TB

SAO KHUÊ TỎA SÁNG

NGUYỄN HỮU OANH

Hải Dương - mảnh đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa và cách mạng, xưa kia được coi là phên dậu phía Đông của kinh kỳ Thăng Long. Nơi đây đã xuất hiện và hội tụ nhiều danh nhân trên nhiều lĩnh vực của đất nước, mà tên tuổi và sự nghiệp còn sống mãi với thời gian, Nguyễn Trãi là một trong những con người tiêu biểu như vậy. Sự nghiệp, tài năng, đức độ và nhân cách của ông sáng tựa “Sao Khuê”. Sự thực lịch sử đôi khi có thể bị hiểu lệch lạc, song thời gian sẽ trả lại mọi thứ vào đúng vị trí. Sự tham gia của Nguyễn Trãi vào cuộc kháng chiến chống quân Minh, được đánh giá như mở ra một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta ở đầu thế kỷ XV. Bên cạnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi được coi như nhà tham mưu thao lược, nhà quân sự tài ba, nhà ngoại giao kiệt xuất.

Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi sinh năm 1380 tại kinh thành Thăng Long. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh nguyên quán ở thôn Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay là Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau sang dạy học ở làng Ngọc ổi, tức Nhị Khê (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Mẹ ông là Trần Thị Thái con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

Tuổi thơ Nguyễn Trãi được sống với ông Ngoại - Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán ở kinh thành Thăng Long, sau đó về ở Côn Sơn với ông ngoại đến năm lên 10 tuổi, tại đây ông được quan Tư đồ giáo dưỡng rèn cặp để sau này có được chí lớn. Năm 20 tuổi, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và cùng cha là Nguyễn Phi Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, giữ chức Ngự sử đài chánh trưởng. Năm 1407, nhà Hồ mất vì giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt. Nguyễn Trãi định đi theo để phụng dưỡng cha già, nhưng ông đã nghe lời cha trở về tìm cách “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”. Hận nước, thù nhà đã giúp ông có chí cương cường không bị kẻ thù khuất phục. Trong thời gian bị giặc giam lỏng ở thành Đông Quan, ông luôn tìm cách thoát khỏi vòng cương tỏa của địch. Ông đã tìm đến đất Lam Sơn, gặp Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách. Trong suốt 10 năm kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Nguyễn Trãi đã trở thành nhân vật chủ chốt và là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông được Lê Lợi tin cẩn giao cho đảm nhận cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, trực tiếp soạn thảo văn thư trao đổi với tướng giặc.

Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi soạn thảo Bình Ngô đại cáo, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh, khẳng định chủ quyền dân tộc. Bình Ngô đại cáo đã cắm một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tư tưởng và ý thức độc lập dân tộc. Đây không chỉ là áng thiên cổ hùng văn mà còn được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, tạo đà đất nước có một bước phát triển mới, rực rỡ hưng thịnh vào bậc nhất trong thời kỳ phong kiến Việt Nam.

Trong thời gian làm quan dưới triều Lê, Nguyễn Trãi đã có công rất lớn trong việc xây dựng đất nước sau nhiều năm chiến tranh, ông tham gia soạn thảo luật lệ, tổ chức các khoa thi chọn nhân tài, giúp triều đình ban bố chính sách nhằm tổ chức triều chính, thể hiện chính sách nhân dân, cầu hiền, ổn định và phát triển đất nước. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự, nhà chính trị, nhà ngoại giao, ông còn là tác gia hàng đầu trong lịch sử văn hóa nước ta với những tác phẩm lớn có giá trị như: Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Dư địa chí, Quốc âm thi tập, Bình Ngô đại cáo, Phú núi Chí Linh. Ngoài giá trị về văn hóa, những tác phẩm này còn là kết tinh tiêu biểu cho tư tưởng thời đại, tinh hoa khí phách của dân tộc Việt Nam.

Suốt cả cuộc đời Nguyễn Trãi với tư tưởng vì dân, vì nước mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nguyễn Trãi sẽ sống mãi trong trí nhớ và tình cảm của con người Việt Nam ta và chúng ta còn phải làm cho tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Trãi rạng rỡ ra ngoài bờ cõi nước ta”. Năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông, tổ chức UNESCO đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.

Đối với Côn Sơn mảnh đất đã lưu giữ nhiều kỷ niệm về Nguyễn Trãi, nơi chúng ta dựng đền thờ, không chỉ là quê cha, đất tổ mà còn là nơi ông đã sống những năm tháng tuổi thơ với ông ngoại Trần Nguyên Đán. Đối với ông, Côn Sơn là phên dậu - là tiền đồn phía Đông của tổ quốc dưới thời vua Lê Thái Tông. Ngay cả khi ông đã lui về ở Côn Sơn, nhưng nhà vua vẫn tin tưởng giao cho trông coi quân dân 2 đạo Đông Bắc. Côn Sơn một vị trí quân sự chiến lược quan trọng, một không gian thiêng liêng đối với ông thực có ý nghĩa. Những năm tháng sống ở Côn Sơn, ông không lúc nào không trăn trở về vận mệnh:

“Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”.
(Quốc âm thi tập – Thuật hứng 13)

Côn Sơn là nơi ông đã mài bút viết lên nhiều tác phẩm có giá trị sử học, văn học, triết học, quân sự và ngoại giao, đã để lại cho chúng ta một di sản quý báu. Thời gian qua đi, mặc dù nơi ông sống chỉ còn là vết tích, song tư tưởng nhân nghĩa và ý chí quật khởi trong con người ông còn được lưu truyền và khắc đậm ở nơi đây. Ngày nay, du khách về với Côn Sơn là nhớ đến Nguyễn Trãi. Do vậy, đền thờ Nguyễn Trãi được xây dựng là để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân cả nước, và cũng là một mốc lịch sử thắp sáng thêm khí phách, tâm hồn của người anh hùng dân tộc vĩ đại.

Ý tưởng về việc xây dựng tại khu di tích Côn Sơn một khu đền thờ riêng, để người đời sau hành hương về đây thắp một nén nhang cho Nguyễn Trãi, là mong muốn, là ước vọng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương cũng là mong muốn của nhân dân cả nước từ nhiều năm nay. Bằng tất cả tấm lòng ngưỡng mộ và thành kính đối với ông, cách đây hơn 2 năm, ngày 14/2/2000, sau một quá trình chuẩn bị, qua nhiều cuộc hội thảo được sự đóng góp của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia đầu ngành, nhiều nghệ nhân, trên nhiều lĩnh vực, như xây dựng, sử học, hội họa, kiến trúc, Hán Nôm, văn học nghệ thuật v.v...; cùng với quyết tâm cao của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, của các Bộ, Ngành, của nhân dân, đền thờ "Ức Trai” đã chính thức được khởi công xây dựng.

Giờ đây, bên cạnh những công trình của Thiền phái Trúc Lâm, rừng núi Côn Sơn lại tiếp nhận thêm một công trình văn hóa mới, đó là đền thờ Nguyễn Trãi. Đền thờ uy nghi hoành tráng, càng tô điểm thêm, rạng rỡ thêm khu di tích lịch sử đặc biệt quan trọng này. Rồi đây, nhân dân tỉnh Hải Dương nói riêng và du khách thập phương nói chung, phần nào thỏa lòng mong ước, ngưỡng mộ, có chỗ thắp nén hương cho người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Bên cạnh ý nghĩa hết sức lớn lao trong việc tuyên truyền giáo dục thế hệ trẻ hôm nay, lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc. Tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm, lòng vị tha của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi sẽ mãi mãi sáng tựa Sao Khuê.

N.H.O

TB

NGUYỄN TRÃI VỚI CÁC THẾ HỆ
NGƯỜI VIỆT NAM

TRỊNH KHẮC MẠNH

Nhiều thế hệ người Việt Nam từng ngợi ca, đi sâu nghiên cứu và giới thiệu thân thế sự nghiệp của những con người kiệt xuất đã lập nên những chiến công hiển hách, làm rạng rỡ cho non sông Việt Nam trong khu vực và quốc tế. Từ quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng, dân tộc Việt Nam ta đã sản sinh biết bao anh hùng dân tộc, như Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh, v.v.

Năm 2002 này, nhân kỷ niệm 560 năm mất của Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; chúng tôi muốn nói đôi điều về việc sưu tầm, biên dịch các tác phẩm của ông và những công trình, bài viết nghiên cứu, giới thiệu về ông của nhiều thế hệ người Việt Nam.

Nguyễn Trãi 阮 廌 (1380 - 1442), tên hiệu là ức Trai 抑 齋, nguyên quán xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (này là xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương); sau di cư đến ở xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán và là con của Nguyễn Phi Khanh, thi đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất nhà Hồ (1400) và làm chức Chính chưởng Ngự sử đài. Năm 1407, khi giặc Minh xâm lược nước ta và nhà Hồ mất, Nguyễn Trãi bị giặc Minh bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan (nay là Hà Nội). Năm 1418, Nguyễn Trãi cùng Trần Nguyên Hãn trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh. Trong mười năm kháng chiến gian khổ, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi mưu kế về chính trị, quân sự và ngoại giao. Chính Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi thảo những thư từ giao dịch với tướng nhà Minh, những thư ấy gọi là Quân trung từ mệnh. Năm 1428, giặc Minh thua trận ở nhiều nơi phải xin đầu hàng, Nguyễn Trãi lại thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tuyên bố với nhân dân trong cả nước biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh toàn thắng. Vì có công trong cuộc kháng chiến cứu nước, Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ cho theo họ Lê (vì thế còn gọi là Lê Trãi) và phong tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Nguyễn Trãi đã giúp vua Lê Lợi xây dựng chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v. và giữ các chức quan, như: Hàn lâm viện Thừa chỉ, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, v.v. Khi vua Lê Lợi mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần dèm pha nên ông đã xin về nghỉ ở Côn Sơn. Năm 1434, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông(1) triệu ra làm quan và tin dùng. Khi vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, Hải Dương, rồi chẳng may mất ở Lệ Chi Viên (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh); Nguyễn Trãi bị triều thần khép tội đã sai nàng hầu (là Thị Lộ) âm mưu giết vua, nên ông đã bị giết vào ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (tức ngày 19 tháng 9 năm năm 1442). Sau vụ án Lệ Chi Viên, thân thế sự nghiệp và trước tác của Nguyễn Trãi bị lãng quên, một cảnh tượng bi ai tang tóc bao phủ lên một nhân vật đã từng làm cả nước nức lòng trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống giặc Minh (Trung Quốc). Phải đợi đến 22 năm sau, vào năm Quang Thuận 5 (1464), đời vua Lê Thánh Tông(2), thì nghi án về Nguyễn Trãi mới được minh xét. Nguyễn Trãi được triều đình truy phong quan tước cũ và ban cho người con duy nhất của ông còn sống sót là Nguyễn Anh Vũ làm quan Tri huyện. Nguyễn Trãi, bên cạnh sự nghiệp chính trị giúp dân cứu nước, ông còn để lại cho đời khá nhiều tác phẩm hết sức có giá trị khi nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử, địa lý, triết học, quân sự, văn học, ngôn ngữ nước nhà.

Việc tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm của Nguyễn Trãi đã có một qua trình lịch sử lâu dài; kể từ khi Nguyễn Trãi được minh oan, các thế hệ người Việt Nam đã bỏ công sức để sưu tầm, biên tập các tác phẩm của ông. Những công trình, bài viết giới thiệu, nghiên cứu, phiên âm và dịch nghĩa tác phẩm của Nguyễn Trãi số lượng có thể ước tính tới hàng ngàn, chứ không ít(3).

ở thế kỷ XV, vào năm 1467, Trần Khắc Kiệm(4) là người lĩnh ý chỉ của vua Lê Thánh Tông đi sưu tầm các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Sau 13 năm công phu tìm kiếm, Trần Khắc Kiệm đã biên tập các tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lưu giữ lại thành hai tập sách là: Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集 và Quân trung từ mệnh tập 軍 中 詞 命 集 vào năm 1480. Rất đáng tiếc là hai tác phẩm của Nguyễn Trãi mà Trần Khắc Kiệm sưu tầm được, đã không được các quan lại triều đình phong kiến sau này quan tâm lưu giữ, để đến nỗi không bao lâu lại bị thất lạc. Vào thời kỳ này, mặc dù Nguyễn Trãi bị một nghi án là âm mưu giết hại vua; nhưng thân thế, sự nghiệp và văn thơ của ông luôn được người đương thời đánh giá rất cao. Vua Lê Nhân Tông(5) đã nhận xét về Nguyễn Trãi như sau: Nguyễn Trãi là người trung thành giúp Đức Thái Tổ dẹp loạn, giúp Đức Thái Tông sửa sang nền thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng bản triều là không ai sánh bằng(6). Vua Lê Thánh Tông cũng nhận xét về sự nghiệp và văn chương của Nguyễn Trãi như sau: “ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”(7).

Vào thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, Dương Bá Cung (1794 - 1868)(8) người đồng hương với Nguyễn Trãi lại tiếp tục dặm trường đi tìm kiếm các tác phẩm của Nguyễn Trãi từng được Trần Khắc Kiệm sưu tập nhưng đã bị thất lạc. Dương Bá Cung đã bỏ ra nhiều năm, đi nhiều nơi, gặp nhiều người để sưu tầm các tác phẩm của Nguyễn Trãi và ông viết: “Tôi rất yêu quí văn chương của ức Trai tiên sinh, nên đã thu lượm từ lâu....Tôi đi từ Nam ra Bắc, gặp người nào vào hạng sĩ phu cũng liền hỏi dò xem di cảo của của ức Trai tiên sinh có còn lại ở đâu?”(9). Sau khi tìm được các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Dương Bá Cung đã cùng Nguyễn Năng Tĩnh(10), Ngô Thế Vinh(11) tham gia biên tập, hiệu đính, phân loại và đề tựa. Mãi đến năm Mậu Thìn (1868) đúng vào cái năm mà Dương Bá Cung từ trần thì các tác phẩm của Nguyễn Trãi mới được in xong tại nhà in Phúc Khê, với tên đề: Ức Trai di tập 抑 齋 遺 集, gồm 7 quyển. Việc cho khắc in các tác phẩm của Nguyễn Trãi đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc sưu tầm và giữ gìn các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Trong thời gian này, các đại gia trí thức phong kiến cũng đã đánh giá rất cao thân thế sự nghiệp và trước tác của Nguyễn Trãi. Lê Quí Đôn(12) trong Kiến văn tiểu lục đã nhận xét về Nguyễn Trãi “Nguyễn Trãi là cháu ngoại quan Chương Túc hầu nhà Trần và là con Nguyễn Phi Khanh, đậu Tiến sĩ triều nhà Hồ, đã có sẵn thanh danh vị vọng. Khi vào yết kiến (Bình Định vương) ở Lỗi Giang, liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng suý nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất trong một đời, chức vị là Thượng thư, cấp bậc là công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua, hết lòng trung thành, dâng lời khuyên răn, thường bị đè nén, mà không chịu khuất phục”(13). Ngô Thời Sĩ(14) nhận xét về Nguyễn Trãi như sau: “Sĩ phu cuối thời Trần, Nguyễn ức Trai là người giỏi tột bậc”(15). Khi đề tựa cho bộ ức Trai di tập, Nguyễn Năng Tĩnh đã viết về thân thế, sự nghiệp và văn chương của Nguyễn Trãi như sau: “Học vấn của tiên sinh sở đắc, bắt nguồn từ trong gia đình, mà văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn, là tự tiên sinh rèn luyện phát huy được... Người như tiên sinh, chẳng phải là bậc “danh thế” nước Việt ta thì còn ai nữa?”(16). Và Ngô Thế Vinh cũng nhận xét về Nguyễn Trãi như sau: “Công của ức Trai tiên sinh còn với sông Lô núi Tản, chẳng phải đợi có văn chương rồi mới lưu truyền, mà văn của tiên sinh gốc ở tính tình, học vấn, cũng chẳng đợi có ai tán dương rồi mới được sáng tỏ”(17)

Như vậy, nhờ công lao sưu tập của Trần Khắc Kiệm, của Dương Bá Cung và việc nhà in Phúc Khê cho khắc in các tác phẩm của Nguyễn Trãi mà hôm nay chúng ta mới lưu giữ được các tác phẩm của Nguyễn Trãi, như:

- An Nam vũ cống 安 南 禹 貢.

- Đại Việt địa dư chí 大 越 地 輿 志.

- Lê triều cống pháp 黎 朝 貢 法.

- Nam quốc vũ cống 南 國 禹 貢.

- Nam Việt dư địa chí 南 越 輿 地 志.

- Quân trung từ mệnh tập 軍 中 詞 命 集.

- Quốc âm thi tập 國 音 詩 集.

- Ức Trai thi tập 抑 齋 詩 集.

- Ức Trai di tập 抑 齋 遺 集.

- Ngoài ra thơ, văn của Nguyễn Trãi còn có trong các sách, như: Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書, Nguyễn Phi Khanh thi văn tập 阮 飛 卿 詩 文 集, Hoàng Việt tùng vịnh 皇 越 叢 詠, Hoàng Việt địa dư chí 皇 越 地 輿 志, Hoàng Việt thi tuyển 皇 越 詩 選, Hoàng Việt văn tuyển 皇 越 文 選, Toàn Việt thi lục 全 越 詩 錄, Việt âm thi tập 越 音 詩 集, v.v..

Kể từ đầu thế kỷ XX, người Việt Nam chuyển sang sử dụng chữ cái La tinh (nay thường gọi là chữ Quốc ngữ) và sự thật là nhiều thế hệ người dân Việt Nam hôm nay không đọc được các văn bản viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Để góp phần gìn giữ, bảo quản và khai thác di sản Hán Nôm nói chung và giới thiệu các tác phẩm của Nguyễn Trãi nói riêng; giới nghiên cứu Hán Nôm không những vẫn tiếp tục việc sưu tập thơ văn của Nguyễn Trãi, mà còn có một nhiệm vụ mới là phiên âm dịch nghĩa và giới thiệu các tác phẩm của ông sang chữ Quốc ngữ, nhằm quảng bá sâu rộng và nêu lên những giá trị của các tác phẩm đó với công chúng bạn đọc người Việt Nam không biết chữ Hán và chữ Nôm.

Tác phẩm của Nguyễn Trãi được dịch ra chữ Quốc ngữ và công bố rộng rãi, theo chúng tôi được biết thì Bình Ngô đại cáo được dịch và giới thiệu vào năm 1916(18), Quân trung từ mệnh tập được dịch và giới thiệu vào năm 1927(19), Ức Trai thi tập được tuyển dịch và giới thiệu vào năm 1945(20), Quốc âm thi tập được phiên âm và giới thiệu vào năm 1956(21), Dư địa chí được dịch, chú thích và giới thiệu vào năm 1960(22), Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi được dịch và giới thiệu và năm 1962(23), v.v. Sau này, chúng ta đã phiên âm, dịch nghĩa và giới thiệu các tác phẩm của Nguyễn Trãi theo toàn tập và tuyển tập, như: Nguyễn Trãi toàn tập(24), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên(25), Nguyễn Trãi anh hùng dân tộc(26), Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi(27), Nguyễn Trãi tác gia tác phẩm(28), Nguyễn Trãi thơ và đời(29), v.v. Ngoài ra, trong nhiều hợp tuyển thơ văn cũng thấy trích dịch và giới thiệu tác phẩm của Nguyễn Trãi, như: Thi văn Việt Nam(30), Hoàng Việt thi văn tuyển(31), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(32), Tổng tập văn học Việt Nam(33), v.v.. Trên cơ sở những tác phẩm của Nguyễn Trãi đã được dịch, chú thích và giới thiệu cùng với các tài liệu khác, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở thế kỷ XX đã đạt những thành tựu to lớn khi nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp và trước tác của Nguyễn Trãi. Các công trình, bài viết nghiên cứu về Nguyễn Trãi rất đa dạng và phong phú, nhưng tất cả đều toát lên cảm hứng ngợi ca và khẳng định: Nguyễn Trãi người anh hùng vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa Việt Nam và thế giới, Nguyễn Trãi nhà chính trị - nhà tư tưởng - nhà quân sự - nhà ngoại giao - nhà văn hóa, Nguyễn Trãi cả cuộc đời vì quốc gia Đại Việt- vì nhân dân Đại Việt v.v. Những công trình, bài viết nghiên cứu về Nguyễn Trãi được công bố ở trong nước và ngoài nước, nếu kê ra có tới hàng trăm trang, chúng tôi rất mong một thư mục đầy đủ về Nguyễn Trãi tính đến hết thế kỷ XX được triển khai và sớm ra mắt cùng độc giả.

Ở thế kỷ XX, có lẽ Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật lịch sử Việt Nam được tổ chức kỷ niệm năm sinh và năm mất khá nhiều ở vào các thời kỳ lịch sử khác nhau, để các thế hệ người Việt Nam hôm nay cùng nhân dân các nước trên thế giới hiểu thêm và tôn vinh Nguyễn Trãi. Một trong những lễ kỷ niệm về Nguyễn Trãi có thể coi là điểm mốc, như: năm 1967 kỷ niệm 525 năm mất và sau đó là bộ Nguyễn Trãi toàn tập ra đời, năm 1980 kỷ niệm 600 năm sinh và việc Tổ chức UNESCO thế giới công nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá thế giới, năm 2002 kỷ niệm 560 năm mất và việc Bộ văn hoá - Thông tin cùng Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương xây dựng Đền thờ Nguyễn Trãi tại khu di tích Côn Sơn, v.v.

Thay cho lời kết, chúng tôi xin trích hai ý kiến của những người sống ở thế kỷ XX đánh giá về Nguyễn Trãi. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Nguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn, văn là chính trị, chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị, ngoại giao, “mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn ngàn thu” (Bình Ngô đại cáo); võ là quân sự, chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều.....thắng hung tàn bằng đại nghĩa” (Bình Ngô đại cáo); văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao”(34). Ngài AMADOU - MAHTAR MBOW, Tổng giám đốc UNESCO khi nhận xét về Nguyễn Trãi đã viết; “Những người chuyên nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Trãi khẳng định rằng không thể tiến hành một sự lựa chọn cắt xén trong công trình của ông. Mỗi thành tố trong bộ óc sớm uyên thâm của ông gắn liền với những thành tố khác: nhà thơ không tách khỏi nhà ngoại giao; nhà triết học, khỏi nhà chính trị; nhà đạo đức học khỏi nhà hành động. Cuộc đời và sự nghiệp của ông, hành vi và tư tưởng của ông cùng tiến triển và chín muồi cho tới lúc hoàn mãn, theo những đòi hỏi của thế kỷ XV ở Việt Nam”(35).

T.K.M

CHÚ THÍCH

(1) Lê Thái Tông (1423 - 1442), ông làm vua được 8 năm (1433- 1442).

(2) Lê Thánh Tông (1442 - 1497), ông làm vua được 38 năm (1460 - 1497).

(3) Tại Thư mục sách báo tham khảo trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (tập 3), Nxb. Văn học, 2000; có đưa ra danh sách với 476 đơn vị bao gồm: Tác phẩm của Nguyễn Trãi. Bản dịch và phiên âm. Hợp tuyển và tác phẩm Nguyễn Trãi. Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi. Theo chúng tôi, nếu lập một thư mục về Nguyễn Trãi thì con số sẽ là hàng nghìn.

(4) Trần Khắc Kiệm, năm sinh và năm mất chưa rõ, thân thế và sự nghiệp cũng chưa rõ, được biết ông sống vào thế kỷ XV thời vua Lê Thánh Tông.

(5) Lê Nhân Tông ( 1441 - 1459 ), ông làm vua được 18 năm (1442 - 1459).

(6) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, H. 1999, tr.15.

(7) Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Mai Xuân Hải (chủ biên), Nxb. KHXH., H. 1994, tr. 218.

(8) Dương Bá Cung (1794 - 1868), hiệu là Cấn Đình 艮 亭, người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay thuộc Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Ông thi đỗ Cử nhân năm Tân Tỵ, niên hiệu Minh Mệnh 2 (1821) đời vua Nguyễn Thánh Tổ.

(9) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 52.

(10) Nguyễn Năng Tĩnh (? - ?) hiệu là Đông Hiên, Mai Hoa Đường và tự là Phương Đình; người xã Thịnh Trường, huyện Chân Lộc (nay thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Ông thi đỗ Hương cống năm Kỷ Mùi, năm Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế Tổ.

(11) Ngô Thế Vinh (1803 - 1856), hiệu là Trúc Đường, Dương Đình, Khúc Giang và tự là Trọng Nhượng, Trọng Dực, Trọng Phu; người xã Bái Dương, huyện Nam Chân (nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông thi đỗ Cử nhân năm Mậu Tý, niên hiệu Minh Mệnh 9 (1828) và thi đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mệnh 10 (1829) đời vua Nguyễn Thánh Tổ.

(12) Lê Quý Đôn (1726 - 1784), hiệu là Quế Đường và tự là Doãn Hậu, người xã Diên Hà, phủ Tiên Hưng (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông.

(13) Lê Quí Đôn: Kiến văn tiểu lục (bản dịch), Nxb. KHXH, H. 1977, tr. 265-266.

(14) Ngô Thời Sỹ (1725 – 1780), hiệu là Ngọ Phong Tiên sinh và Nhị Thanh Cư sĩ, tự là Thế Lộc; người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội).

(15) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 57.

(16) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 46.

(17) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 50.

(18) Trần Trọng Kim trong Sơ lược An Nam sử học, (các tác phẩm của Nguyễn Trãi có thể được dịch ra Quốc ngữ còn sớm hơn).

(19) Phó Đức Đôn dịch và chú trong Cổ văn trích dịch, Nam Định, 1927.

(20) Trúc Khê tuyển chọn và dịch, Lê Cường, 1945.

(21) Trần Văn Giáp và Phan Trọng Điềm phiên âm và chú giải, H. Văn Sử Địa, 1956.

(22) Phan Huy Tiếp dịch và Hà Văn Tấn chú thích, H. Sử học, 1960.

(23) Phan Võ, Lê Thước và Đào Phương Bình dịch và chú thích, H. Văn học, 1962.

(24) Viện Sử học giới thiệu, Nxb. KHXH, H. 1969 và tái bản năm 1976.

(25) Trung tâm Nghiên cứu Quốc học giới thiệu, Nxb. Văn học, 1999.

(26) Ngô Văn Triện giới thiệu, Trúc Khê thư xã, H. 1953.

(27) Ban Hán Nôm giới thiệu, Nxb. KHXH, H. 1980.

(28) Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Sđd, H. 1999.

(29) Nguyễn Xuân giới thiệu, Nxb. Văn học, H. 1999.

(30) Hoàng Xuân Hãn: Thi văn Việt Nam, Sông Nhị, 1951.

(31) Lê Thước, Trịnh Đình Rư và Nguyễn Sĩ Lâm tuyển dịch và giới thiệu, H. Văn hóa, 1957 - 1958.

(31) Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên và Nguyễn Ngọc San tuyển dịch và giới thiệu, H. Văn hóa, 1960 - 1961.

(33) Tổng tập văn học Việt Nam (nhiều tập), Nxb. KHXH.

(34) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.8.

(35) Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr.1023 - 1024.


TB

NGUYỄN TRÃI Ở NƯỚC NGOÀI: MỘT SỐ CÔNG TRÌNH VÀ DỊCH THUẬT

NGUYỄN NAM

Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật lịch sử Việt Nam được các học giả ở nước ngoài đặc biệt chú ý nghiên cứu.(1). Nay xin giới thiệu khái lược một số luận án, tiểu luận, chuyên đề và công trình phiên dịch liên quan đến Ức Trai, công bố ở hải ngoại.

Trong số các luận án, Etude du consonantisme du Quốc âm thi tập (Nghiên cứu hệ thống phụ âm đầu của Quốc ©m thi tập, Luận án Tiến sĩ đệ tam cấp, 203 trang, hiện lưu tại Thư viện I. N. A. C. O. - Pháp) do Gaston Nhẫn bo vÖ ở Paris năm 1967 có thể xem là công trình sớm nhất nghiên cứu tác phẩm Nôm của Nguyễn Trãi từ góc độ ngữ âm học lịch sử được thực hiện ở nước ngoài. Năm 1968, vai trò lịch sử của Nguyễn Trãi cũng được đề cập đến trong Luận án Tiến sĩ: The Development of Lê Government in Fifteenth Century Vietnam (Sự phát triển của chính quyền nhà Lê ở Việt Nam thế kỷ XV) của John Kremers Whitmore (Đại học Cornell, Hoa Kỳ). Mười lăm năm sau (1983), Esta Serne Ungar tiếp tục khảo sát về triều Lê trong Luận án Tiến sĩ: Vietnamese Leadership and Order: Đại Việt under the Lê Dynasty (1428 - 1459) (Quyền lãnh đạo và trật tự: Đại Việt dưới triều Lê (1428 - 1459), Đại học Cornell. Qua gần 400 trang Luận án, các tư tưởng “nhân nghĩa,” “an dân,” “tiên ưu”, “văn trị” để “huấn đạo dân” do Nguyễn Trãi cổ súy được Ungar phân tích như những thành tố ảnh hưởng sâu đậm đến việc kiến tạo và duy trì nhà Lê suốt mấy thập kỷ của thế kỷ XV.

Nhiều tiểu luận và chuyên đề nghiên cứu về Nguyễn Trãi từ các góc độ lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ cũng được gửi đến độc giả trong những thập niên 50-70, nở rộ trong những năm 80 nhân kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi, và tiếp tục trong thập niên cuối của thế kỷ XX.

Tiếp theo công trình Bibliographie annamite (Thư mục Việt Nam, Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême - Orient, 34 (1934), tr.1-173), trong thập niên 50, Giáo sư Emile Gaspardone công bố một loạt nghiên cứu về Nguyễn Trãi. Trước tiên là tập bài giảng La vie et les oeuvres de Nguyễn Tr·i (Cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Trãi, soạn trong khoảng 1952 - 1954), sau tóm lược ở Biographie de Nguyễn Trãi (Thư mục Nguyễn Trãi) in ở Annuaire du collège de France (Niên giám §ại học Pháp, 1954, tr.252-254). Cũng trong năm 1954, ông công bố La supplique aux Ming de Lê Lợi trong Silver Jubilee Vol. of the Zinbun - Kayaku Kenkyusyo, Kyoto, tr.158-166. Liên tiếp hai năm sau (1955 - 1956), trên Annuaire du collège de France, ông lại có bài Lam Sơn thực lục - Chronique ou Relation véritable (1955: tr.244-245; 1956: tr.290 -292).

Năm 1961, Revue Europe (Tạp chí châu Âu, số 377-378) có bài đặc biệt về văn học Việt Nam (Littérature du Vietnam), trong đó có phần giới thiệu về Nguyễn Trãi (tr.106-110).

Năm 1969, trong Introduction à la littérature vietnamienne (Dẫn nhập vào văn học Việt Nam, G. P. Maisonneuve et Larose et UNESCO), Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân có chương Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập, khẳng định giá trị chân thực của tập thơ Nôm và phủ nhận việc gán Lê triều tướng công Nguyễn Trãi gia huấn ca cho Ức Trai.(2)

Stephen O’Harrow viết Nguyễn Trãi’s ‘Bình Ngô đại cáo’ of 1428: The Development of a Vietnamese national identity (Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi năm 1428: Sự phát triển của bản thể dân tộc Việt Nam), Journal of Southeast Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á), Singapore, số 10:1, 3/1979, tr.159-174).

Tháng 5/1980, Revue Europe (Tạp chí châu Âu, số 613) kỷ niệm Nguyễn Trãi, dưới tiêu đề Nguyễn Trãi, Classique vietnamien du XVè siècle (Nguyễn Trãi, khuôn mặt cổ điển Việt Nam thế kỷ XV, tr.3-102). Tháng 10/1980, Tập san Khoa học Xã hội (Pháp) ra số 7, số đặc biệt về Nguyễn Trãi, với các bài: Lời thề Lũng Nhai (Hoàng Xuân Hãn), Quốc ©m thi tập của Nguyễn Trãi - Tập thơ Việt Nam đầu tiên (Đặng Tiến); Nguyễn Trãi trước cuộc sống và cái chết: Một người trọn vẹn (Tạ Trọng Hiệp); Vài nhận xét về âm nhạc Việt Nam ở thời đại Nguyễn Trãi (Trần Văn Khê); Chung quanh Nguyễn Trãi (Đinh Trọng Hiếu); Một ít thư mục về Nguyễn Trãi (Nguyễn Xuân Linh).(3) Cũng trong tháng 10/1980, Hội nghị khoa học quốc tế kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi tổ chức tại Hà Nội đã thu hút nhiều học giả nước ngoài với các tham luận đáng chú ý như: Présence de Nguyễn Trãi, chantre de la viêtnamité (Phong cách Nguyễn Trãi, người vinh danh tính cách Việt Nam) của Pierre - Richard Féray, Nguyễn Trãi et l’humanisme de la Renaissance (Nguyễn Trãi và chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng) của Charles Fourniau, Đất nước và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Trãi của N. Niculin.(4)

Trên Approches Asie (Hoàn cảnh châu Á, số 6, tháng 1-3/1981), Xuân Phúc có bài Nguyễn Trãi, homme Vietnamien (Nguyễn Trãi, con người Việt Nam, tr.1-4); Võ Văn Ái cã bµi: Nguyễn Trãi: Sinh thức và hành ®ộng (Quê Mẹ, Paris, 1981).

GS. Nguyễn Đình Hòa đặt vấn đề The Case of song viết in archaic Vietnamese (Trường hợp song viết trong tiếng Việt cổ) ở Vietnam Forum (Diễn ®àn Việt Nam, số 6, Hè - Thu 1985, tr.58-72).

Năm sau, GS. O. W. Wolters viết A Stranger in his own land: Nguyễn Trãi’s Sino - Vietnamese poems written during the Ming occupation (Khách tha hương trên chính quê mình: Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi viết trong thời thuộc Minh, Vietnam Forum, số 8, Hè - Thu 1986, tr.60-90), phân tích 7 bài thơ trong chùm thơ 17 bài mà học giả Đào Duy Anh gọi là “Thơ làm trong khi chưa thành công”.(5)

Năm 1987, Paul Schneider và nhóm biên soạn dịch toàn bộ Quốc ©m thi tập sang tiếng Pháp, với lời giới thiệu và phần nghiên cứu ngữ âm lịch sử (Nguyễn Trãi et son recueil de poèmes en langue nationale, Editions du Centre national de la recherche scientifique, Paris). Cũng trong năm này, trong quyển Hán văn văn học tại An Nam ®ích hưng thÝ 漢 文 文 學 在 安 南 的 興 替, Trịnh Vĩnh Thường 鄭 永 常 có riêng một tiết phân tích Khai quốc văn học gia Nguyễn Trãi (Đài Loan Thương vụ Ên thư quán, tr.133-136).

Năm 1989, dựa trên cơ sở khảo cứu công phu, Dix mille printemps (Vạn Xuân, Julliard, Paris) của Yveline Féray ra mắt người đọc. Qua bút pháp tiểu thuyết lịch sử, bộ sách lần đầu tiên t¸i t¹o và giới thiệu một cách hoành tráng Nguyễn Trãi cùng thời đại của ông đến độc giả phương Tây.

Năm 1997, tại Hội nghị Hội Nghiên cứu châu Á (AAS, Hoa Kỳ), Stephen O’Harrow trình bày báo cáo Parallel foundations: Nguyễn Trãi’s biography of Lê Lợi (Những nền tảng tương đồng: Tiểu sử Lê Lợi do Nguyễn Trãi soạn), khảo sát Lam Sơn thực lục, chỉ ra những điểm tương đồng trong bản hành trạng của Lê Lợi, người sáng lập triều Lê, do Nguyễn Trãi soạn thảo và trong tiểu sử của Lưu Bang, người sáng lập nhà Hán, đọc được ở Sử ký. Tác giả phân tích nguyên do của những tương đồng trên, nghiên cứu vai trò Lam Sơn thực lục (viết bằng Hán văn, và tất nhiên đến với độc giả Việt Nam cũng như Trung Hoa) trong nỗ lực xây dựng một chính thể đặc thù Việt Nam trong thế giới Hán hóa.

Năm 1998, tạp chí War, Literature, and the Arts (Chiến tranh, văn học và nghệ thuật, số Thu - Đông, 10:2) có bài của Trần Văn Định, A Lotus of everlasting fragrance: Nguyễn Trãi, 1380 - 1442 (Sen mãi ngát hương: Nguyễn Trãi, 1380 - 1442) giới thiệu khái quát về cuộc đời và văn chương Ức Trai, nhấn mạnh giá trị nhân văn và tư tưởng nhân nghĩa của ông.

Thơ của Nguyễn Trãi đã được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh từ khá sớm. Ví như Ưng Quả công bố Un texte vietnamien du XVÌ siècle: le Bình Ngô đại cáo (Một bản văn Việt Nam thế kỷ XV: Bình Ngô đại cáo, Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême - Orient, 46 (1952), tr.279-295), hay Nguyễn Ngọc Bích, Burton Raffel và W.S. Merwin, A Thousand Years of Vietnamese Poetry (Nghìn năm thi ca Việt Nam, Alfred A. Knopf, New York, 1975). Nhưng đáng chú ý hơn cả là 114 bài thơ (Hán và Nôm) của Nguyễn Trãi được GS. Huỳnh Sanh Thông dịch và giới thiệu trong The Heritage of Vietnamese Poetry (Di sản thi ca Việt Nam, Yale University Press, New York và London, 1979).

Cuối cùng, tưởng cũng nên nhắc đến những cố gắng nhằm giới thiệu Nguyễn Trãi đến với thế hệ con em Việt kiều ở nước ngoài. Năm 1990, tập Nguyễn Trãi và bản Bình Ngô ®ại cáo (tập 26 trong bộ Việt sử bằng tranh, Quê Hương, Canada) do nhóm Bùi Văn Bảo, Tạ Thúc Bình, Bùi Đình Mạc, và Bùi Phương Thế, in ba thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp, 88 trang) đến tay bạn đọc trẻ.

N.N

CHÚ THÍCH

(1) Rất nhiều từ điển trên thế giới đã có mục từ “Nguyễn Trãi,” chẳng hạn Jaroslav Prusek (chủ biên), Dictionary of Oriental Literature, II, South and South - East Asia (Từ điển văn học phương Đông, II, Nam và Đông Nam Á), George Allen và Unwin Ltd., London, 1974, tr.110; hay Danny J. Witfield, Historical and Cultural Dictionary of Vietnam (Từ điển lịch sử và văn hóa Việt Nam), Scarecrow Press, Metuchen, NJ, 1976, tr.369.

(2) Năm 1985, sách được D. M. Hawke dịch sang tiếng Anh, An Introduction to Vietnamese Literature, Columbia University Press, New York, 1985. Cũng xem E. Nordemann, Tướng công Nguyễn Chại [Trãi] Gia huấn ca - Instructions familiales de Nguyễn Chại [Trãi], homme d’Etat annamite de la dynastie des Lê, Hanoi, 1894.

(3) Trong số này cũng có bài của Gs. Đào Duy Anh: Về bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi (tr.37-42).

(4) Riêng về bài viết của N. Niculin, tham khảo N. Niculin: Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, 2000, tr.143-151.

(5) Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.252.

TB

CHỨC QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ VỊ THẾ CỦA ÔNG TRONG TRIỀU ĐÌNH NHÀ LÊ

ĐINH KHẮC THUÂN

Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc, huân nghiệp của ông gắn liền với sự nghiệp vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV. Cống hiến của Nguyễn Trãi trong sự nghiệp vệ quốc này vô cùng lớn lao, song lẽ cuộc đời công danh của ông lại hết sức thăng trầm, thậm chí kết cục phải chịu oan án "chu di tam tộc". Đã có không ít công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này(1), nhân 560 năm tròn xảy ra cái oan án cay nghiệt này đối với một thiên tài có một không hai của đất nước, chúng tôi mong muốn được góp bàn đôi điều, thay vì thắp một nén nhang cho vong linh người khuất.

Về tiểu sử và nhất là chức quan của Nguyễn Trãi, chúng ta hầu như chỉ đọc được đôi chỗ ghi chép không thật chi tiết trong các chính sử, trong đó tiêu biểu là trong Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư). Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra được những chức quan chủ yếu của ông trong từng giai đoạn cụ thể.

Chức quan của Nguyễn Trãi được Toàn thư ghi lại lần đầu tiên vào năm 1427, qua đoạn văn sau đây: "Lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành Khu mật viện sự"(2). Như vậy là thời kì đầu đến với khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng 1416 - 1418), dâng Bình Ngô sách(3), Nguyễn Trãi đã được phong chức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ.

Như chúng ta đã biết, Hàn lâm viện ngày trước không phải là cơ quan khoa học, mà là nơi bao gồm người có tài văn học, giúp vua soạn thảo thơ văn, chiếu chỉ, được thiết lập ở Việt Nam từ thời Lí(4). Thừa chỉ là chức quan đứng đầu của Hàn lâm viện, như Đinh Củng Viên, Thái sư đời Trần Nhân Tông từng giữ chức Hàn lâm học sĩ Phụng chỉ, soạn tờ chiếu thay vua(5). Chức quan Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ của Nguyễn Trãi ở thời kì đầu nhà Lê là theo chế độ thời Trần. Có vị thế rất lớn trong triều đình, như một quan đầu triều. Với cương vị này, Nguyễn Trãi đã mang hết tài năng, góp sức với Lê Lợi chỉ huy kháng chiến thắng lợi và đấu tranh ngoại giao với nhà Minh. Thực tế, chính Nguyễn Trãi được giao soạn thảo và trao đổi các công văn, thư từ với nhà Minh(6).

Khi kháng chiến đang tiến dần đến thắng lợi hoàn toàn, Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi được phong làm "Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành Khu mật viện sự"(7).

Trong các chức danh trên, thì Triều liệt đại phu là hàm tản quan, tương đương Tòng tam phẩm. Hành khiển là chức quan có từ thời Lý - Trần. Lúc đầu chức này dùng cho các hoạn quan, điều hành việc hành chính trong cung, như Lý Thường Kiệt, Lý Thường Hiến thời Lý từng được ban chức này. Sau đó từ năm 1267 thời Trần, chức Hành khiển bắt đầu được dùng cho người có văn học. Còn Nhập nội là danh xưng của các chức quan thân tín của vua, như Nhập nội Hành khiển, Nhập nội Đại Tư mã, Nhập nội Đô đốc, Nhập nội Kiểm hiệu,… Nhập nội hành khiển thực chất là chức danh của á tướng có từ thời Lý - Trần, như Trần Khắc Chung từng giữ chức Nhập nội Hành khiển Đồng bình chương sự, năm 1348(8). Nguyễn Trãi trong suốt cuộc kháng chiến, luôn ở bên cạnh vua trù tính mọi việc từ việc quân cơ đến việc ngoại giao: "Bấy giờ vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề. Hàng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc; cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ đi lại"(9). Nhập nội hành khiển tuy là chức á tướng, nhưng trong giai đoạn này, khi mà có rất nhiều chức quan đại thần khác như "Tả hữu tướng quốc, Thái phó, Thái bảo vẫn còn chưa đặt"(10), thì vai trò của Nguyễn Trãi càng vô cùng quan trọng.

Lại bộ là bộ đứng đầu trong Lục bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, cơ quan hành chính trực tiếp giúp vua điều hành chính sự. Chức trách của Thượng thư bộ Lại là bổ dụng quan lại trong cả nước. Tuy nhiên lúc này khi cuộc kháng chiến đang dần đến thắng lợi hoàn toàn, việc bổ dụng quan lại, về thực chất là thiết lập bộ máy Nhà nước ngày càng hoàn thiện tương xứng với vị thế của một vương triều mới được ra đời bằng chiến công chống ngoại xâm oanh liệt.

Kiêm hành Khu mật viện sự, là sự kiêm nhiệm công việc của Khu mật viện. "Kiêm" là từ dùng chỉ chức quan này kiêm nhiệm thêm chức danh khác mà không có sự phân biệt cao thấp, sang hèn. Còn "hành" thì dùng chỉ chức quan cao đảm nhận thêm công việc của chức quan khác thấp hơn(11) - Khu mật viện. Khu mật viện vốn được đổi từ Sùng chính viện vào năm 923 thời Hậu Đường. Khu mật viện được thiết lập ở Việt Nam qua các đời Lý, Trần, Lê, sau cùng được đổi thành Cơ mật viện vào thời Nguyễn, là cơ quan quân sự tối cao, nắm quân quốc cơ vụ, biên bị, binh mã… Như vậy là chức quan ở Khu mật viện thấp hơn chức quan mà Nguyễn Trãi đang giữ là Thượng thư bộ Lại và Nhập nội Hành khiển. Vì thế khi nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta thường chỉ nhắc đến chức quan cao nhất của ông là Hành khiển, hoặc Thừa chỉ, nên thường gọi là Hành khiển Nguyễn Trãi, hoặc Thừa chỉ Nguyễn Trãi. Với các chức danh trên, Nguyễn Trãi là quan đại thần thân tín của vua Lê, giúp vua điều hành cả việc quân và chính sự.

Sau chiến thắng ban thưởng công danh, năm 1428 Nguyễn Trãi được phong tước "Quan phục hầu", và các chức danh đầy đủ của ông là "Tuyên phụng đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ Hữu gián nghị đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, tứ Kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, tứ tính Lê Trãi"(12).

"Tuyên phụng đại phu" là hàm tản quan, nhưng cũng có ý nghĩa của quan đại phu phụng mệnh vua tuyên đọc các chiếu chỉ. Trong các chức tiếp sau, có "Môn hạ" và "Trung thư" tức "Môn hạ sảnh" và "Trung thư sảnh", hai trong Tam sảnh (Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh và Thượng thư sảnh), cơ quan văn phòng của vua. Theo quan chế nhà Trần và đầu nhà Lê, thì Môn hạ sảnh chia làm Tả ty và Hữu ty. Trong đó có Hữu Gián nghị đại phu là chức quan giám sát, có chức năng can gián vua được đặt ở đây để nắm việc bổ nhiệm đúng sai, nghị luận việc triều chính khuyết sót. "Đồng Trung thư lệnh sự" chỉ sự kiêm nhiệm công việc của Trung thư lệnh, chức trưởng quan giúp vua bàn việc chính sự lớn. "Tứ Kim ngư đại" là được ban cái túi thêu con cá vàng, một đặc ân đối với đại thần từ quan tam phẩm trở lên. "Thượng hộ quốc" là một huân hàm dùng để tặng riêng cho người có công lao lớn. Quan phục hầu là phẩm tước gia ban mà cao nhất là Huyện Thượng hầu, cũng thời gian này được ban cho Lê Vấn, á Thượng hầu ban cho Lê Ngân, hai vị khai quốc công thần của nhà Lê(13). Tứ tính Lê Trãi là Nguyễn Trãi được đặc ân ban quốc tính, tức được đổi theo họ của nhà vua.

Với những chức tước nêu trên ở thời điểm ngay sau chiến thắng ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã có một vị thế lớn trong triều đình nhà Lê, như một trong những vị khai quốc công thần.

Tuy nhiên sau đó không lâu, nhất là sau sự kiện tự trẫm của Trần Nguyễn Hãn và cái chết của Phạm Văn Xảo, hai vị đại thần và là người thân tín của Nguyễn Trãi, ông dần dần bị hạn chế quyền hành. Chẳng vậy mà trong lạc khoản bài văn bia soạn cho lăng mộ Lê Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), Nguyễn Trãi chỉ tự đề là: "Vinh lộc đại phu, Nhập nội hành khiển tri Tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn"(14). Chúng ta biết rằng, Tam quán tức Chiêu văn quán, Tập hiền viện và Sử quán, coi việc sưu tập điển tịch, đồ thư và soạn sử. Rõ ràng là Nguyễn Trãi chỉ đảm nhận những chức vị hết sức khiêm tốn. Ngay cả đặc ân ban quốc tính, cũng không thấy nêu ở đây. Trong những năm cuối của vua Lê Thái Tổ và những năm đầu của Lê Thái Tông, quyền hành trong triều đình rơi cả vào tay bọn lộng thần, nhất là Đại tư đồ Lê Sát và Đô đốc Lê Vấn. Nguyễn Trãi chủ yếu chỉ được giao cho san định lễ nhạc, sử sách, như từng hiệu đính nhã nhạc, định quy chế mũ áo... Tuy nhiên đây lại là dịp tốt để ông thực hiện một số đường lối cải cách văn hóa, giáo dục.

Nhưng rồi sau đó, với nhân cách và tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã được Lê Thái Tông khôi phục quyền chức và được trọng dụng mà trong biểu tạ ơn năm 1439 ghi là "Vinh lộc đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu gián nghị đại phu kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, á đại trí tự, tứ quốc tính Lê Trãi"(15). Như vậy, hầu như các chức tước cũ của Nguyễn Trãi đã được khôi phục, trừ chức Lại bộ Thượng thư, bởi chức này đã do người khác đảm trách. á đại trí tự là tước phong cao thứ hai, sau Đại trí tự. Ngoài ra, ông còn được giao chức danh mới là "đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự", chức trách quản lí chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, một danh thắng từng được ông ngoại của Nguyễn Trãi là Tư đồ Trần Nguyên Đán tu tạo và là nơi chính Nguyễn Trãi đã ở khi nhỏ và lúc tuổi già. Trong bài biểu tạ ơn, Nguyễn Trãi tỏ ra rất xúc động "Chức giữ Đông đài, thực việc triều đình rất trọng; việc kiêm Tam quán, ấy điều Nho giả cực vinh. Huống ban quốc tính, dễ rạng tông môn; lại với công thần xếp cùng hàng liệt. Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng…"(16). Nguyễn Trãi đã coi việc "kiêm Tam quán", công việc về văn hóa, giáo dục là cực vinh. Đây chính là ý thức về lòng tự hào nền văn hiến của dân tộc và trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ mai sau. Chính năm 1442, triều đình nhà Lê đã mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên, trong đó vua Lê Thái Tông thân hành ra đề sách vấn và Nguyễn Trãi làm "độc quyển" (người duyệt bài thi lần cuối cùng để trình lên vua quyết định thứ hạng cao thấp). Lệ thi cử, tuyển chọn nhân tài ở nước ta trong lịch sử được định hình từ đây, có một phần không nhỏ xây nền đặt móng của Nguyễn Trãi.

Cũng chính vì sự trọng dụng của vua Lê Thái Tông đối với Nguyễn Trãi mà nhiều lộng thần ghen ghét, đố kị. Và, cái oan án Lệ Chi Viên cũng không ngoài bàn tay tạo dựng bởi sự ghen ghét, đố kị này. Vì thế, sau khi lên ngôi, năm 1464 Lê Thánh Tông đã rửa oan cho ông. Tuy nhiên, cái oan nghiệt là ở chỗ thảm họa lại rơi vào chính bậc hiền tài, vị khai quốc công thần của triều đình.

Đ.K.T

CHÚ THÍCH:

(1) Ngô Thế Long: Những chức tước của Nguyễn Trãi trong cuộc đời tận tụy vì nước vì dân của ông, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3/1980, tr.33-41.

(2) Đại Việt sử kí toàn thư, Bản Chính Hòa 1697 (Bản dịch), tập 2, KHXH, H. 1998, tr. 263.

(3) Bình Ngô sách là kế sách đánh quân Minh. Kế sách này nhằm vào việc đánh thành quân đội Minh, nhưng không phải là "công thành", mà là đánh vào lòng người, tức là gọi hàng địch. Chính kế sách này đã từng dụ hàng nhiều thành lũy giặc như thành Nghệ An, Thuận Hóa.

(4) Dinh Khac Thuan, L'Académie au Vietnam sous les Mac: 1527-1592 (Hàn lâm viện ở Việt Nam dưới thời Mạc), Revue de Moussons (Tạp chí Gió Mùa), 2/2001, tr.74-82.

(5) Đỗ Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, H. 2002, tr.279.

(6) Các thư từ, công văn này hiện được sưu tập trong Quân trung từ mệnh. Xem Nguyễn Văn Nguyên, Những vấn đề văn bản học Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi, Văn học, H.1999, tr. 287-368.

(7) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd. tr. 263.

(8) Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Thời Trần, tập 2, Q. Thượng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Văn học Đại học Trung Chính, 2002, tr.337.

(9), (10) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd. tr. 264, 270.

(11) Quan chế điển lệ  (Sách chữ Hán), kí hiệu: A.56/1, tờ 4a. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(12) Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, KHXH, H. 1976, tr. 25.

(13) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd., tr. 301.

(14) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr. 93.

(15), (16) Biểu tạ ơn của Gián nghị đại phu kiêm tri Tam quán sự. Xem, Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr. 94, 208.

TB

NGUYỄN TRÃI VỚI CHU DỊCH

LÊ VĂN QUÁN

Nguyễn Trãi là nhà Nho, được đào tạo trong nhà trường Nho học đời Trần. Nhưng ông không chỉ thuộc lòng ở chữ nghĩa: “Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu..” hay là thấm nhuần đạo đức trong khuôn phép sách vở của thánh hiền: “Nhân chi sơ, tính bản thiện...” - (Người ta mới sinh ra, tính vốn lành), mà chủ yếu là tính tích cực của đạo Nho đã hóa thân trong tư tưởng của ông:

“Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.

Chính vì thế, khi quân Minh xâm chiếm nước ta, ông càng nhận rõ, bọn phong kiến Trung Hoa đã gây bao tội ác chồng chất lên đầu dân Việt Nam: cưỡng đoạt, cướp bóc, bòn mót, đầy đọa nhân dân vào cảnh bần cùng, đói rách, thân thể xác xơ tiều tụy.

Khi bị giam lỏng ở thành Đông Quan, ông không thể chịu sống trong cảnh cá chậu, chim lồng, ông vẫn nung nấu ý chí tìm cách trốn thoát khỏi bàn tay của giặc

Năm Canh Tý (1420), Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang (địa điểm nằm giữa Cẩm Thủy, Bá Thước, Quan Hóa, Thanh Hóa) trao cho Lê Lợi, thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn, bản Bình Ngô sách, trong đó ông vạch chiến lược, chiến thuật đánh giặc Minh.

Sau khi xem Bình Ngô sách, Bình định vương Lê Lợi đã trao cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng đại phu, Hàn lâm thừa chỉ và luôn luôn giữ ông ở bên cạnh để bàn mưu tính kế đánh giặc Minh.

Ngoài việc cùng Lê Lợi vạch chiến lược, chiến thuật, Nguyễn Trãi còn làm tất cả các công việc giao thiệp với quân Minh. Nguyễn Trãi đã viết thư cho bọn chỉ huy giặc Minh, như Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Phúc, Vương Thông v.v. để mắng nhiếc chúng, khiêu khích chúng, hoặc dụ hàng chúng.

Trong các bức thư gửi cho bọn chỉ huy giặc Minh, Nguyễn Trãi đã nhiều lần vận dụng học thuyết âm dương biến dịch. Nói đến Kinh Dịch, Hệ từ hạ, chương thứ XI có câu: “Dịch chi vi thư dã, quảng đại tất bị, hữu thiên đạo yên, hữu nhân đạo yên, hữu địa đạo yên, kiêm tam tài nhi lưỡng chi, cố lục; lục giả phi tha dã, tam tài chi đạo dã.” (Dịch là, sách rộng lớn đầy đủ, có đạo trời, đạo người, đạo đất, gồm ba tài và gấp đôi lên, cho nên thành sáu, số sáu chẳng có gì khác, chỉ là đạo tam tài [trời, đất, người]).

Thuyết quái truyện lại nói: “Tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã, tương dĩ thuận tính mệnh chi lý. Thị dĩ lập thiên chi đạo, viết âm dữ dương, lập địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa, kiêm tam tài nhi lưỡng chi, cố Dịch lục hoạch nhi thành quái, phân âm phân dương, điệt dụng nhu cương, cố dịch lục vị nhi thành chương”. (Ngày xưa thánh nhân làm ra Kinh Dịch là để thuận cái lẽ về tính mệnh, cho nên lập đạo trời là âm và dương; dựng đạo đất là cứng và mềm; lập đạo người là nhân và nghĩa, gồm ba tài và gấp đôi lên, cho nên ở Kinh Dịch (có chỗ chúng tôi còn gọi là Chu Dịch) sáu nét vạch mà thành ra quẻ, chia ra âm và dương, đắp đổi dùng mềm và cứng, cho nên ở Kinh Dịch sáu ngôi mà thành chương).

Qua những điều đã trình bày trên, ta thấy Chu Dịch luôn nhắc đến đạo tam tài: trời, đất, người. Người xưa đều tôn trọng cả ba: đạo trời, đạo đất, đạo người, những lấy đạo người làm trung tâm. Thấu hiểu sâu sắc Dịch lý ấy, cho nên gửi thư cho Sơn Thọ, Nguyễn Trãi viết:

“Tôi nghe trời có bốn mùa, phải nhờ hành thổ mới vượng, người có bốn đức, phải nhờ điều tin để thi hành. Nếu hành thổ không thịnh, điều tin không có, thì đạo trời tất hỏng, việc người tất hư. Cho nên hoàng cực lấy thổ ở giữa, dân linh lấy tin làm thực, mà sau công việc của trời của người mới được thỏa đáng” (Quân trung từ mệnh tập, “Lại thư cho Sơn Thọ”)(1).

Nguyễn Trãi nói, trời có bốn mùa, tức là xuân, hạ, thu, đông. Người có bốn đức: hiếu, lễ, trung, tín. Còn về hành thổ, không chỉ là một trong ngũ hành: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy, mà còn chứa đựng ý nghĩa của mối quan hệ tam tài: trời, đất, người. Đất là chỉ bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Nguyễn Trãi vận dụng đạo tam tài của Chu Dịch, là đề xuất đến phép tắc vĩnh hằng, phổ biến, khách quan, là bao quát đạo trời, đất, người, vũ trụ muôn vật biến hóa và đạo người sinh tồn, phát triển. Đó là phương thức tư duy chỉnh thể của Chu Dịch hòa đồng trời đất, người thành một khối. Nó cũng là một đặc trưng chủ yếu của tư duy truyền thống Trung Quốc. Nó có ưu điểm và đặc điểm của tính chỉnh thể, tính hoàn bị, tính khách quan, tính hợp lý đã sản sinh ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa tư tưởng truyền thống Trung Quốc. Chắc hẳn bọn chỉ huy giặc Minh biết rõ điều đó. Cái điều mà trong sách kinh điển Trung Hoa có ghi: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa” cho nên Nguyễn Trãi nói: “Nếu hành thổ không thịnh thì điều tin không có, thì đạo trời tất hỏng, việc người tất hư.” Nguyễn Trãi viết cho Sơn Thọ như vậy, chỉ là vì Sơn Thọ không thủy chung, không tín thực. Sơn Thọ trước đã nói rõ hẹn ước hòa giải: “Sau khi dâng biểu thì rút quân về ngay”, nhưng Sơn Thọ không thực hiện hẹn ước. Cho nên Nguyễn Trãi dùng văn hóa truyền thống Trung Hoa, đạo tam tài ở Chu Dịch để khuyến cáo chúng.

Ở bài Đầu mục nước An Nam kính gửi các tỳ tướng của thiên triều (triều Minh), Nguyễn Trãi viết: “ Kinh Dịch có câu nói rằng: quân đi phải có kỷ luật, nếu không có kỷ luật thì dầu phải cũng gặp sự không hay”.

Nguyễn Trãi nhắc đến câu nói ở Kinh Dịch là ông đề cập đến lời hào sơ lục của quẻ SƯ: “Sư xuất dĩ luật, phủ tang hung” (Ra quân phải có kỷ luật, nếu không thì sẽ xấu). Quẻ SƯ là quẻ bàn về cách dùng binh. Đánh trận không phải là trò đùa vui, mạnh ai nấy làm, mà phải có kỷ luật. Thiên mở đầu trong Tôn Tử binh pháp đã nói “Binh giả, quốc chi đại sự, tử sinh chi địa, tồn vong chi đạo, bất khả bất sát dã”- (Việc quân là việc lớn (trọng đại) của đất nước, là nơi sống chết, là đạo còn mất, không thể không xem xét). Cho nên lời quẻ trước tiên nhấn mạnh hai nguyên tắc lớn của chiến tranh: “trịnh, trượng nhân cát, vô cữu” - (giữ vững đạo chính, có bậc chỉ huy lão thành tài giỏi thì tốt, không có lỗi). Qua quái từ (lời quẻ), ta thấy rõ hai nguyên tắc: Một là, nắm vững tính chất của chiến tranh, dùng binh cần phải kiên trì đạo chính, là phải có chính nghĩa, ra quân phải giữ đạo chính nghĩa, đó là tiền đề lớn của chiến tranh. Hai là, phải giỏi lựa chọn người chỉ huy, tướng cầm quân hiền tài và giàu kinh nghiệm chiến đấu, đó là vấn đề then chốt của việc xuất quân thắng hay bại.

Nếu như trong chiến tranh quân đông ngựa nhiều trở thành quân nhân nghĩa, thì có thể đánh thắng cuộc chiến tranh. Quân lính chẳng những phải giữ kỷ luật nghiêm minh, mà còn phải buộc quân lính tôn trọng kỷ luật, như hào Sơ lục nói: “Sư xuất dĩ luật” (ra quân phải có kỷ luật); cần phải thưởng phạt công bằng, khiến quân lính vui vẻ nghe hiệu lệnh như lời hào Cửu nhị nói: “Tại sư trung cát” (chỉ huy quân đội có đức trung, tốt). Như vậy mới có thể hướng dẫn quân lính đi vào quĩ đạo quân chính nghĩa.

Tượng quẻ SƯ : dưới quẻ KHẢM là hiểm, trên quẻ KHÔN là thuận. KHẢM hiểm tượng trưng chiến tranh, xấu, nguy hiểm. KHÔN thuận tượng trưng lòng quân quy thuận. Tiến hành chiến tranh sống chết, còn mất, mà có được quân đông quy thuận, muôn người một lòng, hy sinh đến cùng, đó cũng là bản lĩnh đặc biệt của người chỉ huy chiến tranh. Cho nên đoạn mở đầu lá thư, Nguyễn Trãi viết: “Tôi nghe quân của vương giả, cốt trên thuận lòng trời, dưới hợp lòng người. Nay các ông vâng mệnh đi đánh dẹp, chỉ nên trên xét lòng trời, dưới thuận việc người. Trước đây cái tai họa đắm thuyền, thì trời đã răn bảo rõ lắm. Phàm quân đi qua một đường nào, việc chạy trốn chết hại thường có đến bao nhiêu người, nhân dân chứa oán lại quá lắm. Các ông bỏ việc ấy không xét đến mà xông pha nguy hiểm, khinh suất tiến quân... Huống chi lòng trời, lòng người đã như thế mà các ông còn cố gượng cứ làm, thì tự mua lấy thất bại, há chẳng đáng ư ? Vả lại, bọn An Viễn hầu (Liễu Thăng), Bảo Định bá (Lương Minh), Lý Thượng thư (Lý Khánh) lại nối nhau bị chết, quân không người thống lĩnh, và không theo kỷ luật, chẳng bại vong sao được”...

Nguyễn Trãi chẳng những dùng lời lẽ ở Kinh Dịch để khuyên bảo giặc Minh, mà còn cảnh báo bọn chỉ huy giặc Minh, đem quân đi xâm lược là làm việc không chính nghĩa, không hợp lẽ trời, không hợp lòng người, nhân dân oán than, trời không dung đất không tha, cuối cùng thất bại, và sẽ chuốc lấy cái chết như Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh. v.v...

Đặc biệt Nguyễn Trãi hay nói đến “thời” Quân trung từ mệnh tập có tất cả 77 bài thì đã có 24 trường hợp đề cập đến chữ “thời”. Ví dụ ở bài 32 Thư dụ thành Tam Giang, ông viết: “Cái điều đáng quí của người quân tử là biết thời thông biến, lượng sức xử mình”. Hay là ở bài 34 Lại thư dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi nhắc đi nhắc lại 13 lần chữ “thời”:

“Tôi thường xem Kinh Dịch 384 hào mà cốt yếu là ở chữ thời, cho nên người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ thời to tát sao ? Ngày trước, khi mới sang đánh Giao Chỉ, tướng thần vâng mệnh đi đánh kẻ có tội, bấy giờ là một thời vậy. Ngày nay vận trời tuần hoàn, đi đi lại lại, khi ngài phụng mệnh sang đây được tiện nghi làm việc, nếu ngài quả biết theo chiếu thư của Thái Tôn mà cho lập con cháu họ Trần để khôi phục nước tôi, thì bây giờ lại là một thời vậy. Thời sao ! Thời sao ! thời không nên lỡ. Kinh Thư - Hạ thư - Dận chinh có câu: “Ai trước thời, giết không tha, ai sau thời cũng giết không tha” (Tiên thời giả sát vô xá, bất cấp (hậu) thời sát vô xá). Vì thế mà người lấy tùy thời xử trung làm quí. Song từ xưa đến nay, kẻ vu nho tục sĩ không hiểu thời, hiểu thời họa chăng chỉ có bực tuấn kiệt thôi. Như ngài chỉ có thể bảo là bực tuấn kiệt hiểu thời đấy...”

Nguyễn Trãi thông qua kinh sách của Trung Quốc mà các nhà Nho xưa thường gọi là “đạo thánh hiền” để khuyên bảo Vương Thông: “Người làm tướng phải hiểu thời thông biến. Thời có thịnh suy, quan hệ ở vận trời, việc có thành bại, thực ra là bởi tại người làm”. Chính vì thế, cho nên Nguyễn Trãi nói tiếp: “Kể ra người dùng binh giỏi là chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, mất thời không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yếu lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay”. (Bài 35, Lại dụ Vương Thông).

Nguyễn Trãi dùng lời lẽ của Chu Dịch để đánh vào lòng quân thù có một ý nghĩa to lớn. Không những nó giác ngộ bọn tướng giặc thấy rõ hậu quả bi thảm của chiến tranh tội ác do chúng gây ra, mà còn thuyết phục đám quân lính sớm tỉnh ngộ thấy rõ chiến tranh xâm lược là phi nghĩa. Sức mạnh của Chu Dịch còn ở chỗ, những khái niệm, những nguyên lý, chủ trương và biện pháp đề ra không phải tự Nguyễn Trãi đặt ra, cho nên những lời lẽ ấy rất có sức thuyết phục tướng lĩnh và quân lính. Lúc này, Nguyễn Trãi tin nhân dân Việt Nam dũng cảm, không hoang mang, không dao động trước những thử thách ghê gớm, không sợ những kẻ thù tàn bạo nhất. Chính lòng tự tin ấy khiến cho ông càng cương quyết, không khoan nhượng, có một sách lược mềm dẻo, giữ hòa khí và tôn trọng lợi ích của hai dân tộc trong quan hệ bang giao. Đó là thể hiện thế hơn hẳn của sức mạnh sáng suốt và độ lượng của chính nghĩa trước sức mạnh mù quáng và tàn bạo của phi nghĩa. Cái thời đế chế quân chủ Trung Hoa đến từ phương Bắc để chinh phục và mưu toan thôn tính, đồng hóa dân tộc Việt Nam không còn nữa. Cái mộng chính trị: Vua Hán là thiên tử và các nước Nam man phải về chầu và cống nạp đã lỗi thời rồi. Dân tộc Việt Nam nhất định chiến thắng. Nguyễn Trãi tin tưởng nói tiếp: Kinh Dịch có câu: “Cùng tắc biến, biến tắc thông” (Cùng thì biến, biến thì thông) (Bài 37, Lại thư Vương Thông).

Quy luật “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, ở Chu Dịch cho rằng, thế giới muôn vật đều không ngừng biến đổi, cho nên Dịch truyện nói: “... Nhật trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực, thiên địa doanh hư, dữ thời tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ ? huống ư quỉ thần hồ ? (Mặt trời ở giữa trời rồi sẽ xế, mặt trăng tròn rồi sẽ khuyết, trời đất đầy vơi cùng với thời gian sẽ lần lượt tiêu vong và sinh trưởng, huống chi là người ? huống chi là quỉ thần ? (Quẻ Phong, lời Thoán).

Từ tự nhiên đến nhân sự, tất cả đều đang biến đổi. Sự vật biến đổi, phát triển, Dịch truyện nói: “Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cữu” (Đạo dịch đến cùng ắt sẽ biến hóa, đã biến hóa thì khai thông, nhờ khai thông mà được lâu dài.), (Hệ từ hạ, chương thứ II).

Cùng là tận cùng, cực điểm, phát triển đến cực điểm thì sẽ thay đổi, thay đổi mới có thể khai thông, khai thông mới có thể lâu dài. Đó tức là tư tưởng “Vật cực tất phản” (Sự vật đến cùng cực sẽ chuyển hóa ngược lại).

Chu Dịch có 64 quẻ, lấy quẻ Vị Tế làm quẻ cuối cùng, nói rõ 64 quẻ tuy đã hết, nhưng trời đất muôn vật biến đổi vẫn chưa hết. Sự vật biến đổi không phải một sớm một chiều phát sinh, mà là lâu dài tích lũy dần dần rồi mới nảy sinh. Người làm tướng phải biết những dấu hiệu rất nhỏ của sự biến động. Thấy được những triệu chứng, những dấu hiệu mà ứng phó ngay, tức là đề phòng sự việc nhỏ, ngăn chặn sự việc xấu nảy sinh. Tư tưởng biện chứng của Chu Dịch rất rõ ràng, “Các ông sao không nghĩ thế, cứ khư khư cái tiểu tiết của Trương Tuấn, Hứa Viễn(2) ta e sĩ tốt của ngươi, ngày đêm thiết tha mong về, lại thêm cơm cháo chẳng no, tạp dịch liên miên, dẫu muốn đánh và giữ đã dễ ai theo” - (Nguyễn Trãi - bài đã dẫn).

Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh đến qui luật đối lập của âm dương. Ông nói: “Vì người cầm quân ấy giữ việc đánh giết, nắm quyền sống chết: khi thì khoan hồng như khí dương, khi thì thảm khắc như khí âm, đều tuân theo lẽ phải của trời, không thể theo ý riêng mình được. (Bài 20, Thư dụ [tướng sĩ trong] thành Xương Giang).

Đúng thế ! Điều mà ở Chu Dịch, Dịch truyện nói đến “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” (Một âm một dương gọi là đạo)(Hệ từ thượng, chương XI), chính là quy luật biến đổi của vũ trụ, muôn vật. Nó khái quát hết thảy sự vật thành hai phạm trù âm dương, chính hai nhân tố âm và dương đối lập và tác dụng lẫn nhau đã sinh ra muôn vật, thúc đẩy thế giới biến đổi. Cho nên tác dụng lẫn nhau giữa một âm một dương là điều căn bản của hết thảy sự vật và biến đổi, điều đó gọi là đạo. Đạo là qui luật, mà Nguyễn Trãi muốn đề cập đến “là tuân theo lẽ phải của trời, không thể theo ý riêng mình được”. Vì thế, Nguyễn Trãi mới nói tiếp: “Kể ra, thời có khi thịnh khi suy, thế có kẻ mạnh, kẻ yếu, cũng là lẽ trời, lòng người, thuận hay nghịch, hướng theo hay trái ngược. Nếu chỉ khăng khăng câu nệ và kiến thức hẹp hòi, cam lòng chịu lấy tai vạ, thì cũng đáng thương lắm”. (Bài đã dẫn trên).

Càng đi sâu nghiên cứu, chúng ta càng thấy Nguyễn Trãi am hiểu Chu Dịch rất sâu sắc, với những câu nói vô cùng tinh tế. Chẳng hạn, ở Ức Trai thi tập, mở đầu bài Đề kiếm Nguyễn Trãi viết:

“Lam Sơn tự tích ngọa thần long”
(Lam Sơn tự thuở rồng chưa bay).

“Rồng chưa bay” tức là rồng còn đang ở ẩn. Người nào đã đọc Chu Dịch, không thể không liên hệ đến quẻ Kiền, lời hào Sơ cửu: “Tiềm long vật dụng” – (Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được). ở đây, Nguyễn Trãi đề cập đến Lam Sơn là nơi ban đầu xây dựng cơ nghiệp nhà Lê. Ở giai đoạn rồng mới bắt đầu nảy sinh, sức mỏng cần phải nuôi dưỡng tôi luyện đội ngũ tinh nhuệ và dần dần phát triển. Lúc này chỉ có thể tích lũy lực lượng, tụ tập nhân tài, rèn luyện đội ngũ, đợi thời cơ, đánh thắng giặc.

Hơn nữa, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy quá trình vận động không ngừng của sự vật, của giới tự nhiên và xã hội loài người. Như trong bài thơ Bảo kính cảnh giới (Bài số 6), Nguyễn Trãi viết: “Vận chuyển chẳng dừng, sự thế gian”. ở đây, “sự thế gian” là Nguyễn Trãi muốn nói đến xã hội loài người luôn ở trong trạng thái vận động biến đổi. Nguyễn Trãi phản ánh trong thơ văn những sự vật phát triển biến đổi, vẫn là có qui luật. Qui luật này có thể qui vào hai điểm:

Một là, cực thịnh sẽ suy; hai là, tuần hoàn. Ví dụ, ở Quốc âm thi tập, Bài 85, Nguyễn Trãi viết:

“Hoa càng khoe tốt, tốt thời rữa,
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi.”

Hay là ở Quân trung từ mệnh tập, Bài 7, “Đầu mục nước An nam là Lê Lợi thư gửi quan Tổng binh vương đại nhân Thái Giám Sơn đại nhân xét”, ông viết: “Thời có thịnh suy, quan hệ vận trời,...”

Ông nhìn nhận sự vật thịnh rồi có lúc suy, đời người có lúc bĩ, có lúc thái, những không thể cứ thái mãi, mà cũng có lúc chuyển hóa ra bĩ. Quan niệm này, ngay ở Chu Dịch, quẻ Thái, hào Cửu tam cũng đã nói: “Vô bình bất bí, vô vãng bất phục” (Không có cái gì bằng phẳng mãi mà không thành bờ dốc, đi mãi mà không trở lại).

Điều này, Nguyễn Trãi nói rất rõ ở bài Côn Sơn ca: “Bi hoan ưu lạc điệt vãng lai, nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.” (Cái mừng, cái buồn, cái lo, cái vui thường thay đổi, cái nọ đi, cái kia đến, một tươi một héo luôn luôn nối tiếp nhau)(3).

Ông thừa nhận đạo người có phát triển, nhưng phát triển theo quy luật tuần hoàn. Ví dụ, ở Bài 27, Thư cho Đả Trung và Lương Nhữ Hốt, ông viết: “Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại, từ xa xưa đến nay bao giờ cũng thế.” Hay là ở Bài 37, Lại thư cho Vương Thông, ở Bài 40, Thư dụ các thành Thanh Hóa, Nghệ An, ông nhắc lại câu: “Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại”.

Chu Dịch cũng cho rằng, sự vật vận động biến đổi, là một quá trình tuần hoàn, lặp đi lặp lại: “Phục, hanh, xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu, phản phục kỳ đạo”, (Quẻ Phục tượng trưng cho sự hồi phục, hanh thông, ra vào không tai họa, bạn đến không có lỗi, vận trời tráo đi trở lại) (Quẻ Phục Quái từ (lời quẻ), (Phục, Quái từ)

Chúng ta cũng phải thừa nhận trước chúng ta hơn 5 thế kỷ, tư tưởng Nguyễn Trãi đã chịu ảnh hưởng rất sâu của Chu Dịch, ông đã nhìn sự vật bằng con mắt động, nhìn thấy trong sự vật có sự chuyển hóa từ cái nọ sang cái kia. Trong tư tưởng của ông đã có những nhân tố biện chứng chất phác (thô sơ), mà hơn thế nữa, ông đã nhìn thấy tác dụng quyết định của hoàn cảnh đối với con người, mà ông còn khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân quyết định lịch sử. Trước Nguyễn Trãi chưa có nhân vật lịch sử nào nói đến sức mạnh của nhân dân. Đối với Nguyễn Trãi nhân dân là sức mạnh, to lớn:

“Phúc chu thủy tín dân do thủy” (thuyền mới rõ sức dân như nước).

(Ức Trai thi tập - Bài Quan hải)

Chính do cách nhìn ấy, cho nên Nguyễn Trãi cùng với Lê Lợi đã động viên và tập hợp được nhân tài, tổ chức nhân dân trở thành đội ngũ vững mạnh đánh thắng giặc Minh xâm lược.

L.V.Q

CHÚ THÍCH:

(1) Những câu của Nguyễn Trãi nói đều trích ở Nguyễn Trãi toàn tập - Nxb. KHXH, H. 1969.

(2) Thời Đường, khi An Lộc Sơn làm loạn, hai tướng của nhà Đường là Trương Tuấn, Hứa Viễn giữ thành Tuy Dương, để che đỡ cho miền Giang Hoài. Sau vì không có viện binh, lương hết thành hãm mà bị hại.

(3) Côn Sơn ca trong Hoàng Việt thi văn tuyển, tập II, tr.106-107, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1958 - Trịnh Đình Rư phiên âm và dịch.

TB

CUỘC ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO VỚI TRIỀU ĐÌNH NHÀ MINH ĐẦU THẾ KỶ XV VÀ NHỮNG CHỨNG TÍCH CÒN LẠI

NGUYỄN VĂN NGUYÊN

Với ý đồ thống trị nước ta, triều đình phong kiến nhà Minh đã đem đội quân 80 vạn tên tiến sang đánh chiếm Giao Chỉ, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài suốt ba thập kỉ đầu của thế kỉ XV. Dã tâm chiếm đóng lâu dài của nhà Minh càng lộ rõ khi họ thiết lập ra hệ thống cai trị và tiến hành đàn áp dã man các cuộc kháng chiến của vua tôi nhà Hậu Trần và hàng loạt phong trào khởi nghĩa khác diễn ra sau đó, đặc biệt là đối với phong trào Lam Sơn. Ngay cả sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ hệ thống thành trì của giặc, rồi lại đánh tan hai đạo viện binh hùng mạnh của chúng, khiến Tổng binh Vương Thông phải chấp nhận điều kiện của ta, lập hội thề chấm dứt chiến tranh và mang quân rút về nước ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), và thậm chí cả sau khi chiến tranh đã kết thúc, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại mới ngày 15 tháng 4 năm 1428, nhà Minh dường như vẫn chưa cam chịu thừa nhận thất bại. Bằng cách bám lấy quan điểm "hưng diệt kế tuyệt" - danh nghĩa đã được dùng để che đậy cho hành động xâm lược trước đây của họ, triều Minh vẫn tiếp tục âm mưu trì hoãn, phủ nhận sự tồn tại của triều Lê và nhà nước Đại Việt.

Nghĩa quân Lam Sơn không phải không sớm biết rõ sự ngoan cố và ý đồ này của địch. Chính vì thế ngay từ những ngày cuộc chiến đấu còn đang xảy ra quyết liệt trên chiến trường, các lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn đã bắt đầu triển khai một mặt trận ngoại giao trực tiếp với triều đình nhà Minh nhằm tới mục đích là giành lại quyền độc lập tự chủ toàn vẹn cho đất nước. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị ngoại giao này được lãnh tụ Lê Lợi và người trực tiếp thực hiện là Nguyễn Trãi tiến hành từ năm 1426, kéo dài cho mãi đến năm 1437 mới giành được thắng lợi cuối cùng.

Khởi đầu của việc giao thiệp giữa nghĩa quân Lam Sơn với người Minh có thể là từ những biện pháp "tình thế" như việc sai bọn Lê Trăn đến chỗ quân Minh xin hòa vào tháng 12 năm Nhâm Dần (1422). Đó đang là thời kỳ khó khăn của những năm đầu khởi nghĩa. Cùng với sự lớn mạnh dần của nghĩa quân và sự tiến triển nhanh chóng của phong trào khởi nghĩa, việc giao thiệp với quân Minh được nâng lên thành một mặt trận đấu tranh chính trị phối hợp nhịp nhàng với các chiến dịch quân sự trong thế trận tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân. Thông qua những bức thư địch vận do Nguyễn Trãi soạn thảo gửi cho các tướng lĩnh giặc Minh đang trực tiếp đánh nhau với ta trên chiến trường Giao Chỉ hiện còn lưu giữ lại trong tập Quân trung từ mệnh, chúng ta có thể thấy được các vị lãnh tụ Lam Sơn đã sử dụng thứ vũ khí đánh vào lòng địch này một cách tài tình dưới hai hình thức đấu tranh hòa đàm và dụ hàng, qua đó đã góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc khởi nghĩa. Tư liệu trong sử sách cũng từng ghi nhận: "Các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, Đông Đô đều sai văn thần Nguyễn Trãi viết thư, dụ bảo bọn giặc điều họa phúc, nên không cần đánh mà chúng phải đầu hàng"(1).

Nhưng đến giai đoạn cục diện chiến trường bắt đầu phát triển dần có lợi cho ta và khi đã có thể nhìn thấy khả năng chiến thắng đội quân xâm lược thì các lãnh tụ nghĩa quân cũng nhận ra rằng, để đạt tới thắng lợi toàn vẹn cuối cùng, chỉ bằng sức mạnh quân đội kết hợp với đấu tranh địch vận dường như là chưa đủ. Những bức thư của Nguyễn Trãi có thể dụ hàng được những viên tướng giặc như Trương Lân ở thành Điêu Diêu, Lưu Thanh ở thành Tam Giang, hay giải giáp được cả đại bản doanh địch ở thành Đông Quan do Vương Thông chỉ huy, thậm chí làm tan rã cả một cánh viện binh Vân Nam gồm 5 vạn tên của Mộc Thạnh... Nhưng vấn đề chấm dứt hẳn cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, giành lại và duy trì nền độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước sẽ phải được quyết định từ triều đình phương Bắc. Vì thế, cuộc đấu tranh ngoại giao bắt đầu được triển khai với đối tượng là triều đình nhà Minh mà trực tiếp là các vua Minh Nhân Tông, Tuyên Tông và Anh Tông. Về phía triều đình nhà Minh, họ không phải dễ dàng chấp nhận ngay sự giao thiệp này, bởi cho đến trước khi thất bại hoàn toàn trên chiến trường (tháng 11 năm 1427), họ vẫn coi Lê Lợi và phong trào Lam Sơn là "làm loạn", là "giặc". Nhưng trong tình thế thất bại về mặt quân sự và trước sự đấu tranh chính trị kiên quyết nhưng khôn khéo của nghĩa quân đã khiến họ phải dần dần thay đổi thái độ. Tuy tạm thời chưa chịu công nhận phía ta như đại diện của một quốc gia độc lập, nhưng đã phải chấp nhận sự giao thiệp trực tiếp, và trong Minh sử kể từ năm 1428 trở đi đã phải coi người do phía ta cử sang giao thiệp là "sứ giả", đồng thời về phía họ, triều Minh cũng bắt đầu cử những viên quan có chức vụ trong triều như Tả thị lang, Hữu thị lang, Thượng thư, Hành nhân v.v. sang ta tiến hành trao đổi.

Mục đích của cuộc đấu tranh ngoại giao giữa nghĩa quân Lam Sơn với triều đình nhà Minh chính là nhằm xác định lại mối quan hệ giữa hai nước từng bị thay đổi sau cuộc chinh phạt của Minh Thành Tổ vào năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406).

Lịch sử nước ta đã từng trải qua một giai đoạn đen tối kéo dài hơn một nghìn một trăm năm dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, đó là thời kỳ Bắc thuộc. Trong thời kỳ này, các triều đại phong kiến Trung Quốc từ đời Tần, Hán đến thời Ngũ đại chia nước ta thành hệ thống quận huyện và cắt đặt quan lại trực tiếp cai trị. Cho đến năm 939, sau ngày chiến thắng đội quân Nam Hán của Hoằng Thao trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bắt đầu xưng Vương, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục(2), kể từ thời gian đó trở đi nước ta mới chấm dứt thời kỳ lệ thuộc phương Bắc. Mặc dù trong thời kì lịch sử này, ta đã giành quyền tự chủ hoàn toàn trong việc điều hành đất nước; nhưng như một số nước khác cùng nằm trong khu vực lân cận với Trung Quốc mà thời cổ gọi chung là "Nam Hải 南 海"(3), các vương triều nước ta đều phải chịu ảnh hưởng nặng nề của khái niệm thống trị "Tông - Phiên 宗 籓", trong quan hệ giữa họ với đế quốc Trung Hoa.

Đây là một khái niệm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm của Trung Quốc cổ đại về một Thiên triều ở trung tâm thống trị "tứ di". Khái niệm thống trị này đã xuất hiện ở Trung Quốc rất sớm. Sau các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc, nhà Hạ xuất hiện và đã trở thành bá chủ chung của các bộ lạc lân cận khác. Từ đó về sau hình thành bức tranh về một vương triều ở trung tâm và bốn bộ tộc Di, Man, Nhung, Địch ở xung quanh hướng về thần phục. Cùng với sự phát triển và biến đổi của các giai đoạn lịch sử, sơ đồ này được bổ sung cụ thể và hoàn thiện dần. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào tư liệu về mối quan hệ xa gần và sự thần phục, cống nạp của các bộ tộc, chư hầu đối với vương triều để lập ra các sơ đồ "Ngũ phục 五 服" của các vương triều vua Nghiêu và vua Vũ, trong đó tính từ Vương kì (kinh đô của Vương triều) ở trung tâm và một vùng rộng 5000 dặm bao quanh (gọi là Điện 甸) thuộc quyền quản lý của Vương triều trở ra, cứ cách 500 dặm là thuộc về một khu vực, được xếp theo thứ tự của mối quan hệ với Vương triều từ chặt chẽ đến nới lỏng dần, lần lượt gọi là Hầu 侯, Tuy 綏, Yếu 要, Hoang 荒, Trưởng 長. Đến thời nhà Chu, sơ đồ được phát triển thành "Cửu phục 九 服", gồm một Vương kì 王 圻 ở trung tâm và 9 khu vực phụ thuộc ở xung quanh chia thành thứ hạng tùy theo quan hệ của họ với vương triều, lần lượt là Hầu 侯, Điện 甸, Nam 男, Thái 釆, Vệ 衛, Man 蠻, Di 夷, Trấn 鎮, Phiên 籓.

Các đời Tần, Hán cho đến Minh, Thanh về sau vẫn kiên trì với khái niệm thống trị của một Thiên triều trung tâm này, nhưng với sự thống nhất của đế quốc Trung Hoa và những cuộc mở mang lãnh thổ xuống phía nam, mô hình đó có những thay đổi tùy theo mối quan hệ thân hay sơ giữa Thiên triều với khu vực xung quanh (xem Sơ đồ).Và trải suốt các thời kỳ tiếp sau đó, không có Vương triều Trung quốc nào không coi các bộ tộc hoặc các nước ở khu vực lân cận là những bộ lạc phụ thuộc hay phiên quốc có nghĩa vụ thần phục và nộp cống của mình. Cộng thêm sự ảnh hưởng tư tưởng chính thống của học thuyết Nho gia, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước "Nam Hải" (trong đó bao gồm cả nước ta) luôn được coi là mối quan hệ thứ bậc giữa Vương triều (đế quốc Trung Hoa) với nước phiên thuộc.

Khái niệm thống trị của Phong kiến Trung Quốc

Địa vị của nước phiên thuộc, từ Cửu phục và sơ đồ trên ta thấy, đó là khu vực được xếp ở vòng xa trung tâm nhất so với các khu vực khác. Thực tế, mối quan hệ (sự ràng buộc) giữa nước này với Thiên triều là lỏng lẻo nhất. Mối quan hệ này được các học giả phân tích là “Có sự qui thuộc về danh nghĩa, nhưng thực tế Vương triều không có khả năng điều khiển, khống chế; đôi khi có sự giao thiệp qua lại”(4). Tức là Thiên triều không cắt cử quan lại để quản lý nước đó về mặt hành chính cũng như không trực tiếp điều hành về các mặt chính trị, kinh tế... Trên thực tế điều đó có nghĩa là một nhà nước độc lập có chủ quyền. Sự ràng buộc thường chỉ thể hiện chủ yếu ở hai điểm: thứ nhất là phải nộp cống (định kỳ hoặc không định kì) cho Thiên triều; thứ hai là phải chịu sự sách phong của Thiên triều, tức là người đứng đầu nước đó phải được Thiên triều ban sắc công nhận.

Kể từ khi Ngô Quyền giành lại độc lập cho đến hết thế kỉ XIV, trải các triều vua kế tiếp, nước ta vẫn được liệt vào hàng phiên quốc với ý nghĩa như trên, một mặt tự chủ điều hành đất nước, mặt khác thực hiện nghĩa vụ triều cống và tiếp nhận sách phong của Thiên triều. Tước hiệu sách phong có thể khác nhau tùy từng thời kỳ, khi là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ 靖 海 軍 節 度 使 (tước phong của Ngô Nam Tấn Vương Xương Văn), Giao Chỉ Quận vương 交 趾 郡 王 (tước phong của Đinh Tiên Hoàng) hoặc An Nam quốc vương 安 南 國 王 (tước phong của Lý Anh Tông) v.v... nhưng thực tế các vị đó chính là vua của nước Nam.

Tình hình thay đổi kể từ sau khi Hồ Quí Ly lật đổ nhà Trần, lên ngôi Hoàng đế, tự lập ra nhà Hồ. Nắm lấy cơ hội này, mượn danh nghĩa khôi phục lại họ Trần, nhà Minh đại cử 80 vạn quân Minh dưới quyền chỉ huy của Trương Phụ và Mộc Thạnh tiến đánh nước ta. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly, tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), nhà Minh lập tức đổi An Nam thành Giao Chỉ, thiết lập hệ thống cai trị gồm 3 cơ cấu Đô chỉ huy sứ ti, Bố chính sứ ti và án sát sứ ti, cắt cử bọn quan lại người Minh như Lã Nghị, Hoàng Trung, Trương Hiển Tông, Vương Bình, Nguyễn Hữu Chương, Bùi Bá Kì, Hoàng Phúc v.v. nắm giữ các cơ quan đó, đồng thời chia nước ta thành 15 phủ và 5 châu trực lệ ti Bố chính(5). Bằng hành động này, rõ ràng nhà Minh đã chuyển An Nam từ địa vị một phiên quốc thành hệ thống quận huyện dưới sự cai trị trực tiếp của Thiên triều.

Để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc, nhiệm vụ đặt ra cho các lãnh tụ Lam Sơn là phải đấu tranh giành lại địa vị phiên quốc cho nước Việt. Đoạn văn sau đây trong một tờ Biểu cho thấy Lê Lợi và Nguyễn Trãi ý thức được rất rõ ràng mục tiêu của mình trong lập luận đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh:

臣 竊 惟. 交 南 之 地 實 為 海 外 之 邦. 漢 唐 雖 置 郡 縣 而 實 則 羈 麋; 宋 元 亦 已 往 伐 而 尋 加 爵 命. 迨 我 太 祖 高 皇 帝 之 啟 運; 而 臣 祖 父 先 諸 國 以 來 朝. 遞 年 入 貢 於 帝 庭; 累 世 襲 封 於 王 爵.(6)

(Thần trộm nghĩ đất Giao Chỉ phương Nam, thực quả là nước thuộc về hải ngoại(7), nhà Hán, nhà Đường dẫu đặt làm quận huyện, mà thực coi là hạng ki mi(8); đời Tống, đời Nguyên tuy đánh dẹp ra uy, nhưng sau lại ban phong tước mệnh. Thái Tổ Cao Hoàng đế(9) lúc ban đầu mở vận, ông cha thần trước các nước vào chầu. Hàng năm tiến cống sân triều, nối đời tập phong Vương tước).

Cho nên, cuộc đấu tranh ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn với triều đình nhà Minh, rốt cuộc chủ yếu là xoay quanh vấn đề cầu phong và tiến cống. Tất nhiên đối với triều Minh, chuyển đổi mối quan hệ với An Nam từ quận huyện sang phiên quốc không phải là điều dễ dàng chấp nhận. Việc Trần Quý Khoáng mấy lần cầu phong vào thời Vĩnh Lạc đều bị nhà Minh hoặc khước từ một cách tàn khốc, hoặc tìm cách biến "cầu phong" thành "xin hàng nhận chức quan" là một dẫn chứng lịch sử cho thấy nếu không có sự phối hợp của các hoạt động quân sự và chính trị khác nhau để tạo thành một cục thế nhất định thì khó có thể xoay chuyển được ý chí cai trị của Thiên triều. Đây chính là điều mà Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân đã nhận thức được rõ ràng và thực hiện một cách tài tình trong cuộc kháng chiến để giành được mục tiêu cuối cùng, điều mà các cuộc khởi nghĩa trước đó chưa có ai đạt tới.

Vì đối tượng của cuộc đấu tranh ngoại giao do nghĩa quân Lam Sơn tiến hành là triều đình nhà Minh, và cụ thể là vua Minh, do đó không thể áp dụng hình thức gửi thư từ như đối với các quân tướng người Minh, mà phải dùng những hình thức công văn qui định mang tính chất ngoại giao quan phương hơn, đó là văn kiện thể loại Tấu 奏 và Biểu 表. Đây là hai thể loại văn bản thuộc loại hình công văn được qui định ở thời phong kiến chuyên dùng để kẻ dưới đệ trình lên người trên, chủ yếu là dùng trong trường hợp bề tôi thần thứ trình lên nhà vua như sách Hậu Hán thư chú dẫn Hán tạp sự đã chép rằng: “Phàm giấy tờ của quần thần dâng lên thiên tử gồm có 4 loại: Chương, Tấu, Biểu và Bác nghị”. Tùy theo mục đích và nội dung của lần giao thiệp mà phía ta chọn dùng thể loại Tấu hay Biểu thích hợp. Do nắm vững được công năng của từng thể loại công văn này mà Lê Lợi và trực tiếp là Nguyễn Trãi đã sử dụng Tấu, Biểu như là thứ công cụ đấu tranh chính trị sắc bén với triều đình nhà Minh nhằm giành lại nền độc lập tự chủ cho đất nước.

Nhưng trước mưu đồ ngoan cố xâm chiếm đất nước ta của đối phương, để đạt được mục tiêu đó, phía ta còn phải trải qua một quá trình gian nan, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi các lãnh tụ Lam Sơn phải kiên trì và khôn khéo, từng bước thuyết phục, tiến công trên mặt trận đấu tranh chính trị. Thực tế lịch sử cho thấy thời gian của quá trình này cũng kéo dài không kém thời kỳ kháng chiến đánh đuổi đội quân xâm lược. Khởi đầu từ biện pháp sách lược lập ra ông vua Trần Cảo, để thay lời kẻ hậu duệ vua Trần này tiến hành cầu phong, mở đường cho sự giao thiệp với triều đình nhà Minh, từ tháng 12 năm 1426 phía ta liên tiếp gửi đi hàng loạt văn kiện, trong đó nêu ra những chứng lý về mặt địa lý và lịch sử để chứng minh tính chất độc lập và khẳng định địa vị một phiên quốc có quyền tự chủ của nước An Nam. Đứng trên lập trường của một quốc gia độc lập đó, ta lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược và tố cáo những tội ác của nhà Minh, khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời với việc cầu phong, ngày 29 tháng 11 năm 1427 phía ta chủ động nối lại nghĩa vụ chức cống của một phiên quốc lần đầu tiên sau hơn hai chục năm gián đoạn. Đặc biệt lần này, bên cạnh đồ cống vật, sứ giả của ta còn mang theo cả một số "chiến lợi phẩm" bao gồm hổ phù, ấn bạc của viên tướng Liễu Thăng cùng hàng nghìn quân nhân, sĩ quan, người ngựa mà ta thu được trên chiến trường lập thành danh sách đệ trình trao trả lại nhà Minh. Bề ngoài dường như chỉ nhằm bày tỏ sự ăn năn, hối lỗi, muốn bằng cách trả lại những vật chứng cụ thể xác thực thêm cho những lời lẽ thành khẩn trong bản Tấu, thanh minh về những sự việc "đáng tiếc" xảy ra trên chiến trường, nhưng đằng sau những di vật sót lại của viên bại tướng tử trận đó hiển nhiên còn gửi nhắn một thông điệp răn dè cảnh cáo đối với âm mưu tiếp tục hành động xâm lược của địch. Ngày 3 tháng 8 năm 1428, vua Minh phải sai sứ giả mang chiếu sang Giao Chỉ truyền lệnh rút quân và phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và kết thúc thời kỳ cai trị quận huyện của họ ở Giao Chỉ, đồng thời phải thừa nhận nước ta là một quốc gia có chủ quyền. Nhưng vào lúc này Trần Cảo đã chết. Lãnh tụ nghĩa quân Lê Lợi một mặt lên ngôi Hoàng đế, củng cố chính quyền và bộ máy nhà nước, mặt khác cử người sang Minh báo tang Trần Cảo và tiếp tục cầu phong. Đến đây, nhà Minh lại trở mặt, bằng cách bám lấy quan điểm khôi phục triều vua cũ, họ không chịu công nhận chính quyền mới thành lập của triều Lê mà dai dẳng liên tiếp đòi ta tìm kiếm con cháu họ Trần, đồng thời hạch sách về vấn đề người Minh bị bắt ở Giao Chỉ trong chiến tranh. Phía ta lại phải qua nhiều lần giao thiệp qua lại giải thích, thuyết phục, thậm chí cả biện pháp vận động các đầu mục, kì lão trong nước liên danh cầu phong cho Lê Lợi. Mãi đến ngày 1 tháng 11 năm 1431, vua Minh mới chấp nhận trao cho vua ta Quyền thự An Nam quốc sự. Tuy nhiên, trong khi buộc phải "trả lại nước An Nam cho người An Nam", triều Minh vẫn thể hiện sự ngoan cố, vớt vát thể diện của họ bằng cách chỉ ban "sắc mệnh" chứ không chịu "sách phong", đồng thời ngay trong chức danh trao cho Lê Lợi họ đã sử dụng hai chữ "權 Quyền" và "署Thự" là những từ chuyên môn dùng trong việc phân bổ quan chức trong nước và đều mang ý nghĩa "tạm thời ủy nhiệm"(10). Vì vậy để giành được sự công nhận chính thức địa vị một quốc gia độc lập hoàn toàn, chính quyền đầu thời Lê sơ còn phải tiếp tục kiên trì đấu tranh ngoại giao với triều Minh kéo dài trong mấy năm sau. Đời vua Thái Tổ chưa hoàn thành, vua Thái Tông lại kế tiếp. Trải qua bao gian khổ, hoặc phải sang giải đáp những đòi hỏi về số người Minh còn bị lưu giữ, hoặc phải đấu tranh về lệ tuế cống, thậm chí có đoàn sứ ta nhận sứ mệnh sang Minh, có đến 7 người phải nằm lại trên đất khách mà không trở về nhà(11). Cuối cùng cho đến ngày 13 tháng Giêng năm 1437 nhà Minh mới phải chính thức sách phong cho vua Thái Tông tước hiệu An Nam Quốc vương.

Ta thấy rằng, để đạt tới mục đích là một quốc gia độc lập và tự chủ, cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân ta phải trải qua một thời kỳ suốt 11 năm. Trong cuộc đấu tranh này, giữa ta với triều đình nhà Minh đã tiến hành trên ba chục cuộc giao thiệp qua lại, trong đó riêng về phía ta đã có 20 lần tiến hành trao đổi với ít nhất là 28 văn kiện ngoại giao, chủ yếu đều là thể loại tấu và biểu. Rất may là sau hơn 5 thế kỷ, nội dung của một phần trong số văn kiện này vẫn còn được lưu giữ trong di sản Hán Nôm, cụ thể theo điều tra của chúng tôi là còn 18 văn kiện thể loại này còn được lưu chép rải rác trong một số thư tịch như Ức Trai di tập, Cổ kim bang giao bị lãm, Bang giao lục, Hoàng các di văn v.v. Đây là những tài liệu rất quí, có ý nghĩa như là những chứng tích còn lại của một cuộc đấu tranh ngoại giao đầu thời Lê sơ nêu trên.

Đối với những văn kiện của Nguyễn Trãi thuộc thể loại tấu và biểu này, trong một chuyên khảo trước đây(12), thông qua khảo sát nghiên cứu văn bản, chúng tôi tuy chưa có điều kiện nghiên cứu để xếp thành một tập hợp văn kiện riêng rẽ, nhưng cũng đã xác định là chúng không thuộc vào tập hợp văn kiện Quân trung từ mệnh. Cơ sở chủ yếu của quan điểm này, trước hết là dựa vào sự khác biệt khá rõ rệt về ý nghĩa chính trị, và từ đó đòi hỏi có sự khác biệt về đối tượng và phương diện thể loại của những văn kiện tấu, biểu này so với văn kiện thư từ, lệnh dụ trong Quân trung từ mệnh.

Tuy cùng là những hình thức hoạt động đấu tranh chính trị phục vụ cho cuộc kháng chiến, và trong thực tế thực hiện của nghĩa quân Lam Sơn, các hình thức này luôn có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, nhưng nếu xét về mặt ý nghĩa thì văn kiện thể loại thư từ lệnh dụ của Quân trung từ mệnh chủ yếu là những biện pháp địch vận và đấu tranh hòa đàm nhằm làm tan rã ý chí chiến đấu của đội quân xâm lược và ngụy quân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta giải quyết các vấn đề trên chiến trường, tức trực tiếp nhằm vào mục đích giải phóng dân tộc thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Còn văn kiện thể loại tấu biểu là những công văn mang tính chất ngoại giao được sử dụng để đấu tranh với triều đình nhà Minh nhằm khẳng định và giành lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. Với những mục đích khác nhau như vậy, đối tượng của văn kiện thư từ lệnh dụ được Nguyễn Trãi thảo ra là nhằm gửi cho các tướng sĩ giặc trên chiến trường Giao Chỉ dưới hình thức những bức thư, tờ dụ; trong khi tấu biểu là thể loại công văn theo truyền thống để kẻ dưới trình lên người trên thì được sử dụng để giao thiệp với triều đình nhà Minh, cụ thể là vua Minh. Cũng vì đối tượng đấu tranh ở cấp cao hơn nên ở những văn kiện này càng nổi bật tính chất ngoại giao quan phương, và vì thế ý nghĩa chính trị của chúng cũng được nâng lên tầm cao hơn. Bằng chứng là từng tờ tấu, biểu của ta giao thiệp với triều Minh đều được chính sử của cả hai nước ghi chép lại đầy đủ như là một sự kiện lịch sử, với những chi tiết cụ thể về thời gian, phương thức chuyển đạt, nội dung đề cập của văn kiện, thậm chí đôi khi còn tóm lược hoặc trích dẫn nguyên văn của chúng. Đó là một đặc điểm rất thuận lợi cho chúng ta trong công tác nghiên cứu, thậm chí có thể dựa vào những ghi chép đáng tin cậy của chính sử để xác định "lai lịch" cụ thể của từng văn kiện đấu tranh ngoại giao, điều hầu như khó có thể làm được đối với trường hợp các văn kiện thư từ địch vận.

Một sự khác nhau nữa là về thời gian. Rõ ràng việc trao đổi văn kiện loại thư từ được dừng lại kể từ sau ngày quân Minh thua trận, Vương Thông buộc phải hội thề với ta rồi mang quân rút về nước, khi mà công tác dụ hàng, địch vận đã trở nên không còn cần thiết nữa; trong khi đó việc giao thiệp với triều đình nhà Minh vẫn còn phải tiếp tục ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc một vài năm để giành lại nền độc lập tự chủ hoàn toàn. Do vậy, nếu nhập văn kiện thể loại tấu biểu vào Quân trung từ mệnh thì vô hình trung, tập hợp văn kiện này sẽ bị chia thành 2 "mảng" riêng rẽ: một thuộc thời kỳ chiến tranh và một thuộc thời kỳ sau hòa bình. Trong khi thực tế lịch sử cho thấy, cả khối văn kiện này là chứng tích của một cuộc đấu tranh ngoại giao được Lê Lợi và Nguyễn Trãi tiến hành liên tục với những diễn biến gay go phức tạp kéo dài suốt nhiều năm để giành nền độc lập tự chủ hoàn toàn cho đất nước.

Chính vì những lý do trên, chúng tôi chủ trương đưa số văn kiện thể loại tấu, biểu này độc lập với văn kiện thư từ lệnh dụ, một mặt bảo toàn sự thống nhất và tập trung của các văn kiện trong tác phẩm Quân trung từ mệnh, phù hợp với ý đồ của Trần Khắc Kiệm khi ông đặt tên cho sưu tập của mình, mặt khác giữ được tính liên tục lịch sử của các văn kiện tấu, biểu, một tập hợp các giấy tờ đấu tranh ngoại giao mà ý nghĩa của chúng cũng không kém phần quan trọng đối với sự ra đời và tồn tại của nhà nước Đại Việt.

Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, đây là một quan điểm mang tính chất thuần túy văn bản học được nêu ra không ngoài mục đích tiếp cận tới diện mạo hợp lý ban đầu của văn bản Quân trung từ mệnh và góp phần trợ giúp cho công tác nghiên cứu tư liệu lịch sử được khoa học và thuận tiện hơn. Do vậy, nó không hề mang đôi chút sắc thái cảm tính mà những từ ngữ đại loại "đưa ra...", "loại ra..." hoặc "gạt ra khỏi Quân trung từ mệnh" v.v... có thể mang lại. Nằm trong khối di sản Hán Nôm quí giá do ông cha để lại, những văn kiện thể loại tấu, biểu này không những là một bộ phận trong số di văn hiếm hoi còn lại của danh nhân Nguyễn Trãi, mà cũng như những công văn giấy tờ khác soạn thảo cùng thời, đó còn là những tư liệu lịch sử vô cùng quan trọng để hậu thế nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc ta ở thế kỷ XV. Vì thế, chúng dù nằm trong tập hợp văn bản nào cũng vẫn giữ nguyên giá trị và cần phải được khảo sát nghiên cứu thấu đáo.

CHÚ THÍCH

(1) Toàn thư, Bản kỷ, Q.10, tờ 2a.

(2) Toàn thư, Bản kỷ , Q.5, tờ 21a.

(3) Nam Hải ở đây không phải là tên một trong 9 quận lập ra thời Hán mà được dùng để chỉ một khu vực địa lý. Quan niệm về phạm vi của khu vực này có sự thay đổi khác nhau tùy từng thời kỳ lịch sử, thường chỉ các nước cổ đại nằm thuộc về vùng biển phía nam Trung Quốc như An Nam, Chiêm Thành, Xiêm La, Chân Lạp, Miến, Trảo Oa, Lưu Cầu, Lữ Tống v.v..., tức là các nước ở vùng tương đương với khu vực Đông Nam á ngày nay.

(4) Vi Khánh Viễn: Trung Quốc chính trị chế độ sử, Trung quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã xuất bản, 5-1991, tr.44. Trích theo Khưu Huyễn Dực: Minh Đế quốc dữ Nam Hải chư phiên quốc quan hệ đích diễn biến, Nxb. Lan Đài, Đài Bắc, 1995, tr.12.

(5) Theo Minh sử, Q.321 - An Nam truyện, tr.8316. Sự kiện này Toàn thư (Bản kỷ, Q.9, tờ 2b) chép vào tháng 4 cùng năm.

(6) Trích tờ Biểu mang danh nghĩa Trần Cảo là dòng dõi vua Trần gửi vua Minh.

(7) Hải ngoại: chỉ bên ngoài Trung Quốc.

(8) Ky mi: chỉ quan hệ ràng buộc chứ không trực tiếp cai trị, (tham khảo sơ đồ bên trên).

(9) Thái Tổ Cao Hoàng đế: chỉ vua Minh Thái Tổ.

(10) Tham khảo: Trung Quốc quan chế đại từ điển.

(11) Theo Toàn thư, Bản kỷ thực lục, Q.11, tờ 28b.

(12) Xem Nguyễn Văn Nguyên: Những vấn đề văn bản học Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trãi, Nxb. Văn học, H. 1998.

TB

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN

NGUYỄN ĐĂNG NA

Bình Ngô đại cáo (BNĐC)(1) không chỉ là tác phẩm văn học chức năng hành chính cực kỳ quan trọng đối với dân tộc ta mà còn là một mẫu mực cho loại văn chính luận của Việt Nam thời trung đại. Vì thế, bất cứ trường học Việt Nam dù dưới chế độ xã hội - chính trị nào cũng đều đưa tác phẩm này vào chương trình giảng dạy cho học sinh(2). Chỉ có điều, mỗi sách chọn một văn bản khác nhau, giải thích tên đầu bài khác nhau, thậm chí ở cùng một nhà xuất bản, in trong một năm, do cùng một chương trình chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng chẳng nhất quán được về văn bản, về cách giải thích tên tác phẩm, về nội dung chú giải từng từ ngữ, điển cố... Chẳng hạn, soạn giả sách Văn học 9 tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục (nộp lưu chiểu tháng 2 năm 2002) viết: “BNĐC là bài cáo có quy mô lớn, nói việc đánh dẹp giặc Ngô” (tr.21); trong khi đó, sách Văn học 10 tập 1 cũng do Nhà xuất bản Giáo dục in và nộp lưu chiểu cùng năm 2002 (tháng 3) thì soạn giả lại giải thích: “Đại cáo: tuyên bố, tuyên cáo rộng khắp những điều quan trọng” (tr.124). Vậy đại trong “đại cáo” là từ chỉ về quy mô ngắn dài của tác phẩm hay nói về phạm vi phổ biến “tuyên cáo rộng khắp” cùng ý nghĩa “những điều quan trọng” của nó? Lại nữa, về văn bản, soạn giả Văn học 9 (Sđd) ghi: “Bùi Văn Nguyên dịch dựa theo bản dịch của Bùi Kỷ (Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X - XVII, Văn hóa, H, 1962)” (tr.19), nhưng tiếp đó lại thêm câu: “Có tham khảo chính văn và một số bản dịch khác” (tr.19). Ghi như vậy, soạn giả muốn nói với người đọc rằng, mình đã dịch lại hoặc ít ra cũng chỉnh lý lại bản dịch của Bùi Văn Nguyên ? Khi đối chiếu, chúng tôi thấy quả thật soạn giả đã sửa lại ít nhất ba chỗ và thêm vào một câu:

- “mỗi bên hùng cứ một phương” thành “mỗi bên xưng đế một phương”.

- “phần thì giận hung đồ ngang dọc” thành “phần vì giận quân thù ngang dọc”.

- “phần thì lo vận nước khó khăn” thành “phần vì lo vận nước khó khăn”.

Thêm câu: “Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng”

Sách Văn học 10 thì khác. Soạn giả cũng chọn bản “Bùi Văn Nguyên dịch dựa theo bản dịch của Bùi Kỷ” (tr.123) nhưng lấy từ sách tái bản “In lại lần hai có sửa chữa bổ sung” (tr.5) của Nhà xuất bản Văn Học, H. 1976 và câu “Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng” được chú thích: “Câu này là công thức đặt ở đầu các giấy tờ quan trọng của nhà vua thời Lê. Lâu nay các văn bản thường quên câu này” (tr.124).

ở đây chúng tôi chưa bàn đến việc, sách nào nói đúng, sách nào nói sai, mà chỉ muốn đề cập tới, làm sao có được sự nhất quán trong một hệ thống bài giảng mang tính chất liên thông giữa cấp PTCS với PTTH. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn hiểu rằng, mỗi cấp học do mục tiêu đào tạo, do khung chương trình quy định, chúng phải có sự khác biệt về mức độ yêu cầu, về dung lượng kiến thức... Song, những điều ấy chẳng thể mâu thuẫn với tính nhất quán của hệ thống liên thông giữa các cấp học. Để tiến tới sự nhất quán đó, trong bài viết này, bước đầu chúng tôi đề cập hai vấn đề: 1- Chọn văn bản chữ Hán mang tính quy chuẩn để đối chiếu với bản dịch khi soạn sách giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy. 2- Câu “Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng” có trong bản quy chuẩn không và nên hiểu nó như thế nào cho thỏa đáng ?

1. Lựa chọn văn bản chữ Hán:

Việc lựa chọn văn bản chữ Hán sẽ làm cơ sở cho cách lựa chọn và hiệu đính bản dịch.

Bài BNĐC có mặt trong nhiều văn bản chép tay cũng như khắc in. Tuy nhiên, những bản chép tay do quá trình sao chép, phần nhiều bị sai lạc, ít đảm bảo độ chính xác. Vì vậy, chúng ta chỉ nên chọn những văn bản in khắc. Chúng hiện còn 3 văn bản là Trùng san Lam Sơn thực lục(3). Đại Việt sử ký toàn thư(4) và Hoàng Việt văn tuyển(5). Ta có thể chia hệ thống văn bản trên thành 2 loại: Loại có đầy đủ toàn văn bài BNĐC và loại không có đầy đủ toàn văn BNĐC. Bây giờ ta sẽ lần lượt xét từng loại văn bản.

a, Loại không đầy đủ toàn văn bài: loại này chỉ có một văn bản. Đó là sách Trùng san LSTL.

Trùng san LSTL được ảnh ấn trong tập 2 Nguyễn Trãi toàn tập tân biên(6) do PGS. Trần Nghĩa “khảo luận và dịch” (tr.207), nộp lưu chiểu quý III năm 2001” (tr. 596). Dịch giả cho hay: “năm 1979, ông Nguyễn Hữu Bưởi nguyên Phó viện trưởng Viện Thông tin KHXH đi công tác tại Pháp, cụ Hoàng Xuân Hãn có nhờ mang về bên nước bộ Trùng san LSTL in vào năm Vĩnh Trị nguyên niên 1676” (tr.209) và sách “hiện đang tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chưa kí hiệu” (tr.209). Năm 1979 cụ Hãn tặng sách. Mười năm sau: sách được nhập kho và sau đó ngót 7 năm - ngày mồng 9 tháng 3 năm 1996 sách có kí hiệu VHv. 4088. Vậy là sau 17 năm, Trùng san LSTL đã ra mắt bạn đọc. Theo lời hướng dẫn của PGS. Trần Nghĩa. “Xem mấy dòng ghi chú của cụ Hoàng Xuân Hãn ở đầu bộ sách mà cụ gửi tặng” (tr.209), chúng tôi đã đọc lời nhận xét của cụ Hãn và được biết, bản Trùng san LSTL “mang chữ húy đời Lê như: thay 新 [LSTL tựa / 1a (4)] ; thay 提 [LSTL tựa / 4b (7)]”. ý câu này của cụ Hãn là, chữ Tân viết húy ở bài tựa LSTL tờ 1a, cột 4, chữ đề viết húy ở tờ 4b, cột 7 của bài tựa LSTL. Từ phát hiện trên, cụ Hoàng Xuân Hãn kết luận: “Vậy chắc chắn... bản này là khắc ván của từ đời Lê”(7). Khi khảo sát kỹ lại toàn văn Trùng san LSTL, chúng tôi có mấy băn khoăn:

Thứ nhất: Kiểu chữ viết trong bài tựa LSTL không thống nhất. Chúng dường như do nhiều người viết và viết vào các thời điểm khác nhau. Hơn nữa, chữ “tân”, chữ “đề” được viết to hơn các chữ khác trong cùng một cột, lấn diện tích chữ đứng dưới như muốn phô với người đọc rằng, đây là chữ viết húy.

Thứ hai: Nếu đã viết theo lối kỵ húy thì phải nhất quán trong toàn văn bản. vậy mà, trong LSTL có tới 7 chữ “tân” [Tân Bình (địa danh), duy tân, tân quân (quân mới)] và 1 chữ “đề” [Bồ Đề (địa danh)] không được viết kỵ húy.

Thứ ba: Đề là tước của Trịnh Nhuận (Đề Quận công), con thứ 3 của Trịnh Căn. Nhưng mãi năm 1682, Trịnh Căn mới được lên ngôi chúa. Vì thế, nếu kỵ húy chữ “đề” thì phải tới 1682 năm Trịnh Căn lên ngôi mới xảy ra, chứ không thể xảy ra năm 1676.

Thứ tư: Khi Trịnh Căn còn ở tước Vương 2 chữ: Định Nam vương (được phong tháng 7 năm 1674), chưa được lên ngôi chúa thì chưa đủ tư cách để người ta viết đài tên ông. Vậy tại sao tác giả bài tựa lại viết đài Nguyên soái Điển quốc chính Định Nam vương ?

Bốn lý do đó buộc chúng ta phải suy nghĩ về độ chính xác của bài tựa LSTL. Tuy nhiên, điều quan trọng là, bản trùng san này đã bị mất đúng tờ có phần đầu bài BNĐC – nơi chúng ta đang muốn kiểm tra xem có hay không có câu “Đại thiên hành hóa, hoàng thượng nhược vân”. Sở dĩ phải nêu những nghi vấn trên vì, chúng tôi muốn lưu ý bạn đọc khi sử dụng văn bản Trùng san LSTL hãy thận trọng.

Tóm lại, ta không thể dùng bài BNĐC trong Trùng san LSTL.

b. Loại có đầy đủ toàn văn bài BNĐC: Loại này hiện còn 2 văn bản: Đại Việt sử ký toàn thư Hoàng Việt văn tuyển.

Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích (1744 - 1818) biên soạn, Hy Văn đường khắc in năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), Tồn Am gia tàng bản.

Bùi Huy Bích là học trò của Lê Quý Đôn, từng đỗ Hoàng giáp. Học trò ông nhiều người đỗ đạt, thành danh. Cũng như Hoàng Việt thi tuyển, HVVT là công trình nghiêm túc, khoa học, có độ tin cậy cao. Tuy nhiên, dẫu sao HVVT cũng ra đời sau ĐVSKTT. Hơn nữa nó là công trình mang tính chất trước thuật của một cá nhân khác với ĐVSKTT.

Toàn thư được khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua và do các sử quan biên soạn. Bài BNĐC nằm trong phần Bản kỷ thực lục Bản kỷ thực lục được Lê Hồng Đức giao cho Ngô Sĩ Liên biên soạn. Ngô Sĩ Liên đã hoàn thành nó vào năm 1478. Như vậy, Bản kỷ thực lục ra đời trước HVVT trên dưới 300 năm và được khắc in trước HVVT 128 năm. Những thông số trên cho phép là nghĩ rằng, văn bản bài BNĐC trong ĐVSKTT có độ chính xác cao hơn trong HVVT. Vả chăng, khi so sánh văn bản, chúng tôi thấy độ vênh giữa chúng không đáng kể(8). Tuy nhiên, muốn có một văn bản BNĐC tốt nhất để đưa vào giảng dạy trong các cấp học phổ thông, không gì bằng lấy trong ĐVSKTT phần Bản kỷ thực lục do Ngô Sĩ Liên biên soạn.

2- Câu “Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng” có trong văn bản BNĐC hay không ?

Rõ ràng, trong 2 văn bản khắc in rất đáng tin cậy: ĐVSKTT HVVT đều không có câu này. Vậy chúng từ đâu lọt vào và có nên để lại không ? Muốn giải quyết, theo chúng tôi, cần tìm hiểu cách xưng hô thời Lê Lợi cũng như lịch sử cuộc kháng chiến chống quân Minh những năm 1407 - 1427.

Trước hết cần trả lời câu hỏi: Ai viết BNĐC? Câu hỏi tưởng chừng vớ vẩn. Nhưng không ! Đây là mấu chốt của vấn đề.

Ai cũng biết, Nguyễn Trãi viết BNĐC; song ông viết dưới danh nghĩa Lê Lợi. Bởi vậy ngôn ngữ xưng hô trong bài phải là ngôn ngữ của Lê Lợi. Vì thế, trong BNĐC nói riêng, trong LSTL nói chung, khi kể về mình, Lê Lợi toàn dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít: dư [予] , ngã [我] và khi kể về Lê Lợi với tư cách nhân vật được trần thuật trong LSTL người viết dùng thêm đại từ đế [帝] ở ngôi thứ 3 số ít. Còn 2 chữ hoàng thượng, ai cũng biết, đó là đại từ ngôi thứ 3 số ít dùng để các thần dân gọi nhà vua. Nhà vua không bao giờ tự xưng mình là “hoàng thượng” cả. Khi xem phim Trung Hoa, chúng ta thấy các viên Hoạn quan đem chiếu chỉ đến đọc: “Phụng thiên thừa vận, hoàng đế (hoặc hoàng thượng) truyền rằng...” Đấy chính là lời của người tuyên đọc - quan truyền chỉ, chứ không phải lời trong văn bản chiếu chỉ.

Khi dạy BNĐC là ta dạy văn bản bài văn, còn các thầy cô giáo đâu phải là quan truyền chỉ mà phải đọc câu “hoàng thượng truyền rằng”.

Thứ hai, nếu văn bản có câu “Đại Thiên hành hóa, hoàng thượng truyền rằng...”, thì đấy là lời kể của nhà viết sử, hoặc lời thuật của người kể chuyện, chúng không phải ngôn ngữ của BNĐC.

Vấn đề thứ 2 được đặt ra: từ đâu xuất hiện 4 chữ “đại thiên hành hóa” [代 天 行 化] ? phải chăng nghĩa của chúng là thay trời hành hóa như các soạn giả sách Văn học 9 Văn học 10 đã dịch ? Ta hãy đọc lại Đại Việt sử ký toàn thư quyển X, phần Lê triều Thái Tổ kỷ, năm Ất Tỵ 1425. Tại đó có đoạn kể như sau:

(Quân ta) “thừa thắng, đánh các xứ Tân Bình, Thuận Hóa. Quân và dân của giặc đều quy thuận. Người Minh vào thành cố giữ. Từ đấy Thuận Hóa, Tân Bình đều thuộc về ta cả. Các tướng soái suy tôn vua làm Đại thiên hành hóa. Từ đấy trở đi có mệnh lệnh, dụ bàn việc gì, phần nhiều lấy 4 chữ ấy để xưng”(9).

Thì ra vậy ! Đại Thiên Hành Hóa là danh hiệu tôn xưng Lê Lợi sau chiến thắng Thuận Hóa, Tân Bình năm 1425. Đây lại thêm một minh chứng cho biết, BNĐC được viết cuối năm Đinh Mùi 1427 khi Lê Lợi chưa lên ngôi và chưa đặt niên hiệu Thuận Thiên. Bởi vậy, câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân” nếu có thì phải dịch là “Hoàng thượng (có tôn hiệu) Đại Thiên Hành Hóa truyền rằng” và 4 chữ đại thiên hành hóa phải viết hoa.

Trên đây là những vấn đề chọn văn bản BNĐC và cách hiểu câu “Đại Thiên Hành Hóa...”. Ngoài ra, còn một số vấn đề không kém phần quan trọng nữa là: Cách hiểu 2 chữ Đại cáo [大 誥], chọn bản dịch và giải thích từ ngữ... Chúng tôi sẽ trình bày chúng trong bài viết khác.

N.Đ.N

CHÚ THÍCH

(1) Từ đây viết tắt là BNĐC.

(2) Chẳng hạn trong các sách giáo khoa sau đây:

- Quốc văn cụ thể của Ưu Thiên Bùi Kỷ in năm 1932.

- Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nha học chỉnh Đông Pháp xuất bản năm 1943.

- Sơ học An Nam sử lược của Trần Trọng Kim in năm 1916 tại Sài Gòn.

- Văn học lớp 9, tập 1, Nxb. Giáo dục, H. 2001 (sách tái bản lần thứ 12).

(3) Trùng san Lam Sơn thực lục ảnh ấn trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H. 2001. Từ đây viết tắt Trùng san LSTL hoặc bản Trùng san; các trích dẫn dưới đây chỉ ghi số trang.

(4) Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản, Chính Hòa 18 (1697) ảnh ấn trong Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, KHXH. H. 1993. Từ đây viết tắt là ĐVSKTT hoặc Toàn thư và các trích dẫn chỉ ghi số trang.

(5) Bùi Huy Bích: Hoàng Việt văn tuyển, Hy Văn đường khắc in năm Minh Mệnh 6 (1825), Tồn Am gia tàng bản; Từ đây gọi tắt là bản Bùi Huy, bản Hoàng Việt hoặc HVVT và các trích dẫn chỉ ghi số trang.

(6) Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học xb, H. 2001. Từ đây viết tắt là NTTTTB hoặc Tân biên; các trích dẫn chỉ ghi số trang.

(7) Trong Lời giới thiệu sách LSTL, PGS. Trần Nghĩa sử dụng lại những phát hiện này của Hoàng Xuân Hãn. Ông viết: “Trong bản in này có những chữ húy của đời Lê, như dùng chữ thay cho 新 (tựa tờ 1a, dòng 4, chữ thứ 14) thay cho 提 (tựa, tờ 4b, dòng 7, chữ thứ 7), mà không thấy những chữ húy thuộc đời Nguyễn, chứng tỏ nó không thể là bản được in dưới triều Nguyễn” (tr.209). Có lẽ ông quên chú xuất xứ chăng ?

(8) Chẳng hạn: nghĩa binh // nghĩa kỳ; vô nhất đội // vô nhất lữ... Bản của Bùi Huy Bích thêm chữ “cái văn” (từng nghe...).

(9) Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, KHXH, H. 1968, tr.22. Nguyên văn như sau: “thừa thắng kích Tân Bình, Thuận Hóa đẳng xứ, Tặc quân dân giả quy thuận. Minh nhân nhập thành cố thủ. Ư thị, Thuận Hóa, Tân Bình tất vi ngã hữu, Chư tướng suy tôn đế vi “Đại Thiên Hành Hóa”. Tự thị bảng dụ đa dĩ thử tứ tự xưng chi” (tờ 18a - 18b), Sđd.

TB

BÀI THƠ NÔM CỦA NGUYỄN TRÃI HAY CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM?

TẠ NGỌC LIỄN

Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có chép bài thơ Nôm dưới đây:

“Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mới hào
Đại địa dầy, Nam nhạc khỏe
Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao
Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh
Giữ thuở khô khao có thuở dào
Kìa nếu Tô Tần ngày trước
Chưa đeo tướng ấn có ai chào.”(1)

Đọc Bạch vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta cũng thấy có bài thơ này(2). Vậy thì ai là tác giả đích thực của bài thơ, Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm ?

Hiện giờ có tới 30 bài thơ Nôm cổ vừa thấy chép trong Quốc âm thi tập, vừa thấy chép trong Bạch vân quốc ngữ thi, chưa rõ là thơ Nguyễn Trãi hay thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ?

Trước đây, hai nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Stakêvits đã dùng phương pháp thống kê số lượng ngôn ngữ mang nét khu biệt trong sáng tác thơ Nôm mà Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng, để từ đó phân định thơ Nôm của hai tác giả này. Đây là một hướng nghiên cứu văn bản học mang tính khách quan, khoa học cần được chú ý tiếp tục thêm.

Riêng tôi muốn đưa ra một hướng tiếp cận khác: Giải quyết từng bài cụ thể một, trên cơ sở phân tích nội dung tư tưởng chủ đạo và cảm hứng sáng tác bài thơ đó, rồi xem xét nên đặt nó vào ô thơ Nôm Nguyễn Trãi hay ô thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm thì hợp lý hơn; tất nhiên phương pháp này cũng chỉ áp dụng được với một số bài, thí dụ với bài thơ Nôm được đề cập ở bài viết này.

Cảm hứng sáng tác cũng như nội dung tư tưởng của bài thơ trích dẫn trên mang tính triết học cao. Có thể nói đây là một bài thơ triết học. Tác giả viết bài thơ này muốn để diễn tả tư tưởng triết học của mình: mọi hiện tượng tự nhiên trong trời đất mà tác giả chiêm nghiệm thấy, đều chứa đựng những mâu thuẫn, đối lập, và sự phát triển của sự vật chính là quá trình “đổi đắp” lẫn nhau của những mâu thuẫn tương phản ấy:

“Đại địa dầy, Nam nhạc khỏe
Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao
Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh
Giữ thuở khô khao có thuở dào”.

Tư tưởng triết học này hoàn toàn giống với tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện qua thơ ông.

Đọc thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta thấy nội dung thơ ông rất phong phú, trong đó có nhiều điều tương đồng với thơ Nôm Nguyễn Trãi, nhưng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có một mảng đề tài hết sức riêng biệt, mang đặc sắc nổi trội, trong suốt cả thế kỷ XV - XVI, chỉ thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là thơ triết học, triết lý(3). Qua những bài thơ triết học này, Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày nguyên lý vận động, biến đổi của vạn vật; đồng thời ông luôn nêu lên tính mâu thuẫn, đối lập mà ông nhận thức thấy ở chúng:

“Sen mùa trước đổi, mùa sau mọc
Triều, cửa này ròng, cửa khác cường
âm đã lại dương, đành máy nhiệm
Bĩ thôi thì thái ấy là thường”.
(Bài 98)

Theo cái nhìn triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong xã hội, trong đời sống con người, những sự kiện, biến cố cũng phát sinh, phát triển theo quá trình biện chứng ấy của vạn vật:

“Làm người chớ thấy tài mà cậy
Có nhọn bao nhiêu lại có tùi”.
(Bài 10)

“Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng
Dại dột nào hay tiểu có dài (đại)
...
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi”.
(Bài 2)

Tôi đã đọc kỹ lại Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thấy nếu xếp bài thơ Nôm số 66 vào đây thì nó không có đồng đội, vì trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không có thơ triết học. Bài thơ này nên để ở ô thơ Nôm triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đúng xuất xứ của nó.

T.N.L

CHÚ THÍCH:

(1) Bản phiên âm này lấy trong Nguyễn Trãi toàn tập phần Quốc âm thi tập, bài 66, của Viện Sử học, xuất bản năm 1976 (in lần thứ hai).

(2) Giữa hai văn bản của bài thơ có một số chữ khác nhau, nhưng ý nghĩa không trái nhau.

(3) Xem thêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý, Lê Anh Trà, Lê Trọng Khinh, H. 1959.

TB

ĐÔI NÉT TRAO ĐỔI VỀ
DỊCH THƠ CHỮ HÁN - NGUYỄN TRÃI

DUY PHI

Thơ chữ Hán - Nguyễn Trãi, Ức Trai thi tập là một tấm gương phản chiếu những ánh hào quang rực rỡ nhất của thế kỷ XV, là một di sản quý báu của dân tộc ta.

Thơ chữ Hán - Nguyễn Trãi, cho đến nay, đã có nhiều công trình biên soạn, dịch thuật, khảo cứu. Tiêu biểu là Ức Trai thi tập do Lê Khắc Kiệm sưu tập, đề tựa vào năm Hồng Đức, thứ 11 (1480), phần thơ chữ Hán - Nguyễn Trãi trong Tinh tuyển chư gia luật thi Dương Đức Nhan đời Lê biên tập; trong Toàn Việt thi lục - Lê Quý Đôn biên soạn, tiếp đến Ức Trai thi tập, Dương Bá Cung sưu tập năm Tự Đức 21 (1868), Ức Trai thi văn tập - bản chép tay của Nguyễn Năng Tĩnh, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833). Về những công trình biên dịch từ sau năm 1954, có Thơ chữ Hán - Nguyễn Trãi do Phan Võ, Lê Thước, Đào Phương Bình dịch, Nxb. Văn hóa - 1962, Nguyễn Trãi toàn tập do Văn Tân, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp dịch, chú giải, Nxb. KHXH, 1969, tái bản 1976 (sách dày 848 trang, in tại Nhà in Tuấn Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng 30.000 cuốn...) Nguyễn Trãi toàn tập (NTTT) là một công trình biên dịch có chất lượng cao, có bạn đọc rộng rãi. Với tôi, NTTT là sách quý - “gối đầu giường”. Tuy vậy, nay đọc lại phần thơ chữ Hán - Nguyễn Trãi - Ức Trai thi tập, xin có đôi nét bàn thêm.

1. Trước hết là sự Việt hóa chưa cao trong ngôn ngữ dịch thuật.

Nói chung, dịch thơ chữ Hán, là phải dùng tiếng Việt, ngữ pháp Việt để bạn đọc dễ tiếp nhận, như Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm, Phan Huy Vịnh dịch Tỳ bà hành... Dịch đến mức, nhiều bạn đọc chỉ đọc bản dịch, có thể cảm thụ được cơ bản nguyên tác. Trong NTTT, các bản dịch thơ chữ Hán, còn dùng từ Hán quá nhiều. Bài 20, nguyên tác có các vần: trừ gian, thế an, Hán quan, giang san... Trong bản dịch thơ cũng vẫn những vần: nước an, Hán quan, giang san... Bài 21, bản dịch thơ cũng nguyên những vần thơ, từ Hán trong nguyên tác: Võ Kinh thương sinh, sự thành, uy thanh... Bài 83, dịch thơ cũng giữ nguyên những vần chưa được Việt hóa. Thiên cầm, đạo thâm, cung cầm... Bài 54 có câu “Nhất sinh lạc phách cánh kham liên”. Nghĩa: “Một đời luân lạc càng đáng thương”. ấy thế mà dịch thơ thành “Càng nên thương một kiếp điên liên”. Hai chữ “điên liên” làm cho câu thơ bỗng tối đi, mù mịt. Bài 70, có câu “Quân thân tại niệm thốn tâm đan”. Nghĩa: “Quân thân vẫn để dạ, một tấc lòng son”. Dịch thơ thành: “Vua cha để dạ một niềm đan”. Từ đan nhảy vào câu thơ tiếng Việt một cách kỳ quặc. Nếu là điển tích thì đi một nhẽ, đây chỉ là những từ thông dụng.

Lại có một số bản dịch thơ, không dịch ra tiếng Việt, mà lại dịch ra những chữ Hán khác (ví dụ bài 93, với sự xuất hiện các chữ phiên, hiển, nhãn tiền...). Sau đó dịch giả lại ra sức chú thích, giảng giải.

2. Bí vần, phải dịch chệch đi, dùng chú thích dài dòng biện minh cho sự chệch ý.

Bài 12, có câu “Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”. Nghĩa: “Múc nước khe nấu trà, gối đá ngủ”. Dịch thơ thành: “Nước suối chè tươi ngủ thạch bàn”. Chú thích: “Vì vần bắt buộc, chúng tôi lấy ý ngủ Thạch Bàn thay ý gối đầu lên đá mà ngủ. Hiện ở nửa chừng núi Côn Sơn còn có chỗ gọi là Thạch Bàn ở bên suối, tương truyền là chỗ Nguyễn Trãi thường hay nằm nghỉ.

Bài 29, có câu: “Kim môn mộng giác lậu thanh tàn”. Nghĩa: “ở Kim môn mộng tỉnh thì tiếng lậu đã tàn”. Dịch thơ thành: “Kim môn mộng tỉnh lậu giờ xoay”. Chữ “xoay” ở đâu ra ? nghĩa gì ? Bạn đọc có ngơ ngác hãy xem chú thích: “Lậu thanh tàn, nghĩa là tiếng lậu đã tàn, tức nước ở lậu đã cạn, nên giọt nước không kêu thánh thót nữa, đó là đồng hồ nước, khi lậu cạn hết nước thì phải đổ nước vào. Xưa người ta cũng dùng đồng hồ cát, hay bình lậu cát khi nào cát ở ngăn trên chảy hết xuống ngăn dưới thì lại xoay trở lại cho ngăn dưới lên ngăn trên. Chúng tôi dịch Lậu giờ xoay là thay hình tượng đồng hồ nước bằng hình tượng đồng hồ cát, đó là do vần bắt buộc...”.

Bài 39, có câu “Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà”. Nghĩa: “Giữa dòng một đường nước chạy như con rắn xanh”. Dịch thơ thành: “Một dòng chen giữa chạy rồng xanh”. Bạn đọc muốn hiểu tại sao rắn lại thành rồng phải xem chú thích: “Cũng vì vần bằng trắc chúng tôi phải thay rắn xanh bằng rồng xanh. Nếu có ý nghĩa thần thoại hay phong thủy thì không thay rắn xanh bằng rồng xanh được, nhưng đây tác giả chỉ muốn chỉ con sông thì dùng từ rồng xanh cũng thích đáng”.

Có thể dẫn chứng ra vô số bài khác, do vần mà dịch giả đã thay đổi ý. Toàn phần Ức Trai thi tập có 373 chú thích thì có tới gần một trăm chú thích, kiểu biện minh cho việc dịch chệch đi, hoặc sai lạc ý. Đó là một tỷ lệ không nên có. Với những chú thích biện minh này đã làm phức tạp thêm văn bản.

3. Dùng một số từ nôm na, làm mất đi sự trang nhã của Ức Trai thi tập.

Ví dụ “Tổ tiên còn kém thú này xơi” (Bài 38), “Biển non vì tớ vẽ nên thơ” (Bài 46), “Thương điêu phong tục đôi co lắm” (Bài 95)... Những từ xơi, tớ, đôi co... nghe xa lạ với sự nền nã của văn bản chữ Hán. Lại đến Bài 63, câu “Tâm thanh hoạt thủy nhất âu trà”. Dịch nghĩa: “Rửa lòng cho sạch có nước chảy với một âu chè”. Dịch thơ thành “Rửa dạ sạch trong chè một ang” thì sợ quá !.

4. Có nên bỏ chữ trong nguyên tác, thay bằng chữ, theo sự phỏng đoán của người dịch ?

Bài 93, có câu cuối “Thủ phất thanh đài độc thạch bi”. Người dịch tự ý sửa “thạch bi” bằng “cổ bi” và ghi chú thích: “Các bản đều chép là thạch bi là bia đá. Chúng tôi đoán vốn là cổ bi là bia cổ, mà chép lộn ra. Trên cơ sở phỏng đoán người dịch đã sửa thành “cổ bi” cho “hợp lý” ? Nhưng xét cho cùng thì từ “cổ” cũng thừa vì “thanh đài” - rêu xanh mọc lên, tay phải gạt đi mới đọc được thì bia ấy là bia mới khắc được chăng ?

5. Xin hãy thận trọng hơn, trong khi dịch nghĩa, dịch thơ tránh để người ta có thể hiểu "dịch là phản" thật sự.

Bài 30, câu đầu: “Hồng điệp đôi đình, trúc ủng môn”. Nghĩa: Lá đỏ chồng ở sân, trúc ôm lấy cửa. Dịch thơ: “Lá đỏ chồng sân tre dựng cửa”. Đôi có thể dịch là gò, những lùm cây ở sân, nếu dịch là: chồng: thì như đống củi sao ? Còn chữ môn ngoài nghĩa là cửa, còn có nghĩa là cổng. Cổng không có cửa cũng gọi là môn. Mà trúc ôm lấy cổng thì đẹp, thú vị, chứ trúc “ôm lấy cửa” thì bịt bùng đến thảm hại, còn “tre dựng cửa” lại là những cây tre đã chặt gốc, dựng lên, của những nhà làm đồ nghề đan lát !

Bài 32, có câu “Trí thân vị tất độc đa thư”. Nghĩa: “Lập thân chưa hẳn đọc nhiều sách”. Dịch thơ thành “Nên phận đâu cần học lắm mà”. “Chưa hẳn” khác với “đâu cần”. “Đọc nhiều sách” khác với “học lắm mà”...

Bài 47, có cụm từ “Chúng báng cô trung...”. Nghĩa: “Lắm kẻ ghét một mình trung”. Sao dịch thơ có thể thành “Ghét lũ trung côi”...

Bài 72 có câu đầu “Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư”, dịch thơ: “Nửa rèm hoa ánh sách giường đầy”. Sách đã đầy giường, mà câu cuối dịch “Hé song một giấc ngủ ngon say”. Ngủ ngồi chăng ? Nếu ngủ ở giường thì giường đầy sách ? phải chăng chữ sàng còn có nghĩa là giá để đồ, giá để sách...

Bài 96, có câu “Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên”. Dịch nghĩa: “Chỉ sợ lòng sông ông vẫn ngủ say”. Dịch thơ: “Chỉ sợ lòng sông vẫn ngủ yên”. Ngủ say, ngủ yên chưa diễn tả được ý chủ yếu của “túy miên” - say rượu ngủ. Ngủ say, ngủ yên thì hầu như ai cũng vậy, túy miên - say rượu ngủ hoài, mới là Lý trích tiên - Lý Bạch. Dẫu trong chú thích, dịch giả có biện minh, thì cũng đã dịch rồi. Với bài này, tôi xin mạnh dạn, trình bản dịch của mình để bạn đọc tham khảo:

“Nghe Lý trích tiên Thái Thạch đây
Đã lâu lâu lắm cưỡi kình bay
Sông này ví hóa men xuân cả
Lòng sóng e còn rượu ngủ say”.

6. Nếu nguyên tác có những thủ pháp nghệ thuật thi ca khi dịch thơ, xin hãy gắng giữ, kẻo tác phẩm thành bông hoa bị mất hương sắc.

Ví dụ bài 97:

ĐÕ TRUNG KÝ HỮU
Thượng quốc quan quang vạn lý đồ
Thiên nhai khuất chỉ tuế vân tô
Mộng trung thủy viễn sơn hoàn viễn
Biệt hậu thư vô nhạn diệc vô
Khách dạ bất miên thiên cảm tập
Thanh thì thùy liệu thốn trung cô
Nam châu cựu thức như tương vấn
Báo đạo kim ngô diệc cố ngô

Trong NTTT dịch thơ:

GIỮA ĐƯỜNG GỬI BẠN
Thượng quốc sang thăm đường vạn dặm
Chân trời tính dốt đã vừa năm
Chiêm bao nước thẳm non càng ngái
Lìa cách thư không nhạn biệt tăm
Đêm khách thức chong dồn thắc mắc
Thì thanh trung há phải âm thầm
Nam châu bạn cũ như ai hỏi
Nhớ bảo rằng ta vẫn nhất tâm.

Ở bản dịch thơ, những từ điệp viễn, vô, ngô bị tước hết. Bài thơ nguyên tác bị cứng ngắc bởi câu một chuyển sang vần trắc, lại thêm hai chữ thắc mắc, nghe “hiện đại” quá, mất đi nhịp điệu thơ mềm mại, sâu lắng. Trường hợp này, tôi cũng xin mạnh dạn trình bản dịch của mình, để bạn đọc tham khảo, dẫu mỗi bản dịch đều có những nhược điểm nhất định:

Đường thăm thượng quốc dặm xa mờ
Bấm đốt đầy năm dạt bến bờ
Mộng thấy biệt non cùng biệt nước
Đi rồi, không nhạn cũng không thư.
Khách đêm hoài cảm nào yên ngủ
Bình trị cô trung thật chẳng ngờ
Bạn cũ Nam châu như có hỏi
Bảo giùm ta vẫn chính ta xưa.

Ức Trai thi tập trong Nguyễn Trãi toàn tập - một công trình đồ sộ có giá trị nền móng. Một số ý kiến về dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích trên đây, với mục đích xây dựng. Chắc sẽ có những điều cần được các nhà Hán học, bạn đọc uyên thâm chỉ giáo thêm.

Chúng ta hy vọng sẽ có thêm những bản dịch mới, có sức thuyết phục hơn, xứng đáng hơn nữa với những vần thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.

D.P

TB

BẢN DỊCH KHÓA HƯ LỤC
CỦA CƯ SĨ THIỀU CHỬU

PHAN VĂN CÁC

Cư sĩ Thiều Chửu đã để lại một sự nghiệp trước tác Phật học đáng trân trọng, trong đó có ngót 50 dịch phẩm bao gồm một số kinh sách căn bản của nhà Phật.

Bài viết này sơ bộ khảo sát bản dịch Khóa hư lục(1) của ông, qua đó tìm hiểu những đặc điểm và những cống hiến của ông trên lĩnh vực dịch thuật.

Khóa hư lục là tác phẩm đặc sắc của Trần Thái Tông làm sau khi truyền ngôi, xuất gia tu thiền, nghiên cứu đạo Phật mà Phan Huy Chú đã khái quát là “ý văn tỏ rõ niềm yêu thích cảnh đẹp núi rừng, coi ngang lẽ sống chết, chí thú khoáng đạt”(2).

Khóa hư lục “Là một bộ sách quan trọng và xưa nhất mà chúng ta còn giữ được” và “Trần Thái Tông không chỉ là một nhà tu hành đắc đạo, lại là một nhà triết học sâu sắc và một thi sĩ trữ tình dào dạt chủ trương thanh tĩnh một cách rất sôi nổi xúc động. Tất cả những bài kệ đều là thơ; thơ thất ngôn, ngũ ngôn hoặc tứ ngôn; tất cả những bài khác đều là văn biền ngẫu chặt chẽ và đầy hình tượng”(3).

Với Khóa hư diễn nghĩa, Thiều Chửu đã chọn dịch và giới thiệu đúng một tác phẩm có giá trị lớn cùng với Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, Đạo giáo nguyên lưu, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh... là những cột mốc quan trọng trong lịch sử Phật học Việt Nam. Ông nhận định “Thực là một bộ kinh cứu khổ cho đời”, “Quyển trên thuyết rõ cái sắc thân người ta là giả, là không, người ta ở đời phải chịu bốn nỗi sinh, già, ốm, chết như núi như bể, phải biết trông gương các bậc hiền triết mà tu, mới mong thoát khỏi; quyển giữa và quyển dưới thì dạy đủ các phép sám hối tu trì...”, “Trong kho sách Phật nước nhà có lẽ bộ này là hoàn toàn đặc sắc hơn cả, cho nên dịch giả định kêu là Kinh khóa hư thì có lẽ hay hơn”(4).

Về nội dung, Khóa hư lục là một tập bài giảng về lẽ hư không, trình bày cái bản thể chân như, cái sự tính siêu việt và trạng thái tinh thần yên tĩnh không hề chấp trước để có thể thực hiện sự kiến tính. Tác giả Khóa hư lục đã kết hợp hài hòa phép đốn ngộ với phép tiệm ngộ, con đường giải thoát tự lực với con đường giải thoát bằng tha lực, đã quan tâm không chỉ sự giải thoát của bậc thượng trí mà cả sự giải thoát của hạng hạ trí. Đó cũng là nét đặc sắc của Thiền tông đời Trần.

Nội dung sâu sắc và giá trị lớn lao đến như vậy đã khiến cho Khóa hư lục trên thực tế là một tác phẩm rất khó dịch.

Chính Thiều Chửu đã thành thật thừa nhận: “Trong bộ sách này có nhiều đoạn ý nghĩa cực kỳ sâu xa,… dịch giả chưa dám quyết là đúng, dám xin các bậc cao minh sửa đổi lại cho, khi nào tái bản chúng tôi chữa vào…”(5).

Không riêng Thiều Chửu, một học giả uyên bác như Đào Duy Anh cũng nói tương tự: “ Khóa hư lục là một tài liệu khó phiên dịch và chú giải, chúng tôi đã cố gắng vận dụng hết sức hiểu biết của mình nhằm cung cấp những tài liệu chính xác cho những người nghiên cứu trẻ tuổi; song như ếch ngồi đáy giếng, kiến thức còn nhiều phần chật hẹp, xin các nhà bác nhã, nhất là trong giới Phật học, thứ cho cái tội đánh trống qua cửa nhà sấm, mà lấy lượng khoan dung uốn nắn cho”(6).

Để khắc phục khó khăn trong dịch thuật, mỗi dịch giả thường xác định cho mình một nguyên tắc làm việc nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tín và nhã nhiều khi không thống nhất được, thậm chí gay gắt với nhau.

Cách làm của Thiều Chửu là: “Nguyên văn chữ Hán là thể văn biền ngẫu, cứ lối văn Hán mà bàn thì tụng đọc có vẻ thanh thú, nhưng dịch sang Quốc văn mà cứ theo thể văn Hán thì ý nghĩa không rõ ràng tách bạch. Cứ ý dịch giả thì mỗi lối chữ có một thể văn riêng, đọc sách cần phải hiểu nghĩa, nên dịch giả dịch theo lối tản văn cho dễ hiểu. Những câu nào có điển tích khó, có bài lược giải ở dưới sách”(7).

Còn Đào Duy Anh thì nói: “Về cách dịch thì chúng tôi cố gắng dịch sát nghĩa và ý, theo đúng thể thơ và biền ngẫu của nguyên văn”(8).

Như vậy, cứ theo tuyên ngôn của các vị thì dường như Thiều Chửu có phần trọng tín hơn nhã. Tuy nhiên, đọc kỹ bản dịch của ông, đối chiếu với nguyên văn thì thấy nhìn chung đó là một bản dịch vừa tín vừa nhã, mặc dù có đôi chỗ ông tỏ ra không câu nệ tính biền ngẫu cân đối. Nhưng trên tổng thể vẫn bảo toàn được chất lượng văn học rất cao của nguyên tác. Nhiều đoạn văn dịch còn truyền đạt được nhạc tính của câu văn. Xin nêu vài đoạn làm thí dụ:

Nguyên tác:

“Nhất thiên minh mị, thôn thôn liễu lục hoa hồng;
Vạn lý phong quang , xứ xứ oanh đề điệp vũ”.

Thiều Chửu dịch:

“Một trời sáng đẹp, nơi nơi hoa thắm liễu xanh;
Muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh kêu bướm liệng.”

Nguyên tác:

“Mật lâm mậu thụ, kim phong nhất phiến kỉ phù sơ;
Thanh chướng thủy phong, ngọc lộ sơ thùy tăng lãnh lạc”.

Thiều Chửu dịch:

“Cây xanh rừng rậm, gió vàng một trận thấy lơ thơ;
Ngàn biếc non xanh, móc ngọc vừa sa thêm lạnh lẽo.”

Nguyên tác:

“Điêu tường tuấn vũ dĩ hề vi,
Tích ngọc đôi kim nhi hà dụng.
Dạ đài u yểm, không văn sóc xúy sưu sưu;
Truyền hộ trường quynh, đãn kiến sầu vân thảm thảm”.

Thiều Chửu dịch:

“Tường hoa nhà rộng có làm chi,
Kho ngọc đống vàng vô dụng hết
Dạ đài khép kín, luống nghe gió bấc vì vèo,
Tuyền hộ đóng tràn, chỉ thấy mây sầu ngùn ngụt.

Nguyên tác:

“Lân kê báo ngọ, hi ngự đương dương.
Liêu thiên chi hồng thái phương trung;
Táp địa chi lục dương thủy chính.
Ảnh chiếu nhi đình hoa lộng ngọc,
Phong lai nhi đê liễu dao kim,
Huy huy chước chước diêu dao đài,
Toái toái đoàn đoàn trùng ngọc thế.
Thú lư hương niểu, thiên đình nhật lệ bích tiêu trung;
Tiên chẩm thụy nùng, trú vĩnh lậu hi chu các thượng.
Thịnh hạ tắc kim lưu thạch thước;
Long đông tắc vụ liễm tuyết tiêu.
Phong trung nhi tạp ế toàn thu;
Li chính nhi quần âm tận tảo.
Đối cảnh tính thiên động triệt;
Đương thời tâm địa chiếu dung.
Đầu đầu tổng hữu quang minh;
Bộ bộ liễu vô hắc ám.”

Thiều Chửu dịch:

“Vàng dương đứng bóng tròn xoe,
Tiếng gà láng giềng báo ngọ.
Vẻ hồng trời đang đứng giữa;
Màu xanh liễu mới thấy khoe.
Nắng giọi hoa sân như ngọc múa
Gió đưa cành liễu tựa vàng tô.
Long lanh chói lói ánh dao đài,
Thấp thoáng trập trùng lồng bệ ngọc.
Thơm lừng lò thú, trời quang nhật tỏ chốn mây xanh;
Ngủ kỹ gối tiên, ngày vắng lậu thưa nơi gác tía.
Mùa hạ thì đá sôi vàng chảy,
Mùa đông thì sương lở, tuyết tan.
Đứng bóng thì đám bụi thu quang,
Sáng tỏ thì mây mù quét sạch.
Đối cảnh tính trời sáng suốt,
Đang khi tâm địa soi thông.
Thảy đều sáng chưng
Sạch không đen tối.”

Tôi muốn nói thêm rằng khi dịch lại Khóa hư lục năm 1974, Đào Duy Anh cũng rất coi trọng bản dịch của Thiều Chửu ở thập kỷ 30, bằng chứng là trong các chú thích của mình, học giả họ Đào đã hơn một lần nhắc đến Thiều Chửu.

Như trường hợp ở bài Kệ vô thường cuối quyển hạ, có cụm từ “phùng Hoàng diện công”, Đào Duy Anh đã ghi chú: “Phúc Điền hòa thượng giải là gặp Phật Di - đà, chúng tôi cũng theo nghĩa ấy mà dịch. Thiều Chửu dịch là Phật - đà.

Hay ở bài Khải bạch ở đầu quyển Trung, có hai câu:

“Tiêu trung mộng lí kí hôn hôn,
Giác hậu tâm đầu do nhiễu nhiễu”

Đào Duy Anh dịch:

“Nửa đêm giấc mộng đã mơ hồ,
Tỉnh dậy mối lòng đà vội vã.”

và chú thích rằng “dịch theo Thiều Chửu và Nguyễn Trọng Thuật” .

Bản dịch của Thiều Chửu là:

“Trong đêm hồn mộng đã mơ màng,
Tỉnh dậy tâm đầu còn bối rối.”

Đặc biệt là ở bài Khuyến phát tâm văn trong quyển Thượng, có điển tích “Thực bính vong thê” (ăn bánh bỏ vợ), Đào Duy Anh đã chú thích rõ ràng: “Về điều này ông Thiều Chửu (Tạp chí Đuốc Tuệ) có lời chú rằng theo kinh Bách dụ thì có hai vợ chồng nhà nọ có một cái bánh, không ai chịu nhường ai, sau quyết định rằng trong hai người hễ ai nói trước thì không được ăn bánh. Hai người ngồi lặng im nhìn bánh cho đến đêm có đứa kẻ trộm vào ăn trộm, thấy hai vợ chồng ngồi yên như thế, lấy đồ xong bèn đến trêu người vợ. Thấy chồng ngồi yên, người vợ tức quá mắng chồng là đồ ngốc, người chồng thấy vợ nói liền vỗ tay đắc thắng lấy bánh ăn, để mặc cho kẻ trộm trêu ghẹo vợ”.

Chỉ một mẩu chú thích nhỏ này cho thấy thái độ nghiêm túc, trung thực của học giả Đào Duy Anh khi kế thừa thành quả nghiên cứu của người khác, đồng thời cũng nói lên sự trọng thị của ông đối với bản dịch của Thiều Chửu.

Cũng như vậy, ở trường hợp dịch chữ “lũy lí” (vốn nghĩa là cái sọt, cái giành để đựng đất) trong bài Phổ thuyết sắc phân, Đào Duy Anh đã dùng lại cách dịch “lấy nong mà đậy” của Thiều Chửu và ghi chú rõ “dịch theo Thiều Chửu”.

Tưởng không cần dẫn chứng rườm rà thêm cũng có thể kết luận rằng: Mặc dù từ năm 1974 đã ra đời bản dịch Khóa hư lục của Đào Duy Anh, một bản dịch chất lượng cao mà ưu điểm nổi trội tuyệt đối là công phu khảo cứu phiên âm sách Khóa hư giải âm của Phúc Diễn hòa thượng viết bằng chữ Nôm ở thế kỷ XIX, cùng với phần dịch thêm Những bài luận và tự kèm 368 mục chú thích cực kỳ tỉ mỉ, uyên bác; nhưng bản dịch Thiều Chửu vẫn giữ nguyên giá trị của nó, xứng đáng là một bản dịch tín nhã đạt, là một cột mốc không thể nào quên trong lịch trình dịch chú Khóa hư lục, và cả trong lịch sử dịch thuật của nước nhà.

Đương nhiên, bản dịch của Thiều Chửu chưa phải là toàn bích. Như trường hợp ông dịch chữ “thác thược” thành “cái túi” trong câu:

“Bất luận thượng trí hạ ngu, tận thuộc phôi thai chi nội;
Khởi vấn nhất nhân triệu tính, hàm quy thác thược chi trung”.

Dịch thành:

“Chẳng kể chi bậc rất khôn hay bậc rất ngu, đều ở trong bào thai cả;
Chẳng kể chi một người hay cả muôn họ, đều về cái túi kiền khôn ráo.”

Đúng ra, “thác thược” là cái ống bễ lò rèn, đây chỉ cái lò tạo hóa.

Tuy nhiên, chỉ một vài lỗi nhỏ ấy không thể làm lu mờ công lao phiên dịch cả một bộ sách lớn và khó như Khóa hư lục.

P.V.C

CHÚ THÍCH:

(1) Khóa hư diễn nghĩa, Thiều Chửu biên dịch (tái bản lần thứ nhất), Đuốc Tuệ, 1939.

(2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, q. XLV Văn tịch chí, Bản dịch Viện sử học, Nxb. KHXH, H. 1992. tập III, tr.161.

(3) Khóa hư lục, phụ thơ của Tuệ Trung thượng sĩ, Đào Duy Anh giới thiệu, phiên dịch và chú giải. Nxb. KHXH, H. 1974, Lời đầu sách, tr.11.

(4), (5), (7) Thiều Chửu, sđd, Thể lệ dịch kinh, tr. 2.

(6), (8) Đào Duy Anh, sđd, Lời đầu sách, tr.13.

TB

ĐI TÌM XUẤT XỨ MỘT BÀI THƠ

ĐỖ PHƯƠNG LÂM

Bài viết này là một vài ý kiến trao đổi của chúng tôi về một vấn đề đã có hoài nghi từ khá lâu nay. Đó là xuất xứ một bài thơ được cho là của nhà sư Dương Không Lộ ( ? – 1119) đời Lý: bài Ngư nhàn:

Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Dịch thơ:

Trời xanh nước biếc muôn trùng
Một vùng sương khói, một vùng dâu đay
Ông chài ngủ tít ai lay
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.
(Kiều Thu Hoạch)

Phải nói rằng đây là một bài thơ tứ tuyệt rất hay, do Đinh Gia Thuyết công bố lần đầu tiên trong bài Một vị Thánh tăng của Ninh Bình, trên tờ Đuốc Tuệ số 75, sau đó Viện Văn học chính thức đem vào phần văn học sử thời đại Lý - Trần. Sau này, trong nhiều tuyển tập nghiên cứu, phê bình, lý luận về văn học Lý - Trần khác, bài thơ này đã được giới thiệu, công nhận như một bài thơ của Dương Không Lộ. Tuy nhiên xuất xứ của bài thơ “ít nhiều đáng nghi vấn” (Chú thích của Viện Văn học trong cuốn Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr.386). Mối hoài nghi về xuất xứ không rõ ràng ấy của bài thơ Ngư nhàn khiến chúng tôi trong quá trình tiếp xúc với các văn bản Hán văn luôn lưu tâm, chú ý, may ra tìm được một cứ liệu xác đáng. Và rồi trong một lần gần đây, chúng tôi được đọc một bài thơ rất giống với Ngư nhàn. Đó là bài Túy trước của tác giả Hàn Ác in trong cuốn Toàn Đường thi quyển hạ, Thượng Hải Cổ tịch xuất bản xã ấn bản năm 1995. Về cuốn sách này xin được giới thiệu vắn tắt như sau: Toàn Đường thi là một bộ sách gồm hai quyển (quyển Thượng và quyển Hạ) do công sức của rất nhiều nhà sưu tầm, nghiên cứu, phụng sắc vua Khang Hy nhà Thanh biên soạn mà thành, trong đó tập hợp hơn 48.000 bài thơ của 2.200 nhà thơ đời Đường (618 - 907). Có thể nói đây là một công trình sưu tập lớn nhất về thơ Đường.

Đối chiếu hai bài thơ Túy trước Ngư nhàn của hai tác giả (trong bài viết này vẫn tạm coi Ngư nhàn là của Dương Không Lộ) có cách biệt rất lớn cả về không gian và thời gian lại chẳng thấy có khác biệt nào ngoài đầu đề Túy trước (Say mèm) # Ngư nhàn (Cái nhàn nhã của làng chài) và một chữ duy nhất, chữ thứ 17: túy (say rượu) thụy (ngủ)… Hàn Ác viết là: Ngư ông thụy trước vô nhân hoán, còn Không Lộ lại viết: Ngư ông túy trước vô nhân hoán.

Những khác biệt về hình thức này tưởng như không gây khác biệt lớn về nội dung của hai bài thơ. Nhưng thực ra thì không phải như vậy. Ngay tên gọi của hai bài thơ cũng đã hướng chúng ta vào hai đối tượng chủ thể hoàn toàn khác nhau, mang lại những cảm nhận rất cách biệt nơi người đọc. Xem xét kỹ hai bài thơ, ta có cảm giác như bài Ngư nhàn là một sự sửa chữa cẩu thả nào đó từ bài Túy trước. Có hay không điều đó? Dầu sao, chúng tôi cũng mong muốn chuyển đến các bạn vài suy nghĩ của riêng mình.

Thử ngược lại thời gian theo tiến trình công tác sưu tập thơ văn Lý - Trần ta thấy có hơn năm trăm năm lịch sử chia làm ba thời kỳ rõ ràng. Thời kỳ đầu thế kỷ XV với một số công trình tiêu biểu như: Việt âm thi tập (Phan Phu Tiên - 1433), Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan), Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương - 1497). Thời kỳ thứ hai thế kỷ XVII - XVIII với các công trình Khóa hư lục (Trần Thái Tông), Thiền Uyển tập anh… Thời kỳ thứ ba: nửa đầu thế kỷ XX với một số lượng rất khiêm tốn các tác phẩm được sưu tầm và trong đó lại có khá nhiều sai sót. Nguyên nhân là do qua thế kỷ XVIII việc phát hiện tài liệu mới hầu như không còn. Người ta đành bằng lòng sao đi chép lại những cái đã tìm ra từ trước, để rồi kết quả là các văn bản càng thêm sai lạc. Thế nhưng việc giới thiệu thơ văn Lý - Trần đột nhiên dấy lên thành phong trào vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XX. Chủ yếu là các bài viết của các tác giả: Đinh Văn Chấp, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, Thi Nham Đinh Gia Thuyết, Nguyễn Lợi, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm… trên một số sách báo như Nam Phong, Đuốc Tuệ, Tri Tân… Đương nhiên trong tình hình muộn mằn của thế kỷ XX, mà những mảnh tài liệu còn sót lại sau năm. sáu trăm năm không những đã sai lạc quá nhiều mà còn phân tán, muốn giải đáp thấu triệt vấn đề thì còn phải mất nhiều thì giờ. Một ít cố gắng bước đầu chưa thể nào thỏa mãn được điều mà mọi người mong đợi, nhất là những cố gắng này phần lớn không dựa trên những phương pháp khoa học chặt chẽ, và cho đến nay một số trong đó đã dần để lộ những khe hở nghiêm trọng. Xin được kể lại một ví dụ minh chứng cho điều này: Năm 1921, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, cho dịch đăng trên báo Nam Phong (số 40, 7 – 1921) tiểu thuyết Lĩnh Nam dật sử, nói là của Ma Văn Cao một nhà văn người dân tộc Dao ở vùng núi tỉnh Hòa Bình ngày nay, sáng tác bằng chữ dân tộc vào thế kỷ XI, cuối đời Lý, và do Trần Nhật Duật dịch ra chữ Hán năm 1297. Một phát hiện thật bất ngờ nhưng cũng để lại nhiều ngờ vực. Và sau đó, liên tục trên các sách báo, Lĩnh Nam dật sử nghiễm nhiên được coi là một tác phẩm xuất hiện vào đời Trần. Nhưng cuối cùng thì các nhà thư tịch học đã giải quyết xong vấn đề gốc gác của tiểu thuyết này. Đó là một tác phẩm nguyên của Trung Quốc, có tên: Hội đồ Lĩnh Nam dật sử ra đời vào cuối thế kỷ XVIII. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này của ông Đông Châu là vì sách Hội đồ Lĩnh Nam dật sử đã bị ai đó “chế biến” lại, thay đổi tên tác giả, sửa chữa chút ít về nội dung và bài tựa, rồi bán cho Thư viện Viễn đông Bác cổ để kiếm hời. Đông Châu chỉ mới đọc thấy có một bản sao kém cỏi này mà đã vội đưa ra một kết luận. Thật đáng buồn khi mà trong xã hội thực dân, “đồ cổ” văn chương cũng trở thành vật mua bán khiến cho xuất hiện những tác phẩm giả mạo. Thêm vào đó, những sai sót về mặt phương pháp của một số người sưu tầm, nghiên cứu - mà những người này đến nay đều đã quá cố - đã dẫn đến những ngờ vực khó làm sáng tỏ. Phải chăng Ngư nhàn cũng có chung một số phận phiêu diêu kiểu Lĩnh Nam dật sử ? Ngày nay chúng ta không ai biết Đinh Gia Thuyết dựa vào nguồn tư liệu nào mà ông có thể khẳng định một bài thơ có tên Ngư nhàn do Không Lộ Thiền sư để lại cho hậu thế.

Dương Không Lộ, tên thực và năm sinh đến nay vẫn chưa rõ. Quê ở làng Hải Thanh, thuộc lộ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Tổ tiên ông làm nghề chài lưới. Đến đời ông mới bỏ nghề ấy đi tu. Từng tu ở các chùa Nghiêm Quang (?), Chúc Thánh (trên núi Phả Lại), Hà Trạch (?). Ông là một nhà chân tu, chuyên nghiên cứu Thiền tông và Mật tông. Có một số truyền thuyết kể rằng ông tu luyện đạt đạo, có thể đi trên nước, bay giữa trời, đánh chết hổ và vật ngã rồng (trong Lĩnh Nam chích quái Lịch triều hiến chương loại chí). Ông cùng Thiền sư Giác Hải du ngoạn những nơi danh lam thắng cảnh, sống gần gũi với thiên nhiên, hoàn toàn thoát tục, chuyên tâm tu luyện để thành chính quả. Chắc hẳn ông là một nhà sư rất giỏi thơ văn lúc bấy giờ. Tác phẩm của ông sưu tầm được không nhiều, chỉ vẻn vẹn có hai bài thơ tứ tuyệt: Ngôn hoài (tỏ nỗi cảm hoài) và Ngư nhàn.

Thật đáng tiếc cả hai bài thơ này đều đang để lại cho chúng ta những dấu hỏi ngờ vực. Trước đây, người ta đã tranh cãi khá lâu về xuất xứ của bài thơ Ngôn hoài. Có nhiều người đặt vấn đề liệu Ngôn hoài có phải là sáng tác của sư Không Lộ, hay đó chính là dị bản của một bài thơ Đường. Một số ý kiến khác lại cho rằng Ngôn hoài có nhiều chỗ giống với một bài thơ của Lý Tường Trung Quốc, nhưng chỉ do đó là một sự vận dụng thơ cổ vào trong các sáng tác thời xưa. Những tranh luận đó vẫn chưa đến hồi ngã ngũ, thì bây giờ lại đến lượt bài thơ còn lại: Ngư nhàn sắp phải đặt lên bàn để các chuyên gia xem xét.

Theo ý kiến chủ quan của chúng tôi, Túy trước (say mèm) là một cái tên có logic và hợp lý hơn Ngư nhàn (cái nhàn nhã của làng chài). Chính vì đặt trong mối quan hệ với đầu đề của bài thơ, mà từ thụy (ngủ) là một sự câu nệ bất đắc dĩ. Trong khung cảnh thanh bình giữa cái bát ngát, rộng dài của sông nước, của trời cao, tác giả của bài thơ Ngư nhàn không thể tả một ông già vô tâm say rượu túy lúy, mà phải là một ông già lười biếng, ngủ quên công việc thì mới lột tả được nhàn nhã của làng chài. Dù dùng từ thụy hay túy thì bài thơ vẫn là một bài tả cảnh rất đặc sắc, cho thấy tác giả của nó là người vui thích điền viên, thích cuộc sống nhàn nhã, an lạc. Chất trữ tình lãng mạn của bài thơ không hề mang ý vị cửa Thiền. Hai câu thơ cuối cho ta thấy những bất hợp lý:

Ông chài ngủ say quá, không ai gọi,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền.

Trong cái lạnh giá của băng tuyết phủ đầy, một ông già rất khó có thể ngủ say quá quên cả không gian, thời gian, công việc, nhưng nếu là say rượu quá thì câu thơ dễ được chấp nhận hơn về mặt logic. Vả lại cái cảnh tuyết rơi, dù là một ngàn năm về trước cũng khó có thể xảy ra ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Không gian trong bài thơ dễ gợi trí ta liên tưởng đến một vùng quê nào đó ở phương Bắc hơn. Vậy lẽ nào Không Lộ Thiền sư lại viết bài thơ này trong một dịp ông du ngoạn đến tận phương Bắc xa xôi ? Tuyết là một hình ảnh rất thường gặp trong thơ văn, điển cố Trung Quốc, nhưng rất hy hữu xuất hiện trong thơ văn (nhất là thơ văn tả cảnh) của ta.

Chúng ta không loại trừ khả năng Túy trước của Hàn Ác, hoặc đã bị sửa chữa, hoặc do một nguyên nhân nào đó đã trở thành Ngư nhàn của Không Lộ. Biết đâu, Đinh Gia Thuyết xưa kia vì muốn ca ngợi nhà sư có nhiều phép thuật màu nhiệm mà ông đã gọi là thánh tăng của quê hương Ninh Bình nên đã “xào sáo” bài thơ này và gán cho Không Lộ.

Mọi giả thuyết đều cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Từ giả thuyết đến kết luận là một chặng đường dài. Nghiên cứu văn học sử là một công việc đầy chông gai. Chúng tôi mạnh dạn “đan giỏ giữa đường”, đề cập vấn đề này, kính mong các bậc cao tài bác nhã rộng lòng chỉ giáo.

Đ.P.L

TB

CÓ THÊM MỘT VĂN BẢN SAO CHÉP THƠ NÔM CỦA NGUYỄN TRÃI

NGUYỄN TÁ NHÍ

Nguyễn Trãi với 254 bài thơ Nôm được nhà in Phúc Khê khắc in năm 1868 trong Quốc âm thi tập được coi là tác gia có số lượng bài thơ nhiều nhất trong lịch sử sáng tác thơ ca bằng tiếng mẹ đẻ của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đời sau như Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Căn, Trịnh Cương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... cũng không có được số lượng bài thơ nhiều như vậy. Thế nhưng không hiểu vì lý do gì việc lưu truyền phổ biến thơ Nôm của Nguyễn Trãi lại diễn ra trong một khu vực hết sức hạn hẹp. Trước khi có bản phiên âm chú giải của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm do Nhà xuất bản Văn Sử Địa ấn hành năm 1956, thì dường như không ai nhắc đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Các tạp chí Quốc ngữ xuất bản trước năm 1945 như Nam Phong, Tri Tân, Thanh Nghị đều không thấy in một bài nào trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Trong khi đó thơ Nôm của Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương... lại được giới thiệu nhiều lần. Sở dĩ có tình trạng như vậy, bởi ngay các văn bản Hán Nôm hiện còn cũng thấy sao chép rất ít. Trong kho sách Hán Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ngoài quyển 7 trong Ức Trai di tập do Dương Bá Cung(1) sưu tầm, Phúc Khê tàng bản (từ đây xin gọi tắt là Bản Phúc Khê) ra, chỉ có hai bản chép tay là VHv.143 và A.139. Cả hai bản này đều mới được sao lại theo Bản Phúc Khê trong thời gian gần đây. Ngoài ra còn một số văn bản khác thấy thư mục giới thiệu là có thơ Nôm của Nguyễn Trãi, như Bản quốc kỷ sự ký hiệu A.1788, Nguyễn Đình tộc phả, ký hiệu VHv.2428, Việt Nam danh nhân sự tích liệt truyện, ký hiệu VHv.2407. Thế nhưng thơ Nôm mà các văn bản này chép được chỉ độc nhất có bài thơ Bán chiếu gon gắn với truyền thuyết rắn báo oán mà thôi. Khi khắc in Ức Trai di tập, Dương Bá Cung có mời Nguyễn Năng Tĩnh(2) viết tựa. Trong bài tựa, Nguyễn Năng Tĩnh đã khẳng định truyền thuyết này là hoang đường, không đáng tin cậy:

“Việc con rắn báo oán chẳng qua là điều bịa đặt của những người thương tiếc Tiên sinh lúc tuổi già lại gặp phải hoạn”(3).

Do vậy trong Bản Phúc Khê không có mặt bài thơ Bán chiếu gon. Tình hình không thấy các văn bản Hán Nôm sao chép thơ Nôm của Nguyễn Trãi cũng thấy diễn ra tương tự ở các thư viện lớn ở trung ương và địa phương, Thư viện Quốc gia, Thư viện Hà Nội, Thư viện Viện Văn học, Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đều không có văn bản nào chép thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Riêng ở Thư viện Viện Sử học có một bản chép tay chép được 69 bài. Đáng tiếc là cho đến nay bản chép tay này cũng đã thất lạc. Cũng may là các ông Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh đã kịp đưa nó vào phần khảo dị trong các sưu khảo của mình. Các soạn giả gọi Bản Phúc Khê Bản A, bản chép tay ở Viện Sử học là Bản B đối chiếu hai bản thì thấy 69 bài ở Bản B trùng khớp với các bài từ 2 đến 70 của Bản A. Bản B không chép bài Thủ vĩ ngâm. Khảo xét kỹ cấu tạo chữ Nôm ở Bản B, ta thấy có nhiều chữ xuất hiện ở thời kỳ muộn hơn. Xem xét thứ tự các bài trùng nhau và cấu tạo chữ Nôm, cho thấy Bản B được sao lại từ chính Bản Phúc Khê. Thông tin này lại khẳng định thêm nhận xét cho rằng thơ Nôm của Nguyễn Trãi rất ít được sao chép. Trong nhiều năm nay các nhà nghiên cứu khoa học xã hội hết sức quan tâm đến việc sưu tầm thơ Nôm của Nguyễn Trãi, song kết quả còn hết sức hạn chế.

Gần đây, chúng tôi được các đồng chí ở Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương cung cấp cho một bản Gia phả họ Nguyễn(4) ở làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, trong đó có chép thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Bản Gia phả họ Nguyễn (từ đây xin gọi là Bản Phả) gồm 76 tờ, chữ viết chân phương. Đây là một bản mới sao lại thời gian gần đây, trong bản đôi chỗ có xen cả chữ Quốc ngữ. Đặc biệt là phần cuối có ghi rõ vào năm Canh Tý (1960) Việt Nam dân chủ cộng hòa thứ 15, đoàn cán bộ Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương cùng gia tộc họ Nguyễn ở Chi Ngại đến thăm mộ tổ ở Nhị Khê, Thường Tín. Đồng thời có sao chép được câu đối thờ, sắc phong ở nhà thờ Nguyễn Trãi tại Nhị Khê. Bản Phả cũng ghi chép đầy đủ hơn mười thế hệ ở Chi Ngại, ngoài ra còn sao chép được khá nhiều thơ văn của Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi. Đáng lưu ý là trong Bản Phả chép được 31 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi, trong đó có 1 bài chép hai lần, do vậy còn 30 bài. Đi sâu phân tích tìm hiểu các bài thơ Nôm chép trong Bản Phả, thấy có các đặc điểm nổi bật là:

1. Thứ tự 30 bài này không trùng với thứ tự ở Bản Phúc Khê. Tình hình cụ thể là:

Bản Phả Bài số Bản Phúc Khê
Bài 1 83 Tự thán 13
Bài 2 82 Tự thán 12
Bài 3 39 Trần tình 3
Bài 4 18 Ngôn chí 17
Bài 5 27 Mạn thuật 5
Bài 6 30 Mạn thuật 8
Bài 7 187 Bảo kính cảnh giới 60
Bài 8 12 Ngôn chí 11
Bài 9 15 Ngôn chí 14
Bài 10 1 Thủ vĩ ngâm
Bài 11 97 Tự thán 27
Bài 12 4 Ngôn chí 4
Bài 13 5 Ngôn chí 8
Bài 14 44 Trần tình 8
Bài 15 46 Thuật hứng 1
Bài 16 48 Thuật hứng 3
Bài 17 62 Mạn thuật 17
Bài 18 63 Mạn thuật 18
Bài 19 64 Mạn thuật 19
Bài 20 65 Mạn thuật 20
Bài 21 85 Tự thán 15
Bài 22 87 Tự thán 17
Bài 23 91 Tự thán 21
Bài 24 97 Tự thán 27
Bài 25 133 Bảo kính cảnh giới 6
Bài 26 134 Bảo kính cảnh giới 7
Bài 27 145 Bảo kính cảnh giới 18

Bài 28 Giới nộ thi 191 Giới nộ

Bài 29 Huấn nam tử thi 192 Huấn nam tử

Bài 30 Giới sắc thi 190 Giới sắc

2. Tìm hiểu cấu tạo chữ Nôm, chúng tôi thấy chữ Nôm ở Bản Phả là những chữ xuất hiện muộn hơn so với Bản Phúc Khê, biểu hiện ở các mặt:

2.1. Chữ tự tạo gồm hai phần biểu âm biểu ý, thay thế cho loại chữ giả tá:

Ví dụ:

Bản Phúc Khê Bản Phả
Đến 典 (điển) (chí + đán)
Thấy 体 (thể) (thể + kiến)
Mình 命 (mệnh) (thân + mệnh)

2.2. Loại chữ có dấu nháy (<) được sử dụng nhiều hơn:

Ví dụ:

Bản Phúc Khê Bản Phả
Chơi 制 (chế) 制< (chế + nháy)
Vắng 永 (vĩnh) 永< (vĩnh + nháy)
Vượn 猿 (viên) 猿< (viên + nháy)

2.3. Không viết kiêng húy:

Ví dụ:

Bản Phúc Khê Bản Phả
(viết đảo tự) 時 (viết thường)

2.4. Các chữ Nôm cổ được thay bằng chữ xuất hiện muộn hơn::

Ví dụ:

Bản Phúc Khê Bản Phả
Một 篾 (miệt) 沒 (một)
Tay 手思 (thủ + tư) (thủ + tây)
Trong 工 (công) (long + trung)

2.5. Từ cổ được thay bằng từ mới, hoặc đổi ra từ khác:

Ví dụ:

Bản Phúc Khê Bản Phả
Cóc 谷 (biết) Cuộc 局<
Co que 孤 規 Quanh co
Lánh Tránh

3. ở tờ 72b có chép thơ Nôm của Nguyễn Trãi, đặt thêm tiêu mục Bài thơ cư Côn Sơn, gồm 19 bài. Trong Bản Phúc Khê chỉ thấy nói đến 1 bài làm ở Côn Sơn, đó là bài số 189 có đầu đề là Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác. Bản Phả cho biết số bài làm ở Côn Sơn nhiều hơn, đối chiếu với Bản Phúc Khê, bao gồm các bài:

Ngôn chí 3 Bài số 4
Ngôn chí 4 Bài số 5
Trần tình 8 Bài số 44
Thuật hứng 1 Bài số 46
Thuật hứng 3 Bài số 48
Mạn thuật 17 Bài số 62
Mạn thuật 18 Bài số 63
Mạn thuật 19 Bài số 64
Mạn thuật 20 Bài số 65
Tự thán 15 Bài số 85
Tự thán 17 Bài số 87
Tự thán 21 Bài số 91
Tự thán 27 Bài số 97
Bảo kính cảnh giới 6 Bài số 133
Bảo kính cảnh giới 7 Bài số 134
Bảo kính cảnh giới 18 Bài số 145
Giới nộ Bài số 191
Huấn nam tử Bài số 192
Giới sắc Bài số 190

Từ ba đặc điểm thơ Nôm, chữ Nôm trong Bản Phả như trình bày ở trên, có thể đưa ra mấy nhận xét:

a. Bản Phả là văn bản mới được sao lại thời gần đây, có thể xuất hiện sau năm 1945.

b. Các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi không phải trực tiếp sao lại từ Bản Phúc Khê, mà rất có thể sao lại từ một bản Gia phả họ Nguyễn có trước đó.

c. Số bài thơ Nôm Nguyễn Trãi sáng tác ở Côn Sơn có thể nhiều đến 20 bài, hoặc nhiều hơn nữa.

Tuy chỉ chép được có 30 bài thơ Nôm, nhưng trong tình hình khan hiếm văn bản sao chép thơ Nôm của Nguyễn Trãi như hiện nay, thì bản Gia phả họ Nguyễn ở Chi Ngại Hải Dương cũng xứng đáng được coi là văn bản đáng quý. Hy vọng nó sẽ có ích cho công việc phiên âm, chú giải, giới thiệu thơ Nôm của Nguyễn Trãi, qua đó để chúng ta có điều kiện hiểu biết hơn về Nguyễn Trãi đối với Côn Sơn.

N.T.N

CHÚ THÍCH

1. Dương Bá Cung: người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, thi đỗ Cử nhân khoa Tân Tị niên hiệu Minh Mệnh (1821), làm quan đến Đốc học, có công rất lớn trong việc sưu tập khắc in thơ văn của Nguyễn Trãi.

2. Nguyễn Năng Tĩnh: Người làng Thịnh Trường, huyện Chân Lộc, tỉnh Nghệ An, thi đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Gia Long (1819).

3. Xem Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên âm, chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, 1956.

4. Bản Phả này do ông Nguyễn Khắc Minh ở Sở Văn hóa Hải Dương cung cấp. Tiện đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn gia tộc họ Nguyễn ở Chi Ngại và ông Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên âm, chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, 1956.

2. Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh dịch chú, Nxb. KHXH. 1976.

3. Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp (chủ biên), Nxb. KHXH. 1973.

4. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa (chủ biên), Nxb. KHXH, 1993.

5. Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên, Nxb. Mặc Lâm, 1926.

6. Thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, Bùi Văn Nguyên, Nxb. Giáo dục, 1994.

7. Nguyễn Trãi về tác giả tác phẩm, Nxb. Giáo dục, 2001.

TB

MỘT BÀI THƠ HAY CỦA THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ BỊ BỎ QUÊN

ĐINH VĂN MINH

Thiên Nam Động Chủ là tên hiệu của Lê Thánh Tông (1446 - 1497)(1) do ông tự đặt khi cùng với các văn thần Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo, Đào Cử, Đàm Văn Lễ làm tập Thiên Nam dư hạ(2).

Lê Thánh Tông không những là vị Hoàng đế có tài năng chính trị xuất sắc, nhà văn hóa lỗi lạc mà còn là nhà thơ lớn. Những năm gần đây, giới nghiên cứu đã sưu tập, giới thiệu dịch chú các tác phẩm thơ chữ Hán của ông. Song, như chúng ta đã biết, “Lê Thánh Tông là người thích tuần du ngoạn cảnh, tham dự nhiều buổi diễn tập quân sự và thân chinh, bước chân của ông in dấu trên nhiều miền của đất nước, và thơ ngự chế của ông cũng được khắc trên vách đá mái núi của nhiều thắng cảnh”(3). Do vậy, việc thu thập thơ ông chưa thể nói là hết được, đó đây còn bỏ sót. Bài viết này giới thiệu một bài thơ của ông khắc trong động đá đã bị bỏ quên.

Trong chuyến đi công tác ở Hải Dương, qua sông Kinh Thầy, đến thị trấn Kinh Môn. Từ thị trấn Kinh Môn đi về phía tây bắc 7 km, đến xã Phạm Mạnh, chúng tôi lên thăm động Kính Chủ, một di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng vùng đông bắc. Động Kính Chủ sử sách gọi là động Dương Nham. Động này nằm ở lưng chừng núi Dương Nham. Núi Dương Nham còn có tên là núi Thạch Môn. Trong động có chùa, tên gọi là chùa Dương Nham.

Trong các động đá được biết ở nước ta, chưa có động đá nào có nhiều văn khắc chữ Hán chữ Nôm (sau đây gọi là văn bia) như ở nơi đây(4), trong đó có một văn bia là bài thơ của Thiên Nam Động Chủ. Bài thơ này khắc trên một mặt đá phẳng mài nhẵn, chếch 450 hướng xuống đất, ở vị trí chính giữa vòm động, nơi cao nhất, trang trọng nhất. Bởi vì vòm động cách sàn động khá cao, nên đứng dưới nhìn lên chỉ thấy rõ 5 chữ Hán “Thiên Nam Động Chủ đề”. Bia ở vị trí cao quá tầm với của chiếc thang dài nhất, lại chơi vơi giữa khoảng không, không có chỗ tỳ bám; do vậy, công việc in lấy thác bản rất vất vả và nguy hiểm, chỉ một sơ suất nhỏ sẽ dẫn đến tử thương. Mặc dầu vậy, hiện nay trong tay chúng tôi cũng đã có được thác bản văn bia bài thơ này.

Nói là bị bỏ quên, là vì bài thơ này hiện diện ở một di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng, nhưng lại vắng bóng trong các bộ sưu tập thơ Lê Thánh Tông, kể cả các tập sách nghiên cứu giới thiệu dù đó là công trình khoa học về thơ Lê Thánh Tông hay về văn khắc, văn bia. Một bản niên biểu dài 14 trang trong sách(5) có ghi thời gian Lê Thánh Tông đề thơ ở động Hồ Công, động Long Quang, động Lục Vân, nhưng không nói gì đến bài thơ này. Ngược dòng lịch sử, các tập thi tuyển cũng như tổng tập thơ, chẳng hạn Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích (1714 - 1818), Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784) cũng không thấy chép. Bài thơ này chưa thấy chép ở một tài liệu nào, nhưng sử sách đã nhắc đến sự kiện Lê Thánh Tông đề thơ ở động Dương Nham, ở núi Thạch Môn. Văn bia Trùng tu Dương Nham tự bi ký(6) do Vũ Cán, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) soạn năm Đại Chính thứ 3 (1532) đời Mạc, cho biết: "Chùa Dương Nham có từ xưa - đời Lý, vua Lý Thần Tông thường tới thăm; đời Lê, vua Lê Thánh Tông có thơ đề". Sách Đại Nam nhất thống chí(7), ở tập 4, phần chép về chùa Dương Nham tỉnh Hải Dương như sau: "Gian giữa thờ Phật, bên trái thờ sư Không Lộ, Đạo Hạnh và Huyền Quang; bên phải thờ Trần Anh Tông... Vua Lê Thuần Hoàng đế vịnh thơ chạm vào bia nay vẫn còn". Sách Hải Dương phong vật chí(8) cũng chép tương tự như hai tài liệu vừa dẫn. Những năm đầu thế kỷ XX Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã in dập được thác bản văn bia này rồi(9), có điều thác bản đó không lấy được hoa văn trang trí diềm bia.

Bia hình chữ nhật nằm ngang, kích thước 0,9x1,50m, cả chiều ngang và chiều dọc phần diềm bia đều chạm khắc hoa văn lá và dây leo hình lượn sóng gần giống như hoa văn ở bia Đề Long Quang động(10) và bia Đề Hồ Công động(11). Chữ Hán trên bia khắc theo hàng dọc từ phải sang trái. Căn cứ vào nội dung văn tự trên đó, chúng tôi chia văn bia làm 3 phần: đề từ (còn gọi là lời dẫn) 5 dòng, chính văn 12 dòng (là bài thơ cổ phong thất ngôn trường thiên 22 câu), lạc khoản 3 dòng, tổng cộng 20 dòng, gồm 220 chữ Hán (trong đó có một chữ ở bia bị sứt, ở thác bản bị mờ, không đọc được). Toàn văn chữ Hán như sau:

余 守 我 太 祖 之 天 下, 不 敢 遑 寧, 克 詰 戎 兵, 思 陟 禹 跡, 乃 親 率 舟 師, 耀 武 江 外. 反 旆 之 日, 留 一 詩 于 石 門, 云:

石 門 山 上 登 臨 處
虛 室 高 窗 閑 白 晝
巨 口 谽 呀 吐 梵 宮
嵯 峨 怪 石 高 低 樹
不 因 神 鬼 斧 斤 餘
刻 巧 工 夫 元 太 素
回 頭 渺 渺 八 荒 寬
青 天 不 盡 山 無 數
洞 門 不 鎖 鎮 長 開
別 有 一 重 天 上 去
性 精 金 自 鍊 初 成
人 我 山 根 處 處 平
江 水 淡 於 僧 眼 碧
海 山 濃 似 佛 頭 青
金 鰲 背 上 祇 園 地
寶 屋 光 中 舍 衛 城
倦 鳥 有 情 依 密 葉
閑 雲 無 意 落 空 庭
東 風 雨 霽 晴 光 薄
數 點 煙 消 日 色 明
經 武 餘 閑 追 勝 踐
終 身 心 醉 暫 還 醒

天 南 洞 主 題

御 前 學 生 臣 黃 桓 奉 寫

工 部 玉 匠 掌 臣 蔡 [ ] 奉 鐫.

Phiên âm: Dư thủ ngã Thái tổ chi thiên hạ, bất cảm hoàng ninh, khắc cật nhung binh, tư trắc Vũ tích, nãi thân suất châu sư, diệu võ giang ngoại. Phản bái chi nhật, lưu nhất thi vu Thạch Môn sơn, vân:

Thạch Môn sơn thượng đăng lâm xứ,
Hư thất cao song nhàn bạch trú.
Cự khẩu xá ha thổ phạn cung,
Ta nga quái thạch cao đê thụ.
Bất nhân thần quỷ phủ cân dư,
Khắc xảo công phu nguyên thái tố,
Hồi đầu diểu diểu bát hoang khoan,
Thanh thiên bất tận, sơn vô số.
Động môn bất toả trấn trường khai.
Biệt hữu nhất trùng thiên thượng khứ.
Tính tinh kim tự luyện sơ thành,
Nhân ngã sơn căn xứ xứ bình.
Giang thủy đạm ư tăng nhãn bích,
Hải sơn nồng tự Phật đầu thanh.
Kim Ngao bối thượng Kỳ Viên địa,
Bảo ốc quang trung Xá Vệ thành.
Quyện điểu hữu tình y mật diệp,
Nhàn vân vô ý lạc không đình.
Đông phong vũ tễ tình quang bạc,
Số điểm yên tiêu nhật sắc minh.
Kinh vũ dư nhàn truy thắng tiện,
Chung thân tâm túy tạm hoàn tinh.

- Thiên Nam động chủ đề.

- Ngự tiền học sinh, thần Hoàng Hoàn phụng tả.

- Công bộ ngọc tượng chánh chưởng, thần Thái ’ phụng thuyên.

Tạm dịch:

Ta coi thiên hạ của đức Thái tổ ta, không dám an nhàn, mà "phải lo công việc binh bị", định "đi theo vết chân Hạ Vũ"(12), bèn thân chinh dẫn thủy quân diệu võ ngoài sông. Ngày trở về, để lại một bài thơ ở núi Thạch Môn, rằng:

Trên núi Thạch Môn, nơi ta leo lên,
Nhà rỗng, cửa cao, [ta] được thảnh thơi một ngày.
Miệng động há to, phô rõ ngôi chùa.
Đá núi cheo leo kỳ thú, cây cối nhấp nhô.
Chẳng phải nhờ rìu búa của quỷ thần,
Đẽo gọt công phu khéo léo từ xưa đã vậy.
Ngoái đầu nhìn tám hướng bao la.
Trời xanh vô tận núi non trùng điệp.
Cửa động không khóa mà luôn để ngỏ,
Có riêng một tầng trời để ta lên đó.
Tính tình tinh khiết như vàng tự luyện bước đầu thành công.
Người và ta luôn luôn vững chãi như chân núi.
Nước dưới sông nhạt hơn màu biếc của mắt tăng(13),
Núi giữa biển thắm tựa màu xanh của đầu Phật(14).
[Nơi đây chẳng khác gì]
Vườn Kỳ Thụ(15) trên lưng Ngao vàng(16),
Thành Xá Vệ(17) trong ngôi nhà ngọc.
Con chim mỏi cánh lưu luyến vương nhờ nơi cành rậm,
áng mây vô tình nhởn nhơ sà xuống khoảnh sân vắng.
Gió đông thổi, mưa tạnh, màu nắng nhạt,
Vài đám mây tan, sắc trời thêm trong sáng.
Lo việc võ bị xong, bèn rong chơi thỏa thích,
Suốt đời lòng dạ đắm say, nay mới chợt tỉnh.

- Thiên Nam động chủ đề.

- Ngự tiền học sinh, bề tôi là Hoàng Hoàn kính cẩn viết chữ.

- Công bộ ngọc tượng chánh chưởng, bề tôi là Thái kính cẩn khắc đá.

Đ.V.M

CHÚ THÍCH

(1) Lê Thánh Tông còn một tên hiệu nữa, là Đạo Am chủ nhân.

(2) Xem Hoàng đế Lê Thánh Tông, nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn. Nxb. KHXH, H. 1998, tr.16.

(3) Sđd, tr.51.

(4) Động Dương Nham có 42 văn bia, niên đại khá phong phú: Trần, Lê, Mạc, Nguyễn.

(5) Phần phụ lục ở tài liệu đã nói ở chú thích 2. Phần này có chỗ nhầm, Lê Thánh Tông đề thơ ở động Hồ Công và động Long Quang vào năm Hồng Đức thứ 9, tức là năm Mậu Tuất (1478), chứ không phải là năm Quý Tỵ (1473) và năm Đinh Dậu (1477).

(6) Ký hiệu N0 12007 – Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (TVVNCHN).

(7) Ký hiệu A 69/ 1-12 (TVVNCHN).

(8) Ký hiệu A 568 (TVVNCHN).

(9) Ký hiệu N0 12001 (TVVNCHN).

(10) Ký hiệu N0 297 (TVVNCHN).

(11) Ký hiệu N0 20964 (TVVNCHN).

(12) Hai đoạn trong ngoặc kép "其 克 詰 爾 戎 兵 以 陟 禹 之 舊 跡" có xuất xứ từ thiên Lập chính sách Kinh Thư, nghĩa là "Nhà ngươi hãy lo chuẩn bị nhung phục và binh khí để đi theo vết cũ trị thủy của Vũ". Vũ tức là Hạ Vũ, lãnh tụ bộ lạc Hạ thời cổ đại Trung Quốc, sử còn gọi là Đại Vũ hoặc Nhung Vũ. Tương truyền, Vũ nối tiếp sự nghiệp trị thủy của Cổn, say mê công việc, bàn chân in dấu khắp mọi miền đất nước, trong 13 năm liền trị thủy có 3 lần đi qua cổng mà không có thời gian vào thăm nhà - "Đi theo vết chân của Vũ" ý nói: đi thăm thú, thị sát mọi miền đất nước.

(13) Theo sách Tạp ngữ, tổ Đạt Ma đại sư là người phương Bắc, mắt màu xanh biếc, nên gọi tổ là Bích Nhãn.

(14) Bồ tát còn gọi là Quan Âm đầu xanh, là một trong 33 vị Quan Âm, tượng Phật Quan Âm đầu xanh ngồi trên mỏm đá, tay trái đặt lên vách đá, tay phải đặt lên đầu gối.

(15) Vườn Kỳ Thụ: tức là Kỳ Thụ viên, còn gọi Kỳ Thụ Đà viên, tên đầy đủ là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc viên, tức vườn cây Kỳ Đà thái tử cúng dàng. Nơi đây Phật Thích Ca xây dựng tịnh xá trong khu vực thành Xá Vệ, tiếng Phạn gọi là vườn Jeta (Thệ Đa).

(16) Ngao vàng: dịch từ hai chữ "kim ngao", ngao là loại rùa biển. Truyền thuyết của Trung Quốc nói rằng, ngoài biển khơi có rùa vàng lớn. Con rùa vàng này đội cả điện Bồng Lai trên mình nó. Bài thơ Tiểu du tiên của Tào Đường trong Toàn Đường thi có câu:

“Kim ngao đầu thượng Bồng Lai điện
Duy hữu nhân gian luyện cốt nhân”.
(Rùa vàng đội điện Bồng Lai
Trần gian luyện cốt có người đến đây),

hoặc bài Cung từ của Vương Kiến có câu:

“Bồng Lai chính điện áp Kim ngao,
Hồng nhật sơ sinh bích hải đào”.
(Lưng rùa vàng cõng điện Bồng Lai
Sóng biển biếc soi mặt trời hồng mới mọc).

(17) Thành Xá Vệ: tên đầy đủ của thành này là Thất La Phạp Tất Để 室 羅 筏 悉 底, còn gọi là Bà Đề 婆 提, là đô thành của nước Kiều-Tát- La phía bắc ấn Độ. Tương truyền, Thích Ca Mâu Ni từng ở đây 25 năm.

TB

PHÁT HIỆN BÚT TÍCH CHỮ HÁN CỦA HOÀNG KẾ VIÊM Ở ĐỘNG NGỌC KIỀU (THANH HÓA)

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

Hoàng Kế Viêm (1820 - 1909), còn gọi là Hoàng Tá Viêm là một danh nhân lịch sử dưới triều Nguyễn. Ông người làng Văn Đa, huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình, tự là Nhật Trường, hiệu là Tùng An. Từ năm 1852, Hoàng Kế Viêm giữ chức án sát Ninh Bình, rồi Bố chính Thanh Hóa. Khi làm Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), ông có công trị an, mở mang kinh tế, thủy lợi. Năm 1870, ông được cử làm Thống đốc quân vụ 4 tỉnh Lạng - Bình - Ninh - Thái. ở đây, ông có công tiễu trừ đảng giặc Cờ Trắng và Cờ Vàng, thu phục quân Cờ Đen do tướng Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu. Ông được phong Đại học sĩ, Thống đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ miền Bắc… Từ năm 1882, sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, ông giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh và đã cùng với Nguyễn Cao, Trần Xuân Soạn, Bùi Văn Dị… đánh nhau với quân Pháp ở Gia Lâm. Trận giao tranh quyết liệt này được Tiến sĩ Bùi Văn Dị ghi lại trong tác phẩm Du tiên thi thảo của mình, với những câu tạm dịch như sau:

… Bên bờ Bắc nước sông cuồn cuộn,
Trận gió đông bụi cuốn sa trường;
Tiếng vang lũ giặc kinh hoàng,
Ngút trời sát khí đằng đằng bốc cao…

Sau đó, ông cùng với tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc chống nhau với giặc Pháp, nhưng thất bại, bị giáng chức. Đến đời Đồng Khánh, ông xin trí sĩ, song không được chấp nhận. Mãi đến năm Kỉ Sửu, đời Thành Thái (1889), ông mới được nghỉ hưu. Năm 1909 ông mất, thọ 89 tuổi(1).

Trong sử sách, chúng ta mới biết được Hoàng Kế Viêm là một võ tướng, có chiến công chống thực dân Pháp xâm lược. Ông không có tên trong tác phẩm: Lược truyện các tác gia Việt Nam(2). Nhưng trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam danh nhân từ điển(3) đều cho biết thêm Hoàng Kế Viêm cũng là nhà văn, nhà sử, tác gia của 6,7 tập sách.

Vừa rồi, trong chuyến đi khảo sát, nghiên cứu những di sản văn hóa Hán Nôm ở Thanh Hóa, chúng tôi phát hiện được một bài thơ chữ Hán của ông khắc ở vách đá ngoài động Ngọc Kiều, núi Kim Sơn, thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.

Ngọc Kiều là một động vào loại đẹp nhất, trong số 6 động của thắng tích Kim Sơn, nhưng hiện nay đường đi cho đến cũng còn rất khó khăn. Có lẽ Hoàng Kế Viêm từng giữ chức Bố chính Thanh Hóa, nên ông mới thuộc đường và dẫn một số bạn hữu, danh nho khác đến tham quan nơi đây.

Theo bài tựa của Nguyễn Vĩnh Tu, một người trong hoàng tộc nhà Nguyễn, cũng thấy khắc trên vách động, thì Hoàng Kế Viêm đã tham gia đoàn về Gia Miêu, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa, để bái yết quê tổ của các vua triều Nguyễn, rồi thuận thuyền chèo đến Kim Sơn vãn cảnh, đề thơ !

Sau đây là nguyên văn bài thơ bằng chữ Hán của Hoàng Kế Viêm và bản phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích của chúng tôi.

Nguyên văn:

山 青 洞 碧 倚 高 秋
覽 勝 芳 時 共 泛 舟
有 酒 不 須 登 菊 酌
無 花 應 效 插 茱 遊
木 經 羽 客 凌 風 架
水 入 金 天 帶 月 流
未 審 李 仙 如 到 此
幾 番 攜 句 幾 搔 頭
右 蕃 使 黃 繼 炎 羅 州 步 韻.
嗣 德 九 年 孟 冬 上 浣 鐫.

Phiên âm:

“Sơn thanh động bích ỷ cao thu,
Lãm thắng phương thời cộng phiếm chu.
Hữu tửu bất tu đăng cúc chước,
Vô hoa ưng hiệu tháp thù du.
Mộc kinh vũ khách lăng phong giá,
Thủy nhập kim thiên đái nguyệt lưu.
Vị thẩm Lý Tiên như đáo thử,
Kỷ phiên huề cú kỷ tao đầu.
Hữu phiên sứ Hoàng Kế Viêm La Châu bộ vận.
Tự Đức cửu niên mạnh đông thượng cán thuyên”.

Dịch nghĩa:

Núi xanh, động biếc tựa vào bầu trời thu,
Ngày vui ngắm cảnh đẹp cùng bạn bơi thuyền.
Có rượu, chẳng cần lên cao nâng chén cúc(4)
Không hoa, hẵng bắt chước đeo túi thù du(5).
Cây nhờ đạo sĩ mà cưỡi gió,
Nước vào mùa thu mang theo dòng trăng.
Chẳng rõ nhà thơ Lý Bạch đã đến nơi này chưa ?
Chắc mỗi lần nghĩ ra câu thơ hay là một lần phải vò đầu.

Bài thơ trên là của phiên sứ Hoàng Kế Viêm người họa vần La Châu. Khắc ngày thượng tuần tháng 10 năm Tự Đức 9 (1856).

Dịch thơ:

Non xanh, động biếc tựa bầu thu,
Ngắm cảnh thuyền bơi lướt nhẹ ru.
Có rượu cần chi nâng chén cúc,
Không hoa tạm học cắm thù du.
Nước vào thu dịu mang trăng sáng,
Cây gặp khách tiên cưỡi gió vù.
Lý Bạch thi nhân như có tới,
Bao câu thơ đẹp, bấy đau đầu.

H.P - H.N

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử; Nxb. KHXH, H, 1992.

(2) Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Thượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu: Lược truyện các tác gia Việt Nam; Tập I, II; Nxb. KHXH, H, 1972.

(3) Nguyễn Huyền Anh: Việt Nam danh nhân từ điển; Nxb. Khai trí, Sài Gòn, 1967.

(4), (5). Chén cúc (cúc tửu), thù du: sách Tục Tề Hài ký có chép chuyện ngày 9 tháng 9 mang túi đựng thù du (một thứ có vị cay như hồ tiêu) và uống rượu cúc để trừ tai họa và kéo dài tuổi thọ. Thơ Quách Nguyễn Chẩn có câu: “Tị ác thù du nang; Diên niên cúc hoa tửu = Tránh tai họa, có túi thù du; Kéo dài tuổi thọ, có rượu hoa cúc”. Chữ du, đúng ra phải viết là ( ).

TB

VĂN BIA CHỢ BẰNG

ĐỖ THỊ BÍCH TUYỂN

Chợ Bằng là tên gọi của ngôi chợ thuộc làng Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (xưa kia thuộc thôn Bình Vọng, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông).

Sách Đại Nam nhất thống chí(1) nhận xét: "Chợ Bình Vọng ở huyện Thượng Phúc phố xá đông đúc, là một chợ lớn trong phủ Thường Tín, tục gọi là chợ Bằng". Có thể nói, đây là một khu chợ lớn, đầu mối giao thông thuận tiện không những quanh vùng mà còn kề cận với đất kinh kỳ. Với ưu thế là cửa ngõ đi vào đất Thăng Long, nơi đây từng được Nguyễn Huệ dùng làm nơi đóng quân, mở trận Ngọc Hồi, trước khi đánh trận Đống Đa lịch sử.

Trước kia, chợ nằm trước dãy Tam quan của chùa Báo Quốc trên một nền đất rộng khoảng 5 mẫu Bắc bộ. Về sau, do nhu cầu phát triển của xã hội, chợ được chuyển đến khu vực gần đó, cạnh đường số 1 (nền cũ của chợ trước cửa chùa Báo Quốc nay vẫn còn). Ngay từ xưa, chợ Bằng đã là trung tâm kinh tế lớn của khu vực huyện Thượng Phúc. Bên trong là các xã Vân Tảo, Thư Phú; liền kề phía Bắc là các xã Bạch Liên, Phương Kế, Văn Hội, Văn Giáp cũng giáp canh giáp cư với Bình Vọng phía nam là các xã Hà Hồi, Khê Hồi, Phú Cốc. Một điều cần lưu ý là ở khu vực này có hai chợ lớn cùng phát triển cho đến ngày nay, đó là chợ Bằng và chợ Vồi. Chợ Vồi thuộc xã Hà Hồi, huyện Thường Tín (nay thuộc bến xe huyện Thường Tín) cũng là một đầu mối giao thông từ Nam ra Bắc, qui mô nhỏ, họp theo kiểu chợ xanh, ngày nay người ta coi chợ Vồi là trạm trung chuyển hoa quả từ Nam ra Bắc. Khác với chợ Vồi, chợ Bằng có qui mô lớn hơn, với các dãy quán chợ, lại có nhiều cây cối thoáng mát, hơn nữa đây còn là một trong những chợ buôn bán trâu bò lớn của tỉnh Hà Đông(2). Do tính chất là trung tâm kinh tế của thị trấn nên đã nhiều lần, phòng Thương nghiệp huyện có ý định chuyển chợ hoa quả từ chợ Vồi đến khu vực chợ Bằng, song do nhiều nguyên nhân khách quan mà ý định đó chưa được thực hiện.

Chợ Bằng vốn có tự cổ xưa, hiện nay chưa xác định rõ chợ có tự bao giờ. Song dựa vào tư liệu văn bia dựng ở chùa Báo Quốc thì chợ được mở rộng, xây dựng từ triều Lê Cảnh Hưng. Đó là Bình Vọng thị minh văn. Bia gồm 2 mặt, khắc chữ chân phương, khổ 0,85x0,94cm; 36 dòng, tạo năm Cảnh Hưng 41 (1780). Về nội dung, văn bia ghi lại địa thế thuận lợi buôn bán của chợ Bằng và lệnh chỉ trên ban xuống cho phép thu tiền chợ hàng năm để tiến hiến vào các dịp tế lễ và hương hỏa cho chùa Báo Quốc. Văn bia có ghi rõ: "Phía trước ấp, đường thông một dải, dân cư đông đúc, buôn bán nhộn nhịp, người người đến tụ họp. Các bậc thân hào kỳ lão đã bỏ ruộng tư ra để mở rộng thêm, làm thành chợ, tiền thu được dùng vào việc hương hỏa". Mặt 2 sao lại lệnh chỉ của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có niên đại là Cảnh Hưng 30 (1769) cho phép dân thôn tuân theo lệ cũ thu ở chợ Tam bảo của phường buôn bán trâu bò để làm tiền hương hỏa. Lệnh chỉ nghiêm cấm những ai hạch sách lạm thu, hoặc dung túng gian thương buôn bán, nhằm đảm bảo để chợ Tam bảo được hoạt động tốt hơn.

Một điều mà chúng tôi muốn nói ở mặt sao lệnh chỉ này là một hàng chữ bị đục hết gồm 8 chữ. Căn cứ vào niên đại ban lệnh chỉ là Cảnh Hưng 30 (1769) chúng tôi đoán định đó là các chữ Sư phó Thống quốc chính Tĩnh Đô Vương (Trịnh Sâm). Qua khảo sát hàng loạt các bia chợ chúng tôi thấy có một tấm bia khác cũng có khắc lệnh chỉ chúa ban là Phúc Nham tự Tam bảo thị tạo năm Thịnh Đức 4 (1656), đặt tại xã Ngọc Lâm, huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc, nội dung cấm các phủ lỵ, quản cơ, vệ môn thu thuế, không được chiếm đoạt chợ hoặc gây nhiễu để thu thuế chia nhau. Hay có một tấm bia khác là Tam bảo thiên phái độ ngạch bi ký tạo năm Phúc Thái 2 (1644), đặt tại bến đò Thiên Phái xã Ung Quế huyện Gia Viễn, Ninh Bình, ghi lại lệnh chỉ của Đại nguyên soái Thống quốc chính Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng) phân xử việc tranh chấp bến đò Thiên Phái... Tuy nhiên những tấm bia này còn nguyên vẹn, không bị đục chữ như bia chợ Bằng

Dưới đây xin giới thiệu toàn văn tấm bia để độc giả tham khảo.

BÌNH VỌNG THỊ MINH VĂN

Mặt 1: Thị bi văn

Sự nhi thuyên chi trinh mân sở dĩ thùy chư cửu viễn dã. Bình Vọng danh khu, sơn kỳ thủy tú, đại hữu văn nhân, phỉ duy khoa danh sự nghiệp dịch thế thư hương, tức hoàng vũ biền đâu, trung châu xưng tối. Cái tự Giao Nam thử địa, tiện thành lạc ấp, ấp trung hiển linh Báo Quốc tự, Tối linh từ, hộ quốc phúc dân, nẫm hữu linh ứng. Ngự bi côi sán, tự điển côn hoàng. Tự Lý ngật kim, lịch lịch khả khảo. ấp tiền thông cù nhất đới, liệt triền nhi cư, thương cổ lạc tàng, nhân yên tấu tập. Chư thân kỳ xuất tư điền nhi tăng quảng chi, dĩ thị chi, chinh vi hương hỏa.

Cung phụng ban hạ lệnh chỉ, chuẩn hứa thị tiền đệ niên xuân tế dữ tuế thời tiến hiến, vu dĩ thọ quốc mạch, điện thôn cư, ức vạn tư niên dữ thiên địa đồng thùy vu cửu viễn yên. Duy chí thực vi năng cảm động nhi thôn ổ lại dĩ yến ninh, hội kiến quý tiện, thẩm biện hữu vô, mậu thiên yết xứ, thỏa linh khang nhân phụ vật. Nhất thiên cảnh sắc dữ Phạn cung thần từ tịnh truyền ư bất hủ hĩ. Toại ký vu bi nhi minh chi viết:

Sơn Nam Bình Vọng
Địa tiếp hoàng thành
Thôn khư tứ mĩ Phong nguyệt song thanh
Thị giá bất dự
Tự sự khổng minh
Ly chỉ tịnh thụ
Cái cù dụng hanh.

Hoàng Lê Cảnh Hưng vạn vạn niên chi tứ thập nhất, tuế Canh Tý trùng dương hậu cốc nhật.

Đồn trung Hà Đình Cư sĩ Hanh Hội thị Nguyễn Tử Nhất Hiên bái soạn.

Đồn trung đương triều tứ Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ Hàn lâm viện Hiệu thảo Lê nhuận sắc.

Đồn trung bản thị cựu hệ thu đật đương triều đặc tứ Hảo tiết Như Thị Hoà thượng tự Tính ánh Ngô hưng công khai thác.

Nội Hoàng phiên ứng vụ Trần bái tả.

Dịch nghĩa:

VĂN BIA CHỢ

Sự việc được khắc vào đá là để lưu truyền mãi mãi về sau vậy. Vùng đất khu Bình Vọng danh tiếng, phong cảnh sơn thủy tú lệ, đời nào cũng sản sinh ra những người nổi tiếng, nếu không phải là khoa danh sự nghiệp nức mạch thư hương, thì cũng là bậc võ biền kiệt xuất ở miền trung châu. Từ khi nước Nam mở vận, nơi đây đã hình thành nên xóm làng. Trong ấp có chùa Báo Quốc(3), đền Tối linh, hộ quốc giúp dân, rất là linh ứng. Bia ngự rạng rỡ, tự điển huy hoàng, có từ triều Lý đến nay, rõ ràng có thể khảo xét. Phía trước ấp, đường thông một dải, dân cư đông đúc, buôn bán nhộn nhịp, người người đến tụ họp. Các bậc thân hào kỳ lão đã bỏ ruộng tư ra để mở rộng thêm, làm thành chợ, tiền thu được dùng vào việc hương hỏa.

Kính vâng lệnh chỉ ban xuống cho phép dùng tiền chợ làm tế xuân tế và dâng cúng vào các tiết trong năm, để cho vận nước dài lâu, dân cư yên ổn, nghìn vạn năm trường tồn mãi mãi cùng trời đất. Chính nhờ thế đã thực sự cảm động quỷ thần mà xóm làng nhờ đó được bình yên, lại thấy kia sang đây hèn, xem xét kẻ có người không, cùng nhau trao đổi. Nhờ đó mà làm cho của cải dồi dào, dân cư đông đúc, một trời cảnh sắc tốt tươi cùng với chùa Phật đền thánh lưu truyền mãi đến vô cùng vậy. Bèn cho ghi khắc vào bia và làm thêm bài minh rằng:

Sơn Nam Bình Vọng,
Đất sát hoàng thành.
Khắp thôn tươi đẹp,
Gió mát trăng thanh.
Luân phiên giá chợ,
Thờ cúng rõ ràng.
Phúc đức cùng hưởng,
Thôn xóm vững vàng.

Ngày mồng 10 tháng 9 năm Canh Tý (1780) niên hiệu Cảnh Hưng 41.

Hà Đình Cư sĩ Hanh Hội thị Trần Tử Nhất Hiên bái soạn.

Tiến sĩ đương triều khoa Nhâm Thìn (1772), làm Hàn lâm viện Hiệu thảo họ Lê nhuận sắc.

Bản chợ cựu hệ thu dật, được triều đình đặc ban Hảo Tiết Hòa thượng Như Thị, tự là Tính ánh họ Ngô hưng công mở chợ.

Nội Hoàng Phiên ứng vụ họ Trần viết chữ.

Mặt 2: Phụng sao lệnh chỉ

[Sư phó Thống quốc chính Tĩnh Đô Vương] lệnh chỉ Thượng Phúc huyện Bình Vọng thôn viên mục, Thị cận Thị nội giám Tư lễ giám Tổng thái giám Tải Trung hầu Trương Thọ Dận, Tri phủ Nguyễn Thiếp, Tự thừa Lê Bá Phan, Đồng tri phủ Lê Đình Thực, Trần Đình Bái; Điện tiền Trần Đình Liên, Trần Danh Thăng; Đô sự Nguyễn Viết Tạo, Huyện thừa Hoàng Nguyễn Chủng, Nguyễn Đình Thạc, Đặng Danh Doãn, Đồng tri châu Trần Danh Cảo, Ngô Thọ Trì, Ngô Thọ Thạc, Thôn trưởng Trần Đình Sĩ, Nguyễn Đình Cơ, Trần Xuân Quyền, Dương Đình Bá, Trần Doãn Cung, Lương Bá Tĩnh đồng thôn đẳng. Hệ thôn nội hữu Thượng đẳng thần từ dữ Báo quốc tự tòng tiền hiển hữu linh ứng. Đệ niên xuân tế phụng ban điệu tiền chỉnh biện hành lễ. Tư chước trừ giá tiền, nhưng chiếu cựu, thủ bản thôn Tam bảo thị bản mại ngưu lao đẳng phường hương tiền, mại giả cổ tiền thập ngũ văn, mãi giả cố tiền lục văn, chuẩn vi mãi biện lễ vật quy tế bản từ cập tu lý bản tự đẳng. Nhân ứng chuẩn y tự hậu chiếu tuân phụng hành vĩnh vi thường lệ dĩ thọ quốc mạch, ninh dân cư. Nhược tá sự lạm sách cập dung túng gian tang mậu dịch hữu quốc pháp tại. Tư lệnh.

Cảnh Hưng tam thập niên thất nguyệt sơ nhị nhật.

Dịch nghĩa:

PHỤNG SAO LỆNH CHỈ

[Sư phó Thống quốc chính Tĩnh Đô Vương] lệnh chỉ cho các viên mục thôn Bình Vọng huyện Thượng Phúc là Thị cận Thị nội giám Tư lễ giám Tổng thái giám Tải Trung hầu Trương Thọ Dận, Tri phủ Nguyễn Thiếp, Tự thừa Lê Bá Phan, Đồng tri phủ Lê Đình Thực, Trần Đình Bái, Điện tiền Trần Đình Liên, Trần Danh Thăng, Đô sự Nguyễn Viết Tạo, Huyện thừa Hoàng Nguyễn Chủng, Nguyễn Đình Thạc, Đặng Danh Doãn, Đồng tri châu Trần Danh Cảo, Ngô Thọ Trì, Ngô Thọ Thạc, Thôn trưởng Trần Đình Sĩ, Nguyễn Đình Cơ, Trần Xuân Quyền, Dương Đình Bá, Trần Doãn Cung, Lương Bá Tĩnh cùng toàn thôn: Vì trong thôn có đền Thượng đẳng thần và chùa Báo Quốc từ trước đến nay thường linh ứng. Hàng năm vào kỳ xuân tế được ban cho khoản điệu tiền để sắm biện lễ vật hành lễ. Nay châm chước miễn trừ cho số tiền này, vẫn tuân theo cũ, thu của các phường buôn bán trâu bò tại chợ Tam bảo bản thôn khoản tiền hương, người bán thu 15 văn tiền cổ, người mua 5 văn tiền cổ, cho phép dùng tiền đó để sắm biện lễ vật về tế lễ ở đền và tu sửa chùa của thôn. Vì vậy chuẩn theo như vậy, về sau cứ thế mà thi hành, mãi mãi làm thành thường lệ để cho vận nước dài lâu, dân cư yên ổn. Nếu ai đó dựa cớ hạch sách lạm thu, hoặc dung túng gian thương buôn bán thì quốc pháp còn đó. Nay lệnh.

Ngày mồng 2 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769).

Đ.B.T

CHÚ THÍCH:

(1) Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch, Nxb. KHXH, H. 1971, tập III.

(2) Ở Hà Đông xưa kia có hai chợ bán trâu bò nổi tiếng là chợ Bằng và chợ Cầu Đơ (tục gọi là chợ Đơ). Qua điều tra, chúng tôi thấy có tấm bia Cầu Đơ thị bi ký đặt tại thôn Cầu Đơ, xã Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ ứng Hòa, tỉnh Hà Đông nói rõ mọi người đồng tâm nhất trí mở thêm chợ bán trâu bò và định ra các điều lệ qui định thu thuế của người bán và người mua. Tấm bia có hai mặt nhưng chỉ dập được 1 mặt, không thấy ghi niên đại.

(3) Chùa Báo Quốc nằm trong làng Bình Vọng, được xây dựng từ đời Lý, qui mô rộng lớn. Hiện nay chùa vẫn giữ được qui mô gần như nguyên vẹn, đợt tu sửa đời Thành Thái nhà Nguyễn đặc biệt là bộ tượng Bát bộ kim cương.

TB

NHỮNG TRI THỨC CƠ BẢN VỀ
THƯ PHÁP

THẾ ANH

Thư pháp là một môn nghệ thuật độc đáo của Trung Hoa. Nói nôm na thư pháp là phép viết chữ, mà cụ thể ở đây là chữ Hán - một thứ chữ do người Trung Hoa sáng tạo hoặc văn tự của các nước đồng văn như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên có chung cội nguồn với chữ Hán.

Đến nay chưa có tài liệu nào cho biết một cách chính xác thời gian ra đời của chữ Hán và ai đã sáng tác ra nó. Có thuyết cho rằng Thương Hiệt - một sử quan của Hoàng đế đã sáng tạo ra chữ Hán (Thương Hiệt tác thư), song thuyết này không được các nhà nghiên cứu văn tự học chấp nhận và cho rằng Thương Hiệt chỉ là người có công thống nhất và hệ thống lại văn tự chứ không phải là người sáng tạo ra nó. Căn cứ vào các hiện vật thu lượm được ở di chỉ Tiểu Đồn huyện An Dương (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), người ta ước tính là chữ Hán đã xuất hiện rất sớm vào đời nhà Thương cách chúng ta trên 3000 năm. Đó là những mảnh mai rùa và xương thú có khắc một loại chữ gọi là giáp cốt (甲 骨 文) (giáp cốt văn). Trên các hiện vật đã phát hiện có khoảng 4500 chữ và các nhà nghiên cứu đã đọc được 1700 chữ. Nội dung của nó là những quẻ bói, người đương thời khi muốn bói hoặc hỏi một việc gì đó thì khắc lên trên mai rùa hoặc xương thú rồi đem ra cúng tế, sau đó đem hơ lửa và thầy bói căn cứ vào những đường rạn nứt trên đó để đoán ý của trời đất, thần thánh hoặc gia tiên rồi trả lời cho gia chủ. Giáp cốt văn là dấu tích chữ viết xưa nhất của người Trung Hoa còn lại đến hôm nay và đó là tiền thân của chữ Hán. Cách cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình tức là dùng hình vẽ để ghi lại sự vật. Ví dụ muốn thể hiện chữ mã thì vẽ hình con ngựa có lông gáy, chân và đuôi, chữ ngư thì vẽ hình con cá có đầu nhọn, mình có vảy và đuôi chẻ ra hai bên; chữ mục thì vẽ hình con mắt, chữ nhật thì vẽ hình mặt trời có làn sáng nhấp nháy bên trong... Cách nói thư họa đồng nguyên (viết và vẽ có chung nguồn cội) là xuất phát từ cơ sở đó(1).

Sau giáp cốt văn khoảng 3 thế kỷ, dưới thời Tây Chu đã xuất hiện thể chữ viết gọi là kim văn (金 文) (còn gọi là chung đỉnh văn hay minh văn) là loại chữ viết trên đồ đồng hoặc chuông vạc, phần lớn nội dung có liên quan đến việc cúng tế, chinh phạt, ban thưởng... Theo lệ nhà Tây Chu mỗi lần nhà vua đem ruộng đất hoặc người lao động ban thưởng cho các quý tộc đều có ghi lại trên chuông đỉnh làm kỷ niệm, nên thời kỳ này kim văn khá phát triển. Về thể chữ kim văn thì vẫn mang dáng dấp của chữ giáp cốt, nhưng ngay ngắn và vuông vức hơn. Ngoài ra người ta còn phát hiện được chữ viết thời Tây Chu khắc trên trống đá gọi là thạch cổ văn (石 鼓 文). Các thể chữ giáp cốt văn, kim văn, thạch cổ văn được gọi một tên chung là chữ đại triện (大 篆) hay cổ văn (古 文)(2).

Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất đất nước đã thực hiện cải cách văn tự, loại bỏ tất cả những chữ dị thể ở các địa phương khác và dùng một thể chữ thống nhất trong toàn quốc. Đó là chữ tiểu triện (小 篆) (còn gọi là Tần triện). So với đại triện, tiểu triện đơn giản, ngay ngắn, tề chỉnh và chuẩn mực hơn. Đó là một bước tiến trong văn tự Trung Hoa. Tuy nhiên trong sử dụng chưa thoát ly hẳn hình vẽ, dùng nhiều đường nét uốn khúc, nên chữ triện viết rất chậm không thích hợp với nhu cầu cấp bách của việc soạn thảo công văn, giấy tờ hành chính nên chữ triện đã được cải tiến thành chữ lệ (隸 書) đơn giản, dễ viết hơn và đã trở thành một thể chữ thông dụng dưới thời nhà Hán với những nét hất đầu tằm, đuôi nhạn mang tính nghệ thuật cao. Về cơ bản chữ lệ giống với chữ Hán hiện đại(3).

Đồng thời với lệ thư còn có thảo thư (草 書) được hình thành trên cơ sở của chữ lệ. Trong cuốn Thảo thư trạng có viết về nguồn gốc của chữ thảo như sau: “Trước đây vào thời nhà Tần các nước chư hầu tranh nhau làm bá chủ, những lời hịch ngắn gọn truyền cho nhau, trông theo ngọn lửa báo động mà chạy ngựa trạm đưa tin, nếu dùng chữ triện và chữ lệ thì không thể viết nhanh được, do đó mới có chữ thảo như hiện nay”(4). Chữ thảo viết rất nhanh nên nhiều nét có thể giản lược, nét bút phóng túng bay lượn không bị gò bó, biến hóa linh hoạt, tạo thành một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Sự xuất hiện của chữ thảo làm cho chữ Hán có những đặc điểm thẩm mỹ cao. Có hai loại thảo thư là chương thảo (章 草) và kim thảo (今 草).

Chương thảo là lối viết nhanh và còn giữ lại nhiều thế bút của lệ thư. Chương thảo khởi nguyên từ cuối Tần, đầu Hán và lưu hành rộng rãi vào thời Lưỡng Hán. Chương thảo còn có tên là lệ thảo (隸 草) hoặc cổ thảo (古 草). Các nhà thư pháp nổi tiếng về chương thảo là Sử Du (史 游) và Trương Chi (張 芝). Thời Tam Quốc Ngụy, Vĩ Đản đã tôn xưng Trương Chi là thảo thánh. Hai cha con họ Vương (Vương Hy Chi, Vương Hiến Chi) sống sau họ Trương khoảng 200 năm cũng chịu ảnh hưởng và sùng bái mặc tích của Trương Chi, và cũng được người đời tụng xưng là “Thảo thánh nhị vương”. Còn tại sao lại có tên gọi là chương thảo thì đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Có người cho rằng lúc đương thời thể chữ này thường dùng để viết chương tấu nên gọi là chương thảo (?).

Kim thảo dùng để chỉ chữ thảo được dùng từ thời Tấn - Đường và thông dụng đến ngày nay. Tương truyền là Trương Chi đời Đông Hán sáng tác ra kim thảo: chữ trên chữ dưới liên tục dính liền với nhau, có khi lấy phần cuối của chữ trước làm phần đầu của chữ sau. Kim thảo còn có tên gọi là tiểu thảo (小 草) hoặc độc thảo (獨 草), nếu khi viết từng chữ rời ra, gọi là đại thảo (大 草), hoặc cuồng thảo (狂 草), nếu nét bút tung hoành viết liền một mạch như phượng múa rồng bay. Hai đại thư gia tiêu biểu của cuồng thảo là Trương Húc (張 旭) và Hoài Tố (怀 素) đời Đường, người đời gọi hai ông là Cuồng thảo nhị tuyệt (狂 草 二 絕). Tương truyền là Đường Văn Tông rất mê thư pháp của Trương Húc và đã ban chiếu chọn ba nhân vật kiệt xuất (tam tuyệt) là thi tiên Lý Bạch, nghệ thuật múa kiếm của Bùi Mân và thảo thư của Trương Húc(5).

Đến cuối đời Hán đầu đời Ngụy lại xuất hiện một thể chữ gọi là khải thư (楷 書) (còn gọi là chân thư hoặc chính thư). Thể chữ này được hình thành và cải tiến từ lệ thư và chương thảo. Khải thư dễ viết: ngang bằng, sổ ngay, chân phương, rõ ràng, vận bút linh hoạt. Từ Ngụy Tấn về sau khải thư chiếm địa vị chính thống và coi như thể chữ chính quy được lưu hành rộng rãi và thông dụng đến ngày nay. Người xưa đã có câu ví “Chữ khải như thế đứng, chữ hành như đi, chữ thảo như chạy” (khải như lập, hành như tẩu, thảo như bôn). Thật vậy, thế đứng có vững vàng thì mới đi và chạy được. Do đó người mới học thư pháp phải lấy chữ khải làm cơ sở. Trong vấn đề học tập chữ khải người ta thường nhắc đến các phong cách khải thư như Âu thể, Nhan thể, Liễu thể, Triệu thể. Đó là bốn thư pháp gia tiêu biểu Âu Dương Tuân 歐 陽 詢 (Sơ Đường), Nhan Chân Khanh 顏 真 卿 (Thịnh Đường), Liễu Công Quyền 柳 公 權 (Vãn Đường) và Triệu Mạnh Phủ 趙 孟 (Nguyên). Âu thể thì thanh tú trang nghiêm; Nhan thể thì mộc mạc, mạnh mẽ; Liễu thể thì cứng cỏi quật cường; Triệu thể thì yểu điệu, kiều diễm. (Âu kình, Nhan cân, Liễu cốt, Triệu thể nhục).

Hành thư (行 書) là một thể chữ trung gian ở giữa khải thư và thảo thư, nó bao gồm cả các yếu tố khải và thảo. So với triện, lệ và khải thì hành thư viết nhanh và dễ đọc hơn triện thư và thảo thư mà chữ viết lại linh hoạt, kết hợp được nét chân phương bình dị của khải thư và bay bướm phóng khoáng của thảo thư nên phát huy được hiệu quả nghệ thuật được nhiều người ưa chuộng và mang tính thực dụng cao. Lối viết gần với chữ khải thì gọi là hành khải, gần chữ thảo thì gọi là hành thảo.

Nói đến thư pháp, từ xưa đến nay mọi người vẫn tôn sùng Vương Hy Chi 王 羲 之 (307 - 365 đời Tấn) là vị tổ kế thừa môn nghệ thuật này. Ông theo học Vệ Phu Nhân 衛 夫 人 (272 - 349) và đã dày công nghiên cứu bút tích của các danh nhân lớp trước nên đã vươn tới đỉnh cao của môn nghệ thuật thư pháp. Kiệt tác Lan Đình tự 蘭 亭 序 của ông đã được người đời đánh giá là “Thiên hạ đệ nhất hành thư”. Câu chuyện về thiếp Lan Đình như sau: Vào năm Vĩnh Hòa thứ 9 (353) Vương Hy Chi cùng Tạ An, Tôn Xước, Khích Đàm... gồm bốn mươi mốt người hội ở Lan Đình xướng họa vui chơi. Nhân dịp này Vương Hy Chi đã viết bài tựa cho tập Lan Đình thi tập theo thể hành thư tuyệt đẹp. Người đời sau phỏng dập khắc in để tập viết gọi là thiếp Lan Đình mà Nguyễn Du cũng đã có lần nhắc đến trong tác phẩm Truyện Kiều. Tương truyền là Đường Thái Tông vì quá say mê thư pháp của Vương Hy Chi nên có khi nửa đêm vẫn chong đèn nghiền ngẫm và luyện tập, nhà vua còn sai các nhà thư pháp chép lại làm vật ban thưởng cho người được nhà vua ưu ái. Trước lúc băng hà, Đường Thái Tông đã yêu cầu chôn bức Lan Đình tự nguyên bản xuống mộ cùng nhà vua. Một điều đặc biệt là Vương Hiến Chi 王 獻 之 (344 - 386), con thứ bảy của Vương Hy Chi cũng là một thư pháp gia nổi tiếng. Ông tinh thông cả các thể chính, hành, khải, lệ. Các nhà thư pháp Đường Tống rất hâm mộ và chịu ảnh hưởng của ông. Hai cha con họ Vương được người đời tôn xưng là “Nhị vương”.

Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa không ngừng phát triển, thời đại nào cũng có những đại biểu xuất sắc: đời Đường có Âu Dương Tuân, Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền, đời Nguyên có Triệu Mạnh Phủ như chúng tôi đã đề cập đến ở trên. Ngoài ra đời Đường còn có Ngu Thế Nam, Chử Toại Lương, Lý Ung; đời Tống có Tô Đông Pha, Mễ Phất, Hoàng Đình Kiên...; đời Minh có Kỳ Xương; đời Thanh có Trịnh Bản Kiều, Lưu Dung, đặc biệt cả hai vị hoàng đế là Khang Hy và Càn Long cũng là những người say mê nghệ thuật thư pháp. Hiện ở Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội còn lưu giữ bút tích của vua Khang Hy.

Để có một tác phẩm thư pháp hoàn chỉnh đảm bảo về mặt thẩm mỹ và nghệ thuật, ngoài yêu cầu về chữ nghĩa, vấn đề bố cục (trong thư pháp gọi là chương pháp (章 法), thiên pháp (篇 法) hoặc bố bạch (布 白) có một vị trí rất quan trọng. Một tác phẩm thư pháp có bố cục hợp lý, hài hòa, cân đối sẽ mang lại những ấn tượng tốt đẹp cho người thưởng thức, ngược lại một bức thư pháp dù có nét chữ bay bướm nhưng bố cục sơ sài, cẩu thả, chữ viết không thành hàng lối, khoảng trống xung quanh quá thừa hoặc quá thiếu thì sẽ gây phản cảm cho người thưởng thức. Các nhà thư pháp thường lấy chương pháp bài Lan Đình tự của Vương Hy Chi làm mẫu mực. Toàn bài mạch lạc thông suốt, tiền hô hậu ứng, biến hóa linh hoạt, huyền diệu vô cùng. Lan Đình tự có 20 chữ chi thì mỗi chữ có một cách viết mang thần thái khác nhau nhưng bố cục của bài không bị phá vỡ mà vẫn có sự giao ứng hài hòa tương tiếp.

Một bức thư pháp hoàn chỉnh bao gồm chính văn (正 文), đề khoản (題 款) và ấn chương (印 章). Dòng chữ không nằm trong chính văn gọi là đề khoản (lạc khoản). Đề khoản không đúng quy cách sẽ làm giảm giá trị của tác phẩm, ngược lại đề khoản thích hợp sẽ làm cho người thưởng thức hoặc được trao tặng đón nhận một cách nhiệt tình. Nội dung lạc khoản phải rõ ràng, chính xác và đơn giản. Lạc khoản chia ra thượng khoản và hạ khoản. Thượng khoản ghi tên người nhờ viết và kèm theo khiêm từ như thanh thưởng, nhã thuộc, nhã chính, phủ chính (清 賞, 雅 屬, 雅 正, 斧 正) hoặc nhã tồn, huệ tồn, huệ niệm (雅 存, 蕙 存, 蕙 念)... Hạ khoản có thể ghi xuất xứ của chính văn và tên (hoặc bút danh) người viết, thời gian và địa điểm viết. Nếu chính văn là tác phẩm nổi tiếng thì có thể ghi thêm khiêm từ như Kính thư, Kính lục (敬 書, 敬 錄). Thượng khoản và hạ khoản còn có tên gọi chung là song khoản (雙 款). Trường hợp không ghi thượng khoản mà chỉ có hạ khoản thì gọi là đơn khoản (單 款)(6).

Vị trí để ghi lạc khoản cũng cần linh hoạt tùy theo khuôn khổ của bức thư pháp để đảm bảo tính thẩm mỹ, tuy nhiên dòng lạc khoản không nên để cao ngang với phía trên bản chính văn hoặc để quá thấp xuống phía dưới.

Thể chữ trong chính văn và lạc khoản cũng có sự quy định theo tập quán thưởng thức, nếu chính văn là triện thư thì lạc khoản là lệ, khải hoặc hành thư; chính văn là lệ thư thì lạc khoản là khải hoặc hành thư; chính văn là thảo thư thì lạc khoản là thảo hoặc hành thảo; chính văn là hành thì lạc khoản là hành thư hoặc hành thảo. Chữ hành viết linh hoạt lại dễ đọc, do đó người ta thường dùng hành thư để ghi lạc khoản cho bất cứ thể chữ nào trong chính văn.

Trong một bức thư pháp hoàn chỉnh không thể thiếu ấn chương (con dấu). Nếu con dấu đặt đúng vị trí, nó làm cho tác phẩm tăng thêm giá trị, giống như cành lá có điểm thêm bông hoa đẹp. ấn chương có hai loại là danh chương (名 章) và nhàn chương (閑 章). Danh chương là con dấu khắc tên (hoặc bút danh) của tác giả và thường đóng phía dưới hoặc bên trái tên người viết ở hạ khoản. Danh chương không nên quá to hoặc quá bé, thông thường bằng 2/3 chữ lạc khoản là vừa, nó sẽ làm nổi bật màu đen và hồng của dòng lạc khoản và danh chương. Đôi khi người ta còn dùng hai danh chương bằng nhau: một khắc chìm (gọi là âm văn hay bạch văn) khi đóng lên có nét chữ trắng, một khắc nổi (gọi là dương văn hay chu văn) khi đóng lên có nét chữ màu đỏ.

Nhàn chương là con dấu có khắc những câu nói có ý hay, lời đẹp, những câu danh ngôn, thành ngữ hoặc những câu có hàm ý khuyên răn... tùy theo tâm tư, hoài bão và ý chí của chủ nhân. Nhàn chương rất đa dạng, có khi chỉ là con dấu ghi ngày tháng hay tên thư trai, thảo đường của tác giả. Vị trí đóng nhàn chương thường ở phía trên, bên phải chính văn. Cần chú ý khi sử dụng nhàn chương là nội dung phải phù hợp với nội dung trong chính văn, nếu không sẽ trở nên buồn cười và phản tác dụng.

Do khuôn khổ của bài viết, trên đây chúng tôi chỉ mới nêu lên một vài điểm khái quát trong môn nghệ thuật thư pháp của Trung Hoa và chưa đề cập đến những thao tác cụ thể mang tính kỹ thuật. Có dịp chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này.

T.A

CHÚ THÍCH

(1) Trung Quốc thư pháp sử 中 國 書 法 史. Thiên Tân, Nhân dân mỹ thuật xuất bản xã, 2000.

(2) (3) Thư pháp tự điển 書 法 字 典. Thành Đô, Khoa kỹ Đại học xuất bản xã, 1991.

(4) (5) Thư pháp tự điển 書 法 字 典. Nxb. Văn nghệ và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2000.

(6) - Khải thư nhập môn tự phổ 楷 書 入 門 字 譜. Quảng Tây, Mỹ thuật xuất xã 1995.

- Thư pháp tự điển 書 法 字 典. Thành Đô, Khoa kỹ Đại học xuất bản xã 1991.

- Cương bút thư pháp tự học giáo trình 鋼 筆 書 法 自 學 教 程. Triết Giang, Khoa học kỹ thuật xuất bản xã 1997.

CÁC THẾ CHỮ