|
BẬC THẦY CỦA NHỮNG CHUYỆN KỲ DIỆU SÁNG TẠO TỪ ĐẤT HẢI DƯƠNG(1)
M. TKACHOV
Số phận những cuốn sách cổ, cũng như tác giả của chúng thường bí ẩn và bất thường. Có một bộ sách của tác giả Việt Nam, tồn tại giữa thế nhân đã hơn bốn thế kỷ vẫn tiếp tục diên trì sở thích của chúng ta ngày nay. Đó là tập Truyền kỳ mạn lục (2), được viết bằng Hán văn, ngôn ngữ chung của nhiều nền văn học Viễn Đông, thời ấy, sách đã được chú giải ngay sang tiếng Việt. Những phần diễn giải và chú thích này được viết bằng chữ Nôm của người Việt đã khiến sách trở thành trân bảo, không chỉ của một số học giả và thư tịch gia, mà cả của những ai quan tâm đến nền tảng văn từ.
Tuy lời nói đầu của bản in sớm nhất hiện còn cho biết sách được ấn hành năm thứ 24 triều Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiến Tông (1763), đồng thời tán dương công đức nhà vua(3), thế nhưng về tác giả, sách chỉ nêu tên Nguyễn Dữ, mách rằng ông đã qua kỳ thi Hội và được bổ Tri huyện, nhưng chỉ một năm sau, ông từ quan, quy ẩn. Không thấy nói Nguyễn Dữ sinh năm nào, ứng thí và được bổ nhiệm làm quan khi nào, cũng như ông sống được bao lâu sau khi từ bỏ quan tước.
Trước chúng ta là tập sách của Nguyễn Dữ, được xuất bản gần đây nhất ở Việt Nam năm 1971(4). Từ lời nói đầu, ngoài những số liệu ít ỏi, chúng ta chỉ biết được tên gọi ngôi làng quê hương của Nguyễn Dữ là Đỗ Tùng, thuộc huyện Trường Tân, tỉnh Hải Dương.
Cũng quyển sách này cho biết hợp tập nổi tiếng Hoàng Việt thi tuyển đã xếp Nguyễn Dữ vào thời nhà Mạc (tiếm vị triều Lê năm 1527, và giữ ngôi cho đến năm 1592); Hợp tuyển cho Nguyễn Dữ là học trò của nhà thơ và hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), người đã đỗ đạt và phụng sự dưới thời nhà Mạc. Từ đây có thể kết luận rằng có lẽ Nguyễn Dữ cũng đã trải qua nhiều kỳ thi, phục vụ cho chính nhà Mạc, và gắn bó với triều đại đó.
Hãy cùng đọc Hoàng Việt thi tuyển (Lời tựa viết năm 1788). Nhiều sáng tác thi ca cổ nước Việt đã được bảo lưu cho chúng ta nhờ công lao động của nhà sưu tập Bùi Huy Bích. Ông đã đưa vào bộ sách một số bài thơ điểm xuyết trong văn Nguyễn Dữ(5), nhưng cũng chỉ thông tin rất ngắn gọn về tác giả của chúng. Tuy nhiên ở đây cũng có một số chi tiết mới cho chúng ta: 1. Trong nhiều khoa thi, Nguyễn Dữ đã trúng kỳ Đệ tam(6); 2. Từ quan để chăm sóc mẹ già; 3. Trở về làng và không bao giờ quay lại phố thị(7). ở đây lại hoàn toàn không có ngày tháng gì cả !
Nay lại cùng xét Lịch triều hiến chương loại chí. Cách đây hơn 150 năm [1821], bộ sách nhiều tập này đã khiến Hoàng đế nước Nam [Minh Mạng] khâm phục, ban thưởng cho tác giả của nó là Phan Huy Chú 30 lạng bạc (hơn 1kg), một áo sa, 30 bút lông hảo hạng, cùng 30 nghiên mực(8).
Nhưng thoạt đầu, khi ngợi ca thành tích của nhiều nhân vật khác nhau trong việc phục vụ triều đình, sử gia lại không ghi lấy một dòng tiểu sử riêng biệt về Nguyễn Dữ (9).
Chỉ sau khi liệt kê những trứ tác văn chương nổi tiếng, ông ta mới ghi nhận rằng Truyền kỳ mạn lục được soạn bởi dật sĩ Nguyễn Dữ, con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu(10). Tên của cha Nguyễn Dữ và việc ghi nhớ bậc Tiến sĩ mở đường danh nghiệp của ông là những thông tin rất quan trọng đối với chúng ta.
Hơn thế nữa, từ tiểu sử của thi nhân và đại thần Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta lại biết rằng Nguyễn Dữ là học trò của ông, cùng chi tiết là thầy đã đọc sách của trò(11).
Trong bộ cổ tịch Kiến văn tiểu lục (Bài tựa ghi năm 1777), soạn bởi ngòi bút của sử gia, thi nhân, cùng là đại thần Lê Quý Đôn, chúng tôi cũng tìm được thêm vài điểm về cuộc đời Nguyễn Dữ. Do ghi chép này đầy đủ hơn những lần trước và tự thân nó rất thú vị, chúng tôi xin dẫn toàn văn ở đây: “Nguyễn Dữ - Người xã Đỗ Tùng… Cha tên là Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496)… làm quan Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Dữ lúc còn bé thông minh, lanh lợi, xem rộng, nhớ lâu, văn chương có thể nối dõi được gia phong, thi đỗ Hương cống, thi Hội nhiều khoa trúng kỳ Đệ tam, được tuyển bổ Tri huyện Thanh Tuyền, làm quan mới được một năm, liền lấy cớ là xa nhà, xin từ chức để về nhà hầu cha mẹ. Sau vì ngụy Mạc cướp ngôi vua, ông thề không ra làm quan, sống ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến thành thị. Về phần trứ tác có 4 quyển Truyền kỳ mạn lục, lời lẽ thanh tao tươi đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen.”(12)
Như vậy Nguyễn Dữ đã nhiều lần tham gia các kỳ thi Hội, vốn được tổ chức ba năm một lần(13). Điều này có nghĩa là ông đã ở Kinh đô một thời gian dài, và ngụ tại nhà thân phụ - một trọng thần khi ấy. Song, như Lê Quý Đôn khẳng định, đặc biệt quan trọng là dường như Nguyễn Dữ đã phục vụ và từ quan trước triều Mạc. Điều bất ngờ này được khẳng định qua bộ Đại Nam nhất thống chí (thế kỷ XIX), trong đó có những thông tin ngắn gọn về Nguyễn Dữ được xếp trong phần “Đời Lê” (1428-1527)(14), trong khi tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được xếp vào phần tiếp theo thuộc kỷ nhà Mạc. Các tác gia trên cũng được giới thiệu qua bước đường công danh của họ.
Hãy thử làm sáng tỏ những chi tiết này nhờ sự xuất hiện của niên kỷ duy nhất còn biết được. ấy là năm 1496 khi cha Nguyễn Dữ qua kỳ thi Hội. Về những kỳ thi Hội (chính xác hơn vòng đầu gọi là thi Hội, vòng hai gọi là thi Đình) có nhiều chi tiết đặc biệt đối với thời gian mà chúng ta quan tâm. Trong thời vua Lê Thánh Tông trị vì từ năm 1460 đến 1497, người đã quan tâm đặc biệt đến giáo dục. Dưới thời ông, cương thổ được mở mang, và thanh danh đất nước được khẳng định không chỉ trong phạm vi các nước nhỏ cận lân, mà còn ở Minh triều Hoa Hạ.(15) Do ý thức được nỗi khốn cùng và niềm cay đắng của sự đầy ải ngay từ buổi thiếu thời, Lê Thánh Tông (trong chừng mực có thể) đã hướng tới những tư tưởng “thiện chính”. Ông thiết lập kỷ cương và ấn định thuế khóa, cải tạo bộ máy nhà nước và quân đội. Dưới triều của ông, lần đầu tiên một bức “toàn đồ” của nước Đại Việt (tên gọi Việt Nam thời ấy) đã được thực hiện, phân định lại khu vực, quận huyện theo cách thức mới, dựng nên bộ lịch sử Việt Nam(16).
Nhà thơ nổi tiếng Lê Thánh Tông đã làm thơ và viết văn bằng Hán ngữ và Việt ngữ, cùng chủ soái “Tao Đàn nhị thập bát tú” trứ danh.
Như vậy, vào năm 1496, trên thực tế đã có những kỳ thi Hội và trong danh sách những người đỗ đầu, chúng ta thấy có Nguyễn Tường Phiêu, cha của Nguyễn Dữ(17).
Thế thì, năm 1496 Nguyễn Tường Phiêu khoảng bao nhiêu tuổi ?
Ở Lược truyện các tác gia Việt Nam, ấn bản lần hai tại Hà Nội cách đây không lâu(18), trong suốt thời kỳ từ cuối thế kỷ XI khi Việt Nam bắt đầu khoa cử cho đến năm 1547 (nói chung những số liệu sau đó đối với chúng tôi không quan trọng), chúng tôi đã tìm thấy 5 người với đầy đủ năm sinh và năm thi.
Có 9 người dưới 20 tuổi, 20 người từ 20 tuổi đến 30 tuổi và 12 người hơn 30 tuổi (trong số đó có 5 người hơn 40 tuổi).
Theo hai nguồn thông tin khác chúng tôi còn tìm được 4 người đoạt giải: 2 người dưới 20 tuổi, và 2 người khác ở độ tuổi 22.
Thế nên, có thể giả định rằng năm 1496, cha của Nguyễn Dữ ở độ tuổi từ 20 đến 30.
Người Việt thời đó lấy vợ rất sớm, và theo thông lệ, chính cha mẹ chọn vợ cho con trai mình. Người lên Kinh đô ứng thí thường đã có vợ. Điều này đã được nhiều truyện của Lê Thánh Tông và của chính Nguyễn Dữ chứng minh có liên quan đến phong tục, tập quán.
Kết luận rút ra là vào năm 1496 [Nguyễn] Tường Phiêu hẳn đã có vợ.
Khi ấy người ta có con rất sớm. Việc sinh con trễ thường được nhắc đến trong các bộ sử, ấy là không kể đến những câu chuyện thần kỳ (bản thân Nguyễn Dữ cũng có hai chuyện về đề tài này)(19), khi bàn về người nối dõi muộn mằn thường gắn với sự can thiệp của lực lượng ngoại giới; đấy là những chuyện hiếm hoi và bất thường. Sự thật là lúc bấy giờ người giàu thường nhiều thê thiếp, và như vậy cũng đồng nghĩa là có nhiều con.
Song nếu Nguyễn Dữ kịp kết thúc việc học hành thi cử trước năm 1527 (mà có thể không phải là một lần) nhậm chức và đương quyền một năm, sau đấy từ quan về nhà, thì theo ước tính, ông ta hẳn phải là con cả trong gia đình. Khẳng định trực tiếp cho điều này chính là việc Nguyễn Dữ từ quan với lý do chăm sóc cha mẹ già, và đó thường là nghĩa vụ của người con cả(20).
Nhân đây xin nói thêm rằng trong các bộ sử và tư liệu khác, những thông tin về một nhân vật nào đó thường gồm cả ghi chép về tên tuổi và chức vụ của phụ thân người ấy. Nguồn gốc gia đình khi đó đóng vai trò quan trọng trên đường công danh. Để được phép thi, ngoài việc khẳng định trên giấy tờ về khả năng của cá nhân do chính quyền địa phương cấp, người ta còn đòi hỏi xác nhận rằng trong dòng họ của thí sinh không có những kẻ phản nghịch, phiến loạn và ca xướng(21). Thế nhưng chúng tôi không tìm đâu được các ghi chép về những người con khác của Nguyễn Tường Phiêu, anh em khác của Nguyễn Dữ.
Vậy chúng ta hoàn toàn có thể đưa ra giả thuyết thứ ba: Nguyễn Dữ có thể sinh vào khoảng 1496.
Nhưng khi ấy Nguyễn Dữ đã trở thành môn đồ của danh sư Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? Quả là truyền thống đã gắn hầu như tất cả học trò nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm với giai đoạn sau khi ông từ quan, mở trường ở huyện Vĩnh Lại (cũng tại Hải Dương), nơi môn sinh từ nhiều nơi tụ hội về. Trong số những môn đồ “thành đạt” hiển vinh, chúng ta biết rõ năm thi của 3 người, và có lẽ 2 người trong số họ ứng thí năm 1538, tức là 5 năm trước khi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan. Thế có nghĩa là ông đã dạy học trước cả năm 1538(22). Đối với chúng ta điều quan trọng là việc nhắc tên Nguyễn Dữ trong số các học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn không có nghĩa là thời kỳ thụ giáo của ông nhất thiết phải sau năm 1543. Nói chung, trong thời trung đại ở Việt Nam (và không riêng ở đấy), khái niệm “trò” và “thầy” hoàn toàn không chỉ mang nghĩa “học trò” và “thầy giáo”. Có thể gọi hậu học của một bậc danh triết hay tôn sư là học trò (tức là thầy với nghĩa cao quý của từ này). ở đây các quan hệ được xây dựng không theo trường quy, và tuyệt nhiên không tính đến sự khác biệt về tuổi tác. Có chăng những quan hệ như thế giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và con người dường như không vượt trội trong “vinh quang” Nguyễn Dữ, mặc dù từ nhỏ ông đã nổi bật với kiến thức và tài năng, và cũng có môn sinh riêng của mình, giữa nhà tư tưởng trứ danh với nhà thơ, triều thần mà ý kiến của họ, thậm chí sau khi từ nhiệm, được cả hai triều đại thù địch tiếp nhận như những lời tiên tri chính trị ?
Nhiều nguồn tư liệu cho rằng, dường như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đọc và sửa sách cho Nguyễn Dữ. Nhưng chúng ta hiện đã rõ: đấy hoàn toàn không phải là một sinh đồ trẻ, thiếu lịch lãm trình “sư phụ” cao niên duyệt đọc những câu chuyện của mình. Những câu chuyện ấy được viết bởi một người đã trưởng thành và tài năng, được đưa ra chất chính nghiêm khắc qua thiên tư và uy tín của người đồng chí hướng. Và cũng có thể là, chỉ dưới ngòi bút của người khác, tập sách, sáng tạo của Nguyễn Dữ, mới có được những phẩm chất vốn có của nó !
Vậy, hãy thử dựng một sơ đồ cuối cùng: Nguyễn Dữ sinh khoảng năm 1496; học hành, thi cử, nhậm chức và từ quan trước năm 1527; sống ở quê, ngay tại nhà cha mẹ, dạy học, giao tiếp với Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoàn thành tác phẩm Truyền kỳ mạn lục sau năm 1527.
Sơ đồ này cho chúng ta chìa khóa mới, không chỉ nhằm tái hiện tiểu sử Nguyễn Dữ, mà còn để hiểu tập sách ông viết. Bởi lẽ nếu phần lớn cuộc sống tinh thần của ông ở vào thời kỳ các vua Lê, tức hẳn ông là chứng nhân của những ngày tháng u ám của Việt Nam thời trung đại.
Năm 1504, vua Lê Hiến Tông, người trong chừng mực nào đó đã kế tục thành công chính sách của thân phụ ông (vua Lê Thánh Tông), qua đời. Không phải ngẫu nhiên mà trong Kim Hoa thi thoại [Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa], Nguyễn Dữ đã hồi niệm hai vị vua này bằng những lời vinh danh cao đẹp nhất(23). Kế đấy, trong vòng chưa đầy 23 năm đã thay đổi 7 đời vua, trong đó chỉ có một vị vua mất vì già yếu. Các quan đại thần và tướng lĩnh đã lập vua lên ngôi, rồi lật đổ, và giết họ, đôi khi chỉ sau vài tháng, hay thậm chí vài ngày sau đó. Những người trị vì lâu hơn đôi chút, như Lê Uy Mục (1505 - 1509) hay Lê Tương Dực (1510 - 1516), lại được nhớ đến vì sự tàn nhẫn vô tâm, xa hoa phung phí, hoang dâm vô đạo, vì đam mê cuồng loạn trong việc xây cất cung điện mới.
Triều đình đã lơ là trong việc củng cố đê điều, kênh mương, khiến ảnh hưởng nguy hại đến nông nghiệp. Chúng tôi tìm thấy gần như hàng năm những thông báo thiên tai và nạn đói trong biên niên sử. Thỉnh thoảng lại nổi lên những cuộc khởi nghĩa nông dân.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất mà đứng đầu là Trần Cảo, đã kéo dài được mấy năm (căn cứ chính của ông ở Hải Dương, quê hương Nguyễn Dữ). Những người nổi dậy đã chiếm kinh đô, và lãnh tụ của họ, một quan chức bình thường trong quá khứ, xưng vương. Ông tiếm vị, nhưng rồi bị các thế lực phong kiến liên kết tạm thời đánh bật khỏi kinh thành. Sau, dù đã được gắn lên đầu tặng thưởng hiếm có ấy, ông trao “danh hiệu” lại cho con trai, xuống tóc tu hành ẩn dật(24).
Phải chăng một văn nhân chân chính như Nguyễn Dữ, khi sống giữa thời bão tố, đã đợi đến khi Mạc Đăng Dung truất phế triều Lê “chính thống”, để khuấy lên bóng hình một kẻ tiếm vị khác - Hồ Quý Ly, người soán đoạt vương vị năm 1400, và qua kiểu mẫu của kẻ hám quyền độ nọ công kích “Ngụy Mạc” ? Phải chăng, như giả định, toàn bộ cảm hứng tố cáo trong sách của ông đều quy về trên bề mặt tương tự này ?
Không, ý đồ phê phán của ông nghiêm khắc hơn và bao quát hơn nhiều ! Hãy trích đọc Đà Giang dạ âm ký [Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang], trong đó có Hồ Quý Ly (sự thực, ở đấy ông mới chỉ là Thủ tướng, nhưng 14 năm sau, Hồ Quý Ly sẽ tức vị; và về điều này, Nguyễn Dữ, người đọc của hơn một thế kỷ về sau, tất phải rõ), cùng Na Sơn tiều đối lục [Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na], trong đó Hồ Hán Thương được phong vương, nhưng kề bên ông, thân phụ Hồ Quý Ly lại thâu tóm trọn quyền hành. Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung là những nhân vật rất khác nhau. Người trước là bậc xuất chúng trong thời đại của mình, đã suy nghĩ và khởi xướng những cải cách quan trọng nhưng bị quân xâm lược Trung Hoa phá vỡ; còn người sau là kẻ cơ hội thực sự, bám lấy những điều cũ kỹ, và trong chính trị là người thích sự tàn ác và bạo lực. Có lẽ cả hai đã được những người đương thời vẽ lên một cách ảm đạm như nhau, vì đã lỗi phận bề tôi và đạo trung với vua, những nền tảng của đạo đức Nho gia. Nhưng với Nguyễn Dữ, hình ảnh Hồ Quý Ly trước hết mang ý nghĩa phúng dụ.
Đọc cả hai truyện ta thấy rằng không phải tất cả những lời kết tội nhà Mạc đều được ông bộc bạch như đã giả định.
Và đây lời ông tiều ẩn dật của Nguyễn Dữ nói về một nhà vua: Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được ! Kẻ dâng lời ngay thì bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng(25).
Nhưng nhà Mạc không xây lâu đài tráng lệ, mà dựng nên cái thiết thân cho họ.
Còn đây là lời về kẻ khác (cũng nói đến một vị vua): Xây phủ đệ thì rừng núi [các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang] không còn cây để lấp nguồn dục vọng, đòi mắm muối thì sông biển [các vùng Nghệ An, Yên Bang] không còn cá mà nhét miệng đói thèm(26).
Điều đó không đúng [với phê phán của Nguyễn Dữ] sao ?
Ông tiều ẩn lại nói: Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết... phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích, thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau, chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả.(27)
Hãy nghe tiếp một giọng nói nữa, thoá mạ một vì vua khác: ... Bọn ngoại thích được tin dùng [mà phường đuôi chó] ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ [mà kẻ đầu cá] ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khóa từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, [bạo ngược ngang với Tần Chính]. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác [ngạo mạn quá cả Ngụy Oanh].(28)
Sao lại tương hợp [với lời của Nguyễn Dữ] đến vậy?
Chúng ta mở ra điều bí mật: việc những nhân vật có thật, những triều thần Nguyễn Dục và Lương Đắc Bằng vạch mặt vua Lê Uy Mục đã khiến Nguyễn Dữ dựng nên đối thoại giữa những nhân vật hư cấu trong truyện.
Hồ xử sĩ trong truyện của Nguyễn Dữ, sau khi phỉ báng Hồ Quý Ly, đã nói về những cuộc khởi nghĩa, nổi loạn và binh biến. Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa và binh biến đều diễn ra chủ yếu vào phần tư đầu thế kỷ XVI, khi các vua Lê cầm quyền chứ không phải họ nhà Mạc.(29)
(...) Thế có nghĩa là, không phải chỉ họ Mạc và vương triều của họ trở thành đối tượng tố cáo của Nguyễn Dữ, ông đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình, không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam.
Cần mở ngoặc là Nguyễn Dữ hướng trực tiếp đến việc chuyển hóa các sự kiện văn chương mà độc giả đã biết.
Một trong những nhân vật ở truyện Kim Hoa thi thoại [Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa] là thi bá và đại thần Sái Thuận. Nếu Nguyễn Dữ viết về tập sách của Sái Thuận, ông không thể không biết rằng sau cái chết của nhà thơ, con trai ông là Sái Khác và học trò Đỗ Chính Mô (người đề tựa) đã sưu tập sách. Cả hai là người cùng thời với Nguyễn Dữ. Nhưng nhà văn đã dựng nên một người tập thành bộ sách, qua nhân vật hư cấu - thư sinh Mao Tử Biên, bởi điều đó tạo ra không gian to lớn cho ý đồ của tác giả.
Những sự kiện lịch sử trước hết đối với Nguyễn Dữ là cơ sở để trình bày đánh giá riêng của mình, những đánh giá không giả dối và nghiêm khắc, về con người và sự biến. Tập sách của ông nổi bật trong văn chương đương thời vì tính sắc xảo xã hội của nó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi đến những kẻ cơ hội lời cảnh báo tiên tri. Hãy nhớ lại vần thơ của ông:
Triều thị tứ nhĩ thi,
Ô diên khiết nhĩ nhục,
(Phơi xác mi ở chốn triều thị,
Quạ và diều rỉa thịt mi)(30)
Nguyễn Dữ lên án và thể hiện phẫn nộ của mình bằng một hình thức mang tính truyền thống, nhưng cụ thể hơn, qua lối kết án hợp pháp. Ví dụ điển hình nhất cho điều này biểu hiện ở “Lý Tướng quân truyện” [Chuyện Lý tướng quân].
Theo cách đó, có lẽ Nguyễn Dữ đã mơ ước về thắng lợi của chính nghĩa nơi cuộc sống trần thế. Nếu 5 trong số 20 câu chuyện của ông có những cảnh kiện tụng, cáo giác, cho dù trên trời, dưới đất, hay trong lòng nước,(31) nhưng sinh linh vẫn bị trừng phạt vì gây tội ác giữa chốn sinh linh.
Ông là con người của thời đại mình, được giáo dục theo tinh thần Nho giáo và được đào tạo theo những qui tắc nghiêm nhặt về quan hệ nhân quần, trong đó căn bản là phụ thuộc và phục tùng (phụ tử, huynh đệ, quân thần), tuân thủ theo điều nhân và trí. Nền giáo dục truyền thống mà ông tiếp thu được xây dựng trên sự trọng vọng “thiên tư”, sùng kính trước di huấn của Khổng Tử, trước sự uyên bác tôn quy và thông tuệ, cần thiết để gây dựng nền tảng “chính đạo”. Nhưng những luật định bao quanh đời ông đã bị vi phạm và bội phản quá đỗi, và đấy có lẽ là một trong những nguyên nhân của xung đột bi kịch giữa nhà văn và thực tại của ông khi ấy.
Hãy nói đến lòng trung thực của Nguyễn Dữ. Ông đã không cố gắng dung hợp những lý tưởng đạo đức của mình với các giá trị lớn nhỏ của các vị chủ nhân thế tục. Một khi đã rời bỏ công quyền, ông không nghĩ đến việc trở lại, mặc dù giữa buổi loạn ly, nhiều người trước đây từ nhiệm nay đã quay ra với thế lực cầm quyền mới, còn những người khác thì ai cũng đều phục vụ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những câu thơ đầy tính biểu tượng:
Nhân xảo, ngã độc chuyết,
Thùy tri chuyết giả đức ?
(Người xảo mà riêng ta thì vụng,
Ai biết vụng là đức ?)(32)
Những dòng này có thể quan hệ đến điều căn bản không nhỏ, thậm chí là to lớn đối với tác giả, và đối với cả Nguyễn Dữ. Đức tốt của ông đã bị người đương thời xem là “vụng dại” do hờ hững với lợi quyền thế gian.
Trong khi đó thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lên án những kẻ cơ hội và nhà vua, từ bỏ không chút đoái hoài đến chốn đô thị lao xao. ở làng Trung Am của mình (tại Hải Dương), ông dựng nhà, mà ít lâu sau được gọi là “am” (Bạch Vân Am) theo truyền thống, xây cầu, lập quán để tiện ngao du(33). Thưởng ngoạn danh thắng, ông chống gậy dạo chơi(34), có lúc cùng sư trụ trì địa phương bơi thuyền, làm thơ trên biển (tựa như Từ Thức trong chuyện của Nguyễn Dữ)(35). Thỉnh thoảng ông đi thăm sư tăng(36). Ông tiếp sứ của cả hai triều - họ Mạc chiếm cứ kinh đô và họ Lê được lập nên ở nam Thanh Hoa(37). Nhà Mạc đã ban thưởng cho ông vàng bạc, báu vật, và lụa là, nhưng không khẳng định trong thơ rằng ông chẳng cần những tặng phẩm trân quý nọ, và thường trả lại họ tức thì(38). Thỉnh thoảng Nguyễn Bỉnh Khiêm ghé về thăm Kinh đô và cũng có lúc họ Mạc đến thăm ông ở Hải Dương. Học trò của ông cũng phục vụ trong cả hai triều.
Cố nhiên, điều đó chẳng thể nào làm giảm giá trị sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng cái “vụng dại” của Nguyễn Dữ lại vẹn toàn hơn trong sự đơn sơ.
Tài năng thời đó đã trở thành tai vạ. Biết bao văn gia (trong đấy có cả những bậc thầy của “Tao Đàn nhị thập bát tú”) bị giết, hoặc kết liễu đời mình sau những chính biến cung đình(39) ! Hãy nhớ lại số phận của kiến trúc sư nổi tiếng Vũ Như Tô(40). Ông đã xây cho vua Lê Tương Dự Đại Sạn điện trăm nóc với tòa tháp tuyệt đẹp, với hồ nước có thuyền lượn lờ, và còn khởi công dựng Cửu Trùng đài to lớn gấp bội(41). Nhưng Lê Tương Dực, người đưa đất nước vào cảnh đói nghèo, đã bị những người nổi dậy giết chết; họ cũng giết cả người kiến trúc sư của vua, rồi ném xác ra cổng thành. Người qua đường nhổ nước bọt vào thi thể của Vũ Như Tô, xem người nghệ sĩ chết thảm thương như kẻ gây tai họa cho họ(42).
Thật đáng ngạc nhiên là từ chất liệu của thời xa xưa nọ, Nguyễn Dữ đã truyền đạt được đặc điểm bi kịch thảm đạm của thời đại mình. Có lẽ, vì Nguyễn Dữ luôn lựa chọn trong quá khứ những sự kiện phù hợp với những tháng ngày khó khăn và căng thẳng mà chính ông đã sống. Chúng ta sẽ không tìm thấy miêu tả chiến trận và giao tranh nơi ông; ông quan tâm đến điều khác - hậu quả “nhân tính” của các sự kiện. Nói chung, cảm nhận sâu sắc về mối quan tâm đến cá nhân con người và đặc sắc trong tính cách của nó được ghi nhận không chỉ trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ, mà còn trong cả nghệ thuật hội họa. Chúng ta nhớ lại những bức tượng thời nhà Mạc, nơi những hình tượng tiêu chuẩn mang tính truyền thống đã nhường chỗ cho những hình tượng xây dựng trên hiểu biết tự nhiên và khái quát nghệ thuật(43).
Đặc trưng chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Dữ là tính biểu cảm. Và thậm chí khi tình cảm của các nhân vật không phù hợp với những thiết chế đạo đức mà tác giả bảo vệ, thì chân lý nghệ thuật hoàn toàn không phải lúc nào cũng ở vào hàng cuối. Tính trữ tình và thi vị trong các câu chuyện của Nguyễn Dữ gợi nhớ những tác phẩm của bậc tiền bối nổi tiếng Lê Thánh Tông, dù các tính chất này trong truyện của Nguyễn Dữ có phần ít hơn, những lại “trần thế” hơn về phong cách. Sự giống nhau trong việc thể hiện yếu tố thần tiên, “kỳ diệu” đã làm cho văn của Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ gần nhau hơn. Trong số những tác phẩm của nền văn chương Việt Nam thời trung đại còn lại đến nay, nếu ở Việt điện u linh (Bài tựa năm 1329) của Lý Tế Xuyên, nhiệm vụ của tác giả, theo đúng nghĩa, là miêu tả những sự kiện kỳ diệu, đặc biệt liên quan đến nền tảng lịch sử xác định và thiết yếu, khắc sâu vào trí nhớ hậu thế; còn tập sách thứ hai - Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú (Lời bạt ghi năm 1439) được xây dựng chủ yếu trên việc ghi chép chuyện truyền khẩu xưa, trong đó những điều huyền bí ắt phải có, và thỉnh thoảng lại là yếu tố chính của chủ đề, thậm chí của những biến thái không tránh khỏi. Riêng ở sáng tác của Lê Thánh Tông, điều huyền bí dường như đã trở thành yếu tố của trần thuật, được sáng tạo bởi chính tác giả, người định đoạt vị trí và vai trò của cái “huyền bí” trong việc phát triển hành động. Hơn thế nữa, chính Lê Thánh Tông với tính giản dị tự nhiên của một ông vua chân chính xuất hiện như một nhân vật đặc biệt trên những trang viết trong các tiểu thuyết của mình.
Tất nhiên, việc tham gia trực tiếp vào “chuyện” huyền bí của chính nhà vua, mà cuộc đời và hoạt động của ông đã được xác lập qua biên niên sử nói chung, diễn ra “nhãn tiền” với các bậc “thức giả” - văn nhân trí thức, đại thần, quan viên, cùng độc giả của ông - tất yếu dẫn đến việc tiếp nhận những điều kì bí hiển nhiên không thực này như một thủ pháp văn học, xác nhận vẻ đẹp và sự tinh tế trong chủ ý tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà ở bài tựa của mình, Lê Thánh Tông đã gọi những người hay bắt bẻ tính bất khả tín của những điều kì bí là những kẻ đầu óc hạn hẹp, chỉ “ngồi đáy giếng, không đủ bàn đến những vật trong bầu trời rộng lớn” (44).
Chúng ta còn thấy “ý tưởng” huyền bí tương tự nọ ở truyện của Nguyễn Dữ, trong đó thần linh và người nhà trời tồn tại theo cùng thước đo với người, hành động phù hợp với phong tục và luật lệ “nhân gian”, dù họ thuộc về một cõi khác, song vẫn nặng ái dục trần thế. Cần nhớ rằng ranh giới giữa những ý niệm về cái kỳ và cái thực của thời kỳ đó được tiếp nhận hoàn toàn không như hiện nay. Và chúng ta không ngạc nhiên, khi đọc biên niên sử năm 1514 (Nguyễn Dữ khi đó có lẽ còn đang ở kinh), biết rằng xuân năm ấy nước sông kinh đô trào dâng, đầy những rắn rết, và vua phải điều quân ra sông phất cờ, nổ pháo, gióng trống đuổi xua các loài thủy quái(45).
Hẳn là khi viết sách, Nguyễn Dữ luôn hướng đến sáng tạo của nhân dân. Ông nghe những người kể chuyện - những người không hề mệt mỏi tưởng tượng ra các điều kỳ lạ, cùng xem biểu diễn rối của gánh hát rong. Ông chẳng phải đi đâu xa để tìm những “điều kỳ diệu lớn lao”. Ngay cạnh đấy, cùng trong huyện, ở chùa Quang Minh nổi tiếng có nhà sư hóa thân thành Hoàng đế Trung Hoa. Còn ở đền làng Hạ Bì, dân thờ một người buôn tôm mực, nhân nuốt lông trâu lạ mà thành tráng sĩ, có thể ở dưới nước bao lâu tùy ý, đục thủng được nhiều thuyền giặc trong chiến tranh(46).
Và chiều chiều, nơi đình làng, có thể nghe chuyện trò khoan nhặt của thợ cày, thợ săn, dân chài, vốn từng chứng kiến những điều kì lạ của đất đai, rừng rậm, và sông nước. Hay ở những vùng quê nổi tiếng lại có thể thấy được nhiều điều kỳ thú. Huyện Trường Tân nổi tiếng với mít và dưa hấu đặc sản, tôm cua, và mắm tôm ngon. ở đấy người ta nuôi dâu tằm, đan giỏ, hộp bằng song mây, làm nhang hương. Trong huyện có thợ rèn, thợ mộc khéo tay(47). Quan trọng là tại đây còn có làng Hồng Liễu nổi tiếng. Một người dân làng là nhà thơ, nhà bác học Lương Như Học (thế kỷ XV), khi đi sứ Trung Quốc, đã học được ở đó nghề in sách, khắc bản gỗ và về dạy lại cho dân làng. Từ đó Hồng Liễu in sách và phân phối đi khắp nước(48)... Từ Kinh đô có đường lớn xuyên qua Hải Dương, và thuyền buôn vào được trong sông ngòi...
Quả vậy, Nguyễn Dữ đã có thể nói về chính mình qua lời nhân vật của ông – tiều ẩn, rằng tuy không ở thị thành và không lui tới cung đình, phủ trị, nhưng lao động của dân, việc làm của vua thì hết thảy ông đều rõ. Sự am tường này đã kết hợp với cái nhìn thi vị về thế giới nơi ông. Tài năng xuất chúng và năng lực thi ca - cũng là nét tương đồng trong các tác phẩm của Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ. Chúng ta muốn nói đến sự giống nhau trong phương cách sáng tạo, chứ không phải những vần thơ tăng phần hoa mỹ cho văn xuôi của họ, dù thơ của Nguyễn Dữ nhiều khi cũng gần với thi ca của Lê Thánh Tông bởi sự hoàn hảo về hình thức, tính du dương và niềm cảm xúc sâu lắng. Những thành tựu của thi ca Việt Nam thời ấy không thể không ảnh hưởng đến sự phát triển của văn xuôi. Việc khẳng định tiếng Việt như tiếng nói của thi ca dân tộc, đã làm phong phú thêm những phương tiện biểu cảm, thổi sức sống mới vào những hình thức truyền thống. Và điều này đã thể hiện trong chất lượng của văn xuôi, dù nó được viết bằng Hán văn; hơn nữa bên cạnh nó đã xuất hiện văn xuôi tiếng Việt, như gặp ở Lê Thánh Tông(49).
Điều không phải tranh cãi là có sự giống nhau rõ ràng giữa tiểu thuyết Trung Quốc trung đại và các truyện của Nguyễn Dữ. Song điều ấy hoàn toàn không dẫn đến sự vay mượn giản đơn về chủ đề và hình tượng. Hãy xem Túy Tiêu truyện [Chuyện nàng Túy Tiêu], một trong những truyện hay nhất trong tập sách của Nguyễn Dữ. ở nhân vật nữ này có những đặc tính gợi nhớ các nhân vật trong tiểu thuyết đời Đường (sắc, tài, chung thủy trong tình yêu). Nhân vật này cũng có cái gì đó gần gũi với những hình tượng phụ nữ trong truyện của Lê Thánh Tông. ở cuối chuyện, người yêu Túy Tiêu là thi sĩ Dư Nhận Chi thi đỗ, và tất nhiên, giữ một chức quan trọng yếu(50). Nhưng trong lịch sử Việt Nam (mà Nguyễn Dữ biết rất rõ) có những trường hợp như ca kỹ trở thành Hoàng hậu, hay cận thần cưỡng đoạt nữ ca nhân vốn là vợ người. Nhuận Chi với một số cá tính của mình gợi nhớ nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Liễu Vĩnh(51), một người đậm chất dân gian, người được Hoàng đế mệnh danh là “bạch y khanh tướng”(52). Tựa như Liễu Vĩnh, chàng sáng tác cho ca kỹ và nổi danh ở kinh thành. Cũng tựa Liễu vĩnh, chỉ đến khi đứng tuổi chàng mới ứng thí và khổ đau vì sự hiểm độc của triều quan. Và tình cảm của Nhuận Chi với Túy Tiêu cũng cao thượng như tình yêu của Liễu Vĩnh với ca nương tên gọi Ngọc Anh(53). Thế đấy, nhưng ở Nguyễn Dữ đã có một nguyên mẫu khác cho Nhuận Chi - một người cùng thời với ông là nhà thơ Việt Nam Lê Đức Mao, người cũng phải chịu đựng không ít trong vòng xoáy khổ đau, viết những khúc ca tuyệt vời, và đến năm 42 tuổi (vào năm 1504) mới qua hết được các vòng thi(54). Nếu muốn, còn có thể tìm thấy sự giống nhau giữa người hầu già của Nhuận Chi và người “nô lệ” trong các tiểu thuyết đời Đường, người giúp kết nối những đôi tình nhân (nhân vật này cũng được nhắc đến trong câu chuyện của Nguyễn Dữ)(55). Nhưng người hầu Việt Nam không cần đến sức mạnh ma thuật, mà là sức mạnh nhân gian thuần túy, và nói chung, nhắc nhớ người hầu trong sân khấu dân gian là chú “tễu” mà thời Nguyễn Dữ đã có.
Ảnh hưởng rõ ràng của các đề tài Trung Quốc còn có thể thấy trong Nam Xương nữ tử lục [Chuyện người con gái Nam Xương](56). Song hãy nhớ rằng, nói chung, tác giả có thể chẳng cần đến sách vở ngoại bang: khi đến Hoàng giang, Lê Thánh Tông có hai bài thơ thương xót số phận đau buồn của “Vũ nương”, tức nhân vật trong truyện của Nguyễn Dữ. “Địa lý” tập sách của Nguyễn Dữ gắn bó với sáng tác của Lê Thánh Tông và nhiều tác giả Việt Nam trung đại khác: ông bố trí hành động chuyện của mình ở những nơi mà vẻ đẹp và vinh quang xa xưa đã được các lớp tiền bối ca ngợi, và như vậy khiến người đọc dễ nhận biết...
Thiết nghĩ, những hình tượng mà Nguyễn Dữ lựa chọn từ di sản to lớn của tiểu thuyết Trung Quốc cho tập sách của ông cần được truy nguyên trước hết trong số văn phẩm của các tác giả cận thời với ông, và người đầu tiên có thể là nhà văn đời Minh - Cù Hựu với Tiễn đăng tân thoại, ra đời năm 1378.
Ảnh hưởng của thi ca và văn xuôi Trung Quốc đối với văn học cổ Việt Nam rất rõ, và sự tiếp xúc với kho tàng văn hóa Trung Quốc đã tác động đến việc hình thành nền văn hóa Việt Nam nói chung, bao gồm cả văn chương Việt Nam. Những trong vấn đề cần đặc biệt nghiên cứu này có một cực đoan nguy hiểm: một số nhà Đông phương học nước ngoài tuyên bố Việt Nam là một “tỉnh thành tinh thần” của Trung Quốc đã rơi vào thái cực này.
Chính người Việt thời trung đại cũng đã thấy rõ sự khác nhau giữa việc tiếp thu thông minh những hình tượng đẹp nhất của văn chương Trung Quốc và sự bắt chước sách vở của người khác một cách mù quáng, thiếu trí tuệ (nhân tiện, cần nói là ông [Nguyễn Dữ] đã hấp thu học vấn Nho giáo). Dẫu sao cũng cần nhớ rằng Hồ Quý Ly, một trong những người học thức nhất thời ấy, vào năm 1402, khi phê duyệt kiến nghị của một đại thần vốn chuộng trích dẫn văn vẻ từ các tác gia Trung Quốc, đã nhận xét “Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán Đường, thực là thằng ngọng hay nói, chỉ chuốc lấy tiếng cười thôi”(57). Gần trăm năm sau, nhà bác học và nhà văn trứ danh Hoàng Đức Lương [Tiến sĩ năm 1478], khi sưu tập Trích diễm thi tập đã đau xót mà rằng, “Than ôi ! Há có một nước văn hiến, dựng nước đã mấy nghìn năm, thế mà không có lấy một chút sách vở gì làm bằng, đến nỗi phải quay lại đọc sách của các tác gia đời Đường...”(58).
Nhà thơ khả kính Hoàng Đức Lương cho rằng, sách vở mất mát tựa như bởi người không thực yêu quý chúng: hỡi ôi! ai ai cũng đều thưởng thức được cao lương mỹ vị, hay vẻ đẹp của gấm vóc lụa là, nhưng không phải ai cũng cảm nhận được vẻ trác tuyệt của thi ca. Ông thấy rằng, tác phẩm của thi nhân hầu như thất tán, mà hợp tuyển lại không được quy tập và ký lục, bởi lẽ những bậc trí giả còn bận chuyện công danh(59).
Trong số những “trích diễm” được Hoàng Đức Lương tập hợp, chúng ta hẳn không thể tìm được mấy dòng đáng lưu ý sau: “Tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh chữ, hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại”(60). Tuy nhiên, cũng có thể giải thích nhiều hơn về việc sách vở tán thất, bởi “xứ ấy” là Việt Nam, và đoạn trích dẫn trên là từ sắc lệnh năm 1407 của Minh Thành Tổ, cứ như thể quan ngại đến việc thiết lập pháp chế và trật tự mà đưa quân sang đất Việt61. Mười hai năm sau, bằng một sắc lệnh mới, hoàng đế đã lấy đi khỏi Việt Nam những thư tịch, ký lục, tài liệu giá trị nhất để đưa về Trung Quốc. Trong danh sách đó, bên cạnh những bộ sử biên niên và luận văn về nghệ thuật quân sự, là những tập thơ và cả văn tập Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên(62).
Khi chiến đấu với kẻ thù, người Việt Nam không chỉ bảo vệ mảnh đất thân yêu và tương lai con cháu mình, mà còn gìn giữ bản sắc tinh thần, sáng tạo văn chương và nghệ thuật mà họ có quyền tự hào.
Chúng ta cảm nhận được niềm tự hào này, khi đọc Kim Hoa thi thoại của Nguyễn Dữ, trong đó ông đánh giá cao những áng thi ca của đồng bào mình, trước hết là tôn vinh nhà thơ vĩ đại Nguyễn Trãi(63) và Lê Thánh Tông...
Trừ một truyện, tất cả các truyện còn lại của Nguyễn Dữ đều kết thúc bằng những lời khuyên giới, thường không thấy trong tiểu thuyết Trung Quốc(64). Thủ pháp này có lẽ được mượn từ những chuyện lịch sử tìm thấy trong tiểu thuyết của Lê Thánh Tông, ở đó, trong đại đa số trường hợp, Sơn Nam Thúc (tức Lê Thanh Tông) đã tổng luận truyện theo quan điểm đạo đức Nho giáo. Những lời khuyên giới ở đây như tiếp tục trực tiếp ý đồ tác giả, và chúng ta có cơ sở để phỏng đoán rằng ẩn dưới bút danh nọ chính là nhà vua(65). Nhưng nếu so sánh lời khuyên giới với các truyện trong sách của Nguyễn Dữ sẽ nhận ra sự tính chất bất đồng giữa chúng. Hãy xét Na Sơn tiều đối lục. Việc chính yếu ở đấy là cuộc tranh chấp giữa ông tiều ẩn và một triều quan, thuyết phục ông ta phụng sự. Nhưng ông đã từ chối phục vụ vị vua không xứng đáng nọ. Tình cảm của tác giả gần như hoàn toàn đứng về phía người tiều phu. Rồi bỗng nhiên chúng ta đọc được trong lời khuyên giới, thấy rằng bản thân ông tiều cũng không phải là bậc toàn thiện và thậm chí, vua chúa thông tuệ và chính trực không nhất thiết phải quan hệ với ẩn sĩ(66)! Trong Túy Tiêu truyện, tác giả với niềm cảm xúc sâu sắc, đã miêu tả cuộc phiêu lưu đoạn trường của Túy Tiêu và người yêu của nàng – thi nhân Dư Nhuận Chi, để cuối cùng dẫn họ đến đoàn viên hạnh phúc. Rõ ràng, với thiện tâm, ông đã chỉ ra vẻ đẹp và nét cao thượng trong tình yêu của họ; ông viết về Nhuận Chi như một nhà thơ tài hoa, người thành đạt trên đường khoa cử chốn kinh thành. Thế nhưng, lời khuyên giới lại bảo rằng Túy Tiêu là ả chắp nối, không xứng với tình yêu, còn Nhuận Chi là kẻ tăm tối và viễn vông!(67) Những mâu thuẫn tương tự rất nhiều. Những lời khuyên giới thấm nhuần tinh thần không khoan nhượng Nho giáo, chí ít, luôn xuất hiện trong các truyện.
Bất giác nảy ra suy nghĩ rằng, cuối cùng những lời khuyên giới được viết không để làm sáng tỏ chủ định tác giả, mà để với hướng nó vào vùng sáng hữu hiệu nhất theo quan điểm Nho giáo. Nhưng để làm gì ?... Trong lời khuyên giới ở Phạm Tử Hư du thiên tào lục [Chuyện Phạm Tư Hư lên chơi thiên tào] có những lời rất ý nghĩa, cho rằng nếu văn tập phù hợp với những quy định và luật lệ (qui định và luật lệ Nho giáo !), “thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu”(68). Nói cách khác, chỉ trong một trường hợp nhất định sách mới được xem là có đời sống trường tồn, còn nếu khác đi, nó sẽ có nguy cơ bị đào thải. Phải chăng những lời khuyên giới “giáo điều” khi đó cần thiết để cứu cuốn sách của Nguyễn Dữ ? Ai đã cố gắng làm điều đó - phải chăng là chính tác giả ? Chưa chắc gì... Ông không thích vinh quang và chẳng muốn có điều đó. Phải chăng bằng hữu, hoặc độc giả tài hoa của ông muốn bảo vệ để truyện khỏi mai một ? Hay những lời khuyên giới thoát ra từ ngọn bút của người chép truyện ? Có thể sưu khảo mới sẽ trả lời những câu hỏi này...(69)
Xưa, có lần Lê Thánh Tông đã nói về nhà văn: “Giấy làm ruộng, bút làm cày”(70). Nguyễn Dữ đã cày trên mảnh đất màu mỡ và gieo vào đó hạt giống tốt nhất của mình, mà trái ngọt của nó chính chúng ta, những hậu thế xa xôi của ông, đang tận hưởng.
Trương Văn Vĩ và Nguyễn Nam (dịch).
Nguyễn Nam (hiệu đính và chú giải).
CHÚ THÍCH:
(1) Dịch từ nguyên bản tiếng Nga của M. Ткачев: МасTер рукоTворных чудес из кpая СвеTлоrо мoря. trong Нгуен Зы, ПросTранные записи рассказов об удивиTелъном, Художеcтвенная литература, Mocквa, 1974, tr.173-194. Toàn bộ chú giải là của người hiệu chú. TS. Ngô Như Bình (Đại Học Havard, Hoa Kỳ) và một thân hữu của ông đã giúp sao chụp nguyên bản Nga văn. Nhân đây xin chân thành cảm ơn.
(2) Trong bài Mấy vấn đề nghiên cứu và giới thiệu văn học Việt Nam ở Liên Xô, N. I. Niculin có một số nhận xét về bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Tkachov. Niculin viết: “Trong bản dịch người ta cảm thấy có xu hướng muốn tránh mọi sự nặng nề về phong cách... Bản dịch của M. Tkachov tuy không tránh khỏi một số thiếu sót, song nhìn chung khá đạt, đọc được dễ dàng. Có được như vậy cũng chính là vì Tkachov hay dịch ra tiếng Nga những tên người và địa danh, mà những thứ đó thì vô số và chúng mang một sức nặng quan trọng về ý nghĩa trong những tác phẩm văn xuôi Việt Nam ở giai đoạn đầu. Dịch giả đã làm sáng tỏ khía cạnh nghệ thuật hình tượng của những tên riêng, bởi vì nếu không dịch như vậy thì những tên đó đối với độc giả Liên Xô chỉ là sự kết hợp đơn thuần giữa các âm tiết mà thôi.” (N. I. Niculin: Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.664-665). Trong khi dịch, chúng tôi đã phục nguyên các địa danh và tựa sách; ví như chuyển địa danh “Vùng biển sáng” thành Hải Dương, “Ghi chép tản mạn những câu chuyện kỳ lạ” thành Truyền kỳ mạn lục, vv.
(3) Chưa rõ Tkachov dựa vào đâu để viết như trên. Bản A.176 (hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm) chép lại từ bản Nguyễn Bính in năm Cảnh Hưng 24 hoàn toàn không có chi tiết này.
(4) Xem Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục. Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, Bùi Kỷ giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1971.
(5) Các bài thơ của Nguyễn Dữ trong Hoàng Việt thi tuyển đều được sao trích từ Truyền kỳ mạn lục.
(6) Bài tựa của Hà Thiện Hán (đề năm 1547) trong bản Cựu biên (1712) viết rằng Nguyễn Dữ “Việt lĩnh Hương tiến, lũy trúng Hội thí trường” (vượt đỗ Hương tiến, nhiều lần trúng thi Hội). Bài tựa này sau được sửa đổi đôi chút, in lại trong các bản Tân biên truyền kỳ mạn lục năm Cảnh Hưng 24 (1763) và Cảnh Hưng 35 (1774). Xem Trần Nghĩa: Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy trong Nghiên cứu Hán Nôm, 2/1984, in lại trong Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000, tr.38-39.
(7) Ngoại trừ việc Nguyễn Dữ trúng kỳ Đệ tam trong nhiều khoa thi Hội, hai điều còn lại đều có ghi trong cả ở Cựu biên lẫn Tân biên. Tkachov hẳn nhiên chưa đọc các bài tựa in của các bản Tân biên 1763 và 1774.
(8) Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam phiên dịch và chú giải, Nxb. KHXH, 1992, tập I, phần “Tiểu sử Phan Huy Chú.”
(9) Trong phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú chép truyện Nguyễn Bỉnh Khiêm trong số các “Nhà Nho có đức nghiệp” đời Mạc, và truyện Phùng Khắc Khoan trong loạt những “Người phò tá có công lao tài đức” thời Lê Trung hưng. Xem Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd., tr.375-378 và 260-261. Nguyễn Dữ không được nhắc đến trong “Nhân vật chí”.
(10) Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Truyền kỳ mạn lục, 4 quyển. Dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại khái bắt chước Tiễn đăng tập của nhà nho đời Nguyên. Tập này cộng 22 truyện. Dữ người ở Đỗ - Tùng, huyện Gia - phúc, con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu.” (Sđd., tr.169). Về tổng số truyện trong tập sách, xem Nguyễn Đăng Na. Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện ?” Tạp chí Hán Nôm, 2(5) - 1988, tr.45-49.
(11) Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Bấy giờ học trò ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm] thành đạt rất nhiều, chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cử là có tiếng nhất... Khi Dữ viết quyển Truyền kỳ [mạn] lục được ông sửa chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia.” (Sđd., tr.377). “Học trò” trong trích văn dịch ngữ từ “cập môn chi sĩ” (sĩ tử đến cửa nhà ông). Xem Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon 1974, phụ lục Hán văn, tr.214.
(12) Theo Lê Quý Đôn toàn tập - Tập II: Kiến văn tiểu lục. Nxb, KHXH, Hà Nội, 1977, tr.262.
13- Lịch triều hiến chương loại chí: “Nhà Lê khai quốc, trước hết mở khoa thi Hội, những người lấy đỗ đều thỏa mãn sở vọng đương thời. Đến đời Thiệu Bình [niên hiệu Lê Thái Tông, 1434-1440] nối nghiệp, văn vận mở mang, kỳ thi định 3 năm một khoa, phép thi bốn trường khác nhau, phép ấy truyền làm thành qui mãi mãi. Đến cuối đời Quang Thuận [1460-1470], Hồng Đức [1470-1498, cả hai đều là niên hiệu của Lê Thánh Tông], vận nước tươi sáng do khoa mục xuất thân, nhân tài đầy dẫy, đủ cung cho nước dùng. Sách cũng trích bài ký của Nguyễn Văn Thái viết rằng: “từ khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4 về sau, mới định 3 năm một khoa, theo như hội điển nhà Minh, cứ các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương, các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì thi Hội.” (Sđd., tr.149 và 164) .
(14) Đại Nam nhất thống chí viết: “Nguyễn Dữ người huyện Gia Lộc, là con Thượng thư Nguyễn Tường Phiêu, đỗ Hương tiến đời Lê, làm Tri huyện Thanh Tuyền, được mười năm thì từ về nuôi mẹ, không bước chân ra đến thành thị.” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tập 3, tr.446 ). Đáng chú ý là thời gian tại nhiệm của Nguyễn Dữ được ghi khá dài (mười năm), khác với thời gian một năm ngắn ngủi chép trong các bài tựa ở Cựu biên và Tân biên và trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.
(15) Sử thần Vũ Quỳnh (1478-1516) xưng tụng công nghiệp của Lê Thánh Tông như sau, “Quy mô xếp đặt, công nghiệp Trung hưng, có thể sánh vai với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy.” (Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, Tập II, tr.520).
(16) Theo Bùi Văn Nguyên trong Lê Thánh Tông - Tao Đàn nguyên súy (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1991): “Riêng về điều luật, từ những năm đầu niên hiệu Quang Thuận, nhà vua vừa duy trì các điều luật Hình và Hộ có trước, vừa ban hành một số điều luật bổ sung,... Nét nổi bật trong điều luật về đời Hồng Đức... là phần nào quyền sinh sống của người dân tự do được bảo đảm” và “Đặc biệt, nhà vua [Lê Thánh Tông] chú trọng đến cương vực lãnh thổ và lịch sử nước nhà... Dưới niên hiệu Quang Thuận nhà vua giao cho một số văn thần thu nhập những tư liệu từng địa phương để chuẩn bị lập bản đồ cả nước. Đến năm Hồng Đức thứ 7 (1476) nhà vua đề ra hai việc quan trọng: Thứ nhất: Định lại bản đồ trong nước. Thứ hai: Viết Đại Việt sử ký tục biên” (tr.150 và 151).
(17) Tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 (Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993) cho biết, Nguyễn Tường Phiêu đỗ “Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến Thừa chính sứ. Sau khi mất, được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần”. (tr.242). Lịch triều hiến chương loại chí cho biết, “Năm thứ 27 [1496], hội thí các Cử nhân. Tháng 3, vua thân ngự coi thi ở sân điện Kính- thiên, ra văn sách hỏi về đạo trị nước... Ngày 26 cho dẫn các cử nhân vào sân điện Kim - loan, vua xem dung mạo, định lấy đỗ 30 người. ngày 27, Vua ngự chính điện, xướng danh, cho đỗ cập đệ và xuất thân theo bực khác nhau. Đến tháng 12 lập bia đề tên.” (Sđd., tr.161).
(18) Bộ Lược truyện các tác gia Việt Nam gồm 2 tập; tập I, hoàn thành năm 1962, tập II, biên soạn xong năm 1972. Xem Trần Văn Giáp (Chủ biên). Lược truyện các tác gia Việt Nam, in lần thứ 3, Nxb. Văn Học, 2000.
(19) Có lẽ Tkachov muốn nói đến truyện Trà đồng giáng đản lục (Chuyện gã trà đồng giáng sinh) và Đào Thị nghiệp oan ký (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị).
(20) Đây là một phỏng đoán chính xác. Bài tựa của Hà Thiện Hán viết, “Công tiền triều Tiến sĩ Tường Phiêu chi trưởng tử dã” (Ông [Nguyễn Dữ ] là con cả Tiến sĩ triều trước [Nguyễn] Tường Phiêu). Xem Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ mạn lục, Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên, Pháp quốc Viễn Đông học viện và Đài Loan học sinh thư cục, 1987, tr.9.
(21) Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), vua Lê Thánh Tông “gia lệnh chỉ cho các thí sinh trong nước, không cứ là dân hay lính, hạn tới thượng tuần năm nay đến nhà giám hay đạo sở tại khai tên và căn cước đợi thi hương... Cho quan sở tại và xã trưởng xã mình làm giấy bảo đảm rằng người ấy thực là có đức hạnh thì mới được vào danh sách dự thi. Kẻ nào vào loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa... thì dẫu học giỏi văn thơ hay, cũng không cho vào thi. Phép thi như sau: Thí sinh phải nộp căn cước, khai rõ phủ, huyện, xã, tuổi tác cùng là chuyên học kinh nào, lý lịch cha ông ra sao, không được gian dối, giả mạo [ ; ] Nhà phường chèo, con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu, thì bản thân và con cháu đều không được dự thi.” (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập II, tr.396). Lại theo Lịch triều hiến chương loại chí, “Năm thứ 4 [1501], sắc định cách thi hành công việc về thi hương: Đến khoa thi, xã trưởng các xứ làm giấy đoan bảo học trò trong xã mình, trừ những người Tú lâm [Sinh đồ ở Tú lâm cục], còn quân sắc, nhân dân, quả là con nhà lương thiện có hạnh kiểm học vấn, viết nổi văn bốn trường, đều cho làm giấy đoan bảo.” (Sđd., tr.162).
(22) Không rõ Tkachov muốn chỉ ai. Ngoài Nguyễn Dữ những môn sinh thường được nhắc đến là Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thì Cử, Nguyễn Quyện, Đinh Thì Trung, và Giáp Hải. Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) đỗ Tiến sĩ năm 1580. Lương Hữu Khánh và Giáp Hải (1506 - 1581) cùng ứng thí vào năm 1538 (về việc Giáp Hải có phải là môn sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay không, xem Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1997, tr.35, chú thích 30; cũng xem Nguyễn Huyền Anh. Việt Nam danh nhân từ điển, Khai Trí, Saigon 1967, tr.178-179). Tương truyền bài “Môn sinh tế Tuyết Giang Phu Tử văn” do Đinh Thì Trung soạn và được Trương Thì Cử đọc trước linh cữu tôn sư Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cả hai ông đều đỗ Tiến sĩ dưới thời Lê Trung hưng (xem Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao, Hà Nội, 1991, tr.319). Nguyễn Quyện làm quan đến chức Thừa tướng thượng tể dưới triều nhà Mạc (Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, như trên). Trong bài Bạch Vân Am Cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phả ký ở Công dư tiệp ký có đoạn viết: “Năm Quang Thiệu (1516 - 1526) gặp lúc loạn lạc, ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng...”. Năm 1542, sau khi thất bại trong việc dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng thần, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, về lập quán Trung Tân, am Bạch Vân, mở trường dạy học (xem Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa, như trên, tr.327 và 371).
(23) Trong truyện, Ngô Chi Lan phu nhân nói: “Tôi nhờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại nhớ đức Hiến Tông, nghĩa kết vua tôi, nhưng tình thật như cha con vậy...” theo Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Trúc - Khê Ngô Văn Triện dịch, Nxb. Tân Việt, 1952, tr.249. Tất cả các trích dẫn Truyền kỳ mạn lục trong bản dịch đều theo sách này.
(24) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1516, Thuần Mỹ điện giám Trần Cảo nghe lời sấm truyền rằng phương đông có vượng khí thiên tử, bèn trá xưng là cháu chắt của Trần Thái Tông, dẫn quân ở huyện Thủy Đường và Đông Triều (trấn Hải Dương). Cảo mặc áo đen, xưng là Đế Thích giáng sinh, tiếm xưng niên hiệu Thiên ứng. Quân sĩ đều cạo trọc. Ngày 11 tháng 4, Cảo lấy được kinh thành. Ngày 23, Cảo thất thủ, mở cửa thành, vượt sông Thiên Đức, đào thoát lên Lạng Sơn. Cảo lấy sông Nguyệt làm ranh giới, truyền ngôi cho con là Cung, tiếm hiệu Tuyên Hòa (Sđd., tập III, tr.74-80).
(25) Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.161. Dẫn văn từ Na Sơn tiều đối lục, phê phán Hồ Hán Thương.
(26) Dẫn văn từ Hồng Thuận Trung hưng ký của Nguyễn Dục. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập III, tr.50. Đối tượng phê phán là Lê Uy Mục (1488 - 1509).
(27) Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.162.
(28) Bài hịch dụ đại thần và các quan do Lương Đắc Bằng (thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm) viết, kêu gọi lật đổ Lê Uy Mục. Phường đuôi chó: ý chỉ kẻ hèn hạ được thăng quan; kẻ đầu cá: chỉ quan viên chính trực; Tần Chính: tức Tần Thủy Hoàng; Ngụy Oanh: tức Lương Huệ Vương thời Chiến Quốc. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd; tập III, tr.48.
(29) Trong truyện Đà Giang dạ âm ký, Hồ xử sĩ nói: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên: Bồng Nga [Chiêm Thành] là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh [Minh triều] là con hổ đói gầm thét ở Tây bắc, Ngô Bệ [làng Trà Hương] ngông cuồng tuy đã tắt, Đường lang [tức Đường lang tử y, Bắc Giang] lấm lét vẫn còn kia...” (Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.194-195). Tất cả các sự kiện này diễn ra ở triều Trần (Dụ Tông và Phế Đế), cuối thế kỷ XIV.
(30) Trích 2 câu cuối trong bài Tăng thử (Ghét chuột). Xem Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983, tr.303-304.
(31) Năm truyện có việc tố tụng, xử phạt là: Trà đồng giáng đản lục (Chuyện gã Trà đồng giáng sinh), Long Đình đối tụng lụ c (Chuyện đối tụng ở Long cung), Tản Viên từ phán sự lục (Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên), Xương Giang yêu quái lục (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), và Lý tướng quân truyện (Chuyện Lý tướng quân).
(32) Trích từ Hựu thập nhị vận (Lại làm thêm mười hai vần). Xem Nguyễn Khuê: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Sđd., tr.231-233.
(33) Lịch triều hiến chương loại chí: “Khi về làng, ông dựng am Bạch Vân, tự đặt tên hiệu là [Bạch Vân] Cư Sĩ. Lại bắc hai cái cầu Nghinh Xuân, Trường Tân để suốt năm thường thường du ngoạn, nghỉ ngơi và dựng quán Trung Tân trên bến Tuyết Giang.” (Sđd., tập I, tr.376).
(34) Lịch triều hiến chương loại chí: “Ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm] chống gậy, đi dép trèo khắp các núi Yên Sơn, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn. Đến đâu thích ý thì ngâm vịnh hoặc đi lại nhởn nhơ suốt ngày.” (như trên). Cũng xem bài Trúc trượng (Gậy trúc), trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sđd., tr.280-281.
(35) Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Ông sửa chữa lại chùa thờ Phật, thường dắt sư già đi chơi. Có lúc thả chiếc nhỏ ra biển Đồ Sơn xem đánh cá.” (như trên). Xem thêm bài: Vấn ngư già (Hỏi người đánh cá), Nguyễn Khuê: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập”, Sđd., tr.280-281.
(36) Xem bài Du Phổ Minh tự (Chơi chùa Phổ Minh) và Tự thi (Thơ vịnh chùa), như trên, tr.272-273, và 334-335.
(37) Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Khi Đăng Dung cướp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh Hoa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai người dò tìm, đón vua [Lê Trang Tông] sang nước Ai Lao tôn lập... Mùa xuân, tháng giêng [1533], vua lên ngôi ở Ai Lao...” (Sđd., tập III, tr.119).Về việc các sứ nhà Mạc và Lê đến tham vấn ông, Phan Huy Chú chép: “Ông tuy ở nhà, nhưng vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông . Có lúc triệu ông về kinh hỏi mưu kế lớn. Nhưng rồi ông lại về am để thỏa chí mình, không thể giữ lại đựơc,” và “Khi Trung Tông nhà Lê chết không con nối, Thế Tổ [Trịnh Kiểm] còn phân vân, bàn với Phùng Khắc Khoan cũng không quyết định, bèn sai ông Khoan mang lễ đến hỏi ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm].” (Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd., tập I , tr.376 và 377).
(38) Chưa rõ Tkachov dựa vào những tài liệu nào để cung cấp chi tiết trên. Tham khảo Ngô Đăng Lợi: Mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với vương triều Mạc, và Vũ Đức Phúc: Tư tưởng chính trị và xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm - về tác gia và tác phẩm, Trần Thị Băng Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.84- 94 và 95- 103.
(39) Về danh sách “Tao Đàn nhị thập bát tú”, xem Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu, Nxb. Văn học, 1982, tr.10-13. Nguyễn Quang Bật (đỗ Trạng nguyên 1483) là một trong những “Hàn lâm viện Thị thư” của “Tao Đàn nhị thập bát tú”. Ông cùng Đàm Văn Lễ (đỗ Tiến sĩ năm 1469, cũng có chân trong Hội Tao Đàn) theo di huấn của Lê Hiến Tông, lập Thái tử Thuần kế vị, không nhận của đút lót của Kinh Phi để mưu phế lập. Khi Túc Tông mất (1504), Lê Uy Mục lên ngôi, đem lòng thù oán, biến cả hai làm Thừa Tuyên sứ Quảng Nam (1505). Khi hai ông đến sông lớn huyện Chân Phúc (nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), vua sai người đuổi theo, buộc phải tự tử. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập III, tr.40.
(40) Đại Việt sử ký toàn thư. (Năm 1512) làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây, xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng có người thợ Vũ Như Tô (tức tên Đô Nhạn), ở nhà lấy cây nứa dựng thành kiểu điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dựng lên, khuyên vua xây dựng” (Sđd., tập III, tr.65)
(41) Đại Việt sử ký toàn thư. “Người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu Trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền Thiên Quang cho mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quanh co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ”. (như trên, tr.74)
(42) Đại Việt sử ký toàn thư. “Bấy giờ (1516), đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị hại, Như Tô cũng bị quăng xác ngoài chợ, quan dân ai cũng chỉ trỏ xác hắn mà chê cười, có người còn nhổ nước bọt” (như trên, tr.76-77)
(43) “Nhà Mạc thay thế nhà Lê vào năm 1527, chấm dứt thời kỳ hoàng kim của ý thức hệ Nho giáo. Con người được tự do hơn, mọi xu hướng mỹ thuật trước kia cũng được “tùy tiện” phát triển... Dưới sự khống chế lỏng lẻo của chính quyền trung ương và sự rạn vỡ của ý thức hệ Nho giáo, trong lãnh vực mỹ thuật, những yếu tố dân gian trỗi dậy mạnh hơn. Một số sinh hoạt của người lao động, những con rồng oằn lưng cho cô gái cưỡi đã thấy ở đình làng”. (Viện Nghệ thuật - (Bộ Văn hóa). Nghệ thuật chạm khắc gỗ Việt Nam qua các bản rập, Hà Nội, 1975, tr.45 và 46).
(44) Thánh Tông di thảo, Nguyễn Bích Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, Nxb. Văn hóa, Viện Văn học, Hà Nội, 1963, tr. 21.
(45) Đại Việt sử ký toàn thư (Tháng 5 năm 1514) nước lũ rất lớn, hồ ao trong thành có rắn lớn xuất hiện đến 20 ngày. Vua sai đốt pháo, mở cờ, đánh trống để dọa nó. Sau 4 tháng rắn mới đi. (Sđd, tập III, tr.72).
(46) Theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Quang Minh ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Xưa, Thiền sư Huyền Chân trụ trì nơi đây, có tiếng là cao tăng trong thiền uyển. Về già, sư nằm mộng thấy Phật Di Đà bảo rằng: “Ngươi có công với Phật giáo đã lâu năm, tấm lòng từ thiện đã được soi xét, kiếp sau sẽ được làm đại đế ở Bắc quốc”. Tỉnh dậy, sư dặn đệ tử lấy son viết vào vai mấy chữ “An Nam quốc Quang Minh tự Sa Việt tì khâu” khi sư siêu tịch. Đệ tử y lời. Sau, Nguyễn Tự Cường phụng mệnh sang sứ Trung Hoa. Minh Thế Tông triệu ông vào, hỏi về chùa Quang Minh, đồng thời cho xem dòng chữ son có tự bẩm sinh trên vai. Thế Tông tin rằng tiền thân mình là sư ở chùa nọ, và tham vấn Tự Cường cách rửa sạch vết chữ. Tự Cường tâu có thể dùng nước giếng nhà chùa để gột rửa. Về nước, Tự Cường tâu lên vua, tìm đến chùa Quang Minh, lấy nước giếng tiến dâng. Quả nhiên, vết chữ rửa sạch làu (Sđd., tập III, tr.433- 434). Lĩnh Nam chích quái có chép “Chuyện Người dị nhân làng Hạ Bì” (huyện Gia Phúc, Hải Dương). Dị nhân sống bằng nghề bán sò hến. Một hôm nhân thấy hai con trâu chọi nhau trên bờ biển, bèn đấm trâu. Trâu chạy xuống biển, để rơi một bịu lông. Cho đấy là vật thiêng, dị nhân nhặt lấy mà nuốt. Từ đấy trở nên khỏe mạnh phi thường, lặn dưới biển chẩng khác đi trên đất bằng. Khi giặc Bắc vượt biển đến Vạn Ninh, dị nhân lặn dưới biển, dùng sắt nhọn đục thuyền, đánh đắm tàu giặc. Giặc sợ mà lui. Dị nhân quay về thì cũng mất. Triều đình truy phong đại vương và phúc thần. Xem Vũ Quỳnh, Kiều Phú. Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr.152-153.
(47) Xem phần Thổ sản tỉnh Hải Dương trong Đại Nam nhất thống chí, Sđd., tập III, tr.462- 466.
(48) Lương Như Hộc người huyện Gia Lộc, đỗ Thám hoa triều Lê Đại Bảo, làm quan đến Đô ngự sử, hai lần phụng mệnh đi sứ. Ông dạy nghề in và khắc bản cho hai làng Hồng Liễu và Liễu Chàng, được dân làng thờ làm tiên sư (như trên, tr.442).
(49) Có lẽ Tkachov muốn nhắc đến Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông.
(50) Dòng cuối của truyện viết, “Sinh (Dư Nhuận Chi) về kinh sư thi đỗ Tiến sĩ, vợ chồng ăn ở với nhau đến già”. (Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.188).
(51) Nguyên bản Nga văn viết “Лю Юн” (dựa trên âm đọc Trung văn “Líu Yōng”). Liễu Vĩnh (980 ? - 1053 ?) nguyên tên Nguyễn Tam Biến, tự Kỳ Khanh, sau đỗ đạt mới đổi thành Liễu Vĩnh. Lại nhân làm quan đến “Đồn Điền viên Ngoại lang”, nên còn gọi là Liễu Đồn Điền. Theo Nhạc Phủ dư luận, do bấy giờ Trung nguyên yên việc binh đao, Biện Lương phồn thịnh, phú cường, Liễu Vĩnh nhàn dật vô sự, thường lui tới chốn hý phường, cùng sưu tầm lời ăn tiếng nói chốn hương thôn, phổ vào từ khúc, khiến người nghe dễ truyền tập và lưu truyền khắp chốn. Lại do trường kỳ ngao du với ca kỹ, nhạc công, tác phẩm của ông đậm phong cách lãng tử. Trong bài từ Hạc xung thiên có câu, “Nhẫn bả phù danh, hoán liễu tiện châm đê xướng” (Cam đem công danh phù phiếm đổi lấy rượu nhạt, ca hèn). Khi có người tiến cử Liễu với Tống Nhân Tông, vua bảo: “Thử nhân phong tiền, nguyệt hạ, háo khứ tiện châm, đê xướng, hà yếu phù danh?” (Con người nọ trước gió, dưới trăng, chỉ ham rượu nhạt, ca hèn, có thiết gì đến công danh phù phiếm ?) Ca kỹ, nhạc công, giáo phường thường xin Liễu sáng tác từ khúc. Từ khúc của Liễu phổ biến đến độ người đương thời có câu: “Phàm hữu tĩnh thủy ẩm xứ, tức năng ca Liễu từ” (Phàm nơi nào có giếng nước uống, ắt có thể ca từ khúc của Liễu). Liễu mất ở tha hương, ca kỹ góp tiền của mai táng chu tất. Xem Lý Tu Sinh: Trung Quốc văn học sử cương yếu (Tống, Liêu, Kim, Nguyên văn học), Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, 1990, tr.36; Dương Âm Thâm: Trung Quốc văn học gia liệt truyện, Hương Cảng Quang Hoa thư điếm, 1962, tr. 243.
(52) Trong nguyên chú, Tkachov ghi nhận hai truyện vừa viết về Liễu Vĩnh, ý chừng có gốc khoảng thế kỷ XI, nhưng lại không nói rõ những truyện nào (tr.190). Thực tế, có thể đọc truyện về Liễu trong Lục thập gia tiểu thuyết (bộ tổng tập tiểu thuyết thoại bản sớm nhất hiện tồn của Trung Quốc, nay chỉ còn khắc bản đời Minh) và trong Dụ thế minh ngôn do Phùng Mộng Long (1574 - 1646) biên tập (Xem Patrick Hanan: The Chinese Vernacular Story (Tiểu thuyết thông tục Trung Quốc), Harvard University Press, Cambridge (MA) và London, 1981, tr.68, 104 và 115-116). Trong truyện 12 của Dụ thế minh ngôn, “Chúng danh cơ xuân phong điếu Liễu thất” (Các nàng danh kỹ điếu chàng Liễu thứ bảy trong gió xuân), vua Nhân Tông nhà Tống nghe lời biếm của Tể tướng Lã Di Giản, bãi chức Liễu Vĩnh kèm theo bốn câu sau: “Liễu Vĩnh bất cầu phú quý - Thùy tương phú quý cầu chi ? - Nhậm tác bạch y khanh tướng - Phong tiền nguyệt hạ điền từ” (Liễu Vĩnh chẳng cầu phú quý - Ai đem phú quý cầu ngươi - Ưng làm khanh tướng áo trơn - Dưới trăng, trước gió đề từ). Xem Phùng Mộng Long. Dụ thế minh ngôn, Nhân dân Văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994, tr. 196.
(53) Nguyên tác Nga văn viết “Листкая астра”. Truyện Chúng danh cơ xuân phong điếu Liễu thất kể tình duyên giữa Liễu Vĩnh và nàng danh kỹ Tạ Ngọc Anh đất Giang Châu. Sau những trắc trở, Liễu và Ngọc Anh sống với nhau như vợ chồng ở Đông Kinh. Liễu mất trong cảnh bần hàn, Ngọc Anh được các danh kỹ giúp việc tang ma. Độ hai tháng sau khi Liễu mất, Ngọc Anh cũng đau buồn, sinh bệnh tật mà thác (như trên, tr.187 - 198).
(54) Lê Đức Mao (tức Lê Tín, 1462 - 1529) nguyên quán phường Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, sau dời đến xã Dưỡng Hối, huyện Yên Lãng. Ông đỗ Hương cống năm 1504, năm sau (1505) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông là tác giả bài Đại nghĩ giáp thưởng đào giải văn (Làm hộ tám giáp bài văn thưởng cho cô đào được giải) thường được xem là bài hát ả đào cổ nhất. Theo Lê tộc gia phả: “Ông thiên tính thông minh, học vấn sâu rộng, chuyên chú để công ở thơ từ. Trong làng có việc gì, ông cũng thường có thơ ngụ ý châm biếm. Người làng nhiều kẻ đố kỵ về điều ấy. Vì bị xã bức bách, ông nuốt hận thề không về quê nữa rồi đến nhập tịch ở xã Dưỡng Hối, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây”. (Nguyễn Xuân Diện: Những phát hiện mới về Lê Đức Mao và bài “Đại nghĩ giáp thưởng đào giải văn”, trong Thông báo Hán Nôm học năm 1998, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1999, tr.65.) Xem thêm Nguyễn Huyền Anh: Việt Nam danh nhân từ điển, Khai Trí, Saigon, 1967; Các nhà khoa bảng Việt Nam, Sđd, tr.287; Nguyễn Xuân Diện: Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1999, tr. 40-41.
(55) Trong thư Dư Nhuận Chi viết gửi Túy Tiêu giữa lúc đôi lứa bị phân ly bởi quan Trụ Quốc họ Thân, có câu, “Côn Nô, Hứa Tuấn nơi nao ?” ý trông ngóng người có thể đưa cả hai thoát ra khỏi khốn cảnh (Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.178. Côn Nô tức Côn Lôn nô Ma Lặc trong truyện Hồng Tiêu kỹ (hay “Côn Lôn Nô”), người giúp Thôi sinh và nàng Hồng Tiêu thành duyên. Hứa Tuấn là người cứu nàng ca kỹ họ Liễu khỏi tay Phiên tướng Sa Trá Lợi, đưa nàng về lại với Hàn Hoành.
(56) Chưa rõ Tkachov muốn nói đến ảnh hưởng nào của Trung Quốc trong câu chuyện thuần chất bản địa này. Phải chăng ông muốn nói đến phần sau của câu chuyện, khi nàng Vũ Thị Thiết được Linh Phi cứu mạng, nhắn Trương Sinh lập đàn tràng giải oan ?
(57) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, “(Tháng 7 năm 1402, Hồ) Hán Thương điều An phủ sứ lộ Thuận Hóa Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cảnh Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà Hán, nhà Đường, mộ người nộp thóc để việc phòng bị biên cương được đầy đủ”. Hồ Quý Ly đọc và phê như trên (Sđd, tập III, tr. 203).
(58) Bài tựa Trích diễm thi tập, Huệ Chi dịch. Xem Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr.18.
(59) Như trên.
(60) Viện Văn Học. Thơ văn Lý - Trần, tập I, Sđd, tr.58.
(61) Thơ văn Lý - Trần căn cứ theo bản chép tay Việt Kiều thư của Thư viện Khoa học xã hội (ký hiệu1731/ I ), ghi ngày ra sắc lệnh là 16 tháng 6 năm 1407 (như trên). Tuy nhiên theo bản Việt Kiều thư in trong Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư - Sử bộ 162, Tề Lỗ thư xã, Quảng Đông, 1996, sắc lệnh trên được chép ở ngày 19 tháng 5 năm 1407 (tr.708). Tương tự, Thơ văn Lý - Trần giới thiệu một sắc lệnh khác, liên quan đến việc hủy diệt văn hóa bản địa của Minh Thành Tổ ban hành trước đó, ghi ngày 21 tháng 8 năm 1406 (tr.57); cũng sắc lệnh này, bản in của Tề Lỗ Thư Xã ghi ngày 4 tháng 7 nhuận 1406 (tr.695). Bản in của Tề Lỗ Thư Xã nay phổ biến ở cả Trung Quốc và nước ngoài, xin ghi lại để tiện tham khảo.
(62) Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 7 (năm 1418), nhà Minh sai hành nhân Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thì sang thu lấy các loại sách ghi chép về sự tích xưa nay của nước ta”. (Sđd, tập II, tr.241). Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược (Nxb. Tân Việt, Saigon, 1964) cung cấp một danh sách các thư tịch đã bị nhà Minh cướp đoạt, căn cứ theo “sách Lịch triều hiến chương văn tịch chí của ông Phan Huy Chú”, và Việt điện u linh tập được xếp ở cuối danh sách (tr.200-201). Thế nhưng, về việc này, Lịch triều hiến chương loại chí chỉ có đôi dòng vắn tắt, “Trải qua bao cuộc bể dâu, nhiều phen binh lửa, như cuối đời Trần bị nạn giặc Minh, thư tịch đã mất một lần trước (khi nhà Nhuận Hồ thất thủ, tướng Minh là Trương Phụ lấy cả sách vở cổ kim đưa về Kim Lăng)...” ( Sđd, tập III, tr.63).
(63) “Nhưng cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải phục thì duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn ức Trai, lòng lúc nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được”. (Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.252).
(64) Kim Hoa thi thoại không có lời bình ở cuối truyện.
(65) Về lời bàn của Sơn Nam Thúc, Từ điển văn học (Nxb. KHXH, Hà Nội, 1984, tập II ) viết: “Cuối mỗi truyện ký đều có lời bàn của Sơn Nam Thúc, chưa rõ là ai (...) Lời bàn sắc sảo, tinh tế, có khí vị văn học.” (tr.352).
(66) Lời bình truyện Na Sơn tiều đối lục viết, “Than ôi, có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, đó là việc của Thánh nhân; tiều phu, tuy là bậc hiền, nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy... Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra, nói vào là tốt hơn cả”. (Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.164).
(67) Lời bình Túy Tiêu truyện viết, “Than ôi ! Người con trai bất trung, ông vua trung thường xấu hổ lấy làm bề tôi, người con gái bất chính, kẻ sĩ trung thường xấu hổ lấy làm vợ. Túy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người chính chuyên, không hiểu Nhuận Chi ham luyến vì cái gì ?... Như chàng Nhuận Chi, thực là một người ngu vậy”. (như trên, Sđd, tr.188-189).
(68) Nguyên văn như sau, “Than ôi, những chuyện huyền hoặc Tề Hài, những lời ngụ ngôn Trang Chu, người quân tử vốn chẳng nên ham chuộng. Nhưng nếu là chuyện quan hệ đến luân thường, là lời ký ngụ ý khuyên giới, thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu” (như trên, tr.137).
(69) Trong Truyền kỳ mạn lục giải âm (nguyên tác Hán văn: Nguyễn Dữ, dịch sang văn Nôm: Nguyễn Thế Nghi, Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, 2001), Nguyễn Quang Hồng cung cấp một cứ liệu, góp phần xác định tác giả của các lời bình. Ông viết: “Vì đoạn “Lời bình” này không được ghi rõ là của ai, nên ta có thể mặc nhiên coi là do chính Nguyễn Dữ viết lấy. Người dịch ra chữ Nôm cũng nghĩ như vậy, nên đã không ít hơn hai lần (Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Truyện yêu quái ở Xương Giang) dịch thẳng chữ “viết” (rằng) trong đoạn văn này thành “Nguyễn Dữ rằng”. (tr.13)
(70) Trích từ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, phần “Giới Nho sĩ”. Xem Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, Mai Xuân Hải (chủ biên), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1986, tr.125.
|