Hiroshima: 210.36/Ta-67/2500054746.

- Thứ Thành huyện quan hệ cổ đại kim thạch văn tư liệu tập thành 次 成 縣 觀 系 古 代 金 石 文 資 料 集 成. Thư viện Đại học Hiroshi ma. Ngoài ra tôi còn tham khảo một số sách về địa chí, hoặc các tạp chí như Đại Hòa chí 大 和 誌 , Nghệ phan thông chí 藝 番 通 誌, Giang Hộ thời đại báo chí 江 護 時 代 報 誌 , Khảo cổ học giảng tòa 考 古 學 講 座 v.v… Tất cả các nguồn tài liệu này chúng tôi đều mượn đọc tại thư viện của trường Đại học Hiroshima.

TB

VỀ TÌNH HÌNH BIÊN SOẠN HỘI ĐIỂN TRIỀU LÊ

TRẦN THỊ KIM ANH

1. Loại sử thể điển chế chuyên chép về chính sách chế độ và pháp lệnh được xuất hiện đầu tiên vào thời Đường ở Trung Quốc. Cũng như sử thể kỷ truyện, sử thể điển chế cũng được chia thành thông sử đoạn đại sử. Sách Thông điển đời Đường gồm 200 quyển - khảo về chính sách chế độ từ nhà Chu đến đương thời - là bộ sách đầu tiên về thể tài thông sử theo thể điển chế của Trung Quốc. Còn sách Hội yếu chép về điển chương chế độ thời Đường của Tô Miện, được coi là tác phẩm đầu tiên của thể tài đoạn đại sử thể điển chế.

Vào đời Đường, sách đoạn đại sử theo thể điển chế xuất hiện khá nhiều, tiêu biểu là các bộ Điền lục điển của Lý Lâm Phủ, Đường điển của Vương Ngạn Uy, Thái tông chính điển của Lý Diên Thọ…Sau đời Đường, trải các vương triều, Trung Quốc xuất hiện khá nhiều sách hội yếu, hội điển như Tống hội yếu, Quốc triều hội yếu…(đời Tống); Kinh thể đại điển (đời Nguyên); Đại Minh hội yếu, Minh hội điển… (đời Minh); Thanh hội điển… (đời Thanh) đều chép về điển chương chế độ của các đời. Do những bộ đoạn đại sử thể điển chế này đều lấy tên là hội yếu, hội điển, kèm theo tên triều đại, nên hội yếu, hội điển trở thành tên gọi riêng của thể tài đoạn đại sử thể điển chế.

Nhìn chung, hội điển, hội yếu là loại sử ghi chép về mọi điển chương chế độ được ban hành nhằm quy định và điều chỉnh các hoạt động của nhà nước và xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nội dung chia thành nhiều môn loại, bao gồm h#u hết các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, pháp luật, văn hãa. Trong mỗi môn loại, các điều mục được viết theo trình tự thời gian, khiến cho mọi điển chương chế độ và diễn biến của nó được thể hiện khá rõ ràng mạch lạc, là những tư liệu lịch sử rất tốt đối với việc nghiên cứu văn hóa xã hội trong lịch sử.

2. ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa nhà Đường đối với các nước trong khu vực cùng với quá trình cai trị lâu dài của Nhà nước phong kiến Trung Quốc ở Việt Nam đã dẫn đến xu hướng Việt Nam tiếp thu nền văn minh, văn hóa Trung Quốc trên nhiều phương diện, trong đó có việc tiếp thu mô hình tổ chức nhà nước cùng phương thức xây dựng, ban hành pháp luật và các điển chương chế độ. Sau khi nhà nước Việt Nam độc lập ra đời, xu hướng tiếp thu này càng trở nên mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và quản lý đất nước. Trong bối cảnh đó, hoạt động xây dựng pháp luật nói chung, phương thức biên soạn hội điển nói riêng lẽ tất nhiên chịu ảnh hưởng nhiều về hình thức cũng như nội dung của pháp luật và cách làm Hội điển của nhà Đường ở Trung Quốc.

Tuy nhiên cho đến nay, những tư liệu liên quan đến hội điển của các vương triều trước triều Nguyễn, hầu như không còn, do đó việc các vương triều này có biên soạn hội điển hay không, và tình trạng các văn bản hội điển - nếu có - hiện nay ra sao, vẫn còn là một vấn đề gần như chưa mấy được quan tâm. Có lẽ chính vì vậy, nhiều năm qua, trong các nghiên cứu về tổ chức nhà nước và pháp luật phong kiến ở Việt Nam nói chung, về lịch sử triều Lê nói riêng, người ta gần như bỏ qua mảng tư liệu này, do đó ở đây chúng tôi xin tập trung tìm hiểu về tình hình biên soạn hội điển của triều Lê - giai đoạn cực thịnh trong chế độ phong kiến Việt Nam.

Trước thời Lê, vào thời Lý - vương triều đầu tiên sau khi Việt Nam độc lập - cho đến nay chưa thấy một thông tin nào cho biết thời kỳ này có các văn bản sách mang tính chất của hội yếu, hội điển. Tiếp đến thời Trần - theo Lịch triều hiến chương loại chí (Lịch triều) của Phan Huy Chú - có các sách: Quốc triều thông chế (QTTC) gồm 20 quyển, soạn vào niên hiệu Kiến Trung thứ 6, đời Trần Thái Tông (1230), xét lệ định của các đời trước, định làm phép thường; sách Kiến Trung thường lễ, 10 quyển, do Trần Thái Tông sai các quan chép các công việc về nghi lễ của đương triều; và sách Hoàng triều đại điển (HTĐĐ), 10 quyển, do Trần Dụ Tông sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn soạn(1). Về các sách này Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) cũng cho biết như vậy(2). Riêng Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, gọi sách Kiến Trung thường lễ Quốc triều thường lệ(3), Đáng tiếc cả ba bộ sách kể trên cho đến thời Lê đã không còn, do đó chỉ có thể phỏng đoán đây là những bộ hội điển thuộc thời Trần qua những thông tin trên.

Sang đến thời Lê tình hình có vẻ khả quan hơn. Bộ sách mang tính chất hội điển phải kể đến trước tiên của thời kỳ này có lẽ là bộ Thiên Nam dư hạ tập (TNDHT). Về sách TNDHT, Toàn thư chép: “Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức 14 (1483), mùa đông, tháng 11, ban sắc sai Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ là Thân Nhân Trung, Ngự sử đài Phó đô ngự sử kiêm Tả xuân phường Tả trung doãn Quách Đình Bảo, Đông các Hiệu thư Đỗ Nhuận, Hàn lâm viện Thị độc Đông các Hiệu thư Đào Cử, Hàn lâm Thị thư Đàm Văn Lễ, biên soạn các sách TNDHT Thân chinh ký sự”(4). Về sự kiện này, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục) cũng chép tương tự, ngoài ra còn có đoạn chép: “Năm Mậu Tý niên hiệu Cảnh Hưng 29 (1768), tháng 3, hạ chiếu tìm sách Thiên Nam dư hạ lục. Hồi đầu niên hiệu Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông sai nho thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận và nhiều người khác soạn định những chế lục về chức quan và điển chương chế độ của bản triều, gồm được 100 quyển, đặt tên là Thiên Nam dư hạ lục. Đến đây sách ấy phần nhiều bị tan nát nên vua hạ chiếu cho sưu tầm. Quan Hiến sát sứ xứ Thanh Hoa là Ngô (Thì) Sĩ đem sách ấy dâng, vua sai thưởng 30 lạng bạc”(5). Ở sách Lịch triều, Phan Huy Chú cũng cho biết một vài thông tin về sách này như sau: “ TNDHT, 100 quyển, Lê Thánh Tông năm Hồng Đức 14, sai văn thần là Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn, ghi chép đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lễ, cáo sắc, đại khái phỏng theo lối hội điển các triều Đường - Tống. Ngoài ra ông còn cho biết thêm: “ TNDHT , từ sau khi nhà Lê trung hưng, cả bộ tản mát mười phần chỉ còn độ một hai phần, tuy các triều vẫn tìm mua nhưng khó mà thu nhặt được. Đời Cảnh Hưng, năm Mậu Tý (1744), Tĩnh Vương tìm kiếm được độ hơn 20 quyển, đến khi loạn lạc lại gặp binh háa cháy mất. Nay các cố gia còn giữ được, tôi được trông thấy chỉ độ bốn năm quyển thôi”(6).

Tuy tên sách không đưa lại ấn tượng gì về một bộ hội điển, nhưng qua những thông tin vừa nêu trên thì vào thời Lê Thánh Tông, TNDHT là một bộ sách được biên soạn với quy mô lớn tới 100 quyển, ghi chép về điển chương chế độ thời Lê sơ, giống như các sách hội yếu thời Đường - Tống. Như vậy, ngay từ thời Lê sơ, với sự chỉ đạo của Lê Thánh Tông, một bộ hội yếu của thời Lê đã thực sự ra đời. Nhưng đáng tiếc qua những biến thiên của lịch sử, cho đến cuối thời Lê chỉ còn lại một chút tàn biên đoạn giản, khiến Phan Huy Chú phải than vãn: “Sách điển chương của một triều đại, làm khuôn phép đời đời mà mất mát như thế, có đáng tiếc không !”

Lê Quý Đôn, trong Kiến văn tiểu lục, ở mục Chế độ bổng lộc, sau khi liệt kê chế độ bổng lộc thời Hồng Đức đã nhận xét: “Như thế là điền lộc chép ở tập Dư hạ chỉ chép tên mà không chép thực ban”. ở đoạn này dịch giả Phạm Trọng Điềm có chú: Hiện nay Thư viện Khoa học xã hội còn giữ được một số quyển TNDHT ký hiệu A.334(7) chúng tôi đã đối chiếu nhưng không thấy quyển nào chép về việc cấp lộc điền đời Hồng Đức”(8). Qua đó có thể biết, TNDHT thực sự là một bộ sách chép về điển chế thời Lê sơ, và ở thời Lê Quý Đôn vẫn còn lại được một số quyển, đồng thời bộ sách mang tên TNDHT hiện nay lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì đã không còn mang đúng nội dung của bản gốc nữa. Qua một bài văn bia mang niên đại nhà Mạc, chúng tôi còn được biết, vào thời kỳ này, TNDHT đã được các pháp quan nhà Mạc sử dụng nhằm tìm hiểu các quy định về thuế chợ để làm căn cứ đưa ra xét xử một vụ tranh chấp quyền họp chợ giữa hai làng Thôy Hương và Đông Ngạc(9). Chi tiết này cho thấy TNDHT đã được sử dụng như những văn bản pháp quy, điều đó càng nhấn mạnh thêm, đây rõ ràng là một bộ sách về điển chương chế độ, mang tính chất của một bộ hội điển.

Bộ sách mang tên TNDHT hiện nay được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ký hiệu A.334, gồm nhiều quyển đóng thành 10 tập. Chúng tôi đã tìm hiểu bộ sách này, nhưng đáng buồn là sau khi khảo xét, nếu từ góc độ một bộ hội điển để đánh giá thì cũng không còn cách nào khác là đành đồng ý với ý kiến của nhà thư tịch học Trần Văn Giáp rằng: “…Đây phần nhiều là sách tạp nhạp, kiểm tra kỹ lại mới tìm ra được phần lớn trong ba tập I, IX và X có thể là sách TNDHT cũ còn lại, còn các phần khác đều không phải”(10). Nhưng không chỉ có vậy, mà đáng buồn hơn, ở các phần chép trong ba tập này cũng lại chép xen rất nhiều luật lệ của thời kỳ sau Trung hưng.

Như vậy, về bộ hội điển lớn nhất triều Lê sơ này, thì cho đến nay hầu như đã không còn, tuy Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có lưu giữ một bộ sách mang tên TNDHT , nhưng thực ra trong đó chỉ còn lại đôi chút bóng dáng của bộ sách này mà thôi, do đó khi sử dụng những tư liệu ở đây phải nên thận trọng.

Sau khi nhà Lê trung hưng, việc biên soạn hội điển lại tiếp tục được đề cập. Về công việc này Cương mục có cho biết: Năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1731) mùa thu, tháng bảy, làm sách Quốc triều hội điển (QTHĐ) . Lại cho biết thêm: “Những loại giấy tờ cũ ở thời Trung hưng chỉ chép trong sách Thiện chính tập , từ trước chưa làm thành sách, bèn sai làm sách QTHĐ. nhưng cũng chưa làm xong. ở đoạn khác lại chép: Niên hiệu Cảnh Hưng 17 (1756) mùa xuân, tháng Giêng, sai sáu bộ làm tiếp bộ Hội điển”. Có chua rõ: “Hồi năm Long Đức, sai riêng từng bộ, từng thuộc biên soạn lại chính sự các triều, sắp xếp từng loại đóng thành quyển, đặt tên là QTHĐ. Đến năm này lại theo thứ tự riêng từng năm làm tiếp theo”(11). Sau hai sự kiện kể trên cho đến hết triều Lê, không còn thấy sử sách nhắc đến việc biên soạn QTHĐ . Ngoài những thông tin về bộ QTHĐ kể trên, ở thời kỳ sau khi nhà Lê trung hưng, Phan Huy Chú qua Lịch triều cũng có cho biết một số thông tin về tư liệu liên quan đến hội điển triều Lê như sau: “Quốc triều thiện chính tập, 7 quyển. Thiện chính tục tập, 8 quyển. Tập trước chia ra chính lệnh của sáu thuộc từ sau thời Trung hưng đến năm Long Đức 3 (1734). Tập sau từ đầu đời Vĩnh Hựu (1735 - 1740) đến năm Cảnh Hưng 20 (1759), chép đủ công việc của Chính phủ, chưa có chia loại. Ngoài ra còn cho biết về bộ Quốc triều chính điển lục, gồm 7 quyển, do Tham tụng Bùi Huy Bích soạn, chép công việc của sáu thuộc và điển lệ bang giao. Sách này theo Phan Huy Chó, “biên tập tuy đã chia từng việc từng loại nhưng tình hình diên cách qua các triều cũng chưa được kỹ”. Về tình hình sách điển chương chế độ của nhà Lê, Phan Huy Chó nhận xét: “Điển cố của nhà Lê sau thời Trung hưng chỉ thấy chép ở Thiện chính tập, từ trước chưa có sách. Đến thời Vĩnh Hựu mới sai soạn QTHĐ nhưng chưa làm xong. (…) Trải hơn 300 năm trị bình, mà điển chương không có được toàn thư”(12).

Qua các thông tin trên có thể thấy, sau khi nhà Lê trung hưng, điển chế triều Lê tiếp tục được chép vào Thiện chính tập Thiện chính tục tập. Tuy nhiên đây chỉ là sao chép lại đầy đủ các chiếu, lệ, lệnh, của các bộ, thuộc, chứ chưa có sự chỉnh lý phân loại sắp xếp theo đúng cách thức của một bộ hội điển, có thể coi đây chỉ là một phần tài liệu để biên soạn hội điển. Sau đó trên cơ sở hai tập tài liệu này, đến niên hiệu Long Đức 3 (1731) trở đi QTHĐ Tục hội điển mới được biên soạn nhưng chưa xong, đến niên hiệu Cảnh Hưng 17 (1756) lại được làm tiếp. Như vậy ở thời kỳ sau khi nhà Lê trung hưng, tiếp nối TNDHT, hội điển triều Lê lại được tiếp tục biên soạn, nhưng rốt cục, cho đến ngay sau khi nhà Lê mất, vào đầu thế kỷ XIX, Phan Huy Chó cũng chưa hề được nhìn thấy QTHĐ, mà về điển chế thời Lê, ông cũng chỉ được biết đến ba bộ sách kể trên mà thôi. ấy vậy mà về ba bộ sách đó, ngày nay chúng ta lại cũng chỉ được biết qua những thông tin của học giả họ Phan chứ dường như cũng chưa tìm được.

Ngoài ra, về hội điển triều Lê, Phạm Đình Hổ còn cho biết thêm một tên sách nữa, đó là sách Chính Hòa hội điển. Trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, có hai lần Phạm Đình Hổ nhắc đến tên sách này. Ở mục Nhạc biện (bàn về âm nhạc), ông viết: “Sách Chính Hòa hội điển chép về Nhạc quan rất là sơ lược”; ở mục Bái lễ, ông lại cho biết: “Bây giờ lễ Triều hạ chuyên dùng năm vái, mà Tế giao thì trước sau vẫn dùng bốn vái, rất là đáng ngờ, còn như dùng hai vái là theo Chính Hòa hội điển”(13). Với những thông tin của học giả họ Phạm, chúng ta lại được biết thêm ở triều Lê có một bộ hội điển mang tên niên đại Chính Hòa, ở đây tên sách gồm có tên của một niên đại kết hợp với từ hội điển, hơn nữa những dẫn chứng về âm nhạc, về tế lễ được nhắc đến cho thấy sách này đã có sự tổng hợp tư liệu và sắp xếp phân mục đúng với tính chất của một bộ hội điển, cho nên theo chúng tôi, đây rất có thể là một trong các tập của bộ QTHĐ được bắt đầu biên soạn vào niên hiệu Long Đức 3 (1731) dựa trên cơ sở Thiện chính tập Toàn thư đã cho biết.

Tóm lại, ở thời Lê, qua những thông tin từ sử sách, có thể thấy việc biên soạn hội điển ở thời kỳ này đã rất được coi trọng, trở thành một yêu cầu của triều đình và được tiến hành khá qui mô với các sách TNDHT QTHĐ , nhưng đáng tiếc qua những biến động của lịch sử, cùng với sự tàn phá của thời gian, cho đến nay đã không còn được toàn thư, mà những gì còn lại thì cũng rất tản mát, không được bao nhiêu. Theo chúng tôi thì hiện nay về tư liệu liên quan đến điển chế nhà Lê, chỉ có thể tìm thấy một số phần chép trong các bộ sách khác nhau. Hiện nay tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, còn lưu giữ được một số sách có nội dung liên quan đến điển chế nhà Lê, trong đó đáng chú ý là hai bộ Quốc triều chiếu lệnh thiện chính (QTCL) Lê triều hội điển (LTHĐ).

Trước hết về sách QTCL, sách này mang ký hiệu A.257, gồm 7 quyển, dày hơn 400 trang, khổ 31,5x21,5cm, nội dung chép các chiếu, chỉ, lệ, lệnh, điều, thuộc công việc của sáu thuộc, lần lượt từ Lại thuộc (q.1) đến Hộ thuộc (q.2) rồi Lễ thuộc (q.3, q.4), Binh thuộc (q.5), Hình thuộc (q.6) và Công thuộc (q.7), được ban hành từ niên hiệu Vĩnh Tộ đến Chính Hòa (từ 1619 đến 1705), khoảng gần một thế kỷ, qua các triều vua Thần Tông (1619 -1643) Chân Tông (1643 - 1649) Thần Tông (lần thứ 2, từ 1649 -1662) Huyền Tông (1662 - 1671) Gia Tông (1671 - 1675) Hy Tông (1675 - 1705), và các đời chúa Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn. Qua xem xét nội dung chúng tôi nhận thấy, tuy sách dừng lại ở thời Chính Hòa, nhưng đối chiếu với những nhận xét của Phạm Đình Hổ về sách Chính Hòa hội điển vừa kể trên thì sách này ở phần Lễ thuộc không có chi tiết nào nói về âm nhạc, ở các lệnh ban hành quy chế về lễ Tế giao và Triều hạ, chỉ quy định về phẩm phục, tế khí, chi phí chứ không nói đến quy định về số lần vái lạy, như vậy đây không thể là sách Chính Hòa hội điển mà Phạm Đình Hỏ đã nói đến. Hơn nữa nội dung sách chỉ là thuần tóy ghi chép các chiếu, chỉ, lệ, lệnh, lần lượt qua các đời chứ chưa có sự chỉnh lý, tổng hợp, sắp xếp, đúng với yêu cầu nghiêm ngặt về một bộ hội điển, lại thêm tên sách được gọi là Quốc triều chiếu lệnh thiện chính tập, cho nên theo chúng tôi, đây chính là một phần còn lại của Thiện chính tập đã được nói ở trên. Ngoài ra đối chiếu với sách Lịch triều của Phan Huy Chó, chúng tôi nhận thấy các lệ lệnh ở sáu thuộc được Phan Huy Chó đưa vào sách của mình phần lớn đều trùng khớp với sách này, như vậy, khi biên soạn sách Lịch triều, Phan Huy Chó có thể đã có sách này trong tay và cũng rất có thể đây chính là sách Quốc triều thiện chính tập mà ông đã cho biết.

Về bộ LTHĐ, sách mang ký hiệu A.52, dày hơn 400 trang, là văn bản do E.F.E.O sao lại ở Huế năm 1904. Về sách này, một số nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng đây là sách được biên soạn vào thời Lê và ngờ rằng chính là sách Quốc triều hội điển Tục hội điển (E.F.E.O. tập XXXIV.tr.42)(14). Còn theo Trần Văn Giáp, thì đây là sách LTHĐ do Phạm Đình Hổ dâng lên vua Minh Mạng khi nhà vua Bắc tuần vào năm 1821. Theo chúng tôi, đây không thể là sách QTHĐ, bởi biên soạn một bộ hội điển của cả một triều đại kéo dài mấy trăm năm với quy mô cấp nhà nước như đã được nói ở trên thì không thể sơ lược như vậy. Còn đây có phải là sách LTHĐ do Phạm Đình Hỏ biên soạn và dâng lên vua Minh Mạng hay không thì cũng không dám chắc. Về sự kiện Phạm Đình Hổ dâng sách cho vua Minh Mạng, ở bài ký mang tên Hành tại diện đối, chép trong sách Châu phong tạp thảo của mình, Phạm Đình Hổ cho biết, khi vua Minh Mạng yêu cầu dâng sách, ông đã trả lời: “Nay có lệnh chỉ cho tìm kiếm, thần xin kính cẩn vâng mệnh, lục lọi sách cũ cất giữ trong nhà, có được quyển nào sẽ xin dâng tiến”. Sau đó ông cho biết thêm: “Ngày mồng 6 tháng 11, đệ trình 2 đạo biểu tiến dâng các sách Lê triều hội điển, 2 quyển; Bang giao điển lệ, 1 quyển (…) Thự Hình bộ Thanh Xuyên hầu tuân chỉ chuyển giao cho quan Tổng trấn chia #y cho các viên thư lại sao chép để tiến lãm”(15). Ngoài những điều đó ra, Phạm Đình Hổ đã không cho biết sách dâng lên là sách cũ trong nhà hay sách do ông biên soạn, mà lý ra nếu là sách do chính ông biên soạn thì trong một bài ký như vậy hẳn ông sẽ không ngần ngại viết ra. Hơn nữa bộ LTHĐ ký hiệu A.52 được chép liền mạch chứ không chia quyển như bộ sách Phạm Đình Hổ dâng lên, do đó cũng khó có thể khẳng định đây chính là bộ hội điển do Phạm Đình Hổ biên soạn và dâng tiến. Sau khi xem xét nội dung, chúng tôi nhận thấy, sách này chép về các chế độ, luật lệnh của sáu thuộc, bắt đầu từ Hộ thuộc rồi đến Lại thuộc, Binh thuộc, Hình thuộc, Công thuộc, còn Lễ thuộc, được xếp cuối cùng. # n#m thuộc đầu, luật lệnh, chế độ nhà Lê, trải từ thời Lê sơ đến niên hiệu Cảnh Hưng được chép rất có thứ tự, nội dung cũng khá phong phú, cho thấy tư liệu ở đây đã được tổng hợp, phân loại, sắp xếp theo đúng cách thức của một bộ hội điển. Riêng Lễ thuộc, chỉ chép được một số nghi lễ thời kỳ sau khi nhà Lê trung hưng, có thể chính vì vậy mà ở sách này, khác với thông thường, Lễ thuộc bị đưa xuống cuối cùng. Tuy hầu như không có cứ liệu gì đủ để xác định được niên đại và tác giả của văn bản, song theo chúng tôi đây có thể là sách được biên soạn sau khi nhà Lê đã mất, vào khoảng đầu thế kỷ XIX, cũng giống như Phan Huy Chú khi biên soạn Lịch triều , tác giả đã bằng những tư liệu nắm được về điển chế nhà Lê, cố gắng khôi phục lại phần nào điển chương chế độ của vương triều này nhằm lưu lại cho hậu thế. Trong nội dung có nhiều phần trùng hợp với nội dung sách Lịch triều của Phan Huy Chó, song cũng có rất nhiều tư liệu khác giúp bổ sung đầy đủ hơn cho điển chế nhà Lê.

Trên đây chúng tôi đã cố gắng từ những tư liệu rất ít ỏi để hình dung đôi chút về tình hình biên soạn hội điển triều Lê. Hiện nay tư liệu về điển chế nhà Lê cũng còn giữ được một số trong các sách lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm và có thể ở một số thư viện khác. Đây là những tư liệu lịch sử nếu kết hợp với các bộ hình luật thời bấy giờ sẽ cho thấy bộ mặt đầy đủ của pháp luật nhà Lê, giúp nghiên cứu hữu hiệu về tình hình tổ chức nhà nước và pháp luật của thời kỳ này, đồng thời, với những luật lệnh rất cụ thể ban hành nhằm vào mọi mặt của đời sống xã hội đương thời, những tư liệu này có thể góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về tình hình kinh tế, quân sự, văn hãa, xã hội của thời Lê, một thời đại mà theo chúng tôi, với điển chế và pháp luật của mình, trong một chừng mực nhất định đã tác động vào việc hình thành nên phần lớn các nề nếp tập tục của cư dân Bắc bộ, đặc biệt ở khu vực đồng bằng và trung du. Nhưng đáng tiếc, việc tìm kiếm, khảo cứu kỹ lưỡng các văn bản về điển chế nhà Lê ở Việt Nam cho đến nay vẫn gần như chưa có thành tựu nào đáng kể.

T.T.K.A

CHÚ THÍCH

(1) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí . Nxb.KHXH, H. 1992. Phần Văn tịch chí, tr.64.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb.KHXH, H. 1993. Tập II. tr.12.

(3) Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục . Nxb.KHXH, H. 1977. tr.57.

(4) Toàn thư, sđd. tr.488.

(5) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục. H. 1998. Tập I, tr.1163.

(6) Phan Huy Chú: Lịch triều..., sđd. tr.65.

(7) Nay đã chuyển sang lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(8) Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. Sđd, tr.148.

(9) Trần Thị Kim Anh: Bia chợ xã Đông Ngạc - Thêm một bài văn bia đời Mạc. Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 2001.

(10) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Nxb. Văn hãa. H. 1984.

(11) Cương mục. sđd, Tập II, tr.439.

(12) Phan Huy Chú: Lịch triều..., sđd. tr.68.

(13) Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Nxb.KHXH, H. 2003. tr.81 và tr.202.

(14) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm , sđd.

(15) Phạm Đình Hổ: Châu phong tạp thảo. Ký hiệu VHv.1873. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

TB

VỀ NHỮNG CHỮ NÔM GHI CÁC TỪ VIỆT CỔ ĐÃ THAY ĐỔI Ý NGHĨA TRONG THIÊN NAM NGỮ LỤC

NGUYỄN THỊ LÂM

Thiên Nam ngữ lục (TNNL) là một tác phẩm văn vần tiếng Việt nghi bằng chữ Nôm dài nhất còn lại đến nay. Lâu nay đã có nhiều học giả quan tâm đến TNNL ở nhiều góc độ khác nhau, như giới thiệu, phiên âm, chú thích hoặc khai thác các giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm... Riêng về mặt chữ nghĩa, với độ dài 8.136 câu thơ lục bát, trên năm vạn rưởi chữ Nôm, TNNL còn là một nguồn cứ liệu dồi dào để nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt ở giai đoạn từ thế kỷ XVII trở về trước. Gần đây, chúng tôi đã có dịp giới thiệu qua về tình hình chữ Nôm trong TNNL(1). Trong phạm vi bài này, chúng tôi xin đi sâu giới thiệu thêm những chữ Nôm ghi các từ Việt cổ đã thay đổi ý nghĩa. Đối với những trường hợp này, nhiều khi không thể hiểu bằng nghĩa thông thường như hiện nay và ta phải tìm về với nghĩa cổ xưa của chúng. Trong TNNL thường gặp những chữ như sau:

STT Chữ Nôm Ghi từ Xuất xứ Nghĩa cổ Nghĩa hiện đại
1 Cật 27b, d4 Lưng Thận, bầu dục.
2 Con 0b,d1 Khi, lúc Thường nói về hiện tượng xảy ra mạnh và đột nhiên (cơn gió, cơn mưa, cơn giận)...
3 Đòi 53b, d3 Nhiều Nói lên ý muốn của mình và bắt người khác phải theo (đòi ăn, đòi nợ).
4 Ghê 127a, d1 Nhiều Cảm thấy muốn rùng mình hoặc có cảm giác sợ, tởm muốn tránh.
5 Khôn 108a, d3 Khó Tinh, khéo (trái với dại).
6 Mắng 33a, d5 Nghe Nêu lỗi của người dưới bằng lời nói nặng, to tiếng.
7 Miền 82b, d5 Vào khoảng Khu vực đất đai rộng lớn, đồng nhất về cảnh quan địa lý hoặc phương hướng nhất định (miền núi, miền biển, miền Bắc, miền Nam..)
8 Nát 19b, d6 Dọa, làm cho sợ Tan vỡ, vụn ra không còn nguyên hình.
9 Nẻo 2b, d1 Thuở, lúc Lối đi về một phía nào đó.
10 Nghèo 39a, d1 Nguy hiểm Không có đủ những thứ cần thiết hàng ngày để sống (trái với giàu).
11 Nghỉ 46b, d2 Nó, hắn Tạm ngừng công việc hoặc một hoạt động nào đó.
12 No 8b, d5 Đủ Chỉ nhu cầu về ăn uống đã được thỏa mãn (ăn no).
13 Nuôi 103a, d2 Mày, ngươi Cho ăn và chăm sóc cho lớn lên.
14 Nữa 70a, d8 Hơn, hơn hẳn Chưa hết, hãy còn thêm.
15 Nương 64b, d8 Ngực, bụng Dựa vào cho vững (nương tựa, nương nhờ).
16 Qua 59b, d7 Ta, tôi Nói về việc đã xảy ra hoặc sự di chuyển từ bên này sang bên kia của một sự vật nào đó.
17 Sắm 61a, d6 Sắm sửa, rắp tâm. Mua để có sẵn mà dùng.
18 Tớ 27b, d8 Tôi, dùng để nói trong khi giận dữ. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, dùng một cách thân mật.
19 Tươi 31a, d6 Ngay Xanh tốt, chưa héo, chưa khô.
20 Bát ngát 79b, d4 Buồn đau, thương nhớ dai dẳng Mênh mông, không giới hạn.
21 眈 招 Đăm chiêu 27b, d3 Bên phải, bên trái, mọi phía Có vẻ lo nghĩ.
22 韶 陶 Thều thào 12b, d5 Qua loa, hời hợt Nói rất nhỏ và yếu ớt qua hơi thở.
23 Vẻ vang 57a, d4 Đẹp đẽ Đem lại niềm vinh dự vv...

Dưới đây xin nêu một số trường hợp cụ thể:

- Chữ tớ trong đoạn Bà Trưng kể tội Tô Định(2)

Nàng mắng Tô Định tung hoành,
Hiếp dân lấy của đem binh hại người.
“Chồng tớ quan hệ gì ngươi,
Vô cớ nỡ hoài phụ đạo quan lang !(3)
Tớ còn tiếc nghĩa tao khang(4),
Vậy mà tớ phải kiếm phương báo thù”...

Ở đây, nếu hiểu chữ tớ với nghĩa thông thường là “đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, dùng một cách thân mật” thì không ổn vì ai cũng biết Bà Trưng có mối thù không đội trời chung với Tô Định. Vậy trong trường hợp này phải hiểu là “tôi, dùng để nói trong khi giận dữ” như từ điển Alexandre De Rhodes đã ghi.

- Chữ 女 nữa trong những câu:

Con mắt sáng nữa vẻ sao (6a,d3)
Ruổi càng quá nữa xích lân (7a,d6)
Việc vàn rối nữa tơ vò (70a, d8)...

Nếu hiểu nữa là “chưa hết, còn thêm” theo cách nghĩ hiện nay thì những câu thơ trên trở thành khó hiểu. ở đây nên hiểu nữa là tính từ, có nghĩa là “hơn”. Ta có thể nêu những ví dụ tương tự:

Lòng người quanh(5) nữa nước non quanh
(Quốc âm thi tập)

Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

Đạo lý nẻo xa đen nữa mực
(Bạch Vân quốc ngữ thi)...

- Chữ 危 nghèo trong những câu:

Binh nó thời mạnh binh Gia(6) thế nghèo (33b, d6)
Đặng Tuẫn(7) thế đã ban nghèo (33b, d6)
Lý Nam(8) thấy sự đã nghèo (39a, d1)...

Ở đây nghèo cũng không có nghĩa là “không có đủ những thứ cần thiết hàng ngày để sống” mà phải hiểu theo nghĩa cổ là “nguy hiểm”. Có thể nêu thêm những ví dụ như:

Thuở nghèo thì biết có tôi lành
(Quốc âm thi tập)

Ở yên mấy kẻ lo nghèo trước
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

Gặp cơn nghèo chớ lánh cơn nghèo
... (Tuồng Sơn Hậu)

- Chữ no trong những câu:

Gồm no văn võ mọi tài (8b, d6)
Một mình no nhớ cửa nhà hôm mai
(21b, d7)
Chớ thấy được đạo mà no chi là... (83b, d3)

- No (tiếng Tày Nùng là đo). Trong những câu trên no không có nghĩa là “nhu cầu về ăn uống đã được thỏa mãn” (như ăn no) mà phải hiểu là “đủ”. ở các ví dụ sau cũng vậy:

Cầm kỳ thi tửu mặc dùng no
Năm đức gồm no trí dũng nhân.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

Hoặc:

No ngày khẳm tháng đẻ ra
(Dương Từ Hà Mậu)

- Đăm chiêu 帎 招 (hay chiêu đăm) trong những câu:

Hát Giang bọc hết đăm chiêu (27b, d3)
Vào đền cứu hỏa chiêu đăm (111b, d5)
Đăm chiêu tự ấy lòng hoài (124a, d6)...

Đăm, chiêu là hai chữ làm thành một từ cổ vốn có nguồn gốc Nam á: tăm (Mường), atơm (Pacôh), Tươm (Ka Tu), sđăm (khmer) đều có nghĩa là “bên phải”, và chiêu (Mường), chiêu (Muông), kiêu (Kơ ho) đều có nghĩa là “bên trái”(9). Ngày nay ta hiểu với nghĩa thông thường là “có vẻ lo nghĩ”, nhưng ở đây phải hiểu theo nghĩa là “chung quanh, khắp nơi” thì những câu thơ trên mới có ý nghĩa. Trường hợp này cũng hay gặp ở những văn bản Nôm trước TNNL, ví dụ:

Vinh hoa, nhiều thấy khách đăm chiêu
(Quốc âm thi tập)

Đăm chiêu đồ mở hình cao thấp
(Hồng Đức Quốc âm thi tập)

Giàu sang người đến đăm chiêu...
(Bạch Vân quốc ngữ thi)

- Bát ngát trong những câu:

Buồn sầu bát ngát khôn yên,
Nghe sênh càng thảm nghe kèn càng thương
(79b, d4)

Hai chữ này diễn tả tâm trạng của nàng Mỵ Ê trước cảnh nước mất nhà tan nên nó không đồng nghĩa với “mênh mông” mà phải hiểu theo nghĩa cổ là “thương nhớ, day dứt”, tương tự như ở những câu sau đây:

Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát
(Ai tư vãn)

Bát ngát cành hoa trôi nước, chiếc nhạn về nam v.v...
(Văn tế chị)

Như vậy, đây là hiện tượng không chỉ tồn tại trong TNNL mà còn khá phổ biến trong các tác phẩm Nôm, nhất là ở giai đoạn từ thế kỷ XVII trở về trước. Việc vận dụng nghĩa cổ của những chữ Nôm như trên sẽ làm phong phú thêm kho tài liệu tiếng Việt lịch sử và giúp ích cho việc hiểu một cách chính xác nội dung các văn bản Nôm hiện còn.

N.T.L

CHÚ THÍCH:

(1)Nguyễn Thị Lâm: Chữ Nôm trong “Thiên Nam ngữ lục”. Tạp chí Hán Nôm, số 2-2000.

(2)Tô Định: Thái thú nhà Hán sang cai trị nước ta hồi đầu công nguyên, nổi tiếng tàn ác, bị Hai Bà Trưng đánh bại.

(3)Phụ đạo quan lang: thời Hùng Vương, con trai vua gọi là quan lang. Đời nọ tiếp đời kia, cha truyền con nối gọi là phụ đạo.

(4)Tao khang: ở đây chỉ tình cảm vợ chồng gắn bó.

(5)Quanh: quanh co.

(6)Gia: tức Lữ Gia, tể tướng nhà Triệu, không chịu thần phục nhà Hán. Hán Quang Vũ sai quân sang đánh, quân Lữ Gia chống trả quyết liệt nhưng cuối cùng thế yếu phải thua.

(7)Đặng Tuân: tướng nhà Ngô sang đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Sau bị Lữ Hưng giết.

(8)Lý Nam: tức Lý Nam Đế, có công dấy binh chống lại ách đô hộ của nhà Lương, lên làm vua, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.

(9)Hồng Hà: Đăm, chiêu và đăm chiêu. Tạp chí Ngôn ngữ 1 - 1984.

TB

CHỮ HIẾU TRONG NHAN ĐỀ BÀI THƠ TIÊU TỰ HIỂU CHUNG CỦA MẠC THIÊN TÍCH VÀ ĐÔI ĐIỀU NGỘ NHẬN

NGUYỄN QUẢNG TUÂN

Ở trấn Hà Tiên xưa, vào thời chúa Nguyễn Phúc Trú, năm 1736, Mạc Thiên Tích(1) được kế tập cha làm chức Tổng binh. Ông rất trung thành với các chúa Nguyễn. Năm 1775, khi chúa Nguyễn Phúc Thuần (Định vương) phải bỏ thành Phú Xuân chạy vào Gia Định, ông đã đi theo phò tá.

Đến khi Định vương bị quân Tây Sơn bắt (1777) Mạc Phúc Trú chạy sang Xiêm xin cứu viện nhưng bị người Xiêm nghi ngờ nên phải tử tiết ở bên ấy.

Khi còn ở Hà Tiên, ông thường họp với các văn nhân xa gần, lập thành Chiêu Anh các để cùng nhau ngâm vịnh, xướng họa. Ông nổi tiếng với Hà Tiên thập vịnh. Mười bài thơ ấy sau được 31 nhà thơ (25 người ở Trung Quốc và 6 người ở Việt Nam) họa lại. Ông đã cho khắc in năm 1737.

Trong số mười bài có bài Tiêu tự hiểu chung, mà khi họa lại Nguyễn Cư Trinh đã đổi lại nhan đề là Tiêu tự thần chung (cụ thể chỉ đổi chữ hiểu ra chữ thần ).

Về sự sửa đổi này, ông Trương Minh Đạt trong cuốn Nhận thức mới về đất Hà Tiên đã có một sự phân tích và bình luận rất cần được trao đổi lại.

Để tiện cho việc thảo luận và để độc giả dễ theo dõi, chúng tôi xin sao chép cả hai bài thơ xướng họa ấy như sau:

簫 寺 曉 鐘
殘 星 寥 落 向 東 拋
戊 夜 鯨 音 遠 寺 敲
淨 境 人 緣 醒 世 界
孤 聲 清 越 出 江 郊
忽 驚 鶴 唳 繞 風 樹
又 促 烏 啼 倚 月 梢
頓 覺 千 家 欹 枕 後
雞 傳 曉 信 亦 嘐 嘐

Phiên âm:

TIÊU TỰ HIỂU CHUNG
Tàn tinh liêu lạc hướng đông phao,
Mậu dạ kình âm viễn tự xao.
Tịnh cảnh nhân duyên tỉnh thế giới,
Cô thanh thanh việt xuất giang giao.
Hốt kinh hạc lệ nhiễu phong thụ
Hựu xúc ô đề ỷ nguyệt sao.
Đốn giác thiên gia y chẩm hậu,
Kê truyền hiểu tín diệc hao hao.

Dịch nghĩa:

TIẾNG CHUÔNG CHÙA TIÊU BUỔI SỚM
Những ngôi sao sắp lặn lác đác dần về hướng đông,
Lúc canh năm nghe tiếng chày kình đánh ở chùa xa.
Nhân duyên ở cõi thanh tĩnh làm cho thế giới tỉnh dậy,
Tiếng trong trẻo lẻ loi từ bên sông đưa ra.
Chợt làm cho con hạc giật mình kêu trên cành cây có gió thổi,
Lại làm cho con quạ thốt kêu trên ngọn cây dưới ánh trăng.
Sau khi mọi nhà đều đã thức giấc,
Con gà cũng gáy vang truyền báo tin trời sáng.

Nguyễn Cư Trinh(2) là bạn văn thơ của Mạc Thiên Tích đã họa lại và đã sửa nhan đề là Tiêu tự thần chung, cũng có nghĩa là tiếng chuông buổi sớm mai ở chùa Tiêu.

Nguyên văn bài họa như sau:

簫 寺 晨 鐘
晨 風 搖 落 露 花 拋
迢 遞 孤 聲 過 樹 捎
金 獸 哮 殘 星 海 渚
木 鯨 打 落 月 村 坳
萬 家 醒 夢 佛 朝 闕
入 水 開 顏 僧 下 巢
待 扣 堪 怜 禪 亦 有
不 鳴 鳴 得 太 陽 交

Phiên âm:

TIÊU TỰ THẦN CHUNG
Thần phong dao lạc lộ hoa phao,
Thiều đệ cô thanh quá thụ sao.
Kim thú hao tàn tinh hải chử,
Mộc kình đả lạc nguyệt thôn ao.
Vạn gia tỉnh mộng Phật triều khuyết,
Bát thủy khai nhan tăng hạ sào.
Đãi khấu kham linh thiền diệc hữu,
Bất minh, minh đắc thái dương giao.

Dịch nghĩa:

TIẾNG CHUÔNG BUỔI SỚM Ở CHÙA TIÊU
Ngọn gió sớm lay rơi hạt sương móc đọng ở các hoa,
Xa xa có tiếng chuông ngân qua các ngọn cây.
Thú vàng(3) kêu mãi đến lúc sao lặn bên bờ biển,
Kình gỗ(4) nện mãi đến lúc trăng rơi khỏi trước rãnh nhà.
Muôn nhà nghe tiếng chuông thì tỉnh mộng đi chầu lạy Phật,
Nhà sư nghe tiếng chuông sớm cũng dạy đi làm việc công đức.
Rất thương vị sư đương chờ đợi tiếng chuông chùa vang lên,
Không gõ thì thôi, đã gõ thì gõ cho đến lúc thái dương hiện ra.

Và sau đây, chúng tôi xin trích những lời phân tích và nhận định của ông Trương Minh Đạt nguyên văn như sau:

“Tựa bài thơ của Mạc Thiên Tích khởi thủy là Tiêu tự hiểu chung... Câu kết bài thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích là: Kê truyền hiểu tín diệc liêu liêu(5) nói lên thực sự chữ “Hiểu” là “thời gian rất sớm trước khi gà gáy, trời chưa sáng”. Tác giả muốn đề cập thời gian Phá Hiểu. Đến thời ông Nguyễn Cư Trinh, ông này họa lại bài thơ, năm 1753 - 1759, đã sửa cái tựa bài thơ này lại là Tiêu tự thần chung... Trong câu nhập đề của Nguyễn Cư Trinh, ông này hạ bút bằng câu Thần phong dao lạc lộ hoa phao. Thời gian hiệu quả của bài thơ là khi mặt trời lên (giờ Thìn). Ông này đã chỉnh ý Mạc Thiên Tích vì Mạc Thiên Tích đã dùng chữ “Hiểu” (tả Thật hữu Nghiêu) là “không trung hậu”: (Hiền hậu kính trọng mệnh lệnh nhà vua như ở gần trong gang tấc, thế là phù hợp với ông Tiểu Bạch). Ông Nguyễn Cư Trinh minh xác tôn chỉ của ông khi dùng chữ “Thần” thay vì chữ “Hiểu”: “Thơ cũng có khi sớm, khi trưa, khi đúng, khi muộn khác nhau. Nói tóm lại mọi việc cũng không ngoài lấy trung hậu làm gốc, lấy hàm súc làm nghĩa, lấy bình đạm làm hay...”. Nói Mạc Thiên Tích giống như ông Tiểu Bạch (Tề Hoàn công) là có ý xỏ xiên rằng Mạc Thiên Tích không trung hậu khi dùng chữ “Hiểu” trong tự dạng biểu thị hai vua ngang nhau. Chữ “Hiểu” là tước danh của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, đương thời, tên “Hiểu quốc công” (Nhận thức mới về đất Hà Tiên(6) – tr.138-139).

Qua nhận xét trên của ông Trương Minh Đạt chúng tôi thấy ông đã có mấy sai lầm như sau:

1. Phân tích sai tự dạng của chữ Hiểu: 曉

Ông Trương Minh Đạt không viết chữ “Hiểu” bằng Hán tự mà chỉ ghi: Hiểu (tả Thật hữu Nghiêu). Ghi như vậy là sai vì bên tả là chữ Nhật, bên hữu là chữ Nghiêu. (Đây có thể là do đánh máy sai chữ Nhật ra chữ Thật). Nếu viết bằng Hán tự chúng ta thấy rõ ràng ngay:

日 (nhật) và 堯 (nghiêu) = 曉 (hiểu).

Ông Trương Minh Đạt đã nói oan cho Nguyễn Cư Trinh là có ý xỏ xiên rằng Mạc Thiên Tích không trung hậu khi dùng chữ “Hiểu” trong tự dạng biểu thị hai vua ngang nhau. Ông nên nhận rõ là chữ 堯 (nghiêu) viết theo bộ 土 (thổ): trên là chữ 土 (thổ) giữa là hai chữ 土 (thổ) ngang nhau và dưới là chữ (ngật). Không làm gì có hai chữ “vương” ngang nhau 王王 ở đây. Viết như vậy ông nghĩ là sai vì không phải chữ thập (十) ở trên, hai chữ vương 王王 ở giữa và chữ ngật ở dưới. Chữ Hiểu thực ra chỉ có ba cách viết: 曉 (không có cách viết nào với 2 chữ vương 王王 ngang nhau cả).

Vậy chúng tôi xin đính chính là Nguyễn Cư Trinh không hề có ý xỏ xiên Mạc Thiên Tích.

2. Giải thích sai về việc Nguyễn Cư Trinh đã sửa nhan đề bài thơ, từ Tiêu tự hiểu chung ra Tiêu tự thần chung.

Ông Trương Minh Đạt đã căn cứ vào quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn để cho rằng khởi thủy tựa bài thơ của Mạc Thiên Tích là Tiêu tự hiểu chung và về sau, năm 1753 - 1759, Nguyễn Cư Trinh khi họa lại mới sửa là Tiêu tự thần chung. Ông đã trích một câu của Nguyễn Cư Trinh nói về việc làm thơ để minh xác việc dùng chữ “Thần” thay vì chữ “Hiểu: “Thơ cũng có khi sớm, khi trưa, khi đúng, khi muộn khác nhau. Nói tóm lại mọi việc cũng không ngoài lấy trung hậu làm gốc, lấy hàm súc làm nghĩa, lấy bình đạm làm hay...”

Chỉ căn cứ vào một câu như vậy mà ông Trương Minh Đạt đã vội cho là Nguyễn Cư Trinh có ý chê Mạc Thiên Tích không trung hậu. Sự thực câu ấy đã được trích ra từ một bức thư của Nguyễn Cư Trinh trả lời Mạc Thiên Tích để nói về thơ của mình. Bức thư viết rất trân trọng. Chúng tôi xin trích lại một đoạn như sau:

“Đại phàm còn để ở trong lòng người ta là chí, ngụ chí vào thì thành thơ. Lòng người có hiểm sâu, có nông cạn khác nhau, cho nên làm ra thơ cũng có kín đáo, rõ rệt, rộng rãi, hẹp hòi không giống nhau. Thời vận có lúc lên, lúc xuống, lúc thịnh, lúc suy, cho nên thơ cũng có khi sớm, khi trưa, khi đúng, khi muộn khác nhau. Nói tóm tại, mọi việc cũng không ngoài lấy trung hậu làm gốc, lấy hàm súc làm nghĩa, lấy bình đạm làm hay, làm khéo. Còn như làm văn chương cho đẹp đẽ, rèn đúc cho kỹ xảo, chẳng qua là bề ngoài của lục nghĩa và việc dư thừa của ngũ tế mà thôi...

Tôi thường lấy văn tự làm khó lắm... cho nên ngày thường làm thơ, ít có những bài thơ hay. Hơn nữa lúc tôi được ra làm việc, phần nhiều ở những nơi biên cương, việc ba quân bận rộn có lúc nào nhàn rỗi đâu mà nói đến thơ nữa. Nếu có ngâm vịnh một vài bài thi, chẳng qua cũng là miễn cưỡng do người ta thúc đẩy, hoặc thù tạc trong lúc giao thiệp với người đời, chứ không phải đều do tự mình cao hứng, cảm hứng mà làm ra thi. Nếu ngài cho thơ của tôi không phải là thơ cẩu thả, thì thật tôi lấy làm thẹn thùng. Vậy tôi chỉ trông mong ngài khéo léo giấu đi cho tôi, chứ không đáng nói cho người ngoài biết làm chi.”(7)

Rõ ràng là Nguyễn Cư Trinh đã nói một cách nhún nhường về thơ của mình, chứ không phải là nhận xét về thơ của Mạc Thiên Tích.

Ông Trương Minh Đạt đã vô tình hay cố ý đem gán cho thơ của Mạc Thiên Tích nên mới cho rằng thơ của Mạc Thiên Tích không trung hậu.

Sở dĩ Mạc Thiên Tích đã đặt nhan đề cho bài thơ của mình là Tiêu tự hiểu chung vì ông đã làm bài thơ ấy vào khoảng năm 1737, thời chúa Nguyễn Phúc Trú (1725 - 1738). Còn Nguyễn Cư Trinh đã họa lại bài thơ ấy vào khoảng thời gian 1753 - 1759 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát tức Hiểu Võ vương nên mới phải kỵ húy và mới phải đổi “hiểu” ra “thần”. Chỉ có vậy thôi.

3. Nhận xét sai về thái độ của Nguyễn Cư Trinh đối với Mạc Thiên Tích.

Ông Trương Minh Đạt sau khi nhận xét là thơ của Mạc Thiên Tích không trung hậu đã có kết luận rằng: “Nghiên cứu kỹ bài thơ Tiêu tự thần chung của Nguyễn Cư Trinh gửi cho Mạc Thiên Tích, chúng ta sẽ thấy ngầm cái ý cảnh cáo, chỉnh ý, răn đe mà Nguyễn Cư Trinh muốn nhắn gửi cho Mạc Thiên Tích. (Sđd, tr.139).

Chúng tôi thấy điều nhận xét này của ông Trương Minh Đạt hoàn toàn sai lạc vì cả bài thơ họa của Mạc Thiên Tích không có một ý nào ngầm cảnh cáo, chỉnh ý răn đe Mạc Thiên Tích.

Chúng tôi sở dĩ đã chép lại nguyên văn hai bài thơ xướng họa của Mạc Thiên Tích và Nguyễn Cư Trinh là để các độc giả dễ tìm hiểu và nhận định một cách chính xác về nội dung của mỗi bài thơ.

Chúng tôi thấy cần phải nói rõ ở đây là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đều rất trung thành với chúa Nguyễn. Chính Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục; sau khi chép lại bài thơ thứ 10: Lư khê ngư bạc với câu kết: Phiên linh tự tiếu uông dương ngoại, Dục phụ ngư long khước vị năng. (Riêng ta lại cười ta hãy còn long đong ngoài biển, Vẫn muốn giúp rồng cá (quân vương), mà chưa toại nguyện) đã nhận xét rằng: “Xem bài thơ trên cũng có thể biết chí khí của Mạc Thiên Tích vậy.” Và đã kể lại rằng: “Năm ất Mùi (1775) niên hiệu Cảnh Hưng, quân họ Trịnh đánh chiếm Thuận Hóa, quân Tây Sơn (Nguyễn Văn Nhạc) chiếm cứ tỉnh Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ chạy vào trấn Gia Định. Lúc ấy Mạc Thiên Tích đã ngoài bảy mươi tuổi mà vẫn cố giữ trấn Hà Tiên để làm cánh quân trợ lực cho chúa Nguyễn chống lại Tây Sơn (Nguyễn Văn Nhạc). Thế cũng là một người trung nghĩa.”

Mạc Thiên Tích đã có thái độ trung thành tuyệt đối với các chúa Nguyễn(8) như vậy, thế thì không hiểu ông Trương Minh Đạt nghĩ sao lại cho rằng Nguyễn Cư Trinh khi họa lại bài Tiêu tự hiểu chung đã ngầm cái ý cảnh cáo, chỉnh ý răn đe Mạc Thiên Tích.

Ông Trương Minh Đạt vô tình đã làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Mạc Thiên Tích.

Vậy để kết luận cho bài viết này chúng tôi thấy cần phải nói rõ là việc Nguyễn Cư Trinh đổi nhan đề bài thơ của Mạc Thiên Tích từ Tiêu tự hiểu chung ra Tiêu tự thần chung chỉ là do kỵ húy của Hiểu Võ vương thời đó chứ không hề có ý xỏ xiên hoặc cảnh cáo, răn đe gì Mạc Thiên Tích cả.

N.Q.T

CHÚ THÍCH:

(1) Mạc Thiên Tích (? - 1780). Năm sinh chưa được các định. Nếu nói sinh năm 1718 thì còn quá trẻ (mới 17 tuổi) khi kế tập cha là Tổng binh và cũng chưa đủ kiến thức và uy tín để chiêu tập các văn nhân mà lập ra Tao đàn Chiêu Anh Các. Phải sinh năm 1706 tức phải ở vào tuổi gần 30 mới đủ tư cách để làm các công việc trên.

(2) Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767): quê ở An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm quan dưới thời Hiểu Võ vương (1738 - 1765), đã có công trong việc mở rộng và ổn định bờ cõi nước nhà. Ông là bạn thơ với Mạc Thiên Tích và đã họa lại 10 bài thơ Hà Tiên thập vịnh.

(3) Thú vàng: tức con bồ lao đúc trên chuông đồng nên gọi là kim thú.

(4) Cá gỗ: cái chày làm bằng gỗ, hình con cá kình dùng để đánh chuông.

(5) Hai chữ 嘐 嘐 phải đọc là hao hao mới đúng âm và mới đúng vần của bài thơ: phao, xao, giao, sao và hao. Nếu phiên âm là “liêu liêu” thì sai vần.

(6) Nhà xuất bản Trẻ Tạp chí Xưa và nay in năm 2001.

(7) Theo bản dịch trong Phủ biên tạp lục của Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản ở Sài Gòn năm 1973, tr.156 - 158.

(8) Chính nhờ Mạc Thiên Tích mà chúa Nguyễn mới mở rộng thêm được đất nước. Năm Đinh Dậu (1777) con Đô đốc Mạc Thiên Tích là Tham tướng Mạc Tử Duyên đã hy sinh tại trận tiền để ngăn chặn quân Tây Sơn đuổi theo Định vương. Đến khi Định vương bị Tây Sơn bắt, Mạc Thiên Tích đã sang Xiêm để cầu viện nhưng bị nghi oan là có âm mưu xâm lăng nên phải tử tiết với hai con là Mạc Tử Hoàng và Mạc Tử Thượng.

Nghĩ đến sự trung thành ấy, vua Minh Mạng đã truy tặng ông làm Đạt nghĩa chi thần.

TB

VỀ HAI CÂU THƠ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG BÀI DỤC THÚY SƠN

NGUYỄN HÙNG VĨ

1. Dục Thúy sơn là một bài thơ hay của Nguyễn Trãi và là bài được chọn đưa vào sách giáo khoa Văn học lớp 10 tập 1, để dạy cho học sinh. Trong đó có hai câu thơ mà cho đến bây giờ, qua quá trình dịch thuật, vẫn có những điều bất ổn gây ra những khó khăn trong quá trình phân tích, bình giảng, định hướng giảng dạy cho giáo viên. Chúng tôi thấy cần thiết phải đọc lại hai câu này cho mạch lạc hơn. Đó là hai câu trong cặp đối liên thứ hai (câu 5 và câu 6) của bài:

Tháp ảnh trâm thanh ngọc (a)
Ba quang kính thúy hoàn (b)

Chúng ta có thể theo dõi quá trình dịch thuật hai câu này để vấn đề được rõ hơn.

2. Năm 1945 trong cuốn Ức Trai thi văn tập (Nhà in Lê Cường, 75 Hàng Bồ, Hà Nội), cụ Trúc Khê (Ngô Văn Triện) dịch là:

Bóng tháp như cái trâm chuốt bằng ngọc xanh (a)
Ánh sóng như tấm gương soi mái tóc biếc (b)

(Tháp dựng cành trâm ngọc
Dòng soi mái tóc huyền).

Trong cách đọc này, có những điều đáng chú ý, vì nó liên quan đến nhiều bản dịch sau này. ở câu (a), chữ trâm được hiểu thuần túy là danh từ (cái trâm) và hai chữ thanh ngọc được coi như là định ngữ cho chữ trâm (cái trâm... bằng ngọc xanh). Ở câu (b), chữ kính chủ yếu cũng được coi như danh từ (tấm gương) nhưng đồng thời ta thấy bắt đầu lộ diện tính chất động từ của nó (soi), đồng thời hai chữ thúy hoàn được dịch là mái tóc biếc. Ở câu (a), dịch giả đưa thêm chữ chuốt vào văn bản để tạo thế đối ngẫu nhưng chữ này nằm ngoài nguyên bản, đưa vào cho có thế mà thôi. Qua hai câu dịch thơ, ta rõ ý của dịch giả hơn.

Năm 1962, dường như nhận ra có chỗ bất ổn trong cách dịch của cụ Trúc Khê, các cụ Phan Võ, Lê Thước, Đào Phương Bình khi làm sách Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi (Nxb. Văn hóa, Hà Nội) đưa vào hai yếu tố mới khi dịch như sau:

Bóng tháp (cài) cái trâm ngọc xanh (a)
Ánh sáng của làn sóng soi mái tóc mầu thúy (b)

Yếu tố mới nằm ở chữ cài trong ngoặc đơn, các cụ đã nhìn nhận tính chất động từ trong chữ trâm ở câu (a) và đưa thêm vào, đồng thời ở câu (b), gạt bỏ hoàn toàn tính chất từ của chữ kính . Chữ kính lúc này chỉ còn hiểu là động từ soi nữa thôi. Như chúng ta sẽ thấy, đây là một bước tiến mới đến sự đúng đắn.

Năm 1969 và năm 1976, khi làm sách Ức Trai thi tập (Nxb. KHXH, H. 1969) và sau đó là tham gia làm sách Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb. KHXH, H. 1976), cụ Đào Duy Anh tiếp thu cả hai cách trên, thể hiện vào một cách đọc mới có phát triển:

Bóng tháp như hình trâm ngọc xanh cài vào (a)
Ánh nước như gương chiếu búi tóc biếc (b)

(Bóng tháp cài trâm ngọc,
Tóc mây chiếu kính sông).

Ở cách đọc này, hai chữ trâm kính được cụ nhìn nhận cả về phương diện danh từ và về phương diện động từ. Đồng thời hai chữ thúy hoàn đã được dịch đúng hơn là búi tóc biếc, chứ không phải là mái tóc... như các cụ đi trước. Tuy nhiên, cách dịch này tạo ra những bất ổn mới. ở câu (a), động từ cài vào để cuối câu dường như đang ngơ ngác đòi hỏi một tân ngữ cho nó để đặng đối xứng với câu (b): Cài vào đâu nhỉ ? Đồng thời, ở câu (b), ta thấy giữa dịch nghĩa và dịch thơ, do sự câu thúc của thể thơ mà có sự bất tương hợp khi chuyển búi tóc thành tóc mây. Với sự cẩn trọng của nhà khảo cứu, chính cụ đã chú thích cho điểm này: "Tóc mây - chữ Hán là "thúy hoàn", nghĩa là búi tóc xanh biếc như màu lông chim trả, chúng tôi thay bằng hình tượng "tóc mây" cho dễ hiểu". Sự chu đáo của cụ đáng cho chúng ta học tập. Tất nhiên, hai chữ tóc mây là rất khác với búi tóc và khổ nỗi là nó sẽ ảnh hưởng đến cách dịch thơ sau này và đặc biệt là những người dựa trên hai chữ tóc mây để bình giảng và hướng dẫn học sinh, giáo viên hiểu ý thơ.

Năm 1971, cụ Hoàng Khôi trong sách Ức Trai tập (Tập thượng) do ủy ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa Sài Gòn xuất bản, không dịch nghĩa mà chỉ dịch thơ hai câu này quá ư thoáng đãng:

Trâm ngọc, tháp lồng lộng (a)
Tóc xanh, sóng thướt tha (b)

Trường hợp này, chúng tôi không bàn đến vì nó khác với cái hệ mà chúng ta đang quan tâm.

Năm 1980, trong cuốn Thơ văn Nguyễn Trãi (Nxb. Giáo dục, Hà Nội), cụ Khương Hữu Dụng trình bày cách dịch nghĩa và dịch thơ của mình. Khi dịch nghĩa, cụ diễn dịch dài hơn hai câu này, nhưng ý tứ cũng không khác là bao, ngoại trừ như cụ Trúc Khê, cụ không chấp nhận ở câu (a), chữ trâm mang phẩm chất động từ:

Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như) cái trâm bằng ngọc xanh (a)

Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (b)

(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền)

Dĩ nhiên ở cả hai cách thể hiện (dịch nghĩa và dịch thơ), ở câu (b), cụ không phủ định phẩm chất động từ của chữ kính (soi ánh). Chính bản này, có lẽ do được diễn dịch dài hơn, tưởng như kĩ hơn, mà đã được chọn làm tài liệu soạn giáo khoa kèm theo những chú thích của người làm sách (mà ta sẽ lưu ý sau).

Năm 1994, cụ Bùi Văn Nguyên trong Ức Trai di tập bổ sung (Nxb. KHXH, H., Nxb. Mũi Cà Mau) đã dịch ngắn gọn:

Bóng tháp như cài trâm ngọc xanh (a)
Ánh sáng trên sóng soi mái tóc biếc (b)

Ta thấy ở đây, cách dịch câu (a) đầy kinh nghiệm. Trong một kết cấu súc tích, người tiếp xúc văn bản có thể hiểu trâm là động từ hay danh từ thì tùy (cài, cài trâm là động từ, t râm ngọc xanh là danh từ, về ngữ pháp, ngọc xanh là tân ngữ cho động từ cài trâm hay định ngữ cho danh từ trâm đều được). Cái khéo của một người lão thực. Còn ở câu (b), cụ vứt hẳn cái nghĩa danh từ của chữ kính, đồng thời chữ thúy hoàn lại được dịch là mái tóc biếc.

Gần đây, năm 2001, các ông Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khuê trong tập 1 bộ Nguyễn Trãi toàn tập tân niên (Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học) tham khảo đủ các cách dịch trước và đưa ra phương án tựa hồ đủ vẻ hơn:

Bóng tháp cài cái trâm ngọc xanh (a)
Ánh sáng của làn sóng nước soi gương búi tóc xanh biếc (b)

(Bóng tháp ngời trâm ngọc,
Tóc mây dợn ánh huyền.

Huy Cận (dịch thơ)

Bóng tháp ngọc xanh giắt,
Sóng trong tóc biếc in).

Nguyễn Khuê (dịch thơ)

Ở câu (a), các dịch giả đã cố gắng tận dụng cả nghĩa động từ và nghĩa tính từ của từ trâm, còn ở câu (b), chữ gương sau chữ soi, cũng cho ta một ý niệm về dấu tích nghĩa danh từ của chữ kính. Phần dịch thơ, Huy Cận lấy lại hai chữ tóc mây của cụ Đào Duy Anh, còn chữ dợn cho thấy một trực cảm tài ba của thi sĩ mà sau này chúng tôi sẽ nhắc lại.

Như vậy là kể từ khi Trúc Khê Ngô Văn Triện làm sách Nguyễn Trãi (Tân Dân, 1941 - Quyển này hiện chúng tôi chưa có trong tay), đã hơn 60 năm dịch thuật thơ chữ Hán của Ức Trai. Trong đó, hai câu thơ chúng ta đang đề cập cũng trải 60 năm với nhiều cách hiểu, đọc và dịch, có dị đồng. Nó nổi lên như một trong những hiện tượng đáng để tâm xem xét. Chỉ có hai câu thôi nhưng rất nhiều dịch giả băn khoăn về nó, cố tìm kiếm một cách dịch ổn thỏa, mong chuyển tải hết ý nghĩa của nó đến người đọc. Theo dõi quá trình dịch thuật, ta thấy về cơ bản là đại đồng tiểu dị. Nét đại đồng là, thứ nhất, ở câu (a), tất cả các học giả đều thống nhất cho rằng, hai chữ thanh ngọc là làm định ngữ cho chữ trâm nên ba chữ trâm thanh ngọc đều được hiểu là cái trâm bằng ngọc xanh. Cách hiểu này khởi thủy ở cụ Trúc Khê và ảnh hưởng đến các dịch giả lần xuất bản năm 2001. Thứ hai, ở câu (b), có 4 trên 6 ý kiến dịch hai chữ thúy hoàn MÁI tóc biếc/xanh, còn lại 2 ý kiến dịch là BÚI tóc biếc/xanh.

Nét tiểu dị chủ yếu nằm ở việc từ chỗ chỉ khai thác hai chữ trâm kính như là những danh từ, đến chỗ phát hiện từng bước tính chất động từ của chúng, và dần dần phô diễn cả hai tính chất này song song tồn tại trên bề mặt ngữ nghĩa hai câu thơ. Nét tiểu dị khác như dịch thúy hoàn tóc mây thì do yêu cầu thể thơ mà thôi.

3. Tuy nhiên, ở tất cả mọi cách dịch đều có điều tỏ ra chưa ổn khi ta thấy rằng, dù có nhiều cố gắng, đã không ai tái lập được ở bản dịch tính chất đối của hai câu thơ vốn đối nhau chặt chẽ này. Điều này, khiến ta phải đọc lại, suy ngẫm lại và dịch lại hai câu thơ này. Dục Thúy sơn là bài luật thi ngũ ngôn bát cú, trong đó có bốn câu (các câu 3, 4, 5, 6) nhất thiết phải chia thành hai cặp đối nhau và trên thực tế là như vậy:

3. Liên hoa phù thủy thượng

4. Tiên cảnh trụy nhân gian

5. Tháp ảnh trâm thanh ngọc

6. Ba quang kính thúy hoàn

Bây giờ, chúng ta xét câu 6 trong thế đối với câu 5. Ở câu này, hai chữ thúy hoàn không thể làm định ngữ cho kính, nó là một tân ngữ. Vậy chữ kính ở đây rõ ràng được Nguyễn Trãi sử dụng với tư cách là một động từ (dù nó có thể có cội nguồn là danh từ) mà khi dịch sang tiếng Việt, chúng ta có thể có các từ như chiếu, soi, rọi, ánh, soi gương, chiếu lên/xuống, soi lên/xuống, rọi lên/xuống, ánh lên... hay nói cách khác rõ hơn: kính là động từ vị ngữ, còn thúy hoàn là danh từ tân ngữ. Về ngữ pháp, câu thơ có cấu trúc:

Danh từ chủ ngữ + Động từ vị ngữ + Danh từ tân ngữ.

Với yêu cầu của luật đối, ta thấy câu 5 cũng phải tuân thủ cấu trúc trên, nên ta có hệ quả:

- Tháp ảnh là danh từ chủ ngữ

- Trâm là động từ vị ngữ

- Thanh ngọc là danh từ tân ngữ

Đến đây, ta hiểu được rằng, chữ trâm đã được Nguyễn Trãi sử dụng, cũng như chữ kính, chủ yếu ở tính chất động từ của nó và ta phải dịch là: cài (trâm), giắt (trâm), gài (trâm), cắm (trâm)... vào (lên/xuống) một đối tượng nào đó của hành động này. Đối tượng đó chính là hai chữ thanh ngọc mà ta phải hiểu nó là danh từ: hòn (viên, cục, khối) ngọc xanh, chứ không thể hiểu nó như một định ngữ cho trâm được. Điểm xưa nay hay bị hiểu sai là ở chỗ này, khi bắt đầu từ cụ Trúc Khê dịch trâm thanh ngọc cái trâm bằng ngọc xanh, mặc dù về ngữ pháp (dù trong thơ) quả là nghe ra không ổn lắm. Cái sai này có một quán tính mạnh đến nỗi các thế hệ tiếp theo dẫu băn khoăn lắm nhưng vẫn không thoát ra được, nên dẫn đến tình trạng như ta đã biết, cho dù các cụ rất am tường ngữ pháp Hán cổ và việc nhận ra cấu trúc của nó, các cụ có thể coi là trò trẻ con. Sự đời nhiều khi vẫn vậy. Niu-tơn còn đãng trí nữa là. Đến đây, ta đã có thể yên tâm dịch bốn câu thơ tả hòn Dục Thúy một cách “xông xênh” khi tự mình thoát khỏi cái trâm bằng ngọc xanh:

3. Là đóa sen nổi trên mặt nước,

4. Là cảnh tiên rớt xuống cõi người.

5. Là hòn ngọc xanh có bóng tháp như chiếc trâm cài vào
(trên chỏm),

6. Là búi tóc biếc có quáng sóng như ánh gương rọi lên (bên
vách).

Hoặc có thể diễn giải cho rõ ý hơn nữa:

3. Là đóa sen nổi trên mặt nước,

4. Là cảnh tiên rớt xuống cõi người.

5. Có bóng tháp cài trâm vào đỉnh núi như cài lên một hòn
ngọc xanh (kì vĩ).

6. Có ánh sóng rọi gương lên vách núi như rọi lên một búi
tóc biếc (khổng lồ).

Phải dài lời như vậy là do muốn chuyển tải được hết ý của Nguyễn Trãi, còn rút gọn lại cho súc tích thì, đến giờ, ta cũng đã có thể hiểu được:

3. Là đóa sen nổi trên mặt nước,

4. Là cảnh tiên rớt xuống cõi người.

5. Bóng tháp cài trâm vào hòn ngọc xanh,

6. Quáng sóng rọi gương lên búi tóc biếc.

Thế là đã ổn thỏa, sự ổn thỏa bởi chính từ thơ giản dị, ngữ pháp cơ bản, luật đối nghiêm chỉnh của hai câu thơ. Ta thấy ở hai cặp đối liên này, bốn vế đều chứa đựng bốn hình ảnh ẩn dụ để mô tả núi Dục Thúy: đóa sen, cảnh tiên, hòn ngọc xanh, búi tóc biếc (liên hoa, tiên cảnh, thanh ngọc, thúy hoàn). Ở hai câu trước (câu 3 và câu 4), tác giả sau khi đã thiêng hóa hòn núi, đặt nó trong sự tương tác với địa thế, tạo nên mọt cái phông có không gian rộng, điểm nhìn xa rất bao quát. Tiếp tục ở hai câu tiếp theo, sau khi đã mĩ hóa, tác giả xem nó trong tương tác nội tại của những hình ảnh cơ hữu của Dục Thúy sơn, tạo nên những nét nhấn chi tiết, tinh tế với điểm nhìn cận cảnh, tăng tính tạo hình. Thủ pháp di chuyển điểm nhìn đã tăng hiệu quả thẩm mĩ khi tác giả xử lí không gian nghệ thuật. Hòn núi hiện lên vừa thực vừa ảo, vẫn cụ thể mà huyền diệu lung linh. Những nét cứng sắc, gẫy gọn của ngọn tháp cắm trên núi đối lập và hài hòa với những nét mềm, linh động, xôn xao của bóng sóng chiếu lung linh trên vách núi xanh biếc đá và cây. Không hiểu tại sao khi đọc đến đây, tôi thường nhớ đến hình ảnh bóng nước dờn trên vách khi Nguyễn Khuyến tả cảnh lụt ở đồng quê chiêm trũng. Dục Thúy sơn là vậy, với địa thế non nước, suốt ngày hễ có ánh mặt trời là lúc nào cũng lung linh quáng sóng. Tôi thú chữ dờn trong bản dịch của Huy Cận là vì cái lẽ ông cảm nhận tinh tế. Dùng hòn ngọc hay ngọc xanh để ẩn dụ cho những hòn núi đá vôi là việc Nguyễn Trãi ưa thích. Đối với ta, việc một chiếc trâm cài (cắm) vào hòn ngọc chắc là điều khó hình dung. Trong đầu mọi người, ngọc là những hòn tròn lóng lánh như hạt châu, làm đồ trang sức; chúng ta ít nghĩ đến những khối ngọc có thể tạo nên những pho tượng lớn, chưa kể nó đã được thi vị hóa. Trong bài Vọng doanh, Nguyễn Trãi cũng đã từng tả Dục Thúy sơn:

Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc

Nghĩa là: Mưa tạnh rồi, Dục Thúy sơn trông như hòn ngọc.

(Các cách dịch khác như: Sau mưa, núi Dục Thúy xanh như ngọc hoặc Sau mưa, núi Dục Thúy biếc như ngọc là dịch chưa hết ý chưa rõ Nguyễn Trãi đã dùng chữ phong để chỉ núi. Dịch thế được sắc mà chưa nói được dáng của núi. Chú ý là văn hóa trùng điệp Trung Hoa để lại rất nhiều từ vựng để chỉ núi: sơn, dĩ, sầm, hỗ, phong, tung, lĩnh... chủ yếu tùy theo dáng núi mà gọi tên. Tô Đông Pha có câu thơ hay: Hoành khan thành lĩnh, trắc thành phong (Trông ngang thấy là lĩnh, trông nghiêng thấy là phong). ở một bài khác, khi tả núi đá vôi, chỗ dãy Tam Điệp ra đến Thần Phù, Nguyễn Trãi cũng dùng từ ngọc: Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn (Sát bờ nghìn ngọn núi bày ra như măng ngọc). Còn dùng búi tóc biếc để tả sắc vẻ và dáng hình núi đá vôi cũng có trong thơ Nguyễn Trãi. Trong Ức Trai thi tập, hai lần chữ hoàn (búi tóc) xuất hiện thì cả hai lần đều kết hợp với chữ thúy, đồng thời, cả hai lần đều tả núi đá vôi. Trong bài Vân Đồn, ông viết:

Vạn hộc thanh nha đỏa thúy hoàn
(Muôn hộc xanh thắm chụm từng búi tóc biếc)

4. Như vậy, ta thấy cách dịch t râm thanh ngọc thành cái trâm bằng ngọc xanh thúy hoàn thành mái tóc biếc là thật sơ ý, dù được nhiều cụ ủng hộ. Cái thiếu chính xác này sẽ dẫn đến những bất ổn trong sách giáo khoa cũng như trong tài liệu hướng dẫn học văn cho học sinh. Đây là điều chúng tôi muốn góp ý.

Như chúng tôi đã nói, sách giáo khoa Văn học lớp 10 tập 1 (Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 2001) đã chọn bản dịch 1980 của cụ Khương Hữu Dụng làm tài liệu. Ngoài những cái sai thuộc về quá trình dịch thơ, thêm một bước, những người biên soạn, do hiểu theo cách dịch (dịch nghĩa và dịch thơ) mà có những chú thích bất cập, hướng dẫn người đọc xa dần ý nghĩa của bài thơ. Đó là các chú thích (3) Trâm: Cái gài tóc của phụ nữ. Trâm ngọc : Trâm quý. (4) Tóc huyền: tóc đen của con gái. Trong nguyên văn: thúy hoàn có nghĩa là tóc xanh biếc (thúy: xanh biếc). Phải nói ngay về cách chú thích này: Cái trâm không phải là cái cài đầu chỉ dành cho phụ nữ. Trong Từ điển Hán Việt của cụ Đào Duy Anh, quả có một nét nghĩa đó, nhưng theo dõi các kết hợp của chữ trâm ta thấy khác. Cũng chính ở từ điển này giải thích: Trâm anh: Trâm là cái gài tóc, anh là giải mũ. Xưa, thi đậu Tiến sĩ trở lên mới được đội mũ gài trâm = Nhà quyền quý. Trâm hốt: ... Ngày xưa thi đậu Tiến sĩ hay là đến đường quan mới được có trâm hốt, thì trâm ở đây dứt khoát không phải là cái gài tóc của phụ nữ. Nguyễn Du viết về gia thế Kim Trọng: Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh, thì trong câu này, không có bóng dáng phụ nữ. Đến như Đỗ Phủ thì không thể viết sai chữ Hán được, trong bài thơ Xuân vọng rất nổi tiếng, ông viết về cái già và hèn yếu của mình, có hai câu tuyệt bút:

Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.

(Tóc bạc rồi càng gãi càng rụng,
Cơ hồ không đỡ nổi cái trâm nữa!)

Đàn ông búi tóc và dùng trâm cài là một hiện thực. Có lẽ từ việc dịch sai thúy hoàn thành mái tóc xanh, tóc huyền nên những người làm sách đã hiểu hai câu thơ Nguyễn Trãi thành hình ảnh phụ nữ trong bài mà đã chú thích sai như vậy. Điều này dẫn đến hậu quả rõ ràng, trong sách Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2001), ta đọc thấy cách bình giảng, xin trích: “Hình tượng ngọn tháp trong thơ Nguyễn Trãi là sự kế thừa nhưng nâng cao rất nhiều, đã thành một sáng tạo vô cùng độc đáo: Bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hết sức hợp lí nhưng cũng hết sức bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ nên họa mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời tình yêu nhuốm vào cảnh vật. Ức Trai đã cảm xúc vẻ đẹp của ngọn tháp, của dòng sông không phải như đứng trước một cảnh tượng hùng vĩ mà như đứng trước một thiếu nữ. Chính chất phong tình này đã làm nên vẻ đẹp độc đáo và đầy tính chất nhân văn của thơ Nguyễn Trãi, đã làm nên cá tính sáng tạo của thi sĩ”. Còn nữa nhưng mà thôi.

Thế đấy ! ở đây không hề có chuyện là những cách đọc khác nhau trên cùng một văn bản theo lí thuyết tiếp nhận văn học mà chỉ có chuyện từ dịch sai đến sự lựa chọn thiếu thẩm định, đến chú thích sai và đến việc bình giảng sai bài thơ. Một trò chơi đô-mi-nô từ cái dĩ ngoa này sang cái truyền ngoa khác. Theo chúng tôi, làm sách giáo khoa, chúng ta cần cẩn trọng hơn nữa.

5. Thế hệ các dịch giả Hán Nôm thế kỉ trước là một thế hệ vàng ròng sống trong một thời kì cả dân tộc rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi). Công lao của họ với nhân dân, với đất nước, cách mạng, học thuật cao như núi non rộng như biển cả. Họ chuyển tải tri thức ngàn năm của dân tộc đến cho chúng ta. Dẫu vậy, sơ sẩy như hạt bụi cũng là không thể tránh khỏi. Nhiều khi đó cũng là chút phúc lộc các cụ dành cho cháu con. Những băn khoăn đến từng chi tiết chữ nghĩa của vài ba thế hệ khiến chúng ta cảm động và muốn cho hoàn mĩ hơn, trả ơn cho các cụ.

Mười chữ trên hai câu thơ Nguyễn Trãi thật là nhỏ bé, song nó đã vượt qua cả những đau thương của một nhân cách văn hóa tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng (Tố Hữu), vượt qua hơn 500 năm để bồi dưỡng tâm hồn chúng ta. Hiểu thêm nó một chút nữa là chúng ta thể hiện trách nhiệm sự tri ân của mình với tiền bối. Những ý kiến của tôi có thể có những vụng về khúc mắc nhưng tôi tin là đúng và rất muốn được mọi người chia sẻ bằng tấm lòng thành thực của mình.

N.H.V

TB

ĐÔI ĐIỀU VỀ ỨC TRAI THI TẬP TRONG NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP CỦA
HOÀNG KHÔI

LÊ TOAN

Trong lịch sử sáng tác văn học bằng chữ Hán của dân tộc Việt Nam kể từ khi đất nước ta giành được quyền tự chủ (năm 939) đến đầu thế kỷ thứ XV, thơ chữ Hán Nguyễn Trãi đã nổi bật sự phản ánh trung thực xã hội Việt Nam đầu thời Lê trở thành một di sản tinh thần quý báu của dân tộc. Vì vậy các sáng tác của Nguyễn Trãi đã được đặc biệt chú ý sưu tập, chỉnh lý và dịch chú. Bài viết này xin góp đôi điều về quá trình chỉnh lý và dịch chú thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.

A. Sưu tập và dịch chú

- Trước hết là công trình sưu tập thơ chữ Hán Nguyễn Trãi của Trần Khắc Kiệm đề tựa năm Hồng Đức thứ 11 (1480), nhưng đã thất truyền.

- Cuốn Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên biên soạn được khắc in năm 1459 có 38 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi trong quyển 4, nhưng phần này cũng không còn được lưu giữ trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

- Tinh tuyển chư gia thi tập hay còn gọi là Tinh tuyển chư gia luật thi tập do Dương Đức Nhan đời Lê Thánh Tông biên tập có tuyển chọn 55 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.

- Trích diễm thi tập do Hoàng Đức Lương tuyển chọn và được công bố năm 1497 có bổ sung thêm 13 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.

- Toàn việt thi lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào khoảng 1760 - 1767, sưu tập thơ của gần 200 tác giả, riêng thơ chữ Hán Nguyễn Trãi sưu tầp được 105 bài.

- Hoàng Việt thi tuyển do Bùi Huy Bích biên soạn, được in năm 1825 có tuyển chọn 14 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.

- Đặc biệt thơ chữ Hán Nguyễn Trãi được Dương Bá Cung sưu tập và đặt tên là Ức Trai thi tập. Tập sách này còn được Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh góp ý hiệu chỉnh do nhà in Phúc Khê tàng bản in năm Tự Đức thứ 21 (1868). Đây có thể xem là một sưu tập đầy đủ nhất và được chỉnh lí, khảo cứu khá công phu. Sau đó, tập thơ được sao chép thành nhiều bản, đã tập hợp được 105 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.

Về những công trình biên dịch Ức Trai thi tập từ năm 1945 đến nay có: Ức Trai thi văn tập, Nxb. Lê Cường, 1945; Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, bản dịch của Phan Võ, Lê Phước, Đào Phương Bình do Nxb. Văn hóa, H. 1962; Ức Trai thi tập (trong Nguyễn Trãi toàn tập) do Văn Tân, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp dịch chú, Nxb. KHXH, H. 1969, tái bản 1976; Ức Trai thi tập (trong Ức Trai tập), bản dịch của Hoàng Khôi do Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa in năm 1971 ở Sài Gòn, tái bản lấy tên Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Văn hóa - Thông tin, năm 2001; Ức Trai thi tập, bản dịch của Nguyễn Gia Tuân, bút hiệu Thanh Tùng, xuất bản tại Sài Gòn năm 1973. Ức Trai thi tập (trong Ức Trai di tập bổ sung) bản dịch của Bùi Văn Nguyên do Nxb. KHXH và Nxb. Mũi Cà Mau in năm 1994; Ức Trai thi tập của Lê Cao Phan dịch ra ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Nxb. Văn học, 2000; Ức Trai thi tập (trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên) do Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khuê, Kiều Thu Hoạch dịch chú, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb. Văn học ấn hành năm 1999.

Trong mỗi bản dịch, chú đều thể hiện những nét riêng biệt và ở góc độ này hay góc độ khác đã cố gắng bám sát tinh thần của nguyên tác, thể hiện cái hay cái đẹp của nguyên tác nên các công trình dịch, chú trên đã đạt được những thành tựu nhất định. Nhưng dịch, chú thơ chữ Hán nói chung và thơ chữ Hán Nguyễn Trãi nói riêng rất khó vì thơ rất cô đọng, súc tích, ít chữ nhiều ý. Bởi vậy không thể không xuất hiện những vấn đề cần bàn luận, trao đổi thêm. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung trao đổi về dịch, chú Ức Trai thi tập trong cuốn sách Nguyễn Trãi toàn tập do Hoàng Khôi biên dịch (1971, Sài Gòn, tái bản 2001).

B. Việc dịch, chú Ức Trai thi tập của Hoàng Khôi

Sách in khổ 24x16cm, bìa cứng có hoa văn. Điều đáng quý là sách in lại toàn bộ vi bản chữ Hán được ấn hành từ thời Tự Đức (1868) rất thuận tiện cho bạn đọc biết chữ Hán. Phần in Ức Trai thi tập được xếp theo đúng thứ tự các bài của bản Ức Trai thi tập do nhà in Phúc Khê in năm Tự Đức thứ 21 (1870). Tổng số các bài thơ chữ Hán có trong bản này là 105 bài. Để thấy được những đóng góp của cuốn sách, chúng tôi lần lượt trao đổi đôi nét về các phần văn bản, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và chú thích.

1. Về văn bản

Tuy cuốn sách in lại toàn bộ vi bản chữ Hán Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung từ thời Tự Đức, nhưng khi xem xét, đối chiếu văn bản, chúng tôi phát hiện 44 trường hợp chép sai, chép nhầm chữ Hán. Có thể khẳng định bản chữ Hán mà Hoàng Khôi chọn để dịch chú không phải là bản in gốc mà có thể là bản in lại từ một bản thảo nào đó thời Nguyễn. Về vấn đề này chúng tôi sẽ bàn kỹ trong một dịp khác. ở đây xin nêu một số ví dụ về sự sai lạc này.

Bài Quá hải, câu 5 chữ thứ sáu, bản Ức Trai thi tập kí hiệu VHv.1772(1) ghép chữ “chướng” (嶂), chữ “chướng” này có bộ “sơn” (山) đứng trước chữ “chương” (章). Bản Hoàng Khôi lại chép chữ “chướng” (障) có bộ “phụ” ( ) đứng trước chữ “chương” (章). Chữ “chướng” có bộ “sơn” đứng trước có nghĩa là núi non, núi cao. Chữ “chướng” có bộ “phụ” đứng trước có nghĩa là ngăn cản, ngăn che, vật cản. Bài từ “Ngư gia ngạo” của Phạm Trọng Yêm đời Tống có câu: 千 嶂 里 , 長 煙 落 日 孤 城 閉 (Thiên chướng [có bộ sơn đứng trước] lý, trường yên lạc nhật cô thành bế; nghĩa là: Núi non nghìn trùng, trời đà mây phủ, cô thành khóa chặt). Xét về câu thơ của Nguyễn Trãi: 義 氣 掃 空 千 嶂 霧 (Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ; nghĩa là: khí thế chính nghĩa quét sạch nghìn sự ngăn cản của mây mù). Như vậy làm cho câu thơ trở nên vô lý.

Chữ thứ 5 câu 8 trong bài Chu Công phụ Thành Vương đồ, bản VHv.1772 viết chữ “ấp” (揖), bản Hoàng Khôi viết thành chữ “bả” (把). Chữ “ấp” có nghĩa là kéo. “ấp dư phong” là kéo dài dư phong, noi theo dư phong. Câu thơ Ủng Chiêu cận khả ấp dư phong được hiểu là: Việc phò Chiêu Đế cũng chỉ đáng coi là noi theo dư phong (của ông) thôi. Nếu dùng chữ “bả” có nghĩa là cầm nắm, dựa vào, giữ, buộc vào thì “bả dư phong” có nghĩa là: dựa vào, buộc vào dư phong thì câu thơ sẽ trở thành vô lý.

Chữ thứ 5 câu 6 trong bài Quan duyệt thủy trận, bản VHv.1772 chép là “quán” (鸛), bản Hoàng Khôi chép là “ưng” (鷹) nhưng lại phiên âm là “nhạn”. Chim ưng thường bay cao, chim quán chỉ là con chim vạc, thường kiếm ăn ở bờ sông hoặc ao hồ, “nga” là con chim ngỗng thường bơi lội trên mặt nước. “Quán nga” ở đây dùng để chỉ thủy trận. Câu 千 艘 布 陣 鸛 鵝 行 (Thiên sưu bố trận quán nga hành là: Nghìn chiếc thuyền bày thế trận chỉnh tề như hàng chim quán chim nga). Nếu dùng từ “ưng nga” thì không thể tượng trưng cho hình tượng thủy trận được.

Chữ thứ nhất câu 5 trong bài Thu dạ dữ Hoàng giang Nguyễn Nhược Thủy đồng phú, bản Hoàng Khôi chép lại là “Tiên lại” (仙 籟) và dịch là “Sáo bắc”. Các bản khác chép lại là “Thiên lại” (天 籟). Chúng tôi đã xem Từ nguyên, Từ hải, Hán ngữ đại từ điển, Cổ đại Hán ngữ từ điển đều không thấy có từ “tiên lại”, mà chỉ có từ “thiên lại” với nghĩa là tiếng sáo trời, ở đây chỉ âm hưởng phát ra tự nhiên trong thiên nhiên. Thiên Tề vật luận trong sách Trang Tử viết: Nhữ văn nhân lại nhi vị văn địa lại, nhữ văn địa lại nhi vị văn thiên lại phù! (Ông chỉ nghe tiếng sáo của người mà không nghe tiếng sáo của đất, ông chỉ nghe tiếng sáo của đất mà chưa nghe tiếng sáo của trời)(2). Vì thế không thể dùng từ “tiên lại” như bản Hoàng Khôi được mà phải dùng từ “Thiên lại” mới đúng. Câu thơ của Nguyễn Trãi trong bài này nên viết là: Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc; nghĩa là: Tiếng sáo trời cho biết thu đến, làm kinh động cỏ cây.

Ngoài ra còn một số từ chép sai khác như: “liên” (連) chép thành “biên” (邊) trong bài 46; “thạch” (石) chép thành “bất” (不) trong bài 49; “tòng” (從) chép thành “phiếm” (泛) trong bài 51; “nhân” (堙) chép thành “chân” (真) trong bài 53… Những lỗi này có thể là lỗi đánh máy, song số lượng 44 lỗi trong 105 bài thì quả thực không phải là một tỷ lệ nhỏ.

2. Về phiên âm

Đây là bản in lần thứ hai (bản in lần đầu năm 1971), nhưng phần phiên âm còn quá nhiều sai sót, có những sai sót do lỗi chính tả, có sai sót do hiểu sai. Đơn cử một ví dụ: Bài Đề sơn điểu hô nhân đồ, chữ thứ 5 câu thứ 3 là “triều” (朝) lại phiên âm thành “triêu”. Từ này có nhiều âm đọc, đọc là “triều” thì có nghĩa là triều đình, cung đình, “triều thoái” là ở triều về. Đọc là “triêu” thì có nghĩa là sáng, buổi sáng, như từ “triêu dương” (朝 陽) là buổi sáng, bình minh. Nếu đọc là “triêu” thì câu thơ nhàn quải ngọ song triêu thái nhật sẽ tối nghĩa. Đọc là “triều” thì nghĩa câu thơ sẽ là: Những ngày lui chầu rảnh rỗi, treo lên cửa sổ lúc buổi trưa.

Câu thứ hai, chữ thứ 7 có chữ 噴 Từ hải chú từ này có hai âm đọc: 1. Phá khốn thiết = phốn. Âm Hán Việt quen đọc là “phún”. 2. Phô ôn thiết = phôn. Thông thường đọc chữ này theo âm “phún”, nhưng ở câu thơ này phải đọc là “phôn” cho hiệp vận với các chữ “môn”, “thôn”, “tôn”, “hồn” trong bài. Hoàng Khôi phiên âm chữ này là “bồn” là không đúng.

Bài Hạ quy Lam Sơn II, câu có 5 từ Nguyệt xuế nhật thành, Hoàng Khôi chép và phiên âm là Nhật xuyến nguyệt thành, chữ “xuế” (竁) mà phiên âm thành “xuyến” là không đúng.

Câu 8 trong bài này là có từ “cung cao” (弓 櫜). Hoàng Khôi chép là “cung nang” (弓 囊) nhưng lại phiên âm là “cung cao”.

Bài Họa hữu nhân yên hà ngụ hứng III, hai chữ đầu câu 1 là “Mao ốc” (茅 屋), Hoàng Khôi chép là 茅 水 “mao thủy” và phiên âm là “Ngang thủy” và dịch là sông Ngang thủy. Chữ (茅) mà phiên âm là “ngang” là không đúng.

Các từ (毿 毿) phiên thành “tam tam”, (Bài Thiều chân tức sự); “Khoa” phiên thành “Khô” trong bài Bạch Đằng hải khẩu; “đảm” phiên thành “diêm”, “biên” phiên thành “biển”, “thử” phiên thành “thứ” trong bài Chu trung ngẫu thành; “thược trà” phiên thành “hấp trà” trong bài Ngẫu thành…

3. Về dịch nghĩa, dịch thơ

Bản Hoàng Khôi sau mỗi bài thơ chữ Hán có đề là dịch nghĩa, nhưng thực ra hoàn toàn dịch thành thơ. Đây là một sự cố gắng đáng ghi nhận, nhưng nếu thêm được phần dịch nghĩa thì tốt hơn vì không phải câu nào, bài nào khi dịch thơ cũng lột tả được ý của nguyên tác. Xem xét kỹ từng bài dịch thấy rằng có những câu, những từ các bản khác dịch sai trong khi Hoàng Khôi dịch đúng.

Bài Hải khẩu dạ bạc hữu cảm II. Câu đầu: Nhất biệt giang hồ sổ thập niên. Đào Duy Anh dịch: “Từ khi ra đi khoảng giang hồ đã mấy chục năm”. Hoàng Khôi dịch: “Rời chốn giang hồ mấy chục năm”. Nhất biệt giang hồ mà dịch là “từ khi ra đi khoảng giang hồ” là không đúng. Dịch như vậy sẽ làm sai lạc ý toàn bài. Nhất biệt giang hồ là “từ khi xa chốn sông hồ” như Hoàng Khôi dịch mới đúng. Nếu hiểu như vậy thì rõ ràng bài Nguyễn Trãi làm khi ông về ở ẩn.

Câu 2: Hải môn kim tịch hệ ngâm thuyền (Nơi cửa biển đêm nay buộc chiếc thuyền thơ), điều này cho thấy tác giả đã lâu không đi lại chốn sông hồ, đêm nay mới có dịp buộc thuyền ở cửa biển.

Một số thí dụ trên cho thấy Hoàng Khôi đã lý giải và dịch đúng nguyên tác. Ngoài những đóng góp trên trong bản dịch của Hoàng Khôi nhiều chỗ còn hạn chế do bản dịch giữ nguyên âm Hán Việt mà không dịch như: “ngư điếu” bài Giang hành; “liên hoa” bài Dục Thúy sơn; “điểu hô nhân” bài Đề sơn điểu hô nhân đồ; “sinh nhai tựa” bài Ký hữu; “tùng lâm”, “yến xung” bài Quá hải; “tiên tri”, “tự huyền cơ”, “nho giả”, “cao phong” bài Thiều châu văn hiến miếu; “Cửu nghi”, “bạch hạc” bài Ngô châu; “di phong”, “tinh biểu” bài Giang tây; “hoa chung” bài Thượng nguyên hỗ giá chu trung tác; “khách xá” bài Ký hữu… Những âm Hán Việt này không phải là những danh từ thông dụng mà lại là những kết hợp từ, nên việc không dịch ra tiếng Việt làm cho người đọc không hiểu được nghĩa bài thơ. Lại có một số bài dịch thơ không dịch ra tiếng Việt mà lại dịch ra những âm Hán Việt khác như bài Khuất nhân họa Côn Sơn đồ có từ “nhất ban tâm” (một tấm lòng) lại dịch thành “nét đan thanh”, có đúng nghĩa “nhất ban tâm” không? Phần chú thích không nói rõ nên người đọc rất băn khoăn, khó lý giải.

Một số trường hợp khác dịch không sát ý nguyên tác, thậm chí còn nhầm lẫn. Chẳng hạn, bài Thôn xã thu châm, câu 2: Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình, nghĩa là “Trong đêm trăng, người ở đất khách lâu năm riêng thấy lòng kinh sợ”. Hoàng Khôi dịch thành: “Đêm sáng tha hương, thắc mắc tình”. Dịch như vậy nếu người đọc không đối chiếu với nguyên tác thì rất dễ hiểu khác xa ý nghĩa nguyên bản. Bài Chu trung ngẫu thành II, câu 3: Ngư ca tam xướng yên hồ khoát, nghĩa là: “khúc hát ông chài cất lên ba lần, khói trên mặt hồ doãng ra làm mặt hồ rộng mênh mông”. Hoàng Khôi dịch thành: “Ca chài tiếng động, giòng thu gợn”. Dịch như vậy là chưa sát nguyên tác nhưng còn chấp nhận được, còn câu thứ năm trong bài này thì Hoàng Khôi đã hạ thấp khí phách của tác giả. Thanh dạ bằng hư quan vũ trụ (Giữa đêm thanh dựa vào khoảng hư không mà xem vũ trụ). Hoàng Khôi dịch thành: “Đêm sáng bao la nhìn vũ trụ”. Dịch như vậy người đọc sẽ hiểu đêm sáng (ngồi chỗ nào) cũng xem được vũ trụ. Trong câu thơ có hai từ rất quan trọng thể hiện khí phách của tác giả thì lại bị người dịch cắt bỏ. Đó là hai từ “bằng hư” (tựa vào hư không). Từ “hư” vừa có nghĩa là hư không, vừa là chỉ bầu trời trong cụm từ “bằng hư”, “không hư” (空 虛), “thái hư” (太 虛). Tựa vào hư không tức là tựa vào bầu trời. Con người phải tầm cỡ như thế nào thì mới tựa nổi vào bầu trời, người bình thường làm sao làm được điều đó.

Bài Đề kiếm, câu 2 viết: Thế sự huyền tri tại chưởng trung, nghĩa là: “Việc đời đã biết trước từ lâu rõ như trong lòng bàn tay”. Hoàng Khôi dịch thành: “Việc đã vào tay việc tất xong”. Thế còn những việc đời không vào tay thì có xong không? Trong nguyên tác nói rằng biết rõ từ lâu tất cả mọi việc trên đời chứ không chỉ biết có những việc khi đã vào tay mình.

Bài Hải khẩu dạ bạc hữu cảm câu đầu viết: Hồ hải niên lai hứng vị lan, nghĩa là “Mấy năm nay cái hứng hồ hải vẫn chưa hết”. Hoàng Khôi dịch thành: “Hồ hải ngày nay vẫn chửa nhàn”. Nguyên tác nói cái hứng hồ hải vẫn chưa hết, tức là cái hứng thú ngao du, rong chơi nơi biển hồ chứ không phải bận rộn, vất vả mà dịch thành vẫn chửa nhàn. Dịch như vậy là sai lạc quá nhiều với ý của nguyên tác.

Câu 2, bài Vãn lập: Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu, bản Hoàng Khôi dịch thành: “Hoàng lộ sơn hà thuộc mộ thu” và chú “Hoàng lộ” là một thứ cỏ thơm, còn khi dịch thì để nguyên là “hoàng lộ”. Chúng tôi xem trong Từ nguyên, Từ hải đều không thấy có từ “hoàng lộ”. Xem lại bản Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung, các bản mang ký hiệu VHv.1772, VHv.1948, A.131 và bản Toàn Việt thi lục ký hiệu A.3200 thì đều viết là “Hoàng lạc”. “Hoàng lạc” ở đây nên hiểu là lá vàng rơi. Vậy câu thơ trên nên dịch là: “Lá vàng rơi khắp núi sông báo cảnh thu tàn”. Câu 8, bài Vân Đồn, nguyên văn là: Đạo thị phiên nhân trú bạc loan, “phiên nhân” là người nước ngoài, người ở nước láng giềng, “trú” là đồn trú, đóng, “bạc” là đậu thuyền hay đổ thuyền, “loan” là vụng biển. Câu trên nên dịch là: “Nghe nói đấy là vụng biển do người nước ngoài vào đậu thuyền”. Hoàng Khôi dịch thành: “Nghe nói nam man trước ở cùng”. “Nam man” ở đâu ra? Thế còn các từ “trú bạc loan” bay đi đâu hết mà không được dịch?

Câu 1, 2 trong bài Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác:

Nhất biệt gia sơn khắp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.

Hoàng Khôi đã dịch:

Xa núi mười năm cảnh quạnh hiu
Cúc tùng phần lớn vẵn xanh đều.

Từ “gia sơn”, Từ hải giải thích: “Vị cố hương dã”, nghĩa là chỉ quê hương, cố hương, sao dịch lại thành núi? “Kháp thập niên” là vừa vặn mười năm sao lại dịch thành “cảnh quạnh hiu”? Từ “quy lai” (trở về) không được dịch, từ “tiêu nhiên” là tiêu sơ chứ không có nghĩa là xanh đều. Hai câu thơ trên nên dịch là:

Từ giã quê hương vừa đúng mười năm
Nay trở về, tùng cúc ở vườn cũ nửa phần đã tiêu sơ.

4. Về chú thích

Bản Hoàng Khôi rất ít chú thích, có rất nhiều chỗ cần chú thích cho rõ nghĩa thì không có, đôi chỗ có chú thích nhưng lại quá đơn giản. Vì thế người đọc có xem phần chú thích cũng không hiểu thêm được là bao, thậm chí còn những chỗ sai. Một số thí dụ: Bài Dục Thúy sơn, câu 7 có từ: “Trương Thiếu Bảo”, Hoàng Khôi chú thích là “một chức quan”. Làm gì có chức quan nào có từ đầu là “Trương”. Thực ra, Thiếu bảo là chức quan hàng nhị phẩm. Ở đây chỉ Trương Hán Siêu, người làng Phúc Am, Yên Khánh, Ninh Bình, nho thần đời Trần, được các vua tôn trọng làm bậc thầy. Ông làm quan đến chức Thiếu bảo. Bài Đề Bá Nha cổ cầm đồ có từ “Bá Nha” và từ “Chung Kỳ” cần phải chú thích thì không chú. Thực ra điển này nói rõ: Bá Nha là một người gảy đàn giỏi thời Xuân Thu (Trung Quốc), hôm gặp Chung Tử Kỳ, Bá Nha gảy đàn cho Chung Tử Kỳ nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến non cao mà gảy thì Tử Kỳ bảo: “Tiếng đàn cao vòi vọi, chắc chí ông đang ở chỗ non cao”. Khi Bá Nha nghĩ đến nước mà gảy thì Tử Kỳ bảo: “Tiếng đàn nghe cuồn cuộn, chắc ông đang để chí vào chỗ nước chảy”. Khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập nát đàn không gảy nữa, vì không có bạn tri âm. Bài Thái thạch hoài cổ có từ “Thái Thạch” và “lý trích tiên”, Hoàng Khôi chú là: “Thái thạch là quãng sông xưa Trích Tiên nhảy xuống ôm trăng”. Sông xưa là sông nào? Trích Tiên là ai? Đọc xong chú thích rồi vẫn không hiểu được. Thực ra Thái Thạch là tên một cái ghềnh / thác nước trên sông Trường Giang chảy ra phía tây bắc huyện Đương Đồ, tỉnh An Huy, Trung Quốc. Lý Trích Tiên là ông tiên bị biếm xuống trần họ Lý, chỉ Lý Bạch. Xuất phát từ điển tích: Hạ Tri Chương làm chức Thái sử tân khách đời Đường Minh Hoàng, lần đầu thoạt trông thấy Lý Bạch, nói rằng: “Đó là tiên bị đày xuống cõi trần”. Vì thế người sau thường gọi Lý Bạch là Lý Trích Tiên. Bài Ký hữu có các từ “Đỗ Lão”, “Vị bắc”, “Quản Ninh” cũng chú không rõ ràng. Từ “Đỗ Lão” Hoàng Khôi chú là người thời Đường. Đọc chú thích rồi vẫn không rõ “Đỗ Lão” đời Đường là ông nào? “Đỗ Lão” ở đây là chỉ Đỗ Phủ. Đúng ra là Lão Đỗ. Đỗ Phủ và Đỗ Mục là hai nhà thơ đời Đường đều nổi tiếng. Để phân biệt người ta gọi Đỗ Phủ là Lão Đỗ, gọi Đỗ Mục là Tiểu Đỗ. Từ “Vị bắc” Hoàng Khôi không chú thích. “Vị bắc” là chỉ bắc phía sông vị thuộc đất Hàm Dương. Lúc Đỗ Phủ lánh nạn tại đây có làm bài thơ Xuân nhật ức Lý Bạch (Ngày xuân nhớ Lý Bạch) có câu: Vị bắc xuân thiên thụ - Giang Đông nhật mộ vân, (Cây trời mùa xuân phía bắc sông Vị - Đám mây chiều phía đông Trường Giang). Từ “Quản Ninh”, Hoàng Khôi chú rằng: “Người thời Hán, tuy tới lánh nạn tại đất Liêu Đông nhưng vẫn nhớ quê”. Chú như vậy thì đúng nhưng chưa rõ. Quản Ninh là người nước Ngụy thời Tam Quốc. Cuối thời Hán ông tránh loạn Hoàng Cân sang Liêu Đông, người đi theo rất đông lập thành ấp. Ông đem thư thi lễ nhạc dạy cho họ. Sau loạn trở về, triều đình cho vời làm quan, ông không ra nhận chức. Có thể dẫn thêm rất nhiều trường hợp cần được chú thích như: Thao Giang, Bình Than, Trình Công, Thần tích, Tào Khê, Tầm Châu, Ngô Châu, Pha Lão, Đam Nhĩ, v.v. đều không được chú thích.

Tóm lại, Ức Trai thi tập trong Ức Trai di tập là một tác phẩm quý giá về nhiều mặt nên đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nhưng khám phá cho hết những cái hay cái đẹp về ngôn ngữ, thi pháp, nội dung, tư tưởng trong tác phẩm Ức Trai thi tập là một việc càng đi sâu tìm hiểu càng thấy mới lạ.

L.T

CHÚ THÍCH:

(1) Xem thêm các bản Ức Trai thi tập trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1772; VHv.1948; A.131; A.139.

(2) Trang Tử, Đài Loan cổ tịch xuất bản xã, 1997, tr.19.

TB

GIỚI THIỆU TẠ QUỐC BỬU - MỘT NHÀ THƠ ĐẤT GIÁ RAI BẠC LIÊU

TRẦN PHƯỚC THUẬN

Giá Rai là một vùng đất có nhiều thế mạnh ở tỉnh Bạc Liêu, không những là nơi có tiềm năng kinh tế rất mạnh, có tài nguyên phong phú đa dạng, một nơi đã từ lâu nổi tiếng với truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường, mà còn là nơi sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử văn hóa kiệt suất, trong số đó có Tạ Quốc Bửu - một nhà thơ, từng là Hội chủ của Thi đàn Giá Rai trong những năm đầu thế kỷ XX.

Ông nguyên là người Minh Hương họ Tạ tên Anh tự Quốc Bửu, hiệu là Tinh Anh, sinh năm Kỷ Mão (1879) tại thôn Láng Giài, làng Hòa Bình tổng Thạnh Hòa, thời điểm đó thuộc hạt Sóc Trăng, nhưng sau khi trưởng thành cuộc đời và sự nghiệp của ông đã gắn liền với vùng đất Giá Rai. Ông mất ngày 16 tháng 11 năm ất Dậu (1945) tại nơi sinh quán. Đã để lại cho đời một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, tác phẩm mang tên Tinh Anh thi tập với trên 600 bài thơ được chia thành 7 quyển, trong đó có cả các bản dịch thơ Đường và một số bài văn tế, câu đối do ông sáng tác.

Tạ Quốc Bửu có khiếu làm thơ từ lúc thiếu thời, không những làm thơ rất hay mà dịch thơ Đường cũng rất giỏi, gần xa đều biết tiếng, không những nơi quê hương của ông mà cả những địa phương xa cũng biết đến tài làm thơ và dịch thơ của ông. Trong số những người hâm mộ và có liên hệ với ông có những người rất nổi tiếng như Đồ Nam, Nguyễn Trung Hòa, Vũ Thượng Chi, Trần Thế Hanh, Dương Minh Chí, Nhiêu Tân, Tản Đà, Cao Hải Để... và nhiều nhà báo lớn lúc đó đã đến gặp ông để mời hợp tác như: Nguyễn Chánh Sắt (Chủ bút Nông cổ mím đàm), Nguyễn Tử Thức (chủ bút Lục tỉnh tân văn), Nguyễn Kim Đính (Chủ bút Đông Pháp thời báo)... Nhưng ông đều từ chối mọi sự hợp tác - không gửi một bài thơ nào đăng báo. Theo những người hiểu biết kể lại thì thơ của ông chủ yếu chỉ để ngâm vịnh với những người tri âm tri kỷ mà thôi. Điều này nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu đã xác định trên Đồng Nai văn tập số 6 - 1966 “Sáng tác của cụ rất phong phú, nhưng cụ chỉ trao qua cho bè bạn ngâm bình, đối họa chớ không mấy khi chịu đưa cho đăng”. Có lẽ vì vậy nên tác phẩm của ông mặc dù có nhiều nét độc đáo nhưng rất sớm bị mai một. Năm 1909 ông thành lập Thi đàn Giá Rai quy tụ rất nhiều thi nhân của xứ Bạc Liêu lúc bấy giờ, nhưng nhóm của ông cũng chỉ sinh hoạt trao đổi tác phẩm với nhau, không phổ biến rộng ra bên ngoài.

Sau khi ông qua đời, Tinh Anh thi tập do con cháu ông bảo quản - xem như một bảo bối của dòng họ Tạ. Tuy nhiên cũng có người cho rằng nếu cứ khư khư cất giữ thì sẽ có một ngày di vật này phải bị hư nát vì dù sao nó cũng chỉ là một quyển sách viết tay. Chính vì thế, Bác sĩ Hồ Văn Nhựt - một trong những thân nhân của ông đã giới thiệu Tinh Anh thi tập với nhóm Đồng Nai văn tập vào năm 1966; tiếp theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu viết một bài về Tạ Quốc Bửu đăng trên tạp chí này. Kể từ đó người ta mới biết ở tận vùng đất “nhiều láng nhiều lung” ở phương Nam có một thi nhân tiền bối mang hoài bão lớn, nhưng không tìm được hướng đi thích hợp, đành chôn chặt đời mình trong cái xứ cô liêu tịch mịch này.

Nhưng từ đó đến nay sách Tinh Anh thi tập cũng chưa được nghiên cứu và tên tuổi Tạ Quốc Bửu cũng dần dần bị lãng quên, hơn 600 bài thơ do ông sáng tác qua mấy mươi năm chiến tranh đã bị thất lạc. Người viết bài này may mắn sưu tập được một số bài thơ của ông, tuy với số lượng ít ỏi đó cũng đủ minh họa Tạ Quốc Bửu là một con người có chí khí thanh cao khi ông tự ví mình như chiếc gối “Đỡ đầu thiên hạ khỏi co tay”. Ông cũng giới thiệu mình là con người hữu dụng và có thực tài “Một lòng chất chứa lược thao đầy” và ông nói sẽ sử dụng cái tài năng ấy để “Giúp an già trẻ hồi nghiêng ngửa” hoặc “Ru khỏe tinh thần lúc tỉnh say”, nhưng rồi cái tài thao lược kia lại chẳng được đem ra thi thố. Mặc dù “Nợ lòng bốn biển cứ kêu đòi”, ông cứ mãi phân vân, chọn lựa mà vẫn không tìm được hướng đi. Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhiều người yêu nước chống Pháp đã nổi lên ở khắp nước ta, những con người sẵn sàng phơi gan trải mật để sống chết với kẻ thù thì có thừa, nhưng đối với ông chắc có lẽ chưa tìm được minh chủ nên ông đã tâm sự “Trí mưu đành thiếu người khua mõ, Tài đức chưa ra mặt trổi còi”. Vì vậy ông đành im hơi lặng tiếng để mà “Ngay thảo xuôi cho trời đất biết, Ruột gan này có quỷ thần soi”. Hoàn cảnh của ông lúc bấy giờ thật đúng là “Lỡ sanh cái lớp thằng cung kiếm, Xử sự dường như pháo nghẹt ngòi”.

Cuộc sống ẩn dật của ông bề ngoài xem như một người đã trút hết bụi trần ai, nhưng thật ra tâm tư của ông không lúc nào được thoải mái, vì cứ nhìn ra ngoài thì lại thấy nạn dân ách nước, ông luôn tự trách mình và ví mình như loài ốc bươu “Vỏ cứng bọc quanh hình vặn ngược, Vóc tròn uốn khúc ruột nằm co”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn của ông luôn có những lời nhắc nhở “Tấm thân hữu dụng ông trời phó, Cái tiếng phi thường miệng thế cho. Giúp kẻ mù mờ con mắt sáng, Liều mình chi tiếc nhúm tàn tro”.

Ông đã núp mình trong vỏ ốc nhưng luôn theo dõi thời cuộc, nhất là trong thời gian xảy ra thế chiến thứ I (1914 - 1918), nhiều thanh niên Việt Nam bị thực dân Pháp bắt đi làm “lính Tây Dương” ở các chiến trường châu Âu, phải bỏ lại con thơ, vợ yếu nơi quê nhà - trước cái nỗi đau vời vợi này ông chỉ biết thay lời những người ở lại mà nhắn nhủ “Kiếm cung mang tới non sông lạ, Gan ruột đừng quên đất nước mình”.

Nhìn cảnh vật điêu tàn trước mắt ông lại liên tưởng cái cảnh nước non đổi chủ -đang rơi vào tay thực dân Pháp “Cái cảnh này sao cảnh xác xơ, Cảnh mà vắng chủ cảnh bơ phờ”; thấy cảnh mà không thấy người - trước mắt ông chỉ có “Đầu tường rêu phủ trông mờ mịt, Cuối dạo tre ngăn vẻ lạt lờ” và nơi nào có bóng giặc đến thì người người phải rời bỏ xóm làng nhà cửa, chỉ còn lại “Thấp thoáng đèn trăng soi ảm đạm, Lập lòe lửa đóm rọi ơ hờ”. Ông không phải là người khinh thế ngạo vật, cũng không phải là người tầm đạo tu tiên, nhưng vì không làm được cái việc phỉ chí bình sanh nên đành vui với cảnh nghèo, vui với cái cảnh “Nhà dột ba gian trời đẻ trứng, Vách xiêu bốn phía nhện ru con” và dù cho có thiếu thốn đủ điều ông cũng luôn tự an ủi lấy mình “Quanh năm sẵn có đèn trăng đốt, Chẳng tháng nào không quạt gió lòn” và “Thêm cái phong lưu trời sẵn chứa, Đầy mâm ngọc lộ bữa ngon ngon”.

Kẻ thất chí thường về với thiên nhiên, ông cũng thế nhất là trong những năm tuổi đã xế chiều, ông thường cùng các thi hữu trong thi đàn ngâm vịnh trên những con thuyền nhỏ trên sông vào những buổi chiều tà “Trời chiều phẳng lặng nước trong veo, Nhẹ lướt trên sông một mái chèo”. Có khi trời gần tối nhưng thi hứng chưa vơi trước cảnh đẹp của buổi hoàng hôn thì nhóm ông cũng chẳng chịu quay thuyền “Sảm bóng kim ô tranh ráng dệt, Thích tình du tử cánh buồm treo”. Cả những đêm trăng thanh gió mát nhất là những đêm trung thu, ông và các bạn đều không bỏ lỡ cơ hội - thơ, rượu, người và thuyền luôn họp mặt với nhau để cùng vui vầy “Giữa tiệc một vài bầu rượu cúc, Trên sông ba bảy chiếc thuyền tô”, rồi cứ thế mà “Nhặt khoan chèo quế quanh vòng bích” để mang túi thơ bầu rượu lên đến tận cung Hằng “Cung Thiềm lên đó mới vui cho”.

Một trong những đặc điểm của Tạ Quốc Bửu là ông rất quí trọng bạn bè, nhất là những người bạn tri âm tri kỷ, ông nhớ bạn ví như người nào đó nhớ người yêu, cũng mong đợi cũng xốn xang, cũng nóng lòng để được tao phùng “Chờ người anh võ ly lên mốc, Ngóng bạn kỳ lân bút đóng meo”, còn nếu không gặp được bạn tri âm thì lòng đau quặn thắt “Nam bắc phanh phui gan ruột thốn” hoặc “Tháng ngày rượt đuổi ruột gan teo” và ông luôn mong ngày tao ngộ với bạn hiền “Sao cho một cửa đào liên lý” để mà “Thời giặc cảm hoài mới dẹp tiêu”. Ông luôn giữ chữ tín với bạn bè nếu đã hẹn dù đường xa bao nhiêu ông cũng đến “Nước non cách mấy dặm trời Liêu, Quẩy niếp treo yên thẳng một chiều” để rồi lòng sầu man mác khi giã biệt “Bận bịu nhớ khi câu giục gió, Kẻ về người ở cảnh buồn teo”.

Tạ Quốc Bửu là một nhà Nho nhưng có đầu óc tiến bộ, có tinh thần khoa học rất cao, không gò bó thủ cựu như những nhà nho đương thời. Mặc dù ông không ưa gì thực dân Pháp nhưng vẫn không phủ nhận những phát minh khoa học của họ, có lần đi xe lửa trên đoạn đường Sài Gòn - Mỹ Tho trong khoảng cuối thế kỷ XIX, ông cũng đã công nhận “Tới lui thấm thoát mau như nháy, Cơ khí đời nay thật phát minh”.

Ngoài những sáng tác thơ Nôm, Tạ Quốc Bửu còn có những dịch phẩm thơ Đường rất đặc sắc. Số lượng thơ Đường được cụ dịch ra rất nhiều, có một số được dịch theo thể Đường luật, có một số theo thể lục bát; tiếc rằng hiện nay chưa sưu tập được toàn bộ, chỉ mới sưu tập được các bài: Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu của Thôi Hạo), Nửa đêm ở bến Phong Kiều (Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế), Tiễn Nguyên Nhị đi sứ An Tây (Tống Nguyên Nhị sứ An Tây của Vương Duy), Cảnh xuân trên núi (Sơn phòng xuân sự của Sầm Tham)... Tuy nhiên qua nội dung các bản dịch này cũng đủ thấy rằng cụ dịch rất mềm mại, uyển chuyển nhưng rất sát nghĩa, lời thơ thật bình dị dễ nghe, không cầu kỳ khiên cưỡng; lối dịch của ông đã được Nguyễn Văn Hầu giới thiệu “Trong số các nhà thơ miền Nam lúc trước mà tôi được biết tiếng, tôi chưa từng nghe thấy có vị nào mê thích Đường thi hơn cụ Tinh Anh, từ Sơ Đường, Thịnh Đường tới Vãn Đường, cụ đều thuộc lòng rất nhiều bài thơ và do sự mê thích đó cụ cũng đã dịch được thơ Đường nhiều lắm. Nhưng mục đích dịch thơ của cụ thì có chỗ khác hơn thiên hạ, nếu các cụ Nguyễn Đôn Phục, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu dịch để cho được sảng khoái tinh thần, để làm chỗ tiêu khiển hay để kiếm ăn thì cụ dịch để có dịp tìm chữ xếp câu, để thông cảm cổ nhân, chớ không hề có ý định dịch để đưa lên mặt báo”(1).

Tạ Quốc Bửu quả thật là một nhà thơ có nhiều điểm đặc biệt, một người “sinh bất phùng thời” bị bế tắc trước thời cuộc, có lối sống gần như một ẩn sĩ, mặc dù có tài nhưng không biết sử dụng vào đâu, lại không muốn dương danh với đời, cả các sinh hoạt của thi đàn Giá Rai vào những thập niên đầu thế kỷ cũng mang dáng vẻ sinh hoạt của Trúc Lâm thất hiền thời trước, có lẽ vì thế nên biết bao tác phẩm hay, nhiều bài thơ hiếm có đã bị vùi chôn vào dĩ vãng. Riêng về Tinh Anh thi tập của Tạ Quốc Bửu, nếu không được thân nhân của ông khéo giữ gìn bản thảo và Bác sĩ Hồ Văn Nhựt đem công bố một số bài thơ của ông với nhóm Đồng Nai văn tập thì hôm nay có lẽ tác phẩm nghệ thuật độc đáo này cũng đã bị vùi lấp trong cát bụi thời gian.

Người viết bài này cũng không có đầy đủ tư liệu về Tinh Anh thi tập và cũng không hiểu biết nhiều về tác giả này, mà chỉ ghi chép lại những điều sưu tập được để giới thiệu một thi nhân tiền bối ở tỉnh nhà, mong rằng những người lớn tuổi ở Giá Rai (hoặc ở địa phương khác) có giữ gìn tư liệu hoặc hiểu biết về cuộc đời của nhà thơ này xin tiếp tục công bố để chúng ta cùng nhau được biết thêm về Tạ Quốc Bửu - một nhà thơ tiền bối của đất Giá Rai, Bạc Liêu.

Mấy bài dịch thơ Đường của Tạ Quốc Bửu:

LẦU HOÀNG HẠC
Hạc vàng tiên cỡi đã bao giờ
Chốn ấy chỉ còn lầu hạc trơ !
Phút chốc hạc vàng bay thấm thoát
Ngàn năm mây trắng nổi lơ thơ !
Hán Dương sông cách cây vòi vọi
Anh Vũ bãi liền cỏ phất phơ
Dầm ngấm tranh chiều quê quán khuất
Trên sông khói sóng khách buồn vơ !
(Dịch bài thơ Z Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu).

CẢNH XUÂN Ở NHÀ TRÊN NÚI
Vườn Lương ngày tối quạ bay đầy
Nhà cửa trong còn ít nóc đây
Cây cỏ chưa hay người bỏ vắng
Xuân về bông trái cũng vung say
(Dịch bài thơ Sơn phòng xuân sự của Sầm Tham).

NỬA ĐÊM Ở BẾN PHONG KIỀU
Quạ kêu trăng lặn giọt sương đầy
Lửa điếu sông bàng chọi giấc ngây
Hàn tự Cô Tô bao dặm cách
Nửa đêm chuông gióng dội thuyền đây.
(Dịch bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế).

ĐƯA NGUYỄN NHỊ ĐI SỨ AN TÂY
Mưa mai thành Vị sạch bon
Xanh um trước quán, liễu khoe mày
Khuê anh cạn chén rượu đào
An Tây tới đó người nào đâu quen !
(Dịch bài thơ Tống Nguyên Nhị sứ An Tây của Vương Duy).

T.P.T

CHÚ THÍCH:

(1) Nguyễn Văn Hầu: Đồng Nai văn tập số 6 - 1966, tr.23.

TB

TẤM BIA ĐỜI LÝ
TẠI HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

PHẠM VĂN THẮM

Trong Thông báo Hán Nôm học năm 2000, chúng tôi đã bước đầu giới thiệu về hình thức và đôi nét về nội dung của tấm bia đời Lý mới tìm thấy tại nghè thôn Tế Độ, xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa(1). Nay chúng tôi xin giới thiệu tiếp toàn văn bài văn khắc trên bia để bạn đọc tham khảo.

明 淨 寺 碑 文

大 越 國 時 李 家 第 四 葉 重 光。權 知 清 化 寨 崇 儀 使 黃 慶 文 啟 建 。白 蓮 沙 彌 善 覺 撰。

原 夫! 虛 豁 太 空 靡 過 虖 如 如 性; 包 含 萬 有 莫 曰 虖 湛 湛 根 源 。化 伍 氣 於 未 形 ; 冠 貳 儀 於 罔 象 。推 移 捌 索,類 就 而 方 , 群 分 而 物 則 因 庖 氏 之 風 : 軋 肆 道 者 尃 壹 氣 能 生 河 ; 洛 伍 遍 者 應 千 而 誕 聖 。 故 有 覺 皇 者 出 興 于 , 恆 星 匿 而 沸 宿 預 輝 。天 宮 雨 柒 寶 妙 花 ; 海 龍 灌 琉 璃 香 水 。拾 方 洞 徹 ; 覺 齎 端 。勸 轉 法 輪 ; 敷 吉 祥 座 。神 光 奕 ; 妙 用 遍 周 。揚 捌 辯 之 舌 掩 大 千 ; 集 乘 而 牢 籠 覺 海 。重 重 天 子 擎 樓 閣 而 信 壇 波 ; 處 處 國 王 捨 祇 園 而 應 宗 奉 。化 城 親 臨 寶 地, 窮 子 遇 大 衣 珠 。順 請 波 旬 誼 鶴 林 而 我 淨 天 龍 湊 。收 舍 利 而 樹 浮 圖 摩 騰 現 質 漢 明; 光 隆 梵 剎 即 我 權 知 清 化 寨 崇 儀 使 黃 慶 文 緬 想 。大 雄 垂 祐 ; 孔 盛 資 身 。

欽 惟 : 仁 聖 洪 恩 , 承 規 佐 命。審 自 聖 宗 仁 孝 文 武 皇 帝。 世 者: 啟 迪 鴻 運 ; 光 御 慶 基 。玄 默 為 神 乃 捌 方 之 忻 戴 ; 廟 戰 有 則 , 應 天 下 之 文 明 。 金 石 潤 英 ; 雅 詞 必 史 。 神 智 蕩 蕩 而 刑 于 四 海 ; 仁 風 穆 穆 而 草 偃 黎 元 ; 野 不 遺 而 忠 良 遂 顯 。

公 者 謨 迥 陸 韜 ; 計 同 柒 縱。 奉 聖 朝 而 克 儉, 守 黑 之 機; 逸 佳 客 而 竭 孝 竭 慈, 田 文 並 志 。 可 以 為 亂 臣 之 道; 可 以 為 祈 父 之 心 。 金 籙 有 名; 屆 明 皇 重 。 封 爵 , 定 邊 州 而 權 行 虎 士,虎 士 欽 崇; 撫 遼 獠 而 遼 獠 稱 和 , 府 頻 入 貢 。 風 光 而 聲 揚 天 外, 遐 邇 從 之; 驍 貴 而 族 姓 多 端, 綺 羅 妙 質 。 所 謂 生 生 受 識 難 。 二 聖 蓼 蕭 , 歸 向 妙 門, 方 資 巨 澤 。 是 以 , 公 竊 世 懲 而 有 暇 整 馬 艇 , 利 涉 大 川, 方 于 多 別 清 江 , 陟 彼 高 岸,遘 往 時 如 來 駐 錫,安 心 。 茂 草 蓮 天, 禪 基 圮 沒。 厥 乃 芟 者 洗 者 ; 荊 棘 之; 採 者 伐 者 梓 杞 集 之 工 匠 雪 斧 , 不 日 成 之 。 龍 宮 地 湧 懸 星 作 枓 , 偃 月 為 梁 , 會 五 彩 聖 者 儼 然 而 蓮 汙 現 矣 。 阿 逸 多 純 金 色 相 加 敷 座 獅 子 猊 臺。

寅 昏 雨 優 而 雞 骼 頻 紛 ; 常 景 扣 磬 聲 而 苾 芻 練 行 。 聞 之 即 迷 懵 爽 見 之 即 繁 慮 忘 。 三 界 津 梁 以 何 窮 ; 六 趣 智 燈 常 光 照 。 用 先 天 率 陀 遍 性, 休 滯 愛 河 , 資 祈 我 后 , 大 定 皇 綱 , 明 萬 壽 量 , 周 圓 勝 果 。

未 修 塔 , 記 雙 文 , 豈 料 床 前 牛 。 難 久 浮 生 , 秋 風 忽 送 , 歌 怨 薤 露 。 洎 有 驍 兒 崇 班 黃 承 爾 , 英 武 勝 通 , 名 臻 百 辟 , 保 溫 良 統 , 師 旅 守 壹 節 而 輔 。蓋 高 行 不 踰 矩, 貴 賤 稱 情, 語 不 殤 人 可 謂 孝 矣。

嗚 呼 ! 望 九 嶷 而 哀 哀 棘; 懷 篇 而 耿 耿 情 圖 。 若 不 在 而 當 闡 墳 陵 ; 比 青 篤 而 闡 其 影 嚮 。 釋 冠 素 餘 二 種 而 須 整 莫 , 當 其 豈 敢 服 言, 旁 求 士 釋 , 撰 清 於 永 貽 于 聞 。 嚴 堵 波 於 縛 室 寶 街, 追 進 故 考 而 浪 識 飄 流 , 遄 歸 拾 地 。 親 緣 橖 棣 或 在 不 在 而 僉 沐 善 因 超 登 淨 土 。 離 苦 海 中 , 福 履 綏 之 。

嵩 華 期 壽 , 覺 位 忝 清 流 , 身 叨 朝 服 。 截 海 教 而 素 淺 文 。 河 而 匪 深 , 愧 無 絲 色 之 才 , 憚 紀 古 今 嘉 瑞 。 頌 曰 ﹕

高 明 隆 啟 ; 厚 載 方 凝 。

成 象 日 月 ; 成 形 丘 陵 。

伍 常 佳 備 ; 三 才 永 興 。

雄 哉 正 覺 ; 妙 相 無 窮 。

舒 遍 法 界 ; 藏 攝 毛 中 。

普 灑 甘 雨 ; 根 並 豐 。

山 比 仁 壽 ; 海 比 家 風 。

巍 巍 蕩 蕩 ; 捌 表 興 隆 。

劣 當 悟 解 ; 勝 者 重 逢 。

鬲 子 千 重 障;登 地 釋 邪 聲 。

迢 迢 經 萬 古;刊 石 永 流 通 。

匠 人 蘇 延 太 鑿 , 匠 人 黃 布 黃 紹 等 構 造 。

信 受 禪 師 釋 義 常 書 。

權 寺 主 釋 法 良 。

住 持 寺 主 釋 惠 朗 。

同 知 清 化 寨 內 殿 崇 班 黃 承 爾 補 立 。

供 三 寶 田 壹 畝 。

廣 祐 陸 年 歲 次 庚 午 仲 春 拾 伍 日 樹 。

Phiên âm:

MINH TỊNH TỰ BI VĂN

Đại Việt quốc thời Lý gia đệ tứ diệp trùng quang.

Quyền tri Thanh Hóa trại Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn khải kiến.

Bạch Liên sa di Thiện Giác soạn.

Nguyên phù!Hư khoát thái không mị quá hồ như như bản tính; bao hàm vạn hữu mạc viết hồ trạm trạm căn nguyên. Hóa ngũ khí ư vị hình; quán nhị nghi ư võng tượng. Suy di bát sách, loại tựu nhi phương, quần phân nhi vật. Tắc nhân Bào thị chi phong: càn tứ đạo giả chuyên nhất khí năng sinh hà; lạc ngũ biến giả ứng thiên niên nhi đản thánh. Cố hữu Giác hoàng giả xuất hưng vu thế, Hằng tinh nặc nhi Phí túc dự huy. Thiên cung vũ thất bảo diệu hoa, hải long quán lưu ly hương thủy. Thập phương động triệt, tam Giác tề đoan. Khuyến chuyển pháp luân, phu cát tường tọa. Thần quang hách dịch, diệu dụng biến chu. Dương bát biện chi thiệt yểm Đại Thiên; tập Tam thừa nhi lao lung Giác hải. Trùng trùng Thiên tử kình lâu các nhi tín đàn ba, xứ xứ Quốc vương xả Kỳ Viên nhi ứng tông phụng. Hóa Thành thân lâm bảo địa, Cùng tử ngộ đại y chu. Thuận thỉnh Ba Tuần nghị Hạc Lâm nhi ngã Tịnh thiên long cạnh tấu. Thu sá lỵ nhi thụ phù đồ, Ma Đằng hiện chất ư Hán Minh; quang long phạn sái tức ngã Quyền Tri Thanh Hóa trại Sùng nghi sứ Hoàng Khánh Văn miến tưởng. Đại Hùng thùy hựu, khổng thịnh tư thân.

Khâm duy: Nhân thánh hồng ân, thừa qui tá mệnh. Thẩm tự Thánh Tông nhân hiếu văn vũ Hoàng đế. Thế giả: khải địch hồng vận, quang ngự khánh cơ. Huyền mặc vi thần nãi bát phương chi hân đái; miếu chiến hữu tắc, ứng thiên hạ chi văn minh. Kim thạch nhuận anh; nhã từ tất sử. Thần trí đãng đãng nhi hình vu tứ hải; nhân phong mục mục nhi thảo yển lê nguyên. Vật khâm hữu đạo nhi gia thụy tần chương; dã bất di hiền nhi trung lương toại hiển.

Công giả mô quýnh lục thao, kế đồng thất túng. Phụng thánh triều nhi khắc cần khắc kiệm, thủ hắc chi cơ; dật giai khách nhi kiệt hiếu kiệt từ, Điền Văn tịnh chí. Khả dĩ vi loạn thần chi đạo; khả dĩ vi kỳ phụ chi tâm. Kim lục hữu danh; giới minh hoàng trọng. Phong tước trật, định biên châu nhi quyền hành hổ sỹ, hổ sỹ khâm sùng; phủ liêu lạo nhi liêu lạo xưng hòa, phủ tần nhập cống. Phong quang nhi thanh dương thiên ngoại, hà nhĩ tòng chi; kiêu quí nhi tộc tính đa đoan, ỷ la diệu chất. Sở vị sinh sinh thụ thức nan đáp. Nhị thánh lục tiêu, qui hướng diệu môn, phương tư cự trạch. Thị dĩ công thiết thế trừng nhi hữu hạ chỉnh mã đĩnh, lợi thiệp đại xuyên, phương vu đa biệt thanh giang, trắc bỉ cao ngạn, cấu vãng thời Như Lai trú tích, an bát thê tâm. Mậu thảo liên thiên, thiền cơ tỵ một. Quyết nãi sam giả tẩy giả, kinh cức điễn chi; thái giả phạt giả, tử khởi tập chi. Công tượng huy tuyết phủ, bất nhật thành chi. Long cung địa dũng huyền tinh tác củ, yển nguyệt vi lương, hội ngũ thái, thánh giả nghiễm nhiên nhi liên ô hiện hĩ. A Dật Đa thuần kim sắc tướng, gia phu tọa sư tử nghê đài.

Dần hôn vũ ưu bát nhi kê cách tần phân; thường cảnh khấu khánh thanh nhi bật sô luyện hành. Văn chi tức mê mộng sảng; kiến chi tức phiền lự vong. Tam giới tân lương dĩ hà cùng; lục thú trí đăng thường quang chiếu. Dụng đáp tiên thiên, suất đà biến tính, hưu trệ ái hà, tư kỳ ngã hậu, đại định hoàng cương, minh vạn thọ lường, chu viên thắng quả.

Vị tu tháp, ký song văn, khởi liệu sàng tiền ngưu đấu. Nan cửu phù sinh, thu phong hốt tống, ca oán giới lộ. Ký hữu Kiêu nhi Sùng ban Hoàng Thừa Nhĩ, anh vũ thắng thông, danh trăn bách bích, bảo ôn lương thống, sư lữ thủ nhất tiết nhi phụ. Cái cao hạnh bất du củ, quí tiện xưng tình, ngữ bất thương nhân, khả vị hiếu hĩ.

Ô hô ! Vọng Cửu Nghi nhi ai ai cảo cức; hoài chúc thiên nhi cảnh cảnh tình đồ. Nhược bất tại nhi đương xiển phần lăng; tỷ thanh đốc nhi xiển kỳ ảnh hưởng. Thích quan tố tất, dư nhị chủng nhi tu chỉnh mạc từ, đương kỳ khỉ cảm phục ngôn, bàng cầu sỹ thích, soạn thanh từ ư vĩnh di vu văn. Nghiêm đồ ba ư phọc thất bảo nhai, truy tiến cố khảo nhi lãng thức phiêu lưu, thuyên qui thập địa. Thân duyên đường lệ hoặc tại bất tại nhi thiêm mộc thiện nhân, siêu đăng Tịnh Thổ, ly khổ hải trung, phúc lý tuy chi.

Tung hoa kỳ thọ, Giác vị thiêm thanh lưu, thân thao triều phục. Tiệt hải giáo nhi tố thiển bằng văn. Hà nhi phỉ thâm, quí vô ty sắc chi tài, đạn kỷ cổ kim gia thụy.

Tụng viết:

Cao minh long khải,

Hậu tải phương ngưng.

Thành tượng nhật nguyệt,

Thành hình khâu lăng.

Ngũ thường giai bị,

Tam tài vĩnh hưng.

Hùng tai chính giác,

Diệu tướng vô cùng.

Thư biến pháp giới,

Tàng nhiếp mao trung.

Phổ sái cam vũ,

Tam căn tịnh phong.

Sơn tỷ nhân thọ,

Hải tỷ gia phong.

Nguy nguy đãng đãng,

Bát biểu hưng long.

Liệt đương ngộ giải,

Thắng giả trùng phùng.

Cách tử thiên trùng chướng,

Đăng địa thích tà thanh.

Thiều thiều kinh vạn cổ,

San thạch vĩnh lưu thông.

Tượng nhân Tô Diên Thái tạc

Tượng nhân Hoàng Bố, Hoàng Thiệu đẳng cấu tạo.

Tín thụ Thiền sư Thích Nghĩa Thường thư.

Quyền tự chủ Thích Pháp Lương, Trụ trì tự chủ Thích Huệ Lãng.

Đồng Tri Thanh Hóa trại Nội điện Sùng ban Hoàng Thừa Nhĩ bổ lập.

Cúng Tam bảo điền nhất mẫu.

Quảng Hựu lục niên tuế thứ Canh Ngọ trọng xuân thập ngũ nhật thụ.

Dịch nghĩa:

BÀI VĂN KHẮC TRÊN BIA CHÙA MINH TỊNH

Đời vua thứ 4 nhà Lý(2) nước Đại Việt trị vì. Quyền tri Thanh Hóa trại(3) Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn khởi xướng việc xây [chùa].

Sa Di(4) Bạch Liên [hiệu] Thiện Giác soạn [bài văn bia].

Than ôi ! [bầu trời] dù bao la rộng lớn cũng không thể lớn hơn bản tính chân như(5) [của nhà Phật]; [vũ trụ] dẫu bao chứa muôn loài cũng không thể nói đó có nguồn gốc thẳm sâu(6). [Chính phép Phật] đã phân hoá năm khí(7) khi chúng chưa thành hình; bao trùm trời đất lúc chúng chưa có dạng. Suy diễn bát quái(8) thì thấy sự vật được gom lại thành hình loại, hoặc chia tách thành đàn bầy(9). Vậy theo phong điệu của họ Bào(10), trời chuyển vần theo bốn hướng(11) sinh ra sông; nước(12) qua năm lần biến đổi ứng hàng nghìn năm mà sinh bậc Thánh(13). Cho nên, khi Giác hoàng(14) ra đời thì sao Hằng(15) lẩn khuất, sao Phí(16) rạng lây. Trên thiên cung mưa xuống thất bảo(17) diệu hoa, rồng dưới biển phun lên nước lưu ly thơm ngát(18). Mười phương thấu triệt, người theo đạo Phật(19) khuyên nhau truyền bá phép Phật, nên khi ngồi Thiền(20), ánh thiêng ngời chói, linh nghiệm khắp nơi. Nêu tài hùng biện(21) áp chế Đại Thiên(22); hội tập Tam thừa(23) [do đó] đức nhà Phật trở nên sâu rộng như biển cả(24). Vì thế, lớp lớp Thiên tử dựng lên lầu gác [để thờ Phật], khiến cho việc lập đàn tế lễ như sóng nhô lan toả; khắp nơi Quốc vương rời Kỳ Viên(25) để phụng thờ theo Phật. [Bước đến] Hóa Thành(26), chính mình được sống nơi bảo địa(27). Cùng tử(28) may được mặc áo có viên ngọc(29), xin với Ba Tuần(30), kết giao chốn Hạc Lâm(31), nên cõi cực lạc là nơi tụ hội của rồng trời(32). Ngài Ma Đằng(33) dựng tháp, thu sá lỵ đã gây được niềm tin với Hán Minh Đế(34); quan Quyền tri Thanh Hóa trại Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn nhớ ân đức của Phật mà làm đẹp cảnh chùa.

Kính nghĩ: Bậc nhân thánh ân lớn, vâng mệnh kế nghiệp. Xét từ Thánh Tông nhân hiếu văn vũ Hoàng đế, [các vua] mở vận lớn ở đời, nắm giữ ngôi báu, trầm tĩnh lặng lẽ, muôn phương vui mừng đội ơn. [Xã tắc] tông miếu có qui củ, vũ bị có kế sách, thật xứng đáng với nền văn minh trong thiên hạ. [Lại cho] dựng bia, [đúc] chuông, soạn lời văn hay để lưu lại. Trí tuệ [của nhà vua] uyên bác làm khuôn mẫu cho bốn biển, lòng nhân hậu hiền hòa nên dân lành thuận theo. Muôn vật đều kính trọng người có đức độ, nếp hay càng tỏ; người tài nơi đồng nội không bỏ sót, tướng giỏi tôi trung đều được hiển danh.

Ông là người trù tính sâu xa như sách Lục thao(35), mưu lược giống như chuyện bảy lần thả giặc(36). Khi phụ giúp thánh hiền thì siêng năng cần kiệm, biết vì sao không nên khoe mẽ bản thân(37); khi về nghỉ thì hết lòng thờ cha kính mẹ, theo chí hướng Điền Văn(38). Có thể nói đó là đạo lý của bề tôi xây nền thịnh trị, là tấm lòng của kẻ làm quan(39). Ông được vua ban chiếu báu, tên tuổi rạng rỡ. Tước trật vua phong vì có công ổn định miền biên, [cất nhắc] cho cai quản hổ sỹ(40), hổ sỹ kính phục; đi phủ dụ Liêu Lạo(41), Liêu Lạo đến cầu hòa, xin được triều cống. Danh tiếng của ông lừng lẫy trong thiên hạ, xa gần đều qui phụ theo; là bậc quí hiển trong hàng tướng giỏi, nhưng đối với họ hàng thì rất khắt khe. Tuy quyền cao chức trọng, nhưng công dưỡng dục của mẹ cha thì lại chưa báo đáp được nhiều. Hai vị thánh vương ban ân đã cho ông qui theo đạo Phật, đó mới là phúc lớn. Vì thế, ông nghĩ ở đời phải biết tự lo liệu, khi rỗi đã sắm soạn ngựa thuyền, vượt qua thác ghềnh(42), tới được dòng trong, bước lên bờ cao, đến được nơi Phật Như Lai dừng chân nghỉ lại(43). [Nơi đây] cỏ tốt ngập trời, nền chùa đổ nát, ông bèn cho người phát chặt cỏ cây, thu dọn gai góc, kẻ tìm cây, kẻ đẵn gỗ, gỗ quí được chuyển về. Rồi tập hợp thợ nề, thợ mộc dựng lại chùa, công việc chẳng mấy chốc hoàn thành. Ngôi chùa như tòa long cung nguy nga, sừng sững trên mặt đất, các đấu trụ tựa sao trời, vì kèo như vành trăng treo. Bậc thánh sắc vẻ tôn nghiêm, hiện trên đài sen, tượng A Di Đà sơn son rực rỡ, lại [đặt] thêm đài nghê, tòa sư tử(44).

Tháng giêng mưa nhiều, sen xanh nở hoa, hương thơm ngào ngạt, tiếng khánh vọng vang, nhà sư(45) đọc kệ. Người nghe tiếng như tỉnh cơn mê, người trông thấy muôn phiền đều hết. Trong tam giới(46) đâu là cầu bến, đèn lục thú(47) vẫn thường tỏ soi, để báo đáp ơn trời, thuận theo tính Phật, ngăn sự trễ nải, yêu cảnh non sông, cầu mong vua ta ổn định rường mối, sống lâu muôn tuổi hưởng phúc vẹn toàn.

[Thế nhưng] tháp chưa được sửa, văn chưa được soạn, nào ngờ ông lâm bệnh nặng(48), kiếp phù sinh khó giữ, gió thu vội tiễn, lời ai oán buồn thương. Kiêu nhi(49) là Sùng ban Hoàng Thừa Nhĩ nổi danh võ nghệ, quân sỹ một lòng phụ giúp, nên kỷ cương được yên. Bởi lẽ đức hạnh dẫu cao nhưng không vượt qua khuôn phép, kẻ sang người hèn đều khen ông là người có tình. Lời nói không làm thương tổn lòng người, đó mới gọi là hiếu hạnh.

Than ôi ! bái vọng Cửu Nghi(50) mà thương cây gai héo; ngẫm công dưỡng dục mới hiểu thấu tình đời. Tuy ông không còn, nhưng cũng nên làm rạng tỏ danh tiếng và ảnh hưởng của người đã khuất. [Bần tăng] là người tu hành với tấm lòng thành kính(51), trước việc cần phải nêu cho đầy đủ và trọn vẹn công đức của ông thật cũng không dám chối từ. [Bèn] tìm hỏi thêm các bậc thức giả và nhà sư [rồi] soạn bài văn để truyền lại cho đời. [Làm] trang nghiêm cây tháp ở nơi thờ, dâng cúng người đã khuất(52), [để] linh hồn [của ông](53) phảng phất, ẩn hiện nơi đâu [rồi] cũng sẽ trở về đất Phật(54). Thân duyên(55) gắn kết như anh em(56) khi tỏ khi mờ đều được tắm gội nhân lành(57), siêu thăng nơi Tĩnh Thổ(58), rời xa biển khổ, yên hưởng phúc lành.

Mong rằng [danh tiếng của ông] như núi non(59) còn mãi, vị thế [của ông] trong giới Phật(60) càng thêm vẻ vang.

[Bần tăng] đã lại lạm dự vào công việc của đình thần, muốn chắn biển để thuyết giáo, nhưng hiềm không thể dựa hết vào lời văn. Sông tuy không sâu, nhưng chỉ thẹn không có chút tài, run sợ chép lại những điều tốt lành xưa nay.

Lời tụng rằng:

[Trời] cao sáng mở vận,

[Đất] dày chứa muôn loài.

Tạo nên vầng nhật nguyệt,

Thành hình gò đống lăng.

Ngũ thường(61) đủ nếp đẹp,

Tam tài(62) luôn phồn vinh.

Lớn lao theo đạo Phật(63),

Tượng pháp đẹp vô cùng.

Giáo lý truyền rộng khắp,

Che chở vạn muôn người.

Mưa ngọt tưới đều khắp,

Tam căn(64) đều tốt tươi.

Đức hạnh cao ngang núi,

Nếp nhà sánh biển khơi.

Nguy nga núi sông rộng,

Muôn phương đều phồn vinh.

Điều dở nên cắt bỏ,

Nếp hay không để lơi.

Vượt qua ngàn trùng chướng,

Đến chùa bỏ điều tà.

Xa xôi trải muôn thuở,

Khắc bia truyền đời sau.

Thợ đá Tô Diên Thái tạc bia.

Hoàng Bí, Hoàng Thiều dựng bia.

Tín thụ Thiền sư Thích Nghĩa Thường viết chữ.

Quyền chủ chùa Thích Pháp Lương.

Chủ chùa trụ trì Thích Huệ Lãng.

Đồng Tri Thanh Hóa trại Nội điện Sùng ban Hoàng Thừa Nhĩ phụ giúp dựng bia.

Bia dựng ngày 15 tháng 2 năm Canh Ngọ niên hiệu Quảng Hựu 6 (1090).

Trên đây là toàn bộ văn bản gồm có phần chép lại nguyên văn chữ Hán, phần phiên âm và dịch nghĩa. Bài văn khắc trên bia rất khó, vì có nhiều điển cố và từ cổ, chưa kể có chữ khắc trên bia đã mòn, mờ, không dễ khôi phục lại cho thật chính xác. Chúng tôi đã cố gắng tra cứu, và cũng nhận được nhiều gợi ý của đồng nghiệp nhưng chắc không tránh khỏi sai sót, mong bạn đọc góp ý thêm, khi có dịp chúng tôi sẽ sửa chữa lại để bản dịch được hoàn chỉnh thêm.

P.V.T

CHÚ THÍCH:

(1) Xem bài: Một tấm bia đời Lý mới phát hiện tại huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, in trong Thông báo Hán Nôm học năm 2000. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 2001. tr. 472-477.

(2) Dịch từ 李 家 = Lý gia. Cụm từ 李 家 thường được ghi trên hiện vật thời Lý. Chẳng hạn:

Hai ông Phạm Đình Hổ - Nguyễn án, khi viết về tháp Báo Thiên, cho biết năm Giáp Dần (1791), khi đào lấy gạch, đá [ở chân tháp] để tu bổ thành Thăng Long, đã thấy các viên gạch hoa có chữ 李 家 第 三 帝 龍 瑞 太 平 四 年 造 = Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo. (Tang thương ngẫu lục: A. 218).

Bezcier, một học giả ở trường Viễn đông Bác cổ Pháp cho biết đợt trùng tu chùa Phật Tích năm 1937-1940, đã tìm thấy nền móng cũ của ngôi chùa. Tại đây, có những viên gạch ghi dòng chữ Hán李 家 第 三 帝 龍 瑞 太 平 四 年 造 = Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo (1057). 李 家 第 三 帝 璋 聖 嘉 慶 七 年 造= Lý gia đệ tam đế Chương Thánh Gia Khánh thất niên tạo (1065). (Dẫn theo Hoàng Văn Khoán. Vài nét về kiến trúc thời Lý. Kỷ yếu hội thảo khoa học Lý Công Uẩn và vương triều Lý. Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội. H. 2000).

Khai quật một di tích ở núi Chương Sơn thuộc huyện ý Yên tỉnh Nam Định, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nền móng tháp Vạn phong hành thiện. Tại nền móng tháp, có nhiều viên gạch ghi dòng chữ Hán李 家 第 四 帝 龍 浮 元 化 五 年 造 = Lý gia đệ tứ đế Long Phù Nguyên Hóa ngũ niên tạo (1105). (Các viên gạch này đang được bảo quản tại Nhà bảo tàng tỉnh Nam Định).

Khai quật một di tích ở núi Mẫu Sơn thuộc thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nền móng tháp Tường Long. Tại móng tháp nhiều viên gạch có dòng chữ Hán李 家 第 三 帝 龍 瑞 太 平 四 年 造 = Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo (1057). (Xem thêm: Đình Kính - Lưu Văn Khuê: Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch. Nxb. Hải Phòng. 1997).

Cuối năm 2001, Bảo tàng lịch sử Việt Nam tiến hành khai quật di tích chùa Đọi đã phát hiện ra nền móng tháp Sùng thiện diên linh. Tại móng tháp có những viên gạch ghi dòng chữ Hán李 家 第 四 帝 龍 浮 元 化 五 年 造 = Lý gia đệ tứ đế Long Phù Nguyên Hóa ngũ niên tạo (1105). (các viên gạch này hiện đang được lưu giữ tại Nhà bảo tàng tỉnh Hà Nam).

(3) Thanh Hóa trại: theo Đại Việt sử ký toàn thư năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên (1010), Lý Công Uẩn đã cho đổi 10 đạo thành 24 lộ, riêng châu Hoan, châu Ái gọi là trại. Theo Cương mục (Chính biên. q.21) năm Thiên Thành 2 (1029) đổi trại làm phủ Thanh Hóa. Chữ “Hóa” viết là 化. Đời Trần, năm Nguyên Phong 6 ((1256) lại đổi làm trại. Đời Thiệu Phong (1341-1358) đổi làm lộ. Năm Quang Thuận 7 (1466), đặt Thừa tuyên Thanh Hóa (清 化). Theo Đại Nam nhất thống chí, năm Quang Thuận 10 (1469), Thừa tuyên Thanh Hóa đổi làm Thừa tuyên Thanh Hoa. Chữ Hoa viết là (華). Năm Thiệu Trị 3 (1843), đổi tên Thanh Hoa 清 華 làm Thanh Hóa 清 化.

(4) Sa di 沙 彌: phiên âm tiếng Phạn, chỉ người mới xuất gia tu Phật.

(5) Chân như: dịch từ “như như 如 如”, từ nhà Phật chỉ đạo pháp huyền diệu, trọn vẹn nhưng không ngưng đọng mà hòa tan.

(6) Đoạn này mô tả tính chất huyền diệu của đạo Phật. Khi có người hỏi về “đạo”. Mâu Tử đã trả lời: “Bốn phương là to rộng mà nó còn bao trùm cả bên ngoài. Tơ hào là bé nhỏ mà nó còn lọt thỏm cả bên trong” (Mâu Tử Lý hoặc luận. Chương 3). (Dẫn theo Trần Nghĩa: Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X.. Nxb. Thế Giới. 2000. tr.392).

(7) Năm khí: tức ngũ hành.

(8) Bát quái: dịch hai chữ “bát sách”. Có nhiều cách hiểu về hai chữ này. Theo Khổng Dĩnh Đạt thì thuyết bát quái gọi là “bát sách”. (Bát quái chi thuyết vị chi bát sách. (Dẫn theo Từ hải. Bản in ảnh năm 1948. tr.148, mục từ bát sách).

(9) Câu này lấy ý từ Kinh Dịch - Hệ từ thượng: “Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân = Sự vật được gom lại thành hình loại hoặc chia tách thành đàn bầy.

(10) Bào thị = họ Bào: chỉ Bào Đinh, tương truyền là một chuyên gia nấu ăn nổi tiếng thời cổ. Trong sách Nam hoa kinh, thiên Dưỡng sinh chủ, Trang Tử có mô tả kỹ thuật siêu phàm của họ Bào khi mổ trâu cho Văn Huệ quân để thuyết minh tính chất “xuất thần nhập hóa” không thể diễn tả hết bằng lời của “đạo”.

(11) Nguyên văn 四 道 = tứ đạo (cũng có ý kiến cho rằng “tứ đạo” có thể hiểu là tứ tượng, chỉ kim, mộc, thủy, hỏa, hoặc âm, dương, cương, nhu. Trong cuốn Chu dịch triết trung có dẫn lời Thiệu tử cho rằng: “Tứ tượng vị âm, dương, cương, nhu; hữu âm dương nhiên hậu khả dĩ sinh thiên, hữu cương nhu nhi hậu khả dĩ sinh địa, lập công chi bản, ư tư vị cực = tứ tượng chỉ âm, dương, cương, nhu; chỉ có âm dương rồi mới có thể sinh ra trời, có cương nhu rồi mới có thể sinh ra đất, cái gốc của sự lập công ở đây là tột độ”.

(12) Dịch từ 洛 = lạc

(13) Thánh: tức Thánh nhân. ý trong bài chỉ Phật tổ.

(14) Giác hoàng: cũng gọi là Giác vương, tức Phật.

(15) Sao Hằng (Hằng tinh): thời cổ gọi là Kinh tinh, Định ốc. Sách Tả truyện, Chiêu thất niên: “Hằng tinh bất hiện = Sao Hằng không xuất hiện”. Ý nói sao này nép mình khi có sự kiện lớn xẩy ra. Ở đây chỉ Phật ra đời.

(16) Sao Phí (Phí tú): “phí” nghĩa là trào ra, nước tuôn ra. Ở đây có thể hiểu ngôi sao này vốn không tự mình phát ra ánh sáng, chỉ khi Phật xuất hiện thì được rạng lây, nhờ ánh sáng của Phật.

(17) Thất bảo: bẩy vật báu của nhà Phật. Hiện có 4 thuyết nói về vật báu này:

- Kim, ngân, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, sách hồ (Bát Nhã kinh)

- Kim, ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích chu, mã não (A di đà kinh).

- Kim, ngân, lưu ly, xà cừ, mã não, chân châu, văn khối ( Pháp hoa kinh)

- Kim, ngân, lưu ly, pha lê, sách hồ, mã não, xà cừ (Vô lượng thọ kinh).

(18) Nước lưu ly: một trong những vật báu của nhà Phật.

(19) Dịch từ 覺 = tam Giác. Tam giác còn có các nghĩa:

- Tự giác, giác tha, giác viên mãn.

(20) Dịch cụm từ 吉 祥 座 = cát tường tọa: là cách ngồi thiền của Phật Đà.

(21) Dịch từ 捌 辯 = bát biện. Bát biện: chỉ tám tài hùng biện của đức Phật Như Lai. Tám tài hùng biện đó là:

- Bất tề hát biện (biện luận không cần gào thét).

- Bất mê loạn biện (biện luận không mê loạn lú lẫn).

- Bất bố úy biện (biện luận mạnh dạn không sợ hãi).

- Bất kiêu mạn biện (biện luận không tỏ vẻ kiêu mạn).

- Nghĩa cụ túc biện (biện luận nghĩa lý đầy đủ).

- Vị cụ túc biện (biện luận ý vị đầy đủ).

- Bất chuyết sáp biện (biện luận lưu loát không ngắc ngứ).

- Ứng thời phán biện (biện luận đúng lúc).

(22) Đại Thiên: tên một vị Tỳ Khưu (Mahâdeva) xuất gia sau khi đức Phật nhập diệt một trăm năm. Ông dồn hết tâm sức để xây dựng một luận lý khác với Thánh giáo, nhưng bị nhiều dị nghị.

(23) Tam thừa: (thuật ngữ nhà Phật) chỉ phương tiện tùy nghi thuyết pháp để chúng sinh giác ngộ.

(24) Nguyên văn là Giác hải. Đức Phật lấy giác ngộ làm tông chỉ, nên ví mức độ sâu rộng của đạo Phật như biển cả.

(25) Kỳ Viên: còn gọi là Kỳ Viên tinh xá, một vùng đất thánh của Phật giáo.

(26) Hóa thành 化 城: từ nhà Phật. Là nơi được coi là Niết bàn của Tiểu thừa.

(27) Bảo địa: chỉ đất Phật.

(28) Cùng tử 窮 子: Theo sách Văn Tông bị vấn, vào thời Chuyên Húc Cao Tân, trong cung sinh ra một cậu bé không chịu mặc áo lành, người ta gọi cậu là Cùng Tử (thằng bé bần tiện).

(29) Áo có viên ngọc: dịch từ 衣 珠 = y châu. Chỉ Phật tính được ví như hạt ngọc trong áo.

Nghĩa của cụm từ này được rút ra từ câu chuyện trong kinh Pháp hoa. Câu chuyện kể rằng: Một người đến chơi nhà một người bạn thân, sau khi cơm no rượu say, nằm lăn ra ngủ. Người bạn thân vì có việc quan phải đi gấp đã tặng cho người bạn đang ngủ một viên ngọc quí cài vào áo cho bạn và có ý tặng cho, nhưng người bạn đang ngủ không biết gì. Khi tỉnh dậy ra đi nhưng lại đi lạc đường sang một nước khác, phải sống cơ cực. Sau này gặp lại, người bạn thân kể lại chuyện tặng ngọc và mách bạn bán viên ngọc đi để đổi lấy những thứ cần thiết cho cuộc sống.

(30) Ba Tuần: từ nhà Phật, chỉ Ma Vương, tượng trưng cho các điều ác ở dục giới, chuyên gây trở ngại cho Phật tử trên đường tu hành. Chính Phật Thích Ca cũng có lúc tự cho mình là Ma Vương, tất nhiên là lúc ông chưa đắc đạo.

(31) Hạc Lâm: chỉ nơi đức Phật nhập diệt. Nghĩa của cụm từ này được rút ra từ câu chuyện: lúc đức Phật nhập diệt ở giữa cây cặp đôi trong rừng Sa La, cây đó liền nở hoa và cả cánh rừng biến thành mầu trắng như chim hạc đậu thành đàn.

(32) Dịch từ 天 龍 = Thiên Long: thiên long là hai bộ Thiên chúng và Long chúng trong Bát bộ chúng. Thiên Long là hai bộ tương trưng cho các vị thần thánh.

(33) Ma Đằng : tức ngài Ma Diếp Ca Đằng, người Trung Tây Trúc. Thời Hán Minh đế, nhà vua sai Thái Âm sang Thiên Trúc cầu pháp đã gặp Ma Đằng. Niên hiệu Vĩnh Bình (58-75) Ca Diếp Ma Đằng đã sang Trung Quốc trụ trì ở chùa Bạch Mã, dịch Kinh 40 chương. Đạo Phật truyền vào Trung Quốc từ đó.

(34) Hán Minh đế: vua nhà Hán (57-75).

(35) Lục thao: tên một cuốn sách bàn về nghệ thuật quân sự.

(36) Bẩy lần thả giặc (thất túng): Gia Cát lượng đánh rợ Man, 7 lần bắt được tù trưởng của chúng là Mạnh Hoạch, nhưng ông đều tha cho về. Sau vì cảm phục, Mạnh Hoạch tự ra hàng.

(37) Dịch từ cụm từ 守 黑 之 機 = thủ hắc chi cơ. Sách Lão tử có câu “tri kỳ bạch thủ kỳ hắc vi thiên hạ thức”. Theo chú giải của Ngô Trừng thì “bạch” là sáng sủa còn “hắc” là mờ tối. “ Thủ hắc” tức là “giữ phần mờ tối”. ở đây nghĩa là biết khiêm tốn, không khoe mẽ bản thân.

(38) Điền Văn 田 文: tức Mạnh Thường quân, người nước Tề thời Chiến quốc, từng nuôi hàng nghìn thực khách, hiền sĩ để cứu đời, giúp người vượt qua nghịch cảnh.

(39) Dịch từ 祈 父 = kỳ phụ: một chức quan giúp việc đắc lực cho nhà vua.

(40) Hổ sĩ : chỉ tướng tài, binh giỏi.

(41) Liêu Lạo: chỉ dân tộc ít người sinh sống ở miền tây Thanh Hóa thời bấy giờ.

(42) Dịch cụm từ 利 涉 大 川 = lợi thiệp đại xuyên. Câu trong Kinh Dịch, mang nghĩa vượt qua trắc trở, chướng ngại (quẻ Nhu). Ý trong bài được dịch theo ý này.

(43) Dịch từ cụm từ 如 來 駐 錫 = Như Lai trú tích. Trú tích: mang nghĩa khi nhà sư đi du hành đều mang cây gậy đi theo. Khi nhà sư dừng chân nơi nào, thì nơi đó gọi là trú tích.

(44) Tòa sư tử: chỉ chỗ ngồi của đức Phật.

(45) Nguyên văn là 苾 芻 = Bật sô: từ nhà Phật, chỉ người nam xuất gia nhập đạo làm đệ tử của Phật.

(46) Tam giới: nhà Phật chia trời làm ba giới. Một là dục giới, chỉ cõi thiên nhân đều có tình dục; hai là sắc giới, chỉ cõi thiên nhân đều có hình sắc; ba là vô sắc giới, chỉ cõi thiên nhân sắc tướng đều không có.

(47) Lục thú: từ nhà Phật, tức lục đạo. Sách Tỳ đàm luận chép: “thú giả danh đáo = thú nghĩa là có danh”, cũng có thể gọi danh là đạo. Nghĩa là dựa vào cái nghiệp tạo nên thiện ác để đến chỗ nhận sự báo đáp.

(48) Dịch từ cụm từ 床 前 牛 鬥 = sàng tiền ngưu đấu: chỉ sự ốm đau.

(49) Kiêu nhi: chỉ vị dũng tướng. Trong bài chỉ con quan Quyền tri Thanh Hóa trại tức Hoàng Khánh Văn.

(50) Cửu Nghi 九 嶷. Tên một ngọn núi ở miền Giang Nam (Trung Quốc). Mộ của vua Thuấn táng tại đây. Tác dùng điển này có ý nói đến ngôi mộ của Hoàng Khánh Văn.

(51) Nguyên văn 二 種 = nhị chủng: từ nhà Phật mang nhiều nghĩa như: Nhị chủng tín tâm, nhị chủng thanh tĩnh, nhị chủng tỳ khưu, nhị chủng tịch tĩnh...

(52) Dịch từ 故 考 = cố khảo: chỉ người cha đã qua đời.

(53) Nguyên văn là 識 = thức: thuật ngữ nhà Phật.

(54) Đất Phật: nguyên văn là 拾 地 = thập địa. Còn có thể gọi là thập trụ, mang nhiều nghĩa như: Đại thừa bồ tát thập địa, thập địa nguyện hành...

(55) Thân duyên 親 緣: một trong ba duyên do tông Tịnh độ lập ra, mang nghĩa chúng sinh khởi hành miệng niệm Phật, Phật nghe thấy. Thân kính lễ Phật, Phật nhìn thấy. Tâm niệm Phật, Phật biết. Ba nghiệp của chúng sinh gắn liền với ba nghiệp của Phật, không tách rời nhau.

(56) Dịch từ 橖 棣 = đường lệ. Cũng viết là 常 棣 thường lệ hoặc 唐 棣 = đường lệ là tên một loài hoa giống như hoa anh đào đồng thời cũng là tên một bài thơ trong kinh Thi biểu thị tình gắn bó anh em.

(57) Dịch từ 善 因 = thiện nhân: từ nhà Phật, mang nghĩa cái nhân do thiện căn mà tạo ra thiện quả.

(58) Tịnh thổ: chỉ cõi Phật.

(59) Dịch từ 嵩 華 = tung hoa. Tên hai ngọn núi Tung sơn và Hoa sơn của Trung Quốc.

(60) Nguyên văn là 覺 位 = Giác vị: ngôi vị chính giác.

(61) Ngũ thường 五 常: năm tiêu chí đạo đức của Nho gia gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

(62) Tam tài: chỉ thiên, địa, nhân. Người xưa quan niệm có đạo trời, đạo đất và đạo người.

(63) Nguyên văn là 正 覺 = Chính giác: tên hiệu của đức Phật.

(64) Tam căn 三 根: từ nhà Phật. Từ này có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa căn cứ vào thiện căn mạnh yếu mà thuyết Pháp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1- Từ điển phật học Hán Việt. Phân viện nghiên cứu Phật học xuất bản. Tập I, H. 1992. Tập II. 1994.

2- Từ điển Nho - Phật - Lão. Nxb. Văn học. H. 2001.

3- 佛 學 辭 典. 上 海 書 店 。 1998.

4- T hơ văn Lý Trần. Nxb. KHXH, H. 1977.

5- Văn Khắc Hán Nôm Việt Nam. Tập I. từ Bắc thuộc đến đời Lý. école Franỗaise d Extrême Orient. Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Paris - H. 1998.

6- Hà Văn Tấn: Về một nghi lễ mật giáo qua bia tháp Sùng thiện diên linh thời Lý. Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo. Số 2. 2000.

7- Lý Công Uẩn và vương triều Lý. Nxb. Đại học quốc gia. H. 2001. Kỷ yếu hội thảo khoa học.

8- Địa chí văn hóa Hoằng Hóa. Nxb. KHXH, H. 2000.

9- Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch . Đình Kính - Lưu Văn Khuê. Nxb. Hải Phòng. 1997.

10- 易 經 精 華. 中 醫 古 籍 出 版 社 。 1991.

TB

BÀI KÝ TỰ CỦA
HỮU ĐỀ ĐIỂM ĐOÀN ĐÌNH KIM

NGUYỄN TÁ NHÍ

Đoàn Đình Kim là người thôn Hữu Châu, xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam Thượng, nay là thôn Hữu Châu, xã Hữu Hòa, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Dưới thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786) ông là Võ quan trong triều, từng được cử giữ chức Hữu đề điểm, hàm nhất phẩm. Thân phụ ông là Đoàn Phúc Chính cũng được phong tặng chức Tổng binh sứ ty tước Thanh Lĩnh hầu. Điều đó cho thấy Đoàn Đình Kim phải là Võ quan cao cấp thời bấy giờ, được triều đình tin cẩn giao cho trọng trách và có nhiều đãi ngộ đối với gia tộc. Năm 1780 ông tự viết bài ký gửi giỗ cho cha mẹ, anh chị ruột và ông bà ngoại vào bản giáp ở thôn Hữu Châu. Bài ký viết bằng chữ Nôm, được khắc vào bia đá đặt tại tòa miếu nhỏ trong thôn. Hiện nay tấm bia này vẫn còn trong miếu ở phía trước cổng chùa thôn Hữu Châu bên bờ sông Nhuệ. Trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có thác bản tấm bia này mang số hiệu N02140.

Đây là bài văn xuôi Nôm viết theo lối tự sự, không dùng điển cố, không viết theo lối biền ngẫu thông dụng thời bấy giờ, có thể xem đây là bài văn xuôi Nôm vào loại sớm nhất hiện còn. Tác giả dùng lời văn bình dị dễ hiểu, gần gũi với đời thường để kể lại gia cảnh của mình. Tác giả Đoàn Đình Kim cho biết thuở nhỏ ông sớm mồ côi cha, cuộc sống gian nan vất vả, nên không có điều kiện chăm lo phụng dưỡng cha mẹ. Do vậy ông đã tự bỏ tiền của ra mua ruộng, đất gửi giỗ cho người thân với mục đích làm tốt bổn phận làm con. Trong bài ký tuy có dùng nhiều từ Hán Việt, thậm chí có cả đoạn viết bằng Hán văn, song đây toàn là những từ thông dụng gần gũi với cuộc sống, nên cũng dễ hiểu. Đây là lối văn Nôm thường gặp trong giai đoạn này, tác giả của các bài văn này thường là các Võ quan, chẳng hạn như Chấn Quận công Ngô Văn Sở từng có bức thư gửi cho Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm, cũng viết theo lối văn này. Nhận thấy đây là bài văn xuôi Nôm có giá trị, chúng tôi xin phiên âm giới thiệu toàn văn.

Toàn văn là:

Thanh Oai huyện Hữu Thanh Oai xã Châu Xá thôn Hữu đề điểm Đoàn Đình Kim tự ký rằng:

Hữu phụ mẫu nhiên hậu hữu thử thân(1). Năm trước ơn lòng trong bản thôn đã hiệp bảo phụ mẫu song thân tịnh vi Hậu thần(2). Các điều tế tự cụ tại bi ký(3). Tiết này bản thôn ta chùa trong đồi tệ, thiện nam tín nữ cùng lòng tu tập. Vả lại niệm cập(3) song thân phụ mẫu, khi còn ấu xung chưa được phụng dưỡng cha mẹ miếng bùi miếng ngọt. Vậy có xuất gia tài cổ tiền nhất bách quan(4) làm hội chủ, cho hiển khảo phong tặng Tổng binh sứ ty Đoàn tướng công Thanh Lĩnh hầu tự Phúc Chính, hiển tỷ phong tặng Trinh nhân Nguyễn thị hàng hiệu Từ Hiếu, tịnh vi hội chủ(5). Lại cảm đến hai bên ông bà nội ngoại, hựu xuất cổ tiền nhị thập quan dụng vi nội tổ khảo tỉ cập ngoại tổ khảo tỉ tứ vị tịnh vi hội chủ. Vốn lòng nghĩ rằng: Bản giáp là trong đồng tông cũng là một cội mà bản viên(6) trước có một anh chẳng may tảo lạc(7), trông lại ngày sau tổ tiên cha mẹ thiếu kẻ hương khói, trộm thấy bản giáp thượng hạ đại tiểu cùng lòng xót đến kẻ đồng tông, mới dám xin làm giám trương trong từ đường các việc cho. Kỳ từ đường nội khu bát cao nam biên tứ cao dữ điền thập thất cao tại các xứ sở, tịnh cổ tiền nhị thập quan kính hứa bản giáp, đã có sổ sách phó tại bản giáp, đệ niên chỉnh biện các lễ. Hệ minh niên chính nguyệt sơ nhất sơ nhị đẳng nhật kê xuy cúng tại từ đường. Bản giáp cát sử đinh nam nhất ban canh trực hương đăng. Nội nhất cao phó đương cai chủng nạp cổ tiền lục mạch, hứa đinh nam canh trực nhị dạ. Tồn thập lục cao bản giáp chiếu các lệ mãi biện lễ vật ư thập nhị nguyệt lạp tiết nhị thập ngũ nhật trư thủ tịnh xuy. Bản giáp lão thiếu tề tựu mộ địa bồi trúc, tiễu thảo. Hiển khảo mộ địa tư điền tam xích tại Mả Mòi xứ, hiển tỉ mộ địa tư điền tứ xích cũng ở Mả Mòi xứ tịnh ký tại bản giáp, hậu nhật tử tôn bất đắc di cải(8).

Lại nghĩ xa rằng: Vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ(9), mà nội tổ khảo tỉ đã có trưởng tộc, ngoại tổ khảo tỉ sinh hạ tức nữ, với lại niệm cập thân huynh thân tỉ cùng trong đồng bào sở sinh trước đã mệnh cô(10). Giá điền kính hứa bản giáp thập thất cao, ý nội nhị cao hệ đệ niên tứ nguyệt thập ngũ nhật bản giáp đồng tông sám hối cửu đại; nội nhị cao hứa bản giáp dĩ mễ vi thượng điền lễ; nội thập nhị cao đệ niên ngộ Hiển tổ khảo tự Phúc Thịnh tam nguyệt nhị thập cửu nhật kỵ, tổ tỉ Đào Thị hàng hiệu Từ Mỹ tam nguyệt sơ lục nhật kỵ, cập chính đán tiết, chỉnh biện lễ vật tịnh cúng tại phần mộ. Ngoại tổ khảo Nguyễn quý công tự Phúc Cập tứ nguyệt tam thập nhật kỵ, ngoại tổ khảo Đoàn thị hàng hiệu Từ Mỹ nhị nguyệt thập ngũ nhật kỵ, chỉnh biện lễ vật tịnh cúng tại phần mộ. Tiền thân huynh tự Pháp Nhuận hiệu Huyền Linh ngũ nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ, lễ vật cúng tại phần mộ. Tiền thân tỷ Đoàn thị hàng hiệu Thục Tiết thập nhất nguyệt thập cửu nhật kỵ, gia chính đán tiết tịnh cúng tại phần mộ(11).

Kẻ làm nhân tử(12) ngày niên thiếu thì mồ côi thất hồ(13), đến trưởng thành thì tử đạo đa khuy(14). Ông bà nội ngoại cha mẹ anh chị phải kỵ, đồng tông bản giáp trong lòng kể làm đau đớn lắm. Vả lại nói trong từ đường phụng sự song thân. Nội khu bát cao, trong nam biên tứ cao(15) đã kính hứa bản giáp, tồn bắc biên tứ cao dữ điền tam cao tại biệt xứ sở(16), tịnh hứa làm của Tam bảo phó tại tự tăng để làm oản quả. Dám xin của chẳng bao nhiêu lưu truyền tự tăng, đừng phân tứ giáp. Hệ sóc vọng nhật thì, tự tăng oản quả đệ cúng từ đường. Đệ niên ngũ nguyệt sơ lục nhật chính kỵ hiển khảo, thất nguyệt sơ nhất nhật chính kỵ hiển tỷ. Ngày cáo kỵ thì tự tăng phải oản quả đến từ đường chúc thực. Ngày chính kỵ thì bản giáp cát sử đinh nam nhất ban đệ tế khí đồ(17) để tự tăng ra bài trí hương đăng cho bản thôn cứ lệ hành lễ (18). Hệ tự tăng ngày chính đán(19) với ngày mốt hai mốt ba(20) phải oản quả đệ cúng từ đường, cập đồng niên oản quả tự tăng y như điều ước cúng tất(21). Ngày chính kỵ với các ngày sóc vọng đệ tại bản giáp. Kỳ các nhật oản quả, cúng tất, tự tăng nhậm thủ(22). Vạn đại hậu thế ai mà đến trụ trì chùa này, việc nào cũng là việc phúc đức, giữ lấy bấy nhiêu việc như trong điều ước. Dẫu đến vạn thế hậu xin trong bản thôn thể tấm lòng mà thương đến với, đừng điều chi nỡ sai trong ước. Trong bản giáp ta cũng nghĩ mà thương đến kẻ đồng tông, chớ nỡ điều chi là chẳng như ước.

Độc tọa hoà lệ(23), cáo một lời rằng:

Mấy điều bút chép bia truyền

Ghi lòng tạc dạ vạn niên lâu dài.

Dám van ai chớ nỡ ai

Để cho người dưới dạ đài được ơn.

Tư ký(24).

Hoàng triều Cảnh Hưng chi tứ thập nhất tuế tại Canh Tý thập nhị nguyệt cốc nhật(25).

N.T.N

CHÚ THÍCH:

(1) Hữu thân phụ mẫu nhiên hậu hữu thử thân: có cha mẹ rồi sau mới có thân này.

(2) Tịnh vi Hậu thần: cùng làm Hậu thần.

(3) Niệm cập: nghĩ đến.

(4) Xuất gia tài cổ tiền nhất bách quan: bỏ tiền của gia đình gồm 100 quan tiền cổ.

(5) Tịnh vi Hội chủ: cùng làm Hội chủ.

(6) Bản viên: bản thân tôi.

(7) Tảo lạc: mất sớm.

(8) Kỳ từ đường... bất đắc di cải: khu đất trong từ đường 8 sào, phía nam 4 sào và 11 sào ruộng ở các xứ đồng cùng với 20 quan tiền cổ kính biếu bản giáp, đã có sổ sách giao cho bản giáp, hàng năm sắm lễ tế cáo. Bắt đầu từ năm sau vào ngày mồng 1 mồng 2 tháng giêng hàng năm sắm biện xôi gà tế ở từ đường. Bản giáp cử một ban đinh nam trông coi đèn hương. Trong đó có 1 sào ruộng giao cho đương cai trông nom cày cấy, mỗi năm nộp 6 mạch tiền cổ, để cho các đinh nam trông coi 2 đêm. Còn lại 16 sào bản giáp theo lệ sắm sửa lễ vật xôi thủ lợn làm lễ vào ngày 25 tháng Chạp. Già trẻ trong bản giáp tề tựu ở khu mộ địa cắt cỏ đắp đất mộ. Mộ của Hiển khảo ở thửa ruộng 3 thước tại xứ Mả Mòi, mộ của Hiển tỉ ở thửa ruộng 4 thước cũng tại xứ Mả Mòi, tất cả đều gửi cho bản giáp, sau này con cháu không được thay đổi.

(9) Vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ: vật cậy có trời, người cậy có tổ.

(10) Mệnh cố: đã chết.

(11) Giá điền kính hứa... cúng tại phần mộ: số ruộng này kính biếu bản giáp gồm 17 sào, trong đó có 2 sào để bản giáp đồng tông hàng năm vào ngày 15 tháng 4 làm lễ sám hối các cụ chín đời. Trong đó 2 sào bản giáp dùng làm lễ Thượng điền, 12 sào để cúng giỗ Hiển tổ khảo tự Phúc Thịnh vào ngày 29 tháng 3 và cúng giỗ Tổ tỉ Đào thị hiệu Từ Mỹ vào ngày mồng 6 tháng 3, cùng là vào tết nguyên đán, sắm sửa lễ vật cúng tại phần mộ. Ngoại tổ khảo Nguyễn quý công tự Phúc Cập, giỗ ngày 30 tháng 4, ngoại tổ tỉ Đoàn thị hiệu Từ Mỹ giỗ ngày 15 tháng 2, đều sắm lễ cúng tại phần mộ. Chị gái Đoàn thị hiệu Thục Tiết giỗ ngày mồng 9 tháng 11, cùng tết nguyên đán đều cúng tại phần mộ.

(12) Kẻ làm nhân tử: phận làm con.

(13) Thất hỗ: Mồ côi cha.

(14) Tử đạo đa khuy: đạo làm con không thực hiện đầy đủ.

(15) Nội khu bát cao trong nam biên tứ cao: khu trong 8 sào trong đó phía nam 4 sào.

(16) Tồn bắc biên tứ cao dữ điền tam cao tại biệt xứ sở: còn 4 sào ở phía bắc và 3 sào ruộng ở xứ đồng khác.

(17) Ngày chính kỵ thì bản giáp cát sử đinh nam nhất bàn đệ tế khí đồ: ngày giỗ chính thì bản giáp cử một ban đinh nam khênh đồ tế khí.

(18) Cứ lệ hành lễ: làm lễ theo ước lệ.

(19) Chính đán: ngày mồng 1 tháng Giêng.

(20) Mốt hai mốt ba: mồng 1 mồng 2.

(21) Cúng tất: cúng xong.

(22) Kỳ các nhật oản quả cúng tất tự tăng nhậm thụ: cúng xong, các thứ oản trong những ngày lễ thì do sư chùa tự mình sử dụng.

(23) Độc tọa hòa lệ: ngồi một mình rơi nước mắt.

(24) Tư ký: Nay viết ký ghi lại.

(25) Hoàng triều Cảnh Hưng chi tứ thập nhất tuế tại Canh Tý thập nhị nguyệt cốc nhật: Ngày tốt tháng 12 năm Canh Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40 (1780).

TB

TIẾN SĨ NGUYỄN HỮU TẠO
BÀI THỆ SƯ GIỚI QUÂN SĨ TỪ

NGUYỄN THỊ TRANG

Nguyễn Hữu Tạo tự Thành Chi, hiệu là Ngạc Đình, sinh năm 1803 tại làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 31 tuổi ông thi đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn niên hiệu Thiêu Trị thứ 4 (1844), được bổ nhiệm làm quan ở Sơn Tây. Ông vốn quê ở làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm, song suốt cuộc đời làm quan của ông đều ở Sơn Tây. Bấy giờ giặc giã nổi lên ở khắp nơi, ông phụng mệnh triều đình đem quân đi đánh dẹp, mỗi lần đều có làm thơ ghi lại. Hiện còn một số bài thơ chép trong sách Nguyễn thị gia phả, ký hiệu A.1135 ghi lại một số hoạt động của ông trong giai đoạn ở Sơn Tây. Năm 1857, ông bị ốm nặng rồi mất ở ngay trấn thành Sơn Tây, các quan đồng liêu đưa ông ra phía Nam thành yên nghỉ. Trong trước tác của ông có hai bài thơ Nôm đề vịnh phong cảnh ở phủ Yên Bình tỉnh Yên Bái. Năm 1970 chúng ta hoàn thành xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà, cung cấp một điện năng đáng kể, góp phần xây dựng đất nước giầu mạnh. ít ai biết được rằng hồ nước Thác Bà mênh mông ấy trước kia đã từng là nơi cư trú của 8 tổng dân cư phủ Yên Bình.

Hai bài thơ Nôm của Nguyễn Hữu Tạo phần nào giúp chúng ta hiểu thêm về vùng đất cổ này.

Bài 1:

Vô đề

Mở địa đồ xem suốt tối mai,
Bàn tay như vẽ khúc sông dài.
Miệng ngòi thét hổ đôi cầu ngựa,
Lưng núi cán ngang nửa dốc nai.
Mái cọ tuyết gieo do lẫn khói,
Bảy trông bùn dậm rễ chồi cây.
Ta đi nó lại, đi rồi lại,
Lẩn quất ma rừng ấy bởi ai.
(Có bản chép: Ngấp nghé trong hang khéo quẩy quày).

Bài 2:

Vịnh Yên Bình phủ bát tổng
(Vịnh tám tổng trong phủ yên Bình: Vĩnh Kiên, Cảm Nhân, Ẩm Phúc,
Cảm Ân, Đạo Ngạn, Mông Sơn, Ngọc Trấn, Đại Đồng).

Vĩnh Kiên mùi đạo kể khôn cùng,
So mấy Cảm Nhân kém khách Nùng.
Ẩm Phúc bẩy người năm hũ ít,
Cảm Ân mười nóc chín nhà không.
Trai chàng Đạo Ngạn quen đường tắt,
Gái ả Mông Sơn khéo lộn chồng.
Ngọc Trấn dọn hàng luồn lỏi trạch,
Đại đồng phá họ ví von ong.

Khi ở thành Sơn Tây, ông luôn luôn quan tâm đến binh sĩ, nên được mọi người hết sức tôn trọng, đồng thời ông cũng rất coi trọng kỷ luật quân sự, mỗi lần hành binh, ông đều ban bố điều lệnh và nghiêm khắc trừng phạt những ai vi phạm. Do vậy quân sĩ ở thành Sơn Tây rất mực kính nể ông. Để giúp cho binh sĩ hiểu rõ quân luật, ông đã diễn ca Bài từ Thệ sư, gồm 48 câu lục bát, với lời lẽ bình dị, dễ hiểu, dễ nhớ. Toàn văn như sau:

Thệ sư giới quân sĩ từ (1),

1. Nghìn xưa dạy phép hành quân
Việc quân giữ lấy chữ nhân làm đầu.
Công danh là chữ về sau
Những toan tiểu lợi hay đâu mà hòng.
Chinh phu mấy kẻ tương tòng
Miếng cơm tấm áo cùng trong cao dày.
Binh đao chừng mấy tháng nay
Ơn trên che chở nghĩa thầy xót thương.
Dấn thân vào cuộc chiến trường
10. Nghĩ người gối đất nằm sương xót tình.
Bên trời chưa dẹp lửa binh
Biết bao gai góc đã đành lầm than.
Nào nơi nhà cửa sương tan,
Trông ra thấy những tro tàn khói bay.
Nào nơi đồng nội cỏ dày,
Trâu bò lạc luống bừa cày vắng tanh.
Nào nơi hàng quán họp thành,
Xôn xao góc chợ chông chênh bên đường.
Nào nơi thuyền khách thông thương,
20. Mái chèo cắm cọc cánh buồm vắt ngang.
Kìa ai hay lũ nón vàng(2).
Trách ai đâu cũng một tuồng tham si.
Tài mà chi, lợi mà chi,
Chờ cho hết giặc còn gì là dân.
Nhiễu nhương biết mấy nhiêu lần,
Tính phần sợ giặc, nào phần sợ quan.
Ngọn cờ treo chữ chiêu an(3),
Binh qua rồi nỡ cơ hàn làm sao.
Của ai xin chớ tơ hào,
30. Kẻo e chinh chiến biết bao giờ rồi.
Hoặc là lấy của làm mồi,
Dử cho vào lưới vào rồi giật ra.
Hoặc là thấy của xót xa
Thấy người nặng gánh nó ra nó liều.
Hoặc là ngõ vắng đường hiu,
Quan binh đi trước, giặc theo sau rồi.
Hoặc là dặm vắng đường dài,
Mặt trong bòn của, mặt ngoài vướng chông.
Khuyên nhau một sức một lòng,
40. Ra tay địch khí(4) đền công truy tùy(5).
Máu tham nào có hay gì,
Đã mòn vai gánh lại bia miệng cười.
Của người là cái nợ đời,
Của thần kia dẫu đền mười chưa yên(6).
Câu thề nhớ lấy đừng quên,
Đem lời khẩu thiệt thay quyền phủ cân(7).
Phòng khi quan phép vô thân(8),
48. Cái gươm vi mệnh(9) cũng gần không xa.

N.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Thệ sư giới quân sĩ từ: bài văn thề ra quân răn dạy binh sĩ.

(2) Lũ nón vàng: chỉ bọn giặc phỉ, vốn từ phương Bắc đến.

(3) Chiêu an: vỗ về yên ổn.

(4) Địch khí: hăng hái.

(5) Truy tùy: đi theo, tùy tòng.

(6) Câu lục bát này lấy ý từ hai câu tục ngữ “Của biếu là của lo, của cho là của nợ” và “Của Bụt mất một đền mười, Bụt vẫn còn cười Bụt chẳng nhận cho”. ý tác giả muốn khuyên binh sĩ không được tùy tiện lấy của người khác.

(7) Phủ cân: cầm cân nảy mực.

(8) Quan pháp vô thân: phép nước không kiêng nể người thân.

(9) Vô mệnh: trái mệnh lệnh.

TB

TRIỂN LÃM ĐỒ ĐỒNG PHỤC CHẾ CỦA
TRUNG QUỐC TẠI NHÀ THÁI HỌC VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM, HÀ NỘI

Nhân kỷ niệm 54 năm ngày thành lập Nước CHND Trung Hoa, góp phần tăng cường sự hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội và Đại sứ quán Nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam phối hợp tổ chức Triển lãm đồ đồng phục chế của Trung Quốc tại Văn miếu - Quốc tử giám, Hà Nội.

Hơn 40 tác phẩm trưng bày tại Triển lãm đồ đồng phục chế của Trung Quốc lần này được phục chế bằng chất liệu đồng theo nguyên mẫu khai quật trong khoảng 20 - 30 năm trở lại đây tại tỉnh Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Cam Túc, Hồ Nam, Hà Nam và thành phố Tây An của Trung Quốc. Trong đó chủ yếu là những hiện vật có niên đại thời Tây Chu (từ thế kỷ XI - thế kỷ VIII trước Công nguyên) được khai quật tại tỉnh Thiểm Tây, bao gồm: đồ tế khí: những chiếc âu, liễn, tôn...; nhạc khí: bộ chuông thời Tây Chu; đồ binh khí: cây kiếm của Việt vương Câu Tiễn, mâu của Ngô vương Phù Sai, những chiếc đỉnh thời Tây Chu, thời Thương; đồ dùng sinh hoạt...

Về mẫu tạo hình, những tác phẩm này được tạo tác với kiểu dáng sinh động mô phỏng kiểu dáng các con vật như chim, trâu, ngựa...; sử dụng các môtíp hoa văn trang trí khá phong phú (hoa văn lấy đề tài thực vật, động vật, con người, hoa văn hình học...) có giá trị cao về nghệ thuật, giúp cho việc nghiên cứu mỹ thuật cổ đại Trung Hoa.

Nhiều hiện vật trưng bày còn khắc những bài minh văn cung cấp nhiều thông tin giúp ích cho việc tìm hiểu về hình pháp, nghi thức tế tự, phong tục, phương thức đi lại bằng xe ngựa và có giá trị nhất định trong việc nghiên cứu về văn tự cổ Trung Hoa...

Với một thời kỳ phát triển lâu dài qua hàng chục thế kỷ, số lượng những hiện vật trưng bày trong Triển lãm đồ đồng phục chế của Trung Quốc tại đây quả là khiêm tốn, tuy nhiên đây lại là những hiện vật khá tiêu biểu về giá trị mỹ thuật, tạo hình, về kỹ thuật chế tác, về giá trị lịch sử...; vì thế đã cung cấp cho người xem nhiều thông tin bổ ích, giúp cho việc tìm hiểu về văn hóa và lịch sử, hình dung được một cách khái quát về diện mạo xã hội cổ đại Trung Quốc.

Triển lãm đồ đồng phục chế của Trung Quốc chính là một hoạt động văn hóa có ý nghĩa góp phần tăng cường tình hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy sự hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam - Trung Hoa.

TB

KHAI GIẢNG LỚP CHỮ NÔM CƠ BẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2003, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã khai giảng lớp “Chữ Nôm cơ bản”. Tới dự khai giảng có: TS. Hồ Ngọc Hải - Phó Giám đốc Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia, TS. Lê Thị Hòa - Ban Tổ chức và Đào tạo, PGS. TS. Trịnh Khắc Mạnh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, TS. Nguyễn Ngọc Nhuận - Phó viện trưởng, GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng - chủ nhiệm lớp, TS. Hoàng Thị Ngọ - Trưởng phòng Đào tạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm và toàn thể các học viên.

Lớp chữ Nôm này nằm trong chương trình hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm (thuộc Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia) với Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm (Hoa Kì). Chương trình đào tạo dành cho những học viên trẻ tuổi người Việt Nam đã biết đọc chữ Hán nhưng chưa đọc thạo chữ Nôm. Lớp học kéo dài trong 20 tuần, mỗi tuần 2 buổi do các chuyên gia về chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm giảng dạy.

Khóa học sẽ giúp học viên làm quen với các văn bản chữ Nôm thuộc các thời kì, các thể loại khác nhau. Thực hành phiên âm và chú giải chữ Nôm qua các văn bản cụ thể. Trang bị những kiến thức cơ bản về sự hình thành và phát triển, về cấu trúc và chức năng của chữ Nôm.

Phát biểu trong lễ khai giảng, TS. Hồ Ngọc Hải nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác nghiên cứu Hán Nôm và sự quan tâm của Lãnh đạo Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia với việc đào tạo các nghiên cứu viên cả Hán và Nôm nói chung.

Khóa học gồm 22 học viên chính thức và nhiều học viên dự thính. Kết thúc khóa học các học viên chính thức sẽ được Viện Nghiên cứu Hán Nôm cấp chứng chỉ.

Được biết đây là kế hoạch đầu tiên của chương trình hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm với Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (Hoa Kì) trong việc gìn giữ và phát huy di sản văn hóa Nôm nói riêng và các lĩnh vực khoa học khác nói chung.

P.V