|
TÁC GIẢ NGUYỄN HUY QUÝNH VÀ MƯỜI BÀI THƠ HỌA THẬP CẢNH QUAN LAN SÀO
LẠI VĂN HÙNG
Nguyễn Huy Quýnh, còn có tên là Trị, hiệu Phùng Hiên và Duy Nham, biệt hiệu Dần Phong, sinh năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734), mất năm Ất Tị niên hiệu Cảnh Hưng 46 (1785). Về tác giả này, chúng tôi đã có dịp giới thiệu khá kỹ trong một tập sách khảo sát về văn nghiệp dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu(1). Dưới đây, chỉ xin nhắc lại một số nét chính.
Theo Nguyễn thị gia tàng (dòng họ Nguyễn Huy tàng bản) và Phượng Dương Nguyễn tông thế phả (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1354), Nguyễn Huy Quýnh sinh ra trong một gia tộc có truyền thống khoa hoạn. Cụ tổ là Nguyễn Uyên Hậu đỗ Ngũ kinh bác sĩ thời Hồng Đức (1470-1497). Người cha là Nguyễn Huy Tựu (1690-1750), đỗ Hương giải, làm quan đến Thượng thư. Người anh là Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), đỗ Đình nguyên Thám hoa năm Mậu Thìn (1748), cũng làm quan đến Thượng thư, đồng thời là một trong những tác gia thơ văn tiêu biểu của thế kỷ XVIII(2). Bản thân Nguyễn Huy Quýnh cũng đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772) và liên tục được bổ vào các chức vụ như: Giám sát ngự sử Sơn Nam (1773), Kiêm lý lương hướng phương Nam (1774), Đốc đồng Sơn Nam (1778), Giám khảo trường thi Thanh Hoa (1779), Trực giảng ở Quốc tử giám (1781), Hàn lâm viện đãi chế, Đốc thị đạo Quảng Thuận (1784). Nhưng nếu chỉ đỗ Tiến sĩ, làm mấy chức quan thì cũng không có gì đáng nói cho lắm. Vấn đề ở chỗ Nguyễn Huy Quýnh còn là tác giả văn học, tiếp nối được truyền thống thi thư của cha anh. Vẫn theo bản Gia tàng, Nguyễn Huy Quýnh là tác giả của: Dần Phong thi sao (4 quyển), Dần Phong văn sao (3 quyển), Quảng Thuận đạo sử tập và Tây Hưng đạo sử tập. Với 7 quyển thơ văn và hai quyển sử tập như thế, trứ tác của Nguyễn Huy Quýnh có thể nói là khá nhiều. Rất tiếc, 7 quyển thơ văn hiện không còn quyển nào, quyển Tây Hưng... cũng không thấy, và chỉ còn duy nhất cuốn Quảng Thuận đạo sử tập (Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.1375). Như vậy, Nguyễn Huy Quýnh cũng chịu chung số phận với nhiều tác giả văn học cổ khác - về tình trạng văn bản tác phẩm. Có điều, ông còn không may hơn, ở chỗ mấy tác phẩm thơ văn then chốt, quan trọng, nơi có thể dựa vào để đánh giá tư cách tác giả của ông lại đều không còn. Xem kỹ quyển sách còn sót Quảng Thuận đạo sử tập trên đây, thấy thực ra đây là cuốn sách địa chí, có giá trị sử liệu khá tốt(3), nhưng nay nó lại không đủ căn cứ để ta nói Nguyễn Huy Quýnh là một tác gia văn học. Chính vì thế, tên ông không thấy xuất hiện trong các bộ Từ điển văn học, rồi Từ điển văn học Việt Nam... Nhưng, suốt gần một thế kỷ qua, theo quan sát của chúng tôi thì giới nghiên cứu vẫn không ngừng tìm tòi về tác giả "văn kỳ thanh" này. Đầu tiên, vào những năm 20 của thế kỷ trước, các cụ Lê Thước, Phan Sĩ Bàng khi viết Truyện cụ Nguyễn Du(4) đã công bố bản Thác lời gái phường vải, phiên âm Nôm, gồm 20 câu lục bát và coi Nguyễn Huy Quýnh là tác giả. Bài này được xem như lời đối đáp với Nguyễn Du, khi tác giả Đoạn trường tân thanh, lúc còn trẻ từng đến đất Trường Lưu làm "Du hiệp khách"(5) và sáng tác Thác lời trai phường nón. Thế là, một tác phẩm văn học của Nguyễn Huy Quýnh lần đầu tiên được công bố. Khoảng 20 năm sau, tức những năm 40, các học giả Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn khi khảo sát về "Hồng Sơn văn phái" trong mối quan hệ giữa Đoạn trường tân thanh với Hoa tiên và Mai Đình mộng ký và mối quan hệ qua lại giữa hai họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Trường Lưu(6), cũng có nhắc đến Nguyễn Huy Quýnh, nhưng tác phẩm văn học thì cũng không có gì hơn ngoài bài Thác lời gái phường vải. Lại khoảng 20 năm nữa, đầu những năm 60, bài ấy được in lại ở phần cuối Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh). Đầu những năm 70, khi soạn Lược truyện các tác gia Việt Nam(7) thậm chí không thấy Trần Văn Giáp nhắc gì đến Nguyễn Huy Quýnh cả. Đến những năm 90, có hai tài liệu lại nói đến Nguyễn Huy Quýnh: Một là cuốn Phan Kính con người và sự nghiệp (Vũ Ngọc Khánh - Chương Thâu biên soạn)(8) và hai là tuyển tập Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ (Thái Kim Đỉnh sưu tập)(9). ở cuốn thứ nhất, có hai bài thơ cho là của Phan Kính: Dữ Đồng khảo Nguyễn Quýnh (Cùng quan Đồng khảo Nguyễn Quýnh) và Họa Đồng khảo Nguyễn Huy Quýnh, châu thứ thuật hoài (Họa bài thơ cảm hoài làm trong lúc đi thuyền của quan Đồng khảo là Nguyễn Huy Quýnh)(10). Chúng tôi đã ngờ đây là hai người khác nhau, một người là Nguyễn Quýnh, một người là Nguyễn Huy Quýnh. Nhưng ngay dưới bài Dữ Đồng khảo Nguyễn Quýnh có dòng ký chú: "Nguyễn Huy Quýnh, em Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, cũng người làng Lai Thạch, đỗ Tiến sĩ năm 1727"(11). Thế thì đúng là Nguyễn Huy Quýnh rồi, chỉ có điều ông đỗ Tiến sĩ năm 1772 chứ không phải 1727, và phần nguyên văn chữ Hán cuối sách(12) không thấy chép ký chú này. Không hiểu người dịch lấy ở đâu ra ký chú đó hay người chép chữ Hán đã bỏ sót ? Lại nữa, Nguyễn Huy Quýnh sinh 1734, đỗ Tiến sĩ 1772 rồi đi làm Giám khảo ở Thanh Hoa năm 1779 như đã nói, thế thì hai bài thơ trên chắc không phải là của Phan Kính, bởi Phan Kính đã mất từ "ngày 8 tháng 6 âm lịch năm Tân Tị (7-7-1761) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22"(13), tức là mất trước khi Nguyễn Huy Quýnh đi làm Giám khảo đến 18 năm, không lẽ ông lại còn Dữ... và Họa... nữa? Nhưng điều ấy cũng không quan trọng gì lắm, điều chúng tôi quan tâm ở đây là rõ ràng có một tác giả nào đó đã họa thơ Nguyễn Huy Quýnh và như thế ít nhất Nguyễn Huy Quýnh cũng là tác giả của bài đề; mà rồi cũng lại thật tiếc, cuốn sách về Phan Kính không thấy chép bài đề này.
Ở cuốn thứ hai, Thái Kim Đỉnh vẫn chỉ cho in lại 20 câu lục bát của Nguyễn Huy Quýnh và lấy tiêu đề: Thác lời người con gái phường vải Tràng Lưu gửi người con trai phường nón Tiên Điền(14), nhưng nhà biên soạn cũng cho biết thêm Nguyễn Huy Quýnh còn có một "bài tựa tập thơ của Ninh Tốn" bằng chữ Hán.
Khi tìm hiểu về dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, ngoài vốn tài liệu ít ỏi như thế, chúng tôi cũng chỉ khai thác thêm được một vài trích đoạn mấy bản trần của Nguyễn Huy Quýnh còn chép rải rác trong hành trạng của ông ở Nguyễn thị gia tàng(15). Tóm lại, văn nghiệp của Nguyễn Huy Quýnh chỉ còn một bài lục bát 20 câu, một bài tựa và một số đoạn điều trần. Và một câu hỏi cứ làm chúng tôi băn khoăn là chẳng lẽ một tác giả như thế mà sự nghiệp thơ văn lại chỉ còn như thế ?
Rồi nhân duyên cũng đến. Khi tôi cố gắng tìm xem liệu ngoài khái niệm "văn phái" của dòng họ Ngô Thì quãng thế kỷ XVIII - đầu XIX, thì trước Tự lực văn đoàn trong lịch sử văn học nước ta còn có một "tuyên ngôn" nghệ thuật nào nữa không, thì nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh cho biết là có một bản kiểu như "Điều lệ văn chương" của Ngô Thì Sĩ ở tập thơ Quan Lan sào. Và thật đáng mừng, ở chính tập thơ này, tôi đã phát hiện thấy 10 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Huy Quýnh.
Tập sách của Ngô Thì Sĩ có tựa là Cố Lê Tả Thanh Oai Tiến sĩ Ngô Thời Sĩ công thi sao(16 và phần Quan Lan thi tập (tên đầy đủ là Ngô Thời Sĩ công Quan Lan thi tập) được chép từ tờ 21a đến tờ 68a. Dễ nhận thấy đây là tập sách được sao chép dưới triều Nguyễn, đệm Thì của tác giả được đổi thành Thời (vì kiêng húy) và mấy chữ "Ngô Thời Sĩ công” được đặt lên đầu tên gốc của tập thơ(17).
Ngô Thì Sĩ sinh năm 1726, đỗ Tiến sĩ năm 1766, năm sau (1767) được cử đi làm Hiến sát sứ Thanh Hoa. Chính ở thời gian này, ở địa điểm này, với bản tính của người “nghiện thơ” (tựa Anh ngôn thi tập) và "nghiện ngập cảnh sắc non nước" (tựa Quan Lan thi tập), ông đã cho dựng Quan Lan sào (Tổ xem sóng) trên núi Bàn A và đặt ra thập cảnh (mười cảnh đẹp) để thù tạc, ngâm vịnh(18). Mười cảnh gồm: Khánh Bằng liệt chướng (Núi Bằng Trình ở Đại Khánh dăng hàng), Lương Mã song phàm (Đôi cột buồm trên sông Lương, sông Mã), Thạch tượng dục hà (Voi đá tắm sông), Lĩnh quy xuất thủy (Rùa núi rẽ nước), Cổ Độ kỳ đình (Đình cờ Cổ Độ), Viễn sầm yên thụ (Cây khói non xa), Cô thôn mao xá (Lều tranh thôn vắng), Cách ngạn thiền lâm (Chùa cách bên sông), a Sơn hạ ngư ky (Làng chài dưới núi) và Giang trung mục phố (Bãi tắm trâu trong sông)(19). Mỗi cảnh Ngô Thì Sĩ lấy làm đầu đề làm thành 10 bài thơ luật Đường thất ngôn bát cú và mời các văn nhân, thi hữu họa vần. Sau đây, chúng tôi xin được giới thiệu lần lượt mười bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh(20).
1. Khánh Bằng liệt chướng
Thần châu mạch phát thế lăng không,
Danh thắng yên hà hiện uất thông.
Quần điệp lâm giang khai họa trục,
Nhị điều đối ngạn thụ bình phong.
Luân đề phồn trí khâu tuyền báng,
Sơn thủy kỳ quan tọa lạc trung.
Thiên địa an bài nhân trí cục,
Phùng nghênh thú vận đại anh hùng.
Dịch nghĩa:
Núi Bằng Trình(21) ở Đại Khánh dăng hàng
Mạch phát tự Thần châu(22) thế núi chắn ngang trời,
Nơi danh thắng ráng khói nổi trên cây cối um tùm.
Núi điệp trùng như soi xuống sông mở ra bức họa,
Hai dải non kề đôi bờ dựng tấm bình phong.
Chi chít dấu xe ngựa bên gò suối,
Lạ kỳ cảnh non nước như rơi từ chốn nào xuống.
Trời đất đã an bài cảnh nước trí non nhân(23),
Như đón mời vận hứng của bậc đại anh hùng.
Dịch thơ:
Mạch tự Thần châu thế chắn trời,
Ngàn xanh ráng khói nhuốm nơi nơi.
Kề bờ đôi dải bình phong dựng,
Nghiêng bóng điệp trùng bức họa rơi.
Gò suối ngựa xe in chằng chịt,
Kỳ quan non nước đứng chơi vơi.
Non nhân nước trí an bài sẵn,
Bậc đại hùng tâm vận hứng mời.
2. Lương mã song phàm
Thiên không giang hoát cộng phi vi,
Tự tại sinh nhai lãng diện y.
Tả hữu thừa mao viên chỉ biệt,
Cao đê phù diệp ích thân phi.
Bão phong khách hướng vân biên khứ,
Doanh nguyệt nhân tòng tuyết lý quy.
Dục vấn tương yêu hà xứ thị,
Bằng Trình độ thứ điếu ngư ky.
Dịch nghĩa:
Đôi cột buồm trên sông Lương, sông Mã(24)
Lòng sông trải rộng in bầu trời xanh cùng mây bay thấp thoáng,
Kế sinh nhai an nhàn dựa trên mặt sóng.
Ngón tay vượn tách biệt hai bên, như cưỡi chiếc lông đi,
Thân chim ích(25) lúc thấp lúc cao như buông chiếc lá nổi.
Gió căng, khách nhằm theo hướng chân mây lướt thuyền đi,
Trăng đầy, người từ trong tuyết trở về.
Muốn hỏi đâu là nơi mời đón nhau,
Phải chăng là mỏm đá ngồi câu ở bến Bằng Trình(26).
Dịch thơ:
Trời cao sông rộng thoảng làn mây,
Dựa đủ sinh nhai mặt sóng đây.
Đôi ngả cưỡi lông vượn rẽ ngón,
Thấp cao nổi lá ích chao bay.
Gió căng khách hướng chân mây tới,
Trăng dãi người theo tuyết trắng quay.
Muốn hỏi đâu là nơi rước đón,
Bằng Trình bến ấy đá câu này.
3. Thạch tượng dục hà
Xuất quần giáng cước cận quần san,
Bất thí tiên khu hãn thủy quan.
Động khẩu tuyền thôn bôn phóng sở,
Phong tu trào khiết nộ hào gian.
Khởi trung bán phục hồi cao trướng,
Trầm xứ toàn phù vị đảo lan.
Vấn thập nhị thời(27) tằng kỷ dục,
Thảo mao đài giáp tự lan ban .
Dịch nghĩa:
Voi đá tắm sông
Lìa đàn, dời gót xuống gần dãy núi,
Chẳng khác nào bị roi xua xuống giữ cửa sông.
Vòi phun nước là nơi suối nuốt miệng hang,
Tiếng gầm gào chính lúc thủy triều liếm vào tóc núi.
Lúc như nửa nhổm lên, nửa rạp xuống, sóng nước xoáy trào,
Lúc đương chìm lại nổi phềnh, dòng như dựng ngược.
Hỏi rằng suốt đêm ngày, từng bao lần tắm ?
Lông cỏ, áo rêu, tự lốm đốm mốc meo.
Dịch thơ:
Lìa đàn, dời gót sát non trùng,
Chẳng khác roi xua giữ cửa sông.
Suối nuốt miệng hang vòi nước tóe,
Triều nhai tóc núi tiếng gầm rung.
Nhổm lên, rạp xuống dòng trào xoáy,
Đương nổi, bỗng chìm sóng vọt tung.
Hỏi suốt ngày đêm bao lúc tắm,
Mốc meo lông cỏ, áo rêu lồng.
4. Lĩnh quy xuất thủy
Vạn hác thiên nham độc bãi khai,
Ngưu giang hoành tiệt thủy vân lôi.
Chân đương âu nhạn du môn kiến,
Bất vị thu chiên khích lãng hồi.
Liên ổ hạc nhàn xung loát đẩu,
Thi tùng ngư lãn túy truyền bôi.
Khung lung bối thượng tu bi ký,
Kế tuế linh tòng hỗn độn lai.
Dịch nghĩa:
Rùa núi rẽ nước
Muôn núi nghìn khe, một mình vùng vẫy,
Chắn ngang sông Ngưu, sấm động mây nước.
Gặp lúc cùng đàn âu, lũ nhạn nhởn chơi bên cửa,
Chẳng phải vì lũ cá chiên, cá thu mà khuấy lên sóng xoáy.
Như hạc nhàn nhã bên đám sen giơ vuốt cầm vò,
Như ông chài lười trong đám cỏ thi say sưa truyền chén.
Trên cái lưng cong vồng lên, nên đặt tấm bia ký,
Tính tuổi, thì tuổi có từ khi đất trời còn hỗn mang.
Dịch thơ:
Riêng mình vùng vẫy núi khe này,
Ngang chặn dòng Ngưu động nước mây.
Thật đáng nhạn, âu chơi cửa ấy,
Chẳng vì lũ cá khuấy nơi đây.
Bên sen hạc đợi nâng vò đón,
Trong cỏ chài lười nối chén say.
Lưng vống, tấm bia nên dựng đặt,
Tuổi cùng trời đất tính vừa hay.
5. Cổ Độ kỳ đình
Nhất thương tẩm lục bích liên thanh,
Thủy nhiễu sơn nguyên thự tác đinh.
Giang lục hà niên danh lợi độ,
Tinh can thử xứ đoản trường đình.
Lữ du khế chước đồng yêu nguyệt,
Tao hứng khan ngâm vị ái tinh.
Tân điếm thùy lưu hồng trảo khách,
Trào thanh điểu vận hữu tâm thinh.
Dịch nghĩa:
Đình cờ Cổ Độ
Màu lam tẩm lẫn màu lục, màu biếc liền tiếp màu xanh,
Nước lượn quanh ruộng đồng bên núi, dinh thự làm trên bãi bồi.
Bờ sông năm nào thành bến đò bán mua danh lợi,
Cán cờ cắm nơi ấy là đoản đình, trường đình(28).
Khách du dừng nghỉ rót rượu mời trăng,
Hứng thơ dù ít vẫn ngâm nga vì yêu cả trời sao.
Điếm canh bên bến ai lưu được người khách in móng chim hồng(29),
Vẫn sẵn lòng nghe tiếng thủy triều và giọng chim ca.
Dịch thơ:
Lam lục tẩm màu, biếc tiếp xanh,
Ruộng nương, nhà bãi, suối khe quanh.
Cán cờ nơi ấy đường dài, ngắn,
Bờ bến năm nào chốn lợi, danh.
Trăng sáng khách dừng nâng chén đợi,
Sao sa người mến gắng ngâm thành.
Vết hồng đò trạm ai lưu được,
Lời sóng, điệu chim ý vẫn dành.
6. Viễn sầm yên thụ
Liên thiên nhãn khoát diếu Tây thiên,
Sơn thượng quan sơn tứ tiễu nhiên.
Ẩn hiện thị vân hoàn thị đảo,
Phiêu nhiên như thủy hựu như thiên.
Ly phi hữu thái yên trung thụ,
Khứ trú vô tình thụ thượng yên.
Cánh hảo tỉ cung lai quản lĩnh,
Nhất hồ nguyên bất phóng thùy chuyên.
Dịch nghĩa:
Cây khói non xa
Phóng hết tầm mắt về phía Tây tận sát bờ viền,
Trên núi xem núi, hứng nổi phiêu diêu.
ẩn, hiện kia là mây hay là đảo,
Lâng lâng kia như nước lại như trời.
Thấy lác đác có dáng cây lẫn trong khói,
Tụ rồi lại tán vô tình, khói ở trên cây.
Tốt hơn là chống gậy, xỏ giày đến mà quản lĩnh,
Một bầu cảnh sắc còn nguyên, không cho ai được chiếm riêng.
Dịch thơ:
Bờ Tây phóng mắt thẳm xa vời,
Lên núi nhìn non cao hứng chơi.
ẩn hiện dáng mây hay dáng đảo,
Lâng lâng như nước lại như trời.
Cây hòa trong khói lơ thơ bóng,
Khói lẫn trên cây tụ tán hơi.
Chống gậy xỏ giày ra quản lĩnh,
Một bầu cảnh sắc vẫn tinh khôi.
7. Cô thôn mao xá
Cận chiếm loan cao ba chử viên,
Sinh sài tri diệp, thái tri căn.
Viên lang tích thúy Đông Tây xá,
Ngạn trúc liên thanh giáp ất môn.
Hoa nhị đương chuyên hoành lộ kính,
Thạch đài tiếu ngõa sấn tường phiên.
Canh tàm tự thị vương phong hóa,
Khuyến trưởng nhân vô hội đáo thôn.
Dịch nghĩa:
Lều tranh thôn vắng
Sóng rào trên bãi đến gần sát những bụi gai trên khuỷu núi,
Xem cành tươi biết lá, xem rau biết gốc.
Cau vườn chứa sắc biếc nhà phía Đông, phía Tây,
Trúc bờ liền màu xanh cửa giáp, cửa ất.
Những chùm hoa đương nhụy chắn ngang xòa che đường gạch,
Rêu đá lấn ngói, phủ trùm tường giậu.
Làm ruộng, chăn tằm đó là phong hóa của bậc vương giả,
Khuyến khích cho khá lên, người ta không ai biết đến thôn (này).
Dịch thơ:
Bụi gai bãi núi sóng tràn sâu,
Xem cỗi cành tươi biết lá, rau.
Giáp, ất cửa liền xanh đỗi trúc,
Đông, Tây nhà cạnh biếc vườn cau.
Gạch đường xòa bóng hoa đương nhụy,
Ngói mái tường rêu đá ngả màu.
Tằm, ruộng đế vương phong hóa đó,
Thôn này ai đến, khá lên mau.
8. Cách ngạn thiền lâm
Dĩ tá nham khê liễu tục khâm,
Thử gian nguy nghiệp huống tùng lâm.
Địa liên trì thượng chung phi viễn,
Vân mật sơn trung điểu tiện thâm.
Thế tục nhập thiền hà tự thủy,
Thích lưu đắc cảnh phỉ tư kim (câm).
Năng nhàn dã giác tăng do náo,
Thiên cổ thùy nhân hội thử tâm.
Dịch nghĩa:
Chùa cách bên sông
Đã mượn cảnh núi khe để dứt vạt áo tục,
Chốn này cao chót, huống nữa lại thêm cảnh chùa.
Đất liền trên ao, chuông vẳng không xa,
Mây dày trong núi, chim chóc khuất sâu.
Thế tục vào cõi thiền bắt đầu từ đâu?
Họ nhà Thích(30) được cảnh này chẳng phải mới từ nay.
Cốt phải thanh nhàn mới giác ngộ mà nhà sư còn ồn ã,
Ngàn xưa ai là kẻ hiểu được chữ tâm này.
Dịch thơ:
Mượn núi khe buông áo tục ngay,
Giữa nơi chót vót, cảnh chùa bày.
Chuông gần vẳng tiếng ao liền đất,
Chim khuất che hình núi khuất mây.
Cõi tục vào Thiền, ai trước nhỉ ?
Thích già được cảnh, hẳn lâu nay.
Thanh nhàn mới ngộ sư còn động,
Vạn thuở ai hay ý tứ này.
9. Sơn hạ ngư ky
Sinh thành ỷ động bạc loan cư,
Chiếm đoạn nhàn ky bất cấm ngư.
Tản võng cao mang đăng cước bạc,
Thùy can thoa tĩnh tích đầu hư.
Ngõa âu đắc túy cô ngư hậu,
Đồng đẩu tần ca quải thỏ sơ.
Đào Động, Thiên Thai vô kỷ viễn,
Chu sà tư vị dã thường dư.
Dịch nghĩa:
Làng chài dưới núi
Sinh thành dựa vào hang động, nơi buộc thuyền ở,
Chiếm hẳn một bến, chẳng cấm chài câu.
Con sào rối rít quăng lưới mỏng dưới chân núi,
áo tơi tĩnh lặng buông cần không nơi đầu ghềnh.
Âu sành được say sau khi bán cá,
Chén đồng ca vang lúc mới treo thỏ(31).
Đào Động, Thiên Thai(32) không xa là mấy,
Cái phong vị thuyền bè sông nước đã từng quen nếm trải.
Dịch thơ:
Buộc thuyền sinh sống dựa bên hang,
Chẳng cấm chài câu chiếm một làng.
Chân núi rộn sào, quăng lưới mỏng,
Đầu ghềnh lặng áo thả cần ngang.
Cá vừa bán, âu sành say thỏa,
Trăng mới treo, chén đồng hát vang.
Đào Động, Thiên Thai xa mấy nả,
Hải hồ phong vị đã thừa sang.
10. Giang trung mục phố
Như hiệp Đào Lâm đặc địa phù,
Đương vu nhất đới quải ngân câu.
Thôn tiền đa sự Đông phong mã,
Chử bạn tùy duyên Dĩnh thủy ngưu.
Tình húc giác ca khinh mại kiếm,
Vãn trào bối địch thắng thừa chu.
Phạn đồng tước lộc tâm nguyên tĩnh,
Hướng Mẫu Đơn châu đắc ý du.
Dịch nghĩa:
Bãi tắm trâu trong sông
Như bứng bãi Đào Lâm(33) tới, đất nổi hẳn lên,
Một dải màu mỡ, như treo vòng đai bạc.
Trước thôn lắm chuyện, làm ngựa gió Đông(34),
Bên bãi tùy duyên, làm trâu sông Dĩnh(35).
Trong nắng mai gõ sừng hát, coi nhẹ việc bán kiếm(36),
Khi thủy triều muộn, thổi sáo lưng trâu, khoái hơn cả cưỡi thuyền.
Mục đồng đủ cơm, đối với tước lộc lòng vốn dửng dưng,
Chỉ hướng vào bãi Mẫu Đơn(37) mà đắc ý chơi đùa.
Dịch thơ:
Như cảnh Đào Lâm đất nổi vồng,
Mỡ màu dải bạc uốn đai vòng.
Rửa tai dưới bến, trâu sông Dĩnh,
Gác chuyện trong thôn, ngựa gió Đông.
Nắng sớm gõ sừng khinh kiếm bán,
Triều cường nâng sáo quá thuyền giong.
Mục đồng đủ bữa quên danh lợi,
Bãi Mẫu Đơn chơi được thỏa lòng.
Mười bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh có mặt ở Quan Lan thi tập cho phép chúng ta xác định rằng:
Thứ nhất, về thời điểm sáng tác, rất có thể chùm thơ này được Nguyễn Huy Quýnh làm trong khoảng 1769-1779. Vẫn theo PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh, sinh thời lúc làm Hiến sát Thanh Hoa Ngô Thì Sĩ đã tập hợp xong Quan Lan thi tập, rồi: "Năm 1769 về kinh ông đem khoe cùng Nguyễn Huy Oánh, ông Oánh đã viết lời tựa; 1770 vào Nghệ An, ông lại đưa cho các bạn đồng chức, nhiều người tiếp lời họa thơ; 1771 ông lại đưa cho Trần Huệ Hiên xem, ông Huệ Hiên cũng rất khen và thêm lời tựa; 1778 lên trấn Lạng Sơn ông cũng đem theo, lại đưa cho cấp dưới cùng đọc, Đốc đồng trấn Trương Hỗ cũng "khôn xiết ca ngợi", viết thêm "mấy lời tán dương ở đầu sách"(38). Đến 1779, khi Ngô Thì Sĩ đã ở Lạng Sơn thì Nguyễn Huy Quýnh lại vào Thanh Hoa làm Giám khảo và chắc là có lên núi Bàn A, sào Quan Lan, sáng tác thơ họa; nhưng tập thơ của họ Ngô đã được cụ Oánh viết tựa từ 10 năm trước thì nhiều phần chắc là cụ Quýnh cũng đã có xem, có thuộc.
Thứ hai, việc "lưu hành" của Quan Lan thi tậ được lược kể như trên, cho thấy nó đã khá quen thuộc trong giới văn nhân và cũng cho thấy cách tiếp nhận, cách "đọc nhau" của "công chúng độc giả" thời bấy giờ. Có thể nói đây là một tập thơ có tiếng và Ngô Thì Sĩ đã tập hợp được xung quanh ông một thi xã có tiếng. Việc Nguyễn Huy Quýnh xuất hiện trong thi tập ấy, trong thi xã ấy cũng phần nào cho thấy vị trí và tài năng thơ văn của tác giả này, ít nhất là ở đương - thời nửa cuối thế kỷ XVIII.
Như vậy, Nguyễn Huy Quýnh có tác phẩm văn học "đối đáp" với đại thi hào Nguyễn Du và có thơ họa vần với một trong những tác gia lớn của thế kỷ XVIII là Ngô Thì Sĩ. Tuy tác phẩm tìm lại được chưa nhiều, nhưng phải nói cái "duyên" văn chương như thế cũng ít người có được và cũng phải nói diện mạo của một tác giả văn học đang dần hiện rõ. Giới thiệu 10 bài thơ trên của Nguyễn Huy Quýnh, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm nữa của giới nghiên cứu và bạn đọc về tác giả này.
L.V.H
CHÚ THÍCH:
(1) Xin xem: Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb. KHXH, H. 2000, tr.67-77.
(2) Xem Nguyễn Huy Oánh - một tác gia tiêu biểu của thế kỷ XVIII, Tạp chí Văn học, số 4 - 1994.
(3) Chúng tôi đã có dịp giới thiệu về tập sách này, xem Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Sđd.
(4) Dẫn theo hai soạn giả Lê Thước, Trương Chính trong Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh), Nxb. Văn học, H. 1965, tr.47.
(5) Trong bài Nghĩ cổ "Trường tương tư" trình Tố Như công ở Chung Sơn di thảo, Nguyễn Huy Vinh có viết về Nguyễn Du:
Tích thị Trường Lưu du hiệp khách,
Kim vi Tràng An phú quý thân.
(Xưa chàng là Trường Lưu du hiệp khách,
Nay thành người sang trọng đất Tràng An.)
(6) Xem: - Đào Duy Anh: Hoa tiên truyện, Tri tân, Số 86, 87, 88 - 1943; và Nguồn gốc Hoa tiên ký, Tri tân, số 91, 92, 93 - 1943.
- Hoàng Xuân Hãn: Nguồn gốc văn Kiều (văn phái Hồng Sơn), Thanh Nghị, Số 30, 31, 32 - 1943.
(7) Nxb. KHXH, H. 1971.
(8) Nxb. KHXH, H. 1994.
(9) Nxb. Nghệ An. 1995.
(10) Phan Kính con người và sự nghiệp, Sđd; tr.68-70.
(11) Sđd; tr.69.
(12) Sđd; tr.201.
(13) Sđd; tr.25 và 186.
(14) Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ, Sđd; tr.163.
(15) Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Sđd; tr.67-69.
(16) Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv.21.
(17), (18) Về hành trạng Ngô Thì Sĩ, văn bản Quan Lan thi tập và các chi tiết có liên quan đến tác giả, tác phẩm này, xin tham khảo Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn (Trần Thị Băng Thanh), KHXH, H. 1992.
(19) Các bài thơ đề thập cảnh của Ngô Thì Sĩ được chép trong Quan Lan thi tập từ tờ 34b - 37b.
(20) Các bài thơ họa của Nguyễn Huy Quýnh được chép trong Quan Lan thi tập từ tờ 58b - 61b. Khoảng 1975, cụ Trần Duy Vôn cũng đã có bản dịch nghĩa đánh máy nhan đề Ngô Thì Sĩ Quan Lan thi tập, lưu tại Thư viện Viện Văn học, ký hiệu DH577, nhưng bản này đánh máy sai nhiều. Dẫu thế, chúng tôi vẫn coi đó là một tài liệu tham khảo quý.
(21) Bằng Trình: Tên núi, theo Đại Nam nhất thống chí (bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập II, Nxb. KHXH, H. 1970) thì núi này còn có tên là Thái Bình ở xã Đan Nê, một bên dựa vào núi Bàn A, trông ra sông Mã, núi nhỏ mà đẹp, trên núi có ngôi chùa, cũng gọi là chùa Thái Bình.
(22) Thần châu: Gọi tôn xưng nơi phát tích đế vương, cũng để chỉ kinh đô.
(23) Nước trí non nhân: Trích lời Khổng Tử trong thiên Ung dã sách Luận ngữ: "Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn" (Kẻ trí thích xem nước, kẻ nhân thích chơi núi).
(24) Sông Lương, sông Mã: Hai sông lớn chảy qua địa phận tỉnh Thanh Hóa, đến núi Bằng Trình thì hợp lưu chảy ra biển.
(25) Chim ích: Loài chim thường được vẽ ở đầu thuyền gỗ, ý muốn thuyền đi đúng hướng, lướt nhanh như chim ích bay.
(26) Bằng Trình: Xem chú thích (21) ở trên.
(27) Thời: viết kiêng húy.
(28) Đoản đình, trường đình: Xưa, đường trạm chia ra đoạn ngắn, đoạn dài, mỗi trạm có nơi chờ nghỉ.
(29) Móng chim hồng: ý từ câu "tuyết nê hồng trảo" (dấu móng chim hồng in trên bùn tuyết), chỉ việc đã qua được lặp lại.
(30) Họ nhà Thích: Chỉ các tăng ni tu Phật.
(31) Treo thỏ: Mặt trăng mới lên.
(32) Đào Động, Thiên Thai: Chỉ nơi tiên ở. Đây có lẽ nói về núi Thần Đầu (Thần Phù) ở Nga Sơn, Thanh Hóa, có động Bích Đào, nơi tương truyền là Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương.
(33) Đào Lâm: Thiên Vũ thành, Kinh Thư chép việc Chu Vũ Vương dẹp loạn xong, thả trâu ở bãi Đào Lâm, ý nói không dùng việc binh nữa.
(34) Ngựa gió Đông: Xuất phát từ câu: "Đông phong xuy mã nhĩ" (Gió Đông thổi tai ngựa), ý nói bỏ ngoài tai mọi sự.
(35) Trâu sông Dĩnh: Hứa Do, Sào Phủ là hai cao sĩ thời cổ. Hứa Do rửa tai ở bến sông Dĩnh Thủy để từ chối lời mời truyền ngôi và phong quan chức của vua Nghiêu. Sào Phủ nghe chuyện bèn không cho trâu uống nước ở sông ấy, sợ trâu bẩn miệng.
(36) Theo Hán thư, quận Bột Hải mất mùa, trộm cướp nổi nhiều. Tuyên Đế sai Cung Toại đến làm Thái thú. Toại chỉ khuyên bảo làm ăn, lệnh không bắt trộm cướp. Bọn chúng mừng đeo kiếm đao ra đón Toại, Toại bảo nên bán đao mua nghé, bán kiếm mua trâu.
(37) Bãi Mẫu Đơn: chưa rõ.
(38) Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn , Sđd; tr.141.
|