TB

DANH NHÂN NGÔ THÌ NHẬM
(1746 - 1803)

TRỊNH KHẮC MẠNH

Ngô Thì Nhậm một danh nhân nổi tiếng đất Bắc Hà, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746, nguyên quán người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội). Ngô Thì Nhậm sinh ra và lớn lên trong một dòng tộc văn võ song toàn, với truyền thống dòng họ và được sự giáo dưỡng của ông cha (đặc biệt người cha là Ngô Thì Sĩ), Ngô Thì Nhậm đã sớm trở thành nhà tri thức lỗi lạc vào cuối thế kỷ XVIII trong lịch sử văn hoá Việt Nam, được người đời đương thời và các thế hệ người Việt Nam sau này tôn vinh. Nhận xét về Ngô Thì Nhậm, đồng chí Trường Chinh, nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tôn vinh Ngô Thì Nhậm là nhà chính trị học, quân sự học và văn học.

So với các nhà Nho khác, Ngô Thì Nhậm rất sớm trưởng thành và nhập thế. Năm 30 tuổi, ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775) đời vua Lê Hiển Tông. Thời Lê - Trịnh, Ngô Thì Nhậm đã giữ các chức quan, như: Hiến sát phó sứ Hải Dương, Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam, Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên, Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Hiệu thảo, Hữu thị lang Bộ Công.

Khi nhà Lê mất, Ngô Thì Nhậm đã vượt lên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, ông theo nhà Tây Sơn và được vua Quang Trung trọng dụng. Khi gặp Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung đã nhận xét: Ngô Thì Nhậm là dòng văn học Bắc Hà, thông thạo việc đời. Sau đó, Ngô Thì Nhậm được bổ giữ các chức quan, như: Tả thị lang Bộ Lại, Thượng thư Bộ Binh, tước Tình phái hầu và được vua Quang Trung giao trọng trách soạn thảo các văn bản ngoại giao của triều đình với nhà Thanh (Trung Quốc). Ngô Thì Nhậm đã hết lòng phục vụ triều đại Tây Sơn, và bằng tài trí của mình, ông đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những cống hiến của Ngô Thì Nhậm cho triều đại Tây Sơn đã được các nhà nghiên cứu khẳng định trên các lĩnh vực, như về: chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế... Đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển văn hoá, Ngô Thì Nhậm là một trong những tác gia tiêu biểu của thời kỳ Tây Sơn về: văn học, sử học và triết học...

Khi Nguyễn Ánh đưa quân ra Bắc chiếm thành Thăng Long, Ngô Thì Nhậm bị bắt, sau đó ông bị Nguyễn Ánh đưa ra kể tội và đánh đòn ở Văn Miếu để cảnh cáo những sĩ phu Bắc Hà đã theo nhà Tây Sơn. Sau trận đòn này, Ngô Thì Nhậm đã qua đời vào ngày 9 tháng 3 năm 1803.

Trong bối cảnh xã hội phong kiến nước ta cuối thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm thực sự là một người yêu nước, ông đã mang tài năng của mình để phục vụ Tổ quốc. Khi Ngô Thì Nhậm được giữ chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc sau kiêm cả chức Đốc đồng Thái Nguyên và cha ông là Ngô Thì Sĩ làm Đốc trấn Lạng Sơn, ông đã tự hào viết bài thơ Mừng cha đi trấn thủ Lạng Sơn:

Phiên âm:

Ngũ sắc tường vân giáp đạo kì,
Sủng quang thử nhật bách ban kí.
Nhất gia binh tượng liên tam trấn,
Vạn lí phong cương khống nhị thùy.
Xuất cách thù ân chân ngộ chúa,
Bồi hoan thắng hội toại vi nhi.
Vũ ban nguyện hiến Nam Sơn thọ,
Trú Cẩm đường tiền khánh thái mi.

Dịch thơ:

Năm sắc mây lành, cờ rợp đất,
Vinh quang trăm vẻ, lạ trăm đường!
Ngựa voi ba trấn chung môn hộ,
Biên giới hai vùng giữ kỉ cương!
Gặp chúa, ngửa nhờ ơn đặc biệt,
Làm con, đã thỏa hội huy hoàng!
áo ban múa khúc Nam Sơn thọ,
Lễ chúc mừng dâng trước Cẩm đường.
(Ngô Linh Ngọc dịch)

Khi chúa Trịnh Sâm đi vào con đường ăn chơi hưởng lạc, để con trưởng con thứ chia phe phái và tranh giành quyền lực, nổ ra vụ án năm Canh Tý (1780). Hai năm sau, chúa Trịnh Sâm mất, kiêu binh nổi loạn, những ai bị coi là đi tố giác vụ án năm Canh Tý đều bị giết. Ngô Thì Nhậm bị coi là người có liên đới, nên ông đã trốn về quê vợ ở xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) để lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ngô Thì Nhậm chờ thời, luôn hướng vào tương lai, một ngày nào đó sẽ có đấng quân vương xuất hiện và ông lại được đem tài năng của mình để phục vụ đất nước. Bài phú Mộng Thiên Thai của Ngô Thì Nhậm đã nói lên chí hướng ông:

Phiên âm:

Uẩn mĩ ngọc dĩ thâm tàng,
Tiềm thần long hồ mạc khuy.
Dĩ đãi phù tri ngô tử giả, hành ngô tử chi chí, vận bát cực nhi cán cửu di.

Dịch nghĩa:

Ngọc tốt giấu kín nơi sâu,
Rồng thần lặn, không kẻ thấy.
Chờ khi người biết đến mình, chí lớn nọ đem ra vùng vẫy, giúp tám cực mà chuyển xoay, vỗ chín cõi yên rường mối.
(Ngô Linh Ngọc dịch)

Khi phong trào Tây Sơn nổi lên nắm quyền cai trị đất nước, thay thế cho triều đại Lê - Trịnh suy tàn. Ngô Thì Nhậm đã bày tỏ nổi vui mừng phấn khích của mình vào một thời đại mới qua bài thơ Đại phong:

Phiên âm:

Vạn đội du long ủng Ngọc hoàng,
Uy gia hải nội cộng phi dương.
Tảo không tích vụ khai Thu sắc,
Y cựu trung thiên kiến Thái dương.
Xuy khứ dĩ vô trần cấu tại,
Tân lai trùng đổ thất gia xương.
Phi khâm độc tự ngâm du tử,
Tây thượng tường vân thị cố hương.

Dịch thơ:

Muôn đội rồng bay giúp Ngọc hoàng,
Cùng bay đi khắp rậy oai vang.
Mù vừa quét sạch bừng Thu sắc,
Trời vẫn như xưa ánh Thái dương.
Bụi bặm thổi tan không vẩn bợn,
Cửa nhà đổi mới lại phong quang.
Một mình khoác áo ngâm du tử,
Mây phía Tây lành ấy cố hương.
(Khương Hữu Dụng dịch)

Năm 1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ hai, xuống chiếu cầu người hiền tài trong quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh và được Ngô Thì Nhậm hưởng ứng. Rõ ràng Ngô Thì Nhậm là người thức thời, đã không bảo thủ cố chấp như các cựu thần nhà Lê khác mà sẵn lòng ra giúp nhà Tây Sơn để phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân.

Trong quãng thời gian phục vụ triều Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm luôn được vua Quang Trung tin dùng. Khi vua Quang Trung đột ngột qua đời, Ngô Thì Nhậm đã sẵn lòng giúp vua Quang Toản trị vì đất nước. Nhưng sự ra đi không được chuẩn bị trước của vua Quang Trung đã đem đến nỗi trống vắng trong lòng Ngô Thì Nhậm và cảnh huy hoàng của thời vua sáng, tôi hiền, của một thời đất nước thịnh trị đã thể hiện trong thơ ông:

Phiên âm

Cửu tiêu tuyên chỉ thôi triều sứ,
Mã sậu xa trì chỉ Đẩu tiêu.
Thiên thự tinh thần khai huyến lạn,
Địa di nham lĩnh thất thiều nghiêu.
Hoàng hoàng minh chúc truyền mai dịch,
Bái bái hành tinh phất liễu điều.
Ngũ dạ loan thanh tần nhập mộng,
Y hi Nam khuyết bạng Quân Thiều.
(Dạ hành)

Dịch nghĩa:

Chiếu ra giục giã sứ chầu vua,
Hướng bắc, giong xe ruổi vó lừa.
Trời sáng ngàn sao soi lấp lánh,
Đất bằng đồi núi hết lô nhô.
Trạm mai đuốc sáng huy hoàng dọi,
Cành liễu, cờ bay phất phới lùa.
Xe giá năm canh vào trong mộng,
Tưởng bên cửa khuyết nhạc Thiều đưa.
(Khương Hữu Dụng dịch)

Xuất phát từ lý tưởng cao cả của mình, Ngô Thì Nhậm đã lấy tên tự là Hy Doãn với hàm ý là hy vọng làm nên sự nghiệp như nhân vật Y Doãn thời nhà Thương (Trung Quốc).

Ngày nay, khi đánh giá về Ngô Thì Nhậm, có những ý kiến đã xếp ông vào hàng ngũ “... Những thiên tài như thế mãi mãi là những ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam”(1) và “Một người tri thức chân chính”(2). Như vậy, sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm xứng đáng để các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ, ngợi ca và tự hào.

Bên cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, ngoại giao của mình; Ngô Thì Nhậm còn để lại cho đời một di sản thơ văn rất phong phú, đồ sộ và là nhiều nhất so với những tác gia cùng thời với ông. Theo sự ghi chép của sử sách, thì Ngô Thì Nhậm có khoảng hơn 20 tác phẩm thơ văn, nhưng hiện tại chúng ta mới tìm được 13 tác phẩm của ông mà thôi. Nghiên cứu và giới thiệu về thơ văn của Ngô Thì Nhậm, xưa nay, đã có nhiều công trình, có thể kể như: Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (hai quyển), Nxb. KHXH, H. 1978; Thơ văn Ngô Thì Nhậm (tập 1), Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Nxb. KHXH, H. 1979; Ngô Thì Nhậm - Tác phẩm (4 tập), Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb. Văn học, 2001 - 2002; và trong các bộ Tổng tập văn học, Hợp tuyển văn học khác; cùng hàng trăm bài viết công bố trên các báo và tạp chí khoa học, v.v...

Để giới thiệu về di sản thơ văn của Ngô Thì Nhậm, một tác gia văn học lớn của nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII. Ban Hán Nôm thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia), ngay từ năm 1975, đã có chủ trương sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch và công bố xuất bản bộ Thơ văn Ngô Thì Nhậm, với quy mô gồm 4 tập: dịch tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (tập 1); tuyển dịch thơ ở các tập Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu (tập 2); dịch tác phẩm Kim mã hành dư (tập 3); dịch tác phẩm Hàn các anh hoa (tập 4). Công việc đã kéo dài đến 5 - 6 năm, với sự tham gia của các vị túc nho, như: Cao Xuân Huy, Thạch Can, Đào Phương Bình, Hoàng Tạo, Trần Duy Vôn, Đỗ Văn Hỷ, v.v. và một số cán bộ khác, như: Lâm Giang, Hà Thúc Minh, Mai Hồng, Đỗ Thị Hảo, v.v. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, sau chỉ công bố được tập Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (tập 1) mang tên Ban Hán Nôm mà thôi; còn các tập khác thì hoặc dưới dạng bản thảo, hoặc còn dang dở. Để tiếp bước sự nghiệp nghiên cứu về Ngô Thì Nhậm của những người đi trước và trên cơ sở thu thập, chỉnh lý, bổ sung nhiều tác phẩm khác của Ngô Thì Nhậm; Viện Nghiên cứu Hán Nôm có kế hoạch giới thiệu bộ Thơ văn Ngô Thì Nhậm (toàn tập), nhằm giúp người Việt Nam hôm nay hiểu đầy đủ hơn về di sản thơ văn mà Ngô Thì Nhậm đã cả đời sáng tác và để lại cho chúng ta.

Bộ Thơ văn Ngô Thì Nhậm (toàn tập) dự kiến xuất bản thành 5 tập, gồm:

- Tập 1: có các tập Bút hải tùng đàm (thơ), Thủy vân nhàn vịnh (thơ), Kim mã hành dư (văn ).

- Tập 2: có các tập Ngọc đường xuân khiếu (thơ), Cúc hoa thi trận (thơ), Thu cận dương ngôn (thơ), Hào mân ai lục (văn), Hàn các anh hoa (văn).

- Tập 3: có các tập Hoàng hoa đồ phả (thơ), Bang giao hảo thoại (văn).

- Tập 4: Xuân thu quản kiến (văn).

- Tập 5: có các tập Cẩm đường nhàn thoại (thơ), Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (văn).

Cách chia tập như trên, là dựa vào thời điểm sáng tác của Ngô Thì Nhậm, tuy nhiên cũng chỉ là ở mức tương đối mà thôi.

Khi tổ chức triển khai bộ Thơ văn Ngô Thì Nhậm (toàn tập), Viện Nghiên cứu Hán Nôm giao cho NCVC. Lâm Giang làm chủ biên, người mà đã có ngót 30 năm theo đuổi, tìm hiểu, biên dịch và nghiên cứu thơ văn tác gia Ngô Thì Nhậm. Hy vọng bộ sách sớm ra mắt bạn đọc, góp phần nghiên cứu giới thiệu tác gia, tác phẩm Hán Nôm và phần nào đáp ứng nhu cầu xã hội hóa di sản Hán Nôm trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

T.K.M

CHÚ THÍCH:

(1) Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. Sự Thật, H. 1975, tr.171.

(2) Cao Xuân Huy: Ngô Thì Nhậm, một người tri thức chân chính trong Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm. Nxb. KHXH, H. 1978, tr.9.

TB

NGÔ THÌ NHẬM, MỘT TẤM LÒNG THIỀN CHƯA VIÊN THÀNH

TRẦN THỊ BĂNG THANH

Ngô Thì Nhậm là một nhà nho mang hoài bão kinh bang tế thế và tinh thần tự nhậm rất cao. Điều đó như đã được tỏ bày ngay trong tên riêng, tên tự, tên hiệu của ông: Thì Nhậm (gánh vác đúng thời), Hy Doãn (ước vọng trở thành bậc Y Doãn, tướng giỏi có tài trị nước của nhà Thương) và Huy Phó (Phó Duyệt, Tể tướng giỏi nhà Thương). Có lẽ trong giới Nho sĩ nhiều thế kỷ của Việt Nam, không mấy ai thể hiện tâm nguyện một cách "lộ liễu" và mạnh như thế, có chăng chỉ là ở vua Tự Đức (vua húy là Thì, đế hệ là Hồng Nhậm). Có thể với sự trải đời và linh cảm trực giác về thời cuộc, Ngô Thì Sĩ đã thấy đất nước đang cần một tài năng gánh vác lớn. Và trách nhiệm ấy ông cũng như gia tộc mong muốn ủy thác cho người con trưởng dòng họ, điều mà dường như Ngô Thì Sĩ cũng cảm thấy chưa thể đảm nhiệm được. Ngô Thì Sĩ chú ý răn dạy con từ khi còn nhỏ và ông từng đề ra yêu cầu rèn luyện rất khắc nghiệt:

Cầu hiền vị hữu thu tao khách,
Tác hoạn hà từng cập túy ông.
Tức sử ngô ngôn như bất tín,
Thí khan bảng thượng dữ triều trung.

Lập công thả yếu phần ngâm cảo,
Tác chí hoàn tu phá tửu bôi.
Tha nhật danh thành quan hựu hiển,
Phong lưu thục cấm thử cao hoài.

Hiển dương thù phụ mẫu,
Khai thác dụ nhi tôn.
Phương thị chân nam tử,
Phong lưu hạt túc ngôn.

Đại khôi chí ứng cử,
Tể tướng chí vi quan.
Miễn tử tân niên ngữ,
ái thân vô đẳng nhàn.
(Huấn trưởng nhi)

(Tìm người hiền, chưa có ai chọn khách thơ,
Làm quan, chưa bao giờ đến lượt ông say rượu.
Nếu con chưa tin lời cha,
Thì hãy xem trên bảng vàng và các quan trong triều.

Muốn lập công, hãy đốt bản thảo thơ,
Muốn lập chí phải đập vỡ chén uống rượu.
Mai ngày thành danh, quan tước rỡ ràng,
Thì ai cấm thú vui tao nhã ấy.

Làm quan, cha mẹ vẻ vang, ấy là đền công sinh thành,
Mở mang cơ nghiệp, ấy là gây dựng cho con cháu.
Như thế mới đúng là trang nam tử,
Còn sự phong lưu, đâu đáng kể.

Đi thi, phải quyết chí giành ngôi cao,
Làm quan, phải lập chí đến ngôi Tể tướng.
Đây là lời khuyến khích con nhân năm mới,
Yêu thương cha mẹ thì chớ coi thường).
(Con trưởng tôi thích làm thơ lại cũng biết uống rượu, bấy giờ nhân năm mới, đi chầu về, tôi làm thơ để răn).(1)

Về sau mỗi khi Ngô Thì Nhậm đạt được những chính tích tốt, người cha đều vui mừng, ngợi khen, nhiều khi không dấu diếm lòng tự hào và tin cậy. Ngô Thì Sĩ có sáu người con trai, trừ hai người còn quá nhỏ và một người đã cho em làm con nuôi, ông tỏ ra mong đợi và gửi gắm nhiều ở Ngô Thì Nhậm. Ông hay làm thơ mừng con và răn bảo. Ông lấy làm hãnh diện vì một điều tốt lành "phụ tử đồng khoa, cha con đồng triều", nhất là Ngô Thì Nhậm lại được Trịnh Sâm đánh giá cao, ưu đãi và chấp nhận cả cá tính "cứng đầu" của chàng Tiến sĩ trẻ tuổi:

"Ta nuôi ngươi như nuôi tuấn mã. Tuấn mã hay đá, hay cắn làm người ghét, nhưng sức chạy ngàn dặm mà không có người cầm cương giỏi thì không chạy hết sức. Còn loại ngựa tồi thì mặc người sai khiến, ai mà chẳng yêu, nhưng ăn no nằm chuồng, chỉ tốn rơm cỏ thôi."

(Văn trần tình cáo Tĩnh Vương)

Đầu năm 1778 Ngô Thì Sĩ ra làm Đốc trấn Lạng Sơn, Ngô Thì Nhậm đang giữ chức Đốc đồng Kinh Bắc được giao kiêm Đốc đồng Thái Nguyên và tham gia điều hành việc đánh dẹp Hoàng Văn Đồng nổi dậy ở mỏ đồng Tụ Long. Ngô Thì Sĩ rất tự hào về việc hai cha con "thống lĩnh ba trấn và khống chế hai biên thuỳ", mặc dù ông hiểu đó là một trọng trách và không kém phần vất vả. Cũng trong năm này Ngô Thì Sĩ có việc về triều, Ngô Thì Nhậm bận việc quân chỉ tiễn cha được đến chân núi Tam Tằng, lòng rất áy náy, nhưng đối với người cha thì sự nghiệp của con mới là quan trọng. Ngô Thì Sĩ khuyên con phải lấy trung làm hiếu, ông không coi nặng việc sớm hỏi tối thăm, như tình nhi nữ. Giữa đường ông còn gửi thư dặn dò "Thân con nghìn vàng phải gắng giữ gìn". Bữa tiệc tiễn đưa dưới chân núi Tam Tằng này là lần gặp mặt cuối cùng giữa cha con Ngô Thì Nhậm.

Là phận con, Ngô Thì Nhậm cũng đã không làm cha thất vọng, ông đã là một quan chức tốt, biết chăm lo đến đời sống người dân. Lý tưởng giúp triều đình đưa dân trở lại thời thái bình thịnh trị là một khao khát của Ngô Thì Nhậm. Cũng vì vậy trong bất cứ cương vị nào Ngô Thì Nhậm cũng không ngại khó nhọc xông pha, không ngại thẳng thắn trình bày trước chúa tình cảnh khốn cùng của người dân cũng như những tệ nạn trong giới quan chức. Trình bày về xứ Hải Dương, Ngô Thì Nhậm viết:

"Ruộng đất ở vùng Đông nam thuộc vào loại tốt nhất trong nước, sông ngòi vây như dải mũ, đai lưng, đồng lầy mầu mỡ, dù hạn hán, lụt lội, cũng không phải lo ngại... Nay đồng ruộng hoang vu, bỏ mặc không nhìn đến mà những nhân viên cai quản lại căn cứ vào sổ cũ để thu thuế, người làm ruộng phải mượn nghề mọn khác để lấy thóc nộp tô. Cái ẩn tình đau khổ của dân chính là ở chỗ đó. Tích lũy dần lâu đến chỗ không cung ứng nổi nữa. Do đó, dân chúng nghèo kiết, tan tác cư ngụ ở các vùng lân cận, những kẻ ngoan ngạnh xảo trá thì tìm đủ mọi cách để được miễn trừ. Hiện tình ngày nay ở bản hạt, số mới phiêu bạt có tới 53 xã, số người được miễn trừ không chính đáng tới 30 xã. Phụng xét trước năm Canh Thìn, hạng chính đinh phải chịu phu dịch có tới hơn 13.500 suất, mà nay đăng tên vào sổ đinh chỉ có hơn 9.800 suất. Tình trạng hao mòn đó qua năm này tháng khác, không biết duyên do tại đâu mà đến nỗi thế ?" (Điều trần Hải Dương xứ tình tệ khải).

Với chức phận quan ở Ngự sử đài, nhân cuối năm, Ngô Thì Nhậm trình bày:

"Thần nghe nói "Đa quan thì nhiễu dân, lưới thưa thì dân giàu". Cho nên thiên Chu quan nói: "Quan chức bất tất phải đủ số". Thiên Lập chính nói: "Cẩn thận noi phép, tùy theo nặng nhẹ mà định hình phạt cho thích trung". Những điều đó đều là gốc của chính sự, có quan hệ đến tính mệnh của dân, sai một li, đi nghìn dặm. Gần đây noi theo phép cũ đã lâu, sự phiền nhũng dần dần thêm mãi. Có chức quan không nên đặt thì lại đặt, có việc không nên thêm thì lại thêm, kiện tụng có vụ không nên xét mà cứ xét. Đại khái cứ dựa vào chức việc để sách nhiễu, dựa vào pháp luật để làm lợi riêng, khiến cho đời sống của dân khánh kiệt vì quan nhiều, chính thể bị tổn thương vì án nặng. Nay ở thôn quê dân rất thiếu ăn, nới lỏng phần nào dân được nhờ phần ấy, mà con đường nới lỏng cho dân, trộm nghĩ trước hết nên dẹp bỏ những quan chức tạp nhũng, tỉnh giảm những công việc phiền nhiễu."

(Bài khải điều trần về cuối năm của bản đường quan ở Ngự sử đài).

Đọc những bài khải điều trần của Ngô Thì Nhậm, có thể thấy từ tư tưởng đến văn phong đều theo "mạch" của Bảo chướng hoằng mô, có khác chăng chỉ là thiếu một chút giọng điệu nhún nhường mềm mỏng của người cha mà thôi. Một nét ảnh hưởng đậm nữa của Ngô Thì Nhậm ở cha là quan niệm về Phật giáo. Sinh thời Ngô Thì Sĩ đã đôi ba lần phát biểu về vấn đề này. Ông từng làm bài Huyền Quang hành giải, chứng minh đạo hạnh cao cả của vị Tổ thứ ba Thiền phái Trúc Lâm; viết ký về việc trùng tu chùa Tam Giáo ở vùng Hà Nam. Những năm cuối đời, ở Lạng Sơn ông lại đích thân lập một đền thờ Tam giáo trong động Nhất Thanh, tự coi mình là một Cư sĩ. Ngô Thì Sĩ lý giải về sự đồng tôn của tam giáo như sau:

"Đạo chỉ một mà thôi. Từ bi thanh tịnh và nhân nghĩa trung tín, cái dụng của nó khác nhau chút ít nhưng cái thể thì đều quy về chính tâm tu thân. Cái thể của nó đều đủ để lập kỷ cương loài người mà duy trì nền giáo hóa thịnh trị...” (Trùng tu Tam Giáo tự bi ký).

Theo Ngô Thì Sĩ, ba giáo "cùng quê hương, cùng phong khí mà nhất thống", "Khổng Tử coi Phật là bậc thánh nhân ở Tây phương", "Lão Tử như con rồng" và chưa từng gạt họ ra ngoài cương thường lễ nhạc... Sự chia lìa tranh cãi giữa các phái xảy ra chẳng qua là do "ngô đảng" (bọn nhà nho ta) không hiểu biết, chỉ nhặt nhạnh những điều thô thiển đem ra khích bác nhau mà thôi. Ngô Thì Nhậm cũng rất tâm đắc với ý tưởng đó. Nhận xét về tư tưởng đạo học của cha, ông viết:

"Ngọ Phong tướng công là tiên quân ta, đạo học thuần túy, nghiên cứu sâu cả đạo trời, đạo người, xem rộng cả học thuyết của trăm nhà, đem sáu kinh ra làm khuôn mẫu, viết ra bài văn bia chùa Tam Giáo ở Tuyết Sơn, nói rõ cái tông chỉ nhất quán của Nho, Đạo, Thích... Tiên quân lúc bình sinh, khí tiết ngay thẳng, thao lược trác việt, tinh thần khoáng đạt, đã hiểu được cái tinh túy “vô khả vô bất khả" của đạo Nho; thấu được cái thể “phi tưởng phi phi tưởng” của đạo Thích ta. Sáng mà không quá sáng, nhạt mà không quá nhạt, sắc mà không phải sắc, không mà chẳng phải không, không thể thấy mà biết được, lại chẳng phải nghe mà biết, những điều đó trong các bài khóa lễ há dễ phô bày được hết ư ? Đạo của tiên quân bắt nguồn sâu xa ở Nho và Thích, bàng bạc khắp miếu vũ, lưu truyền mãi cho con cháu muôn đời" (Đề tựa tập Tân đàm tâm kính lục).

Những lần trực tiếp phát biểu về đạo Phật và đạo Lão, Ngô Thì Nhậm đều nhấn mạnh tinh thần "một gốc" của ba giáo. Trong bài Phổ khuyến để sửa chùa Đức Lâm Linh Am ông viết:

"Đạo thể (bản nguyên của đạo) vốn cùng một gốc. Lý không chia ra Nho thì sáng tỏ Thích thì ẩn dấu, nhân luân đứng giữa, ơn nghĩa mà con người phải mang không gì nặng bằng sự dạy dỗ của cha và thày". (Trùng tu Đức Lâm Linh Am tự phổ khuyến).

Ngô Thì Nhậm cho rằng, xét về cái thể thì: trời hết thảy là lý, Phật hết thảy là pháp, người hết thảy là tâm. Riêng đối với đạo Lão có đôi lúc Ngô Thì Nhậm coi là thứ yếu so với Nho và Phật. Ví như ông đã sửa quán Tam Thai thành chùa Tam Thai, sửa tượng Tam Thanh (tượng ba vị tiên ở cung Thượng Thanh, Ngọc Thanh, Thái Thanh) thành tượng Phật Tam Thế; bởi vì "Truyện thần tiên thật mênh mang tôi không thể nào biết được. Phật dẫu là hư vô nhưng chủ yếu là trang nghiêm và bác ái. Đạo Phật đó rất gần với người nên người ta yêu mến mà phụng thờ". ở đây cũng còn một lý do nữa là quán và tượng đều do người phương Bắc trước đây xây tạo, có thể Ngô Thì Nhậm nhân quán đổ nát muốn sửa chữa theo sự thờ cúng phổ biến trong dân. Song cũng đôi khi ý tưởng ấy của ông thể hiện cả trong những phát biểu trên bình diện tu dưỡng tính tình và văn chương. Ông cho rằng sau Chu Tử cũng có một số nhà nho "biết đạo", mà Lưu Nhân là người có "chân kiến" hơn cả. Và Ngô Thì Nhậm đã trích dẫn lời của Lưu Nhân trong bài Thoái Tề ký:

"Lưu Nhân nói: "Những người mang cái thuật của họ Lão, đem cái lợi hại của một thời mà lường sự vui buồn của thiên hạ, cuối cùng đi đến chỗ lỡ nước, hại dân. Song những người ấy vẫn đứng ngoài vòng vạn vật mà không chịu trách nhiệm gì, lại còn tự cho mình đúng với cái nghĩa "tùy thời" của Khổng, Mạnh và cái "danh lý" của Trình, Chu. Họ không ngần ngại gì mà tự đánh giá thế và mọi người cũng không ai tranh cãi". Văn chương của Lưu Nhân như thế là có lý. Lưu Nhân hẳn là người hiểu sâu đến chỗ thần diệu của Khổng, Mạnh, Trình, Chu rồi. Nhưng sao Lưu Nhân lại nói cái "thuật của Lão Tử"? Vì các học giả nhìn vào sự "chân tích" và "lực tiễn" của các bậc hiền thánh rất mơ hồ, họ chỉ biết dụng công vào "chủ kính" và "cùng lý" mà thôi. Thế rồi công việc "chủ kính" đã đưa họ đến chỗ "ngưng thầm lặng biết", "ngồi yên định tưởng", biến chữ "kính" thành một thứ tĩnh mịch không vận động gì hết, chữ "cùng lý" đã đưa họ đến chỗ "chủ tâm mơ hồ", "nói phiếm thành suông", cho cái lý ấy là một vật trống không, không thể nắm bắt được". (Luận văn thị đệ Học Tốn; bản dịch của Nguyễn Văn Tú).

Ngô Thì Nhậm phân biệt kẻ sĩ giỏi văn và kẻ sĩ "bác văn ước lễ", theo ông thì nếu mang cái "thuật của Lão Tử" đứng vào chỗ cái nghĩa "tùy thời" của Khổng, Mạnh và "danh lý" của Trình, Chu thì "thiên hạ mắc vạ không nhỏ" (Bđd). Kẻ sĩ học rộng nhưng vì không nắm được bản lĩnh của cái tinh tuý của Nho gia nên "học chủ kính thì sa vào thuyết Thiền học, cùng lý thì sa vào thuyết Trang" không thể nào trở lại sự giản phác, giữ được cái tinh túy của Nho gia nữa.

Tuy nhiên trên suốt các nẻo đường việc dân việc nước đôi khi Ngô Thì Nhậm cũng muốn có được những phút ngừng nghỉ "thân tâm" nơi cửa Thiền. ý nghĩ ấy bắt đầu xuất hiện có lẽ là vào thời điểm ông lánh nạn ở Thái Bình. Trong các Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, các soạn giả tuyển chọn được bốn bài thơ về chùa mà Ngô Thì Nhậm làm trong thời gian này, nhiều nhất trong các chặng đường thơ của ông. Có một buổi sáng mùa xuân "kẻ sĩ tự nguyện gánh vác việc đời" đang phải lẩn trốn chính triều đình ấy dắt tay bè bạn(?) tới thăm một ngôi chùa làng, thuộc huyện Vũ Thư. Quang cảnh đã khiến cho ông ngậm ngùi: cái nơi thanh tịnh từng giúp người đời trừ bỏ "sáu căn", gốc rễ của sự đam mê tội lỗi, bây giờ đã hoang phế, trở thành chốn cho bọn trộm cướp tụ tập, mắt tuệ từ bi và nhìn thấu muôn cõi cũng không đủ sức soi chiếu bọn "quai côn", còn sư sãi thì phải bỏ chùa mà đi:

Xuân thiên huề thủ đáo Vân Môn,
Nhất tọa thiền lâm tịnh lục côn.
Uyển táo đài phong tăng bất tại,
Sài phi vũ lạc Phật vô ngôn.
Bán văn bất trị hủ hồng viện,
Bát tự không mê yên thủy thôn.
Nhân tĩnh dạ thâm đa thiểu khách,
Khả năng tuệ nhãn chiếu quai côn.
(Vân Môn tự)

(Dạo cảnh chùa Vân buổi đẹp trời,
Rừng thiền thanh tịnh vốn là nơi.
Rêu phong bếp oản, sư xa bước,
Mưa hắt hiên tre, bụt lặng lời.
Giá chẳng nửa đồng, chùa đổ nát,
Sông phân đôi nhánh, xóm mù khơi.
Canh khuya trộm cướp thường qua lại,
Mắt tuệ nào đâu, có dõi soi).
(Chùa Vân Môn; Nguyễn Sĩ Lâm dịch)

Cảm giác ấy trở lại với ông trong một lần ông đến thăm một ngôi chùa cổ khác, không rõ ở thôn xóm nào:

Tầng lâu duyệt lịch kỷ tinh sương,
Thắng cảnh u khê dĩ bán hoang.
Trai táo yên tiêu xuân thảo mậu,
Hoa giai lộ lãnh cốc phong lương.
Nhiễu lâm linh thước y hàn thụ,
Khấu án bần tăng xí diểu hương.
Thiên cổ liêu liêu di tích tại,
Triêu dương quá liễu hựu tà dương.
(Cổ tự)

(Tầng lầu dầu dãi mấy tinh sương,
Thắng cảnh còn đây ngọn suối hoang.
Thềm gạch gió lùa, hơi lạnh lẽo,
Bếp chay cỏ mọc, dấu mơ màng.
Liệng rừng, chim thước tìm nương bụi,
Lễ án, sư già lặng đốt hương.
Di tích nghìn xưa coi vắng vẻ,
Triêu dương dãi bóng, lại tà dương ! )
(Chùa cổ; Nguyễn Sĩ Lâm dịch)

Quang cảnh hoang lạnh của ngôi chùa như thông báo sự sa sút của đạo Phật không còn ở buổi thịnh thời nữa. Có một nét gì giống với ngôi chùa hoang ở thôn Mai (Mai thôn phế tự) trong thơ Trần Quang Triều thời cuối Trần:

Tàn bi trầm mộ vũ,
Cổ Phật ngọa tà dương
.

(Cổ Phật chiều dãi nắng,
Bia tàn tối dầm mưa).

Dù vậy trong hoang tàn còn thấp thoáng bóng một nhà sư lặng lẽ thắp hương lễ Phật và hơn thế có con linh thước còn bay quanh để tìm một khóm cây lạnh nương náu. Tứ thơ này gợi nhớ đến một tứ thơ trong bài Đoản ca hành của Tào Tháo:

Nguyệt minh tinh hy,
Ô thước Nam phi.
Nhiễu thụ tam táp,
Hà chi khả y ?

(Trăng sáng sao thưa,
Ô thước về Nam.
Ba vòng diễu quanh,
Cành nào gửi thân ? )

Có nhà nghiên cứu đặt câu hỏi rằng "Có thể suy đoán đấy là thời kỳ ông đang đắn đo đi tìm một chốn về không ? Về với nhà cựu Lê, về với Nguyễn Ánh hay về với người áo vải Tây Sơn ?"( 2). Đó là một câu hỏi sâu sắc và có lẽ chúng ta rất muốn tìm được lời đáp trong những giả thiết này. Có điều bấy giờ Ngô Thì Nhậm đang rất nặng tình với triều đình Lê - Trịnh. Lời trần tình cáo Tĩnh Vương và lời điếu Hoàng Đình Bảo chứng tỏ ông vẫn kính yêu Trịnh Sâm và đánh giá rất cao hành động chống trả cuối cùng của Huy Quận công. Ông vẫn chờ đợi một "mỹ nhân" nhưng với tâm thế Thiên nhai cô thần lệ bất cấm, Dạ dạ triêm khâm đối tử vôn (Bề tôi bơ vơ nơi chân trời, không cầm nổi nước mắt, Đêm đêm đẫm vạt áo trông về tử cấm thành), như thế thì có phần chắc ông chưa thể đi tìm một "chốn về" khác. Tuy vậy những sóng gió trên biển hoạn đã khiến ông mệt mỏi, thậm chí e sợ... Cái khóm cây lạnh mà con linh thước tìm kiếm đây phải chăng chính là một cảnh Thiền yên tĩnh, những phút thư nhàn ? "Tri chỉ" và "Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng" vốn là một phương châm sống quan trọng của nhà Nho mà !

Về sau Ngô Thì Nhậm còn tiếp tục lang thang đến nhiều đền miếu khác. Mỗi nơi, miếu Chu Văn An, lầu Ngũ Vân, ngôi miếu cổ... đều gợi cho ông những cảm xúc. Riêng năm cuối cùng (năm thứ năm) của thời kỳ đi ẩn lánh, Ngô Thì Nhậm ít nhất còn hai lần ghé thăm chùa. Có một buổi chiều cuối thu Ngô Thì Nhậm đã thực sự tham thiền:

Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên,
Kim thu thôn tự nhất tham thiền.
Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp,
Bối diệp trùng niên bạch ngọc thuyên.
Vãng sự kỷ hồi Hòe quốc mộng,
Cố ngô y cựu Trúc lâu duyên.
Linh am tự tại linh quang tĩnh,
Sảng nhập ngân câu tú thủy liên.
( Vãn Thu tham thiền)

(Bấm đốt năm năm dạt khắp miền,
Chùa quê Thu lại bước tìm lên.
Cánh vàng vừa tách xoè hoa cúc,
Lá bối lần xem bén vị thiền.
Chuyện cũ giấc Hòe bao ảo mộng,
Thân xưa lầu Trúc vẫn tiền duyên.
Am thiêng còn đó, tòa sen lặng,
Khí mát hồ trong mặt nước êm).
(Chiều cuối Thu thăm chùa; Khương Hữu Dụng dịch)

Có phải cũng trong mùa Thu đó, Ngô Thì Nhậm đã gặp gỡ được với một vị Thiền sư:

Hoàng hoa thu sắc nhất thiên tình,
Giang tự chiêu yêu tản bộ hành.
Cận thủy lâu cao chung ảnh tế,
Nghênh hy đạo khiết lý trần khinh.
Ngũ niên du tử tiền phiên huống,
Thất dật cao tăng thử dạ tình.
Nhất ấp nhược tương từ tín túc,
Thôi xao vị hứa định quan quynh.
(Giang tự tình du)

Chùa bên sông vẫy gọi, dạo bước thong thả.
Lầu cao gần mé nước, bóng chuông nho nhỏ,
Đường sạch đón nắng mai, dép khách vương bụi nhẹ.
Kẻ du tử đã năm năm, là cảnh huống trước đây,
Với vị cao tăng tuổi bảy chục, là cảnh tình đêm nay.
Vái chào dường muốn ngỏ lời từ biệt nơi chí thiết,
Còn gọt rũa vần thơ chưa chịu đóng cửa.)

Có lẽ Ngô Thì Nhậm đã thật quyến luyến cảnh chùa bên sông này. Ông đã đến đây không chỉ một lần, đã có cái duyên "tín túc" (đến lần thứ hai) với vị cao tăng và thêm nữa vần thơ còn chưa chuốt gọt xong, cánh cửa chùa còn chưa nỡ khép. Nhưng Ngô Thì Nhậm là một nhà nho hành đạo nhập cuộc đến hết mình, ông cũng còn rất trẻ, chưa đến cái tuổi bốn mươi "bất hoặc" cho nên vẫn rất nặng nghĩa đời. Ông từng Mộng Thiên Thai, vẽ nên những cảnh sắc trong sáng, thanh nhàn tiêu dao trên ngọn núi quê hương, song dường như đó mới là "đặt ra thế", còn từ dáng dấp, phong cách đến những nghĩ suy thực tế, Ngô Thì Nhậm chưa thể lánh đời. Núi Thiên Thai của ông cũng không hoàn toàn là cõi tiên mờ ảo. Núi đã từng "ngộ Thích" khi Điều Ngự Trần Nhân Tông xuất thế, Pháp Loa quy y, lại cũng có lúc "rực sáng lâu đài", "la liệt lọng mũ" khi gặp chúa, mà có đến hai đời chúa Hy Tổ (Trịnh Cương), Dụ Tổ (Trịnh Giang). Và ông thì rút cuộc:

Tôi sao thể thành tiên,
Phật cũng không đắc đạo.
Chỉ theo hướng thi thư,
Khỏi trái đường danh giáo.
(Mộng Thiên Thai phú)

Ngô Thì Nhậm vẫn chờ đợi một dịp "châu về Hợp Phố", nhưng ông cũng không dám chắc cơ hội đó có khả năng sớm thành hiện thực, bởi thời gian cứ trôi "Gốc thông lẻ xem chừng sắp lão"(Bđd). Và trong trường hợp đó Ngô Thì Nhậm cũng có thể "quảy một bầu tiêu dao"mà trở lại với Thiên Thai. Dù sao trong sâu thẳm tâm tư, ông vẫn khát khao chờ đợi :

Mong người tri kỷ chừ, một phương trời,
Lòng ta ! Lòng ta chừ, tri âm ai người ?

Mặc dù ít nhiều thất vọng, đau khổ, gian nan, Ngô Thì Nhậm cũng không rời bỏ điều trung hiếu. Với ông, Hoàng Đình Bảo là một anh hùng đáng kính phục:

Sinh lai anh hùng ký khu xác,
Tử khứ tinh thần lưu bàng bạc.
Khu xác hữu hoại bàng bạc tồn,
Ngưỡng chân bất quý, phủ bất tạc.
Tầm thường quan quách dã hà vi,
Chí sĩ bất vong tại câu hác.
(Điếu Huy Quận công)

(Người anh hùng sinh ra tự gửi mình vào thân xác,
Chết đi, tinh thần còn bàng bạc trong vũ trụ.
Thân xác nát tan nhưng tinh thần bàng bạc vẫn còn,
Trông lên thật chẳng thẹn, cúi xuống không hổ người.
Quan quách tầm thường có nghĩa gì,
Kẻ sĩ có chí khí không quên có thể chết nơi ngòi rãnh.)

Chính vì vậy trong lúc gian nan ẩn lánh Ngô Thì Nhậm chỉ mang theo bên mình một bộ sách Xuân thu nước Lỗ. Và đối với ông, đọc Kinh Xuân thu, nghiền ngẫm bàn bạc, chê khen (Xuân thu quản kiến được viết trong thời gian này) đã là liều thuốc "đan dược truyền tâm":

Mạn đạo Hoàng Đình truyền bất tử,
Truyền tâm đan dược hữu Xuân thu.
(Hữu sở tiếu)

(Chớ nói kinh Hoàng Đình truyền phép bất tử,
Đã có bộ Xuân thu làm thuốc kim đan truyền tâm.)

Rồi Ngô Thì Nhậm cũng tìm được tri âm. Ông thực lòng đến với Nguyễn Huệ, "nhập thế" đúng với quan niệm "duy thời". Chặng đường "vi chính" này của ông đầy hào hứng và thành công. Vua Quang Trung quý ông, thân cận đến mức luôn luôn đưa ông "tòng giá", đến hành cung xem tập trận, đến cửa Eo xem biển, đi qua Hà Trung, đến cửa biển Tư Dung, nhiều lần ban yến, ban trà, cả triệu vào cung cho đọc thơ cầu tiên, triệu vào trong màn trướng nơi hành tại đọc thơ ứng chế. Có một cử chỉ của vua Quang Trung mà Ngô Thì Nhậm rất xúc động, đó là chính "tay nhà vua nhấc kính đeo trên mắt tôi để đeo, rồi đọc đi đọc lại bài thơ hồi lâu"... Những năm tháng làm việc với vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm khá bận rộn, dường như ông không có thì giờ nghĩ đến Đạo, đến Thiền. Ông từng nói với Hải Phái hầu Đoàn Nguyễn Tuấn:

Cửu ái Trúc lâm Thiền thú lạc,
Tử bào vị hứa tạo sam đan.
(Đáp Lại thị Hải Phái Đoàn hầu, Thuật tiền ý)

(Từ lâu ưa cái thú Thiền nơi rừng Trúc,
Nhưng áo bào tía chưa cho mặc áo đen nơi giường thiền.)

Ông cũng từng tâm sự cùng Phan Huy Ích:

Thiền viện dục thiền, thiền vị ổn,
Khấu quan tiêm thủ nhiễu đa phương.

(Cảm hứng, Họa Thị ngự công chi tác)

(Trong Thiền viện, muốn thiền nhưng thiền chưa định,
Bàn tay thon nhỏ gõ cửa làm rộn nhiều nơi.)

Tuy vậy trên con đường việc dân việc vua tất bật, đôi lúc, Ngô Thì Nhậm cũng tìm được một một thoáng phiêu diêu cùng mây gió, một chút thanh nhàn khi dừng nghỉ nơi một Thiền viện, đó là một chút đam mê mà Ngô Thì Nhậm thừa hưởng của người ông "xử sĩ" Ngô Thì ức và người cha tài tử Ngô Thì Sĩ. Vào tránh mưa trong ngôi chùa Phong Phạn bên hữu ngạn sông Lam, thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, khi Ngô Thì Nhậm đang trên đường vào Phú Xuân với vua Quang Trung là một dịp như thế:

Tỵ vũ Phong Phạn tự,
Tăng sài liệu khách y.
Thiền sàng vô chướng ngại,
Phật hỏa diệc từ bi.
Hồng Lĩnh cửu thập đính,
Lam Giang phân tam kỳ.
Xa mã vãng lai thục,
Huyền môn giải cấu hy.
Bán nhật thâu nhàn thoại,
Phù sinh lạc khả tri.
Đăng trình lưu nhất bút,
Hảo ký Trúc lâm si (sư).
(Phong Phạn tự tỵ vũ)

(Áo trần hãy mượn củi chùa hơ qua.
Giường sư chướng ngại chi mà,
Ai hay lửa Phật cũng là từ bi.
Núi Hồng chín chín ngọn kia,
Sông Lam một giải cũng chia ba đường.
Ngựa xe qua lại ngày thường,
Mấy khi được dịp bén màng cửa không.
Nửa ngày trò chuyện thong dong,
Cuộc phù sinh cũng hả lòng bấy nay.
Ra đi để lại thơ này,
Thân tình gửi tặng cho thày Trúc lâm).
(Tránh mưa ở chùa Phong Phạn; Đỗ Ngọc Toại dịch).

Tứ thơ và ngôn ngữ thơ bình yên. Có một chút gì như nuối tiếc, ngựa xe qua lại đã trở thành quen đường, thế mà dịp may gặp gỡ lại rất hiếm; có một chút gì như "ngộ đạo", chỉ một nửa ngày trò chyện thôi mà đã đủ thấy được niềm vui trong cuộc phù sinh. Nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn không thể gửi mình nơi cửa Thiền với củi chùa và "lửa từ bi" của Phật được. Trạng thái tâm tư này còn xuất hiện một lần nữa khi ông ghé thăm chùa Hưng Long trên núi Hưng Long thuộc tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) trong lần ông đi sứ cầu phong cho Quang Toản. Lần này ông cũng tặng vị sư trụ trì một bài thơ ngợi ca nhưng lời đề từ mới thật sâu sắc, ông đã nhắc lại nguyên văn hai câu thơ trong bài Đăng sơn của Lý Thiệp thời vãn Đường mà ở bài Phong Phạn tự tỵ vũ ông như đã có liên hệ:

“Thơ xưa có câu:

Ngẫu qua Trúc viện phùng tăng thoại,
Hựu đắc phù sinh bán nhật nhàn.

(Ngẫu nhiên viện Trúc cùng sư chuyện,
Lại được phù sinh nửa buổi nhàn)”.

Vì được nhàn đã khó, mà gặp được nhà sư nơi Trúc viện lại càng khó, có phải thế chăng ?... Tôi đang trong lúc bận rộn, được gặp lão tăng trò chuyện, tưởng như lên núi báu mà sinh tuệ nguyệt, nỗi lòng trần bỗng thấy sạch lâng lâng, rất muốn cùng pháp sư trò chuyện về lẽ huyền vi của đạo Phật suốt ngày, nhưng công việc rộn ràng quá thể, thế mới biết cái vui nơi Trúc viện đức Như Lai Thế Tôn không dễ cho người." (Hưng Long tự tặng Liên Lão Thiền sư ).

Trong cuộc đời làm quan, những năm tháng dưới trướng vua Quang Trung là thời kỳ Ngô Thì Nhậm đắc ý nhất. Nhưng có lẽ ngôi sao chiếu mệnh của ông không được sáng lắm. Cuộc rồng mây hội hợp giữa "vua sáng tôi hiền gặp gỡ một nhà" chỉ vẻn vẹn được năm năm. Vua Quang Trung mất, Quang Toản không trọng dụng ông như trước nữa. Năm 1793 ông đi sứ nhà Thanh, dường như khi về ông không vào Phú Xuân hay vào rồi ra ngay nên năm 1794 ông mới vào Phú Xuân triều cận Quang Toản và được giao bổ sung Quốc sử. Và đến năm 1797 ông được giao coi giữ Văn miếu Bắc Thành.

Cuộc trở ra Bắc Hà lần này là một bước ngoặt trong cuộc đời và tư tưởng Ngô Thì Nhậm. Ông dời Phú Xuân với một tâm trạng phức tạp. Có phần xót xa cho sự sa sút của một triều đại mà ông từng tâm huyết gắn bó, nhưng cũng có phần như chấp nhận với một thái độ thờ ơ ai điếu:

Tướng phủ phồn hoa cục dĩ di,
Thôn cương cổ sát thượng y y.
Hàn tuyền cảnh thế đam quyền lợi,
Khô thụ trào nhân tác phúc uy.
Ký vãng thị phi, vân biến hóa,
Như Lai sắc tướng, nguyệt minh hy.
Kinh qua cố để trùng hồi thủ,
Vị điếu tây phong loát nhất chi.
(Tái kinh Thiền Lâm tự)

(Phồn hoa dinh tướng cuộc tàn rồi,
Chùa cũ làng quê cảnh lại tươi.
Suối lạnh nhường răn người hám lợi,
Cây khô như giễu kẻ khoe vui.
Việc đời phải trái mây thay đổi,
Đạo Phật xưa nay nguyệt sáng ngời.
Chốn cũ dạo qua nhìn trở lại,
Gió tây một chén rót cho ai).
(Đỗ Ngọc Toại dịch)

Trở ra Bắc Hà lần này, Ngô Thì Nhậm đã bị "bao vây" bởi vô vàn những kỷ niệm buồn vui và những câu hỏi chồng chất về thế sự: "Cảm nỗi phong cảnh khác xưa chừ, não lòng ta bao chuyện cũ" (Thưởng Liên đình phú ). Và Ngô Thì Nhậm đã tìm lối thoát hay tìm lời đáp trong đạo Thiền - vừa tìm tòi trong lĩnh vực triết học cũng vừa trong sự tu tập di dưỡng tính tình. Ông lập Thiền viện Trúc lâm ngay trong dinh cơ nhà mình, đặt tên nhà là Đình thưởng sen và viết 24 thanh để "phát huy tông chỉ của rừng Trúc". Đây là tác phẩm gần như cuối cuộc đời sáng tác của ông, ngày nay mang tên Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, nhưng ban đầu Phan Huy Ích đề tựa gọi là Trúc lâm đại chân viên giác thanh. Thời gian này Ngô Thì Nhậm còn có một số hoạt động khác về Phật giáo. Ông khởi xướng làm chùa cho dân làng có nơi vãn cảnh, ông lập nhóm nghiên cứu đàm đạo về Thiền học, bao gồm người em trai mồ côi mẹ từ lúc mới vài tháng tuổi là Ngô Thì Hoàng và các bạn tâm giao Vũ Trinh, Nguyễn Đăng Sở. Ngô Thì Nhậm được tôn làm Trúc lâm đệ tứ Tổ, có thể cũng bởi vì sau Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang, Ngô Thì Nhậm là người chủ trương bổ sung cho phái Thiền Trúc lâm Việt Nam cả về phương diện lý thuyết. Kinh Viên giác là một kinh điển quan trọng của Đại thừa, bản kinh có một quyển, Phật Đà - đa - la đời Đường dịch ra Hán văn. Sau có nhiều sách chú giải kinh ấy, riêng ba phép tam quán thì kết hợp lại thành 25 loại, gọi là 25 thanh tịnh định luân; mỗi loại lại có kinh giảng rõ. Như vậy muốn biết Hải Lượng Đại Thiền sư Ngô Thì Nhậm đã đóng góp những gì cho giáo lý triết học Trúc lâm cần phải đối chiếu công phu giữa Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh với bản kinh và các sách xung quanh Viên giác kinh. Đó là điều các nhà nghiên cứu về Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh trước đây và cả người viết bài này chưa làm được. Tuy nhiên một điều có thể thấy rõ là Ngô Thì Nhậm đã đứng trên lập trường Nho giáo để thâm nhập đạo Thiền. Không những thế, trong khi dung hợp tam giáo ông còn lộ rõ ý thức coi Nho là chủ đạo, Phật và Lão chỉ là để bổ sung. Tất cả những tín điều trong giáo lý của Phật giáo, thậm chí cả phương pháp tu tập, như sắc không, bình đẳng quan, bất nhị pháp môn, giải thoát, thiền định..., Ngô Thì Nhậm đều chỉ ra sự đồng nhất hoặc đem xáp nhập vào các phạm trù lý thuyết của Nho giáo, như chính tâm, cùng lý, dục, cả âm dương của Kinh Dịch ... Phan Huy ích, người em rể thân thiết và cũng là bạn tâm giao rất hiểu Ngô Thì Nhậm đã nhận xét là ông "đưa Thích vào Nho " (khu Thích dĩ nhập Nho). Trong lời Tựa tập sách, Phan nói rất rõ:

"Thanh âm để kích động người nghe, làm cho những người mê muội tỉnh ngộ mà chứng được trí tuệ, khiến cho đạo lớn được vang dội mãi mãi trong khoảng trời đất... Đạo lớn phát ra tự trời, lưu hành khắp vũ trụ, phân tán thành vạn vật. Cái thể thì đồng, nhưng cái dụng thì dị. Đồng là gốc mà dị là ngọn. Xem bề ngoài thì tưởng như khác đường khác nẻo nhưng thống hội lại cho đến chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu thì chẳng có gì vượt ra ngoài đạo lớn kia được. Giáo lý của Thích Ca tuy nói là không tịch hư vô, nhưng đại yếu vẫn là trừ bỏ hết mọi chướng lũy, thấy rõ chân như. Cho rằng "minh tâm kiến tính" là việc cần kíp nhất, nếu đem so sánh với học thuyết "thành ý trí tri"của nhà Nho ta thật chẳng có gì trái ngược". (Trúc lâm Đại chân viên giác thanh tự).

Chính vì thiên vị Nho như vậy nên Ngô Thì Nhậm đã không tránh khỏi khiên cưỡng và đôi khi lấy lô gích hình thức để lập luận. Ông cũng đã quá cụ thể hóa nhiều vấn đề vốn thuộc phạm trù triết học cao thâm của đạo Thiền. Các nhà làm thanh dẫn, thanh chú đã có công làm rõ hơn ý của Hải Lượng song đôi khi vì quá nhấn mạnh tính chất nhập thế của Thiền Trúc lâm nên đã "kéo" các nhà Thiền học đời Trần, cả Đệ nhất Tổ trở về với nhân quần xã tắc, không còn chỗ cho Thiền nữa. Có thể nêu một vài dẫn chứng, ví như khi giảng về Thu thanh (Tiếng thu lại), Ngô Thì Nhậm đã xem ý câu nói của Khổng Tử "Chim muông đã không thể cùng bầy, nếu không bè bạn với người thì ta bè bạn với ai." (Luận ngữ, Nhan Uyên) và câu nói trong Kinh Liên Hoa "Ta xem hết thảy là bình đẳng, không có lòng yêu cái này hoặc cái kia. Ta không tham cái gì, cũng không có cái gì hạn định trở ngại ta cả" đều là tư tưởng đại đồng của Nho gia. Tăng Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở lại nhân đó nói về trách nhiệm gánh vác việc đời của các bậc xuất gia và không xuất gia:

"Cho nên đại phàm người làm chủ thiên hạ hay làm chủ đất nước, có cái lực để làm hết thảy, có cái thế để làm hết thảy, mà lại có cái nhìn bình đẳng biết trị thất tình, biết tu thập nghĩa, thi thiết những điều tiện lợi, trừ khử những điều có hại, ơn huệ bao la, xa mấy cũng đến, không xuống bậc thềm mà giáo hóa bay khắp như thần. Như thế tức là Vô Lượng Lực Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, nào phải xuất gia ? Người ta thấy Điều Ngự đệ nhất Tổ đến ở chùa Hoa Yên thì bảo là ngài xuất gia, ta biết rằng Đức ngài lúc bấy giờ biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm. Cái ý ấy là không tiện nói rõ, sợ người ta dao động. Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai xứ Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi, để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm, thật là một vị Vô Lượng Lực Đại Thế Chí Bồ Tát. Lúc bấy giờ chỉ có Huyền Quang tôn giả biết được ý ấy, bỏ cái cao sang của một vị Trạng nguyên, sớm chiều đi theo ngài để hoàn thành cái ý nguyện của ngài, thật là một vị vô lượng kiến thức Đại Bồ Tát". (Đại chân viên giác thanh; Thu thanh; Cao Xuân Huy dịch).

Những năm cuối đời này không thể nói Ngô Thì Nhậm không tâm thành với Thiền. Ông cũng tỏ ra đã lĩnh hội sâu sắc nhiều vấn đề của đạo Thiền, nhất là hai kinh Lăng già Hoa nghiêm, đã viết Đại chân viên giác thanh rất hay và đậm không khí Thiền, song Ngô Thì Nhậm vẫn chưa phải là người "ngộ" được Thiền. Điều đó đúng với cái "tạng" của ông. Ngô Thì Nhậm là người gánh vác việc đời nhiệt tâm, một nhà ngoại giao giỏi, một chính khách có tài, có bản lĩnh. Nhưng tất cả tâm sức ông đã dành cho việc dân, việc nước, dù ông đã đến với Thiền, nhưng rút cuộc vẫn là một tấm lòng Thiền chưa viên thành.

T.T.B.T

CHÚ THÍCH:

1. Các trích dẫn thơ văn Ngô Thì Nhậm, chúng tôi theo các sách Thơ văn Ngô Thì Nhậm, Tập I, Nxb. KHXH, H. 1978; Thơ Ngô Thì Nhậm, Nxb. Văn học, H. 1986; Ngô Thì Nhậm - Tác phẩm, Nxb. Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Tp. Hồ Chí Minh, 2001; Thơ văn Ngô Thì Nhậm, bản thảo đánh máy của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

2. Nguyễn Khắc Mai: Bốn bài thơ cảnh chùa, bốn đợt tâm thức của Ngô Thì Nhậm đăng trên báo Giác ngộ, 1988.

TB

CÚC THU BÁCH VỊNH -TẬP THƠ XƯỚNG HỌA
GIỮA PHAN HUY ÍCH VÀ NGÔ THÌ NHẬM

NGUYỄN NGỌC NHUẬN

Trong sự nghiệp sáng tác của Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm và Thụy Nham hầu Phan Huy ích có một tập thơ do hai ông cùng xướng họa chung trong tết Trùng dương tháng 9 năm 1796; đó là tập Cúc thu bách vịnh (菊 秋 百 詠), tập thơ mang ký hiệu A.1664 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngoài cái tên Cúc thu bách vịnh ra, tập thơ còn có các dị bản khác, mang những tên khác như Cúc đường bách vịnh (菊 堂 百 詠), Cúc thu thi trận (菊 秋 詩 陣), và tới 7 dị bản nằm trong bộ Ngô gia văn phái (吳 家 文 派)(1), một bộ sách nổi tiếng của dòng họ Ngô ở Tả Thanh Oai, Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội).

Đôi nét về văn bản của tập thơ Cúc thu bách vịnh

Ngoại trừ 7 dị bản của tập thơ nằm trong bộ Ngô gia văn phái thì chúng ta còn thấy tập thơ có trong sách III của bản A.603, VHv.1467, A.1554 và bản Cúc Đường bách vịnh thi tập ký hiệu A.1168.

Theo lời bạt của Lễ bộ thượng thư Hoa Giang Địch Hiên Nguyễn Cát đề vào tháng 9 năm Bính Thìn (1796) trong tập ký hiệu A.1168 đã cho biết một trong những tên của tập thơ, số bài thơ hai ông xướng họa: “ Cúc đường bách vịnh là tập thơ sáng tác nhân tết Trùng dương, khi đó hai ông thay nhau xướng họa, chỉ dùng năm vần, vừa nửa tháng đã thành trăm bài”. (Nguyên văn: Cúc đường bách vịnh nhị công nhân Trùng dương tác dã, canh thù xướng ứng, chỉ dụng ngũ vận nhị chung cập bán nguyệt dĩ thành bách thiên). Có thể thấy trong tập thơ này mỗi người đã sáng tác 50 bài, nhưng khi thống kê cẩn thận ở bản A.603 chỉ được 38 bài do Phan Huy ích sáng tác(2).

Bản VHv.1467, là văn bản chép tay trên giấy kẻ (loại giấy có từ thời thuộc Pháp), khổ giấy 22x17cm. Khi đối chiếu giữa bản A.603 và VHv.1467 có thể nhận thấy từng phần giống hệt nhau, kí hiệu ở gáy sách bản VNv.1467 cho biết đây là cuốn sách do ông Hoàng Xuân Hãn thuê chép. Chúng tôi cho rằng bản VHv.1467 được chép từ bản A.603.

Xem thêm về bản A.1168 người đọc có thể nhận thấy ngoài tập thơ Cúc đường bách vịnh, văn bản còn phụ chép thêm tập thơ Minh lương cẩm tú Quỳnh uyển cửu ca. Bản A.1168 là loại sách gia thư, chữ viết đá thảo trên giấy thị khổ 28x16cm. Khi đếm số bài thơ trong tập cũng không đủ 100 bài, chỉ được khoảng trên dưới 70 bài do hai ông xướng họa.

Bản A.1554, trong lời bạt cũng của Nguyễn Cát viết năm 1796, đặt ở cuối tập thơ viết “ Cúc thu bách vịnh là tập thơ sáng tác nhân tiết Trùng dương, khi đó hai ông thay nhau xướng họa, chỉ dùng năm vần, vừa nửa tháng đã thành trăm bài”.

Tuy cùng một người viết bài bạt, nhưng hai tên sách lại được ghi nhận khác nhau. Bản A.1554 là loại sách gia thư, chữ viết thảo, trên loại giấy bản tốt, khổ nhỏ 22x13cm.

Khi xem xét những chữ viết kiêng húy, chúng tôi gặp chữ “hoa” ở tờ 6a bản A.1554 chép là 華 (hoa) còn bản A.1168 tờ 4b lại được chép là 花 (hoa) trong câu thơ: Hoa diên văn tại thưởng liên đường. Chữ 花 (hoa) ở đây có thể là cách viết kiêng chữ húy thời Thiệu Trị (1841-1847). Điều này cho phép chúng tôi tạm đoán định: bản A.1168 được chép sau năm 1841, năm đầu niên hiệu Thiệu Trị, còn bản A.1554 có thể được chép trước năm 1841. Bản A.1554 có thể được coi là bản cổ hơn so với bản A.1168 và bản A.603.

Trở lại lời tiểu dẫn của bản A.603, tác giả Phan Huy Ích viết “... Từ đấy hai người thay nhau viết xướng họa, trong vòng nửa tháng hợp lại được trăm bài, làm thành tập thơ, đặt tên là Cúc thu thi trận ”. Xét cùng với lời bạt trong bản A.1168, A.1554 chúng tôi thấy số bài thơ do hai ông xướng họa được 100 bài là con số được nhắc tới nhiều lần.

Vậy có thể bản A.1554 là một bản cổ. Cúc thu bách vịnh cũng có thể là tên ban đầu của tập thơ xướng họa giữa hai ông.

Phác họa một số điểm về nội dung tập thơ Cúc thu bách vịnh

Thông thường những tập thơ xướng họa sẽ nặng tính chất thù tạc, hoặc tả cảnh phong hoa tuyết nguyệt. Tập thơ Cúc thu bách vịnh, ngoài tính chất xướng họa thù tạc còn cho người đọc thấy được mối quan hệ sâu sắc giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, quan hệ đó không chỉ là quan hệ anh vợ, em rể mà còn là quan hệ của những người cùng chung chí hướng. Tập thơ giúp người đọc thấy được con đường đến với triều đại Tây Sơn, đến với người anh hùng áo vải Quang Trung và con đường trở về với đạo Thiền, đạo Lão của hai ông.

Không phải ngẫu nhiên, Phan Huy Ích người đất Sài Sơn đã viết bài nguyên xướng trong tập Cúc thu bách vịnh(3).

Phiên âm:

Đạm đáng thu dung nhập họa đường,
Tàn hà, nhược liễu ánh trì đường.
Chiêu bằng thả chước Uyên Minh tửu,
Xúc hứng hoàn nga Tiểu Đỗ chương.
Tuyết điểm doanh đầu kinh lão cảnh,
Kim hoa mãn tọa tích Trùng dương.
Trúc lâm thiền vị nghi sầm tịch,
Cảm phỏng sư công nhiếp dưỡng phương.

Dịch nghĩa:

(Loáng thoáng màu thu lọt vào nhà vẽ,
Sen tàn, liễu yếu ánh khắp ao hồ.
Mời bạn hãy rót chén rượu Uyên Minh(4),
Hứng lên lại ngâm thơ Tiểu Đỗ(5).
Tuyết điểm đầy đầu, nhìn mà sợ hãi cảnh già,
Hoa vàng khắp chỗ ngồi, ngắm càng tiếc buổi Trùng dương.
Mùi thiền rừng trúc(6) ưa cảnh thanh vắng,
Dám hỏi sư ông cách tu thế nào(7)).

Trong khi đó, Ngô Thì Nhậm người đất tả Thanh Oai, lại họa bằng những câu thơ đầy ẩn ý của mình:

Phượng tiên hương úc phượng nghi đường,
Nguyệt mãn đình giai, tuyết mãn đường.
Hứng đáo tiễn công thời hữu tửu,
Bệnh lai tiếu ngã cưỡng thành chương.
Tự truyền Phùng lạc đê Danh quốc,
Tài chiếp Chu nan bạc Thú Dương.
Thiền viện dục thiền, thiền vị ổn,
Khấu quan tiêm thủ nhiễu đa phương.

Dịch nghĩa:

(Hương thơm sực nức phượng tiên ở nhà dáng phượng,
Trăng sáng thềm sân, tuyết đầy nhà.
Cảm hứng đến, ao ước được uống khi có rượu,
Mang bệnh trong người tự cười ta cố gắng họa thơ.
Đọc chuyện Trường lạc lão họ Phùng mà coi khinh tước Doanh Quốc công,
Có tài ngang với các công thần nhà Chu thì coi việc đi ẩn ở Thú Dương là không đáng trọng.
Nơi thiền viện muốn tu đạo thiền nhưng chưa được yên ổn,
Cánh tay nhỏ gõ vào cửa, những thấy nhiều nẻo đường).

Để hiểu thêm hàm ý mấy câu thơ trên, cũng cần đọc tiếp phần nguyên dẫn đặt trên bài thơ của Phan Huy Ích: Tiếp thơ họa của thai huynh, trong đó có những câu: “đê Doanh Quốc”, “bạc Thú Dương”, tôi bất giác vỗ bàn tán tụng. Lời nói ấy làm cho tôi rất hả dạ, nhưng cũng chỉ là lời chúng ta chúc tụng lẫn nhau thôi, không nên để người ngoài biết. Vậy xin theo những vần trước làm thêm một bài nữa đệ trình. Trong lúc say, nhiều lời làm nhàm xin tha mắng cho”. Câu “đê Doanh Quốc” của Ngô Thì Nhậm được hiểu là: coi khinh Doanh Quốc công. Chuyện kể rằng: vào đời Ngũ Đại ở Trung Quốc mỗi triều đại chỉ làm vua được mấy năm thì mất, Phùng Đạo là tể tướng triều Đường. Khi Đường bị Tấn diệt, rồi Hán bị Chu diệt, Đạo cũng cứ đầu hàng triều mới rồi làm quan to. Đến triều Chu, được phong là Doanh Quốc Công. Người đời khinh Đạo là kẻ làm tôi quân thù, nhưng Đạo không biết xấu hổ, tự xưng là Trường Lạc lão (ông lão vui sướng mãi). Trong bài họa của Ngô Thì Nhậm còn có câu “bạc Thú Dương” có nghĩa là: không coi trọng chuyện Thú Dương. Sử của Trung Quốc chép: khi Vũ Vương nhà Chu diệt nhà Ân, Bá Di và Thúc Tề bỏ lên núi Thú Dương để tỏ ý không làm tôi nhà Chu. Trong bài của Ngô họa lại có câu “Có tài ngang với các công thần nhà Chu, thì coi việc đi ẩn ở Thú Dương là không đáng trọng”. ý này không mấy khi nhà Nho đưa vào thơ văn, nên Phan Huy ích đọc đến đây vỗ bàn tán thưởng.

Có thể thấy rằng, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những nhà Nho hành đạo, hai ông đều muốn đem tài năng, sức lực để phục vụ cho đời, phục vụ cho một triều đại anh minh, nên Phan và Ngô, một người họa một người tán đồng những câu thơ mang ẩn ý như trên.

Lướt qua phần tiểu sử của Phan Huy ích và Ngô Thì Nhậm chúng ta sẽ hiểu thêm mối quan hệ thân thiết gắn bó giữa hai ông và con đường đến với triều đại Tây Sơn của họ. Về tuổi tác hai người hơn kém nhau 4 tuổi, Phan Huy Ích sinh ngày 12 tháng 12 năm Canh Ngọ (1750). Lúc nhỏ ông vốn tên là Phan Công Huệ, khi đi thi vì kiêng húy bà chúa Chè - Đặng Thị Huệ, nên đổi tên là Huy Ích, hiệu Dụ Am, tự Khiêm Thụ Phủ. Ông là con Phan Huy Cẩn, người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), sau dời ra ở làng Thụy Khuê, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây) rồi nối đời ở đấy, ông Cẩn đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754), được phong tước Khuê Phong hầu. Phan Huy Ích là học trò Ngô Thì Sĩ sau làm rể Ngô Thì Sĩ, lấy em gái Ngô Thì Nhậm; chính vì thế mối quan hệ giữa Ngô và Phan càng gắn bó.

Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (1746) tại làng Tả Thanh Oai (tục gọi là làng Tó) trấn Sơn Nam. Thuở nhỏ, ông tên là Phó sau đổi là Nhậm, tên tự là Hi Doãn, hiệu Đạt Hiên. Xuất thân từ thế gia vọng tộc, có truyền thống học hành thi cử, lúc nhỏ Ngô Thì Nhậm theo học ông nội là Đan Nhạc Công Ngô Trân, đến 15 tuổi theo học người cha là Ngô Thì Sĩ, một con người nổi tiếng trong dòng họ Ngô và giới Nho sĩ thời đó. Ngô Thì Sĩ đậu Tiến sĩ và làm quan tới chức Thiêm đô ngự sử dưới thời Lê - Trịnh.

Đến niên hiệu Cảnh Hưng năm ất Mùi (1775) lúc đó Ngô Thì Nhậm 30 tuổi, ông thi đỗ Tiến sĩ cùng với Phan Huy ích. Trong bia ký Tiến sĩ khoa ất Mùi đặt tại Văn miếu Hà Nội còn ghi lại: “... Qua trường bốn lấy trúng cách bọn Phan Huy Ích 18 người. Sang tháng sau thi Điện, ban cho bọn Ngô Thế Trị đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Lại sai khắc vào đá để lưu truyền bất hủ. Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, 18 người trong đó: Ngô Thì Nhậm, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai.

Phan Huy Ích xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc.”(8)

Sau khi thi đỗ hai ông làm quan dưới thời Lê - Trịnh. Người thì được bổ làm Đốc đồng Thanh Hoa, người thì làm Đốc đồng Thái Nguyên. Nhưng xem ra con đường hoạn lộ đối với hai ông dưới thời Lê - Trịnh đều quanh quẩn bế tắc, có lúc Ngô Thì Nhậm còn rơi vào cảnh cùng quẫn, bị hiềm nghi phải trốn tránh, còn Phan Huy Ích cáo bệnh từ quan không được, nên đóng bè ở dưới sông, mỗi tháng chỉ lên công đường một lần...

Tháng tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc lần thứ hai, sau đó ít lâu Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích được Trần Văn Kỷ tiến cử với Nguyễn Huệ. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ quét sạch giặc Thanh xâm lược, thống nhất đất nước, Ngô Thì Nhậm cùng Phan Huy ích được vua Quang Trung trao trọng trách giữ việc bang giao với triều Thanh (Trung Quốc). Khi họp với các tướng sĩ, Quang Trung bảo rằng: “Việc binh sĩ ở Bắc Hà ta giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Việc giao thiệp với Trung Quốc ta giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Mọi việc đều cho phép các ngươi tùy tiện xử trí”(9). Ngô Thì Nhậm được phong Thị lang bộ Công, tước Tình Phái hầu, Phan Huy Ích được phong Tả thị lang bộ Hộ, tước Thụy Nham hầu.

Số phận lại một lần đẩy hai người gần nhau, cùng được trao giữ những sứ mệnh của dân tộc: Ngô Thì Nhậm đã thay Quang Trung viết bài chiếu lên ngôi, trước đó ông còn hiến kế rút quân về Tam Điệp để tạo cơ hội cho Nguyễn Huệ mở cuộc hành quân thần tốc, lập nên chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) đánh tan 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Phan Huy Ích được cùng Ngô Thì Nhậm lo việc bang giao với triều Thanh sau cuộc chiến. Hai ông đã thay nhau soạn thảo những văn bản bang giao hết sức giá trị, những bức thư đó đã góp phần vào việc dập tắt ý đồ gây lại cuộc chiến của nhà Thanh.

Đầu năm Canh Tuất (1790) Phan Huy Ích nhận được chiếu của vua Quang Trung cử đi sứ phương Bắc. Đây là một chuyến đi sứ quan trọng nhằm gây tình hòa hiếu giữa hai nước, Phan Huy Ích được coi là trọng thần hàng văn trong đoàn sứ bộ. Chuyến đi này, sứ bộ gồm 150 người, ngoài Quốc vương giả còn có Nguyễn Quang Thùy là con trai Quang Trung, Đại tư mã Ngô Văn Sở, Thụy Nham hầu Phan Huy Ích, Đô đốc Nguyễn Duật, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn và ban hát 10 người...

Đến năm 1792 khi vua Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong cho Quang Toản. Ông gặp các sĩ phu nổi tiếng Trung Quốc. Vua Càn Long đã tiếp phái đoàn sứ giả của triều Tây Sơn hết sức trọng thị.

Với những dòng tiểu sử của Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đã dẫn ra ở trên có thể thấy rằng:

Dù chỉ một lần trong đời, nhưng là một cơ hội to lớn cho kẻ sĩ Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn được phục vụ dưới một triều đại anh minh, triều đại Quang Trung Nguyễn Huệ. Triều đại Tây Sơn cũng may mắn đã có được những kẻ sĩ tài năng của đất Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích góp công góp sức xây dựng.

Để nói về sự gặp gỡ giữa bày tôi hiền với đấng minh quân thì Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đã hơn một lần nhắc đến điều đó qua những câu thơ tâm huyết trong tập Cúc thu bách vịnh:

Phiên âm: (Bài 27 của Phan Huy Ích)

Hữu phận thao cô lý điện đường,
Trì trì thất lậu xuất ngân đường.
Ngự diên dạ triệt kim liên trúc,
Tự viện tình canh Bạch tuyết chương.
Khoáng thế tao phùng giao đắc vũ,
Minh đình giảng hoạch phượng minh dương.
Kinh sơn bất thị long lai tảo,
Yếu ngã huy hào tảo bát phương.

Dịch nghĩa:

Có phận bút nghiên bước lên cung điện,
Tiếng giọt đồng trong nhà chầm chậm vang ra ao bạc.
Tiệc rượu vua ban thâu đêm sáng đuốc sen vàng(10),
Ở Viện Hàn lâm, suốt ngày họa thơ Bạch tuyết(11).
Cuộc gặp hiếm có ở đời, như giao long gặp mưa(12),
Ứng đối luận bàn trong triều anh minh; như chim phượng hót phía
đông núi(13).
Rồng kia ví chẳng sớm tới núi Kinh Sơn(14),
Ắt cần ta vung ngòi bút quét sạch tám phương.

Trong phần nguyên dẫn tác giả cũng tán đồng với những niềm nuối tiếc một thời của Ngô Thì Nhậm đối với bậc minh quân như Quang Trung Nguyễn Huệ: “Kính tiếp thơ của thai huynh gửi tới, bảo rằng lại được gặp gỡ như lần trước đây là việc khó, thật là điều cảm động đối với thân danh bọn ta, khúc Đan Dương(15) ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài, nhân đây làm thơ họa lại, mong được soi xét”.

Trước đó Ngô Thì Nhậm có bài họa:

Phiên âm:

Ức tích minh lương hội nhất đường,
Hương giang ngự trác hỗ tiên đường.
Hoàng hoa tuế khiển truyền Kim Mã,
Canh tảo thời bao phụng Bảo chương.

...

Dịch nghĩa:

Nhớ cảnh trước đây vua sáng tôi hiền gặp gỡ một nhà,
Trên sông Hương theo xa giá nhà vua đến ao tiên,
Con đường đi sứ được ban truyền lệnh nơi Kim Mã,
Văn chương đối đáp thường khen thưởng, phụng khúc Bảo chương....

Không chỉ như vậy, bài thơ tiếp theo của Phan Huy Ích viết trong tập thơ còn thể hiện một niềm đau đáu nhớ thương, hối tiếc đối với một vị vua anh minh đầy tài năng, đã sớm chia biệt cõi đời:

Phiên âm: (Bài 28 của Phan Huy Ích)

Thân khấu vân hôn, tử cực đường,
Chinh cơ lịch lịch giá trường đường.
Thừa minh, Tuyên thất xu bồi địa,
Thiên Bảo, Quyền A, tấu đối chương.
Sài lũy phong sa liên Nhật Lệ,
Hương hà triều tịch tự Thai Dương.
Niên lai lũ tác, quân thiều mộng,
Vọng mỹ nhân hề, thiên nhất phương.

Dịch nghĩa:

Tự tay gõ cửa cung mây, vào nơi điện tía,
Cưỡi ngựa giong ruổi mãi trên đường dài.
Nơi lui tới là nhà Thừa minh, Tuyên thất(16),
Chương tấu đối là thơ Thiên Bảo, Quyền A(17).
Gió cát Lũy Thày liền cửa Nhật Lệ,
Thủy triều sông Hương từ sông Thái Dương(18).
Mấy năm nay hằng mơ được nghe nhạc Quân, nhạc Thiều(19),
Những ngóng trông người đẹp(20) đã xa thăm thẳm một phương trời.

Sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản lên ngôi, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh tuy ở ngôi nhưng mọi việc đều do Thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết đoán. Bùi Đắc Tuyên kéo bè kéo đảng gây xích mích giữa các tướng lĩnh, đại thần. Trong triều thì giết hại lẫn nhau, còn bên ngoài thì những thế lực khác đang rình rập cơ hội tấn công nhà Tây Sơn.

Thời Cảnh Thịnh, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích cùng lo việc từ hàn, vẫn gánh vác công việc ngoại giao với các nước láng giềng. Hai ông giúp Quang Toản trong việc nội chính và ngoại giao, song ở nơi sâu xa nhất trong lòng những kẻ sĩ Bắc Hà này vẫn mang nỗi buồn khôn nguôi khi nhớ về quá khứ, một thời rực rỡ oanh liệt dưới triều đại Quang Trung. Tập thơ Cúc thu bách vịnh được sáng tác trong hoàn cảnh đó, trong tiết Trùng dương năm 1796, nên nội dung những bài xướng họa, đâu đó, chúng ta vẫn gặp lại những câu thơ hoài niệm của hai ông:

Phiên âm: (Bài 33 của Phan Huy ích)

... Hạc ảnh hoành không tinh Xích Bích,
Cùng thanh bán dạ động Âu Dương.
Bồi hồi bất tận hoài thu tứ,
Trực dục kim thu đạt tứ phương.

Dịch nghĩa:

Bóng hạc ngang trời, tỉnh mộng Xích Bích(21),
Tiếng dế nửa đêm, chạnh lòng Âu Dương(22).
Tình nhớ thu bồi hồi khôn xiết,
Chỉ muốn thu vàng tỏa khắp bốn phương.

hoặc những câu thơ như:

... Tiêu táp hoài thu xoang dật điệu,
Cầm Thanh chính thị vãn thu phương.

Dịch nghĩa:

... Nhớ tiếng thu xào xạc, lựa thanh điệu dìu dặt,
Tiếng đàn kia chính là nơi níu mùa thu lại.

Dường như có điều muốn níu kéo, nhưng hai ông bất lực trước cảnh tuột dốc của một triều đại đã đi vào con đường suy thoái trước khi sụp đổ. Những ngày tháng buồn đó, Ngô Thì Nhậm tìm đến đạo Thiền, mở thiền viện ở phường Bích Câu, viết bộ sách về Phật học: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh(23). Còn Phan Huy Ích lại trở về với đạo Lão, ông dựng một ngôi nhà vuông ở kinh đô, đặt tên là quán Bảo Chân và lấy đạo hiệu là Bảo Chân đạo nhân, với ý mong muốn tu dưỡng giữ nguyên chân tính của mình.

Trong một bức thư gửi Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đã nhờ Phan đề tựa cho bộ Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Ngô Thì Nhậm cũng rất biết, chỉ có người em rể Phan Huy Ích là hiểu được tư tưởng, hoài bão của mình. Phần nguyên dẫn của một bài thơ trong tập Cúc thu bách vịnh, Phan Huy Ích đã trình bày thêm quan niệm của mình về những vấn đề xung quanh tư tưởng Nho, Phật, Lão: “Khắp trong trời đất chỉ có một đạo lý thôi. Nó thể hiện tản mát trong mọi sự vật, nhưng qui tụ lại đến chỗ cùng cực thì vẫn cùng một nguồn gốc lớn ấy cả. Giáo lý của nhà Phật, bảo là hư không, man mác, nhưng nó có ở ngoài lý học(24) của nhà Nho ta đâu. Tập Nhị thập tứ thanh mà thai huynh biên soạn, nhận thức rất là sáng suốt, hơn hẳn xưa nay, có lẽ vẫn giữ được đúng nghĩa xây dựng ngôi chùa Tam Giáo ở động Nhị Thanh của tiên công ta. Người đời kiến thức mập mờ, kẻ nói le, người nói vịt hiểu sao thấu được lẽ đó”.

Tập thơ Cúc thu bách vịnh, với 100 bài thơ xướng họa giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, tuy dung lượng không nhiều nhưng qua tập thơ chúng ta có thể hiểu thêm con người Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Họ là những nhà Nho hành đạo, luôn mang một niềm khát vọng được đóng góp cho đời, đóng góp cho một triều đại anh minh và trên hết là khát vọng của những kẻ sĩ muốn đến với những tư tưởng lớn, chân lý đẹp. Nhưng trước sự suy thoái của chế độ phong kiến vào giai đoạn cuối ở nước ta, hai ông đành gửi tâm sự của mình vào những vần thơ viết về mùa Thu, trong cuộc xướng họa tương đắc giữa hai người.

N.N.N

CHÚ THÍCH:

(1) Trong khuôn khổ bài viết này, với 7 dị bản của tập Cúc thu bách vịnh nằm trong bộ Ngô gia văn phái chúng tôi xin đề cập vào một dịp khác.

(2) Xem thêm bài giới thiệu: Phan Huy ích và văn bản “Dụ Am ngâm lục” và phần phụ lục trong Thơ văn Phan Huy Ích. Nxb. KHXH, H. 1978.

(3) Những phần: phiên âm, dịch nghĩa, chú thích, nguyên dẫn trong bài chúng tôi đều trích từ cuốn Thơ văn Phan Huy Ích. Nxb. KHXH, H. 1978.

(4) Rượu Uyên Minh: Uyên Minh là tên tự của Đào Tiềm, một ẩn sĩ đời Tấn, tính ông thanh tao, bỏ quan về nhà làm ruộng, chỉ lấy thơ rượu làm vui.

(5) Tiểu Đỗ: tên của Đỗ Mục, thời bấy giờ người ta đặt để phân biệt với Đỗ Phủ.

(6) Chỉ “Trúc Lâm thiền viện” nơi Ngô Thì Nhậm lập ra để tu đạo thiền.

(7) Sư ông: Ngô Thì Nhậm tu ở Trúc Lâm thiền viện, lấy thiền hiệu là: Hải lượng đại thiền sư.

(8) Dẫn theo Văn Miếu Quốc tử giám và 82 bia Tiến sĩ, Ngô Đức Thọ chủ biên. H. 2002.

(9) Sách Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch. Nxb. Văn học, H. 1970.

(10) Đuốc sen vàng: đèn nến đúc hình hoa sen thắp ở cung điện vua.

(11) Bạch tuyết: vốn là tên một khúc hát hay, sau dùng để chỉ thơ văn tuyệt tác.

(12) Tam quốc chí chép: “Chu Du dâng sớ tấu: Lưu Bị không phải con người bị khuất phục mãi để cho người ta dùng, sợ rằng cũng như loài giao long, nếu gặp mây mưa thì không còn ở trong ao nữa”.

(13) Phượng hót phía đông núi: ý thơ xuất xứ ở câu: “Phượng hoàng minh lữ, vu bỉ triêu dương” trong Kinh Thi. Ýý nói người hiền gặp triều anh minh nên được bày tỏ chính kiến một cách thẳng thắn với nhà vua.

(14) Ý câu thơ nhắc tới việc vua Quang Trung băng hà.

(15) Khúc Đan Dương: tên một cuốn sách do Cát Thắng và Diệp Mộng Đắc xướng họa đời Tống. ở đây chỉ thơ xướng họa giữa hai ông Ngô và Phan.

(16) Thừa Minh, Tuyên Thất: chỉ những ngôi nhà dựng trong cung điện vua, nơi vua tôi gặp gỡ bàn bạc chính sự, văn chương.

(17) Thiên Bảo, Quyền A là những bài thơ trong Tiểu nhã Đại nhã của Kinh Thi đó là những bài thơ liên quan tới nhà vua và việc chính sự.

(18) Sông Thái Dương, thuộc tỉnh Thuận Hóa trước đây (theo Đại Nam nhất thống chí).

(19) Nhạc Quân, Nhạc Thiều: chỉ nhạc trong cung đình.

(20) Người đẹp: có khi chỉ người con gái đẹp; có khi chỉ vua, có khi chỉ các bậc hiền nhân quân tử. Câu thơ này dùng nguyên cả câu ở bài Tiền Xích Bích phú của Tô Đông Pha để tỏ ý mến tiếc vì không còn được thấy vua Quang Trung nữa.

(21) Bài Hậu Xích Bích phú của Tô Đông Pha có câu: “Thích hữu cô hạc, hoành giang đông lai” (Chợt có chim hạc lẻ loi, bay ngang sông phía đông).

(22) Bài Thu thanh phú của Âu Dương Tu có câu “Thùy đầu nhị thụy, đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức” (Cúi đầu mà ngủ, chỉ nghe tiếng sâu nỉ non kêu ở chung quanh tường).

(23) Về phần tiểu sử Ngô Thì Nhậm chúng tôi có tham khảo thêm lời giới thiệu của cuốn Thơ văn Ngô Thì Nhậm (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh) của Nxb. KHXH, H.1978.

(24) Lý học: một trường phái của Nho gia, nghiên cứu về nghĩa lý kinh điển nhà Nho. Lối học này thịnh hành từ đời Tống trở đi.

TB

NGÔ THÌ NHẬM VỚI ĐỜI THƯỜNG

LÂM GIANG

Mỗi khi nhắc đến Ngô Thì Nhậm, người đời sau thường nói đến “Nước cờ Tam Điệp” một cống hiến to lớn của Ngô Thì Nhậm, giúp vua Quang Trung hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Thăng Long đánh tan bọn xâm lược nhà Thanh vào mồng Năm tết Kỷ Dậu (1789). Nói đến Ngô Thì Nhậm, người đời sau không thể nào quên vụ án năm Canh Tý về việc phế trưởng lập thứ của phủ chúa Trịnh mà Ngô Thì Nhậm có chút dính líu và tiếp theo đó là cái chết đột ngột của cha (Ngô Thì Sỹ) tại nhậm sở Đoàn Thành (Lạng Sơn). Bài viết này xin đề cập lại nỗi oan về vụ án năm Canh Tý và một số chi tiết liên quan tới đời thường của ông qua các tác phẩm: Hào mân ai lục, Kim mã hành dư và một số tác phẩm khác của Ngô Thì Nhậm.

1. Nỗi oan về vụ án năm Canh Tý

Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, tức ngày 25 tháng 10 năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, thuở nhỏ tên là Phó, sau đổi Nhậm, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, khi nghiên cứu Thiền học lấy đạo hiệu Hải Lượng. Ông đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc đồng Kinh Bắc, thăng Công bộ Hữu thị lang. Năm 1788, Ngô Thì Nhậm ra với nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng, trao cho chức Thị lang Bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng Thượng thư Bộ Binh. Ông mất ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (9-3-1803).

Ngô Thì Nhậm để lại những sáng tác với số lượng rất lớn, hiện còn các tập văn: Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến, Hàn các anh hoa, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh và các tập thơ: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Hoàng hoa đồ phả, Cúc hoa thi trận, Thu cận dương ngôn. Trong số thơ văn hiện còn có 5 tác phẩm viết thời Lê Trịnh: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến, số còn lại đều được viết dưới thời Tây Sơn.

Dòng họ Ngô đến lập nghiệp tại Tả Thanh Oai đã nhiều đời, nhưng Ngô gia thế phả cũng chỉ coi từ đời cụ Phúc Cơ (khoảng đầu thế kỉ XVI) là người mở đầu cho dòng họ Ngô tại Tả Thanh Oai. Tên thuỵ hiệu của cụ tổ đều không rõ, năm Giáp Ngọ, cháu đời thứ 12 là Ngọ Phong, họp họ, xin đặt thuỵ hiệu, tôn làm Triệu tổ (Ngô gia thế phả).

Đời thứ hai là cụ Mỹ Đức, giữ chức Cao Sơn cục chính trưởng.

Đời thứ ba là cụ Hoằng Nghị, tự Minh Dực tướng quân.

Đời thư tư là cụ Cẩn Tiết, Nho sinh trúng thức.

Bắt đầu từ đây dòng họ Ngô chia ra làm hai chi Giáp và chi ất. Ngô Thì Nhậm thuộc chi Giáp, và kể từ đời cụ Phúc Cơ thì ông thuộc đời thứ 13 của dòng họ.

Ngô Thì Nhậm là con trưởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), Ngô Thì Sỹ thuộc đời thứ 12, tên tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong, biệt hiệu Nhị Thanh cư sĩ. Ngô Thì Sỹ có tài, từ chương nổi tiếng, nhưng nhiều năm liền thi không đỗ, gia cảnh nghèo túng. Đến khoa Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1752), ông thi lại trượt, nhưng được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mến tài cho làm một chức nhỏ Thiêm sai tri Công phiên ở Phủ Chúa.

Năm Quý Mùi (1763), Ngô Thì Nhậm 18 tuổi, người cha là Ngô Thì Sỹ được chúa Ân Vương Trịnh Doanh, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự trung Bộ Công, năm sau Giáp Thân (1764) trao chức Giám sát Ngự sử đạo Sơn Tây, không đầy vài tháng thăng làm Đốc đồng xứ Thái Nguyên (Hào mân ai lục).

Năm Bính Tuất (1766), Ngô Thì Nhậm đã 20 tuổi, ông cùng với Lưu Hi Trí (người cùng ấp, đỗ đầu thi Hương khoa ất Dậu) đến theo học thầy Đan Sỹ, là Tham chính Thanh Hoa, và cũng năm đó Ngô Thì Sỹ thi đậu Hoàng giáp (khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 - 1766).

Năm Mậu Tý (1768), Ngô Thì Nhậm 23 tuổi, thi Hương đậu Giải nguyên và năm sau (1769), ông đỗ khoa Sỹ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương (hàm Chánh thất phẩm).

Năm Tân Mão (1771), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An. Tư đồ Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép ông vào tội gian lận ở trường thi Hương. Khi ông bị cách tuột chức tước, thì Ngô Thì Nhậm cũng xin cáo quan về nhà, với lý do sớm hôm phụng dưỡng cha, năm đó ông 26 tuổi.

Năm Ất Mùi (1775), Ngô Thì Nhậm tròn 30 tuổi mới thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân và đứng hàng thứ 5. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm Hộ bộ Đô cấp sự trung. Năm sau lại thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, lại được bổ làm quan Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm Mậu Tuất (1778), Ngô Thì Nhậm được thăng chức Đốc đồng Kinh Bắc. Năm ấy, Ngô Thì Sỹ cũng nhậm chức Đốc trấn Lạng Sơn. Hai cha con cùng đi nhận chức một ngày (Kim mã hành dư, Ngô gia thế phả). Năm ấy, Ngô Thì Nhậm còn kiêm giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên. ở đây ông đã từng cùng cha phối hợp với Trấn thủ Tuân Vãng hầu đánh dẹp loạn tại vùng Vũ Nhai và năm đó ông soạn xong tập Công vụ thành thư. Năm Kỷ Hợi (1779), Ngô Thì Nhậm thăng chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp đồng với Trấn thủ Tuyên, Thái đánh dẹp cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang. ít lâu sau ông lại được sai đi kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm Canh Tý (1780) trở về, dâng sớ về phương sách thu thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh Sâm khen ngợi, ban thưởng trọng hậu. Gần cuối năm ấy xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi chúa, người đời sau thường gọi “Vụ án năm Canh Tý.”

Nguyên Trịnh Tông con trưởng của Trịnh Sâm, vì là con của một phi tần và không vừa ý chúa, nên đã 18 tuổi mà vẫn chưa được lập làm thế tử. Con thứ của nhà chúa là Trịnh Cán do Tuyên phi Đặng Thị Huệ sinh ra, được chúa rất yêu mến. Nhân lúc chúa Trịnh Sâm ốm nặng, Trịnh Tông bèn cùng tôi tớ trong nhà, sửa soạn khí giới, đợi khi chúa mất, đóng cửa thành lại, bắt trói Đặng Thị Huệ, giết phe cánh là quyền thần Quận Huy Hoàng Tố Lý, rồi báo cho hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc đem quân về hộ vệ đưa Trịnh Tông lên ngôi. Nhưng vừa lúc đó thì bệnh của Trịnh Sâm khỏi, sự việc bị phát giác. Trịnh Sâm sai Quận Huy Hoàng Tố Lý triệu Trấn thủ Sơn Tây là Nguyễn Khản và Trấn thủ Kinh Bắc là Nguyễn Khắc Tuân về, bắt trói giam trong phủ. Hai vị Trấn thủ cầu cứu Ngô Thì Nhậm thanh minh với nhà chúa. Chúa Trịnh Sâm càng tức giận, giao cho Ngô Thì Nhậm xét xử, giữa lúc ấy Ngô Thì Sỹ qua đời tại Lạng Sơn, Ngô Thì Nhậm dâng khải xin về chịu tang. Chúa bèn giao vụ án cho Lê Quý Đôn xử trí.

Về sự kiện này, các sử gia triều Nguyễn, trong Việt sử thông giám cương mục viết rằng, chính Ngô Thì Nhậm cùng với Nguyễn Huy Bá đã cáo giác vụ án; rằng Ngô Thì Nhậm khi đó là thày dạy (nhật giảng) của Trịnh Tông, rất rõ vụ việc, nhân cáo giác để nhận chức Công bộ Hữu thị lang; rằng Ngô Thì Sỹ vì can ngăn con mình không được, dẫn đến cái chết của bạn mình là Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Đĩnh, Chu Xuân Hán... buồn dầu uống thuốc độc chết tại Lạng Sơn. Cho nên đương thời truyền tụng câu: Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang (Giết bốn cha để được làm chức Thị lang).

Đây là cách đánh giá không thiện ý của triều đình nhà Nguyễn, vốn thù địch với nhà Tây Sơn, không ưa gì những người đi theo phong trào Tây Sơn mà Ngô Thì Nhậm là một trong những người tích cực nhất.

Sách Hoàng Lê nhất thống chí, cho biết: Tên giữ sổ sách Hà Như Sơn, là học trò Ngô Thì Nhậm biết việc đó, báo cho ông biết, ông đã nói rằng: “Thế tử là người thay thế chúa nắm quyền hành. Nước là nước của Thế tử, lo gì mất ngôi mà làm chuyện ấy...” Rồi lập tức báo cho Trấn thủ Nguyễn Khắc Tuân đình chỉ ngay, nhưng không kịp. Vụ án xử xong, khi xét công phát giác, quyền thần Hoàng Tố Lý vốn ghét Ngô Thì Nhậm, muốn nhân chuyện này tìm cách dè bỉu, nên ra sức xin thăng cho ông chức Công bộ Tả thị lang. Ngô Thì Nhậm giận lắm, lấy cớ có tang cha, không dâng biểu tạ ơn. Sách Hậu Lê thời kỉ lược, bộ sử có những quan điểm độc lập, và Ngô gia thế phả do Ngô Giáp Đậu viết cuối đời Nguyễn cũng cùng quan điểm trên.

Sự thực bốn người cha bị giết đó là những ai, chưa rõ lắm. Có thuyết cho rằng bốn người cha đó là: Trịnh Tông (quân phụ), Ngô Thì Sỹ (thân phụ), Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán (phụ chấp - bạn của cha). ở đây, Trịnh Tông chỉ bị truất xuống làm con thứ, chưa bị giết, thuyết này chưa thuyết phục. Lại có thuyết cho rằng, bốn người cha đó là: Ngô Thì Sỹ, Nguyễn Khản, Nguyễn Phương Đĩnh, Nguyễn Khắc Tuân, nhưng sự thật thì có Ngô Thì Sỹ bị bệnh chết, chỉ có Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán ép phải uống thuốc độc chết (Hoàng Lê nhất thống chí).

Vụ án xảy ra khoảng cuối tháng 7, đến cuối tháng 9, Ngô Thì Sĩ bị cảm tại động Nhị Thanh, rồi ít ngày sau thì qua đời. Trong bài Tiên công hạnh trạng (Hạnh trạng Ngô Thì Sỹ) do Ngô Thì Nhậm viết, cho biết: “Ngày 17 tháng 9 năm Canh Tý (1780), có việc công ở cửa Nam Quan về, đi qua núi, dừng cờ quạt mà vào trong động, gục trước tượng mà chợp ngủ, ước hơn nửa trống canh. Thân thể thấy không được khỏe liền trở về trấn, đóng cửa lại không tiếp khách, mà cũng không làm việc nữa. Ngày 25 bệnh hơi đỡ, lại dựa gối xem sách, bạn bè hầu tiếp, cười nói tự nhiên, tới nửa đêm, lên giường nằm tắt thở. Tin cáo phó tới kinh thành, chúa rất thương xót, trao cho chức Thừa chánh sứ xứ Tuyên Quang, tặng hàm Hữu thị lang Bộ Hộ, cho tên thụy là Ôn Bác...” (Hào mân ai lục).

Lời vè Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang là của những người không cùng chính kiến, ghen ghét Ngô Thì Nhậm đặt ra sau đó ít lâu. Sự thực không phải do Ngô Thì Nhậm vì cáo giác vụ án mà được thăng chức. Như đã biết, năm đó trước khi vụ án xảy ra, Ngô Thì Nhậm cũng đã có công lao về việc xử trí xưởng đúc bạc ở mỏ Tống Tinh, sau khi trở về Trịnh Sâm mới chỉ khen ngợi, chưa thưởng chức. Khi vụ án xảy ra, ông được giao cho xử trí, nhưng công việc chưa tiến hành thì Ngô Thì Sỹ đột ngột qua đời tại Lạng Sơn. Có thể để thưởng công cho những việc đã làm trước đây, an ủi phần nào trước nỗi đau mất cha của Ngô Thì Nhậm mà Trịnh Sâm đã thăng chức cho ông. Việc làm ngẫu nhiên mà trở thành hữu ý. Chính Ngô Thì Nhậm cũng không ngờ rằng sự việc lại dẫn đến nông nỗi ấy, ông từng tâm sự: “Thật khó hiểu, mầm họa lại do cái phúc gây ra, Bỗng xui nên tội trạng chính vì cái công dắt rủ đến...” (Hoản nhĩ ngâm - Thủy vân nhàn vịnh).

Sự ưu ái của Trịnh Sâm đối với Ngô Thì Nhậm được ông thể hiện trong bài Trần tình cáo Tĩnh vương văn, viết khi lánh nạn tại Sơn Nam, rằng: “Thần được Chúa thượng quá lòng chú ý tới... Không cho thần là ngu vụng mà dạy dỗ, vun vén, mong cho làm nên nghiệp lớn... Chính vì có sự ưu ái ấy mà thần ở vào cái thế qua ruộng dưa sửa dép, qua gốc mận sửa mũ” (Kim mã hành dư). Một việc làm ngay thẳng, nhưng ở vào thế bị hiềm nghi.

Đoạn văn ấy như sau:

庚 子 密 案 事 發 , 臣 處 瓜 李 之 地 , 有 所 聞 知 , 暴 白 冒 陳 。 聖 人 深 惟 春 秋 大 義 , 不 容 己 於 家 庭 之 訓 , 以 臣 不 敢 隱 情 於 君 父 , 故 吝 重 賞 以 明 示 天 下 。 臣 亦 不 敢 以 惡 居 下 蓅 之 情 , 施 於 事 君 , 故 寧 受 重 賞 , 以 尸 眾 謗 。 然 天 下 之 不 知 者 , 皆 曰: 聖 上 之 所 以 福 臣 者 , 乃 所 以 禍 臣 也 , 臣 之 中 聖 上 者 , 乃 所 誤 聖 上 也 。 “Canh Tí mật án sự phát, thần xử qua lý chi địa, hữu sở văn tri, bạo bạch mạo trần. Thánh nhân thâm duy Xuân thu đại nghĩa, bất dung kỷ ư gia đình chi huấn, dĩ thần bất cảm ẩn tình ư quân phụ, cố lận trọng thưởng dĩ minh thị thiên hạ. Thần diệc bất cảm dĩ ố cư hạ lưu chi tình, thí ư sự quân, cố ninh thụ trọng thưởng, dĩ thi chúng báng. Nhiên thiên hạ chi bất tri giả, giai viết: “Thánh thượng chi sở dĩ phúc thần giả, nãi sở dĩ hoạ thần dã, thần chi trung thánh thượng giả, nãi sở dĩ ngộ Thánh thượng dã”. (Mật án năm Canh Tý (1780) vỡ lở, thần ở vào thế bị hiềm nghi, hễ nghe biết được gì, đều đánh bạo bộc bạch hết. Thánh thượng hiểu sâu nghĩa lớn của sách Xuân thu, không dừng lại ở sự giáo huấn trong nhà, vì vậy thần không ẩn tình với quân phụ, không tiếc trọng thưởng để bảo rõ cho thiên hạ biết sự thật. Thần cũng không dám lấy cái tình ghét ở chỗ thấp để thờ vua, hoặc thà nhận trọng thưởng mà làm bung xung cho người phỉ báng. Nhưng kẻ không biết trong thiên hạ, đều bảo rằng: “Thánh thượng làm phúc cho thần mà gây hoạ cho thần, thần thì trung với Thánh thượng mà làm cho Thánh thượng sai lầm.” (Trần tình cáo Tĩnh vương văn - Kim mã hành dư).

Bài trần tình này, Ngô Thì Nhậm làm sau Trịnh Sâm mất đã ba năm, chắc lời nói với người đã khuất là lời nói thật. Tình cảm của ông đối Trịnh Sâm cũng là tình cảm thật:

Đức chí hiếu của Tiên Vương, sánh ngang Ngu Thuấn,
Ai ngăn được tiếng khóc kêu trời sau trận mưa thu.
Một bữa cơm tế xã, chén uất sưởng nẫu lòng;
Muôn dặm non Kiều, cây tùng cành thu nhỏ lệ.
(Vãn Tiên thánh vương - Thủy vân nhàn vịnh)

Lại trong khi lánh nạn bị một trận ốm nặng, Ngô Thì Nhậm làm bài Mật đảo văn (Bài văn bí mật cầu được bình yên), đã nói thẳng ra rằng, mình nhận chức Thị lang khi mất cha là chuốc lấy tai vạ, không chỉ cho riêng bản thân mình phải long đong lẩn tránh, mà còn khổ đến gia đình, vợ con: “Tự mình sơ hở mà liên lụy cả nhà. Mất cha mà được chức, đắn đo sự được mất, tiểu nhân này quả là có tội nặng.” Nhận chức trước tình cảnh bị mất cha, nên bị đặt điều Sát tứ phụ nhi đắc Thị lang, dẫn đến việc “vơi người” mà “đầy mình” ấy, ông chỉ biết kêu lên: “Con tạo hỡi sao mà khéo tá!” Ông tỏ ra ân hận: “Tự xét: Ngay từ nhỏ đã hanh thông, nên không thấu lẽ rủi may tốt xấu, thành thử ở chỗ tối tăm mà chuốc lấy thất bại, vì mau chóng mà chịu tai ương; ngửa mong đức lớn hiếu sinh, mở ra lối sửa chữa lỗi lầm, khiến cho lúc cùng mà biết đến sai lầm, khi khốn mà nghĩ đến điều thiện.” (Mật đảo văn - Kim mã hành dư). Lời bộc bạch trên ông viết trong hai bài văn mật đảo, dưới đây xin dẫn bài thứ hai:

又 密 禱 天 地 文

臣: 忝 以 庸 常 , 幸 蒙 培 壅 。

國 澤 濫 叨 溫 寵, 負 乘 皆 非 分 之 恩 ; 身 謀 徒 巧 應 酬 , 操 履 少 澄 心 之 事 。

釁 實 招 自 己 ; 禍 延 及 所 親 。

關 山 萬 里 奔 喪 , 父 子 不 相 聞 , 契 闊 實 無 窮 之 悔 ; 雨 露 九 天 沛 澤 , 君 王 新 有 命 , 傴 僂 增 非 據 之 慚 。

深 惟 倚 伏 之 機 關, 莫 測 幹 旋 之 樞 紐。

失 父 而 得 官 , 權 衡 於 失 得 , 小 人 罪 惡 之 太 深 ; 虧 人 而 盈 己 , 推 測 於 盈 虧 , 大 造 飄 陶 之 更 巧 。

撫 躬 而 增 懼 ; 仰 隆 鋻 之 無 私 。

伏 願: 不 遠 監 觀 曲 加 矜 閔 。

恢 浩 浩 好 生 之 德 , 卑 聽 孔 昭 ; 佑 敻 敻 在 疚 之 兒 , 可 貞 獲 吉 。

Phiên âm:

HỰU MẬT ĐÁO THIÊN ĐỊA VĂN

Thần: Thiệm dĩ dung thường, hạnh mông bội ủng.

Quốc trạch lạm thao ôn sủng, phụ thừa giai phi phận chi ân; thân mưu đồ xảo ứng thù, thao lý thiếu trừng tâm chi sự.

Hấn thực chiêu tự kỷ, hoạ diên cập sở thân.

Quan san vạn lý bôn tang, phụ tử bất tương văn, khế khoát thực vô cùng chi hối; vũ lộ cửu thiên bái trạch, quân vương tân hữu mệnh, khu lũ tăng phi cứ chi tàm.

Thâm duy ỷ phục chi cơ quan; mạc trắc cán tuyền chi khu nữu.

Thất phụ nhi đắc quan, quyền hành ư thất đắc, tiểu nhân tội ác chi thái thâm; khuy nhân nhi doanh kỷ, suy trắc ư doanh khuy, đại tạo phiêu đào chi cánh xảo.

Phủ cung nhi tăng cụ; ngưỡng long giám chi vô tư.

Phục nguyện: Bất viễn giám quan, khúc gia căng mẫn.

Khôi hạo hạo hiếu sinh chi đức, ty thính khổng chiêu; hựu quỳnh quỳnh tại cữu chi nhi, khả trinh hoạch cát.

Dịch nghĩa:

LẠI VĂN MẬT CÁO VỚI TRỜI ĐẤT:

Thần, hổ phận tầm thường, nhờ ơn vun đắp.

Giúp nước những lạm nhờ vinh sủng, việc gánh vác đều do ơn phi phận thấm nhuần; xuất thân chỉ khéo ở ứng thù, sự dày đạp ít, hẳn lặng lòng suy nghĩ.

Tự mình khơi ra hiềm khích; cả nhà liên luỵ tới tai ương.

Đường chạy tang muôn dặm non sông, cha con vắng tin nhau, nỗi xa cách thật vô cùng hối hận; ơn tưới mát chín tầng mưa móc, mệnh Chúa ban khen vừa tới, bước lom khom không được đáng thẹn thùng.

Cơ quan dựa dẫm nghĩ cho sâu; bộ máy chuyển vần khôn đo được.

Mất cha mà được chức quan, đắn đo sự được mất, tiểu nhân này tội quá sâu dầy; vơi người mà đầy mình, suy xét việc đầy vơi, đại tạo hỡi nặn vo sao khéo tá?

Ngẫm thân hèn thêm sợ sệt; nhờ gương sáng chẳng riêng tây.

Cúi mong: soi xét không xa, rủ lòng thương tới.

Mở đức hiếu sinh rộng lớn, để nghe được rõ ràng; thương con côi vò võ cư tang, được ban điều tốt đẹp.

Đây cũng là những điều khấn trước thần minh, chắc là lời nói thật, để mong cho được phù trợ, mau tai qua nạn khỏi. Trong bài có nói “Tự mình khơi ra hiềm khích” tức là nói việc ông nhận thưởng chức và nhận cả việc đứng ra xét xử vụ án là không đúng lúc.

Còn như Ngô gia thế phả hay Hoàng Lê nhất thống chí và một số sách khác nói rằng, Hoàng Tố Lý vốn ghen ghét Ngô Thì Nhậm, nên cố xin thăng chức cho ông, để xỉ nhục ông. Có lẽ mối quan hệ giữa hai người không đến nỗi thế, mà ngược lại. Chẳng thế sau khi chạy thoát xuống Bách Tính, Sơn Nam, Ngô Thì Nhậm mới kịp làm bài văn điếu Quận Huy. Trong lời điếu tỏ rõ nỗi thương xót thực sự:

“Sinh ra, khí phách anh hùng đã tự gửi vào thân xác,
Chết đi, tinh thần còn lưu trong vũ trụ mênh mông...”

Và viếng:

“Xin nhờ ngòi bút viếng hồn người trung nghĩa,
Ngàn năm nơi chín suối người vẫn có thể vùng đứng lên...”
(Điếu Huy Quận công - Thủy vân nhàn vịnh).

Như vậy, nếu có sự ghen ghét nhau chắc không có được những lời như thế.

Những lời tâm sự trên đây cho thấy Ngô Thì Nhậm có nhiều công lao với triều đình, được Trịnh Sâm tin tưởng và ưu ái, ban thưởng trọng hậu. Ngô Thì Nhậm cho rằng việc nhận thưởng là chính đáng, chỉ có điều lần lĩnh thưởng chức Tả thị lang đồng thời nhận việc đứng ra xử lý vụ án, sau đó thì Ngô Thì Sỹ qua đời đột ngột, dẫn đến lời đồn đại Sát tứ phụ nhi Thị lang khiến ông băn khoăn, cho rằng lần nhận thưởng này là chưa đúng lúc! Thực ra đúng như lời Hoàng Lê nhất chí nhận xét, Ngô Thì Nhậm nhận đứng ra xét xử vụ án là muốn gỡ tội cho những người bạn của cha mình, như Trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Khản và Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân... Những chi tiết trên đây cho thấy Ngô Thì Nhậm không phải cố tình cáo giác vụ án để lĩnh thưởng!

2. Ngô Thì Nhậm với đời thường

Ngô Thì Nhậm thuở nhỏ cũng như những trẻ nhỏ khác, phải lo toan học hành, trau dồi kiến thức, thi cử..., nhưng nhà ông nghèo, nhiều năm người cha thi không đỗ, nên cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn. Nhưng có lẽ, cả cuộc đời ông xảy ra mấy việc, khiến ông đau lòng nhất, ngoài nỗi oan về vụ án năm Canh Tý:

Năm Ngô Thì Nhậm 17 tuổi thì mẹ qua đời để lại 5 người con: Ngô Thì Nhậm con cả, con thứ hai Ngô Thị Thục, sau lấy Tiến sĩ Phan Huy Ích, con thứ ba Ngô Thì Chí, con thứ tư Ngô Thị Viêm, con thứ năm Ngô Thì Điện.

Năm 1763, Ngô Thì Sỹ được chúa Ân Vương Trịnh Doanh mến tài, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự trung bộ Công, năm sau Giáp Thân (1764) trao chức Giám Ngự sử đạo Sơn Tây, không đầy vài tháng thăng làm Đốc đồng xứ Thái Nguyên (Hào mân ai lục). Từ đây gia đình Ngô Thì Sỹ mới dần dần thoát khỏi cảnh nghèo khó. Năm 1764 Ngô Thì Sỹ lấy vợ kế họ Nguyễn, bà cùng 4 người con chồng đến nhậm sở tại Sơn Tây ở với ông; chỉ còn Ngô Thì Nhậm ở nhà với người vợ mới cưới là Ngô Thị Anh, người Bách Tính, Sơn Nam Hạ (Kim mã hành dư).

Năm Tân Mão (1771), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An, Tư đồ Hoàng Ngũ Phúc ghép ông vào tội gian lận trường thi Hương, bị cách tuột chức tước. Cũng năm đó, bà vợ kế của Ngô Thì Sỹ mất, khi ấy Ngô Thì Sỹ còn đang ở Nghệ An. Mọi việc thuốc thang, rồi tang ma đều do Ngô Thì Nhậm lo toan. Bà sống với Ngô Thì Sỹ được 7 năm, để lại hai người con (Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hoàng). Trước cái chết của mẹ kế, Ngô Thì Nhậm rất đau xót:

“Than ôi, thương thay ! vào tuần tháng 6, thứ mẫu mắc bệnh ở trong Kinh, cha ta thì ở châu Hoan chưa nhận được tin. Ta ở xứ Hải Dương bắt được thư của em gái và em trai Diễm gửi tới, đêm mưa dấn thân mà về, thì bệnh đã hấp hối rồi, đương muốn viết thư báo cấp cho vợ và em ta về Kinh hỏi thăm, thì bà gạt đi, vì không muốn làm phiền đến con bà đích. Đến như rước thày lang và trông coi thuốc thang, chỉ có tin tưởng ở ta. Hỏi bà muốn trối lại điều gì, thì ngoài việc nhớ cha ta ra, không có lời gì khác. Với tấm lòng cẩn thận chu đáo của thứ mẫu như thế thì người thường không thể sánh kịp. Ta thật lòng mong bệnh của thứ mẫu có thể chỉ trong tuần nhật sẽ khỏi. Than ôi, thương thay! thứ mẫu ra đời 29 năm, giúp cha ta tới nay vừa 7 năm, tuy ở vào cảnh thuận, nhưng đủ mùi cay đắng, những việc chưa được như ý chiếm tới tám chín phần mười. Hốt nhiên hoá đi như là thánh cõi trần, khiến cho cha ta vừa nhớ vừa buồn, hai em ta mất chốn nương cậy. Các con bà đích cũng bàng hoàng chưa chút đáp đền, đau thương này có thể nguôi được ư?...” (Tế thứ mẫu Thuận Nhân văn – Kim mã hành dư). Bà mất tặng Thuận Nhân hiệu Trang Chính (Ngô gia thế phả).

Năm 1780 xảy ra vụ án Canh Tý. Vụ án xảy ra khoảng cuối tháng 7, đến cuối tháng 9, Ngô Thì Sỹ bị cảm tại động Nhị Thanh, rồi ít ngày sau thì qua đời. Ngô Thì Nhậm dâng biểu xin với Chúa đưa thi hài cha về quê. Trịnh Sâm liền cấp ngay cho tiền bạc và 20 tên lính đi áp tải quan tài. Đoàn người vội vã lên đường, đến nơi lập tức trở về ngay. Ngày Canh Dần, tháng 10 năm Canh Tý khởi hành, mười chín ngày sau vào ngày Nhâm Thân, tháng mười thì đưa quan tài về tới quê Tả Thanh Oai. Công việc đưa linh cữu về quê chậm trễ, dài ngày vì ngoài việc khiêng vác vất vả, hàng ngày dừng đợi cúng cơm ra; còn xảy ra một việc rất đau lòng là: Người vợ thứ tư của Ngô Thì Sỹ họ Hoàng, hiệu Tuệ Trang, theo ông lên Lạng Sơn, sinh được một trai nhưng không nuôi được, sau mới sinh được bé gái còn nhỏ thì Ngô Thì Sỹ qua đời. Lúc đưa linh cữu về quê, bà quá đau xót mà sinh bệnh, không thể đi cùng. Linh cữu đi được vài ngày, có tín báo bà đã mất. Ngô Thì Nhậm phải dừng linh cữu giữa đường, quay lại Đoàn Thành lo tang ma cho người mẹ kế, chôn cất tại đó, hẹn ba năm sau cải táng đưa về quê, cái thế lúc này không thể đưa linh cữu mẹ kế về cùng. Ngô Thì Nhậm, kể: “Mệnh của Cơ sao quá mỏng, sinh một trai thì không nuôi được, một gái thì còn nhỏ. Tiên quân ta lại bỏ mà đi, đàn con côi không nơi nương tựa, Cơ cũng chẳng được trông cậy, trăm cảnh khổ cực, lòng sợ mắt buồn. Gần đây chạy tang ở dinh thự Đoàn Thành, thấy Cơ bị bệnh rên rỉ, xin theo tiên quân. Lòng ta thương buồn, vì Cơ lễ bái thuốc thang nhưng không kiến hiệu. Ngày trở về đã tới, không thể săn sóc. Ngày 12 đưa tang ra khỏi thành, để Cơ ở lại dinh, còn mong cho khỏi, nhưng vào ngày 14 Cơ bèn theo tiên quân mà lìa cõi trần. ở giữa đường nghe được tin, rất lấy làm buồn. Cơ sống hay chết đều theo tiên quân ta, có thể coi là bậc trinh thuận thành thực, còn bọn ta thờ phụng đấng thân, không có công trạng gì, không những đắc tội với cha, mà cũng thẹn với Cơ nữa. Nay linh cữu ở dọc đường, tính đường đất đến cuối tháng mới tới quê nhà. Tang sự là việc lớn, chính đương lúc chật vật nơi núi cao khe thẳm, đường đi xa xăm này, thế không thể cho phép mang cả di hài của Cơ cùng đi theo mà về. Vậy xin chọn ngày tốt, tạm chôn ở cánh đồng Vĩnh Trại, ấp này phụng thờ đền tiên quân, có động Truyền thần ở đó. Khí thiêng chung đúc, um tùm âm u, Cơ có thể lại nương tựa, để phụng thờ tiên quân. Đặt hai khoảnh ruộng để hàng năm tuần tiết thờ cúng Cơ, đều khắc vào mặt sau bia, truyền lại lâu dài. Cơ có con dại, lũ tôi xin vì Cơ nuôi dạy, Cơ có mẹ già, lũ tôi xin vì Cơ thăm hỏi, Cơ ở dưới chín suối, sẽ không để lòng lo buồn. Ba năm đã sạch sẽ rồi, sẽ cải cát đưa hài cốt về để hầu hạ mồ mả tiên quân, sẽ yên ủi lòng mong mỏi của Cơ” (Tế thứ mẫu Hoàng Thị văn - Kim mã hành dư).

Khi linh cữu về gần đến kinh thành Thăng Long, vì tang đại thần, không được đi qua kinh đô, Ngô Thì Nhậm phải đưa đi đường vòng xuống phía hạ lưu sông Hồng, vượt sông về đến đầu làng Tả Thanh Oai, dựng rạp bên bờ sông Nhuệ, làm ma. Lại cũng vì lệ người chết nơi tha hương không được đem linh cữu về nhà mình ! Tại nhà tế này Ngô Thì Nhậm đề đôi câu đối, bao quát cả cuộc đời hoạt động của người cha:

Tam đô xuất trấn kiêm văn vũ;
Lưỡng tiến đăng triều sáng cổ kim.
(Hào mân ai lục).

(Ba lần ra trấn thủ xứ ngoài, tài kiêm văn võ;
Hai lượt được tiến triều, là dịp hiếm có xưa nay).

Năm Nhâm Dần (1782), trong kinh có biến. Trịnh Sâm qua đời, nhân ngày cúng cơm, kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông. Những người có liên quan ít nhiều đến vụ án năm Canh Tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam, tịch thu gia sản. Ngô Thì Nhậm vì trước đây bị dư luận ghép cho là người cáo giác vụ án, phải lánh về quê vợ cả ở am Lệ Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (Vũ Thư, Thái Bình). ở đây ông nương nhờ tại nhà người em vợ là Đồng Lạc thị.

Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt chúa họ Trịnh, giao quyền cho Lê Hiển Tông, rồi lại trở về Nam. Em ông là Ngô Thì Chí về am Lệ Trạch, nơi ông đang lánh mình đón về kinh, nhận chức Hộ bộ Đô cấp sự trung, thăng Hiệu thảo kiêm Toản tu của triều đình Lê Chiêu Thống.

Năm Đinh Mùi (1787), Vua Lê Chiêu Thống được Nguyễn Hữu Chỉnh giúp, chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra đánh. Chiêu Thống chạy về vùng núi Bảo Lộc (nay Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), sai người sang nhà Thanh xin cầu viện, còn Ngô Thì Nhậm ẩn náu tại làng Kim Lan, huyện Thạch Thất (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, xuống lệnh tìm kiếm quan lại cũ của triều đình nhà Lê -Trịnh ra giúp việc nước. Ngô Thì Nhậm được Nguyễn Huệ trao cho chức Hữu thị lang bộ Công, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê. Nguyễn Huệ lại trở về Phú Xuân.

Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn quân, cùng hàng chục vạn dân phu phục dịch, vượt biên giới, tiến sâu vào nội địa nước ta, với dã tâm xâm lược. Ngô Thì Nhậm cùng tướng của Tây Sơn là Ngô Văn Sở bàn tính kế lui giặc. Một cống hiến to lớn của Ngô Thì Nhậm là “Nước cờ Tam Điệp” giúp cho Quang Trung hành quân thần tốc ra Thăng Long lập nên chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) lừng lẫy.

Năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài. Giữa lúc vua sáng tôi hiền gặp gỡ thì vua Quang Trung lâm bệnh đột ngột qua đời vào ngày 29 tháng 7 (nhuận), năm ấy.

Tháng 2 năm sau (1793), Ngô Thì Nhậm lãnh chức Chánh sứ sang Thanh (Trung Quốc) báo tang và cầu phong cho vua mới Quang Toản.

Đi sứ là việc hết sức hệ trọng, không những đối với quốc gia đại sự mà ngay bản thân người đi sứ cũng lo lắng đến cả tính mạng của mình, e rằng lần đi sứ này khó có thể sống xót trở về, nên trước khi lên đường Ngô Thì Nhậm đã viết lời dặn lại con cháu rất cặn kẽ:

“Học Tốn công em ta (tức Ngô Thì Chí), đã quy tiên trước ta rồi, cháu Phẩm (tức con Ngô Thì Chí) nên lập từ đường ở bản ấp để thờ cúng em ta. Từ đường đó cứ theo như nhà cũ, sau này cháu, rồi con trưởng của cháu nối tiếp phụng thờ. Sủng là em cháu, sau khi khôn lớn, nên làm nhà ở làng Bảo Triện cùng nương tựa vào cậu là Hoàng giáp công (Định Lĩnh hầu), đợi khi nào mẹ cháu tuổi già, rước về Bảo Triện, lúc trăm tuổi hợp táng với cha cháu. Nay mẹ cháu tuổi chưa tới 50, ta chưa cho về.

Em thứ ta là Quảng Nghiệp quân, không có con, nay giao cho em Thiệm, (Thiệm là con ông chú: Ngô Tưởng Đạo) sau này thờ chú ta (Ngô Tưởng Đạo, bố của Thiệm) làm hàng chiêu, thờ Quảng Nghiệp quân ở hàng mục. Em (tức Thiệm) là người có tài, không phải tục tằn, ta đâu phải nhiều lời.

Em thứ nữa là Trí, ở chi ta là ngành thứ, song đối với bà thứ mẫu Thuận Nhân lại là ngành trưởng (Ngô Thì Chí là em thứ ba của Ngô Thì Nhậm, nhưng là con đầu của bà mẹ kế (thứ mẫu) là Thuận Nhân sinh ra), đã thờ thần chủ bà thứ mẫu Thuận Nhân phối hưởng với Tiên công, đó là lòng hiếu kính của ta theo chí hướng của các cụ trước, đời đời không dám vượt quá. Trí, em nên cùng với Thân con cả ta ở chung (trong Ngô gia văn phái Ngô gia thế phả chép Ngô Thì Điển, chữ Điển 典 và Thân 伸 tự dạng gần giống nhau, có lẽ ở đây chép lầm chữ “Điển” ra chữ “Thân”?. Chú cháu phụng thờ tư tết phải kính cẩn, không được trái cái ý hiếu thuận của ta. Em [Trí] nên ở một khu đất phía trước, bên phải nhà của cháu Thân. Đất đó do Tiên công ta cho, lại một chiếc ao nữa, ta thu lại làm ao hương hỏa, sẽ lấy một chiếc ao đào cũ, sào thước cũng đúng bằng ấy để đổi.

Em thứ thứ nữa là Hoàng, vợ em có công nhưng không may không có con, cho em được ở quê vợ, cùng nương tựa với anh em họ ngoại. Em nên lấy vợ lẽ, người trong họ của vợ em, để kế về sau. Hàng năm lễ tết giỗ chạp thì về quê quán cùng anh em tôn tộc hội họp yến ẩm, là được.

Em thứ thứ nữa là Hương, mẹ em đã cải giá, vợ em cũng mất sớm, cảnh ngộ em rất lận đận, ta thương lắm. Nhưng sau em cưới vợ nữa, đó là điều không chỉ nói về đạo làm người, mà là theo đạo trời đấy. Vì ngay từ khi còn nhỏ đã phải đơn côi khổ cực, đạo trời thì thêm bớt, ắt trưởng thành hanh thông. Sau này để tang sinh mẫu và giá mẫu. Hiện tại không được gặp mặt em. Vợ em hiện không có con, cho phép em lấy em gái vợ làm kế thất. Em nên làm nhà ở xã Cao Xá, nhập tịch xã đó. Còn như thổ cư ở thôn Đức Lâm, nay chị dâu thứ nhì tạm ở, sau này lấy nhà đó làm nơi thờ vợ (cả) của em. Bố mẹ vợ em đem con gái thứ hai gả cho em, con rể cũng như con đẻ, sau này, theo lễ thì để tang 1 năm, theo tình thì để tang 3 năm, không được làm trái lời ta.

Con trưởng Thân ! Con là con cả, ở quê cha mẹ, phụng thờ tổ tông, con cùng chú Trí ở chung, phải lấy hiếu thuận khuyên bảo, lấy thành thực đối xử, chớ phá hoại nền nếp ông cha. Con giữ một khu ao hương hỏa và các thửa ruộng tế của đàn Truy Viễn, siêng năng sản nghiệp, để đủ dưa muối, không được khiếm khuyết.

Con thứ Nghi ! năm Nhâm Dần (1782) lúc ta phải trốn tránh, cùng bàn với mẹ con, cho con ở quê ngoại xã Bách Tính, để phụng thờ những giỗ chạp về họ ngoại. Con nên cùng cậu Đồng Lạc thị nhập tịch làng đó. Nay cho con một ngôi nhà ở bên phải nhà anh Thân con, đó là một khu đất đằng sau suốt mãi tới phần đất của chi trưởng, để khi tuần tiết hàng năm, trở về ở đó mà cúng tế cho tiện.

Con thứ thứ nữa Quán ! Đã cho làm thừa tự em gái ta là Cung Hòa huy nhân, vợ Trác Lĩnh hầu, cho con làm nhà ở xã Bằng Liệt để thờ tự bố mẹ nuôi. Còn mẹ đẻ con, cho một ngôi nhà ở bên trái nhà anh Thân con, đằng sau suốt mãi tới vườn sau từ đường, cho có nơi dựa dẫm, ăn ở được yên.

Ngoài ra, con trai, con gái còn nhỏ, phó cho mệnh trời, không dám mong ước nhiều.

Lại ông anh họ là Hựu, được nhờ cha ta xưa nuôi làm con, kể tuổi thì phải làm em ta, nay ta đã xây dựng gia đình cho em để giữ hương khói ngành trưởng, em phải cùng anh Trí và cháu Thân ở chung, phải một nhà hòa thuận yêu mến, có thủy có chung, nhất là chia rẽ người này người nọ, phải cấm hẳn. Nếu trái lời ta, tổ tiên chứng giám !

Này, ta là người ứng phó với việc đời, từng làm bài phú Mộng Thiên Thai, có câu rằng:

“Lấy cả vũ trụ làm lều chừ,
Ôi sao buộc được cánh chim hồng đây?”

Con đường dong ruổi chạy vạy của ta, tương lai chưa thể đoán được. Ngửa trông phúc lớn, việc đi sứ xong, khi cưỡi ngựa nhìn thấy cái vui của gia đình, nào cha con, nào anh em, nào ông cháu, càng có nhiều truyện lý thú.

Một thiên nghị luận về việc họ này, chỉ là sơ lược mà thôi”.

Trên đường đi sứ, đi đến Nam Ninh, được tin quê nhà mở khoa thi, ông lại viết thư về dặn dò con cháu:

“Năm nay mở khoa thi, lấy học trò đỗ bằng những bài Kinh nghĩa và văn sách. Khi thi tuyển, quan hữu ty dẫn dắt, cất nhắc vào kinh. Bước đường mây xanh dài rộng, người học giỏi mới được nộp danh sách.

Xem ra, lũ chúng mày học thì đểnh đoảng, cần nên sửa chữa, đừng có chơi đùa, để đợi khoa sau sẽ gặp dịp tốt. Là con em nhà thế gia, đứng trong hàng đai mũ, không thể ví với con em nhà thường dân, gặp bước tiến mau, sức học thì không đủ, nhưng mong muốn những việc ngoài bổn phận, để nhục tới danh tiếng gia đình. Chú cháu chúng mày ở nhà, càng nên bảo nhau cố gắng, chăm đọc sử sách, vì ở đời người có văn chương là quý. Đến như việc khoa cử, phận trời đã định. Truyện nhà Đào Bính, để lại trò cười cho các nhà đại gia, phải răn cấm, phải răn cấm! Chớ cho lời ta nói là viển vông không thiết thực. Nếu nhà chức trách cho việc không nộp danh sách ứng cử mà trách móc, thì khi ra ứng khảo hạch ở huyện, nếu có mỗ mãng mà bị đánh hỏng, cũng không hại gì. Cần nhất là không nên “vẽ rắn trổ chim,” tài sức không đủ mà cứ miễn cưỡng làm, đến lúc thi lại, bị trượt, rất là hổ thẹn.

Đường xá xa xôi, trong lòng nhớ nhung, nghĩ tới các ngươi, mượn bút gửi lời, ghi lòng chớ trái.

Cuối tháng trọng Xuân, viết ở nhà trọ Nam Kinh, và để báo tin bình an mà mừng.”

(Giới đệ tử điệt thư)

Lần đi sứ này Ngô Thì Nhậm trở về bình yên. Về đến Thăng Long, ông chỉ kịp ghé qua nhà viếng mộ con trai Văn Trang vương vừa mất trước khi đi sứ ít ngày, rồi vào Phú Xuân ngay, mãi đến cuối năm Giáp Dần (1794) mới trở lại quê nhà.

Vua Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm mất đi người hiểu mình, biết đến tài năng và tin dùng mình. Quang Toản mới 15 tuổi lên nối ngôi, nội bộ triều đình dần dần bị chia rẽ sâu sắc, rồi lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, bởi người cậu Bùi Đắc Tuyên lợi dụng vua Quang Toản còn nhỏ tuổi, chuyên quyền, lộng hành, vơ vét của cải cho bản thân, gây ra năm bè bảy mối, gạt bỏ dần những bầy tôi giỏi, trung thành của vua Quang Trung. Rồi việc gì sẽ đến cũng đã đến. Triều đình Quang Toản sụp đổ. Nhà Nguyễn lên thay, Ngô Thì Nhậm bị đưa ra Văn Miếu đánh đòn. Trận đòn thù làm cho ông uất ức mà qua đời.

L.G

TB

VĂN BẢN HÀO MÂN AI LỤC
CỦA NGÔ THÌ NHẬM

PHẠM THỊ THOA

Hào Mân ai lục (HMAL) là tác phẩm được chép trong tùng thư Ngô gia văn phái của dòng họ Ngô Thì làng Tả Thanh Oai. Song hầu như chưa được giới thiệu và khai thác. Sách gồm các bài cáo văn, tế văn, hành trạng Ngô Thì Sĩ do Ngô Thì Nhậm soạn sau khi cha ông qua đời; ngoài ra HMAL còn tập hợp các câu đối mà Ngô Thì Nhậm đã đề ở đình chùa, nhà thờ họ, nhà tế cha... Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của ông, chúng tôi giới thiệu đôi nét về tác phẩm này.

I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN

HMAL được chép trong 4 tập sách, có những khác biệt nhất định tạo thành các dị bản khác nhau, có thể chia thành 2 nhóm dị bản sau:

Nhóm dị bản thứ nhất:

1. HMAL chép trong Ngô gia văn phái VHv.1743/19: sách khổ 25x15cm, chữ viết hơi thảo. Tập này chép ở quyển 7 trong tùng thư, có 59 tờ; từ tờ 24 đến tờ 33 chép HMAL. Văn bản này, chúng tôi gọi là bản 1 (B.1).

2. HMAL chép trong Ngô gia văn phái VHv.1743/28: sách khổ 29x17cm. Tập này cũng chép ở quyển 7, tất cả có 55 tờ. Từ tờ 20 đến tờ 29 chép HMAL. Văn bản này, chúng tôi gọi là bản 2 (B.2).

Cả b1 và b2 trong nhóm dị bản này đều chép câu đối. Số câu đối và thứ tự sắp xếp trong hai bản này hoàn toàn giống nhau, sự sai lệch là không đáng kể.

Nhóm dị bản thứ hai:

1. HMAL chép trong Ngô gia văn phái, ký hiệu A.117/22: sách khổ 28x17cm, gồm 54 tờ, chữ viết chân phương, chép ở hai quyển 43 và 44 trong tùng thư. Tất cả có 39 bài cáo văn, tế văn và một bài chép hành trạng Ngô Thì Sĩ. Tập này chúng tôi gọi là bản 3 (B.3).

2. HMAL chép trong Ngô gia văn phái, ký hiệu A.117/31: sách khổ 28x17cm, gồm 260 tờ, chữ viết thảo, do con trai trưởng là Ngô Thì Điển biên tập. Sách chép 15 quyển, trong đó có hai quyển 55 và 56 chép HMAL gồm 38 bài cáo văn, tế văn. Văn bản này, chúng tôi gọi là bản 4 (B.4).

Nhóm dị bản thứ hai chép văn. Các bài cáo văn, tế văn trong hai bản này không những sai lệch về số bài, mà ngay cả tên bài, ngôn từ dùng trong bài cũng không thống nhất. Trong B.3 có 40 bài, B.4 chỉ có 38 bài, trong đó, có 31 bài trùng nhau, 16 bài khác nhau. Trong số 16 bài khác nhau đó thì B.3 có 9 bài, B.4 có 7 bài, còn B4 và B.3 thì không có.

Ngay trong 31 bài trùng nhau mà phần lớn trùng nhau cả tên bài và nội dung, thì cũng còn những sai lệch, như:

1. Cùng nội dung nhưng tên bài không thống nhất

Đề bài 1 trong B.3: Bôn tang cáo văn

(Canh Tý thập nguyệt Canh Tuất nhật)

Ở đây ngày tháng được đưa xuống phần cước chú.

Còn đề bài 1 trong B.4 ghi là: Canh Tý thập nguyệt bôn tang cáo văn. Phần ngày tháng được đưa lên trên đề bài.

Tương tự như vậy, bài 4 trong B.3 chép: Hồi tang trục nhật cáo văn. Ngày tháng để cuối mỗi bài cúng.

Bài 4 trong B.4 chép: Canh Tý thập nguyệt hồi tang trục nhật cáo văn: ngày tháng cũng đưa lên đề bài.

2. Tên bài giống nhau nhưng thứ tự sắp xếp lại khác nhau

Chẳng hạn bài: Bách nhật cáo văn, thấy trong B.3 chỉ nêu lý do cúng trăm ngày, còn trong B.4 lại ghi thêm 43 bài cúng tuần rằm, mồng một. Trong khi đó, 43 bài này, ở B.3 lại được chép thành một bài riêng: Trục nhật sóc vọng cáo văn.

3. Ngôn từ dùng không thống nhất

Bài 31 trong B.3: Cải thiên cáo văn, thì câu đầu chép là: Phật cư cực lạc, tiên tại Bồng Sơn.

Còn trong B.4 ghi là: Mậu Thân cáo thỉnh cải thiên tại bản xã Ngải xứ điền cáo văn. Và đầu câu chép là: Ô hô! Phật tại cực lạc, tiên cư Bồng Sơn.

4. Thêm bớt câu

Bài Nghênh thần cáo văn

B.3 chép: Tư Nhị Thanh động tạo lệ dân Vĩnh Trại xã phụng nghênh quan hàm duệ hiệu... (Nay: dân tạo lệ động Nhị Thanh, xã Vĩnh Trại rước quan hàm duệ hiệu...)

B.4 lại chép: viết hữu nghênh thần qui động tất cáo lễ dã. Tư: Nhị Thanh động tự tạo lệ dân Vĩnh Trại xã phụng nghênh quan hàm duệ hiệu (có câu rằng: khi rước thần về động phải có lễ cáo. Nay dân tạo lệ chùa động Nhị Thanh xã Vĩnh Trại rước quan hàm duệ hiệu...).

Nhóm dị bản thứ hai này, về cơ bản giống nhau, song cũng còn một số khác biệt như đã nêu trên. Nếu đối chiếu kỹ sẽ có một bản hoàn chỉnh.

II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HMAL

1. Câu đối:

Số câu đối ở đây gồm cả câu đối trong Kim mã hành dư, cùng nằm trong quyển 7).

Cụ thể là câu đối ở Từ đường Ngô Thì Sỹ 83 đôi, đền Sùng Đức 7, nhà bia 2, nhà thờ Vĩnh Tư 3, điện tế vua Lê Hiển Tông 43, trai đường Thái Phi 47, phủ chúa Trịnh 10, nhà giải nhiệt 7, Khôn Hậu đường 11, Vương phủ đường 4, công phủ 10, lầu Minh Ngự ở đình bản xã 10, từ vũ bản huyện 9, miếu Chử Đồng Tử 3, chùa Linh Am 1, điện tế mẹ vợ 3, đền Hoàn Tiết 1, đền Sài Sơn 1, đền Tượng Hiền 2, đền Tiên Căn 7, Tam tự 1, nhà tế 19, câu đối mừng quan về hưu 18, đàn Truy Viễn 1, Tư Sảnh 8, nhà ở Kinh 2, chùa Trúc Lâm 6, ở sảnh đường 2 đôi.

Như vậy tất cả có 321 đôi câu đối, được chép ở 28 nơi khác nhau, từ đền chùa miếu mạo, đến nhà tế Ngô Thì Sỹ. Trong số câu đối trên, có câu ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng cũng có câu được dùng điển tích điển cố, khiến người đọc phải tinh thông kim cổ mới có thể hiểu được. Điều này thể hiện sự thông minh lỗi lạc, học rộng hiểu nhiều của Ngô Thì Nhậm. Nội dung các câu đối cũng đa dạng theo địa điểm thờ cúng. Chẳng hạn ở nhà thờ Ngô Thì Sỹ câu đối ca ngợi văn chương đạo đức của cha:

師 世 文 章 奎 璧 燦
宗 儒 道 德 斗 山 高

Sư thế văn chương Khuê Bích xán;
Tông nho đạo đức Đẩu Sơn cao.

(Văn chương bậc thầy sáng ngời như sao Khuê sao Bích;
Đạo đức đại nho cao ngất tựa Bắc Đẩu, Thái Sơn)

Chỉ một đôi câu đối ông cũng nêu hết công danh sự nghiệp của cha mình:

三 都 出 鎮 兼 文 武
兩 進 登 朝 創 古 今

Tam đô xuất trấn kiêm văn võ;
Lưỡng tiến đăng triều sáng cổ kim.

(Ba lần ra trấn thủ xứ ngoài tài kiêm văn võ;
Hai lượt được tiến triều gây sự nghiệp xưa nay).

Câu đối ở điện tế vua Lê Hiển Tông Dụ Hoàng đế thì ca ngợi đức cao vọng trọng của nhà vua:

深 仁 厚 澤 久 涵 濡 如 化 日 光 天 所 在 尊 親 冒 怙
盛 德 茂 功 齊 溥 博 雖 深 山 窮 谷 罔 不 奔 走 悲 號

Thâm nhân hậu trạch cửu hàm nhu, như hóa nhật quang thiên, sở tại tôn thân mạo hỗ;
Thịnh đức mậu công tề phổ bác, tuy thâm sơn cùng cốc, võng bất bôn tẩu bi hào.

(Nhân sâu ơn hậu, thấm nhuần đã lâu, như bóng mặt trời tỏa khắp, bầu trời sáng trưng, mọi nơi được thương yêu nương tựa;
Đức thịnh công cao, rộng che hết thảy, dù trên núi xa xăm, hang cùng ngõ tối, không đâu phải chạy vạy kêu gào).

Đền Sài Sơn ông chỉ còn để lại một đôi câu đối, song nó đã nêu được đầy đủ triết lý về nhân sinh, về đạo lý:

道 則 無 始 終 可 能 始 盡 制 終 盡 倫 昭 焄 豈 在 地
人 皆 有 生 死 惟 有 生 完 美 死 完 局 壽 天 不 爭 天

Đạo tắc vô thủy chung, khả năng thủy tận chế, chung tận luân, chiêu huân khởi tại địa;
Nhân giai hữu sinh tử, duy hữu sinh hoàn mỹ, tử hoàn cục, thọ thiên bất tranh thiên.

(Đạo thì không có đầu không có cuối, sao cho đầu thì làm hết chế độ, cuối thì hết luân thường, sáng soi rực rỡ đâu phải tại đất;
Người đều có sống có chết, miễn sao sống cho hoàn mỹ, chết cho vẹn toàn, tuổi thọ không ganh đua được với trời).

2. Văn

a. Hành trạng

Khi viết hành trạng của cha mình là. Ngô Thì Nhậm đã nêu tất cả những khó khăn, nỗi vất vả và bước đường làm quan liêm khiết của cha. Ông coi đó như một tấm gương mẫu mực cho bản thân học tập và con cháu sau này noi theo. Ông viết rằng: cha ông trải làm quan suốt 25 năm dưới thời Lê - Trịnh. Dù trong phủ chúa hay vào xứ Thanh, lên xứ Lạng, cha cũng đều hết lòng với công việc. Khi làm án sát xứ Thanh Hoa, cha đưa ra chính sách khiến bọn cường hào phải im lặng, trong dân giảm hẳn việc kiện tụng. Cũng vì thế mà phái sĩ phu đều hâm mộ danh tiếng, nối tiếp nhau xin theo học. Vậy nên ngoài việc quan, cha còn phân định thời gian để giảng tập, khiến nhiều người thành đạt. Cha cũng là người am hiểu quân pháp. Năm Đinh Dậu (1777), cha được đổi bổ làm Đốc trấn xứ Lạng Sơn. Khi mới đến, thấy thành cũ xa núi cao, lại liền bãi đất thấp, cha cho rằng đó là điều tối kỵ của nhà binh, nên đã cho di chuyển thành tới núi Lộc Mã. Khi đến Lạng Sơn, nơi đây vừa trải nhiều năm đại hạn, khiến dân đói kém, phải phiêu bạt quá nửa, cha đã tùy từng trường hợp mà cứu giúp, khuyên dân làm ruộng, cho lưu thông buôn bán, cấm bọn cường hào nhũng nhiễu. Vì vậy dân được an cư lạc nghiệp. Ngoài làm quan, dạy học; cha còn viết văn, làm thơ để lại cho hậu thế mà tiêu biểu là tác phẩm Việt sử tiêu án. Trong Việt sử tiêu án cha đã đính chính những sai lầm của sử cũ, nên được nhiều nhà sử học sử dụng(1)...

b. Văn cáo văn tế

Các bài văn tế, văn cáo này là tiếng khóc não nuột, lòng tiếc thương vô hạn của người con mất cha. Trong bài Văn cáo với tượng truyền thần, ông đã gào lên thảm thiết: “Thốt nhiên núi non nghiêng lở, chơ vơ không chốn nương nhờ. Lễ văn ở gia đình, không biết hỏi ai, đau lòng đứt ruột, bao giờ mới nguôi”.

Lòng đau thương này còn thể hiện suốt trên đường rước linh cữu cha từ Lạng Sơn về tới quê:

“Đau nỗi biệt thì tạm thời, ly thì mãi mãi, chờ đợi mà không thấy trở lại. Giọt lệ tuôn trào chảy theo dòng nước. Trời cao cùng cực, sông dài mênh mang, có đau đớn hơn ta không”(2).

Ngoài tiếng khóc, HMAL còn thể hiện sự sủng ái của nhà chúa đối với gia đình Ngô Thì. Trong bài Văn khấn vội về chịu tang, Ngô Thì Nhậm viết: “Ngày Quí Mão tháng trước, ở Kinh đô nghe tin báo tang, con lập tức dâng tờ khải báo việc đau buồn đó, được thánh chúa nghĩ tới lòng trung thành của cha, cho con đến bản trấn đón tang. Chúa đặc biệt ban cho 100 quan tiền. Lại truyền cho quan quân ở các cơ Mại Vũ, Tín Sai, Hậu Dực, Trung Dực, Tiền Hùng ở xứ Kinh Bắc cùng tới thành để hộ táng. Lại ban thêm hai mươi tên lính theo con đi hộ vệ”

HMAL còn phản ánh về công việc khơi sông lấn biển dưới thời Lê - Trịnh, mà cha con ông là những người góp nhiều công sức. Năm Nhâm Dần khi đi công cán, ông đã làm lễ bái vọng về. Trong bài Văn tế tháng 5 năm Nhâm Dần, ông viết “Than ôi! Đây là ấp Bồng Hải được lập lên từ giải đất cát mới bồi ở cửa bể Đại ác. Con nhận tờ chỉ dụ đo đạc ruộng bãi biển để san bổ ngạch thuế. Trước tiết Đoan Dương hai ngày, từ cung Sơn Thủy dương buồm xuôi dòng xuống nghỉ lại ở đó, để bố trí các việc ven biển, phụng mệnh đặt thêm năm ấp trang, ở ngoài đê biển, gọi là Đạo Hải, Liễn Hải, Thanh Hải, Phù Lan và Tiến Thủy. Các nơi đó đều đã làm nhà ở, biên vào hộ khẩu. Con nhờ được nhà chúa biết tới, nay có lương bổng, những chức việc giao cho làm, không dám không cố gắng, để khỏi phụ cơm ăn áo mặc. Nghĩ lại năm Mão, năm Thìn khi cha còn sống, trong lúc thư nhàn cha có soạn một cuốn Đào y chẩm bí khiến cho con khi đến trông nom ruộng đất ở hai miền Nam Chân và Giao Thủy, đã biết đặt kế sách kiệm ước lâu dài cho xứ ấy. Con phụng mệnh viết ngay cuốn Nông dị thuyết. Phần cuối cuốn sách đó, có một chương viết về thuế biển, nói rõ lợi ích làm ruộng. Song năm đó về “nông cục” không xong. Nay con có lệnh đi lập đồn điền, bao chiếm ruộng đất muôn khoảnh, thu hút một giải dân biển...”

Năm 1782 sau khi Trịnh Khải lên ngôi chúa, Ngô Thì Nhậm phải đi lánh nạn ở nhiều nơi. Thời gian lánh nạn cũng là kỳ làm lễ đoạn tang cha. Trong bài Văn tế lễ đoạn tang ông đã kể lại nguồn cơn đau buồn đó.

Vào đầu bài văn tế ông viết: Kinh Lễ nói rằng: “người quân tử không lên chỗ cao, không xuống nơi sâu”, là sợ nhỡ xảy chân, làm nhục tới cha mẹ. Khi con còn nhỏ, được cha dạy bảo, nhưng không biết giữ gìn, trong lòng nghĩ quá nặng về đường công danh, còn đối với công nuôi dưỡng của cha mẹ thì bỏ khuyết, đuổi sóng theo bọt, bèn gặp phải tai họa, để thẹn cho cha. Nay chốn tránh ở đầm cỏ, sở dĩ chưa thể chết ngay chính vì phải giữ tấm thân còn để lại của cha mẹ, gặp lúc nước nhà nhiều cơn hoạn nạn, tội ở chỗ không được khôn khéo, chứ không phải là không trung thành...”.

Như vậy ông cho rằng ông rất trung thành với nhà chúa nhưng chỉ vì không khôn khéo nên bị mắc tội mà thôi. Qua đây chúng ta cũng hiểu thêm được sự rối ren của xã hội Việt Nam thời Lê - Trịnh để kết cục dẫn đến cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn.

HMAL không những thể hiện lòng hiếu thảo của những người con đối với cha, mà phần nào thể hiện sự sủng ái của nhà chúa đối với cha con Ngô Thì Nhậm. Sự sủng ái này có lẽ là do cha con ông dù ở nơi biên cương hay trong phủ chúa đều hết lòng vì đất nước, luôn tận tụy với công việc. Điều này cũng dễ lý giải vì sao sau này, Ngô Thì Nhậm trở thành một bề tôi trung thành, một chỗ dựa tin cậy của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.

P.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Lược dịch Tiên công hành trạng trong HMAL, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.117/22.

(2) Văn khấn hàng ngày đưa tang về cố hương.

TB

MẤY NÉT VỀ TẬP THƠ
NGỌC ĐƯỜNG XUÂN KHIẾU
CỦA NGÔ THÌ NHẬM

LÊ VIỆT NGA

Ngô Thì Nhậm là một tác gia lớn trong tùng thư Ngô gia văn phái và cũng là một trong những tác gia tiêu biểu của triều đại Tây Sơn. Ông đỗ Tiến sĩ và làm quan dưới triều Lê - Trịnh, đồng thời sau đó cũng ra làm quan với nhà Tây Sơn. Những sáng tác của ông hiện còn lại khá lớn, khoảng 20 tác phẩm. Trong đó có 5 tác phẩm viết dưới thời Lê - Trịnh như: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến; 5 tác phẩm viết dưới triều Tây Sơn: Hoàng hoa đồ phả, Cúc hoa thi thận, Thu cận dương ngôn, Hàn các anh hoa và Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Ngoài ra, còn có tập thơ Ngọc đường xuân khiếu được sáng tác giữa giao điểm của thời Lê Chiêu Thống với Tây Sơn. Tác phẩm này vì thế có giá trị nhất định phản ánh diễn biến tư tưởng của ông khi đến với triều Tây Sơn. Chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về văn bản và giá trị nội dung tập thơ này.

I. Vấn đề văn bản:

Ngọc đường xuân khiếu hiện còn 3 dị bản đều chép trong tùng thư Ngô gia văn phái lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm:

1. Bản VHv.16/3 (B.1), gồm 82 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x15cm, để lề rộng, không đánh số trang, viết bút lông, chân phương, có chấm câu bằng son, chép 4 tập thơ của Ngô Thì Nhậm, gồm:

- Bút hải tùng đàm, 78 bài thơ.

- Thủy vân nhàn vịnh, 56 bài thơ.

- Ngọc đường xuân khiếu, 74 bài thơ.

- Cẩm đường nhàn thoại, 63 bài thơ.

Bản này được chép một cách hệ thống, đầy đủ rõ ràng, ít sai sót hơn so với những bản khác.

2. Bản VHv.1743/22 (B.2) gồm 84 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x16cm, chữ viết chân phương, có đôi chỗ viết theo lối đá thảo, hơi khó đọc. Toàn bộ tập sách chép 4 tập thơ của Ngô Thì Nhậm, có:

- Bút hải tùng đàm, 78 bài thơ.

- Thủy vân nhàn vịnh, 56 bài thơ.

- Ngọc đường xuân khiếu, 74 bài thơ.

- Cẩm đường nhàn thoại, 69 bài thơ.

Trước mỗi tập thơ đều ghi: Ngô gia văn phái. Tiến sĩ Thượng thư Hi Doãn công di thảo. 74 bài thơ chép trong tập Ngọc đường xuân khiếu này, thứ tự sắp xếp giống như bản VHv.16/3 đã nêu trên.

3. Bản A.177c/1 (B.3) kí hiệu ghi tại bản chụp: A.117/31 gồm 258 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x16cm, viết thảo và đá thảo, khó đọc. Toàn bộ tập sách chép thơ văn Ngô Thì Nhậm; bao gồm:

- Bút hải tùng đàm, gồm 94 bài thơ.

- Ngọc đường xuân khiếu, gồm 66 bài thơ.

- Hoa Trình gia ấn, gồm 21 bài thơ.

- Kim mã hành dư (văn).

- Hào mân ai lục (văn).

66 bài thơ của tập Ngọc đường xuân khiếu này, thứ tự sao chép giống như hai bản đã nêu trên, nhưng chép thiếu 6 bài và chép dôi ra 1 bài so với hai bản trên (6 bài thiếu: Thu tứ tứ tuyệt - 4 bài; Ký kiến; Văn giá cô thanh; Trai cung thị lậu; Xuân mộ; Khấp đệ Học Tốn thị. 1 bài dôi ra là: Thần phó học tức sự). Nếu như vậy thì tập Ngọc đường xuân khiếu sẽ có 75 bài thơ. Ngoài việc khác nhau về số bài thơ (chép thiếu 6 bài và dôi ra 1 bài) như đã nêu trên, bản A.117c/1 thường chép một số đầu đề bài thơ khác đi, như:

B1 và B2 B3
- Thu vãn tham thiền
- Hạ phó đô Ngự sử Nguyễn Bút Phong
- Hạ hữu.
- Khốc đệ Quảng Nghiệp quân
- v.v...
- Vãn Thu tham thiền
- Thư hạ Ngự sử Nguyễn Bút Phong, tịnh ngữ
- Tiễn hạ thi.
- Khốc vong đệ Quảng Nghiệp quân

Tuy nhiên nội dung các bài thơ trong từng dị bản hầu như không có sự khác biệt gì lớn.

Niên đại ra đời của tập thơ không được ghi chép đầy đủ. Tập thơ được soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái tập hợp, đặt tên, và chỉ ghi là “Tiến sĩ Thượng thư Hi Doãn công di thảo”. Nội dung của 75 bài thơ đề cập đến mấy cụm vấn đề sau đây:

- Cụm bài viết sau khi lánh nạn từ vùng biển Thái Bình trở về.

- Cụm bài viết khi ông làm Giám khảo khoa thi Chế khoa do Lê Chiêu Thống mở năm 1787.

- Cụm bài viết gửi em ruột là Học Tốn (Ngô Thì Chí), ông chú ruột và bạn bè.

- Cụm bài tả cảnh trên đường từ Thăng Long vào Phú Xuân.

- Cụm bài viết khi đi sứ nhà Thanh v.v.

Như vậy, xét về nội dung và kể cả dụng ý sắp xếp của soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái, đặt sau tập Thủy vân nhàn vịnh (sáng tác năm 1782 - 1786) thì có thể đoán định tập thơ này do Ngô Thì Nhậm sáng tác vào sau thời gian lánh nạn trở về: cuối năm 1786 đến 1793.

Thực tế, năm 1786, Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh trả lại toàn bộ quyền bính cho vua Lê. Do đề nghị của người em Ngô Thì Nhậm là Học Tốn (Ngô Thì Chí), triều đình cử người xuống Thái Bình đón Ngô Thì Nhậm về Kinh. Khi ông về đến Kinh thì vua Lê Hiển Tông đã qua đời (10-8-1786). Ngay sau khi Lê Chiêu Thống lên nối ngôi, Ngô Thì Nhậm được trao chức Đô cấp sự trung bộ Hộ, rồi thăng Hiệu thư kiêm Toản tu Quốc sử. Khi Lê Chiêu Thống bỏ kinh sư chạy lên phía Bắc (1788), Ngô Thì Nhậm đi ở ẩn tại huyện Thạch Thất (Hà Tây). Tháng 4 năm đó, Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ giới thiệu, nên được Nguyễn Huệ phong cho chức Thị lang bộ Công. Sau chiến thắng Đống Đa, Ngô Thì Nhậm cùng Phan Huy ích đảm trách việc bang giao. Nhiều bài trong tập thơ Ngọc đường xuân khiếu được sáng tác trong giai đoạn này.

Mở đầu tập thơ là loạt bài viết sau khi lánh nạn từ vùng biển Thái Bình trở về: Vãn Thu tham thiền, Đăng Hỗ sơn hữu cảm, Nhuệ giang tịch phiếm, Thiền am tự cựu, Giang tự tình du ... Đây là những bài viết khi ông về thăm quê sau gần 5 năm xa cách.

Bài Vãn Thu tham thiền (Thăm thiền vào buổi cuối Thu), có câu: Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên (Bấm đốt ngón tay đã năm năm phiêu bạt); hay bài Đăng Hỗ sơn hữu cảm (Cảm tưởng khi lên núi Hỗ) có đoạn: Thiên nhai dạ dạ mộng y quan, Du tử kim phiên bái Hỗ san (Nơi chân trời đêm đêm thường mơ thấy áo mũ, Đứa con đi xa lần này được lên bái lạy núi Hỗ đây). Như vậy là ông đã có 5 năm trời phiêu bạt rồi mới trở về bái lạy núi Hỗ để thăm viếng mẹ cha...

Mùa xuân năm Đinh Mùi (1787) Lê Chiêu Thống mở khoa thi Chế khoa, Ngô Thì Nhậm có loạt bài: Ngũ Vân lâu công hà ký, Y toái ngọc thể dụng song nhạn xuất quần cách, Ngũ Vân lâu vãn diếu, Hạ Ngự sử Nguyễn Bút Phong ... Khoa ấy ông cùng với Vũ Duy Đoán và Tả Khê Nguyễn Chất Trai được cử làm giám khảo. Ông viết: “Bọn ta là người cùng làng, cùng tuổi, nay gặp dịp được tiến cử, cùng được dự chức trách ở khảo ty. Kính vâng lời vua, lớn lao thay lời vua. Lại là người nghe ngóng giải quyết công việc nơi công sở thì nên một lòng ngay thẳng, công bằng khi cầm bút, phải phẳng như nước, phải sáng tựa gương, phải nghiêm túc như 10 ngón tay. Khi chọn người thì không chọn tràn lan, khi bỏ thì không quá hà khắc, ngăn ngừa kẻ hãnh tiến, chọn được người trung hậu. Cốt làm sao chọn được nhân tài ở chốn quê mùa...” (Ngũ Vân lâu công hà ký). Trong lời dẫn của bài: Nghĩ đại Văn Giang môn sinh hạ sư tử cập đệ (Viết thay môn sinh ở Văn Giang mừng con thầy đỗ đại khoa), Ngô Thì Nhậm cho biết: năm Đinh Mùi (1787) là năm đầu Thánh Thiên tử lên ngôi, ban chiếu kén bậc hiền lương. Năm đó Trần Bá Lãm người làng Vân Canh (ngoại thành Hà Nội) và Nguyễn Gia Cát người làng Vân Cầu huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) trúng tuyển. Bài thơ và lời dẫn còn cho biết, Ngô Thì Nhậm là học trò của thân phụ Nguyễn Gia Cát.

Hai bài Tại Kim Lan ký đệ Học Tốn thị (ở Kim Lan gửi cho em là Học Tốn) và Ký đệ Học Tốn thị (Gửi em Học Tốn) do Ngô Thì Nhậm viết khi Học Tốn còn sống, khoảng năm 1787 đầu năm 1788. Lại bài: Khốc đệ Học Tốn thị (Khóc em Học Tốn) ông viết khi nghe tin Học Tốn ốm chết năm 1788.

Bài Họa thân thúc công (Họa bài thơ ông chú ruột) và Ký Bảo Triện Trần Hoàng giáp (Gửi ông Hoàng giáp họ Trần ở làng Bảo Triện) đều là những bài sáng tác khoảng năm 1791 hoặc 1792. Bởi lẽ chú ruột Ngô Thì Nhậm là Ngô Tưởng Đạo mất năm 1792, còn Hoàng giáp họ Trần tức Trần Danh án, khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang phía Bắc, bị ốm không theo được, nên phải quay về quê, giữ tấm lòng cô trung với nhà Lê, và mất năm 1794.

Trong lời đề dẫn bài Họa quyến đệ Đồng Lạc thị (Họa bài thơ gửi em họ là Đồng Lạc), Ngô Thì Nhậm ghi rõ là: “Khi gặp hoạn nạn, Đồng Lạc đã tận tâm nâng đỡ, nay trước khi đi sứ phương Bắc lại đem con gửi cậu...) Có nghĩa là bài thơ viết trước lúc Ngô Thì Nhậm giữ chức Chánh sứ sang nhà Thanh cầu phong cho Quang Toản năm 1793.

Phần giữa tập thơ chép một loạt bài vịnh cảnh trên đường từ Thăng Long vào Phú Xuân như: Thần Phù sơn vọng hải (Đứng trên núi Thần Phù ngắm biển), Đăng Bàn A sơn cảm hứng (Cảm hứng khi lên núi Bàn A), Nghệ An đạo trung (Trên đường Nghệ An), Ngụ Dinh Cầu muộn thuật (Thuật lại nỗi buồn khi nghỉ lại Dinh Cầu), Hoành Sơn đạo trung (Trên đường Hoành Sơn), Bố Chính đạo trung (Trên đường Bố Chính) v.v... Những bài này có thể do Ngô Thì Nhậm sáng tác khi vào Phú Xuân yết kiến Quang Toản sau khi đi sứ cầu phong trở về năm 1793.

Có một số bài viết khi đi sứ như: Quế Lâm, Yên Đài, Ô giang phong nguyệt, Thu dạ lữ hành... không thấy có trong tập Hoàng hoa đồ phả của Ngô Thì Nhậm sáng tác khi đi sứ năm Quý Sửu 1793. Đọc kỹ từng bài mới rõ đây là những bài ông làm khi đi sứ trên đường về.

Tập Hoàng hoa đồ phả là tập thơ vừa vẽ đường đi sứ từ Lạng Sơn đến Yên Kinh, vừa có thơ vịnh dưới mỗi cung đường hay thành quách, trạm dịch, cùng bản đồ đường đi. Như vậy, loạt bài làm khi đi sứ trở về không thể ghi chung vào đây, vì Ngô Thì Nhậm không vẽ đường về. Chắc hẳn những bài sáng tác trên đường về đã được chép trong tập riêng. Sở dĩ cho rằng những bài này do Ngô Thì Nhậm sáng tác trên đường đi sứ năm 1793, bởi có câu nói tới cảnh sắp về đến nước nhà như bài Dịch lộ hiểu hành (Buổi sáng đi trên đường trạm):

Đẩu nam cung khuyết hồi đầu cận;
Hán bắc quan san dẫn lộ trường.

(Cung khuyết phía nam Bắc Đẩu, ngoái đầu thấy đã gần;
Núi non phía bắc Ngân Hán, đường đi đã thấy xa thẳm).

Các bài thơ này còn đề cập đến mùa thu, cảnh thu như trong lời đề tựa đầu tập Hoàng hoa đồ phả ghi rằng: “Mùa xuân Quý Sửu (1793), là năm đầu Hoàng thượng lên ngôi, tôi phụng mệnh đi sứ cầu phong. Ngày 20 tháng 2 lên đường, ngày 27 qua cửa ải, ngày 8 tháng 5 đến Yên Kinh, ngày 20 tháng ấy về nước, tháng 9 mùa thu về đến Kinh đô...” Có nghĩa là những bài nói về mùa thu làm lúc Ngô Thì Nhậm đã sắp về tới nhà:

Mai dịch thê lương đậu khách trình,
Bích ngô chi thượng báo thu thanh.
(Thu dạ lữ đình)

(Dặm đường đất khách, dừng chân nơi trạm mai lạnh lẽo,
Tiếng thu đã báo trên cành ngô đồng biếc xanh).

Hay:

Tân thu dĩ kết mã đề sương...
Chinh bào ám đệ kim phong sảng.
(Thu hành)

(Mới đầu thu, sương đã kết trên móng ngựa...
Gió thu dìu dịu, ngầm thổi tới áo người đi xa;)

Tóm lại, tập Ngọc đường xuân khiếu chủ yếu chép những bài thơ Ngô Thì Nhậm sáng tác vào khoảng năm 1787 đến năm 1793. Loạt bài đầu tập thơ viết dưới thời Lê Chiêu Thống, tiếp theo là những bài viết dưới triều Tây Sơn (trên đường đi sứ trở về từ yên Kinh đến Phú Xuân).

II. Nội dung tập thơ:

Nội dung của tập thơ chủ yếu tả cảnh, tả tình, thể hiện tâm trạng thoải mái sau khi ông thoát nạn trở về, hân hoan tin tưởng khi giữ trọng trách cho nhà Tây Sơn. Chẳng hạn, khi trở về thăm quê sau nhiều năm xa cách, bơi thuyền chơi trên sông Nhuệ, ông viết:

Tĩnh thủy nhất điều trương tố luyện;
Sơ tinh kỷ điểm ánh cô chu.

(Nhuệ Giang tịch phiếm)
(Một dòng nước lặng như căng dải lụa trắng;

Mấy vì sao thưa dọi bóng vào chiếc thuyền côi).

Đứng trước bàn thờ cha mẹ, ông hân hoan tỏ chí mình vẫn thiết tha với triều đình nhà Lê:

Thiên nhai dạ dạ mộng y quan,
Du tử kim phiên bái Hỗ san.
(Đăng Hỗ sơn hữu cảm)

(Nơi chân trời đêm đêm thường mơ tới chuyện áo mũ,
Đứa con xa quê lần này lại bái lạy núi Hỗ đây).

Tình cảm này của ông đối với triều đình nhà Lê thể hiện rõ nhất ở loạt bài viết khi làm giám khảo trường thi ở lầu Ngũ Vân bên bờ sông Nhĩ Hà:

Hồi thủ Trường An tây thượng vọng,
Nùng sơn thụy khí chính nhân uân.
(Ngũ Vân lâu vãn điếu)

(Ngoái đầu nhìn phía tây Trường An,
>Khí lành ở núi Nùng đang xông lên nghi ngút).

Trong những loạt bài trên không thấy chi tiết nào tỏ rõ ông có cảm tình với nhà Tây Sơn. Chỉ đến khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ giới thiệu và được Nguyễn Huệ trọng dụng, thì ông mới có tình cảm thực sự với triều đại mới. Tình cảm ấy thể hiện ở loạt bài viết gửi cho người em là Học Tốn, ông chú ruột hay ông họ Trần ở Vân Canh cùng hàng loạt bài viết khi đi sứ trở về từ Yên Kinh đến Phú Xuân, với lòng tin tưởng vào triều đại mới mặc dù lúc ấy vua Quang Trung đã qua đời:

Tiên hoàng uy đức phương chiêu dụ
Vạn quốc hanh cù hảo tịnh biều.
(Ký kiến)

(Uy đức của Tiên hoàng ta còn đang rạng rỡ,
Đang cùng với muôn nước, dóng ngựa trên con đường lớn thênh thang).

Với cảnh thanh bình khi đi qua đèo Ngang:

Thủy tẩm bút phong giao ẩn đảo,
Lâm thùy hải diện điểu khuy lan.
Trường kiều xa mã đồ nghinh tống,
Dũng đạo tiều ngư thị khứ hoàn.
(Hoành san đạo trung)

(Nước dầm ngọn bút, giao long núp quanh đảo,
Rừng rủ ra mặt biển, chim nhòm sóng nước.
Ngựa xe đưa đón trên đường, qua những chiếc cầu dài,
Dân chài, tiều phu đi chợ về qua đường cái quan).

Điểm qua đôi nét trên đây để phần nào thấy tập thơ Ngọc đường xuân khiếu là tiếng reo vui của Ngô Thì Nhậm sau thoát nạn trở về và càng hân hoan tin tưởng hơn khi gánh trọng trách cho triều đình Tây Sơn.

L.V.N

TB

BIỂU HAY TẤU?

NGUYỄN VĂN NGUYÊN

Thông qua những bài văn chính luận còn để lại, thiên tài của danh nhân Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện ở những tư tưởng thấm đượm đạo lý nhân nghĩa, tinh thần yêu nước sâu sắc, khả năng lập luận chặt chẽ mà còn cho thấy ở ông có một khả năng hiểu biết sâu sắc về các thể văn, để tùy từng trường hợp sử dụng nhằm phục vụ cho các mục đích được đặt ra ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giành lại độc lập chủ quyền quốc gia hồi đầu thế kỉ XV.

Ngay từ ngày đầu tìm đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã soạn để dâng lên Lê Lợi cuốn Bình Ngô sách, một tập văn nghị luận mang tính chất tổng hợp, trong đó ông phân tích cục diện tình thế đương thời và đề xuất những phương hướng, biện pháp đấu tranh cho cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Tiếc rằng ngày nay chúng ta không còn được thấy áng văn bất hủ này, do vậy không thể tìm hiểu cụ thể xem ông đã làm thế nào mà thuyết phục được lãnh tụ Lê Lợi tin dùng và đem ra áp dụng trong suốt quá trình tiến hành khởi nghĩa. Đến khi đã được tín nhiệm giao cho phụ trách toàn bộ công việc từ hàn trong quân đội, ngòi bút chính luận của Nguyễn Trãi mới có điều kiện phát huy. Người đời sau thường gọi chung những công văn của ông soạn thảo trong thời gian này là Từ mệnh, nhưng trong thực tế, nó gồm nhiều thể loại văn chương khác nhau, biến hóa vô cùng phong phú. Để đấu tranh hòa đàm với các viên tướng giặc Minh trên chiến trường, Nguyễn Trãi sử dụng thể loại Thư từ, như Thư cho Vương Thông, Thư cho Thái đô đốc, Thư gửi Liễu Thăng ...; Khi cần đấu tranh địch vận với quân sĩ giặc thì ông viết những tờ Dụ. Nhưng ngay trong thể loại này Nguyễn Trãi cũng phân biệt đối tượng mà vận dụng một cách tinh tế. Để dụ hàng quân sĩ giặc Minh thì ông dùng Thư dụ, như Thư dụ thành Xương Giang, Thư dụ thành Tam Giang, Thư dụ hàng thành Bình Than, khi nhằm kêu gọi thức tỉnh ngụy quân người Việt ông lại dùng Lệnh dụ, như Lệnh dụ các tướng hiệu quân nhân ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, và để động viên các lực lượng trong nước tham gia kháng chiến thì ông lại dùng thể Chiếu dụ như Chiếu dụ các hào kiệt trong thiên hạ. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược giành được thắng lợi, để tổng kết toàn bộ cuộc chiến tranh vệ quốc, Nguyễn Trãi đã sử dụng thể Cáo để viết nên áng "thiên cổ hùng văn" bất hủ Bình Ngô đại cáo. Và trong những ngày tháng đầu của triều Lê Sơ, để tham gia củng cố chính quyền mới thành lập đang còn non trẻ, Nguyễn Trãi lại đóng góp công sức mình bằng cách thay mặt vua soạn thảo một loạt các tờ Chiếu để điều hành đất nước, như Chiếu cầu hiền tài, Chiếu bàn về phép tiền tệ, Chiếu truyền bách quan không làm lễ nghi khánh hạ, Chiếu cấm các quan tham lam lười biếng v.v... Ta thấy Nguyễn Trãi có sự hiểu biết uyên bác về các thể loại văn đương thời và đã chủ động sử dụng chúng một cách thành thạo và tài tình vào các mục đích, đối tượng khác nhau trong thời kỳ chiến tranh và giai đoạn sau khi đã giành lại chính quyền.

Trở lại với thời gian cuối của cuộc kháng chiến. Vào năm 1426, sau khi tiến ra phía Bắc, nghĩa quân Lam Sơn đã lần lượt tiêu diệt hàng loạt thành trì của giặc Minh dựng lên trên chiến trường Giao Chỉ, khiến chúng cuối cùng phải co cụm vào cứ điểm thành Đông Quan để cố cầm cự với ta và chờ đợi viện binh từ trong nước kéo sang. Cục diện chiến trường đã cho thấy khả năng chiến thắng trong cuộc chiến tranh và mục tiêu giải phóng dân tộc trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Trước diễn biến tình hình mới, một mặt nghĩa quân suy tôn lãnh tụ Lê Lợi là "Đại thiên hành hóa"(1), một danh hiệu chỉ dành cho bậc thiên tử, và thực hiện chia các lộ trấn ở Đông Đô thành bốn đạo, đặt quan lại văn võ trong ngoài(2) nhằm chuẩn bị cơ sở cho một chính quyền của nhà nước độc lập sau kháng chiến, đồng thời quyết định đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chính trị, chuyển đổi hoạt động giao thiệp với người Minh từ đấu tranh hòa đàm, địch vận lên thành cuộc đấu tranh ngoại giao đòi độc lập chủ quyền dân tộc. Tương ứng với điều đó, đối tượng của cuộc đấu tranh lúc này không còn là những tướng sĩ người Minh trên chiến trường như trước nữa, mà là nhằm vào triều đình nước Minh và trực tiếp là Hoàng đế của họ ở tận phương Bắc xa xôi. Trong điều kiện mới này, thay vì sử dụng những Thư từ, Lệnh dụ trước đây, tài năng của ngòi bút Nguyễn Trãi lại một lần nữa thể hiện rõ trong một thể loại công văn khác là Tấu 奏 và Biểu 表.

Theo quy định đối với văn bản thuộc loại hình công văn thông dụng thời phong kiến trước đây, thì Tấu Biểu cùng là thể loại văn chương chuyên dùng để kẻ dưới đệ trình lên người trên, chủ yếu được dùng trong trường hợp bề tôi thần thứ trình lên nhà vua. Sách Hậu Hán thư chú dẫn Hán tạp sự chép rằng: "Phàm giấy tờ của quần thần dâng lên thiên tử gồm có 4 loại: Chương, Tấu, Biểu và Bác nghị". Tuy vậy, giữa Tấu Biểu lại có sự khác nhau khá rõ rệt trong mục đích, nội dung và cả về hình thức.

Chương Thích thư khế sách Thích danh giải thích: "Biểu là kẻ dưới biểu đạt ra ngoài cho người trên biết về những tâm tư suy nghĩ trong lòng", tức là nhằm diễn đạt tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người viết đối với Thiên tử; trong khi Tấu được dùng khi muốn đề đạt lời nói, trình kể sự việc (tiến ngôn trần sự) lên bề trên. Có thể thấy giữa Tấu Biểu có một sự "phân công" tương đối rõ ràng, theo đó kẻ bề tôi tùy theo mục đích đệ trình của mình mà chọn dùng thể loại thích hợp. Ví dụ khi cần giải thích, thanh minh, tố cáo hoặc tâu thuật về một sự việc cụ thể có nhiều tình tiết hay diễn biến phức tạp thì phải dùng thể loại Tấu. Còn khi muốn bày tỏ nguyện vọng của mình như xin tha tội, cầu sách phong, hoặc bày tỏ sự trung thành, lòng biết ơn đối với bề trên khi được phong ban tước lộc, hay chúc mừng nhân một dịp khánh tiết nào đó thì phải dùng thể loại Biểu. ở một số trường hợp, ví dụ cầu phong, tạ ân, khánh chúc... thì Biểu hầu như được dùng như một thể thức bắt buộc.

Vì có sự khác nhau về nội dung, mục đích và công năng như vậy nên khi thể hiện, hai loại công văn này phải tuân theo những quy định chặt chẽ khác nhau về hình thức.

Để trình bày một vấn đề, một sự việc lên Thiên tử, ngay ở câu mở đầu, sau khi xưng tên họ và thân phận của người gửi, văn kiện thể loại Tấu đòi hỏi phải nêu rõ về "chủ đề" hoặc "nội dung tóm tắt" của vấn đề cần tâu theo công thức:

[Thân phận] thần [Họ tên] cẩn tấu vị [chủ đề hoặc nội dung tóm tắt] sự.

Ví dụ:

安 南 國 大 頭 目 , 黎 利 謹 奏 為 呈 情

(An Nam quốc đại đầu mục, thần Lê Lợi cẩn tấu vị trình tình sự.)

Nghĩa là: Đại đầu mục nước An Nam, thần là Lê Lợi kính cẩn tâu lên về việc trần tình.

hoặc:

安 南 國 先 陳 主 三 世 孫 臣 陳 暠 , 大 頭 目 黎 利 等 謹 奏 為 求 封

(An Nam quốc tiên Trần chúa tam thế tôn, thần Trần Cảo, Đại đầu mục, thần Lê Lợi cẩn tấu vị cầu phong sự.)

Nghĩa là: Cháu ba đời của vua Trần đời trước, thần là Trần Cảo và Đại đầu mục nước An Nam, thần là Lê Lợi kính cẩn tâu trình về việc cầu phong.

Thông qua câu mở đầu này, người đọc (nhà vua) chỉ cần xem qua là biết rõ ngay về người tâu cũng như vấn đề mà người đó muốn tâu trình.

Đối với Biểu, sự việc chỉ là lý do để bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, do vậy câu mở đầu không cần nêu ngay lý do đó mà trước hết phải biểu lộ lòng thành kính bằng công thức:

[Thân phận] thần [Họ tên] thành hoàng thành khủng khể thủ đốn thủ cẩn thướng ngôn.

Ví dụ:

安 南 國 大 頭 目 , 暠 誠 惶 誠 恐 稽 首 頓 首 謹 上 言(An Nam quốc đại đầu mục, thần Trần Cảo thành hoàng thành khủng khể thủ đốn thủ cẩn thướng ngôn).

Nghĩa là: Đại đầu mục nước An Nam, thần là Trần Cảo thực lòng run sợ cúi rập đầu kính cẩn dâng lời.

Và trước khi kết thúc, ở cuối tờ Biểu người viết vẫn phải tiếp tục bày tỏ sự thành kính, sợ hãi trước Hoàng đế, nên thường kết thúc bằng những câu chữ: “下 情 無 任 hạ tình vô nhậm" (nghĩa là: "khôn tỏ hết tấm lòng kẻ dưới") và "不 勝 屏 營 之 至 bất thăng bình doanh chi chí" hoặc "激 切 屏 營 之 至 kích thiết bình doanh chi chí" (nghĩa là: "vô cùng cảm kích, run sợ"). Vì những câu chữ này đã trở thành công thức bắt buộc của thể loại Biểu văn, nên ta có thể bắt gặp rất nhiều trường hợp trong tài liệu Hán Nôm (như Bang giao lục, Cổ kim bang giao bị lãm, Hoàng các di văn...), người sao chép các văn kiện này thường lược chép không đầy đủ hoặc thay các câu chữ đó bằng chữ "云 云 vân vân". Trong khi đó, đối với Tấu thì không cần phải dùng công thức này.(3)

Trong phần nội dung chính, tờ Tấu do mục đích là phải trình bày sự việc cho rõ ràng nên câu văn thường giản dị, trong sáng, nhẹ nhàng (bình triệt nhàn nhã), còn Biểu cốt nhằm bày tỏ tâm tư tình cảm trong các trường hợp trình xin, tạ ơn, khánh chúc, vì thế cần sử dụng nhiều ngôn từ hoa mĩ, điển cố cầu kỳ, câu văn phải ngắn gọn hàm súc, đặc biệt là Biểu đòi hỏi tuân theo luật biền ngẫu chặt chẽ hơn là thể loại Tấu.

Có thể nêu ví dụ đoạn văn trong hai tờ Tấu Biểu của Nguyễn Trãi để thấy được sự phân biệt trong phương pháp biểu đạt giữa hai thể loại công văn này:

Tấu:

太 祖 高 皇 帝 龍 飛 之 初 , 臣 祖 日 煃 先 入 朝 貢 , 特 蒙 褒 寵 , 賜 以 王 爵 。 自 是 世 守 封 疆 , 朝 貢 罔 缺 。 頃 因 胡 氏 篡 逆 , 太 宗 文 皇 帝 興 師 討 罪 。 克 平 之 後 , 求 陳 氏 子 孫 以 奉 宗 祀 。 時 總 兵 官 未 及 求 , 遞 聽 土 人 所 言 奏 陳 氏 子 孫 俱 被 胡 氏 誅 滅 盡 絕 。 遂 置 郡 縣 , 設 官 分 治 。

“Hồi đầu khi Thái Tổ Cao Hoàng đế mới lên ngôi, ông tổ của thần là Nhật Khuê đã sớm vào triều cống, được đặc biệt thưởng khen ân sủng, ban cho tước Vương. Từ đó nối đời coi giữ cõi bờ, không thiếu triều cống. Mới rồi nhân bị họ Hồ ngỗ ngược cướp ngôi, Thái Tông Văn Hoàng đế mới cất quân hỏi tội. Ngay sau khi dẹp yên đã xuống chiếu tìm kiếm con cháu dòng dõi họ Trần để cho nối giữ việc thờ cúng tổ tông. Bấy giờ quan Tổng binh chưa kịp hỏi han tìm kiếm rộng khắp đã nghe theo lời bọn thổ dân nói con cháu nhà Trần đều đã bị họ Hồ giết hại hết cả, thế rồi bèn đặt quận huyện, cắt đặt quan lại chia ra cai trị.” (N.V.N dịch).

Cũng với một nội dung đó, Biểu lại có cách diễn đạt khác:

迨 我 太 祖 高 皇 帝 之 啟 運 ; 而 臣 祖 父 先 諸 國 以 來 朝 。

遞 年 入 貢 於 帝 庭 ; 累 世 襲 封 於 王 爵 。

頃 因 胡 氏 之 失 德 , 致 勞 天 罰 之 遠 加 。

朝 廷 寬 仁 詔 求 陳 氏 以 承 宗 祀 ; 邊 臣 妄 議 奏 置 郡 縣 而 設 治 官 。

“Thái Tổ ta lúc ban đầu mở vận, ông cha thần trước các nước vào chầu.

Hàng năm tiến cống sân triều, nối đời được phong Vương tước.

Vì họ Hồ mới rồi phạm điều thất đức; khiến oai trời vất vả chinh phạt phương xa.

Triều đình khoan nhân, chiếu tìm họ Trần để thừa tự tổ tông; biên thần tâu xằng, xin đặt quận huyện rồi cắt quan cai trị.” (N.V.N dịch)

Là một nhà Nho uyên bác đã qua đỗ đạt, Nguyễn Trãi nắm rất vững tính chất và công năng của từng thể loại công văn Tấu, Biểu. Trong thực tiễn ứng dụng, ông đã vận dụng rất chính xác đúng lúc, đúng chỗ trong quá trình giao thiệp với triều Minh; không chỉ để giữ gìn thể diện của một "văn hiến chi bang", không cho người Minh kiếm cớ từ chối gây khó khăn cho mối quan hệ giao thiệp qua lại mà ta chủ động nối lại sau hơn hai chục năm đứt đoạn; mà chủ yếu là nhằm phát huy hết công năng của từng thể loại văn kiện, để chúng trở thành những vũ khí sắc bén phục vụ cho mục tiêu của cuộc đấu tranh.

Có thể nêu một vài ví dụ để thấy sự tài tình của Nguyễn Trãi trong cách sử dụng hai thể loại công văn này trong quá trình giao thiệp với triều Minh.

Tháng 11 năm 1426, nghĩa quân tìm được Trần Cảo, coi là dòng dõi vua Trần, liền dựng lên làm vua. Để yêu cầu nhà Minh sách phong công nhận địa vị chủ nước Nam cho Trần Cảo, Nguyễn Trãi đã soạn thảo tờ Biểu cầu phong.(4)

Sau khi tờ Biểu nói trên chuyển đến triều Minh, vua Minh thấy trên mặt trận quân sự họ đã hoàn toàn thất bại, yêu sách của họ về việc tìm khôi phục họ Trần cũng được đáp ứng, cực chẳng đã, vua Minh đành phải sai Lý Kỳ, La Nhữ Kính sang ta ra lệnh rút quân và sách phong cho Trần Cảo. Nhưng đoàn sứ của họ đến Thăng Long (ngày 8 tháng 3 năm 1428) thì thấy đội quân bại trận của họ ở Giao Chỉ đã theo Vương Thông tự động kéo nhau về nước từ trước, còn Trần Cảo thì cũng đã chết. Cả hai sứ mệnh đều không thực hiện được, sứ Minh đành bỏ về nước. Tình hình trở nên căng thẳng. Ngày 18 tháng 3, Lê Lợi bèn cử một đoàn sứ giả đi cùng sứ Minh sang Yên Kinh, chia thành hai nhóm với nhiệm vụ khác nhau, một nhóm gồm Hộ bộ Lang trung Lê Quốc Khí và Phạm Thành sang tạ ơn việc ban sắc phong, nhóm kia có Khu mật thiêm sự Hà Phủ, Hà Liễn sang báo tang và giải trình về cái chết của Trần Cảo(5). Tư liệu Hán Nôm hiện vẫn còn lưu giữ được cả hai văn kiện của lần giao thiệp này, trong đó văn kiện tạ ơn được viết theo thể Biểu, còn văn kiện trình bày về cái chết của Trần Cảo thì viết theo thể Tấu.

Những hoạt động đấu tranh ngoại giao tiếp sau đó diễn ra trong tình hình rất gay gắt. Nhà Minh tuy thua trận nhưng vẫn rất ngoan cố không chịu thừa nhận địa vị đại diện chính thức của triều Lê Sơ, đồng thời lại gây rất nhiều trở ngại khó khăn trong vấn đề tuế cống và trao trả quân nhân sau chiến tranh. Phía ta phải khéo léo vận dụng rất nhiều lí lẽ, viện dẫn rất nhiều sự việc, có khi phải trình bày, giải thích cụ thể đến chi tiết để giải trình, thuyết phục triều đình nhà Minh. Trong những trường hợp này, với một tờ Biểu đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của ta rõ ràng là chưa đủ, vì thế Nguyễn Trãi thường soạn ra một bản Tấu đệ trình kèm theo để giải thích, nói rõ thêm về nguyên nhân hoặc các tình tiết sự việc dẫn tới nguyện vọng, yêu cầu đó. Bằng cách này đã khắc phục được sự hạn chế trong công năng trình bày của thể loại Biểu.

Trong những lần phía ta cử sứ giả sang thực hiện cống nạp định kì hay dâng tiến phương vật, nhân một dịp khánh tiết tạ ơn nào đó, thì ngoài một tờ Biểu ca ngợi chúc tụng theo đúng nghi thức của một phiên quốc đối với Thiên triều ra, danh sách các đồ cống tiến cũng là một bộ phận quan trọng, được lập thành một bản Tấu đệ trình riêng. Chuyến sang Minh tiến cống và trần tình ngày 29 tháng 11 năm 1427 của đoàn sứ Lê Thiếu Dĩnh là một trường hợp như vậy. Vì lẽ đó, qua ghi chép của chính sử kết hợp với thực tế văn bản hiện còn đã cho thấy, trong thời gian đầu của triều đình Lê Sơ, trong mỗi lần sang Minh giao thiệp, thường sứ giả của ta đều mang theo đồng thời một tờ Biểu và một tờ Tấu.

Qua phần trình bày trên đây, ta thấy Biểu Tấu tuy cùng là hai thể loại công văn cổ thời phong kiến được quy định chuyên dùng để bề tôi, thần dân đệ trình lên triều đình hoặc Hoàng đế, nhưng mỗi thể loại lại có tính chất, công năng và hình thức thể hiện khác nhau. Trong quá trình tiến hành đấu tranh ngoại giao với triều Minh hồi đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã nắm rất vững hai thể loại công văn này và chủ động sử dụng chúng một cách linh hoạt, tài tình để phát huy hết công năng của mỗi thể loại nhằm đạt tới mục đích do phía ta đặt ra. Vì vậy, ngày nay khi xử lý khai thác số văn kiện đấu tranh ngoại giao còn lại của Nguyễn Trãi, chúng ta cũng phải lưu ý phân biệt rõ thể loại của chúng để tránh những nhầm lẫn đáng tiếc có thể xảy ra.

Ví như trong Ức Trai tập(6) (q.4, tờ 41a) có in một văn kiện mang nhan đề 求 封 表 文 (Biểu cầu phong) kèm lời tiểu dẫn nói việc Lê Thái Tổ tìm được Trần Cảo, lập lên làm vua, rồi đến tháng 8 năm Đinh Mùi (1427) sai sứ sang Minh cầu phong. Sự kiện nêu trong Tiểu dẫn là phù hợp với chính sử. Sách Toàn thư chép: "Trước đó vua đã lập Trần Cảo, hồi tháng 8 đã sai sứ cầu phong".(7) Văn kiện sử dụng trong lần giao thiệp này cũng được đề cập đến ở một đoạn khác nói rằng: "Trước đó vua sai Nguyễn Trãi soạn thư cầu phong và sai người dâng biểu của Cảo xin lập làm dòng dõi họ Trần, chuyển tới Quảng Tây và Vân Nam nhà Minh mỗi nơi một bản".(8) Như vậy Toàn thư cho ta biết, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi thảo 2 văn kiện, một bản được gọi là Thư và một bản là Biểu, cả hai văn kiện đều mang nội dung cầu phong cho Trần Cảo, riêng tờ Biểu thì được nói rõ là mang tên Trần Cảo.

Liên quan đến sự kiện này, chính sử của nhà Minh cũng chép rằng: "Liễu Thăng [viên tướng chỉ huy cánh viện binh hướng Quảng Tây] phụng mệnh đã lâu, nhưng còn phải đợi tập hợp quân sĩ, nên đến tháng 9 [năm 1427] mới đến Ải Lưu Quan. Lê Lợi đã có hẹn ước với Vương Thông, bèn giả xưng là họ Trần vẫn còn con cháu, dẫn bọn đầu mục lớn nhỏ đến trước cửa quân của Thăng, đệ trình bức thư xin bãi binh và lập hậu duệ họ Trần. Thăng nhận thư không mở ra xem, sai người đem tâu ngay về triều".(9) Sau khi Hồng lô tự nhận được thư này lập tức đem dâng trình lên: "vua [Minh] nhận được thư, trong lòng đã hơi thuận. Đến hôm sau, biểu của Cảo cũng gửi đến nơi, tự xưng Thần là Cảo, cháu ba đời của Tiên vương Phủ, lời lẽ cũng đại để giống như thư của Lợi".(10)

Như vậy Minh sử cũng ghi nhận về hai văn kiện Thư Biểu này, đồng thời cho biết rõ tờ Biểu là do một mình Trần Cảo đứng tên, còn Thư là của Lê Lợi.

Căn cứ vào ghi chép trong chính sử của cả Việt Nam và Trung Quốc, đem đối chiếu với văn kiện chép ở tờ 41a quyển 4 của bộ Ức Trai tập nói trên ta thấy rõ ràng văn kiện này không phù hợp với tên gọi là Biểu cầu phong như đã ghi trên nhan đề, bởi lẽ:

Về hình thức, văn kiện này không có đoạn bày tỏ lòng thành kính, sợ hãi đối với Hoàng đế (thành hoàng thành khủng...) ở đầu văn kiện và (hạ tình vô nhậm... ) ở câu kết thúc như quy định phải có đối với thể loại Biểu văn; trong khi lại theo đúng quy cách của thể Tấu văn ở câu mở đầu xưng danh... cẩn tấu vi cầu phong sự) và câu kết thúc (... cẩn tấu dĩ văn). Mặt khác, cách hành văn trong văn kiện này là một thứ văn xuôi trần thuật, trình kể sự việc và không hoàn toàn tuân theo luật chặt chẽ của thể văn biền ngẫu.

Về nội dung, căn cứ vào sự mô tả trong Minh sử, ta có thể tin là hai văn kiện sử dụng trong lần giao thiệp này là không có gì khác nhau lắm. Nhưng xét về người đứng tên trong văn kiện thì ta thấy, ở dòng mở đầu văn kiện này có đề tên hai người là "Cháu ba đời của tiên Trần chúa nước An Nam, thần là Trần Cảo cùng Đại đầu mục, thần là Lê Lợi, kính cẩn tâu trình về việc cầu phong". Rõ ràng văn kiện này không thể là tờ Biểu được, vì cũng theo Minh sử, tờ Biểu "của Cảo", Toàn thư cũng khẳng định "... sai người dâng biểu của Cảo xin lập làm dòng dõi họ Trần".

Như vậy, ta có thể khẳng định văn kiện này là một bản Tấu do Lê Lợi và Trần Cảo cùng đứng tên trình bày với vua Minh về nguyên do và nguyện vọng xin sách phong Quốc vương cho Trần Cảo. Đó cũng chính là văn kiện được gọi là Thư trong Toàn thư và Minh sử. Có thể do gửi đồng thời với văn kiện này còn có một tờ Biểu của riêng "đương sự" Trần Cảo, nên chính sử hai bên đều gọi đây là Thư của Lê Lợi. Còn tại sao tờ Tấu này lại được gọi là Thư, có lẽ vì phương thức chuyển đạt đặc biệt của nó. Trong điều kiện chiến sự khẩn trương lúc bấy giờ, hai đạo viện binh Vân Nam và Quảng Tây của giặc đang áp sát biên giới, chỉ còn một tháng nữa là tiến đánh vào nước ta. Rõ ràng phía nghĩa quân không có điều kiện cử sứ giả mang công văn sang tận Yên Kinh trình lên vua Minh, mà phải dùng phương thức gián tiếp, gửi chúng cho hai viên tướng chỉ huy hai đạo viện binh để rồi thông qua họ chuyển tiếp về triều đình.

Với cách làm khảo sát tương tự như trên, chúng ta còn có thể cải chính sự nhầm lẫn thể loại đối với 3 văn kiện khác nữa trong số công văn Tấu, Biểu ngoại giao thuộc thời kỳ này hiện còn lưu giữ được. Đó là:

Văn kiện sử dụng trong lần giao thiệp ngày 18 tháng 3 năm 1427 được mang nhan đề 呈 情 謝 罪 表 文 Trình tình tạ tội biểu văn (Ức Trai tập, q.3, tờ 3b);

Văn kiện sử dụng trong lần giao thiệp ngày 29 tháng 11 năm 1427 được mang nhan đề 呈 情 謝 罪 表 文 Trình tình tạ tội biểu văn (Ức Trai tập, q.3, tờ 1a);

Văn kiện sử dụng trong lần giao thiệp ngày 19 tháng 10 năm 1428 được mang nhan đề 謝 冊 封 表 Tạ sách phong biểu (Ức Trai tập, q.3, tờ 14a).

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, cả ba văn kiện này cũng đều thuộc thể loại Tấu văn. Sở dĩ chúng bị ghi nhầm thể loại thành Biểu có lẽ vì nguyên nhân mà chúng tôi đã trình bày bên trên, tức là vào lúc đương thời, mỗi lần đi giao thiệp, sứ giả của ta thường mang sang triều Minh đồng thời hai văn kiện, gồm một tờ Biểu và một tờ Tấu. Trải qua thời gian, những văn kiện đó đã bị thất tán trong quá trình lưu truyền, một trong số hai văn kiện đó có thể đã bị mất, nên người sưu tập đời sau chỉ căn cứ vào mục đích của sự kiện đi sứ dâng biểu để đặt nhan đề cho văn kiện còn lại là Biểu cầu phong hay Biểu trần tình tạ tội v.v... mà không xem xét kỹ về thể loại của chúng. Sự nhầm lẫn này không phải bắt nguồn từ đợt sưu tập của Dương Bá Cung hồi thế kỷ XIX, mà chắc đã được khởi đầu từ trước đó khá lâu, có thể từ công trình của Trần Khắc Kiệm hay Giáp Hải lưu truyền lại. Điều đáng tiếc là sai sót đó vẫn chưa được sửa chữa trong một số công trình mang tính tuyển tập hay tổng tập văn chương Nguyễn Trãi của các nhà nghiên cứu đương đại, thậm chí cho cả tới năm 2000.

Các công văn ngoại giao xưa vốn không có nhan đề, nên chuyện đặt một cái tên dùng để phân biệt cho mỗi văn kiện có chính xác hay không, có thể chẳng phải là vấn đề lớn, nhưng việc xác định đúng thể loại của văn kiện đó lại là một vấn đề văn bản học cần thiết để tạo cơ sở khoa học cho công tác nghiên cứu khai thác. Nhất là đối với những công văn đấu tranh ngoại giao hồi đầu thế kỷ XV, việc xác định văn kiện là Biểu văn hay Tấu văn còn là một yếu tố góp phần khẳng định thêm một khía cạnh về thiên tài của Nguyễn Trãi trong quá trình ông dùng ngòi bút phục vụ cho sự nghiệp chung của dân tộc.

N.V.N

CHÚ THÍCH:

(1) Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 18b.

(2) Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 24a.

(3) Xin tham khảo thêm mục giải thích mục từ Tấu 奏 và Biểu 表 trong Hán ngữ đại từ điển .

(4) Theo Cương mục (Chính biên, Q.13, tờ 34a-b).

(5) Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 57a.

(6) Ức Trai tập, Phúc Khê tàng bản, ký hiệu A.179.

(7) Nguyên văn: 先 是 帝 立 陳 暠,八 月 遣 使 求 封. (Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 45b).

(8) Nguyên văn: 先 是 帝 遣 阮 廌 撰 求 封 書,差 人 進 暠 表 乞 立 為 陳 氏 後 遞 明 國 廣 西,雲 南 各 一 本 (Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 44b-45a).

(9) Nguyên văn: 升 奉 命 久,俟 諸 軍 集,升 奉 命 久,俟 諸 軍 集,九 月 始 抵 隘 留 關。利 既 與 通 有 成 言,乃 詭 稱 陳 氏 有 後,率 大 小 頭 目 具 書 詣 升 軍,乞 罷 兵,立 陳 氏 裔。升 不 啟 封,遣 使 奏 聞。(Minh sử, Q.321).

(10) Nguyên văn: 帝 得 書 頷 之。明 日,暠 表 亦 至,稱 砭 臣 暠,先 王 暊 三 世 嫡 孫 軜,其 詞 與 利 書 略 同 . (Minh sử, Q.321).

TB

NGHĨA CỦA HAI CHỮ “TRÙNG SAN”
TRONG BẢN TRUYỆN KIỀU DO DUY MINH THỊ
KHẮC IN NĂM 1872

ĐÀO THÁI TÔN

Trong việc nghiên cứu văn bản Truyện Kiều, tìm hiểu thời điểm sáng tác và vấn đề bản in sớm nhất của tác phẩm (ra đời vào đời Gia Long hay Tự Đức) là hai vấn đề rất đáng quan tâm. Về thời điểm sáng tác Truyện Kiều, chúng tôi đã có dịp trình bày trong bài viết trước(1). Bài viết này, xin trình bày về thời điểm ra đời bản in đầu tiên.

*

Tại trang cuối bản Kim Vân Kiều tân truyện khắc in năm 1879, Duy Minh Thị (DMT) cho khắc hàng chữ “Tuế tại Kỷ Mão xuân, Nam Việt Gia Định thành Cư sĩ DMT TRÙNG SAN” 歲 在 己 卯 春 南 越 嘉 定 城 居 士 惟 明 氏 重 刊 (Cư sĩ DMT ở thành Gia Định đất Nam Việt trùng san vào mùa Xuân năm Kỷ Mão - 1879).

Khi chưa được tiếp xúc với bản DMT 1872, thì có thể hiểu ngay hai chữ TRÙNG SAN là khắc lại, bởi lẽ chữ san 刊 được dùng để chỉ việc khắc ván, thì TRÙNG SAN 重 刊 là “khắc lại”: bản 1879 đã được khắc lại từ bản 1872(2). Nhưng chúng tôi không thể ngờ được rằng trang cuối bản DMT 1872 cũng có hàng chữ “Tuế tại Nhâm Thân xuân. Nam Việt Gia Định thành Cư sĩ DMT TRÙNG SAN” 歲 在 壬 申 春 南 越 嘉 定 城 居 士 惟 明 氏 重 刊 (Cư sĩ DMT ở thành Gia Định đất Nam Việt “trùng san” vào mùa Xuân năm Nhâm Thân - 1872)!

Thế thì bản 1872 “khắc lại” bản in năm nào?

Nhân nhận xét về bản DMT 1872, trong bài Chữ húy trong hai bản Kiều Nôm 1871, 1872(3), Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn viết:

“Bản DMT quý ở chỗ là nó còn bảo lưu được cho chúng ta hình ảnh của một văn bản gốc rất có thể đã có mặt trong khoảng 1803 - 1825 (…). Bản DMT cho ta thấy những điểm kị húy hoàn toàn ăn khớp với tinh thần các lệnh đã ban bố trong giai đoạn từ đầu đời Gia Long đến đầu đời Minh Mạng: vậy nó có một bản gốc cực cổ”.

“Bản gốc đã kị húy triệt để ngay từ sinh thời Nguyễn Du đó là một bản in hay bản chép tay? Bản Kiều Nôm 1872 cũng đã cho ta câu trả lời: bản gốc mà DMT dùng làm mẫu khi khắc bộ ván mới là một bản in ! Có thế DMT mới khắc rõ ở cuối trang rằng lần in này là lần TRÙNG SAN !”...

Nhưng, khi cuốn Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872(4) của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn ra đời (cuối tháng 11 năm 2002), chúng tôi nhận ra một điều đáng chú ý là, dường như ông đã thể hiện một sự phân vân, đắn đo, cân đi nhắc lại cái điều rất quan trọng trong việc dùng hai chữ bản in mà ông đã dùng trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/ 2002. Giáo sư viết: “DMT là người có tinh thần trung thực: khắc lại một bản cổ thì nói “tân thuyên” nhưng “trùng san”... (Sđd, tr.24). “Những cứ liệu trên cho phép khẳng định: bản DMT 1872 đã khắc in lại một bản Kiều cổ của giai đoạn 1803 - 1825” (Sđd, tr.25) v.v… Ta không thấy Giáo sư khẳng định “bản gốc mà DMT dùng làm mẫu khi khắc bộ ván mới là một bản in nữa. Để ý thêm thì thấy rằng sự phân vân này đã thể hiện trên bài viết tại Diễn đàn, số 122, tháng 10/2002 ở Pháp, trong một câu văn ở thể phỏng đoán: “Bản mà DMT trực tiếp dựa vào đó để trùng san chắc là một bản in”(5) (Sđd, tr.541).

Việc cân nhắc chữ dùng của Giáo sư cho chúng tôi ngờ rằng dường như ông đã có một linh cảm, một sự băn khoăn nào đó về hai chữ TRÙNG SAN, nhưng vì công việc đang cuốn đi, nên ông mới chỉ biểu hiện sự băn khoăn chợt đến ở một thoáng dùng dằng trong câu chữ…

Nhưng, đối với chúng tôi, từ tháng 1/2002, nghĩa của hai chữ TRÙNG SAN trong bản DMT đã trở thành nỗi ám ảnh. Chúng tôi xin trình bày về vấn đề này.

1. THỜI GIA LONG, MINH MỆNH KHÔNG CÓ BẢN IN TRUYỆN KIỀU

Từ sau khi viết hai bài về “bản Kinh”, “bản Phường”(6), xuất phát từ những cứ liệu lịch sử, thư tịch, chúng tôi vẫn thầm nghĩ rằng thời Gia Long, Minh Mệnh chưa thể có bản in Truyện Kiều. Bây giờ, nếu quả là nghĩa của hai chữ TRÙNG SAN là “khắc lại”, thì chẳng hoá ra đã có một bản in Truyện Kiều từ đời Gia Long, Minh Mệnh sao? Rà soát lại hai bài viết từ năm 1998 về “bản Kinh”, “bản Phường”, chúng tôi vẫn không thấy có sai lầm gì về tư liệu, lập luận. Vậy trước hết, chúng tôi xin trình bày những cứ liệu lịch sử, thư tịch:

- Một là, thời hậu Lê, Nhà nước phong kiến đã cho ra đời Lê triều chiếu lệnh thiện chính, nhằm ban bố các văn kiện thuộc chiếu, lệnh soạn từ đời Vĩnh Tộ (1619 - 1628) đến Chính Hòa (1680 - 1705). Trong các chiếu lệnh này, vấn đề cấm in truyện Nôm đã được ghi rõ: “Phàm kinh, sử, tử, tập cập văn chương hữu tì ư thế giáo giả, phương khả san bản thông hành. Nhược Đạo, Thích dị đoan tà thuyết chư thư tịnh quốc ngữ chư truyện cập thi ca thiệp ư dâm đãng giả bất khả san bản mãi mại dĩ thương phong hóa (凡 經 史 子 集 及 文 章 有 裨 於 世 教 者 方 可 刊 板 通 行 。 若 道 釋 異 端 邪 說 諸 書 並 國 語 諸 傳 及 詩 歌 涉 於 淫 蕩 者 , 不 可 刊 板 買 賣 以 傷 風 化)" - Những sách kinh, sử, tử, tập cùng là các văn chương có bổ ích cho sự dạy đời mới được san bản mà thông hành. Còn như những sách dị đoan tà thuyết của Đạo, Thích và những truyện bằng quốc âm và thi ca liên quan tới sự dâm đãng, thì không được san bản rồi in ra mà bán để tổn hại phong hóa). Chúng tôi đồng ý với GS. Vũ Đức Phúc khi ông cho rằng: “Nếu ai có quan điểm khoa học về lịch sử thì đều phải biết rằng, viết văn, làm thơ, đề rõ tên tác giả, lại cho in dưới thời phong kiến, nhất là vào cái thời Gia Long, Minh Mạng, là một việc hết sức nguy hiểm”(7).

- Hai là, qua sự tìm hiểu hoạt động của các nhà khắc ván in ở Việt Nam, người ta cũng đã thấy đời Gia Long không một truyện Nôm nào được in(8).

- Ba là, trong công trình Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại(9), Giáo sư Kiều Thu Hoạch đã thống kê được một DANH MỤC TRUYỆN NÔM HIỆN CÒN, gồm 106 đơn vị tác phẩm. Loại trừ các tác phẩm chép tay và không rõ năm in, danh mục này cho 46 tác phẩm có năm in. Trong 46 tác phẩm này, đời Gia Long không in được cuốn nào; đời Minh Mệnh chỉ in một cuốn về tôn giáo là Đạt Na thái tử kinh (in năm Minh Mệnh thứ 19 - 1830). Vậy mà, đời Tự Đức (1848 - 1883), chỉ tính từ 1860 đến 1883, đã in được 17 truyện Nôm! Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, sáng tác trước Truyện Kiều mà đến 1875 mới in được.

- Bốn là, dù hiện chưa tìm được những chỉ dụ cụ thể để xét xem chính sách của hai triều Gia Long, Minh Mạng đối với chữ Nôm là như thế nào, nhưng khi nhà thư tịch học Trần Văn Giáp nhận xét rằng: “Từ thời Gia Long trở về sau, nhà Nguyễn có ý định bóp nghẹt chữ Nôm … từ luật lệ cho đến giấy tờ công văn, như chiếu, biểu, chế cáo, v.v… đều rập khuôn Hán văn của phong kiến Mãn Thanh. Các sách Hoàng Việt luật lệ, Nhất thống chí đều rập khuôn sách đời Kiền Long, Gia Khánh, v.v…”, thì hẳn Cụ còn những chứng khác làm cơ sở cho nhận xét đó. Một chi tiết rất đáng lưu ý khi Cụ cho biết thêm: “Cuối đời Tự Đức, khi triều đình nhà Nguyễn quá suy hèn, quân xâm lược Pháp đã lấn tới gần toàn quốc…, để chiêu tập nhân dân, các cụ Văn Thân cũng làm bài hịch Nôm kêu gọi nhân dân đem toàn lực giành lấy chủ quyền dân tộc. Không những thế, khi Tự Đức thú nhận: “Ta yếu đuối gặp cơn lắm việc thì cũng phải trở lại dùng chữ Nôm hiểu dụ dân chúng”(10), thì đó là một chi tiết để chúng ta nghĩ rằng phải đến cuối đời Tự Đức, các văn bản in chữ Nôm mới thực sự được lưu truyền sâu rộng trong công chúng. Cho nên, đến cuối đời Tự Đức, Truyện Kiều bắt đầu được khắc in, cũng là có cái lý do của nó.

Bản in Truyện Kiều đầu tiên (1871) do nhà Liễu Văn đường in tại đất Bắc, bán trên phường Hàng Gai, Hà Nội mà không kiêng huý Tự Đức(11) cũng là điều dễ hiểu: Một là Hà Nội xa đất thần kinh. Hai là quân Pháp đã lấn tới gần toàn quốc rồi, triều đình trong nớ đang lo chiến hay hoà đến rối ruột, thì hơi sức đâu kiểm tra mấy chữ húy! Đến như Tự Đức là ông vua đương triều mà người ta còn chẳng cần kiêng tên húy, thì phỏng ai còn kiêng húy Gia Long, Minh Mệnh làm gì! Bản 1872 kiêng húy đến mức sợ sệt chữ lan (tên mẹ cả Gia Long) chắc là do một lý do nào đó; còn bản 1871 in ở miền Bắc, chữ lan khi kiêng khi không, thì cũng có thể đặt giả thuyết rằng: người chủ trương đưa in bản 1871 có trong tay một bản chép tay gần hệ văn bản(12) với bản 1872 (nghĩa là cũng còn chữ húy), nhưng trong không khí xã hội lúc đó, họ cũng đã có ý gột các chữ húy phiền phức đó đi nhưng gột không hết mà thôi.

Đó là điều giải thích vì sao từ đời Tự Đức (1847 - 1883), qua Kiến Phúc (1883 - 1884), Hàm Nghi (1884 - 1885), Đồng Khánh (1886 - 1888), Thành Thái (1889 - 1907)… cho đến Bảo Đại (1926 - 1945), các bản Truyện Kiều chữ Nôm như được “ thả cửa” đưa in!

Chúng tôi phải đi tìm nghĩa của hai chữ TRÙNG SAN là vì vậy.

2. NGHĨA CỦA HAI CHỮ TRÙNG SAN 重 刊 TRONG BẢN DMT

- SAN 刊, ngoài nghĩa để chỉ việc khắc đá (khắc ván), còn có nghĩa là biên tập, sửa chữa, đính chính(13)... Khi nói “Khổng Tử san Thi (Kinh Thi)” thì “san” là “san định”, là công việc sửa chữa, biên tập. Các nhà Nho xưa khi nói “san Thi, định Thư, chế Lễ, tác Nhạc”, thì san, định, chế, tác, chính cũng là nói tới công việc biên tập, hiệu đính… những tác phẩm đó.

- Vì thế, chúng tôi cho rằng trong bản DMT, hai chữ TRÙNG SAN có nghĩa là “biên tập lại, sửa chữa lại”, chứ không có nghĩa là “khắc lại”.

Thật vậy. Không phải vô cớ mà trong bản in 1872, DMT đã dùng hai chữ (THUYÊN và SAN). Trong một văn bản, dùng hai chữ khác nhau như thế, đương nhiên là người viết đã có sự phân biệt ý nghĩa:

+ Trên trang bìa Kim Vân Kiều tân truyện, bản in năm 1872, DMT dùng chữ THUYÊN 鐫: “Nhâm Thân niên tân THUYÊN” 壬 申 年 新 鐫 thì THUYÊN là khắc ván. Khắc ván mới vào năm Nhâm Thân - 1872.

+ Nhưng khi ông cho khắc hàng dọc chữ nhỏ tại trang cuối cùng: 歲 在 壬 申 春 南 越 嘉 定 城 居 士 惟 明 氏 重 刊 “Tuế tại Nhâm Thân xuân. Nam Việt Gia Định thành Cư sĩ Duy Minh Thị TRÙNG SAN” (Cư sĩ Duy Minh Thị ở thành Gia Định đất Nam Việt sửa chữa vào mùa Xuân năm Nhâm Thân - 1872), thì chữ SAN này mang nghĩa sửa chữa, biên tập. TRÙNG SAN là sửa chữa, biên tập lại.

+ TÂN THUYÊN 新 鐫 là khắc lần đầu. Vậy nếu như chỉ đơn thuần cho khắc lại bản in cũ của một nhà tàng bản nào đó, thì DMT phải dùng chữ TRÙNG THUYÊN 重 鐫 chứ sao lại dùng chữ TRÙNG SAN 重 刊? Hàng chữ lớn chạy ngang trên đầu tác phẩm “Nhâm Thân niên TÂN THUYÊN” (khắc mới vào năm Nhâm Thân 1872) cũng đã cho phép ta nghĩ như vậy. Bởi vì, chẳng hạn, nếu chỉ cho khắc lại nguyên văn một bản in của người khác trước đó, thì hẳn DMT sẽ không dùng chữ “tân thuyên”. “Thuyên” lại của người ta thì “tân” ở chỗ nào?

TÂN THUYÊN là khắc mới. Đã đành. Nhưng ở đây chữ "tân" còn là hay chính là ở chỗ DMT muốn cho ta biết rằng ông đã TRÙNG SAN (sửa chữa), nên có làm “mới” nhiều câu chữ so với tất cả các bản Kiều (in hay chép tay) mà mọi người ở thời ông đã biết. DMT rất tự hào về việc sửa chữa này. Vì thế, để ghi rõ công lao TRÙNG SAN của mình, ông đã cho khắc tại trang cuối, hàng chữ nhỏ chạy dọc: “Tuế tại Nhâm Thân xuân. Nam Việt Gia Định thành Cư sĩ Duy Minh Thị TRÙNG SAN”(Cư sĩ Duy Minh Thị ở thành Gia Định đất Nam Việt sửa chữa vào mùa Xuân năm Nhâm Thân - 1872).Niềm tự hào của ông thể hiện ở chỗ không những ông chỉ ký tên mà còn ghi cả địa chỉ, cương vị xã hội của mình trong việc “trùng san” ấy!

Có một chi tiết lý thú là: Nếu như, khi cho in lần đầu vào năm 1872, DMT cho chạy hàng chữ lớn theo chiều ngang, từ phải sang trái, phía trên bìa sách: NHÂM THÂN NIÊN TÂN THUYÊN ([Tôi cho] khắc mới vào năm Nhâm Thân), thì lẽ ra, ở bản 1879 ông cũng phải cho chạy một hàng chữ tương tự để người đọc biết rằng đây là bản [ông cho] khắc lại (TRÙNG THUYÊN 重 鐫 bản năm 1872(14). Nhưng không. Hẳn có thể ông nghĩ rằng ông là người nổi tiếng đất Gia Định, việc bảy năm trước ông “tân thuyên” Truyện Kiều thì ai mà chẳng biết, nên khi cho khắc in lại bản 1872, ông không cần ghi hai chữ “trùng thuyên” nữa. Nhưng điều mà ông quan tâm vẫn là khẳng định công lao “trùng san” của mình, nên ông không thể quên cho khắc hàng chữ: “Tuế tại Kỷ Mão xuân. Nam Việt Gia Định thành Cư sĩ Duy Minh Thị trùng san”(Cư sĩ Duy Minh Thị ở thành Gia Định đất Nam Việt sửa chữa vào mùa Xuân năm Kỷ Mão - 1879)(15).

Thì ra, vấn đề là ở chỗ có sự nhập nhằng, dấp dính trong hàm nghĩa của chữ SAN 刊. Bởi vì chữ SAN cũng đã mặc nhiên từng được dùng để chỉ việc khắc ván(16).Vì thế, khi chưa được tiếp xúc với bản DMT 1872, thấy bản 1879 có hai chữ TRÙNG SAN, chúng tôi đã hiểu lầm ngay nghĩa của nó, là “khắc lại”! Một sự lầm lớn. Mà thật dễ lầm. Nhưng qua cái lầm, cũng thấy được vài điều lý thú, nên xin trình bày thêm.

3. HAI CHỮ THUYÊN 鐫 SAN 刊

Thực ra thì, thuyên 鐫 là khắc gỗ, san 刊 là khắc đá. Nhưng người ta hay dùng lẫn lộn hai chữ này. Ta thấy:

a. Để chỉ việc khắc bia đá, lẽ ra dùng chữ san 刊 thì có khi người ta cũng dùng chữ thuyên 鐫. Chẳng hạn, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay, thác bản bia mang số 14534 đề là “Tân san gia huấn bi” 新 刊 家 訓 碑 (đúng); nhưng bia số 14552, 14553 thì đề “Hoàng triều Khải Định Tân Dậu tân thuyên” 皇 朝 啟 定 辛 酉 新 鐫 (sai). Lệ chứng này rất nhiều.

b. Để chỉ việc khắc ván in sách, lẽ ra dùng chữ thuyên 鐫, nhưng có khi người ta lại dùng chữ san 刊. Chẳng hạn Kim Vân Kiều tân truyện, bản Liễu Văn đường 1871 dùng chữ san như ta đã thấy; cuốn thơ Hồ Xuân Hương mang tên Quốc âm thi tập 國 音 詩 集, được ghi “Long phi Giáp Dần xuân tân san” 龍 飛 甲 寅 春 新 刊 (sai) trong khi đó, cuốn Khâm định vạn niên thư lại có dòng chữ viết tay “Tự Đức nguyên niên Mậu Thân (1848) trùng thuyên” 嗣 德 元 年 戊 申 重 鐫 (đúng, vì đã khắc một lần vào năm 1836)(17); bài Tổng thuyết Tổng từ của Minh Mệnh và Tự Đức cũng có câu “Truyền hình tả chiếu tương trùng thuyên” 傳 形 寫 照 將 重 鐫 (đúng).

Nhưng nói “sai” và “đúng” ở đây là theo định nghĩa của từ điển, chứ còn trên thực tế thì vẫn có sự dùng lẫn lộn như thế (18).

Bây giờ, ta phải chứng minh bước nữa là trước và sau năm 1872, đã từng có những văn bản mà hai chữ TRÙNG SAN mang nghĩa là biên tập, “san định” lại.

4. HAI CHỮ TRÙNG SAN TRONG BẢN DMT 1872, 1879 CÓ NGHĨA LÀ "BIÊN TẦP, SỬA CHỮA"... CHỨ KHÔNG PHẢI "KHẮC LẠI"

Sau đây là một số chứng cứ:

* Chứng cứ thứ nhất : Chỉ nam ngọc âm 指 南 玉 音 (AB.372)(19).

Tại bản AB.372, ta thấy cuốn sách được mang ba tên gọi: Tờ 1a khắc hàng chữ: TRÙNG SAN Chỉ nam bị loại các bộ dã đàm đại toàn tự 重 刊 指 南 備 類 閣 部 野 談 大 全 序; Tờ 3a khắc hàng chữ: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa mục lục 指 南 玉 音 解 義 目 錄; Tờ 4a khắc hàng chữ: TRÙNG THUYÊN Chỉ nam phẩm vựng dã đàm tịnh bổ di đại toàn 重 鐫 指 南 品 彙 野 談 並 補 遺 大 全. Điều đó khiến ta ngờ rằng có thể người soạn cuốn Chỉ nam ngọc âm đã dựa vào vài cuốn từ điển trước đó (chẳng hạn Chỉ nam phẩm vựng dã đàm ) để soạn ra cuốn từ điển giải thích các từ điều bằng thơ lục bát?

Nhưng, điều quan tâm của chúng tôi là trong bốn tờ đầu, bản in này đã dùng hai chữ SAN và THUYÊN thì thế tất phải có sự phân biệt hàm nghĩa của hai chữ, nên chúng tôi hiểu rằng chữ SAN tại tờ 1a trong bài Tựa dùng để chỉ việc biên tập, “san định” lại (TRÙNG SAN) một cuốn từ điển nào đó trước khi đưa khắc lại (TRÙNG THUYÊN). Điều đó đã được ghi rõ trong lời Tựa:

(…) “Bèn soạn quyển Chỉ nam này
Đã thông thiên địa lại hay nhân tình”

Và:

“Hồng Phúc danh hương chân pháp tính
Bút hoa bèn mới đính nên thiên
Soạn làm chữ cái chữ con
San bản lưu truyền ai đặc thì thông”
(…)

Bài Tựa cho biết rằng, sau khi “soạn” (tức là TRÙNG SAN) một bản cũ nào đó rồi mới mang “san bản”, rồi TRÙNG THUYÊN như ghi rõ ở tờ 4a để "lưu truyền".

* Chứng cứ thứ hai: Hai chữ TRÙNG SAN 重 刊 trong Trùng san Lam Sơn thực lục 重 刊 藍 山 實 錄(20) mang nghĩa biên tập lại các bản viết tay. Bài Tựa sách nói rõ điều đó:

"Dĩ vi cựu bản tuy hữu sao ký, gián do thác giản, vị dị tận hiểu. Tư dục toản thu tinh thuần, dụng xâm chư tử, thứ Tiên đế chi công nghiệp phục minh ư thế, nãi mệnh thần đẳng tham dĩ cựu lục gia biên nhi trùng tu chi. Thù giả chính, lậu giả bổ đắc tiện quan lãm dĩ quảng kỳ truyền. Thần đẳng thao phụng đức âm, cảm bất sưu duyệt bổ xuyết, vựng dĩ thành biên, cẩn lục Thượng tiến dĩ sĩ duệ lãm. Phụng tứ danh viết "Trùng san Lam Sơn thực lục". Tức mệnh tượng nhân san bản dĩ thùy vĩnh cửu (以 為 舊 本 雖 有 抄 記 , 間 猶 錯 簡, 未 易 盡 曉。 玆 欲 纂 取 精 純 用 諸 梓, 庶 幾 先 帝 之 功 業 復 明 於 世, 乃 命 臣 等 參 以 舊 錄 家 編 而 重 修 之殊 者 正, 漏 者 補 , 得 便 觀 覽, 以 廣 其 傳。 臣 等 叨 奉 德 音, 敢 不 搜 閱 補 綴 , 彙 以 成 編, 謹 錄 上 進 以 俟 睿 覽。 奉 賜 名 曰 重 刊 藍 山 實 錄。 即 命 匠 人 刻 版 以 垂 永 久) -

Vua cho là bản thực lục cũ tuy có các bản sao chép, nhưng trong đó còn có chỗ nhầm lẫn, chưa dễ hiểu hết, nay muốn thu thập phần tinh túy để đem khắc ván in, ngõ hầu làm cho công nghiệp của tiên đế lại được sáng mãi ở đời, bèn sai chúng tôi tham khảo các bản chép cũ tại các tư gia để sửa sang lại, chỗ nào sai thì viết lại cho đúng, chỗ nào sót thì bổ sung vào, cốt tiện quan lãm và truyền bá rộng rãi. Chúng tôi vâng phụng chiếu thư(18), đâu dám không sưu tầm, điểm duyệt, bổ sung, góp lại thành sách, kính cẩn chép dâng lên để chờ ngự lãm. Sách được ban tên là Trùng san Lam Sơn thực lục . Lập tức sai thợ khắc in để truyền lưu mãi mãi).

* Chứng cứ thứ ba: Trùng san Thanh Hoa Phương Hoa tối tân truyện 重 刊 清 華 芳 華 最 新 傳 (AB.283). Đây là tác phẩm chữ Nôm, biên soạn năm Duy Tân thứ chín, có phiên quốc ngữ. Bài Tựa cho ta thấy tác giả đã gọi công việc biên soạn của mình là TRÙNG SAN:

“Nơi phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa còn có đền thờ nàng Phương Hoa. Chùa ở huyện Thạch Thành cũng thờ nàng Thị - Trinh mồ mả các nơi cũng hãy còn cả. Mà Tào - Trung úy thời người ở làng Tào Xuyên huyện Hoằng Mỹ. Nghe người ta nói rằng ở làng đó còn có cái bia kể tội tên Tào - Trung úy nghìn năm không mòn (tường ở sự đằng sau). Truyện này trước đã có người đặt vài lần, nhưng mà hoặc là quê mùa quá; phô tự cũng không ra làm sao. Tôi thấy truyện này là truyện nước mình, mà đàn bà như Phương - Hoa thực là ít có, nên có truyện để lại đời sau để làm gương. Vậy nên tôi cứ sự tích mà đặt lại cho mới ra, nôm na tạm đủ nghe mà thôi. Còn như khoa thứ đời nào cùng là danh hiệu các người thời chưa kịp tra, xin các ngài xem truyện sẽ biết cho vậy.

Năm Duy Tân thứ 9, ngày tháng 2.

Giật sơn Nguyễn Ngạc Trì soạn.”

Rõ ràng là hai chữ TRÙNG SAN trong Chỉ nam ngọc âm, Lam Sơn thực lục và truyện Phương Hoa đã dẫn trên đây đều mang nghĩa là “biên tập, bổ sung, sửa chữa” lại. Đó cũng là nghĩa của hai chữ TRÙNG SAN trong bản DMT 1872 và 1879!

So sánh từ ngữ trong bản DMT với bản Liễu Văn đường 1871 và các bản in đời Tự Đức, ta thấy sự sửa chữa của DMT là rất rõ ràng. DMT đã sửa chữa một bản chép tay nào đó (không ngoại trừ có khả năng còn tham khảo cả bản 1871 và các bản chép tay đời Tự Đức) để làm thành một văn bản Truyện Kiều có nhiều câu chữ “mới”. DMT tâm đắc với sự sửa chữa đó. Sự sửa chữa này được gọi là TRÙNG SAN. Sau khi TRÙNG SAN, ông cho khắc bộ ván mới (TÂN THUYÊN) vào năm 1872.

*

Trên đây là sự tìm hiểu hai chữ TRÙNG SAN trong bản DMT của chúng tôi. Như đã có dịp trình bày trong bài viết trước, từ hơn nửa thế kỷ qua các học giả từ Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trương Chính, Vũ Đức Phúc đã ngày càng gần nhau tại một điểm khi cho rằng: Truyện Kiều được sáng tác trong đời Tây Sơn(22). Vậy hệ quả sẽ là:

a. Nguyên tác Truyện Kiều không hề có chữ húy Gia Long, Minh Mệnh.

b. Duy Minh thị đã "trùng san" một bản chép tay được biên tập sau năm 1825 để cho in ra bản 1872.

c. Các chữ húy trong bản DMT 1872 thể hiện “tuổi” của bản chép tay, chứ không phải “tuổi” của bản in.

d. Và, như chúng tôi đã hình dung khi viết về "bản Phường", đến đời Tự Đức, khi mà việc in truyện Nôm đã được “tháo khoán”, lại gặp lúc nhu cầu đọc Truyện Kiều của quần chúng đô thị tương đối cao, các nhà khắc ván không khó khăn gì khi xin chép lại những bản chép tay của các tư gia ngay tại đất Thăng Long này. Đó chính là những truyền bản ban đầu mà Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát hay học trò của các ông còn lưu giữ được. Nhưng việc nghiên cứu chữ húy lại cho thấy rằng những truyền bản ban đầu tương đối gần với nguyên tác ấy, nếu còn, thì dưới sự chuyên chế hà khắc từ đời Gia Long, những ai muốn lưu giữ trong Truyện Kiều trong gia đình, tất phải chép lại với sự kỵ huý nghiêm ngặt. Đương nhiên, mỗi khi chép lại, ngoài việc chú ý đến việc kị húy, người ta vẫn có thể tùy tiện thay chữ này, đổi chữ khác. Căn cứ vào kết quả khảo sát chữ húy (chứ không phải vào năm in hoặc năm chép) trong các văn bản, GS. Nguyễn Tài Cẩn đã phân ra ba thế hệ: văn bản Truyện Kiều, trong đó có hai thế hệ được biên tập (từ 1803 đến 1825 và từ 1836 đến 1840). Đây chính là những văn bản phái sinh của những truyền bản ban đầu, ra đời sau các lệnh kị húy của hai triều Gia Long, Minh Mệnh.

Nhưng, xét trong tương quan với các bản in đời Tự Đức, chúng ta lại thấy rằng: nếu như dấu vết những chữ húy trong bản DMT đã minh định được thời điểm biên tập của một văn bản chép tay, thì mặt khác, việc nghiên cứu từ ngữ lại cho ta thấy DMT đã không tránh được thói tục của những nhà Nho hay chữ xưa trong việc quá tự tin và hăng hái khi “trùng san” một văn bản phái sinh trên đây để đưa in một văn bản Truyện Kiều mang dấu vết biên tập chủ quan của ông. Đó là một trong những hạn chế của bản DMT 1872.

Vì thế, việc tìm hiểu sự can thiệp của Cư sĩ Duy Minh Thị vào văn bản Truyện Kiều cũng như vai trò của bản 1872 trên con đường truyền bản trở nên vấn đề rất đáng quan tâm. Chúng tôi mong được trình bày trong những bài viết tới.

Đ.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Đào Thái Tôn: Thời điểm sáng tác “Truyện Kiều” và chữ húy trong bản “Kiều” do Duy Minh Thị khắc in năm 1872, Tạp chí Hán Nôm, số 2/2003.

(2) Khi chưa được thấy bản Duy Minh Thị 1872, chúng tôi đã viết: "Theo Tiến sĩ Nghiêm Xuân Hải - con rể Giáo sư Hoàng, bản Nôm ở miền Nam mà Hoàng Xuân Hãn có, là bản Duy Minh Thị in 1872 chứ không phải bản “trùng san” in năm 1879 (là bản mà ông Tuân có). Không hiểu sao đã thấy hai chữ “trùng san” mà Nguyễn Quảng Tuân vẫn xem bản ông (1879) là bản “duy nhất”! ( Văn bản Truyện kiều - Nghiên cứu và thảo luận, Nxb. Hội nhà văn, H. 2001, tr.280).

(3) Tạp chí ngôn ngữ, số 1, năm 2002.

(4) Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2002.

(5) Đôi lời bàn thêm về bản Kiều Duy Minh Thị. trong Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị 1872, Sđd, 541.

(6) Xin xem Đào Thái Tôn: Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận, Sđd.

(7) Vũ Đức Phúc: Hoàng Xuân Hãn và việc khôi phục nguyên tác Truyện Kiều. Tạp chí Văn học số 6/1998 (Xin xem bài in lại trong Đào Thái Tôn: Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận, Sđd).

(8) Mai Hồng - Nguyễn Hữu Mùi: Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nôm. Tạp chí Hán Nôm, số 1 năm 1986.

(9) Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại. Nxb. KHXH, H. 1993.

(10) Trần Văn Giáp: Lược khảo vấn đề chữ Nôm (từ khởi thủy đến thế kỷ XIX). Lê Văn Đặng thực hiện văn bản. Ngày nay, Publishing, 2002.

(11) Trong bản 1871, chỉ có câu 87 viết chữ thìn 辰 thay chữ thì 時. Nhưng xét trong toàn bộ hệ thống gần một trăm chữ thì không thể xem đây là chữ viết kiêng húy được.

(12) Trong một bài viết cho Diễn đàn mới đây mà Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho đọc, chúng tôi thấy ông đã căn cứ vào chữ húy (chứ không căn cứ vào năm chép hay năm in của văn bản) mà chia các văn bản Truyện Kiều thành ba thế hệ: Biên tập khoảng 1836 trở về trước mà chính xác là 1803 - 1825; Biên tập khoảng 1836 - 1840; Biên tập sau năm 1847.

(13) Hán ngữ đại tự điển (Sđd).

(14) Chẳng hạn, có thể cho khắc hàng chữ: KỶ MÃO XUÂN TRÙNG THUYÊN 己 卯 春 重 鐫 (khắc lại vào mùa Xuân năm Kỷ Mão (1879).

(15) GS. Nguyễn Tài Cẩn cho biết, bản DMT còn được in lại ít nhất hai lần nữa: năm 1891 và năm 1915 (Sđd. tr.538). Vậy hai lần in này, DMT có sửa chữa gì so với lần in 1879 không? (Bản 1879 có sửa chút ít so với bản 1872). Cuối sách, hẳn còn thấy hai chữ trùng san?

(16) Chẳng hạn, bản Kim Vân Kiều tân truyện, Liễu Văn đường tàng bản được đề ngay trên trang bìa: “Tự Đức nhị thập tứ niên, trọng xuân tân san” 嗣 德 二 十 四 年 仲 春 新 刊.

(17) Theo Lê Thành Lân (Lịch và niên biểu Việt Nam hai mươi thế kỷ - 1001 - 2010, Nxb. Thống kê, H, 2000, tr.41) thì, sách này soạn năm 1820, khắc lần đầu năm Bính Thân (1836), trùng thuyên năm Kỷ Dậu (1849) hoặc Canh Tuất (1850), chứ không phải Mậu Thân (1848) như người nào đó đã viết ở đầu sách.

(18) San có nghĩa là đính chính, tu đính, như san ngộ, san chính. Tấn thư, Tề Vương Du truyện có câu: “Tựu nhân tá thư, tất thủ san kỳ ngộ, nhiên hậu phản chi” (Đến mượn sách của ai thì bao giờ cũng tự tay chữa những lầm lẫn trong đó rồi mới mang trả) Thuyên có nghĩa là khắc ván in - Xem: Hán ngữ đại từ điển. Tứ Xuyên từ thư xuất bản xã, Hồ Bắc từ thư xuất bản xã, Thành Đô, 1986, tr.324.

(19) Vì không đủ các văn bản để khảo sát, ở đây chúng tôi chỉ dẫn bản AB.172. Theo Trần Xuân Ngọc Lan (Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985), tác phẩm này có thể được biên soạn xong vào các năm Tân Tị sau: 1461, 1521, 1581, 1641, 1701, 1761.

(20) Bản in này do học giả Hoàng Xuân Hãn gửi tặng, hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Chúng ta còn đọc được một trang viết tay của Cụ gửi kèm: “Bản sách Trùng san Lam Sơn thực lục này nguyên đóng cùng bản Lê triều Đế vương Trung hưng thực lục. Cả hai bản đều do Quốc sử quán đời Lê Hy Tông xuất bản; và đều mang tựa đề năm Vĩnh Trị nguyên niên (1676). Cả hai bản đều mang những chữ húy đời Lê, như: thay 新 [LSTL. Tựa / 1a (4)], thay 提 [LSTL / 4b (7)]; thay 邦 [THTL. Q.1 / 5a (9)] mà các chữ 華 實 宗 時 vân vân thì vẫn không kiêng. Vậy chắc chắn các bản này là khắc và in từ đời Lê. Tôi đã mua lại của một người ở Hà Nội vào năm 1941 và năm nay tôi đã tách rời hai quyển bồi các tờ cho khỏi rách và dễ đọc rồi đóng lại. Loại sách in từ đời này (thế kỷ thứ XVII) ở ta còn lại rất ít. Riêng về sử lại càng hiếm. Có lẽ tập này là độc nhất còn lại.

Mong sau tôi, ai đọc sách này hết sức giữ gìn để bảo tồn di - vật rất quý cho văn hóa nước ta. Tôi có thêm bài nguyên tựa (tháng 12 năm Thuận Thiên 4) của Lê Lợi mà tôi đã thấy ở một bản viết tay. Sách Đại Việt sử ký (q.10/136): “ngày 6 tháng 12 năm Thuận Thiên 4. Vua sai làm LSTL. Vua đề tựa, Ký LAM SƠN ĐỘNG CHỦ” đúng như ở tựa trên”. Tuy nhiên, theo PGS.TS. Nguyễn Đăng Na, về mặt văn bản, Trùng san Lam Sơn thực lục cũng có nhiều điều lý thú về mặt văn bản học…

(21) Trong Trùng san Lam Sơn thực lục, Nxb. KHXH, H. 1992, Ông Trần Nghĩa dịch 臣 等 叨 奉 德 音 là “Chúng tôi vâng theo lời cao quý…” thì thực ra, "đức âm" 德 音 nghĩa là chiếu thư; câu錄 上 進 以 俟 睿 覽, dịch là: “Xin chép dâng lên hầu mong đấng thông tuệ xem” thì thực ra "duệ lãm" 睿 覽 là ngự lãm.

(22) Nhân nhận xét về bản thảo bài viết trên Tạp chí Hán Nôm số 2/2003, GS. Nguyễn Tài Cẩn cũng cho rằng, có thể là Nguyễn Du viết Truyện Kiều trong thời gian ở quê vợ (Thái Bình)./.

TB

TÊN TỰ, TÊN HIỆU CÁC TÁC GIA HÁN NÔM VIỆT NAM - MỘT CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NGHIÊM TÚC VÀ GIÁ TRỊ

NGUYỄN ĐĂNG NA

Những năm qua, với tư cách là trung tâm nghiên cứu di sản Hán Nôm của cả nước, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã liên tiếp cho ra mắt bạn đọc hàng loạt công trình nghiên cứu giá trị. Một trong những công trình thuộc loại đó, là quyển Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam do PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh biên soạn (Nxb. KHXH, H. 2002). Quyển sách này không chỉ cần thiết đối với giới nghiên cứu, mà còn vô cùng thiết thực đối với thầy và trò các trường học.

*

Khi đọc sách về các tác gia Hán Nôm thời trung đại, ta thường gặp những khái niệm danh, húy, hiệu, tự. Chẳng hạn, Nguyễn Du hiệu là Thanh Hiên, tự là Tố Như; Phạm Đình Hổ hiệu là Đông Dã Tiều, tự là Tùng Niên; Trần Nguyên Đán hiệu là Băng Hồ v.v... Vậy, danh, hiệu, tự là gì ? Chúng có quan hệ với nhau như thế nào ? Tất cả đều được giải đáp trong phần Lời nói đầu của cuốn sách.

Có lẽ, tác giả quá khiêm tốn mà đặt cho phần nghiên cứu này nhan đề như vậy. Thực ra, tuy chỉ có 14 trang, nhưng Lời nói đầu xứng đáng là một công trình khoa học khá sâu về danh, hiệu, tự. Người viết đã ngược tìm đến tận ngọn nguồn của cách đặt tên húy, hiệu, tự; đã chỉ ra mối quan hệ giữa chúng, cũng như ý nghĩa của việc đặt tên, hiệu, tự và cách sử dụng danh, hiệu, tự trong giao tiếp, trong trước thuật. Để minh họa cho lý thuyết của mình, người viết đã tường giải một cách cụ thể bằng những dẫn chứng từ Trung Quốc đến Việt Nam. Vì sao Gia Cát Lượng lại có tự là Khổng Minh, Bao Chửng Hy Nhân, Tào Tháo là Mạnh Đức, Lý Tuấn Thường Kiệt, Chu An Linh Triệt, Nguyễn Quý Đức là Bản Nhân, Nguyễn Trãi Ức Trai, Ngô Thì Ngọ Phong. Nguyễn Thiếp là La Sơn v.v... ? Đáp án đã có trong Lời nói đầu.

Phần thứ hai dầy 509 trang. ở đây tác giả đã cung cấp 1.016 tên tự, hiệu, danh của gần 700 tác giả Hán Nôm Việt Nam thời trung đại. Để có được số liệu chính xác này, soạn giả đã sử dụng những thư tịch hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Dĩ nhiên, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm không phải đã thu thập được hết thư tịch Hán Nôm thời trung đại. Vì thế tác giả giải thích: “còn thư tịch Hán Nôm ở địa phương cũng như các loại hình văn bản khác (...), chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu” (tr.17). Khổng Tử nói: “Biết bảo là biết, không biết bảo là không biết, ấy là người biết vậy!” Có lẽ đây là phẩm chất cần có của một người nghiên cứu. Hơn nữa, nắm chắc tính chất phức tạp của các văn bản Hán Nôm, soạn giả lượng trước những khó khăn mà công trình sẽ gặp, nên viết: “Trong quá trình biên soạn, chúng tôi cố gắng tra cứu và đối chiếu với nguyên bản Hán Nôm. Nhưng sự ghi chép trên các văn bản gốc cũng có chỗ không thống nhất. Nhiều khi một tên người, tên tự, hoặc tên hiệu (...) mỗi sách viết một kiểu (...). Do vậy, những sai sót không thể tránh khỏi”. Sự thận trọng là một phẩm chất vô cùng quan trọng đối với người nghiên cứu.

Cùng với tính khoa học thận trọng là sự trung thực trong nghiên cứu. Chỉ những người có bản lĩnh mới làm được. Tôi đã từng viết một số bài về tệ “đạo văn”. Vì thế tôi đánh giá cao nhân cách khoa học này của tác giả công trình Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam. Xin đọc Lời nói đầu của tác giả: “Trong quá trình biên soạn (...), chúng tôi đã tham khảo các sách vở, tài liệu, thư tịch của những người đi trước để tiếp thu chỉnh lý (...). Nhân đây chúng tôi xin được bày tỏ sự biết ơn vô hạn”. Vì sao tôi phải trích lại đoạn trên? Bởi vì có những công trình gần như tiếp thu trọn vẹn thành tựu nghiên cứu vài chục năm trời của một tập thể, nhưng chủ biên của chúng chỉ nói một câu ngon ơ...

Sự trung thực của tác giả công trình Tên tự, tên hiệu... còn được thể hiện ở việc sòng phẳng chỉ ra công lao giúp đỡ của từng đồng nghiệp. Tác giả viết: “Trong quá trình biên soạn (...), chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp như PGS. Trần Lê Sáng đã tham gia làm một số phiếu, PGS. Phan Văn Các và NCV. Nguyễn Văn Nguyên đã tham gia đọc sửa bản thảo, ThS. Nguyễn Hữu Mùi và CN. Nguyễn Đức Toàn tham gia làm đối chiếu...” (tr.17).

Công bố 1016 tên tự, tên hiệu của gần 700 tác giả Hán Nôm Việt Nam đòi hỏi người biên soạn không chỉ bỏ nhiều công sức, mà cái chính là phải có khoa học để tránh nhẫm lẫn. Sáu tác giả Hán Nôm là Nhữ Sĩ Bá, Phạm Hồng Nghi, Phạm Thanh, Trần Huy Phác, Vũ Huy Tấn và Vương Duy Trinh cùng có hiệu là Đạm Trai. Thậm chí 7 người cùng có hiệu Tĩnh Trai là Đặng Huy Trứ, Lê Hữu Thanh, Hoàn Kim Tích, Ngô Thì Điển, Nguyễn Hàm Ninh, Trần Đình Túc và Trần Sầm. Trong những trường hợp như vậy nếu không thận trọng và khoa học dễ bị nhầm lẫn.

Phần thứ ba gồm 4 bảng tra: Bảng tra tên tự hiệu bằng tiếng Việt xếp theo ABC; Bảng tra tên tự hiệu bằng chữ Hán xếp theo số nét từ 1 đến 29 nét; Bảng tra theo họ Bảng tra tác phẩm. Đối với các loại sách công cụ như quyển Tên tự tên hiệu... thì các bảng tra cứu là vô cùng cần thiết; chúng giúp độc giả chỉ cần biết một trong 4 yếu tố (tên tự, hiệu bằng tiếng Việt, bằng chữ Hán, và họ hoặc tác phẩm của một tác gia Hán Nôm nào đó) là có thể tìm ra ngay tác giả mà mình đang cần. Riêng Bảng tra tác phẩm, PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh đã cung cấp 1758 tác phẩm liên quan tới 700 tác gia Hán Nôm Việt Nam. Ta hãy hình dung xem, người biên soạn đã phải tốn vào đây bao nhiêu công sức. Tuy nhiên, trong khoa học, công sức được định lượng bằng giá trị sử dụng. Bốn bảng tra cứu vừa làm cho bộ sách thêm sang, vừa làm cho bộ sách tăng thêm giá trị sử dụng. Hơn nữa, tất cả các tên húy, tự, hiệu và tên tác phẩm đều được in kèm với chữ Hán. Điều đó càng làm cho tính khoa học của bộ sách được nâng cao.

Những điều chúng tôi trình bày trên kia đều đưa tới một kết luận rằng, quyển Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam là một công trình khoa học nghiêm túc, giá trị và thiết thực với giới nghiên cứu cũng như đối với thầy và trò các trường học. Sẽ có người hỏi rằng, vậy bộ sách này chẳng có gì thiếu sót chăng ? Xin thưa, ngọc còn có vết huống chi công trình tên tự, tên hiệu phức tạp như thế, tránh sao khỏi sai sót. Nhưng tôi thích lời Khổng Tử: “Trạch kỳ thiện” - chọn lấy cái hay, cái tốt của người ta mà học. Vì lẽ đó tôi chỉ nêu ra những điều khả thủ mà tôi thu lượm được. Mong rằng Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngày càng nhiều công trình khoa học có chất lượng xứng đáng như quyển Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam.

N.Đ.N

TB

LẬP HỌC CHIẾU VÀ CHÍNH SÁCH
GIÁO DỤC TRIỀU TÂY SƠN

ĐINH KHẮC THUÂN

Lập học chiếu là bản chiếu nói về xây dựng việc học của triều Tây Sơn do Ngô Thì Nhậm soạn thảo. Văn bản hiện được sưu tập lại cùng với khoảng 20 bài chiếu, khải, sắc, biểu khác trong tập Hàn các anh hoa, lưu giữ ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu thư viện A.291.

Hàn các anh hoa là tác phẩm quan trọng của Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, xưa nay đã được nhiều học giả quan tâm, chẳng hạn như PGS.TS. Đỗ Thị Hảo giới thiệu trong luận văn tốt nghiệp lớp chuyên tu Hán Nôm thuộc Ban Hán Nôm. Lần này, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của danh nhân Ngô Thì Nhậm, chúng tôi xin được giới thiệu nguyên văn bản Lập học chiếu này; đồng thời qua đó, bước đầu có đôi điều nhận xét về chính sách giáo dục của thời Tây Sơn, cũng như đóng góp lớn lao của Ngô Thì Nhậm đối với triều đại Tây Sơn.

1. Nội dung văn bản

Nguyên văn Lập học chiếu:

立 學 詔

詔 天 下 官 員 百 姓 等 欽 知.

建 國 以 教 學 為 先, 求 治 以 人 才 為 急, 曩 者 四 方 多 警, 學 政 不 修, 科 法 寢 隳, 人 才 愈 乏. 夫 一 治 一 亂, 循 環 之 理, 繼 亂 之 後, 尤 當 興 起 振 作, 立 教 化, 設 科 舉. 乃 轉 亂 為 治 大 規 模. 朕 耆 定 方 初, 推 意 教 儒, 留 心 好 士, 欲 得 實 才 以 資 國 家 之 用.

合 詔 攽 下 : 所 在 各 社 民, 宜 設 立 社 學 , 擇 社 內 儒 士 . 有 學 行 者 置 為 社 講 諭 . 教 習 本 社 士 人 . 其 各 府 祠 宇 , 聽 本 地 分 民 , 認 待 擇 差 府 導 官 . 置 為 教 習 學 府 之 所. 仍 期 以 今 年 開 鄉 試 科 , 取 鄉 秀 才 優 等 升 充 國 學 , 次 等 送 補 府 學. 其 舊 朝 鄉 貢 未 有 職 任 者 並 詣

闕 朝 侯 , 送 補 訓 導 知 縣 等 職 . 舊 儒 生 , 生 徒 並 待 試 期 入 試 . 優 者 入 選 , 劣 者 罷 歸 社 學 . 其 三 貫 生 徒 一 切 勒 還 民 項 , 與 民 同 受 瑤 役 . 嗣 後 各 社 所 置 講 諭 . 聽 呈 納 縣 官 類 簿 , 仍 轉 遞 朝 堂 官 給 憑 , 俾 知 策 勵 .

這 關 一 切 大 興 , 合 當 磨 礱 作 志 . 精 白 承 休 , 同 登 寬 裕 之 塗 , 共 贊 清 明 之 治 .

Phiên âm:

Lập học chiếu

Chiếu thiên hạ quan viên bách tính đẳng khâm tri.

Kiến quốc dĩ giáo học vi tiên, cầu trị dĩ nhân tài vi cấp.

Nang giả tứ phương đa cảnh, học chính bất tu; khoa pháp tẩm huy, nhân tài dũ phạp.

Phù nhất trị nhất loạn, tuần hoàn chi lí, kế loạn chi hậu, vưu đương hưng khởi chấn tác, lập giáo hóa, thiết khoa cử, nãi chuyển loạn vi trị đại quy mô.

Trẫm kỳ định phương sơ, nhã ý đôn nho, lưu tâm hiếu sĩ, dục đắc thực tài dĩ tư quốc gia chi dụng.

Hợp chiếu ban hạ: Sở tại các xã dân, nghi thiết lập xã học, trạch xã nội nho sĩ hữu học hạnh giả trí vi xã giảng dụ, giáo tập bản xã sĩ nhân. Kỳ các phủ từ vũ, thính bản địa phận dân, nhận đãi trạch sai phủ huấn đạo quan, trí vi giáo tập học phủ chi sở. Nhưng kỳ dĩ kim niên khai hương khí khoa, thủ hương tú tài ưu đẳng thăng sung quốc học, thứ đẳng tống bổ phủ học. Kỳ cựu triều hương cống vị hữu chức nhậm giả, tịnh nghệ khuyết triều hầu, tống bổ huấn đạo, tri huyện đẳng chức. Cựu nho sinh, sinh đồ tính đãi thí kỳ nhập thí, ưu giả nhập tuyển, liệt giả bãi quy xã học. Kỳ tam quan sinh đồ, nhất thiết lặc hoàn dân hạng, dữ dân đồng thụ dao dịch. Tự hậu các xã sở trí giảng dụ, thính trình nạp huyện quan loại bạ, nhưng chuyển đệ triều đường quan cấp bằng, tỉ tri sách lệ.

Giá quan nhất sơ đại điển, hợp đương ma long tác chí, tinh bạch thừa hưu, đồng đăng khoan dụ chi đồ, cộng thanh minh chi trị.

Bố cáo hà nhĩ, sử hàm văn tri.

Dịch nghĩa:

Chiếu xây dựng việc học

Xuống chiếu cho quan viên và dân chúng trong thiên hạ biết: Xây dựng đất nước, lấy dạy học làm đầu, tìm lẽ trị bình, tuyển nhân tài làm gấp. Trước kia bốn phương xảy ra nhiều việc biến động, chế độ học hành không được sửa sang, phép khoa cử dần dần sa sút, nhân tài ngày một khan hiếm. Việc đời lúc trị, lúc loạn là lẽ tuần hoàn. Song sau khi loạn càng cần phải hưng khởi chấn chỉnh, lập giáo hóa, đặt khoa cử. Đó là quy mô lớn chuyển loạn thành trị vậy.

Trẫm buổi đầu đại định vẫn có ý coi trọng Nho học, lưu tâm yêu mến kẻ sĩ, muốn tìm những người thực tài để giúp ích cho đất nước. Chiếu này ban xuống, dân các xã nên lập nhà học của xã mình, chọn những Nho sĩ có học hạnh, đặt làm chức giảng dụ cấp xã để dạy dỗ học trò. Còn như từ vũ ở các phủ thì cho phép dân địa phương chọn làm nơi để quan huấn đạo của phủ đến đặt làm trường giảng tập của phủ. Hẹn trong năm nay sẽ mở khoa thi hương chọn lấy những Tú tài hạng ưu sung vào trường quốc học, còn hạng thứ thì đưa về trường học ở phủ. Những người đỗ Hương cống của triều cũ chưa được bổ nhiệm thì đưa đến triều đình đợi sung bổ vào các chức Huấn đạo, Tri huyện. Các Nho sinh và Sinh đồ cũ đều cho đợi đến kì để vào thi. Loại ưu thì được vào tuyển, loại kém thì trả về trường học của xã. Còn các “Sinh đồ ba quan” thì đều trả về hạng thường dân, và phải cùng gánh vác phu phen tạp dịch. Từ nay về sau, các xã hễ đặt chức giảng dụ thì phải nộp danh sách cho quan huyện, để chuyển đệ lên, để quan triều đình cấp bằng, khiến họ biết được sự khích lệ của trên.

Việc này quan hệ đến điển chương lớn buổi đầu, ai nấy phải mài rũa chí khí, phấn chấn tinh thần để đón phúc lành, để cùng bước lên con đường thênh thang, giúp cho nền thịnh trị trong sáng.

Vậy bố cáo xa gần, khiến mọi người đều biết.

2. Một vài nhận xét

Đây là một trong các chiếu chỉ của vua Quang Trung ban bố ngay sau khi xưng đế (1788). Những chiếu chỉ này đều do Ngô Thì Nhậm soạn thảo. Chúng ta biết rằng Ngô Thì Nhậm đã thi đỗ Tiến sĩ và làm quan trong triều Lê -Trịnh, sau lại được mời phụng sự triều Tây Sơn và từng giữ chức Hiệu thư kiêm Toản tu Quốc sử. Vì vậy ông hiểu khá tường tận thực trạng của việc giáo dục khi này, nên cùng với việc soạn thảo chiếu lên ngôi, chiếu khuyến nông, ông đã soạn thảo chiếu lập học này. Điều đó cho thấy chính sách giáo dục được triều đình Tây Sơn coi trọng như thế nào.

Chẳng vậy mà ngay câu mở đầu, bài chiếu đã khẳng định “Xây dựng đất nước, lấy dạy học làm đầu, tìm lẽ trị bình tuyển nhân tài làm gấp”. Tiếp đó bài chiếu chỉ ra sự sa sút của việc học và thi cử. Điển hình của sự sa sút này là loại “Sinh đồ ba quan” xuất hiện từ cuối niên hiệu Cảnh Hưng, nghĩa là thí sinh qua kỳ khảo hạch ở huyện để được thi Hương thì chỉ cần nộp 3 quan tiền là được lấy đỗ Sinh đồ. Sau cùng bài chiếu ban bố các chính sách và biện pháp cụ thể để phổ cập việc học và đào tạo thực tài. Trong đó quy định các xã được đặt chức giảng dụ để lo việc dạy học. Đây là chủ trương khá tiến bộ nhằm mở rộng việc học đến mọi làng xã.

Chủ trương này đã trở thành hiện thực, nên nhiều xã đã lập trường học và có chức “Xã giáo 社 教” lo việc giảng dạy ở làng xã. Chẳng hạn, minh văn trên chuông chùa Hà ở quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội, khắc năm Cảnh Thịnh 7 (1799) do Nguyễn Khuê chức Xã giáo phụng soạn, có nói việc lập chức học quan ở địa phương.

Tóm lại, chiếu lập học này là một chính sách rất kịp thời và tiến bộ nhằm cải cách giáo dục dưới triều Tây Sơn. Điều đó cũng phản ánh tư tưởng tiến bộ và đóng góp to lớn của Ngô Thì Nhậm trong sự nghiệp giáo dục của triều đại này.

Đ.K.T

TB

BÀI THƠ CỦA VUA LÊ HIẾN TÔNG (1461 - 1504)
ĐỀ NÚI CHIẾU BẠCH

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

Trong cuốn: Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời, do Mai Xuân Hải tuyển chọn và biên soạn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Hà Nội ấn hành năm 1998, có giới thiệu bài thơ, Núi Chiếu Bạch (Đề Chiếu Bạch sơn thi tịnh tự) của vua Lê Thánh Tông, làm vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Đọc lời đề dẫn bài thơ này của Lê Thánh Tông, lâu nay chúng ta cứ tưởng rằng thơ được khắc trên vách núi?

Vừa qua, trong chuyến đi thực địa, chúng tôi mới thấy 3 tấm bia bị cỏ gai che lấp, dựng song hàng dưới chân núi Chiếu Bạch. Một bia ghi bài thơ nói trên của Lê Thánh Tông, đã bị vỡ làm nhiều mảnh nằm trên mặt đất. Hai bia bên cạnh ghi thơ của Thượng Dương Động Chủ (tức vua Lê Hiến Tông) và Bảo Thiên Động Chủ (tức vua Lê Tương Dực) thì vẫn còn nguyên, nhưng một số chữ đã bị mờ mất nét rất khó đọc.

Ngọn núi Chiếu Bạch không cao lắm, xưa kia có các chùa chiền, song nay đã bị hủy hoại hết, quang cảnh xung quanh bây giờ rất hoang vắng. Cũng xin đính chính chú thích trong các sách đã xuất bản, là núi Chiếu Bạch hiện không phải thuộc huyện Nga Sơn nữa mà nằm trong địa phận xã Hà Lâm, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, cùng huyện với quê của Trường Lạc Hoàng hậu, vợ vua Lê Thánh Tông và là mẹ của vua Lê Hiến Tông. Có lẽ vì thế nên mỗi lần về bái yết Lam Kinh, các vua Lê đã dừng thuyền ở đây, lên núi Chiếu Bạch vãn cảnh và cũng có thể về thăm quê vợ, quê mẹ..., chỉ cách nơi này vài cây số chăng?

Sau đây xin giới thiệu bài thơ đề núi Chiếu Bạch của Lê Hiến Tông.

Nguyên văn:

御 製 題 照 白 山
君 王 萬 里 故 鄉 歸
江 靡 維 舟 上 翠 微
風 定 雲 閒 花 欲 語
湖 平 天 闊 燕 交 飛
松 將 律 呂 娛 山 相
水 折 絲 玄 護 釣 磯
報 道 岳 靈 惇 穡 寶
好 為 霖 雨 遍 [亭] 圍
上 陽 洞 主 題
大 越 景 統 四 年 辛 酉 誌 陵 事 畢 清 明 日 書 中 監 正 字 臣 吳 寧 奉 舄 。

Phiên âm:

NGỰ CHẾ ĐỀ CHIẾU BẠCH SƠN

Quân vương vạn lý cố hương quy
Giang mỵ duy chu thướng thúy vi
Phong định vân nhàn hoa dục ngữ
Hồ bình thiên khoát yến giao phi
Tùng tương luật lữ ngu sơn tướng
Thủy chiết ty huyền hộ điếu ky
Báo đạo nhạc linh thuần sắc bảo
Hảo vi lâm vũ biến [ đình ] vi(1)

Thượng Dương Động chủ đề
Đại Việt Cảnh Thống tứ niên Tân Dậu chí - Lăng sự tất Thanh minh nhật thư.
Trung thư giám chính tự, thần: Ngô Ninh phụng tả.

Dịch nghĩa:

THƠ VUA ĐỀ NÚI CHIẾU BẠCH

Nhà vua từ muôn dặm xa xôi trở về thăm quê cũ,
Buộc thuyền bên bờ sông bước lên sườn núi xanh.
Giữa quang cảnh gió lặng, mây nhàn, hoa như muốn nói,
Mặt hồ phẳng lặng, bầu trời bao la, đàn én chao lượn.
Gió đưa hàng tùng thành những nhạc điệu làm vui thêm (người) ngắm sông núi,
Nước rẽ đường tơ như bảo hộ tảng đá ngồi câu.
Nói rõ non thiêng toàn sắc báu,
Lại thêm cả mưa bụi khắp chốn (đình) vi.
Thượng Dương Động chủ đề.
Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 nước Đại Việt (1501).
Ghi sau khi đi bái yết Sơn Lăng, vào tiết Thanh minh. Trung thư giám chính tự, thần là Ngô Ninh vâng chép.

Dịch thơ:

THƠ VUA ĐỀ NÚI CHIẾU BẠCH

Quân vương muôn dặm trở về quê
Thuyền buộc bờ sông cạnh thúy vi(2)
Gió lặng, mây dừng, hoa muốn ngỏ
Sóng êm, trời rộng, én giao phi(3)
Tùng đưa nhạc điệu vui thăm núi
Nước rẽ đường tơ lượn đá khe,
Như bảo non thiêng toàn sắc báu
Lại thêm mưa bụi khắp ‘đình’ vi.
Thượng Dương Động chủ sáng tác.
(Hồng Phi dịch)

Vua về quê cũ dặm trường
Bờ sông thuyền buộc, lên sườn núi cao
Gió im, mây lặng, hoa chào
Sóng yên, trời rộng, én chao lưng trời
Tùng reo nhạc núi chơi vơi
Nước luồn khe nhỏ, đá ngồi buông câu
Non thiêng sắc báu muôn màu
Bụi mưa rơi khắp trước sau trướng màn.
Thượng Dương Động chủ sáng tác.
(Hương Nao dịch)

HP - HN

CHÚ THÍCH:

(1) Chữ này bị mờ không đọc được. Chúng tôi tạm đoán là chữ ‘đình’, liền với chữ ‘vi’ sau là ‘đình vi’ tức ‘nơi màn trướng’.

(2) Thúy vi: sườn núi xanh.

(3) Giao phi: chim én chao lượn./.

TB

VÔ CÙNG THƯƠNG NHỚ GIÁO SƯ
ĐINH GIA KHÁNH

Giáo sư Đinh Gia Khánh sinh ngày 25 tháng 12 năm 1924 tại Thái Bình, quê tại huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, trú quán tại Hà Nội; đã từ trần ngày 7 tháng 5 năm 2003, hưởng thọ 80 tuổi.

Giáo sư Đinh Gia Khánh là một nhà văn hóa học và có nhiều đóng góp to lớn cho nền khoa học xã hội và nhân văn nước nhà. Về lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam (trong đó có Hán Nôm). Giáo sư là một chuyên gia nổi tiếng. Giáo sư đã có gần 30 năm giảng dạy tại Trường đại học Tổng Hợp Hà Nội, hơn 20 năm nghiên cứu khoa học và đào tạo bồi dưỡng cán bộ tại Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Giáo sư là chủ biên của Hợp tuyển thơ văn Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII (xuất bản năm 1963), Điển cố văn học Việt Nam (1977), Văn học Việt Nam thế kỉ X - Nửa đầu thế kỉ XVIII (hai tập, 1978, 1979), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1986)..., đặc biệt Giáo sư được giao trọng trách làm Chủ tịch Hội đồng biên tập bộ sách Tổng hợp văn học Việt Nam, gồm 42 tập (tái bản, có bổ sung 2000)... Giáo sư từng đảm nhận các chức vụ: Tổng biên tập Tạp chí Văn học dân gian và Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian (thuộc Trung tâm KHXH và Nhân văn Quốc gia), Tổng thư ký hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

Với những cống hiến lớn lao trong sự nghiệp cách mạng và khoa học của mình, Giáo sư Đinh Gia Khánh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 năm 1996).

Một trí thức lớn, một nhà giáo lão thành, một nhà khoa học đầu ngành, một người thầy của nhiều thế hệ đã vừa ra đi; song sự nghiệp và những cống hiến khoa học của Giáo sư sẽ còn sống mãi.

P.V

TB

VÔ CÙNG THƯƠNG NHỚ GIÁO SƯ
BÙI VĂN NGUYÊN

Giáo sư Bùi Văn Nguyên sinh ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1918) tại Nghi Hưng, Nghi Lộc, Nghệ An, nguyên Giáo sư Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã từ trần ngày 2 tháng 4 năm 2003 (tức ngày 1 tháng 3 năm Quí Mùi), hưởng thọ 86 tuổi.

Từ năm 1950 đến lúc cuối đời, GS. Bùi Văn Nguyên tham gia giảng dạy ở nhiều cấp học: cấp II, cấp III, lâu nhất là thời gian giảng dạy ở đại học và nghiên cứu môn Văn học dân gian, Văn học trung đại Việt Nam. Giáo sư đã góp phần đào tạo biết bao thế hệ học trò, trong đó đã có không ít người trở thành chuyên gia trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và những nhà quản lý giữ cương vị trọng trách trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Giáo sư đã viết, biên dịch và xuất bản khá nhiều sách báo, trong đó có trên 30 công trình khoa học mang tính chất chuyên luận thuộc nhiều lĩnh vực, như Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn, Ức Trai thi tập, Văn chương Nguyễn Trãi rực ánh sao khuê...

Với sự cống hiến của mình, GS. Bùi Văn Nguyên đã vinh dự được nhận Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhì.

Giáo sư đã đi xa, nhưng tấm gương học tập, nghiên cứu và những công trình nghiên cứu vẫn còn mãi với chúng ta.

P.V

TB

VỀ HỘI NGHỊ SƠ KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN DỰ ÁN TỔNG THỂ VÀ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH SƯU TẦM DI SẢN HÁN NÔM Ở TRUNG - NAM BỘ

Từ ngày 9 đến ngày 12, tại Khánh Hòa và Lâm Đồng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện kế hoạch Dự án Tổng thể về sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm và bàn kế hoạch triển khai công tác sưu tầm di sản Hán Nôm ở các tỉnh miền Trung - Nam trong thời gian tới. Hội nghị vinh dự có các vị đại biểu: đại diện Vụ Hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính), đại diện ban Kế hoạch Tài chính (Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia) tham dự, cùng cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Hội nghị đã nghe các báo cáo sơ kết đánh giá tình hình thực hiện Dự án Tổng thể trong 5 năm qua trên các mặt công tác: bảo quản, sưu tầm, nghiên cứu và khai thác, thông tin tư liệu công nghệ thông tin, đưa chữ Nôm vào bảng mã chuẩn quốc tế, báo cáo công khai tài chính. Trên sơ sở những thành tựu đã đạt được trong 5 năm qua, Hội nghị đã thảo luận và kiến nghị những giải pháp để tiếp tục triển khai Dự án Tổng thể của Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong thời gian tới được tập trung hơn và hiệu quả hơn. Sau đó, các vị đại biểu và cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tổ chức đợt tham quan thực tế các di tích lịch sử lưu giữ tư liệu Hán Nôm ở hai tỉnh Khánh Hòa và Lâm Đồng.

P.V

TB

TRIỂN LÃM VÀ HỘI THẢO VỀ GIẤY SẮC LONG ĐẰNG VIỆT NAM

Nhân dịp kỉ niệm 30 năm thiết lập mối quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, được phép của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia đã phối hợp với Hội Điều tra ghi chép và Hỗ trợ bảo tồn văn bản cổ thuộc trường Đại học Kibi (Nhật Bản) cùng một số cơ quan của Việt Nam tổ chức triển lãm và Hội thảo về giấy Sắc phong Long Đằng Việt Nam từ ngày 16 đến ngày 22 tháng 6 năm 2003 tại Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam - Nhật Bản.

Giấy Long Đằng được làm từ chất liệu cây dó, là loại giấy rất quí, người Việt Nam thường gọi là giấy Sắc hay giấy Nghè, trên nền giấy có hình rồng phun mây và chỉ dành riêng để viết sắc phong cho các quan lại và thần linh. Tương truyền, xưa kia giấy Long Đằng thường được làm ở làng Nghĩa Đô, sau này các làng khác như Yên Thái và một vài làng khác cũng có làm loại giấy này.

Cuộc trưng bày và Hội thảo về giấy Long Đằng Việt Nam lần này hết sức có ý nghĩa, nhằm giới thiệu về một nghề truyền làm giấy dó ở thủ đô Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Nghề làm giấy dó ở Việt Nam đã từng tồn tại nhiều thế kỷ ở 2 khu vực chính: một là khu vực thành Thăng Long có các làng: Yên Hòa, Hồ Khẩu, Động Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô...; hai là khu vực Kinh Bắc xưa có các làng: Xuân ổ, Đào Thôn, Dương ổ, Châm Khê, Đống Cao... Ngoài ra, ở một số nơi như Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế... cũng có làm giấy dó.

Như mọi người đều biết, di sản Hán Nôm không chỉ những tác phẩm văn học, sử học, địa lý v.v.; mà còn bao gồm cả các loại văn bản như gia phả, thần phả, địa bạ, hương ước, v.v.; cho đến các thứ giấy tờ như văn khế, chúc thư, bằng sắc, lệnh chỉ, v.v. Tất cả, đều được viết trên giấy dó, đó là bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn, nghiên cứu và khai thác phát huy.

P.V

TB

ĐẠI HỘI CHI HỘI NHÀ BÁO
TẠP CHÍ HÁN NÔM

Ngày 21 tháng 6 năm 2003, nhân ngày Báo chí Việt Nam, tại trụ sở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Chi hội nhà báo Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức gặp mặt cán bộ làm công tác Tạp chí và tiến hành Đại hội nhiệm kỳ mới. Đại hội đã đánh giá những hoạt động của Chi hội trong thời gian vừa qua và đề ra phương hướng công tác của Chi hội trong thời gian tới. Đại hội đã bầu PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh làm Chi hội trưởng và TS. Đinh Khắc Thuân làm Thư ký của Chi hội.

P.V