TB

TÌM HIỂU VỀ DANH, TỰ, HIỆU
CỦA NGƯỜI XƯA

TRỊNH KHẮC MẠNH

Thời xưa, ở Trung Quốc, tầng lớp quí tộc quan lại, ngoài họ tên chính thức do ông, bà, cha, mẹ đặt cho; khi lớn lên người ta thường đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu.

Sách Từ nguyên mục Danh tự giải thích: “古 代 貴 族 始 生 有 名, 二 十 歲 成 人, 行 冠 禮 又 加 字, 合 稱 名 字. 後 來 在 字 之 外, 又 有 號, 合 稱 名 號. 自 稱 用 名, 別 人 為 表 示 禮 敬, 用 自 或 號 相 稱. 參 閱 禮 檀 弓 上: “幼 名, 冠 字”. Phiên âm: Cổ đại quí tộc thủy sinh hữu danh, nhị thập tuế thành nhân, hành quán lễ hựu gia tự, hợp xưng danh tự. Hậu lai tại tự chi ngoại, hựu hữu hiệu, hợp xưng danh hiệu. Tự xưng dụng danh, biệt nhân vi biểu thị lễ kính, dụng tự hoặc hiệu tương xưng. Tham duyệt Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự”. Dịch nghĩa: Tầng lớp quí tộc thời xưa khi mới sinh thì đặt tên (danh), hai mươi tuổi trưởng thành thì làm lễ đội mũ và đặt thêm tên chữ (tự), gọi chung là danh tự. Về sau ngoài tên tự lại đặt hiệu, gọi chung là danh hiệu. Tên (danh) dùng để tự xưng, còn người khác muốn biểu thị sự tôn kính người mình gọi, thường gọi bằng tên tự hoặc tên hiệu. Xem Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự”). Và mục Tự giải thích: “禮 曲 禮 上: “男 子 二 十 冠 而 字 ”. 儀 禮 士 冠 禮: “冠 而 字 之, 敬 其 名 也 ”. 禮 檀 弓 上 “幼 名, 冠 字, … 周 道 也”. 疏: “人 年 二 十, 有 為 人 父 之 道, 朋 友 等 類, 不 可 覆 呼 其 名, 故 冠 而 加 字 ”. (Phiên âm: Lễ, Khúc lễ thượng: “Nam tử nhị thập quán nhi tự”. Nghi lễ, Sĩ quan lễ: “Quán nhi tự chi, kính kỳ danh dã”. Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự... Chu đạo dã”. Sớ: “Nhân niên nhị thập, hữu vi nhân phụ chi đạo, bằng hữu đẳng loại, bất khả phúc hô kỳ danh, cố quán nhi gia tự”. Dịch nghĩa: Thiên Khúc lễ thượng sách Lễ ký chép: “Con trai hai mươi tuổi thì đội mũ và đặt tên tự”. Mục Sĩ quan lễ sách Nghi lễ chép: “Đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự, là để tỏ ý kính trọng đối với danh”. Thiên Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự... đó là phép của nhà Chu”. Giải thích thêm: “Con người khi đến hai mươi tuổi là đã có đủ tư cách làm cha, khi đó bạn bè cùng lứa, không được gọi bằng tên (danh) nữa, cho nên khi đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự”).

Như vậy, người đời xưa thường có tên (danh), có tên chữ (tự) và có tên hiệu (hiệu), có người lại có cả biệt hiệu nữa. Việc đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu ban đầu được sử dụng trong tầng lớp quí tộc; sau này được mở rộng, không chỉ có ở tầng lớp quí tộc mà cả các tầng lớp khác trong xã hội, như: quan lại, nho Sĩ, các bậc tao nhân mặc khách, v.v...

Tên (danh) là tên riêng do ông, bà, cha, mẹ đặt cho. Việc đặt tên cũng có những phép tắc nhất định, như thời nhà Chu, cách đặt tên của tầng lớp quí tộc được qui định: trẻ nhỏ thường phải sau khi sinh ra được 1 tháng hoặc 100 ngày mới được đặt tên (danh). Thời cổ đại, tên người (danh) thường được đặt đơn giản và người ta lấy can chi đặt làm danh, đó có thể là có liên quan đến sự coi trọng thời gian của người đương thời. Sau này, theo sự phát triển của văn hóa và ngôn ngữ văn tự, tên người ngày càng được đặt một cách phong phú hơn. Hoặc có người lại cố tình đặt cho con những tên xấu để cho phù hợp với sự quan niệm là dễ nuôi và không bị chết yểu.

Tên chữ (tự) thường là giải thích và bổ sung cho danh, giữa danh và tự có mối liên hệ chặt chẽ về ý nghĩa, biểu thị sự hô ứng và bổ sung cho danh, nên còn được gọi là biểu tự. Tên tự được đặt khi đã thành niên và thường do cha mẹ hoặc bề trên đặt cho, cũng có khi do chính bản thân tự đặt. Việc đặt tên tự là chứng tỏ người đó bắt đầu được mọi người trong xã hội công nhận và tôn trọng. Khi đặt tên tự, người ta thường căn cứ vào danh để chọn từ tương ứng mang ý nghĩa liên quan và phụ trợ cho danh, như: Gia Cát Lượng 諸 葛 亮 nhà Thục thời Tam quốc, tự là Khổng Minh 孔 明 (lượng là sáng còn khổng minh là rất sáng); Bao Chửng 包 拯 thời Bắc Tống, tự là Hy Nhân 希 仁 (chửng là cứu giúp còn hy nhân là mong làm điều nhân), v.v... Có trường hợp tự và danh được lấy câu chữ trong cổ thư, như Tào Tháo 曹 操 nhà Hán thời Tam quốc, tự là Mạnh Đức 孟 德 lấy từ câu trong Tuân Tử: “phù thị chi vị đức tháo” (dịch nghĩa: đó là phẩm hạnh của đức), v.v. Lại có người lấy tên tự ngược hẳn nghĩa với danh, như: Chu Hy 周 熹 đời Tống, tự là Nguyên Hối 元 晦 và Trọng Hối 重 晦, hiệu là Hối Am 晦 菴 (hy là sáng còn hối là tối), v.v. Ngoài ra, còn có tiểu tự, tức nhũ danh (tên gọi khi còn bú mẹ), như: Tào Tháo có tiểu tự là A Man, Lưu Thiện có tiểu tự là A Đẩu, v.v...

Danh và tự của người xưa còn được dùng để chỉ quan hệ thứ bậc trong gia tộc, biểu thị anh em trong gia đình, và người ta thường có thêm chữ bá (mạnh) là lớn, trọng là thứ hai, thúc là em, quý là út; như Bá Di 伯 夷, Thúc Tề 叔 齊, Trọng Hối 重 晦, Mạnh Đức 孟 德, v.v..

Tên hiệu (hiệu) là tên gọi được đặt khi người ta đã thực sự trưởng thành, các sĩ phu và văn nhân thời phong kiến thường có tên hiệu hoặc biệt hiệu của mình, như: Lý Bạch 李 白 thời Đường lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ 青 蓮 居 士, Đỗ Phủ 杜 甫 thời Đường lấy hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão 少 陵 野 老, Vương An Thạch 王 安 石 thời Tống lấy hiệu là Bán Sơn 半 山, v.v... Tên hiệu là do người sử dụng tự đặt, không hề bị chi phối bởi gia tộc, thứ bậc trong gia đình. Thông qua việc đặt tên hiệu, hoặc biệt hiệu, người ta có thể tự do gửi gắm tư tưởng và tình cảm, biểu lộ chí hướng và hoài bão, thể hiện sở thích của mình trong cuộc sống. Việc đặt tên hiệu hoặc biệt hiệu đôi khi còn để mang dấu ấn địa phương, quê hương bản quán của mình. Một người có thể thay đổi khá nhiều tên hiệu hoặc biệt hiệu, và thông qua sự thay đổi này có thể hiểu được quan niệm sống, tâm tư tình cảm và tư tưởng của người đó trong cuộc sống ở các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng có người chọn hiệu hoặc biệt hiệu chỉ là học đòi làm sang, chứ không hề phù hợp với thân thế và sự nghiệp của họ chút nào.

Nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Việt Nam vào thời kỳ phong kiến, các nhà Nho, nhà thơ, nhà văn, hàng ngũ quan lại, ngoài tên (danh) ra cũng đặt tên tự và tên hiệu hoặc biệt hiệu, dựa theo những nguyên tắc của Trung Hoa. Có thể kể như:

Ngô Tuấn 吳 俊 (1019-1105), người thành Thăng Long (nay là Tp. Hà Nội). Ông vốn họ Ngô, tự là Thường Kiệt 常 桀, sau được ban quốc tính họ Lý 李 nên thường được gọi là Lý Thường Kiệt 李 常 桀. Danh và tự của Lý Thường Kiệt hoàn toàn hỗ trợ cho nhau (tuấn là tài hoa hơn người còn kiệt là tài năng xuất chúng). Lý Thường Kiệt là vị anh hùng dân tộc có công trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt trong việc đánh quân Tống và bình quân Chiêm. Ông làm quan trải ba triều vua: Lý Thái Tông, Lý Anh Tông và Lý Nhân Tông. Vua Lý Nhân Tông ban cho ông hiệu “Thiên tử nghĩa đệ”.

Chu Văn An 朱 文 安 (1292- 1370), người xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội), ông thi đỗ Thái học sinh, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học và học trò theo ông rất đông. Đời vua Trần Minh Tông, ông mới ra nhận chức Tu nghiệp Quốc tử giám, dạy học cho Thái tử. Đời vua Trần Dụ Tông, nhà vua ăn chơi sa đọa, gian thần lộng quyền tham nhũng, tình hình chính trị xã hội sa sút. Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy tên lộng thần, nhưng nhà vua không nghe, ông liền xin từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Để nói lên đặc điểm nhân cách của mình, Chu Văn An đã lấy tự là Linh Triệt 靈 徹, lấy tên hiệu là Tiều ẩn 樵 隱 và Khang Tiết Tiên sinh 康 節 先 生.

Trần Nguyên Đán 陳 元 旦 (1325 -1390), người xã Tức Mặc, lộ Thiên Trường (nay thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định). Ông là cháu của Trần Quang Khải, là ông ngoại Nguyễn Trãi và từng được bổ nhiệm làm quan theo quy chế tập chức, vì thuộc dòng họ tôn thất nhà Trần. Đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), ông có công trong việc dẹp loạn Dương Nhật Lễ và được thăng chức Tư đồ phụ chính. Đời vua Trần Phế Đế (1377-1388), khi Hồ Quý Ly tiếm quyền ông xin về hưu ở ẩn tại núi Côn Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Trần Nguyên Đán đã lấy hiệu là Băng Hồ 冰 壺 để lấy ý trong câu thơ Đường “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (dịch nghĩa: một tấm lòng trong trắng trong bình ngọc) để thể hiện tấm lòng của mình đối với nhà Trần.

Nguyễn Trãi 阮 廌 (1380 - 1442), người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán và là con của Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất nhà Hồ (1400), từng giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi giặc Minh xâm lược nước ta ông cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh. Trong mười năm kháng chiến gian khổ, ông đã giúp Lê Lợi mưu kế về quân sự và ngoại giao. Chính ông đã thay Lê Lợi thảo những thư từ giao dịch với tướng nhà Minh, tập hợp thư từ ấy gọi là Quân trung từ mệnh. Lúc giặc Minh thua trận xin đầu hàng, ông lại thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tuyên bố với nhân dân trong cả nước biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh toàn thắng. Vì có công trong cuộc kháng chiến cứu nước, ông được vua Lê Thái Tổ cho theo họ Lê (vì thế còn gọi là Lê Trãi) và phong tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước, ông đã giúp vua Lê Thái Tổ xây dựng chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.... Sau khi vua Lê Thái Tổ mất, ông bị các phe cánh trong triều dèm pha nên phải xin về nghỉ ở Côn Sơn. Sau ông được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan và tin dùng. Khi vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, Hải Dương, chẳng may mất ở Lệ Chi Viên (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), Nguyễn Trãi bị triều thần khép tội là đã sai nàng hầu (Nguyễn Thị Lộ) giết vua, nên ông và cả ba họ đều bị giết. Đến đời vua Lê Thánh Tông nỗi oan của ông mới được xét rõ, ông được truy phong quan tước cũ. Ông có hiệu là ức Trai 抑 齋.

Nguyễn Quý Đức 阮 貴 德 (1646 - 1720), người xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm (nay là xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Tp. Hà Nội). Ông thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh năm Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676) đời vua Lê Hy Tông. Ông giữ các chức quan, như Tả thị lang Bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng, rồi thăng Đô ngự sử, sau bị giáng làm Tả thị lang Bộ Binh, rồi lại thăng hàm Thiếu phó, tước Liêm quận công, sau được thăng đến Thái phó, Quốc lão và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sinh thời ông là người sống thuần hậu, với tên là Đức 德 nên ông đã lấy tự là Bản Nhân 体 仁, ông còn có hiệu là Đường Hiên 堂 軒. Về tên tự của Nguyễn Quý Đức, nhiều người đọc là Thể Nhân (体 仁), theo chúng tôi nên đọc là Bản Nhân (体 仁). Bởi vì, sách Từ nguyên có ghi: “体: 蒲 本 切 (bồ bản thiết)” và Khang Hy tự điển cũng ghi: “体: [Quảng vận] 蒲 本 切 (bồ bản thiết), [Tập vận] 部 本 切 (bộ bản thiết), Thông nhã “体 蒲 本 反... 俗 書 四 體 之 體 省 作 体 誤” (dịch nghĩa: chữ 体 phiên là bồ bản (蒲 本)... ngoài đời quen viết chữ “thể” (體) của từ “tứ thể” (四 體) giản lược thành chữ “bản” (本) là sai”.

Ngô Thời Sĩ 吳 時 仕 (1725 - 1780), người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội). Ông thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông. Ông giữ các chức quan, như: Công khoa Cấp sự trung, Đốc đồng Thái Nguyên, Hiến sát sứ Thanh Hoa, Tham chính Nghệ An, Hàn lâm viện Hiệu lý, Thiêm đô ngự sử, Đốc trấn Lạng Sơn. Ngô Thời Sĩ có tên tự là Thế Lộc 世 祿, hiệu là Ngọ Phong Tiên sinh 午 峰 先 生 và đạo hiệu là Nhị Thanh Cư sĩ 二 青 居 士, để kỷ niệm một thời làm quan Đốc trấn Lạng Sơn nơi có động Nhị Thanh.

Ngô Thời Nhậm 吳 時 任 (1746 - 1803), người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775) đời vua Lê Hiển Tông. Thời Lê, ông giữ các chức quan, như: Hiến sát phó sứ Hải Dương, Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam, Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên, Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Hiệu thảo, Hữu thị lang Bộ Công. Khi nhà Lê mất, ông theo nhà Tây Sơn và được vua Quang Trung trọng dụng, bổ giữ các chức quan, như: Tả thị lang Bộ Lại, Thượng thư Bộ Binh, tước Tình phái hầu và giao trọng trách soạn thảo các văn bản ngoại giao của triều đình với nhà Thanh. Khi Nguyễn ánh đưa quân ra Bắc chiếm thành Thăng Long, ông bị bắt và đưa ra đánh đòn ở Văn Miếu để cảnh cáo Sĩ phu Bắc Hà đã theo nhà Tây Sơn. Ngô Thời Nhậm đã lấy tên tự là Hy Doãn希尹với hàm ý là hy vọng làm nên sự nghiệp như Y Doãn thời nhà Thương (Trung Quốc) và ông còn có tên hiệu là Đạt Hiên 達 軒.

Nguyễn Thiếp 阮 浹 (1723 - 1804), người xã Nguyệt Ao (còn gọi là Nguyệt úc), huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Được biết ông từng thi đỗ Hương cống đời Lê, từng làm Huấn đạo và Tri huyện Thanh Chương. Sau do thời thế loạn lạc ông bỏ quan về nhà ở ẩn. Khi nhà Tây Sơn cai quản đất nước, vua Quang Trung mời Nguyễn Thiếp ra làm quan, ông nhất định không ra. Nhưng, sau do cảm tình tri ngộ của vua Quang Trung, ông nhận lời ra giúp nhà Tây Sơn lập Sùng chính thư viện và dịch một số sách ra quốc âm. Sau khi vua Quang Trung mất, ông xin về. Từ đặc điểm cuộc đời và nhân cách sống của mình, ông đã lấy các tên tự là Khải Chuyên 啟 顓 và Quang Thiếp 光 浹, hiệu là Hạnh Am 幸 庵, Lạp Phong Cư sĩ 笠 峰 居 士, Điên ẩn 癲 隱, Cuồng ẩn 狂 隱 và Bùi Khê Cư sĩ 裴 溪 居 士. Nguyễn Thiếp quê ở huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), với tấm lòng yêu quê hương nên ông đã lấy các địa danh của quê hương để ghép tên hiệu cho mình, như: La Sơn Phu tử 羅 山 夫 子, La Giang Phu tử 羅 江 夫 子, Lam Hồng Dị Nhân 藍 紅 異 人, Hầu Lục Niên 侯 六 年 và Lục Niên Phu tử 六 年 夫 子.

Nguyễn Tư Giản 阮 思 簡 (1822 - 1890), người xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Tp. Hà Nội). Nguyễn Tư Giản thi đỗ Cử nhân khoa Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị 3 (1843) và thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Thiệu Trị 4 (1844) đời vua Nguyễn Hiến Tổ. Ông giữ các chức quan, như: Nội các đê chính, Tán lý quân thứ Hải An, từng được sung vào Đoàn sứ bộ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Khi trở về được thăng Thượng thư Bộ Lại, sau bị giáng chức, đổi làm Sơn phòng sứ ở Chương Mỹ, rồi lại được phục chức Tổng đốc Ninh - Thái, rồi về hưu. Từ cuộc đời của mình ông lấy tự là Tuân Thúc 洵 叔, hiệu là Thạch Nông 石 農 và Vân Lộc 雲 麓.

Danh, tự và hiệu hay biệt hiệu tuy đều là tên người, nhưng khi sử dụng không thể tùy tiện mà phải tuân theo phép tắc nhất định. Do người xưa rất trọng lễ nghĩa, cách dùng danh, tự và hiệu cũng rất cầu kỳ. Trong giao tiếp, danh thường dùng trong trường hợp khiêm xưng, hoặc trên gọi dưới, còn những người ngang hàng chỉ gọi danh khi thật thân mật. Khi không được phép mà gọi thẳng danh của người đang nói chuyện là bất lễ, danh của cha mẹ mà nhắc tới là bất kính, còn danh của vua chúa mà nhắc tới là đại nghịch. Tự và hiệu dùng trong trường hợp người dưới gọi người trên, hoặc những người ngang hàng nhau. Như người đời thường gọi Nguyễn Trãi là Ức Trai Tiên sinh, gọi Nguyễn Thiếp là La Sơn Phu tử, gọi Lê Hữu Trác là Hải Thượng Lãn Ông, Ngô Thời Sĩ có đạo hiệu là Nhị Thanh Cư sĩ, v.v... Những người khi đặt cho mình tên hiệu là “Cư sĩ” thường thể hiện người đó coi khinh lợi lộc, tự cho mình là thanh cao.

Danh, tự và hiệu hoặc biệt hiệu, ngoài việc dùng trong giao tiếp, người ta còn dùng để đặt tên cho các trước tác của người đó, như: Chu Văn An đã được dùng tên hiệu để đặt cho các tên sách: Tiều ẩn thi tập 樵 隱 詩 集 (nay chưa tìm thấy), Tiều ẩn quốc ngữ thi tập 樵 隱 國 語 詩 集 (nay chưa tìm thấy). Trần Nguyên Đán đã được dùng tên hiệu để đặt tên sách: Băng Hồ ngọc hác tập 冰 壺 玉 壑 集 (nay chưa tìm thấy). Ngô Thì Nhậm đã được dùng tên tự để đặt tên sách: Ngô gia văn phái Hy Doãn công tập 吳 家 文 派 希 尹 公 詩 集, Hy Doãn công di thảo 希 尹 公 遺 草. Nguyễn Thiếp đã được dùng các tên hiệu để đặt cho các tên sách: Hạnh Am di văn 幸 庵 遺 文, Lạp Phong văn cảo 笠 峰 文 槁. Nguyễn Tư Giản đã được dùng tên tự và tên hiệu để đặt cho các tên sách: Nguyễn Tuân Thúc thi tập 阮 洵 叔 詩 集, Thạch Nông thi tập 石 農 詩 集, Thạch Nông toàn tập 石 農 全 集, Thạch Nông văn tập 石 農 文 集. Cách ghép tên tự và tên hiệu vào tên sách như vậy, là cách làm phổ biến, nhưng cũng đặt ra những vấn đề cho người đời sau khi tìm hiểu về tác gia và tác phẩm Hán Nôm.

Như vậy, khi gọi và khi viết về người khác, người xưa rất ít khi nêu thẳng tên (danh) mà thường thay bằng tên tự hay tên hiệu hoặc biệt hiệu. Chính điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho thế hệ ngày nay khi nghiên cứu tìm hiểu về người xưa, nhất là đối với các tác gia Hán Nôm cùng các văn bản viết bằng chữ Hán và chữ Nôm hiện còn được lưu giữ đến ngày nay. Bởi vì tên tự và tên hiệu của các tác gia nhiều khi trùng nhau và không biết được đó là ai. Ví dụ như từ “Đạm Trai”, theo sự thống kê của chúng tôi có đến 6 tác gia Hán Nôm lấy để đặt tên hiệu cho mình; hay từ “Tĩnh Trai”, theo sự thống kê của chúng tôi cũng có đến 7 tác gia Hán Nôm lấy để đặt tên hiệu cho mình. Để góp phần tìm hiểu vấn đề danh, tự, hiệu và biệt hiệu ở Việt Nam; chúng tôi nghĩ nên biên soạn cuốn Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm, nhằm làm rõ được tên (danh), tên tự và tên hiệu hoặc biệt hiệu của các tác gia Hán Nôm, giúp độc giả tiện đường tham khảo.

T. K. M

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Khang Hy tự điển, Thượng Hải thư điếm xuất bản xã, 1992.

2. Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1993.

3. Từ Hải, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1989.

4. Trung Quốc lịch đại danh thần, Hà Nam nhân dân xuất bản xã, 1988.

5. Ngô gia văn phái, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (TV. VNCHN), VHv.1743 và nhiều bộ khác.

6. Bùi Hạnh Cẩn - Minh Nghĩa - Việt Anh: Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2002.

7. Lê Quý Đôn: Toàn Việt thi lục, TV. VNCHN, A.1262 và nhiều bản khác.

8. Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam, Nxb. Thống kê, 2000.

9. Trần Văn Giáp (Chủ biên): Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội - 1971, 1972.

10. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Nxb. Văn hóa, Hà Nội-1984 và tập 2, Nxb. KHXH, Hà Nội - 1990.

11. Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội - 1999.

12. Dương Thái Minh: Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả, Ban Hán Nôm, in rôneô, 1977.

13. Trần Nghĩa - François Gros (Chủ biên): Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Nxb. KHXH, Hà Nội - 1993.

14. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa, 1997.

15. Ngô Đức Thọ (Chủ biên): Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, 1993.

16. Thơ văn Lý - Trần, Nxb. KHXH, 1977, 1978, 1989.

TB

BẬC THẦY CỦA NHỮNG CHUYỆN KỲ DIỆU SÁNG TẠO TỪ ĐẤT HẢI DƯƠNG(1)

M. TKACHOV

Số phận những cuốn sách cổ, cũng như tác giả của chúng thường bí ẩn và bất thường. Có một bộ sách của tác giả Việt Nam, tồn tại giữa thế nhân đã hơn bốn thế kỷ vẫn tiếp tục diên trì sở thích của chúng ta ngày nay. Đó là tập Truyền kỳ mạn lục (2), được viết bằng Hán văn, ngôn ngữ chung của nhiều nền văn học Viễn Đông, thời ấy, sách đã được chú giải ngay sang tiếng Việt. Những phần diễn giải và chú thích này được viết bằng chữ Nôm của người Việt đã khiến sách trở thành trân bảo, không chỉ của một số học giả và thư tịch gia, mà cả của những ai quan tâm đến nền tảng văn từ.

Tuy lời nói đầu của bản in sớm nhất hiện còn cho biết sách được ấn hành năm thứ 24 triều Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiến Tông (1763), đồng thời tán dương công đức nhà vua(3), thế nhưng về tác giả, sách chỉ nêu tên Nguyễn Dữ, mách rằng ông đã qua kỳ thi Hội và được bổ Tri huyện, nhưng chỉ một năm sau, ông từ quan, quy ẩn. Không thấy nói Nguyễn Dữ sinh năm nào, ứng thí và được bổ nhiệm làm quan khi nào, cũng như ông sống được bao lâu sau khi từ bỏ quan tước.

Trước chúng ta là tập sách của Nguyễn Dữ, được xuất bản gần đây nhất ở Việt Nam năm 1971(4). Từ lời nói đầu, ngoài những số liệu ít ỏi, chúng ta chỉ biết được tên gọi ngôi làng quê hương của Nguyễn Dữ là Đỗ Tùng, thuộc huyện Trường Tân, tỉnh Hải Dương.

Cũng quyển sách này cho biết hợp tập nổi tiếng Hoàng Việt thi tuyển đã xếp Nguyễn Dữ vào thời nhà Mạc (tiếm vị triều Lê năm 1527, và giữ ngôi cho đến năm 1592); Hợp tuyển cho Nguyễn Dữ là học trò của nhà thơ và hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), người đã đỗ đạt và phụng sự dưới thời nhà Mạc. Từ đây có thể kết luận rằng có lẽ Nguyễn Dữ cũng đã trải qua nhiều kỳ thi, phục vụ cho chính nhà Mạc, và gắn bó với triều đại đó.

Hãy cùng đọc Hoàng Việt thi tuyển (Lời tựa viết năm 1788). Nhiều sáng tác thi ca cổ nước Việt đã được bảo lưu cho chúng ta nhờ công lao động của nhà sưu tập Bùi Huy Bích. Ông đã đưa vào bộ sách một số bài thơ điểm xuyết trong văn Nguyễn Dữ(5), nhưng cũng chỉ thông tin rất ngắn gọn về tác giả của chúng. Tuy nhiên ở đây cũng có một số chi tiết mới cho chúng ta: 1. Trong nhiều khoa thi, Nguyễn Dữ đã trúng kỳ Đệ tam(6); 2. Từ quan để chăm sóc mẹ già; 3. Trở về làng và không bao giờ quay lại phố thị(7). ở đây lại hoàn toàn không có ngày tháng gì cả !

Nay lại cùng xét Lịch triều hiến chương loại chí. Cách đây hơn 150 năm [1821], bộ sách nhiều tập này đã khiến Hoàng đế nước Nam [Minh Mạng] khâm phục, ban thưởng cho tác giả của nó là Phan Huy Chú 30 lạng bạc (hơn 1kg), một áo sa, 30 bút lông hảo hạng, cùng 30 nghiên mực(8).

Nhưng thoạt đầu, khi ngợi ca thành tích của nhiều nhân vật khác nhau trong việc phục vụ triều đình, sử gia lại không ghi lấy một dòng tiểu sử riêng biệt về Nguyễn Dữ (9).

Chỉ sau khi liệt kê những trứ tác văn chương nổi tiếng, ông ta mới ghi nhận rằng Truyền kỳ mạn lục được soạn bởi dật sĩ Nguyễn Dữ, con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu(10). Tên của cha Nguyễn Dữ và việc ghi nhớ bậc Tiến sĩ mở đường danh nghiệp của ông là những thông tin rất quan trọng đối với chúng ta.

Hơn thế nữa, từ tiểu sử của thi nhân và đại thần Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta lại biết rằng Nguyễn Dữ là học trò của ông, cùng chi tiết là thầy đã đọc sách của trò(11).

Trong bộ cổ tịch Kiến văn tiểu lục (Bài tựa ghi năm 1777), soạn bởi ngòi bút của sử gia, thi nhân, cùng là đại thần Lê Quý Đôn, chúng tôi cũng tìm được thêm vài điểm về cuộc đời Nguyễn Dữ. Do ghi chép này đầy đủ hơn những lần trước và tự thân nó rất thú vị, chúng tôi xin dẫn toàn văn ở đây: “Nguyễn Dữ - Người xã Đỗ Tùng… Cha tên là Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496)… làm quan Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Dữ lúc còn bé thông minh, lanh lợi, xem rộng, nhớ lâu, văn chương có thể nối dõi được gia phong, thi đỗ Hương cống, thi Hội nhiều khoa trúng kỳ Đệ tam, được tuyển bổ Tri huyện Thanh Tuyền, làm quan mới được một năm, liền lấy cớ là xa nhà, xin từ chức để về nhà hầu cha mẹ. Sau vì ngụy Mạc cướp ngôi vua, ông thề không ra làm quan, sống ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến thành thị. Về phần trứ tác có 4 quyển Truyền kỳ mạn lục, lời lẽ thanh tao tươi đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen.”(12)

Như vậy Nguyễn Dữ đã nhiều lần tham gia các kỳ thi Hội, vốn được tổ chức ba năm một lần(13). Điều này có nghĩa là ông đã ở Kinh đô một thời gian dài, và ngụ tại nhà thân phụ - một trọng thần khi ấy. Song, như Lê Quý Đôn khẳng định, đặc biệt quan trọng là dường như Nguyễn Dữ đã phục vụ và từ quan trước triều Mạc. Điều bất ngờ này được khẳng định qua bộ Đại Nam nhất thống chí (thế kỷ XIX), trong đó có những thông tin ngắn gọn về Nguyễn Dữ được xếp trong phần “Đời Lê” (1428-1527)(14), trong khi tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được xếp vào phần tiếp theo thuộc kỷ nhà Mạc. Các tác gia trên cũng được giới thiệu qua bước đường công danh của họ.

Hãy thử làm sáng tỏ những chi tiết này nhờ sự xuất hiện của niên kỷ duy nhất còn biết được. ấy là năm 1496 khi cha Nguyễn Dữ qua kỳ thi Hội. Về những kỳ thi Hội (chính xác hơn vòng đầu gọi là thi Hội, vòng hai gọi là thi Đình) có nhiều chi tiết đặc biệt đối với thời gian mà chúng ta quan tâm. Trong thời vua Lê Thánh Tông trị vì từ năm 1460 đến 1497, người đã quan tâm đặc biệt đến giáo dục. Dưới thời ông, cương thổ được mở mang, và thanh danh đất nước được khẳng định không chỉ trong phạm vi các nước nhỏ cận lân, mà còn ở Minh triều Hoa Hạ.(15) Do ý thức được nỗi khốn cùng và niềm cay đắng của sự đầy ải ngay từ buổi thiếu thời, Lê Thánh Tông (trong chừng mực có thể) đã hướng tới những tư tưởng “thiện chính”. Ông thiết lập kỷ cương và ấn định thuế khóa, cải tạo bộ máy nhà nước và quân đội. Dưới triều của ông, lần đầu tiên một bức “toàn đồ” của nước Đại Việt (tên gọi Việt Nam thời ấy) đã được thực hiện, phân định lại khu vực, quận huyện theo cách thức mới, dựng nên bộ lịch sử Việt Nam(16).

Nhà thơ nổi tiếng Lê Thánh Tông đã làm thơ và viết văn bằng Hán ngữ và Việt ngữ, cùng chủ soái “Tao Đàn nhị thập bát tú” trứ danh.

Như vậy, vào năm 1496, trên thực tế đã có những kỳ thi Hội và trong danh sách những người đỗ đầu, chúng ta thấy có Nguyễn Tường Phiêu, cha của Nguyễn Dữ(17).

Thế thì, năm 1496 Nguyễn Tường Phiêu khoảng bao nhiêu tuổi ?

Lược truyện các tác gia Việt Nam, ấn bản lần hai tại Hà Nội cách đây không lâu(18), trong suốt thời kỳ từ cuối thế kỷ XI khi Việt Nam bắt đầu khoa cử cho đến năm 1547 (nói chung những số liệu sau đó đối với chúng tôi không quan trọng), chúng tôi đã tìm thấy 5 người với đầy đủ năm sinh và năm thi.

Có 9 người dưới 20 tuổi, 20 người từ 20 tuổi đến 30 tuổi và 12 người hơn 30 tuổi (trong số đó có 5 người hơn 40 tuổi).

Theo hai nguồn thông tin khác chúng tôi còn tìm được 4 người đoạt giải: 2 người dưới 20 tuổi, và 2 người khác ở độ tuổi 22.

Thế nên, có thể giả định rằng năm 1496, cha của Nguyễn Dữ ở độ tuổi từ 20 đến 30.

Người Việt thời đó lấy vợ rất sớm, và theo thông lệ, chính cha mẹ chọn vợ cho con trai mình. Người lên Kinh đô ứng thí thường đã có vợ. Điều này đã được nhiều truyện của Lê Thánh Tông và của chính Nguyễn Dữ chứng minh có liên quan đến phong tục, tập quán.

Kết luận rút ra là vào năm 1496 [Nguyễn] Tường Phiêu hẳn đã có vợ.

Khi ấy người ta có con rất sớm. Việc sinh con trễ thường được nhắc đến trong các bộ sử, ấy là không kể đến những câu chuyện thần kỳ (bản thân Nguyễn Dữ cũng có hai chuyện về đề tài này)(19), khi bàn về người nối dõi muộn mằn thường gắn với sự can thiệp của lực lượng ngoại giới; đấy là những chuyện hiếm hoi và bất thường. Sự thật là lúc bấy giờ người giàu thường nhiều thê thiếp, và như vậy cũng đồng nghĩa là có nhiều con.

Song nếu Nguyễn Dữ kịp kết thúc việc học hành thi cử trước năm 1527 (mà có thể không phải là một lần) nhậm chức và đương quyền một năm, sau đấy từ quan về nhà, thì theo ước tính, ông ta hẳn phải là con cả trong gia đình. Khẳng định trực tiếp cho điều này chính là việc Nguyễn Dữ từ quan với lý do chăm sóc cha mẹ già, và đó thường là nghĩa vụ của người con cả(20).

Nhân đây xin nói thêm rằng trong các bộ sử và tư liệu khác, những thông tin về một nhân vật nào đó thường gồm cả ghi chép về tên tuổi và chức vụ của phụ thân người ấy. Nguồn gốc gia đình khi đó đóng vai trò quan trọng trên đường công danh. Để được phép thi, ngoài việc khẳng định trên giấy tờ về khả năng của cá nhân do chính quyền địa phương cấp, người ta còn đòi hỏi xác nhận rằng trong dòng họ của thí sinh không có những kẻ phản nghịch, phiến loạn và ca xướng(21). Thế nhưng chúng tôi không tìm đâu được các ghi chép về những người con khác của Nguyễn Tường Phiêu, anh em khác của Nguyễn Dữ.

Vậy chúng ta hoàn toàn có thể đưa ra giả thuyết thứ ba: Nguyễn Dữ có thể sinh vào khoảng 1496.

Nhưng khi ấy Nguyễn Dữ đã trở thành môn đồ của danh sư Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? Quả là truyền thống đã gắn hầu như tất cả học trò nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm với giai đoạn sau khi ông từ quan, mở trường ở huyện Vĩnh Lại (cũng tại Hải Dương), nơi môn sinh từ nhiều nơi tụ hội về. Trong số những môn đồ “thành đạt” hiển vinh, chúng ta biết rõ năm thi của 3 người, và có lẽ 2 người trong số họ ứng thí năm 1538, tức là 5 năm trước khi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan. Thế có nghĩa là ông đã dạy học trước cả năm 1538(22). Đối với chúng ta điều quan trọng là việc nhắc tên Nguyễn Dữ trong số các học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn không có nghĩa là thời kỳ thụ giáo của ông nhất thiết phải sau năm 1543. Nói chung, trong thời trung đại ở Việt Nam (và không riêng ở đấy), khái niệm “trò” và “thầy” hoàn toàn không chỉ mang nghĩa “học trò” và “thầy giáo”. Có thể gọi hậu học của một bậc danh triết hay tôn sư là học trò (tức là thầy với nghĩa cao quý của từ này). ở đây các quan hệ được xây dựng không theo trường quy, và tuyệt nhiên không tính đến sự khác biệt về tuổi tác. Có chăng những quan hệ như thế giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và con người dường như không vượt trội trong “vinh quang” Nguyễn Dữ, mặc dù từ nhỏ ông đã nổi bật với kiến thức và tài năng, và cũng có môn sinh riêng của mình, giữa nhà tư tưởng trứ danh với nhà thơ, triều thần mà ý kiến của họ, thậm chí sau khi từ nhiệm, được cả hai triều đại thù địch tiếp nhận như những lời tiên tri chính trị ?

Nhiều nguồn tư liệu cho rằng, dường như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đọc và sửa sách cho Nguyễn Dữ. Nhưng chúng ta hiện đã rõ: đấy hoàn toàn không phải là một sinh đồ trẻ, thiếu lịch lãm trình “sư phụ” cao niên duyệt đọc những câu chuyện của mình. Những câu chuyện ấy được viết bởi một người đã trưởng thành và tài năng, được đưa ra chất chính nghiêm khắc qua thiên tư và uy tín của người đồng chí hướng. Và cũng có thể là, chỉ dưới ngòi bút của người khác, tập sách, sáng tạo của Nguyễn Dữ, mới có được những phẩm chất vốn có của nó !

Vậy, hãy thử dựng một sơ đồ cuối cùng: Nguyễn Dữ sinh khoảng năm 1496; học hành, thi cử, nhậm chức và từ quan trước năm 1527; sống ở quê, ngay tại nhà cha mẹ, dạy học, giao tiếp với Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoàn thành tác phẩm Truyền kỳ mạn lục sau năm 1527.

Sơ đồ này cho chúng ta chìa khóa mới, không chỉ nhằm tái hiện tiểu sử Nguyễn Dữ, mà còn để hiểu tập sách ông viết. Bởi lẽ nếu phần lớn cuộc sống tinh thần của ông ở vào thời kỳ các vua Lê, tức hẳn ông là chứng nhân của những ngày tháng u ám của Việt Nam thời trung đại.

Năm 1504, vua Lê Hiến Tông, người trong chừng mực nào đó đã kế tục thành công chính sách của thân phụ ông (vua Lê Thánh Tông), qua đời. Không phải ngẫu nhiên mà trong Kim Hoa thi thoại [Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa], Nguyễn Dữ đã hồi niệm hai vị vua này bằng những lời vinh danh cao đẹp nhất(23). Kế đấy, trong vòng chưa đầy 23 năm đã thay đổi 7 đời vua, trong đó chỉ có một vị vua mất vì già yếu. Các quan đại thần và tướng lĩnh đã lập vua lên ngôi, rồi lật đổ, và giết họ, đôi khi chỉ sau vài tháng, hay thậm chí vài ngày sau đó. Những người trị vì lâu hơn đôi chút, như Lê Uy Mục (1505 - 1509) hay Lê Tương Dực (1510 - 1516), lại được nhớ đến vì sự tàn nhẫn vô tâm, xa hoa phung phí, hoang dâm vô đạo, vì đam mê cuồng loạn trong việc xây cất cung điện mới.

Triều đình đã lơ là trong việc củng cố đê điều, kênh mương, khiến ảnh hưởng nguy hại đến nông nghiệp. Chúng tôi tìm thấy gần như hàng năm những thông báo thiên tai và nạn đói trong biên niên sử. Thỉnh thoảng lại nổi lên những cuộc khởi nghĩa nông dân.

Cuộc khởi nghĩa lớn nhất mà đứng đầu là Trần Cảo, đã kéo dài được mấy năm (căn cứ chính của ông ở Hải Dương, quê hương Nguyễn Dữ). Những người nổi dậy đã chiếm kinh đô, và lãnh tụ của họ, một quan chức bình thường trong quá khứ, xưng vương. Ông tiếm vị, nhưng rồi bị các thế lực phong kiến liên kết tạm thời đánh bật khỏi kinh thành. Sau, dù đã được gắn lên đầu tặng thưởng hiếm có ấy, ông trao “danh hiệu” lại cho con trai, xuống tóc tu hành ẩn dật(24).

Phải chăng một văn nhân chân chính như Nguyễn Dữ, khi sống giữa thời bão tố, đã đợi đến khi Mạc Đăng Dung truất phế triều Lê “chính thống”, để khuấy lên bóng hình một kẻ tiếm vị khác - Hồ Quý Ly, người soán đoạt vương vị năm 1400, và qua kiểu mẫu của kẻ hám quyền độ nọ công kích “Ngụy Mạc” ? Phải chăng, như giả định, toàn bộ cảm hứng tố cáo trong sách của ông đều quy về trên bề mặt tương tự này ?

Không, ý đồ phê phán của ông nghiêm khắc hơn và bao quát hơn nhiều ! Hãy trích đọc Đà Giang dạ âm ký [Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang], trong đó có Hồ Quý Ly (sự thực, ở đấy ông mới chỉ là Thủ tướng, nhưng 14 năm sau, Hồ Quý Ly sẽ tức vị; và về điều này, Nguyễn Dữ, người đọc của hơn một thế kỷ về sau, tất phải rõ), cùng Na Sơn tiều đối lục [Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na], trong đó Hồ Hán Thương được phong vương, nhưng kề bên ông, thân phụ Hồ Quý Ly lại thâu tóm trọn quyền hành. Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung là những nhân vật rất khác nhau. Người trước là bậc xuất chúng trong thời đại của mình, đã suy nghĩ và khởi xướng những cải cách quan trọng nhưng bị quân xâm lược Trung Hoa phá vỡ; còn người sau là kẻ cơ hội thực sự, bám lấy những điều cũ kỹ, và trong chính trị là người thích sự tàn ác và bạo lực. Có lẽ cả hai đã được những người đương thời vẽ lên một cách ảm đạm như nhau, vì đã lỗi phận bề tôi và đạo trung với vua, những nền tảng của đạo đức Nho gia. Nhưng với Nguyễn Dữ, hình ảnh Hồ Quý Ly trước hết mang ý nghĩa phúng dụ.

Đọc cả hai truyện ta thấy rằng không phải tất cả những lời kết tội nhà Mạc đều được ông bộc bạch như đã giả định.

Và đây lời ông tiều ẩn dật của Nguyễn Dữ nói về một nhà vua: Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được ! Kẻ dâng lời ngay thì bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng(25).

Nhưng nhà Mạc không xây lâu đài tráng lệ, mà dựng nên cái thiết thân cho họ.

Còn đây là lời về kẻ khác (cũng nói đến một vị vua): Xây phủ đệ thì rừng núi [các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang] không còn cây để lấp nguồn dục vọng, đòi mắm muối thì sông biển [các vùng Nghệ An, Yên Bang] không còn cá mà nhét miệng đói thèm(26).

Điều đó không đúng [với phê phán của Nguyễn Dữ] sao ?

Ông tiều ẩn lại nói: Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết... phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích, thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau, chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả.(27)

Hãy nghe tiếp một giọng nói nữa, thoá mạ một vì vua khác: ... Bọn ngoại thích được tin dùng [mà phường đuôi chó] ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ [mà kẻ đầu cá] ẩn nấp nẻo xa. Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khóa từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, [bạo ngược ngang với Tần Chính]. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác [ngạo mạn quá cả Ngụy Oanh].(28)

Sao lại tương hợp [với lời của Nguyễn Dữ] đến vậy?

Chúng ta mở ra điều bí mật: việc những nhân vật có thật, những triều thần Nguyễn Dục và Lương Đắc Bằng vạch mặt vua Lê Uy Mục đã khiến Nguyễn Dữ dựng nên đối thoại giữa những nhân vật hư cấu trong truyện.

Hồ xử sĩ trong truyện của Nguyễn Dữ, sau khi phỉ báng Hồ Quý Ly, đã nói về những cuộc khởi nghĩa, nổi loạn và binh biến. Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa và binh biến đều diễn ra chủ yếu vào phần tư đầu thế kỷ XVI, khi các vua Lê cầm quyền chứ không phải họ nhà Mạc.(29)

(...) Thế có nghĩa là, không phải chỉ họ Mạc và vương triều của họ trở thành đối tượng tố cáo của Nguyễn Dữ, ông đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình, không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam.

Cần mở ngoặc là Nguyễn Dữ hướng trực tiếp đến việc chuyển hóa các sự kiện văn chương mà độc giả đã biết.

Một trong những nhân vật ở truyện Kim Hoa thi thoại [Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa] là thi bá và đại thần Sái Thuận. Nếu Nguyễn Dữ viết về tập sách của Sái Thuận, ông không thể không biết rằng sau cái chết của nhà thơ, con trai ông là Sái Khác và học trò Đỗ Chính Mô (người đề tựa) đã sưu tập sách. Cả hai là người cùng thời với Nguyễn Dữ. Nhưng nhà văn đã dựng nên một người tập thành bộ sách, qua nhân vật hư cấu - thư sinh Mao Tử Biên, bởi điều đó tạo ra không gian to lớn cho ý đồ của tác giả.

Những sự kiện lịch sử trước hết đối với Nguyễn Dữ là cơ sở để trình bày đánh giá riêng của mình, những đánh giá không giả dối và nghiêm khắc, về con người và sự biến. Tập sách của ông nổi bật trong văn chương đương thời vì tính sắc xảo xã hội của nó.

Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi đến những kẻ cơ hội lời cảnh báo tiên tri. Hãy nhớ lại vần thơ của ông:

Triều thị tứ nhĩ thi,
Ô diên khiết nhĩ nhục,

(Phơi xác mi ở chốn triều thị,
Quạ và diều rỉa thịt mi)(30)

Nguyễn Dữ lên án và thể hiện phẫn nộ của mình bằng một hình thức mang tính truyền thống, nhưng cụ thể hơn, qua lối kết án hợp pháp. Ví dụ điển hình nhất cho điều này biểu hiện ở “Lý Tướng quân truyện” [Chuyện Lý tướng quân].

Theo cách đó, có lẽ Nguyễn Dữ đã mơ ước về thắng lợi của chính nghĩa nơi cuộc sống trần thế. Nếu 5 trong số 20 câu chuyện của ông có những cảnh kiện tụng, cáo giác, cho dù trên trời, dưới đất, hay trong lòng nước,(31) nhưng sinh linh vẫn bị trừng phạt vì gây tội ác giữa chốn sinh linh.

Ông là con người của thời đại mình, được giáo dục theo tinh thần Nho giáo và được đào tạo theo những qui tắc nghiêm nhặt về quan hệ nhân quần, trong đó căn bản là phụ thuộc và phục tùng (phụ tử, huynh đệ, quân thần), tuân thủ theo điều nhân và trí. Nền giáo dục truyền thống mà ông tiếp thu được xây dựng trên sự trọng vọng “thiên tư”, sùng kính trước di huấn của Khổng Tử, trước sự uyên bác tôn quy và thông tuệ, cần thiết để gây dựng nền tảng “chính đạo”. Nhưng những luật định bao quanh đời ông đã bị vi phạm và bội phản quá đỗi, và đấy có lẽ là một trong những nguyên nhân của xung đột bi kịch giữa nhà văn và thực tại của ông khi ấy.

Hãy nói đến lòng trung thực của Nguyễn Dữ. Ông đã không cố gắng dung hợp những lý tưởng đạo đức của mình với các giá trị lớn nhỏ của các vị chủ nhân thế tục. Một khi đã rời bỏ công quyền, ông không nghĩ đến việc trở lại, mặc dù giữa buổi loạn ly, nhiều người trước đây từ nhiệm nay đã quay ra với thế lực cầm quyền mới, còn những người khác thì ai cũng đều phục vụ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những câu thơ đầy tính biểu tượng:

Nhân xảo, ngã độc chuyết,
Thùy tri chuyết giả đức ?

(Người xảo mà riêng ta thì vụng,
Ai biết vụng là đức ?)(32)

Những dòng này có thể quan hệ đến điều căn bản không nhỏ, thậm chí là to lớn đối với tác giả, và đối với cả Nguyễn Dữ. Đức tốt của ông đã bị người đương thời xem là “vụng dại” do hờ hững với lợi quyền thế gian.

Trong khi đó thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lên án những kẻ cơ hội và nhà vua, từ bỏ không chút đoái hoài đến chốn đô thị lao xao. ở làng Trung Am của mình (tại Hải Dương), ông dựng nhà, mà ít lâu sau được gọi là “am” (Bạch Vân Am) theo truyền thống, xây cầu, lập quán để tiện ngao du(33). Thưởng ngoạn danh thắng, ông chống gậy dạo chơi(34), có lúc cùng sư trụ trì địa phương bơi thuyền, làm thơ trên biển (tựa như Từ Thức trong chuyện của Nguyễn Dữ)(35). Thỉnh thoảng ông đi thăm sư tăng(36). Ông tiếp sứ của cả hai triều - họ Mạc chiếm cứ kinh đô và họ Lê được lập nên ở nam Thanh Hoa(37). Nhà Mạc đã ban thưởng cho ông vàng bạc, báu vật, và lụa là, nhưng không khẳng định trong thơ rằng ông chẳng cần những tặng phẩm trân quý nọ, và thường trả lại họ tức thì(38). Thỉnh thoảng Nguyễn Bỉnh Khiêm ghé về thăm Kinh đô và cũng có lúc họ Mạc đến thăm ông ở Hải Dương. Học trò của ông cũng phục vụ trong cả hai triều.

Cố nhiên, điều đó chẳng thể nào làm giảm giá trị sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng cái “vụng dại” của Nguyễn Dữ lại vẹn toàn hơn trong sự đơn sơ.

Tài năng thời đó đã trở thành tai vạ. Biết bao văn gia (trong đấy có cả những bậc thầy của “Tao Đàn nhị thập bát tú”) bị giết, hoặc kết liễu đời mình sau những chính biến cung đình(39) ! Hãy nhớ lại số phận của kiến trúc sư nổi tiếng Vũ Như Tô(40). Ông đã xây cho vua Lê Tương Dự Đại Sạn điện trăm nóc với tòa tháp tuyệt đẹp, với hồ nước có thuyền lượn lờ, và còn khởi công dựng Cửu Trùng đài to lớn gấp bội(41). Nhưng Lê Tương Dực, người đưa đất nước vào cảnh đói nghèo, đã bị những người nổi dậy giết chết; họ cũng giết cả người kiến trúc sư của vua, rồi ném xác ra cổng thành. Người qua đường nhổ nước bọt vào thi thể của Vũ Như Tô, xem người nghệ sĩ chết thảm thương như kẻ gây tai họa cho họ(42).

Thật đáng ngạc nhiên là từ chất liệu của thời xa xưa nọ, Nguyễn Dữ đã truyền đạt được đặc điểm bi kịch thảm đạm của thời đại mình. Có lẽ, vì Nguyễn Dữ luôn lựa chọn trong quá khứ những sự kiện phù hợp với những tháng ngày khó khăn và căng thẳng mà chính ông đã sống. Chúng ta sẽ không tìm thấy miêu tả chiến trận và giao tranh nơi ông; ông quan tâm đến điều khác - hậu quả “nhân tính” của các sự kiện. Nói chung, cảm nhận sâu sắc về mối quan tâm đến cá nhân con người và đặc sắc trong tính cách của nó được ghi nhận không chỉ trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ, mà còn trong cả nghệ thuật hội họa. Chúng ta nhớ lại những bức tượng thời nhà Mạc, nơi những hình tượng tiêu chuẩn mang tính truyền thống đã nhường chỗ cho những hình tượng xây dựng trên hiểu biết tự nhiên và khái quát nghệ thuật(43).

Đặc trưng chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Dữ là tính biểu cảm. Và thậm chí khi tình cảm của các nhân vật không phù hợp với những thiết chế đạo đức mà tác giả bảo vệ, thì chân lý nghệ thuật hoàn toàn không phải lúc nào cũng ở vào hàng cuối. Tính trữ tình và thi vị trong các câu chuyện của Nguyễn Dữ gợi nhớ những tác phẩm của bậc tiền bối nổi tiếng Lê Thánh Tông, dù các tính chất này trong truyện của Nguyễn Dữ có phần ít hơn, những lại “trần thế” hơn về phong cách. Sự giống nhau trong việc thể hiện yếu tố thần tiên, “kỳ diệu” đã làm cho văn của Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ gần nhau hơn. Trong số những tác phẩm của nền văn chương Việt Nam thời trung đại còn lại đến nay, nếu ở Việt điện u linh (Bài tựa năm 1329) của Lý Tế Xuyên, nhiệm vụ của tác giả, theo đúng nghĩa, là miêu tả những sự kiện kỳ diệu, đặc biệt liên quan đến nền tảng lịch sử xác định và thiết yếu, khắc sâu vào trí nhớ hậu thế; còn tập sách thứ hai - Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú (Lời bạt ghi năm 1439) được xây dựng chủ yếu trên việc ghi chép chuyện truyền khẩu xưa, trong đó những điều huyền bí ắt phải có, và thỉnh thoảng lại là yếu tố chính của chủ đề, thậm chí của những biến thái không tránh khỏi. Riêng ở sáng tác của Lê Thánh Tông, điều huyền bí dường như đã trở thành yếu tố của trần thuật, được sáng tạo bởi chính tác giả, người định đoạt vị trí và vai trò của cái “huyền bí” trong việc phát triển hành động. Hơn thế nữa, chính Lê Thánh Tông với tính giản dị tự nhiên của một ông vua chân chính xuất hiện như một nhân vật đặc biệt trên những trang viết trong các tiểu thuyết của mình.

Tất nhiên, việc tham gia trực tiếp vào “chuyện” huyền bí của chính nhà vua, mà cuộc đời và hoạt động của ông đã được xác lập qua biên niên sử nói chung, diễn ra “nhãn tiền” với các bậc “thức giả” - văn nhân trí thức, đại thần, quan viên, cùng độc giả của ông - tất yếu dẫn đến việc tiếp nhận những điều kì bí hiển nhiên không thực này như một thủ pháp văn học, xác nhận vẻ đẹp và sự tinh tế trong chủ ý tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà ở bài tựa của mình, Lê Thánh Tông đã gọi những người hay bắt bẻ tính bất khả tín của những điều kì bí là những kẻ đầu óc hạn hẹp, chỉ “ngồi đáy giếng, không đủ bàn đến những vật trong bầu trời rộng lớn” (44).

Chúng ta còn thấy “ý tưởng” huyền bí tương tự nọ ở truyện của Nguyễn Dữ, trong đó thần linh và người nhà trời tồn tại theo cùng thước đo với người, hành động phù hợp với phong tục và luật lệ “nhân gian”, dù họ thuộc về một cõi khác, song vẫn nặng ái dục trần thế. Cần nhớ rằng ranh giới giữa những ý niệm về cái kỳ và cái thực của thời kỳ đó được tiếp nhận hoàn toàn không như hiện nay. Và chúng ta không ngạc nhiên, khi đọc biên niên sử năm 1514 (Nguyễn Dữ khi đó có lẽ còn đang ở kinh), biết rằng xuân năm ấy nước sông kinh đô trào dâng, đầy những rắn rết, và vua phải điều quân ra sông phất cờ, nổ pháo, gióng trống đuổi xua các loài thủy quái(45).

Hẳn là khi viết sách, Nguyễn Dữ luôn hướng đến sáng tạo của nhân dân. Ông nghe những người kể chuyện - những người không hề mệt mỏi tưởng tượng ra các điều kỳ lạ, cùng xem biểu diễn rối của gánh hát rong. Ông chẳng phải đi đâu xa để tìm những “điều kỳ diệu lớn lao”. Ngay cạnh đấy, cùng trong huyện, ở chùa Quang Minh nổi tiếng có nhà sư hóa thân thành Hoàng đế Trung Hoa. Còn ở đền làng Hạ Bì, dân thờ một người buôn tôm mực, nhân nuốt lông trâu lạ mà thành tráng sĩ, có thể ở dưới nước bao lâu tùy ý, đục thủng được nhiều thuyền giặc trong chiến tranh(46).

Và chiều chiều, nơi đình làng, có thể nghe chuyện trò khoan nhặt của thợ cày, thợ săn, dân chài, vốn từng chứng kiến những điều kì lạ của đất đai, rừng rậm, và sông nước. Hay ở những vùng quê nổi tiếng lại có thể thấy được nhiều điều kỳ thú. Huyện Trường Tân nổi tiếng với mít và dưa hấu đặc sản, tôm cua, và mắm tôm ngon. ở đấy người ta nuôi dâu tằm, đan giỏ, hộp bằng song mây, làm nhang hương. Trong huyện có thợ rèn, thợ mộc khéo tay(47). Quan trọng là tại đây còn có làng Hồng Liễu nổi tiếng. Một người dân làng là nhà thơ, nhà bác học Lương Như Học (thế kỷ XV), khi đi sứ Trung Quốc, đã học được ở đó nghề in sách, khắc bản gỗ và về dạy lại cho dân làng. Từ đó Hồng Liễu in sách và phân phối đi khắp nước(48)... Từ Kinh đô có đường lớn xuyên qua Hải Dương, và thuyền buôn vào được trong sông ngòi...

Quả vậy, Nguyễn Dữ đã có thể nói về chính mình qua lời nhân vật của ông – tiều ẩn, rằng tuy không ở thị thành và không lui tới cung đình, phủ trị, nhưng lao động của dân, việc làm của vua thì hết thảy ông đều rõ. Sự am tường này đã kết hợp với cái nhìn thi vị về thế giới nơi ông. Tài năng xuất chúng và năng lực thi ca - cũng là nét tương đồng trong các tác phẩm của Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ. Chúng ta muốn nói đến sự giống nhau trong phương cách sáng tạo, chứ không phải những vần thơ tăng phần hoa mỹ cho văn xuôi của họ, dù thơ của Nguyễn Dữ nhiều khi cũng gần với thi ca của Lê Thánh Tông bởi sự hoàn hảo về hình thức, tính du dương và niềm cảm xúc sâu lắng. Những thành tựu của thi ca Việt Nam thời ấy không thể không ảnh hưởng đến sự phát triển của văn xuôi. Việc khẳng định tiếng Việt như tiếng nói của thi ca dân tộc, đã làm phong phú thêm những phương tiện biểu cảm, thổi sức sống mới vào những hình thức truyền thống. Và điều này đã thể hiện trong chất lượng của văn xuôi, dù nó được viết bằng Hán văn; hơn nữa bên cạnh nó đã xuất hiện văn xuôi tiếng Việt, như gặp ở Lê Thánh Tông(49).

Điều không phải tranh cãi là có sự giống nhau rõ ràng giữa tiểu thuyết Trung Quốc trung đại và các truyện của Nguyễn Dữ. Song điều ấy hoàn toàn không dẫn đến sự vay mượn giản đơn về chủ đề và hình tượng. Hãy xem Túy Tiêu truyện [Chuyện nàng Túy Tiêu], một trong những truyện hay nhất trong tập sách của Nguyễn Dữ. ở nhân vật nữ này có những đặc tính gợi nhớ các nhân vật trong tiểu thuyết đời Đường (sắc, tài, chung thủy trong tình yêu). Nhân vật này cũng có cái gì đó gần gũi với những hình tượng phụ nữ trong truyện của Lê Thánh Tông. ở cuối chuyện, người yêu Túy Tiêu là thi sĩ Dư Nhận Chi thi đỗ, và tất nhiên, giữ một chức quan trọng yếu(50). Nhưng trong lịch sử Việt Nam (mà Nguyễn Dữ biết rất rõ) có những trường hợp như ca kỹ trở thành Hoàng hậu, hay cận thần cưỡng đoạt nữ ca nhân vốn là vợ người. Nhuận Chi với một số cá tính của mình gợi nhớ nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Liễu Vĩnh(51), một người đậm chất dân gian, người được Hoàng đế mệnh danh là “bạch y khanh tướng”(52). Tựa như Liễu Vĩnh, chàng sáng tác cho ca kỹ và nổi danh ở kinh thành. Cũng tựa Liễu vĩnh, chỉ đến khi đứng tuổi chàng mới ứng thí và khổ đau vì sự hiểm độc của triều quan. Và tình cảm của Nhuận Chi với Túy Tiêu cũng cao thượng như tình yêu của Liễu Vĩnh với ca nương tên gọi Ngọc Anh(53). Thế đấy, nhưng ở Nguyễn Dữ đã có một nguyên mẫu khác cho Nhuận Chi - một người cùng thời với ông là nhà thơ Việt Nam Lê Đức Mao, người cũng phải chịu đựng không ít trong vòng xoáy khổ đau, viết những khúc ca tuyệt vời, và đến năm 42 tuổi (vào năm 1504) mới qua hết được các vòng thi(54). Nếu muốn, còn có thể tìm thấy sự giống nhau giữa người hầu già của Nhuận Chi và người “nô lệ” trong các tiểu thuyết đời Đường, người giúp kết nối những đôi tình nhân (nhân vật này cũng được nhắc đến trong câu chuyện của Nguyễn Dữ)(55). Nhưng người hầu Việt Nam không cần đến sức mạnh ma thuật, mà là sức mạnh nhân gian thuần túy, và nói chung, nhắc nhớ người hầu trong sân khấu dân gian là chú “tễu” mà thời Nguyễn Dữ đã có.

Ảnh hưởng rõ ràng của các đề tài Trung Quốc còn có thể thấy trong Nam Xương nữ tử lục [Chuyện người con gái Nam Xương](56). Song hãy nhớ rằng, nói chung, tác giả có thể chẳng cần đến sách vở ngoại bang: khi đến Hoàng giang, Lê Thánh Tông có hai bài thơ thương xót số phận đau buồn của “Vũ nương”, tức nhân vật trong truyện của Nguyễn Dữ. “Địa lý” tập sách của Nguyễn Dữ gắn bó với sáng tác của Lê Thánh Tông và nhiều tác giả Việt Nam trung đại khác: ông bố trí hành động chuyện của mình ở những nơi mà vẻ đẹp và vinh quang xa xưa đã được các lớp tiền bối ca ngợi, và như vậy khiến người đọc dễ nhận biết...

Thiết nghĩ, những hình tượng mà Nguyễn Dữ lựa chọn từ di sản to lớn của tiểu thuyết Trung Quốc cho tập sách của ông cần được truy nguyên trước hết trong số văn phẩm của các tác giả cận thời với ông, và người đầu tiên có thể là nhà văn đời Minh - Cù Hựu với Tiễn đăng tân thoại, ra đời năm 1378.

Ảnh hưởng của thi ca và văn xuôi Trung Quốc đối với văn học cổ Việt Nam rất rõ, và sự tiếp xúc với kho tàng văn hóa Trung Quốc đã tác động đến việc hình thành nền văn hóa Việt Nam nói chung, bao gồm cả văn chương Việt Nam. Những trong vấn đề cần đặc biệt nghiên cứu này có một cực đoan nguy hiểm: một số nhà Đông phương học nước ngoài tuyên bố Việt Nam là một “tỉnh thành tinh thần” của Trung Quốc đã rơi vào thái cực này.

Chính người Việt thời trung đại cũng đã thấy rõ sự khác nhau giữa việc tiếp thu thông minh những hình tượng đẹp nhất của văn chương Trung Quốc và sự bắt chước sách vở của người khác một cách mù quáng, thiếu trí tuệ (nhân tiện, cần nói là ông [Nguyễn Dữ] đã hấp thu học vấn Nho giáo). Dẫu sao cũng cần nhớ rằng Hồ Quý Ly, một trong những người học thức nhất thời ấy, vào năm 1402, khi phê duyệt kiến nghị của một đại thần vốn chuộng trích dẫn văn vẻ từ các tác gia Trung Quốc, đã nhận xét “Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán Đường, thực là thằng ngọng hay nói, chỉ chuốc lấy tiếng cười thôi”(57). Gần trăm năm sau, nhà bác học và nhà văn trứ danh Hoàng Đức Lương [Tiến sĩ năm 1478], khi sưu tập Trích diễm thi tập đã đau xót mà rằng, “Than ôi ! Há có một nước văn hiến, dựng nước đã mấy nghìn năm, thế mà không có lấy một chút sách vở gì làm bằng, đến nỗi phải quay lại đọc sách của các tác gia đời Đường...”(58).

Nhà thơ khả kính Hoàng Đức Lương cho rằng, sách vở mất mát tựa như bởi người không thực yêu quý chúng: hỡi ôi! ai ai cũng đều thưởng thức được cao lương mỹ vị, hay vẻ đẹp của gấm vóc lụa là, nhưng không phải ai cũng cảm nhận được vẻ trác tuyệt của thi ca. Ông thấy rằng, tác phẩm của thi nhân hầu như thất tán, mà hợp tuyển lại không được quy tập và ký lục, bởi lẽ những bậc trí giả còn bận chuyện công danh(59).

Trong số những “trích diễm” được Hoàng Đức Lương tập hợp, chúng ta hẳn không thể tìm được mấy dòng đáng lưu ý sau: “Tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh chữ, hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại”(60). Tuy nhiên, cũng có thể giải thích nhiều hơn về việc sách vở tán thất, bởi “xứ ấy” là Việt Nam, và đoạn trích dẫn trên là từ sắc lệnh năm 1407 của Minh Thành Tổ, cứ như thể quan ngại đến việc thiết lập pháp chế và trật tự mà đưa quân sang đất Việt61. Mười hai năm sau, bằng một sắc lệnh mới, hoàng đế đã lấy đi khỏi Việt Nam những thư tịch, ký lục, tài liệu giá trị nhất để đưa về Trung Quốc. Trong danh sách đó, bên cạnh những bộ sử biên niên và luận văn về nghệ thuật quân sự, là những tập thơ và cả văn tập Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên(62).

Khi chiến đấu với kẻ thù, người Việt Nam không chỉ bảo vệ mảnh đất thân yêu và tương lai con cháu mình, mà còn gìn giữ bản sắc tinh thần, sáng tạo văn chương và nghệ thuật mà họ có quyền tự hào.

Chúng ta cảm nhận được niềm tự hào này, khi đọc Kim Hoa thi thoại của Nguyễn Dữ, trong đó ông đánh giá cao những áng thi ca của đồng bào mình, trước hết là tôn vinh nhà thơ vĩ đại Nguyễn Trãi(63) và Lê Thánh Tông...

Trừ một truyện, tất cả các truyện còn lại của Nguyễn Dữ đều kết thúc bằng những lời khuyên giới, thường không thấy trong tiểu thuyết Trung Quốc(64). Thủ pháp này có lẽ được mượn từ những chuyện lịch sử tìm thấy trong tiểu thuyết của Lê Thánh Tông, ở đó, trong đại đa số trường hợp, Sơn Nam Thúc (tức Lê Thanh Tông) đã tổng luận truyện theo quan điểm đạo đức Nho giáo. Những lời khuyên giới ở đây như tiếp tục trực tiếp ý đồ tác giả, và chúng ta có cơ sở để phỏng đoán rằng ẩn dưới bút danh nọ chính là nhà vua(65). Nhưng nếu so sánh lời khuyên giới với các truyện trong sách của Nguyễn Dữ sẽ nhận ra sự tính chất bất đồng giữa chúng. Hãy xét Na Sơn tiều đối lục. Việc chính yếu ở đấy là cuộc tranh chấp giữa ông tiều ẩn và một triều quan, thuyết phục ông ta phụng sự. Nhưng ông đã từ chối phục vụ vị vua không xứng đáng nọ. Tình cảm của tác giả gần như hoàn toàn đứng về phía người tiều phu. Rồi bỗng nhiên chúng ta đọc được trong lời khuyên giới, thấy rằng bản thân ông tiều cũng không phải là bậc toàn thiện và thậm chí, vua chúa thông tuệ và chính trực không nhất thiết phải quan hệ với ẩn sĩ(66)! Trong Túy Tiêu truyện, tác giả với niềm cảm xúc sâu sắc, đã miêu tả cuộc phiêu lưu đoạn trường của Túy Tiêu và người yêu của nàng – thi nhân Dư Nhuận Chi, để cuối cùng dẫn họ đến đoàn viên hạnh phúc. Rõ ràng, với thiện tâm, ông đã chỉ ra vẻ đẹp và nét cao thượng trong tình yêu của họ; ông viết về Nhuận Chi như một nhà thơ tài hoa, người thành đạt trên đường khoa cử chốn kinh thành. Thế nhưng, lời khuyên giới lại bảo rằng Túy Tiêu là ả chắp nối, không xứng với tình yêu, còn Nhuận Chi là kẻ tăm tối và viễn vông!(67) Những mâu thuẫn tương tự rất nhiều. Những lời khuyên giới thấm nhuần tinh thần không khoan nhượng Nho giáo, chí ít, luôn xuất hiện trong các truyện.

Bất giác nảy ra suy nghĩ rằng, cuối cùng những lời khuyên giới được viết không để làm sáng tỏ chủ định tác giả, mà để với hướng nó vào vùng sáng hữu hiệu nhất theo quan điểm Nho giáo. Nhưng để làm gì ?... Trong lời khuyên giới ở Phạm Tử Hư du thiên tào lục [Chuyện Phạm Tư Hư lên chơi thiên tào] có những lời rất ý nghĩa, cho rằng nếu văn tập phù hợp với những quy định và luật lệ (qui định và luật lệ Nho giáo !), “thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu”(68). Nói cách khác, chỉ trong một trường hợp nhất định sách mới được xem là có đời sống trường tồn, còn nếu khác đi, nó sẽ có nguy cơ bị đào thải. Phải chăng những lời khuyên giới “giáo điều” khi đó cần thiết để cứu cuốn sách của Nguyễn Dữ ? Ai đã cố gắng làm điều đó - phải chăng là chính tác giả ? Chưa chắc gì... Ông không thích vinh quang và chẳng muốn có điều đó. Phải chăng bằng hữu, hoặc độc giả tài hoa của ông muốn bảo vệ để truyện khỏi mai một ? Hay những lời khuyên giới thoát ra từ ngọn bút của người chép truyện ? Có thể sưu khảo mới sẽ trả lời những câu hỏi này...(69)

Xưa, có lần Lê Thánh Tông đã nói về nhà văn: “Giấy làm ruộng, bút làm cày”(70). Nguyễn Dữ đã cày trên mảnh đất màu mỡ và gieo vào đó hạt giống tốt nhất của mình, mà trái ngọt của nó chính chúng ta, những hậu thế xa xôi của ông, đang tận hưởng.

Trương Văn Vĩ và Nguyễn Nam (dịch).
Nguyễn Nam (hiệu đính và chú giải).

CHÚ THÍCH:

(1) Dịch từ nguyên bản tiếng Nga của M. Ткачев: МасTер рукоTворных чудес из кpая СвеTлоrо мoря. trong Нгуен Зы, ПросTранные записи рассказов об удивиTелъном, Художеcтвенная литература, Mocквa, 1974, tr.173-194. Toàn bộ chú giải là của người hiệu chú. TS. Ngô Như Bình (Đại Học Havard, Hoa Kỳ) và một thân hữu của ông đã giúp sao chụp nguyên bản Nga văn. Nhân đây xin chân thành cảm ơn.

(2) Trong bài Mấy vấn đề nghiên cứu và giới thiệu văn học Việt Nam ở Liên Xô, N. I. Niculin có một số nhận xét về bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Tkachov. Niculin viết: “Trong bản dịch người ta cảm thấy có xu hướng muốn tránh mọi sự nặng nề về phong cách... Bản dịch của M. Tkachov tuy không tránh khỏi một số thiếu sót, song nhìn chung khá đạt, đọc được dễ dàng. Có được như vậy cũng chính là vì Tkachov hay dịch ra tiếng Nga những tên người và địa danh, mà những thứ đó thì vô số và chúng mang một sức nặng quan trọng về ý nghĩa trong những tác phẩm văn xuôi Việt Nam ở giai đoạn đầu. Dịch giả đã làm sáng tỏ khía cạnh nghệ thuật hình tượng của những tên riêng, bởi vì nếu không dịch như vậy thì những tên đó đối với độc giả Liên Xô chỉ là sự kết hợp đơn thuần giữa các âm tiết mà thôi.” (N. I. Niculin: Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, 2000, tr.664-665). Trong khi dịch, chúng tôi đã phục nguyên các địa danh và tựa sách; ví như chuyển địa danh “Vùng biển sáng” thành Hải Dương, “Ghi chép tản mạn những câu chuyện kỳ lạ” thành Truyền kỳ mạn lục, vv.

(3) Chưa rõ Tkachov dựa vào đâu để viết như trên. Bản A.176 (hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm) chép lại từ bản Nguyễn Bính in năm Cảnh Hưng 24 hoàn toàn không có chi tiết này.

(4) Xem Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục. Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, Bùi Kỷ giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1971.

(5) Các bài thơ của Nguyễn Dữ trong Hoàng Việt thi tuyển đều được sao trích từ Truyền kỳ mạn lục.

(6) Bài tựa của Hà Thiện Hán (đề năm 1547) trong bản Cựu biên (1712) viết rằng Nguyễn Dữ “Việt lĩnh Hương tiến, lũy trúng Hội thí trường” (vượt đỗ Hương tiến, nhiều lần trúng thi Hội). Bài tựa này sau được sửa đổi đôi chút, in lại trong các bản Tân biên truyền kỳ mạn lục năm Cảnh Hưng 24 (1763) và Cảnh Hưng 35 (1774). Xem Trần Nghĩa: Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy trong Nghiên cứu Hán Nôm, 2/1984, in lại trong Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000, tr.38-39.

(7) Ngoại trừ việc Nguyễn Dữ trúng kỳ Đệ tam trong nhiều khoa thi Hội, hai điều còn lại đều có ghi trong cả ở Cựu biên lẫn Tân biên. Tkachov hẳn nhiên chưa đọc các bài tựa in của các bản Tân biên 1763 và 1774.

(8) Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam phiên dịch và chú giải, Nxb. KHXH, 1992, tập I, phần “Tiểu sử Phan Huy Chú.”

(9) Trong phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú chép truyện Nguyễn Bỉnh Khiêm trong số các “Nhà Nho có đức nghiệp” đời Mạc, và truyện Phùng Khắc Khoan trong loạt những “Người phò tá có công lao tài đức” thời Lê Trung hưng. Xem Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd., tr.375-378 và 260-261. Nguyễn Dữ không được nhắc đến trong “Nhân vật chí”.

(10) Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Truyền kỳ mạn lục, 4 quyển. Dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại khái bắt chước Tiễn đăng tập của nhà nho đời Nguyên. Tập này cộng 22 truyện. Dữ người ở Đỗ - Tùng, huyện Gia - phúc, con trai của Tiến sĩ Tường Phiêu.” (Sđd., tr.169). Về tổng số truyện trong tập sách, xem Nguyễn Đăng Na. Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện ?” Tạp chí Hán Nôm, 2(5) - 1988, tr.45-49.

(11) Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Bấy giờ học trò ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm] thành đạt rất nhiều, chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cử là có tiếng nhất... Khi Dữ viết quyển Truyền kỳ [mạn] lục được ông sửa chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia.” (Sđd., tr.377). “Học trò” trong trích văn dịch ngữ từ “cập môn chi sĩ” (sĩ tử đến cửa nhà ông). Xem Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon 1974, phụ lục Hán văn, tr.214.

(12) Theo Lê Quý Đôn toàn tập - Tập II: Kiến văn tiểu lục. Nxb, KHXH, Hà Nội, 1977, tr.262.

13- Lịch triều hiến chương loại chí: “Nhà Lê khai quốc, trước hết mở khoa thi Hội, những người lấy đỗ đều thỏa mãn sở vọng đương thời. Đến đời Thiệu Bình [niên hiệu Lê Thái Tông, 1434-1440] nối nghiệp, văn vận mở mang, kỳ thi định 3 năm một khoa, phép thi bốn trường khác nhau, phép ấy truyền làm thành qui mãi mãi. Đến cuối đời Quang Thuận [1460-1470], Hồng Đức [1470-1498, cả hai đều là niên hiệu của Lê Thánh Tông], vận nước tươi sáng do khoa mục xuất thân, nhân tài đầy dẫy, đủ cung cho nước dùng. Sách cũng trích bài ký của Nguyễn Văn Thái viết rằng: “từ khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4 về sau, mới định 3 năm một khoa, theo như hội điển nhà Minh, cứ các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương, các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì thi Hội.” (Sđd., tr.149 và 164) .

(14) Đại Nam nhất thống chí viết: “Nguyễn Dữ người huyện Gia Lộc, là con Thượng thư Nguyễn Tường Phiêu, đỗ Hương tiến đời Lê, làm Tri huyện Thanh Tuyền, được mười năm thì từ về nuôi mẹ, không bước chân ra đến thành thị.” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tập 3, tr.446 ). Đáng chú ý là thời gian tại nhiệm của Nguyễn Dữ được ghi khá dài (mười năm), khác với thời gian một năm ngắn ngủi chép trong các bài tựa ở Cựu biên và Tân biên và trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.

(15) Sử thần Vũ Quỳnh (1478-1516) xưng tụng công nghiệp của Lê Thánh Tông như sau, “Quy mô xếp đặt, công nghiệp Trung hưng, có thể sánh vai với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy.” (Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, Tập II, tr.520).

(16) Theo Bùi Văn Nguyên trong Lê Thánh Tông - Tao Đàn nguyên súy (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1991): “Riêng về điều luật, từ những năm đầu niên hiệu Quang Thuận, nhà vua vừa duy trì các điều luật Hình và Hộ có trước, vừa ban hành một số điều luật bổ sung,... Nét nổi bật trong điều luật về đời Hồng Đức... là phần nào quyền sinh sống của người dân tự do được bảo đảm” và “Đặc biệt, nhà vua [Lê Thánh Tông] chú trọng đến cương vực lãnh thổ và lịch sử nước nhà... Dưới niên hiệu Quang Thuận nhà vua giao cho một số văn thần thu nhập những tư liệu từng địa phương để chuẩn bị lập bản đồ cả nước. Đến năm Hồng Đức thứ 7 (1476) nhà vua đề ra hai việc quan trọng: Thứ nhất: Định lại bản đồ trong nước. Thứ hai: Viết Đại Việt sử ký tục biên” (tr.150 và 151).

(17) Tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 (Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993) cho biết, Nguyễn Tường Phiêu đỗ “Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến Thừa chính sứ. Sau khi mất, được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần”. (tr.242). Lịch triều hiến chương loại chí cho biết, “Năm thứ 27 [1496], hội thí các Cử nhân. Tháng 3, vua thân ngự coi thi ở sân điện Kính- thiên, ra văn sách hỏi về đạo trị nước... Ngày 26 cho dẫn các cử nhân vào sân điện Kim - loan, vua xem dung mạo, định lấy đỗ 30 người. ngày 27, Vua ngự chính điện, xướng danh, cho đỗ cập đệ và xuất thân theo bực khác nhau. Đến tháng 12 lập bia đề tên.” (Sđd., tr.161).

(18) Bộ Lược truyện các tác gia Việt Nam gồm 2 tập; tập I, hoàn thành năm 1962, tập II, biên soạn xong năm 1972. Xem Trần Văn Giáp (Chủ biên). Lược truyện các tác gia Việt Nam, in lần thứ 3, Nxb. Văn Học, 2000.

(19) Có lẽ Tkachov muốn nói đến truyện Trà đồng giáng đản lục (Chuyện gã trà đồng giáng sinh) và Đào Thị nghiệp oan ký (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị).

(20) Đây là một phỏng đoán chính xác. Bài tựa của Hà Thiện Hán viết, “Công tiền triều Tiến sĩ Tường Phiêu chi trưởng tử dã” (Ông [Nguyễn Dữ ] là con cả Tiến sĩ triều trước [Nguyễn] Tường Phiêu). Xem Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ mạn lục, Trần Khánh Hạo và Vương Tam Khánh chủ biên, Pháp quốc Viễn Đông học viện và Đài Loan học sinh thư cục, 1987, tr.9.

(21) Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), vua Lê Thánh Tông “gia lệnh chỉ cho các thí sinh trong nước, không cứ là dân hay lính, hạn tới thượng tuần năm nay đến nhà giám hay đạo sở tại khai tên và căn cước đợi thi hương... Cho quan sở tại và xã trưởng xã mình làm giấy bảo đảm rằng người ấy thực là có đức hạnh thì mới được vào danh sách dự thi. Kẻ nào vào loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa... thì dẫu học giỏi văn thơ hay, cũng không cho vào thi. Phép thi như sau: Thí sinh phải nộp căn cước, khai rõ phủ, huyện, xã, tuổi tác cùng là chuyên học kinh nào, lý lịch cha ông ra sao, không được gian dối, giả mạo [ ; ] Nhà phường chèo, con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu, thì bản thân và con cháu đều không được dự thi.” (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập II, tr.396). Lại theo Lịch triều hiến chương loại chí, “Năm thứ 4 [1501], sắc định cách thi hành công việc về thi hương: Đến khoa thi, xã trưởng các xứ làm giấy đoan bảo học trò trong xã mình, trừ những người Tú lâm [Sinh đồ ở Tú lâm cục], còn quân sắc, nhân dân, quả là con nhà lương thiện có hạnh kiểm học vấn, viết nổi văn bốn trường, đều cho làm giấy đoan bảo.” (Sđd., tr.162).

(22) Không rõ Tkachov muốn chỉ ai. Ngoài Nguyễn Dữ những môn sinh thường được nhắc đến là Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thì Cử, Nguyễn Quyện, Đinh Thì Trung, và Giáp Hải. Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) đỗ Tiến sĩ năm 1580. Lương Hữu Khánh và Giáp Hải (1506 - 1581) cùng ứng thí vào năm 1538 (về việc Giáp Hải có phải là môn sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay không, xem Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1997, tr.35, chú thích 30; cũng xem Nguyễn Huyền Anh. Việt Nam danh nhân từ điển, Khai Trí, Saigon 1967, tr.178-179). Tương truyền bài “Môn sinh tế Tuyết Giang Phu Tử văn” do Đinh Thì Trung soạn và được Trương Thì Cử đọc trước linh cữu tôn sư Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cả hai ông đều đỗ Tiến sĩ dưới thời Lê Trung hưng (xem Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao, Hà Nội, 1991, tr.319). Nguyễn Quyện làm quan đến chức Thừa tướng thượng tể dưới triều nhà Mạc (Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, như trên). Trong bài Bạch Vân Am Cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phả ký Công dư tiệp ký có đoạn viết: “Năm Quang Thiệu (1516 - 1526) gặp lúc loạn lạc, ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng...”. Năm 1542, sau khi thất bại trong việc dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng thần, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, về lập quán Trung Tân, am Bạch Vân, mở trường dạy học (xem Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa, như trên, tr.327 và 371).

(23) Trong truyện, Ngô Chi Lan phu nhân nói: “Tôi nhờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại nhớ đức Hiến Tông, nghĩa kết vua tôi, nhưng tình thật như cha con vậy...” theo Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Trúc - Khê Ngô Văn Triện dịch, Nxb. Tân Việt, 1952, tr.249. Tất cả các trích dẫn Truyền kỳ mạn lục trong bản dịch đều theo sách này.

(24) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1516, Thuần Mỹ điện giám Trần Cảo nghe lời sấm truyền rằng phương đông có vượng khí thiên tử, bèn trá xưng là cháu chắt của Trần Thái Tông, dẫn quân ở huyện Thủy Đường và Đông Triều (trấn Hải Dương). Cảo mặc áo đen, xưng là Đế Thích giáng sinh, tiếm xưng niên hiệu Thiên ứng. Quân sĩ đều cạo trọc. Ngày 11 tháng 4, Cảo lấy được kinh thành. Ngày 23, Cảo thất thủ, mở cửa thành, vượt sông Thiên Đức, đào thoát lên Lạng Sơn. Cảo lấy sông Nguyệt làm ranh giới, truyền ngôi cho con là Cung, tiếm hiệu Tuyên Hòa (Sđd., tập III, tr.74-80).

(25) Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.161. Dẫn văn từ Na Sơn tiều đối lục, phê phán Hồ Hán Thương.

(26) Dẫn văn từ Hồng Thuận Trung hưng ký của Nguyễn Dục. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập III, tr.50. Đối tượng phê phán là Lê Uy Mục (1488 - 1509).

(27) Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.162.

(28) Bài hịch dụ đại thần và các quan do Lương Đắc Bằng (thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm) viết, kêu gọi lật đổ Lê Uy Mục. Phường đuôi chó: ý chỉ kẻ hèn hạ được thăng quan; kẻ đầu cá: chỉ quan viên chính trực; Tần Chính: tức Tần Thủy Hoàng; Ngụy Oanh: tức Lương Huệ Vương thời Chiến Quốc. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd; tập III, tr.48.

(29) Trong truyện Đà Giang dạ âm ký, Hồ xử sĩ nói: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên: Bồng Nga [Chiêm Thành] là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh [Minh triều] là con hổ đói gầm thét ở Tây bắc, Ngô Bệ [làng Trà Hương] ngông cuồng tuy đã tắt, Đường lang [tức Đường lang tử y, Bắc Giang] lấm lét vẫn còn kia...” (Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd., tr.194-195). Tất cả các sự kiện này diễn ra ở triều Trần (Dụ Tông và Phế Đế), cuối thế kỷ XIV.

(30) Trích 2 câu cuối trong bài Tăng thử (Ghét chuột). Xem Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983, tr.303-304.

(31) Năm truyện có việc tố tụng, xử phạt là: Trà đồng giáng đản lục (Chuyện gã Trà đồng giáng sinh), Long Đình đối tụng lụ c (Chuyện đối tụng ở Long cung), Tản Viên từ phán sự lục (Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên), Xương Giang yêu quái lục (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), và Lý tướng quân truyện (Chuyện Lý tướng quân).

(32) Trích từ Hựu thập nhị vận (Lại làm thêm mười hai vần). Xem Nguyễn Khuê: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Sđd., tr.231-233.

(33) Lịch triều hiến chương loại chí: “Khi về làng, ông dựng am Bạch Vân, tự đặt tên hiệu là [Bạch Vân] Cư Sĩ. Lại bắc hai cái cầu Nghinh Xuân, Trường Tân để suốt năm thường thường du ngoạn, nghỉ ngơi và dựng quán Trung Tân trên bến Tuyết Giang.” (Sđd., tập I, tr.376).

(34) Lịch triều hiến chương loại chí: “Ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm] chống gậy, đi dép trèo khắp các núi Yên Sơn, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn. Đến đâu thích ý thì ngâm vịnh hoặc đi lại nhởn nhơ suốt ngày.” (như trên). Cũng xem bài Trúc trượng (Gậy trúc), trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sđd., tr.280-281.

(35) Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Ông sửa chữa lại chùa thờ Phật, thường dắt sư già đi chơi. Có lúc thả chiếc nhỏ ra biển Đồ Sơn xem đánh cá.” (như trên). Xem thêm bài: Vấn ngư già (Hỏi người đánh cá), Nguyễn Khuê: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập”, Sđd., tr.280-281.

(36) Xem bài Du Phổ Minh tự (Chơi chùa Phổ Minh) và Tự thi (Thơ vịnh chùa), như trên, tr.272-273, và 334-335.

(37) Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Khi Đăng Dung cướp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh Hoa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai người dò tìm, đón vua [Lê Trang Tông] sang nước Ai Lao tôn lập... Mùa xuân, tháng giêng [1533], vua lên ngôi ở Ai Lao...” (Sđd., tập III, tr.119).Về việc các sứ nhà Mạc và Lê đến tham vấn ông, Phan Huy Chú chép: “Ông tuy ở nhà, nhưng vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông . Có lúc triệu ông về kinh hỏi mưu kế lớn. Nhưng rồi ông lại về am để thỏa chí mình, không thể giữ lại đựơc,” và “Khi Trung Tông nhà Lê chết không con nối, Thế Tổ [Trịnh Kiểm] còn phân vân, bàn với Phùng Khắc Khoan cũng không quyết định, bèn sai ông Khoan mang lễ đến hỏi ông [Nguyễn Bỉnh Khiêm].” (Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd., tập I , tr.376 và 377).

(38) Chưa rõ Tkachov dựa vào những tài liệu nào để cung cấp chi tiết trên. Tham khảo Ngô Đăng Lợi: Mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với vương triều Mạc, và Vũ Đức Phúc: Tư tưởng chính trị và xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm - về tác gia và tác phẩm, Trần Thị Băng Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.84- 94 và 95- 103.

(39) Về danh sách “Tao Đàn nhị thập bát tú”, xem Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu, Nxb. Văn học, 1982, tr.10-13. Nguyễn Quang Bật (đỗ Trạng nguyên 1483) là một trong những “Hàn lâm viện Thị thư” của “Tao Đàn nhị thập bát tú”. Ông cùng Đàm Văn Lễ (đỗ Tiến sĩ năm 1469, cũng có chân trong Hội Tao Đàn) theo di huấn của Lê Hiến Tông, lập Thái tử Thuần kế vị, không nhận của đút lót của Kinh Phi để mưu phế lập. Khi Túc Tông mất (1504), Lê Uy Mục lên ngôi, đem lòng thù oán, biến cả hai làm Thừa Tuyên sứ Quảng Nam (1505). Khi hai ông đến sông lớn huyện Chân Phúc (nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), vua sai người đuổi theo, buộc phải tự tử. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd., tập III, tr.40.

(40) Đại Việt sử ký toàn thư. (Năm 1512) làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây, xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng có người thợ Vũ Như Tô (tức tên Đô Nhạn), ở nhà lấy cây nứa dựng thành kiểu điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dựng lên, khuyên vua xây dựng” (Sđd., tập III, tr.65)

(41) Đại Việt sử ký toàn thư. “Người thợ Vũ Như Tô làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu Trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền Thiên Quang cho mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quanh co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ”. (như trên, tr.74)

(42) Đại Việt sử ký toàn thư. “Bấy giờ (1516), đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị hại, Như Tô cũng bị quăng xác ngoài chợ, quan dân ai cũng chỉ trỏ xác hắn mà chê cười, có người còn nhổ nước bọt” (như trên, tr.76-77)

(43) “Nhà Mạc thay thế nhà Lê vào năm 1527, chấm dứt thời kỳ hoàng kim của ý thức hệ Nho giáo. Con người được tự do hơn, mọi xu hướng mỹ thuật trước kia cũng được “tùy tiện” phát triển... Dưới sự khống chế lỏng lẻo của chính quyền trung ương và sự rạn vỡ của ý thức hệ Nho giáo, trong lãnh vực mỹ thuật, những yếu tố dân gian trỗi dậy mạnh hơn. Một số sinh hoạt của người lao động, những con rồng oằn lưng cho cô gái cưỡi đã thấy ở đình làng”. (Viện Nghệ thuật - (Bộ Văn hóa). Nghệ thuật chạm khắc gỗ Việt Nam qua các bản rập, Hà Nội, 1975, tr.45 và 46).

(44) Thánh Tông di thảo, Nguyễn Bích Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, Nxb. Văn hóa, Viện Văn học, Hà Nội, 1963, tr. 21.

(45) Đại Việt sử ký toàn thư (Tháng 5 năm 1514) nước lũ rất lớn, hồ ao trong thành có rắn lớn xuất hiện đến 20 ngày. Vua sai đốt pháo, mở cờ, đánh trống để dọa nó. Sau 4 tháng rắn mới đi. (Sđd, tập III, tr.72).

(46) Theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Quang Minh ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Xưa, Thiền sư Huyền Chân trụ trì nơi đây, có tiếng là cao tăng trong thiền uyển. Về già, sư nằm mộng thấy Phật Di Đà bảo rằng: “Ngươi có công với Phật giáo đã lâu năm, tấm lòng từ thiện đã được soi xét, kiếp sau sẽ được làm đại đế ở Bắc quốc”. Tỉnh dậy, sư dặn đệ tử lấy son viết vào vai mấy chữ “An Nam quốc Quang Minh tự Sa Việt tì khâu” khi sư siêu tịch. Đệ tử y lời. Sau, Nguyễn Tự Cường phụng mệnh sang sứ Trung Hoa. Minh Thế Tông triệu ông vào, hỏi về chùa Quang Minh, đồng thời cho xem dòng chữ son có tự bẩm sinh trên vai. Thế Tông tin rằng tiền thân mình là sư ở chùa nọ, và tham vấn Tự Cường cách rửa sạch vết chữ. Tự Cường tâu có thể dùng nước giếng nhà chùa để gột rửa. Về nước, Tự Cường tâu lên vua, tìm đến chùa Quang Minh, lấy nước giếng tiến dâng. Quả nhiên, vết chữ rửa sạch làu (Sđd., tập III, tr.433- 434). Lĩnh Nam chích quái có chép “Chuyện Người dị nhân làng Hạ Bì” (huyện Gia Phúc, Hải Dương). Dị nhân sống bằng nghề bán sò hến. Một hôm nhân thấy hai con trâu chọi nhau trên bờ biển, bèn đấm trâu. Trâu chạy xuống biển, để rơi một bịu lông. Cho đấy là vật thiêng, dị nhân nhặt lấy mà nuốt. Từ đấy trở nên khỏe mạnh phi thường, lặn dưới biển chẩng khác đi trên đất bằng. Khi giặc Bắc vượt biển đến Vạn Ninh, dị nhân lặn dưới biển, dùng sắt nhọn đục thuyền, đánh đắm tàu giặc. Giặc sợ mà lui. Dị nhân quay về thì cũng mất. Triều đình truy phong đại vương và phúc thần. Xem Vũ Quỳnh, Kiều Phú. Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr.152-153.

(47) Xem phần Thổ sản tỉnh Hải Dương trong Đại Nam nhất thống chí, Sđd., tập III, tr.462- 466.

(48) Lương Như Hộc người huyện Gia Lộc, đỗ Thám hoa triều Lê Đại Bảo, làm quan đến Đô ngự sử, hai lần phụng mệnh đi sứ. Ông dạy nghề in và khắc bản cho hai làng Hồng Liễu và Liễu Chàng, được dân làng thờ làm tiên sư (như trên, tr.442).

(49) Có lẽ Tkachov muốn nhắc đến Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông.

(50) Dòng cuối của truyện viết, “Sinh (Dư Nhuận Chi) về kinh sư thi đỗ Tiến sĩ, vợ chồng ăn ở với nhau đến già”. (Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.188).

(51) Nguyên bản Nga văn viết “Лю Юн” (dựa trên âm đọc Trung văn “Líu Yōng”). Liễu Vĩnh (980 ? - 1053 ?) nguyên tên Nguyễn Tam Biến, tự Kỳ Khanh, sau đỗ đạt mới đổi thành Liễu Vĩnh. Lại nhân làm quan đến “Đồn Điền viên Ngoại lang”, nên còn gọi là Liễu Đồn Điền. Theo Nhạc Phủ dư luận, do bấy giờ Trung nguyên yên việc binh đao, Biện Lương phồn thịnh, phú cường, Liễu Vĩnh nhàn dật vô sự, thường lui tới chốn hý phường, cùng sưu tầm lời ăn tiếng nói chốn hương thôn, phổ vào từ khúc, khiến người nghe dễ truyền tập và lưu truyền khắp chốn. Lại do trường kỳ ngao du với ca kỹ, nhạc công, tác phẩm của ông đậm phong cách lãng tử. Trong bài từ Hạc xung thiên có câu, “Nhẫn bả phù danh, hoán liễu tiện châm đê xướng” (Cam đem công danh phù phiếm đổi lấy rượu nhạt, ca hèn). Khi có người tiến cử Liễu với Tống Nhân Tông, vua bảo: “Thử nhân phong tiền, nguyệt hạ, háo khứ tiện châm, đê xướng, hà yếu phù danh?” (Con người nọ trước gió, dưới trăng, chỉ ham rượu nhạt, ca hèn, có thiết gì đến công danh phù phiếm ?) Ca kỹ, nhạc công, giáo phường thường xin Liễu sáng tác từ khúc. Từ khúc của Liễu phổ biến đến độ người đương thời có câu: “Phàm hữu tĩnh thủy ẩm xứ, tức năng ca Liễu từ” (Phàm nơi nào có giếng nước uống, ắt có thể ca từ khúc của Liễu). Liễu mất ở tha hương, ca kỹ góp tiền của mai táng chu tất. Xem Lý Tu Sinh: Trung Quốc văn học sử cương yếu (Tống, Liêu, Kim, Nguyên văn học), Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, 1990, tr.36; Dương Âm Thâm: Trung Quốc văn học gia liệt truyện, Hương Cảng Quang Hoa thư điếm, 1962, tr. 243.

(52) Trong nguyên chú, Tkachov ghi nhận hai truyện vừa viết về Liễu Vĩnh, ý chừng có gốc khoảng thế kỷ XI, nhưng lại không nói rõ những truyện nào (tr.190). Thực tế, có thể đọc truyện về Liễu trong Lục thập gia tiểu thuyết (bộ tổng tập tiểu thuyết thoại bản sớm nhất hiện tồn của Trung Quốc, nay chỉ còn khắc bản đời Minh) và trong Dụ thế minh ngôn do Phùng Mộng Long (1574 - 1646) biên tập (Xem Patrick Hanan: The Chinese Vernacular Story (Tiểu thuyết thông tục Trung Quốc), Harvard University Press, Cambridge (MA) và London, 1981, tr.68, 104 và 115-116). Trong truyện 12 của Dụ thế minh ngôn, “Chúng danh cơ xuân phong điếu Liễu thất” (Các nàng danh kỹ điếu chàng Liễu thứ bảy trong gió xuân), vua Nhân Tông nhà Tống nghe lời biếm của Tể tướng Lã Di Giản, bãi chức Liễu Vĩnh kèm theo bốn câu sau: “Liễu Vĩnh bất cầu phú quý - Thùy tương phú quý cầu chi ? - Nhậm tác bạch y khanh tướng - Phong tiền nguyệt hạ điền từ” (Liễu Vĩnh chẳng cầu phú quý - Ai đem phú quý cầu ngươi - Ưng làm khanh tướng áo trơn - Dưới trăng, trước gió đề từ). Xem Phùng Mộng Long. Dụ thế minh ngôn, Nhân dân Văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1994, tr. 196.

(53) Nguyên tác Nga văn viết “Листкая астра”. Truyện Chúng danh cơ xuân phong điếu Liễu thất kể tình duyên giữa Liễu Vĩnh và nàng danh kỹ Tạ Ngọc Anh đất Giang Châu. Sau những trắc trở, Liễu và Ngọc Anh sống với nhau như vợ chồng ở Đông Kinh. Liễu mất trong cảnh bần hàn, Ngọc Anh được các danh kỹ giúp việc tang ma. Độ hai tháng sau khi Liễu mất, Ngọc Anh cũng đau buồn, sinh bệnh tật mà thác (như trên, tr.187 - 198).

(54) Lê Đức Mao (tức Lê Tín, 1462 - 1529) nguyên quán phường Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, sau dời đến xã Dưỡng Hối, huyện Yên Lãng. Ông đỗ Hương cống năm 1504, năm sau (1505) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông là tác giả bài Đại nghĩ giáp thưởng đào giải văn (Làm hộ tám giáp bài văn thưởng cho cô đào được giải) thường được xem là bài hát ả đào cổ nhất. Theo Lê tộc gia phả: “Ông thiên tính thông minh, học vấn sâu rộng, chuyên chú để công ở thơ từ. Trong làng có việc gì, ông cũng thường có thơ ngụ ý châm biếm. Người làng nhiều kẻ đố kỵ về điều ấy. Vì bị xã bức bách, ông nuốt hận thề không về quê nữa rồi đến nhập tịch ở xã Dưỡng Hối, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây”. (Nguyễn Xuân Diện: Những phát hiện mới về Lê Đức Mao và bài “Đại nghĩ giáp thưởng đào giải văn”, trong Thông báo Hán Nôm học năm 1998, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1999, tr.65.) Xem thêm Nguyễn Huyền Anh: Việt Nam danh nhân từ điển, Khai Trí, Saigon, 1967; Các nhà khoa bảng Việt Nam, Sđd, tr.287; Nguyễn Xuân Diện: Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1999, tr. 40-41.

(55) Trong thư Dư Nhuận Chi viết gửi Túy Tiêu giữa lúc đôi lứa bị phân ly bởi quan Trụ Quốc họ Thân, có câu, “Côn Nô, Hứa Tuấn nơi nao ?” ý trông ngóng người có thể đưa cả hai thoát ra khỏi khốn cảnh (Nguyễn Dữ. Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.178. Côn Nô tức Côn Lôn nô Ma Lặc trong truyện Hồng Tiêu kỹ (hay “Côn Lôn Nô”), người giúp Thôi sinh và nàng Hồng Tiêu thành duyên. Hứa Tuấn là người cứu nàng ca kỹ họ Liễu khỏi tay Phiên tướng Sa Trá Lợi, đưa nàng về lại với Hàn Hoành.

(56) Chưa rõ Tkachov muốn nói đến ảnh hưởng nào của Trung Quốc trong câu chuyện thuần chất bản địa này. Phải chăng ông muốn nói đến phần sau của câu chuyện, khi nàng Vũ Thị Thiết được Linh Phi cứu mạng, nhắn Trương Sinh lập đàn tràng giải oan ?

(57) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, “(Tháng 7 năm 1402, Hồ) Hán Thương điều An phủ sứ lộ Thuận Hóa Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cảnh Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà Hán, nhà Đường, mộ người nộp thóc để việc phòng bị biên cương được đầy đủ”. Hồ Quý Ly đọc và phê như trên (Sđd, tập III, tr. 203).

(58) Bài tựa Trích diễm thi tập, Huệ Chi dịch. Xem Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr.18.

(59) Như trên.

(60) Viện Văn Học. Thơ văn Lý - Trần, tập I, Sđd, tr.58.

(61) Thơ văn Lý - Trần căn cứ theo bản chép tay Việt Kiều thư của Thư viện Khoa học xã hội (ký hiệu1731/ I ), ghi ngày ra sắc lệnh là 16 tháng 6 năm 1407 (như trên). Tuy nhiên theo bản Việt Kiều thư in trong Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư - Sử bộ 162, Tề Lỗ thư xã, Quảng Đông, 1996, sắc lệnh trên được chép ở ngày 19 tháng 5 năm 1407 (tr.708). Tương tự, Thơ văn Lý - Trần giới thiệu một sắc lệnh khác, liên quan đến việc hủy diệt văn hóa bản địa của Minh Thành Tổ ban hành trước đó, ghi ngày 21 tháng 8 năm 1406 (tr.57); cũng sắc lệnh này, bản in của Tề Lỗ Thư Xã ghi ngày 4 tháng 7 nhuận 1406 (tr.695). Bản in của Tề Lỗ Thư Xã nay phổ biến ở cả Trung Quốc và nước ngoài, xin ghi lại để tiện tham khảo.

(62) Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 7 (năm 1418), nhà Minh sai hành nhân Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thì sang thu lấy các loại sách ghi chép về sự tích xưa nay của nước ta”. (Sđd, tập II, tr.241). Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược (Nxb. Tân Việt, Saigon, 1964) cung cấp một danh sách các thư tịch đã bị nhà Minh cướp đoạt, căn cứ theo “sách Lịch triều hiến chương văn tịch chí của ông Phan Huy Chú”, và Việt điện u linh tập được xếp ở cuối danh sách (tr.200-201). Thế nhưng, về việc này, Lịch triều hiến chương loại chí chỉ có đôi dòng vắn tắt, “Trải qua bao cuộc bể dâu, nhiều phen binh lửa, như cuối đời Trần bị nạn giặc Minh, thư tịch đã mất một lần trước (khi nhà Nhuận Hồ thất thủ, tướng Minh là Trương Phụ lấy cả sách vở cổ kim đưa về Kim Lăng)...” ( Sđd, tập III, tr.63).

(63) “Nhưng cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải phục thì duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn ức Trai, lòng lúc nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được”. (Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.252).

(64) Kim Hoa thi thoại không có lời bình ở cuối truyện.

(65) Về lời bàn của Sơn Nam Thúc, Từ điển văn học (Nxb. KHXH, Hà Nội, 1984, tập II ) viết: “Cuối mỗi truyện ký đều có lời bàn của Sơn Nam Thúc, chưa rõ là ai (...) Lời bàn sắc sảo, tinh tế, có khí vị văn học.” (tr.352).

(66) Lời bình truyện Na Sơn tiều đối lục viết, “Than ôi, có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, đó là việc của Thánh nhân; tiều phu, tuy là bậc hiền, nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy... Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra, nói vào là tốt hơn cả”. (Truyền kỳ mạn lục toàn tập, Sđd, tr.164).

(67) Lời bình Túy Tiêu truyện viết, “Than ôi ! Người con trai bất trung, ông vua trung thường xấu hổ lấy làm bề tôi, người con gái bất chính, kẻ sĩ trung thường xấu hổ lấy làm vợ. Túy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người chính chuyên, không hiểu Nhuận Chi ham luyến vì cái gì ?... Như chàng Nhuận Chi, thực là một người ngu vậy”. (như trên, Sđd, tr.188-189).

(68) Nguyên văn như sau, “Than ôi, những chuyện huyền hoặc Tề Hài, những lời ngụ ngôn Trang Chu, người quân tử vốn chẳng nên ham chuộng. Nhưng nếu là chuyện quan hệ đến luân thường, là lời ký ngụ ý khuyên giới, thì chép ra và truyền lại, có hại gì đâu” (như trên, tr.137).

(69) Trong Truyền kỳ mạn lục giải âm (nguyên tác Hán văn: Nguyễn Dữ, dịch sang văn Nôm: Nguyễn Thế Nghi, Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, 2001), Nguyễn Quang Hồng cung cấp một cứ liệu, góp phần xác định tác giả của các lời bình. Ông viết: “Vì đoạn “Lời bình” này không được ghi rõ là của ai, nên ta có thể mặc nhiên coi là do chính Nguyễn Dữ viết lấy. Người dịch ra chữ Nôm cũng nghĩ như vậy, nên đã không ít hơn hai lần (Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu Truyện yêu quái ở Xương Giang) dịch thẳng chữ “viết” (rằng) trong đoạn văn này thành “Nguyễn Dữ rằng”. (tr.13)

(70) Trích từ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, phần “Giới Nho sĩ”. Xem Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, Mai Xuân Hải (chủ biên), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1986, tr.125.

TB

BÀN VỀ “VU” VÀ “VU THUẬT”
TRONG DÂN GIAN THỜI LƯỠNG HÁN

MÃ TÂN

1. Sự hưng thịnh của hiện tượng “vu chúc” 巫 祝 thời Lưỡng Hán.

“Vu” là những người thời xưa chuyên hành nghề cầu đảo, bói toán, chiêm tinh và dùng dược liệu để cầu phúc trừ tai, chữa trị bệnh tật cho con người. Trên thực tế, họ chính là cầu nối liên hệ giữa con người với thế giới thần linh. Sách Thuyết văn giải thích “Vu là người đàn bà có thể liên hệ với thế giới vô hình bằng lối múa giáng thần”. Trong thiên Ẩn Công tứ niên sách Công Dương truyện, Hà Hưu giải thích càng rõ ràng hơn: “Vu là người chuyên làm nghề cầu đảo quỷ thần để trị bệnh cầu phúc”. Thời Thương - Chu, vu có địa vị chính trị, xã hội rất cao. Họ chuyên giữ các hoạt động bói toán, chiêm tinh, cúng bái vốn có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội đương thời; họ là thế lực duy nhất làm môi giới cho giới thống trị với thần linh trên trời. ở họ có sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà: “đàn ông gọi là hịch, đàn bà gọi là vu” (Theo thiên Sở ngữ hạ sách Quốc ngữ). Về chức phận cũng khác nhau: hịch “cai quản việc tế vọng tự, vọng diên, thụ hiệu, đứng bên vẫy cỏ mao(1), mùa đông xua đuổi ôn dịch, không hướng nào là không tính đủ(2); mùa xuân cầu an, trừ bệnh tật, điếu vua thì dự khấn trước vong linh”; vu “cai quản việc trai giới tắm gội trong lễ cầu phúc trừ tai hàng năm(3), hạn hán thì múa cầu mưa, điếu vương hậu thì dự khấn trước linh cữu, phàm bang có đại tai thì vừa ca vừa khóc mà khấn cầu” (theo Tư vu thiên Xuân quan sách Chu Lễ). Đến thời Xuân thu Chiến quốc, cùng với sự gia tăng chuyên chế quân chủ và sự ra đời của thể chế tập quyền trung ương, giới quân chủ phong kiến mới đã ra sức thâu tóm cả quyền lực thế tục lẫn thần quyền bao gồm các thứ quyền lực giữa con người với trời đất, giữa con người với thần linh, thậm chí với cả ma quỷ. Trong khi đó, vu hịch ngày càng phải dựa dẫm vào nền chính trị tập quyền quân chủ và trở thành vật phụ thuộc vào giới quân chủ.

Thời Tây Hán, một số ít vu hịch được chọn tham dự vào các hoạt động tế lễ của Nhà nước, nhằm giúp vua tế lễ trời đất quỷ thần. Phần Phong thiện thư trong sách Sử ký có ghi: “Thiên hạ đã định… Trường An đặt các chức quan coi việc tế tự và nữ vu. Vu nước Lương cúng tế trời, đất, thiên xã, thiên thủy, phòng trung và đường thượng(4); vu nước Tấn cúng tế Ngũ đế, Đông quân, Vân trung quân, Tư mệnh, vũ xã, vu từ, tộc nhân, tiên xuy(5); vu nước Tần cúng tế xã chủ, vu bảo, tộc luy(6); vu nước Kinh cúng tế đường hạ, vu tiên, Tư mệnh, thí cháo(7); vu cửu thiên cúng tế cửu thiên(8). Tất cả đều cúng tế trong cung theo mùa tiết”. Bên cạnh đó, sách này còn ghi chép rằng: một số nơi còn chỉ định một vài vu thay vua tế tự, chẳng hạn: “Vu sông Hoàng Hà cúng tế thần sông ở Lâm Tấn, vu Nam Sơn cúng tế Tần Trung ở Nam Sơn. Tần Trung chính là Nhị Thế Hoàng đế. Đều theo mùa vụ”. Sau khi Vũ Đế diệt Nam Việt, bèn hạ lệnh: “Vu nước Việt coi việc cúng tế ở nước Việt, chỉ cần lập đài chứ không cần lập đàn, cũng tế tự thiên thần, thượng đế và bách quỷ, dùng lối bói gà.”

Về sau, cách sử dụng vu và vu thuật của giới thống trị thời Hán có phần thay đổi. Thời Hán Vũ đế chính là một cái mốc quan trọng. Hồi này, do học thuyết Nho gia chiếm thế độc tôn cho nên vu và vu thuật dần dần bị đẩy lùi khỏi vũ đài chính trị. Đến thời Đông Hán, mọi điển lễ tế tự của quốc gia đều được quy định bởi lễ chế Nho gia, điều đó làm thay đổi tình trạng dùng vu tế lễ trời đất quỷ thần của thời Tây Hán trước đó. Các dịp đại tế như tế giao, tế xã, tế tông miếu… đều do quan Thái thường chủ trì, “mỗi dịp tế tự, trước tiên phải tấu lễ nghi đó” (Theo Bách quan chí ). Còn việc tế lễ ở các nơi thì do “Thái thú, huyện lệnh hoặc người đứng đầu làm chủ tế, vật tế dùng dê, lợn” (Theo Tế tự chí hạ ). Như vậy, về cơ bản, vu đã bị đẩy ra khỏi các hoạt động tế lễ mang tính nhà nước, và từ đó họ trở thành một giai tầng xã hội mang tính dân gian thuần túy.

Thời Lưỡng Hán, vu và vu thuật vẫn có một thị trường rộng lớn, bất luận giới thống trị ưa chuộng hay bài xích. Đành rằng vạn vật hữu linh, thần tiên ma quỷ không đâu không có, song biết bao chúng sinh trong xã hội bấy giờ ai nấy đều cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực trước thế giới tự nhiên mà họ sinh tồn trong sợ hãi, trước xã hội mà họ lập thân khi thân tâm phải gánh vác nặng nề. Giới thống trị có thể tâng bốc thứ vương quyền trời ban, tự cho rằng mình là con cháu nhà trời, không chịu giáng làm người phàm thì đương nhiên họ cũng có thể liên lạc được với trời đất quỷ thần chứ đâu cần phải nhờ đến vu và vu thuật. Trong khi đó, đại bộ phận dân chúng vẫn phải trông cậy vào thế lực duy nhất mà họ cho rằng có thể giúp họ liên hệ với một thế giới khác, đó là vu và vu thuật, để cầu xin che chở, để ăn mày phúc lộc, nhằm bù đắp cho sự nhỏ nhoi yếu đuối của bản thân họ. Ngoài điều đó ra, không còn cách giải thích nào khác hơn. Tình hình vừa nói khiến vu và vu thuật bùng phát trong dân gian, trở thành một bộ phận tổ hợp hữu cơ trong đời sống xã hội nơi làng quê. Thiên Tán bất túc trong sách Diêm thiết luận, sách ghi chép lời nói của các vị hiền lương văn học(9), cũng có nêu rõ sự tồn tại khá phổ biến của hiện tượng này. Văn bản viết rằng: “Xưa kia, người đức hạnh cầu phúc, nên tuy có tế tự nhưng chỉ là thỉnh thoảng; người nhân nghĩa dưỡng cầu lành, nên tuy có bói toán nhưng cũng thưa thớt thôi. Đời nay, thế tục buông lỏng việc tu dưỡng mà cầu cạnh quỷ thần, lơ là với lễ mà chăm chỉ cúng bái, coi thường tình thân mà xem trọng quyền thế, hay xằng bậy nhưng lại tin vào ngày tháng, nghe lời nói vu vơ hoang đường mà may được, cho nên mới bỏ vật thực ra mà hưởng lấy cái hư phúc... Chính vì vậy mà phố phường có vu, xóm làng có chúc”. Thiên Địa lý chí hạ sách Hán thư có ghi: Nước Trần “chuộng tế tự, dùng sử vu nên phong tục toàn chuyện đồng cốt cúng bái”. Đất Sở “tin chuyện đồng cốt ma quỷ, trọng việc thờ cúng không chính đáng”. Thời Hán, vu và vu thuật ở đất Tề được coi là hưng thịnh vào bậc nhất trong thiên hạ. Địa lý chí hạ ghi rằng: “Nguyên người anh của Hoàn Công là Tương Công có tính dâm loạn, không chịu gả chồng cho cô, chị gái, em gái, các cô trưởng nữ trong dân gian cả nước không được lấy chồng, gọi họ là “vu nhi”, bắt ở nhà làm chủ tế cho gia đình, nếu ai đi lấy chồng thì gia đình sẽ bất lợi, đến nay dân vẫn giữ tục lệ ấy”. Vu nhi còn gọi là “thi nữ”. Viên Mai đời Thanh đã khảo chứng vấn đề này qua thiên Thi nữ sách Tùy Viên tùy bút rằng: “Vào những ngày sinh hoạt cộng đồng thì các vu nhi đều xuất hiện. Họ ăn mặc diêm dúa, nói cười huyên náo. Vì thế mà khi Trang Công đến xem, Tào Quệ cho là phi lễ. Thi nữ có lẽ chính là vu nhi”. Hiện tượng mỗi nhà lập một vu làm chủ tế cố nhiên chỉ là tục lệ đặc biệt của một địa phương nào đó trong một thời kỳ nào đó mà thôi. Nhưng ở thời Lưỡng Hán, mỗi một đơn vị thôn xóm đều có vu và vu gia, đó là một thông lệ. Trong Chiêu Thố truyện ở sách Hán thư có viết: Chiêu Thố khuyên Văn Đế mộ dân đưa tới vùng biên, ông ta mong muốn rằng khi Văn Đế lập các cụm cư dân mới ngoài biên tái thì phải “đặt ra các chức y và vu để chữa trị bệnh tật, trông coi việc tế lễ… Như thế là để dân yên vui với nơi ở mới mà nảy ra ý sinh sống lâu dài ở đó.”

Có điều khác so với trước là vu chúc trong xã hội dân gian thời Hán đã trở thành một thứ nghề nghiệp và vu thuật cũng trở thành một biện pháp mưu sinh. Về việc này, các vị hiền lương văn học trong hội nghị Diêm thiết(10) đã chỉ ra rằng: “Thế tục giả dối lọc lừa, vu chúc cúng bái cho dân để lấy lễ lộc, nhờ khua môi múa mép mà có kẻ trở nên giàu có, cho nên những người sợ việc đều rời bỏ bản nghiệp để theo học” (Theo Tán bất túc trong Diêm thiết luận). Chính vì thế mà vào thời Vương Mãng người ta mới coi các hoạt động đồng cốt, bói toán là hành vi kinh doanh sinh lời và cũng phải nộp thuế như thương nhân, thợ thuyền… Phần Thực hóa chí hạ sách Hán thư ghi luật thu thuế thời Vương Mãng như sau: “Thợ thuyền, lang y, vu chúc, thầy bói và những người buôn bán nhỏ khác bày hàng mở hiệu trong thôn xóm, mỗi nghề đều có vị trí của mình, trừ tiền vốn, tính nguyên tiền lời chia làm mười một phần, nộp thuế một phần”.

Vu chúc đã là một nghề nghiệp, một phương tiện mưu sinh thì đương nhiên cũng bị liệt vào hàng “thiên hạ nhốn nháo, đều đổ xô đi kiếm lợi”, và họ cũng thu lợi tới mức tối đa. Do vậy, “dựa vào quỷ thần để lừa bịp dân chúng” (Theo Đệ ngũ luân truyện), và tệ sách nhiễu quá đáng đã trở thành một hiện tượng tồn tại khá phổ biến. Ưng Thiệu cho rằng: “Phong tục ở Cối Kê phần nhiều là cúng bái quàng xiên, chuộng bói toán, dân toàn tế bằng trâu bò. Vu chúc hạch sách đòi lễ lộc, dân sợ miệng lưỡi họ, sợ họ trù nên không dám phản đối”. Điều này gây nên tình trạng một bộ phận dân chúng “khuynh gia bại sản vì chuyện cúng bái quỷ thần” (Theo Quái thần trong Phong tục thông nghĩa).

Thiên Phù xỉ trong Tiềm phu luận có đoạn bàn về tình trạng vu thuật tràn lan như sau: “Kinh Thi từng mỉa mai hiện tượng “bất tích kỳ ma, nữ dã bà sa”, nghĩa là: đàn bà không lo việc xe đay dệt sợi, mà chỉ múa may cầu cúng. Nay nhiều người không chịu lo chuyện bếp núc, bỏ việc chăn tằm dệt lụa mà đua học vu chúc, múa may cầu thần để lừa bịp trăm họ, mê hoặc muôn dân. Phụ nữ yếu đuối hoặc nhà có người ốm đau thì thấp thỏm trong lòng, hoang mang, sợ hãi; đến khi phải bôn tẩu, rời bỏ cửa nhà, thất thểu bên đường, trên dột dưới ẩm, cảm nhiễm phong hàn, bị kẻ gian lợi dụng, đạo tặc hoành hành. Họa vô đơn chí, khiến bao người bệnh trở nên nặng thêm. Có người thì bỏ thuốc thang quay sang cầu cúng, cho nên đến khi chết vẫn không biết mình bị lừa, còn hận rằng tìm đến vu chúc quá muộn, thật là mê hoặc dân quá đỗi”. Có thể nói Vương Phù đã vạch rõ hành vi lừa đảo, đầu độc nhân dân của bọn vu chúc.

Giới vu chúc thường lèo lái tráo trở, nhằm đạt được lợi ích về kinh tế. Trong một thời gian nào đó, họ đã góp phần làm cho tục vu chúc trong dân gian trở nên thịnh hành và đạt tới hiệu quả giống như việc truyền giáo vậy. Tuy nhiên, xét theo góc độ tín đồ và người được truyền bá thì hiệu quả cũng có chỗ khác. Hành động ngang nhiên lừa đảo để kiếm tiền của vu chúc thời Lưỡng Hán chỉ mang tính chất bịp bợm nhất thời, đe dọa nhất thời và đương nhiên cuối cùng nó cũng phải tụt dốc. Còn tôn giáo thì đằng sau nó dù có mục đích kinh tế hay các mục đích thế tục khác chăng nữa, trước sau vẫn khoác chiếc áo tín ngưỡng nên nó vẫn đạt được những bước phát triển ổn định trong một khoảng thời gian tương đối khá dài. Kể từ sau thời Đông Hán, sự suy tàn của tục vu chúc cũng như sự hưng thịnh của tôn giáo đều có nguyên nhân liên quan đến điều đó. Đương nhiên, thời Lưỡng Hán vẫn là thời đại hoàng kim của vu và vu thuật.

2. Nội dung hình thức vu cổ thời Lưỡng Hán.

Vu thuật là một thứ phép thuật lợi dụng “lực lượng siêu nhiên” hư cấu để thực hiện những nguyện vọng nào đó. Còn thuật “vu cổ” thời Lưỡng Hán thì lại là một loại vu thuật đen tối (hắc vu thuật), thâm độc đến nỗi mà mỗi khi nhắc tới, người ta cảm thấy ghê rợn. Đây là một thủ đoạn của vu sư dùng tà thuật để làm hại người khác. Nó đã bị giới thống trị nghiêm cấm. Thời Lưỡng Hán, giới thống trị thường sử dụng biện pháp tru di cả họ đối với kẻ nào sử dụng thuật vu cổ. Chẳng hạn, Truyện Công Tôn Ngao trong sách Hán thư có nói “Ngao là một viên quan nhỏ, đáng phải tội chết mà giả chết, lẩn trốn trong dân gian năm sáu năm. Về sau bị phát giác, lại bị bắt. Do vợ làm vu cổ nên bị chém cả họ. Truyện Triệu Phá Nô cũng trong sách này chép: “Sống trong tộc Hung Nô mười năm, rồi cùng Thái tử An Quốc trốn sang Hán. Sau mắc tội làm vu cổ, bị tru di cả họ”.

Thời Tây Hán có một câu chuyện nổi tiếng mãi về sau, đó là cái họa vu cổ do Giang Sung gây nên. Truyện Giang Sung trong sách Hán thư kể rằng: “Vua đến thăm Cam Tuyền và đổ bệnh. Sung thấy vua tuổi đã cao, e sau khi vua băng hà, mình sẽ bị Thái tử giết hại. Sung bèn nghĩ ra gian kế, tâu với vua rằng bệnh ấy do vu cổ gây nên. Thế là vua cho Sung làm sứ giả đi trừng trị bọn vu cổ. Sung sai vu người Hồ đào đất tìm hình nhân, bắt trùng cổ và cúng đêm, rình ma, tưới nước bẩn, sau đó bắt giữ y, nung đỏ kìm sắt bắt y phải nuốt. Dân chúng nhân đó vu cho nhau làm vu cổ, bị quan lại kết tội đại nghịch vô đạo, người mắc tội mà chết trước sau có tới mấy vạn. Lúc bấy giờ vua tuổi đã cao, nghi ngờ đám cận thần làm trùng cổ để nguyền rủa (thư) vua, kẻ còn người mất không ai dám kêu oan. Sung biết ý vua, nhân đó nói trong cung có khí trùng cổ, nên trước tiên phải trừng trị các phu nhân ít được vua lâm hạnh, thứ đến là Hoàng hậu. Bèn đào tìm trùng cổ ngay trong cung Thái tử, được một hình nhân bằng gỗ trẩu. Thái tử lo sợ nhưng không thể tự biện minh được, bèn cho người bắt Sung và tự tay chém chết…”.

Từ câu chuyện trên, chúng ta có thể nhận thấy hai vấn đề: Thứ nhất, mặc dù giới thống trị nghiêm cấm các hoạt động vu cổ, song vẫn còn không ít kẻ biết và thực hiện phép thuật ấy. Giang Sung và tên vu sư người Hồ kia trên thực tế đều rất thông thạo thuật vu cổ. “Dân chúng nhân đó vu cho nhau làm vu cổ... trước sau có tới mấy vạn người”, điều này cho thấy thuật vu cổ vẫn tồn tại phổ biến trong dân gian. Thứ hai, phép thuật chủ yếu của hình thức vu cổ này là chôn hình nhân xuống đất. “Sung sai vu người Hồ đào đất tìm hình nhân”, “đào đất tìm trùng cổ ngay trong cung Thái tử, được một hình nhân bằng gỗ trẩu”. Bên cạnh đó còn có các biện pháp bổ trợ như: cúng đêm, rình ma…

Về vấn đề này, Cù Đoài Chi tiên sinh đã tổng kết trong cuốn Hán đại phong tục chế độ sử rằng: “Thuật vu cổ đại để là dùng gỗ trẩu làm thành hình người, chôn xuống đất, lấy kim đâm vào để nguyền rủa (thư) cho người đó chết. Phần Vương chế trong sách Lễ ký chú thích rằng: “Đào được sáu con hình nhân bằng gỗ trẩu, đều bị kim đâm đầy mình…”.

Loại vu thuật dùng hình nhân làm đạo cụ, thực chất là một loại phép thuật dùng hình nhân để gây hại ở buổi cổ sơ ra đời từ thời săn bắn nguyên thủy. Mới đầu, nó chỉ là một hình thức làm phép đối với vật săn trước giờ săn bắt. Đến thời xã hội có giai cấp, nó được nhân rộng ra. Thiên Ân bản kỷ trong sách Sử ký viết về Ân vương Vũ ất: “Vô đạo, làm hình nhân, gọi đó là thiên thần, đánh bạc với nó, sai người xếp thành hàng. Thiên thần không thắng, bèn bắt nó phải chết nhục. Làm túi da đổ đầy máu vào, treo lên rồi bắn, gọi là bắn trời. Đó là thuật dùng hình nhân để làm hại rất điển hình. Thiên Phong thiện thư trong sách Sử ký ghi chép việc vu chúc tên là Trường Hoằng bắn “đầu con ly” cho Chu Linh vương cũng thuộc tục lệ này. Bắn “đầu con ly” tức là lấy hình nhân làm bia bắn, nếu vua chư hầu nào không chịu đến triều bái thì làm hình nhân người đó rồi bắn. Tô Tần liệt truyện trong Sử ký cũng viết rằng: Nước Tần muốn đánh nước Tống nhưng lại sợ nước Tề cứu viện, bèn bảo người nước Tề rằng: “Vua nước Tống vô đạo, làm người gỗ giống như nhà vua (quả nhân) rồi bắn vào mặt”. Qua đây có thể thấy ở thời Xuân thu - Chiến quốc, vu cổ đã là một thứ thuật đồng cốt ác độc nhất dùng để đối phó với kẻ thù, và tất nhiên mối quan hệ giữa người bị phù phép với người làm phép là mối quan hệ thù địch không đội trời chung. Đến thời Hán, đa phần là hình thức chôn tượng kẻ thù xuống đất, ngoài ví dụ điển hình về Giang Sung như đã nêu trên, Truyện Công Tôn Hạ sách Hán thư còn ghi: “(Chu) An Thế Toại trong ngục dâng thư tố giác việc Kính Thanh thông dâm với công chúa Dương Thạch và sai người cúng bái nguyền rủa vua, lại chôn hình nộn dưới con đường dẫn tới Cam Tuyền, lời nguyền mang nhiều ác ý”. Trong một cuộc khai quật bãi chiến trường cũ ở Đôn Hoàng, Aurel Stein(10) phát hiện ra hai pho “tượng thần tạc bằng gỗ” với khuôn mặt dữ dằn đáng sợ. Thực ra đó là những bức tượng quân địch bị chôn trong lòng đất. Cách tạc hình nhân bằng gỗ hay cách làm hình nhân gỗ trẩu như đã dẫn ở trên đều có tác dụng như nhau. Chôn hình nhân dưới lòng đất là có ý để nó bị giày xéo cho chóng chết. Tập tục này còn lưu truyền mãi về sau. Truyện Nguyên Hung Thiệu trong sách Tống thư kể rằng: Con trưởng của Tống Văn đế là Lưu Thiệu mắc nhiều tội lỗi. Thiệu sợ bị thất sủng, bèn bí mật mưu hại vua: “Lấy ngọc nhân làm thành hình nhân của vua rồi đem chôn ở trước điện Hàm Chương”. Lưu Thiệu đem chôn hình nhân Văn đế trước điện Hàm Chương là muốn để người ta giẫm đạp lên. Mãi đến thời cận đại, dân tộc Thái vẫn còn lưu giữ hình thức vu thuật này. Một hình thức trả thù quan trọng của người dân tộc Thái là nặn hình kẻ thù bằng đất sét rồi chôn xuống lòng đường đi để mọi người giẫm đạp lên cho kẻ thù đó chết đi.

Vu thuật ám hại bằng hình nhân cũng tồn tại phổ biến trong các dân tộc cổ xưa khác trên thế giới. Sigmund Frend(11) đã tổng kết rằng: “Thông thường, trò ma thuật phổ biến nhất được dùng để ám hại kẻ thù là làm tượng kẻ thù bằng những vật liệu đơn giản. Tượng giống hay không, không quan trọng, mà chỉ cần thành tượng là được. Sau đó làm tổn hại đến bất cứ bộ phận nào trên bức tượng cũng chính là làm tổn hại đến bộ phận đó trên cơ thể kẻ thù, khiến bộ phận đó sinh bệnh tật”.

Tuy nhiên, hình thức ám hại bằng hình nhân chỉ là hình thức chôn hình nhân xuống đất chứ không phải là toàn bộ nội dung thuật vu cổ. Theo sách Hán thư thì hình thức ám hại bằng hình nhân là hình thức chủ yếu của thuật vu cổ. Ngoài ra, thuật vu cổ còn bao hàm cả một phép thuật khác thần bí hơn mà nếu tách rời khỏi thứ phép thuật này thì bản thân thuật vu cổ hầu như không còn khiến người ta phải phấp phỏng lo sợ vì nhỡ đâu không tránh kịp, đó là thuật “cổ”. Song không rõ vì lẽ gì mà khi ghi chép các sự kiện về vu cổ, Ban Cố lại không trình bày tường tận về nội dung này.

Về hàm nghĩa của chữ “cổ”, thiên 13 trong sách Thuyết văn giải tự giải thích rằng: “Cổ là một loại trùng trong bụng”. Xuân thu truyện thì viết: “bộ mãnh (皿) với bộ trùng (虫) thành chữ cổ (蠱), loài này sinh sống ở chỗ quá tối. Ma của con cú vọ trừ tai chết cũng trở thành cổ”. Từ đoạn văn này có thể thấy cổ gồm 4 hàm nghĩa sau:

Hàm nghĩa thứ nhất là “loài trùng trong bụng”. Khi loài này vào được trong bụng, chúng sẽ làm cho ngũ tạng ruỗng nát, dẫn đến tử vong. Như phần Thứ thị trong Thu quan tư khấu ở sách Chu lễ, Trịnh Huyền chú rằng: “Loài cổ độc vào (bụng) sẽ làm loét (các cơ quan nội tạng)”.

Hàm nghĩa thứ hai: “ bộ mãnh với bộ trùng thành chữ cổ” là nói đến cách làm ra loại trùng cổ này.

Hàm nghĩa thứ ba: “sinh sống ở nơi quá tối” là nói đến loại bệnh trùng cổ. Thiên Chiêu Công nguyên niên sách Tả truyện viết: âm quá nhiều thành bệnh hàn, dương quá nhiều thành bệnh nhiệt, gió quá nhiều thành bệnh ngọn (?), mưa quá nhiều thành bệnh đau bụng, tối quá nhiều thành bệnh mê hoặc, sáng quá nhiều thành bệnh tim. Dương vật của anh gặp thời tiết quá tối, tất sinh bệnh trùng nội nhiệt. Triệu Mạnh hỏi “Thế nào gọi là trùng cổ ?”. Đáp rằng: “Là loài trùng sinh ra do đắm chìm trong mê loạn”.

Hàm nghĩa thứ tư: “Loại ma của con cú vọ trừ tai chết”, ý nói trùng cổ là một loài ma hung hãn. Thiên Phong thiện thư trong Sử ký ghi chuyện thời Tần Đức Công: “Làm đền thờ, đặt chó ở bốn cửa để chống tai họa trùng cổ”. Phần Sách ẩn viết: “Ma của con cú vọ trừ tai chết trở thành cổ, cho nên Nguyệt lệnh nói: “đại na, bàng tách (xua đuổi ôn dịch, từ tai ở bên cạnh)”. Lại chú rằng: “Tách tức là trừ tai, ma dữ chính là cổ, thường ra hại người, trừ tai bên cạnh các cửa ở bốn hướng”. Thế cho nên mới đặt chó trừ tai ở bốn cửa. Sách Phong tục thông nghĩa viết: “Giết chó trừ tai”.

Ngoài ra, trùng cổ còn có một số hàm nghĩa khác. Như ở Thiên Chiêu Công nguyên niên sách Tả truyện viết: “Thóc lúa bay cũng thành cổ. Trong Chu Dịch nữ mê hoặc nam, gió đội xuống núi đều gọi là cổ, cùng là một vật vậy”. Lại chú rằng: “Thóc để lâu thì biến thành côn trùng bay, gọi là trùng cổ”. Loài trùng cổ ở đây thực ra là một loại côn trùng biết bay.

Xét theo nội dung vu cổ thời Hán thì loài cổ dùng trong hoạt động vu thuật nhằm hãm hại người khác mang hai hàm nghĩa đầu, đó cũng chính là cách dùng đồ dựng tạo ra loại trùng cổ, sau đó cho nó vào bụng người khác để hãm hại người ta.

Cách hãm hại bằng trùng cổ ra đời từ rất lâu rồi. Trong các bài bốc từ thời Ân có các chữ như “có bệnh về răng thì duy có loài cổ là đáng sợ”. Thứ thị trong Thu quan tư khấu sách Chu lễ viết: “Họ Thứ quản việc trừ trùng cổ độc, lấy “công thuyết” (?) để nhương tai, lấy “gia thảo” (?) để diệt trừ. Trịnh Huyền chú rằng: “Trùng cổ độc là một loại côn trùng gây bệnh hại người”. Sách Tặc luật viết: “Kẻ nào làm trùng cổ hại người hoặc truyền bá trùng cổ thì sẽ bị xử chém giữa chợ”. Qua lời dẫn của Trịnh Huyền, chúng ta có thể nhận thấy thuật dùng trùng cổ độc tồn tại ở thời Hán. Còn cách làm cụ thể thì có lẽ do sợ bị truyền bá rộng ra nên không ghi vào sách vở nhằm tránh bị trở thành “kẻ truyền bá”. Đến thời Đường, thuật dùng trùng cổ độc vẫn bị nghiêm cấm. Tặc đạo luật, quyển thứ 18 trong Đường luật sớ nghi quy định rằng: “Kẻ nào nuôi trùng cổ độc hoặc truyền bá trùng cổ thì sẽ bị xử giảo”. Lại thích nghĩa rằng: “Trùng cổ có nhiều loại, khó có thể cứu xét hết; việc thờ cúng theo tà đạo, không thể nào biết cho cùng”. Song phần Địa lý chí hạ sách Tùy thư lại tiết lộ cho chúng ta biết phương pháp cơ bản để tạo ra trùng cổ và sử dụng trùng cổ. Sách viết rằng: “Phong tục các quận Tân An, Vĩnh Gia, Kiến An, Toại An.. Nghi Xuân cũng giống như Dự Chương. Những quận này thường nuôi trùng cổ, nhất là quận Nghi Xuân. Tục của họ là vào ngày mùng 5 tháng 5 thu nhập hàng trăm loại côn trùng, lớn thì kể đến rắn rết, nhỏ thì kể đến chấy rận, rồi bỏ cả vào trong một thứ đồ đựng cho chúng ăn thịt lẫn nhau, khi nào còn một con thì lưu lại, nếu là rắn thì gọi là “xà cổ” (trùng rắn), nếu là chấy rận thì gọi là “sắt cổ” (trùng rận), dùng để giết người. Người nào nuốt phải nó vào bụng, nó sẽ ăn ngũ tạng của người đó, người đó chết đi thì gia sản sẽ rơi vào tay người làm chủ con trùng cổ, còn nếu ba năm không giết được người đó thì kẻ nuôi trùng cổ tự dẹp bỏ trò xấu xa của mình. Con cháu các đời lưu truyền mãi mãi. Can Bảo gọi nó là quỷ, kỳ thực không phải vậy. Kể từ sau loạn Hậu Cảnh, những kẻ chứa trùng cổ phần lớn đều bị diệt, trùng cổ không còn chủ nhân, cho nên những con bay lượn chạy nhảy trên đường đều bị chết”.

Qua đoạn văn trên chúng ta có thể thấy trùng cổ thực chất là vật phái sinh của tục sùng bái thần linh. Đem các loại trùng cổ bỏ vào một thứ đồ đựng cho chúng tàn sát lẫn nhau, con nào sống được đến giờ phút cuối cùng sẽ trở thành con đại diện. Nếu con còn sống là con rắn thì gọi là xà cổ, nếu đấy là chấy rận thì gọi là sắt cổ. Cho dù là xà cổ hay sắt cổ thì lúc này nó cũng không còn là bản thân nó như ý nghĩa vốn có, mà nó là tập hợp của các loại côn trùng bị nó ăn thịt, mọi cái linh nghiệm của các con côn trùng độc đều tập trung vào nó. Chủ nhân nuôi dưỡng nó có nghĩa là anh ta có các loài côn trùng độc. Khi cần thiết, anh ta có thể cho con trùng độc quái đản này vào trong bụng kẻ bị hại, còn con trùng cổ mà anh ta nuôi dưỡng vẫn nằm y nguyên ở chỗ cũ. Như vậy, anh ta có thể sử dụng đi sử dụng lại con trùng cổ.

Cách tạo ra trùng cổ như trên xem ra rất ăn khớp với cách nói “mãnh trùng vi cổ” trong Tả truyện, như Thuyết văn giải tự đã dẫn. Trên thực tế, chữ “cổ” trong văn giáp cốt là chữ hội ý, chỉ những con côn trùng nhỏ chứa trong chậu. Cách tạo trùng cổ thời Hán về đại thể cũng giống như sách Tùy thư đã viết. Các sử liệu thời Hán không thấy ghi chép một chữ nào về cách thức dân gian sử dụng trùng cổ và biến trùng cổ thành “trùng trong bụng” kẻ thù. Chúng ta đành phải trông cậy vào những ghi chép ra đời muộn hơn một chút để tìm hiểu về thuật này.

Các quyển 3, 4 và 7 sách Thái Bình ngự lãm dẫn sách Tống thư rằng: “Bấy giờ tướng Đường Tú người quận Bái đến nhà Chu Khởi Điền Bành ở phía bắc thôn uống rượu, khi về thì ngã bệnh, nôn ra hơn chục con trùng cổ. Trước khi chết bảo vợ rằng: “Sau khi chết thì mổ bụng ra xem bệnh”. Về sau vợ mổ ra xem thì thấy ngũ tạng đã ruỗng nát cả”. Đây rõ ràng có ý nói rằng Đường Tú sang thôn bên uống rượu mắc phải mưu hại bằng trùng cổ độc.

Trong Tục sưu thần ký, Đào Tiềm có kể về một Hòa thượng gọi là Đàn Du Đạo nhân đến một nhà nọ ở huyện Diệm xin bố thí. Nhà này “làm trùng cổ, người dùng đồ ăn thức uống nhà ấy không ai không thổ ra huyết mà chết”. Nhưng khi chủ nhân mang thức ăn ra, Đàn Du niệm một câu thần chú, kết quả là “một con rết dài hơn một trượng bò ra khỏi mâm, sau đó ăn uống như thường mà vẫn bình yên vô sự”. Đoạn văn này tuy mang tính hoang đường bịa đặt, song qua đó chúng ta có thể thấy sơ qua diện mạo thuật vu cổ.

Xem ra, cách hãm hại người khác bằng trùng cổ mà dân gian thường dùng chủ yếu thông qua đường ăn uống. Thời Hán cũng vậy.

Nói chung, trong xã hội thời Hán, thuật vu cổ nhằm hãm hại người khác gồm hai loại phép thuật: một là làm hình nhân chôn xuống đất; hai là nuôi trùng độc. Cả hai phép thuật này đều là phương thức để trút mối thù hằn oán hận lên đầu kẻ thù và là loại vu thuật xấu xa điển hình. Cho dù giới thống trị nghiêm cấm, song trong dân gian vẫn tồn tại và lưu truyền mãi về sau.

3. Tính chất hai mặt của thuật khấn nguyền và thuật giáng thần.

Thời Lưỡng Hán, thuật khấn nguyền và thuật giáng thần rất thịnh hành trong dân gian. Tuy nhiên, nó có điểm khác so với thuật vu cổ ở chỗ, nó vừa có tác dụng hãm hại người khác, vừa có tác dụng trừ tai trị tật. Như vậy nó bao hàm cả hai tính chất lành mạnh và không lành mạnh. Đó cũng là nét đặc biệt của hoạt động vu thuật truyền thống ở Trung Quốc.

Thông thường khấn nguyền là một hoạt động vu thuật sử dụng lặp đi lặp lại những từ ngữ nhất định để khấn cáo với quỷ thần, nhằm biểu đạt ý nguyện của mình thông qua một nghi thức nào đó. Mục đích của việc làm này là tìm đến với thần linh trong tưởng tượng để cầu xin thần linh đáp ứng nguyện vọng của mình, nhằm cầu phúc, trừ tai.

Thời Lưỡng Hán, phần nhiều người ta đều cho rằng vu chúc có thể liên hệ với thần linh thông qua những lời khấn nguyền. Thiên Giao tự chí thượng sách Hán thư chép: “Thiếu Ông người nước Tề được gặp vua nhờ phép thuật. Vua có người phu nhân yêu, phu nhân mất, đêm ấy Thiếu Ông dùng phép thuật khiến cho hình hài của phu nhân và thần bếp đều nói, thiên tử đứng bên trong màn che trông ra xem”. Thiên Hung Nô truyện hạ sách Hán thư thì chép: “Năm Nguyên Thọ thứ hai, Đan Vu vào chầu, nơi vua sai thần Thái tuế khấn nguyền ở tại cung Bồ Đào vườn Thượng Lâm”. Thiên Phương thuật truyện hạ sách Hậu Hán thư ghi rằng: “Thời Chương đế có ông Thọ Quang hầu có thể vạch mặt trăm ngàn ma quỷ khiến cho nó phải tự hiện hình chịu trói. Vợ người làng ông bị ốm do ma làm, ông liền ra tay và bắt được một con rắn dài đến mấy trượng, nó chết ở ngoài cửa. Lại có một cây thần mà người nào dừng chân dưới gốc cây sẽ chết, con chim nào bay qua sẽ sa xuống, ông đợi đến mùa hè lại ra tay, giữa mùa hè cây khô héo, thấy một con rắn dài bảy tám trượng chết treo ở giữa”.

Thoạt đầu, thuật khấn nguyền chủ yếu dùng để chữa trị bệnh tật. Chính sự ngu muội và lạc hậu ở thời thượng cổ khiến người ta không nhận thức được nguyên nhân gây bệnh thực sự, mà cho rằng ma quỷ ôn dịch đang tác oai tác quái, và chỉ có nhờ biện pháp khấn nguyền mới đuổi nó đi được, mới chữa khỏi được. Hiện tượng trị bệnh bằng biện pháp khấn nguyền bắt đầu xuất hiện từ thời Ân Thương, đến thời Lưỡng Hán thì đạt đến mức cực thịnh hành. Quyển 10 sách Hàn thi ngoại truyện chép rằng: “Thời thượng cổ, thầy lang gọi là mao phu. Mao phu làm thầy lang, lấy cây hoàn làm chiếu, lấy hoa phù dung (đảm) làm chó, quay mặt về hướng bắc mà khấn mười lần, những người ốm yếu được dìu đến đều bình phục như cũ”. Đoạn này miêu tả hiệu quả của việc trị bệnh bằng phương pháp khấn nguyền của các mao phu có thể khiến người ốm tưởng như không thể dậy nổi đã khoẻ dần như ban đầu. Thiên Di tinh biến khí luận trong sách Tố vấn cũng viết: “Bệnh tật thời xưa duy có bệnh biến đổi tinh khí là có thể khấn nguyên nhân gây bệnh mà khỏi được”. Vương Băng chú rằng: “ Kêu khấn nguyên nhân gây bệnh mà không cần đến thuốc thang, cho nên gọi là khấn nguyên nhân gây bệnh”. Đây là cách giải thích khá điển hình về việc trị bệnh bằng phương pháp khấn nguyền. Thiên Ngụy Kỳ Vũ An hầu liệt truyện ghi: “Vũ Hầu ốm... sai vu chuyên bắt ma đến bắt”.

Thời Hán, trị bệnh bằng phương pháp khấn nguyền, còn gọi là đảo tự (禱 祀) hay đảo thỉnh (禱 請), rất thịnh hành trong tầng lớp thượng lưu cũng như tầng lớp thường dân. Những người chuyên hành nghề cầu đảo cũng rất phát đạt. Thiên Hoàng hậu kỷ sách Hậu Hán thư ghi: “(Đặng) Thái hậu thân thể bất an, tả hữu hốt hoảng, vội vã cầu khấn xin được tha mạng”. Trên thẻ tre viết về vu thuật niên hiệu Kiến Sơ năm thứ 4 vừa được khai quật trong mấy năm gần đây có ghi chép việc một cặp vợ chồng gia tộc họ Điền, mời một bà vu tên là Hạ đến cầu đảo khấn nguyền cho mẹ mình (có thuyết còn gọi bà là Tự Ninh, tức tên của bà vu) đang ốm nặng. Các quỷ thần được khấn cầu gồm 15 loại: Tư mệnh, thương quân, nam thương, nữ thương, thủy thượng, hoàng quân, cát (lạp) quân, quách quý nhân, đại phụ mẫu, trượng nhân, quan xã, điền xã, đông bắc quan bảo xã, xuy hưu, đại gia tây nam. Trên các thẻ tre thời Hán khác khai quật được ở Bao Sơn, Vọng Sơn, Cửu Điếm Sở; hay các thẻ gỗ khai quật được trong một ngôi mộ thời Hán ở số 5 Hồ Trường, huyện Hán Giang, tỉnh Giang Tô cũng có tên các vị thần tương tự.

Đạo giáo nguyên thủy, thứ Đạo giáo hưng thịnh vào cuối đời Đông Hán, đã hấp thu và phát triển loại hình vu thuật khấn nguyền này, đặc biệt là phương thức trị bệnh bằng cách khấn nguyền. Thiên Tương Khải truyện trong sách Hậu Hán thư từng chép thời Thuận đế có Cung Sùng người vùng Lang Nha vào cung dâng sách và nói rằng thầy của anh ta hay làm việc thiện nên được một quyển sách thần có tên là Thái Bình thanh lĩnh thư. Cuốn sách này “ngôn ngữ thuộc trường phái âm dương ngũ hành mà chứa nhiều tạp ngôn của vu hịch... Về sau có lẽ Trương Giác có cuốn sách đó chăng.” Phần chú thích Trương Lỗ truyện trong thiên Ngụy chí sách Tam quốc chí, Bùi Tùng Chi dẫn Điển lược của Ngư Hoạn rằng: đạo Thái Bình của Đông Phương Trương Giác, “thày cầm cây trượng 9 đốt làm bùa chú, bảo bệnh nhân vừa khấu đầu vừa nghĩ đến lỗi lầm của mình. Nhân đó cho người ta uống nước bùa, người nào bệnh tình thuyên giảm dần hoặc khỏi hẳn thì bảo người đó tin đạo, còn người nào không đỡ thì bảo người đó không tin đạo.” Còn đạo Ngũ đấu mễ (5 đấu gạo) của Trương Tu ở Hán Trung thì “chủ yếu là cầu đảo cho người bệnh. Cách cầu đảo là viết tên họ người bệnh, bày tỏ ý phục tội. Cầu ba lượt, một lượt cầu trời ở trên núi, một lượt cầu đất, một lượt cầu nước, gọi là tam quan thủ thư”. Bùa hay tam quan thủ thư cũng chính là lối khấn nguyền đã được văn tự hoá. Dụng ý căn bản của nó không có gì khác so với việc trị bệnh bằng phương pháp khấn nguyền trước kia. Từ thời Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều trở đi, nội dung này dần bị gạt ra khỏi Đạo giáo, song nó vẫn rất thịnh hành trong dân gian.

Chỉ có điều, ở thời Lưỡng Hán, trị bệnh chỉ là một trong những mục đích của việc khấn nguyền. Khấn nguyền còn có những mục đích quan trọng khác như nhằm nguyền rủa để thắng người, khuất phục người hoặc vật, làm hại người khác hoặc trút đổ tai họa cho người khác. Phần chú sớ của Khổng Dĩnh Đạt trong thiên Vô dật sách Thượng thư giải thích như thế này về việc khấn nguyền: “Khấn nguyền tức là kêu cầu quỷ thần gieo rắc tai ương tội lỗi, dùng lời nói để kêu cầu quỉ thần gọi là “khấn”, xin quỉ thần gia tai ương là “nguyền”. Thời bấy giờ, một số người thường tìm cách trả thù bằng việc mời vu khấn nguyền nhằm gia tai ương lên đầu kẻ thù của mình. Chuyện Kính Thanh và công chúa Dương Thạch “sai vu tế lễ nguyền vua... lời nguyền mang ác ý” chép trong Công Tôn Hạ truyện sách Hán thư cũng là thuật này. Thiên Đặng Hoàng hậu ký sách Hậu Hán thư viết: “Âm hậu thấy đức của Hoàng hậu ngày một lớn, không biết làm cách nào, bèn sai khấn nguyền để làm hại.” Ngoài việc gia tai cho kẻ thù, người ta còn khấn nguyền nhằm gieo tội cho người. “Cách ngầm gieo tội họa” chép trong sách Phong thiên thư lại là cách chuyển họa cho người. Vũ đế kỷ sách Hán thư viết chuyện mùa thu năm Thiên Hán thứ 2, Hán Vũ đế hạ lệnh “cấm bọn vu cầu cúng ngoài đường”. Nhan Sư Cổ chú thích sách này có dẫn lời của Văn Dĩnh rằng: “Lúc đầu, nhà Hán cầu cúng ngoài đường, nhằm trút tai họa tội lỗi cho bách tính qua đường. Nay ngăn chặn để không thấy việc đó nữa.” Như thế, hoạt động khấn nguyền nhằm gieo họa cho người khác tồn tại khá phổ biến trong dân gian ít nhất là từ trước thời Hán Vũ đế. Hoạt động khấn nguyền được tiến hành ngay trên đường đi lối lại với mục đích để cho tai ương tội lỗi cuốn đi theo bước chân người qua lại. Về sau, tập tục nhà nào có người ốm đau thì đem bã dược thảo đổ ra đường đi được hình thành từ đó.

Qua việc Vũ đế hạ lệnh “cấm chỉ bọn vu cầu cúng ngoài đường” có thể thấy vương triều nhà Hán cũng cấm đoán thuật khấn nguyền, song phương thức xử lý đối với các hoạt động khấn nguyền khác nhau cũng khác nhau. Đối với việc khấn nguyền trong dân chúng thì chỉ cấm đoán một cách chung chung, còn đối với hoạt động khấn nguyền hoàng đế thì luật lệ nhà Hán khép vào tội “đại nghịch bất đạo”. Thiên Hiếu Văn bản kỷ sách Sử ký viết: “Dân kẻ nào khấn nguyền vua, câu kết với nhau để nói xấu, thì quan viên phải khép họ vào tội đại nghịch bất đạo”. Phần Tập giải dẫn Hán thư âm nghĩa rằng: “Dân câu kết với nhau khấn nguyền vua”. Thiên Chư hầu vương biểu sách Hán thư ghi chép: “Quảng Lăng Lệ vương Tư mắc tội khấn nguyền vua bèn tự sát”. Quang Vũ Thập vương truyện sách Hậu Hán thư thì chép: “Thượng thư Cáo Diên cùng anh trai vợ thứ là Tạ Yêm và chồng của chị (công chúa Quán Đào) là phò mã Đô úy Hàn Quang vào hùa gian giảo, làm ra sách sấm ký, tế lễ khấn nguyền. Khi xử án, cả Quang và Yêm đều bị giết, những kẻ liên quan bị giết hoặc bị tù đày nhiều vô kể”. Những chuyện ghi chép trên đây cho thấy vương triều nhà Hán trừng phạt rất nghiêm khắc đối với hành động khấn nguyền vua, qua đây còn có thể thấy rằng người thời bấy giờ rất tin vào uy lực của việc khấn nguyền. Vu thuật khấn nguyền có ảnh hưởng khá sâu sắc trong xã hội đương thời, đồng thời nó cũng rất thịnh hành trong đời sống nhân dân.

Thuật giáng thần do những vu chuyên nghiệp tiến hành. Phương thức của nó là khiến vị thần linh trong tưởng tượng nhập vào bà vu đang làm phép nhằm lay động quỷ thần để thực hiện mục đích của mình thông qua những nghi thức nhất định như nhảy múa, niệm chú...

Thuật giáng thần thời Hán chủ yếu dùng trong ba trường hợp sau:

Thứ nhất, nó là cách bổ trợ cho thuật khấn nguyền nhằm tăng thêm hiệu lực. Thiên Giang Đô Dị vương Lưu Phi truyện trong sách Hán thư có đoạn: “(Dị vương Kiện) chuyên làm chuyện dâm ngược, tự biết mình nhiều tội. Trong nước có nhiều kẻ muốn cáo giác, Kiện sợ tội chết nên lòng lo lắng không yên, bèn cùng vợ mình là Thành Quang sai một người hầu đất Việt nhập đồng để khấn nguyền vua”. Sai người hầu đất Việt nhập đồng và khấn nguyền cho Cảnh đế chóng chết thì mục đích làm hại đã quá rõ ràng. Quảng Lăng Lệ vương Lưu Tư truyện trong sách Hán thư cũng ghi: “Thời Chiêu đế, Tư thấy vua nhỏ tuổi, chưa có con, thì sinh bụng nhòm ngó. Tư đón một nữ vu người đất Sở tên là Lý Nữ Tu và sai nhập đồng khấn nguyền. Nữ Tu khóc mà rằng: “Hiếu Vũ đế nhập vào tôi”. Tả hữu đều phủ phục xuống. Nói tiếp: “Ta tất lệnh cho Tư làm thiên tử”. Tư cho Nữ Tu rất nhiều tiền, sai cầu khấn thần núi. Biết tin Chiêu đế băng, Tư khen: “Nữ Tu quả là bà vu giỏi!” Sai mổ trâu bò cúng tế. Đến khi Xương ấp vương chinh phạt, Tư lại sai vu khấn nguyền Xương ấp vương. Về sau vương bị phế, Tư càng tin Nữ Tu… Khấn nguyền sau khi nhập đồng là một thứ thuật làm hại được tiến hành trực tiếp. Vì thế cho nên việc giáng thần nhằm đạt mục đích làm hại đối phương chỉ là thủ đoạn bổ trợ, còn khấn nguyền mới là thứ phép thuật hữu hiệu. Do vậy Lưu Tư cho Nữ Tu nhập đồng một lần, còn lại đều trông vào việc khấn nguyền. Sau khi Xương ấp vương bị phế, Tuyên đế lên ngôi, Lưu Tư “lại ra lệnh cho Nữ Tu khấn nguyền như trước”. Đến khi Tuyên đế lập Thái tử, Lưu Tư than: “Ta không được lập nữa rồi !”, bèn “thôi không khấn nguyền nữa”.

Thứ hai là đuổi ma trị bệnh. Thiên Phong thiện thư sách Sử ký viết rằng: “Thiên tử bệnh rất nặng, gọi cả vu lẫn lang y đến vẫn không khỏi. Du Thủy phát căn nói Thượng Quận có bà vu ốm do quỷ thần nhập vào. Vua hạ chiếu chỉ sai thờ cúng ở Cam Tuyền. Khi ốm, vua sai người hỏi thần quân. Thần quân đáp rằng: “Thiên tử chớ lo lắng vì bệnh tật, bệnh không giảm thì gắng đến gặp ta ở Cam Tuyền”. Thế là bệnh đỡ, bèn trở dậy đến Cam Tuyền, bệnh đã khỏi. Vua mừng lắm liền xây Thọ Cung thờ thần quân. “ốm do quỷ thần nhập vào” tức là chỉ trạng thái của vu khi giáng thần. Xem ra bà vu người Thượng Quận này khiến cho thần quân nhập vào người và mượn sức mạnh của thần quân để chữa khỏi bệnh cho Vũ đế.

Thời Hán, việc đuổi ma trị bệnh bằng thuật giáng thần rất thịnh hành trong dân gian. Thiên Trường đồi trong cuốn sách lụa thời Tây Hán khai quật được trong ngôi mộ Mã Vương Đôi ở Trường Sa mang tên Ngũ thập nhị bệnh phương có một phương thuốc trị bệnh “ma trẻ nhỏ” như sau: “Bước Vũ ba bước, ngắt cành đào phía đông,…"Ngày 16 của tháng thì bắt đầu hủy, bước Vũ ba bước và nói: “Nguyệt với nhật tương đương, nhật với nguyệt tương đương”. “Vũ bước” là hình thức hoặc cách bước nhảy múa khi vu sư giáng thần làm phép, tương truyền bắt nguồn từ thời vua Đại Vũ. Thiên Quân trị sách Thi tử có một đoạn nói rằng: “Vũ đào sông trị thủy, mười năm không về thăm nhà, tay không còn móng, chân chẳng còn lông, sinh bệnh liệt nửa người, bước đi không thăng bằng cho nên người ta gọi là “bước Vũ”. Các vu chúc bắt chước theo lối đi tập tễnh ấy. Thiên Trọng lê sách Pháp ngôn của Dương Hùng có câu: “Vu bước nhiều bước Vũ”. Lý Quỹ chú rằng: “(Vũ) trị thủy phải trèo đèo lội suối, sinh bệnh ở chân, cho nên bước đi tập tễnh… các vu hay bắt chước lối đi của Vũ”. Cát Hồng đời Tấn miêu tả cụ thể về “bước Vũ” trong thiên Đăng thiệp sách Bão phác tử như sau: “Cách thực hiện bước Vũ: đứng thẳng, chân phải bước lên trước, chân trái đặt phía sau, sau đó bước lên trước, chân phải để cho chân trái bước theo chân phải, đó là bước thứ nhất. Tiếp đó đặt chân phải lên trước, rồi chân trái lên trước cho chân phải bước theo chân trái, đó là bước thứ hai. Sau đó chân phải lại để chân trái bước theo như trước, đó là bước thứ ba. Như thế là xong cách bước theo kiểu bước Vũ”. Cách trị bệnh bằng phương pháp giáng thần kiểu như thế vẫn lưu hành mãi về sau. Thiên Trần Hiển Đạt truyện sách Nam sử chép rằng: “Tên trúng vào mắt trái, không lấy được đầu mũi tên ra. Bà già họ Phan ở thôn Địa Hoàng chữa trị rất giỏi. Trước tiên, bà ta lấy đinh đóng vào, đoạn làm động tác bước “bước Vũ”, chiếc đinh lập tức trồi ra, đầu mũi tên trong mắt Hiển Đạt cũng ra theo”. Đến thời cận đại, loại hình vu thuật này vẫn còn lưu truyền, bởi ở những vùng thôn quê lạc hậu, các bà vu vẫn tiếp tục hành nghề.

Thứ ba là dùng trong tang lễ. Thiên Tư vu thuộc phần Xuân quan tông bá sách Chu lễ quy định: “Phàm việc tang đều có lễ vu giáng”. Trịnh Huyền chú rằng: “Giáng là xuống tức lễ vu nhập đồng. Đời nay người chết vừa liệm xong thì vu giáng đồng, đó là lệ xưa còn lưu lại”. Mục đích của hoạt động này là nhằm đuổi tà ma, trừ ôn dịch.

Ngày nay chúng ta không còn được biết về nghi thức giáng thần thời Lưỡng Hán, song chúng ta có thể thấy được quang cảnh lễ giáng thần thời Tấn. Hạ Thông truyện trong thiên Ẩn dật sách Tấn thư chép rằng: “Ông ta theo cha là Kính Ninh cúng tế tổ tiên, đón hai nữ vu là Chương Đan và Trần Chu, người đẹp, ăn mặc diêm dúa, giỏi ca múa. Đêm đến, khua chuông gõ trống, đàn sáo vang lừng. Đan, Chu cầm dao cứa lưỡi, nuốt dao nhả lửa, mây mù tan biến. ánh sáng vằng vặc… Vào cửa, bỗng thấy Đan, Chu ở nhà giữa, bèn nhẹ gót trở ra. Ma quỷ nói cười, bay đến cời lửa, thù tạc lại qua”. Đương nhiên hoạt động giáng thần thời Tây Tấn đã hấp thu các nội dung ma thuật, tạp kỹ… ở vùng Tây Vực, cho nên chắc chắn nó phải phong phú hơn nhiều so với thời Hán. Song qua đó chúng ta có thể thấy đôi nét về hoạt động giáng thần thời Hán.

4. Lời kết.

Thời Lưỡng Hán, tôn giáo cổ đại Trung Quốc đang ở vào giai đoạn manh nha. Đạo giáo của chính Trung Quốc lại chưa hình thành, Phật giáo thì mới truyền nhập, cho nên toàn xã hội Trung Quốc đặc sệt không khí quỷ thần như Lỗ Tấn nhận xét: đương thời “vu thuật thịnh hành, mà tà đạo càng phát triển”. Người ta cho rằng vạn vật đều có linh hồn, quỷ thần không đâu là không có, do đó người ta phải nhờ cậy vu và vu thuật liên hệ với quỷ thần nhằm cầu phúc trừ tai hoặc nhằm đạt được một mục đích nào đó. Vì vậy, vu và vu thuật rất thịnh hành trong thời Lưỡng Hán.

Nhưng cũng cần thấy rằng, trong điều kiện lịch sử trung ương tập quyền và quân chủ chuyên chế ngày càng thắt chặt, tầng lớp vu hịch cổ đại Trung Quốc chưa từ tập đoàn hay giai tầng tế tự chuyển hóa thành tập đoàn tôn giáo như ở phương Tây, mà họ đi theo con đường phát triển khác, phân thành hai luồng trong triều đình và trong dân gian. Trong triều đình, họ dựa vào giai cấp thống trị tập quyền, và trở thành công cụ liên hệ giữa tầng lớp thống trị với thế giới thần linh. Còn trong dân gian, họ hòa mình vào với dân chúng, người thì chữa bệnh, người thì bói toán, người thì giáng thần cầu phúc trừ tai, họ trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống nhân dân. Đến thời Đông Hán, vu hịch đánh mất dần chức năng đầu tiên, chỉ còn là một giai tầng xã hội mang tính dân gian thuần túy. Từ đó trở đi, cùng với sự thịnh hành của Phật giáo và Đạo giáo, họ hấp thu mạnh mẽ nền văn hóa tôn giáo ngoại lai cũng như bản địa, đồng thời vẫn gìn giữ và kế tục nền văn hóa truyền thống. Vậy nên mặc dù Phật giáo và Đạo giáo khá thịnh hành, con người ta ngày càng có nhiều nơi để gửi gắm tinh thần, song Phật giáo và Đạo giáo vẫn không thể thay thế được ảnh hưởng của vu và vu thuật trong dân gian. Và dường như vu và vu thuật có sức đe dọa và lôi cuốn mạnh mẽ hơn trong lãnh địa tinh thần của con người(**).

Hoàng Phương Mai dịch

CHÚ THÍCH:

(1) Vọng tự, vọng diên: đều là các lễ dùng để tế trời, lễ vật dùng tiền chứ không dùng súc vật, xôi thịt. Hai lễ này như nhau tuy nhiên lễ vật dùng có khác nhau.

(2) Cuối mùa đông làm lễ xua đuổi ôn dịch để tống tiễn những điều không may, việc tế lễ bắt đầu từ nơi làm lễ, vu với thần thông, cho nên bảo phía đông thì tế phía đông, phía tây thì tế phía tây, gần thì tế gần, xa thì tế xa.

(3) Lễ trừ tai cầu phúc được tiến hành vào mồng 3 tháng 3 hàng năm.

(4) Phòng trung, đường thượng: nơi vừa để cúng tế vừa ca tụng công đức của tổ tiên. Thiên xã: tên một ngôi sao ở phương Nam.

(5) Đông quân: thần mặt trời. Vân trung quân: thần mây. Tộc nhân, tiên xuy: tên các vị thần quản việc bếp núc.

(6) Xã chủ: 3 vị xã chủ. Vu bảo, Tộc luy: tên 2 vị thần.

(7) Vu tiên: tên vị thần tổ tiên của các vu. Thí cháo: vị thần chuyên quản việc thí cháo.

(8) Cửu thiên: gồm Quân thiên ở giữa, Thượng thiên phía đông, Mân thiên phía đông bắc, Huyền thiên phía Bắc, U thiên phía Tây bắc, Hạo thiên phía Tây, Chu thiên phía Tây nam, Viêm thiên phía Nam, Dương thiên phía đông nam. (Theo Hoài Nam tử ). Còn “Thái huyền kinh” chú: Cửu thiên gồm: Trung thiên, Tiển thiên, Đồ thiên, Phạt cánh thiên, Tối thiên, Quách thiên, Hàm thiên, Trị thiên, Thành thiên.

(9). Hiền lương văn học: trong chế độ khoa cử thời Hán có hai khoa mục đặc biệt là Hiếu liêm và Hiền lương phương chính. Hiếu liêm trọng phẩm hạnh cho nên ít người ứng tuyển. Còn những ai có tài văn chương đều được tuyển làm Hiền lương phương chính, mỗi khóa tuyển hơn trăm người. Hiền lương phương chính còn được gọi là Hiền lương văn học hoặc Hiền lương.

(10) Hội nghị Diêm Thiết: là một cuộc hội thảo thời Hán Vũ Đế bàn về chính sách của nhà nước có liên quan đến vấn đề kinh doanh muối và sắt.

(11) Aurel Stein (1862-1943) là nhà khảo cổ học người Anh.

(12) Sigmund Frend (1856-1939) nguyên tên là Sigismund Solomon, nhà tâm lý học người áo, sáng lập ra ngành Tinh thần phân tích học.

(**) Bài này do nữ GS.TS Mã Tân viết, đăng ở Tạp chí Văn Sử Triết số 3-2001 tr.119-126.

TB

MỘT BƯỚC NGOẶT TRÊN CON ĐƯỜNG TÌM HIỂU TRUYỆN KIỀU
(Nhân đọc Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận của Đào Thái Tôn)

LÊ THÀNH LÂN

Có được cuốn Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận(1), tôi đọc liền một mạch, từ đầu đến cuối, như đọc một cuốn tiểu thuyết hay. Tôi mê cuốn sách này, bởi, ngoài cái lẽ yêu văn học nói chung, yêu Truyện Kiều nói riêng, yêu cụ Nguyễn Du, đồng cảm với Đào Thái Tôn; tôi còn muốn tìm thấy ở cuốn sách một phương pháp tư duy mới, một phương pháp làm việc nói chung, một phương pháp nghiên cứu văn bản học nói riêng và cũng từ đó tôi tìm thấy ở anh một sự đam mê dễ lan tỏa. Tôi tin rằng chỉ có một cái “say” thật sự cộng với một tư duy tinh tế mới có thể dẫn anh đến một kết luận độc đáo. Tôi cảm nhận, phải chăng, giữa tôi và anh tuy rất “khác nhau”, nhưng lại có một cái gì rất giống nhau, cứ như hai cực từ trái dấu của hai cục nam châm đặt gần nhau vậy.

Chúng tôi cùng đi “tìm vàng”, cùng “tầm nguyên”. Anh đi tìm những bản Truyện Kiều, tôi đi tìm những cuốn lịch cổ Việt Nam. Anh đi đến kết luận “không có vàng ròng”, tức là không có “bản Phường do Phạm Quý Thích in” cũng như không có “bản Kinh do Tự Đức cho in”. Còn tôi may mà tìm thấy “vàng ròng”, tìm thấy 2 cuốn lịch cổ của Việt Nam vô cùng quý báu, đó là cuốn Bách trúng kinh in vào thời Lê trung hưng và cuốn Khâm định vạn niên thư in trong thời Nguyễn. Chúng tôi đều phải khảo cứu văn bản, nhưng theo hai hướng khác nhau. Anh theo hướng phủ định. Tôi theo hướng khẳng định. Chúng tôi tuy không đồng đạo (cùng một hướng nghiên cứu), nhưng lại có một “người đồng đạo”, đó là học giả Hoàng Xuân Hãn. Anh cùng một dòng suy nghĩ về Truyện Kiều, về Hồ Xuân Hương với Cụ Hãn và chính anh là một trong hai người đã lên tiếng bênh vực trước việc phê bình thiên lệch, xúc phạm nhà bác học quá cố Hoàng Xuân Hãn. Còn tôi là người tiếp tục công việc nghiên cứu lịch Việt Nam của Cụ Hãn, khẳng định những dự đoán của Cụ Hãn về lịch cổ Việt Nam là đúng.

Có điều là công việc nghiên cứu và thảo luận Truyện Kiều của anh được dư luận rộng rãi quan tâm, đón nhận một cách hồ hởi và tham gia thảo luận. Còn tôi rất “cô độc”: lịch Việt Nam chưa được nhiều người quan tâm. Dường như rất ít người đọc các bài của tôi và tôi càng ít nhận được những ý kiến đóng góp. Tôi cảm thấy mình dường như vẫn đang “độc thoại”, đúng sai chẳng mấy ai bàn. Nhưng chúng tôi đều “say” cái “nghiệp” của mình.

Cuốn Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận của Đào Thái Tôn chia làm ba phần. Phần đầu: Nghiên cứu, khoảng 240 trang, là phần chính làm nên một bước ngoặt trên con đường nghiên cứu Truyện Kiều. Phần này đã tập hợp một số bài nghiên cứu chữ nghĩa Truyện Kiều của anh. Phần hai: Thảo luận, khoảng 190 trang, tập hợp các bài viết của anh và Vũ Đức Phúc tranh luận với Nguyễn Quảng Tuân về bài trả lời phỏng vấn của cụ Hãn, được in theo trình tự thời gian công bố bài viết. Phần cuối là Phụ lục in một số bài xung quanh quá trình nghiên cứu cùng chữ nghĩa Truyện Kiều của Nguyễn Văn Hoàn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Đăng Na, Phạm Luận. Cũng vì vậy cuốn sách thêm phần hấp dẫn và thú vị.

I. Ta hãy nói về phần đầu cuốn sách.

Việc tìm hiểu Truyện Kiều có thể tạm chia ra làm 2 giai đoạn với cái giới hạn nằm vào khoảng thập kỷ thứ 2 hoặc 3 của thế kỷ XX. Tất nhiên, việc chia đó chỉ là ước lệ mang tính tương đối. Giai đoạn đầu tạm coi là giai đoạn thụ cảm, giai đoạn sau là khảo cứu.

Về thụ cảm có hai khuynh hướng chính: Một là bình chú, hai là nhuận sắc.

+ Bình chú, là việc bình luận và chú giải, nhất là tìm và giải nghĩa những điển cố mà Nguyễn Du đã dùng, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức Truyện Kiều. Công việc này có thể được các nhà nho lớp học trò Phạm Quý Thích làm đầu tiên, kế đến là lớp học trò Nguyễn Văn Siêu; rồi các vị quan trong triều, tiếp đến Kiều Oánh Mậu và kết quả là bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu cho in năm 1902. Đào Thái Tôn nhận xét: “Phần chú giải Đoạn trường tân thanh thực chất đã có phần đóng góp khá quan trọng của những Tiến sĩ, những nhà nho làm quan trong triều đình Huế mà bản Kiều Oánh Mậu chỉ là tập đại thành” (78)(2). Đây là một đóng góp lớn của lớp người đi trước vào việc quảng bá và “định bản” Truyện Kiều.

+ Nhuận sắc, hay có thể gọi là “sửa chữa”. Vào buổi đầu, việc này thường được làm song song với công việc trên. Học giả Hoàng Xuân Hãn nói: “Bởi vì cái tục của người Việt Nam ta, cũng như người Tầu, là không có nguyên bản khi nào cả. Một bản ra thì rồi ai đọc, thích thế nào, sửa thế ấy, đến lúc viết lại hay đưa ra khắc, thì khắc lời của người đã chữa rồi chứ không phải là nguyên bản” (263). Phải chăng việc sửa chữa như thế cũng có thể coi là “làm loạn Truyện Kiều” như Vũ Đúc Phúc đã viết ? Kết quả là càng ngày càng có nhiều “dị bản” Truyện Kiều và ngày càng xa rời văn bản gốc của Nguyễn Du. Việc làm đó gây khó khăn cho việc ngày nay muốn khôi phục nguyên tác Truyện Kiều.

Cũng may mà “ngay từ khi ra đời Truyện Kiều đã được Phạm Quý Thích dang tay chăm bẵm, ông không chỉ khen ngợi, tâm đắc, làm thơ vịnh tác phẩm này mà nhờ ông, cho đến đời Tự Đức, những truyền bản ban đầu được truyền bá rộng rãi tại đất Thăng Long có thể xem là những văn bản “có cơ gần nguyên tác”. Đó là “một duyên may cho Nguyễn Du và cho văn học dân tộc (125).

Về khảo cứu có hai bước quan trọng là sưu tầm và xử lý văn bản.

Để có thể bàn về văn bản, chúng ta cần tìm hiểu về việc phân loại văn bản, đặc biệt là phân loại văn bản Truyện Kiều.

Phân loại theo ngôn ngữ thì có bản Nôm, bản Quốc ngữ, bản ngoại ngữ (Pháp, Đức, Hán...) và cả bản song ngữ. Đối với Truyện Kiều các nhà nghiên cứu tập trung vào các bản Nôm. Nhưng, để thảo luận, một số bản Quốc ngữ mang tính khảo cứu cũng thường được nhắc đến. Còn đối tượng sưu tầm chỉ là các bản Nôm.

Theo hình thức thì chia ra bản chép tay (viết) và bản in. Khi nói tới một bản nào đó mà không cho biết nó là bản chép tay hay bản in sẽ là một thiếu sót lớn, có khi vì thế mà gây ra hiểu lầm kéo dài và những ngộ nhận đáng tiếc, như Kiều Oánh Mậu đã làm.

Xuất xứ (nguồn gốc: nơi in, nơi chép) văn bản cũng đóng góp một vai trò quan trọng, bởi ta biết xuất xứ sẽ để lại dấu vết nhất định về phương ngữ, dù cho có khi rất nhỏ trong văn bản và chính xuất xứ văn bản còn cho ta biết “sự truyền bá Truyện Kiều” như thế nào. Chẳng hạn, bản Phạm Kim Chi - ông “Phán Sài Gòn”, sẽ có những phương ngữ Nam Bộ trong chữ Quốc ngữ của ông; bản Duy Minh Thị in ở Phật Sơn (Trung Quốc), sẽ có những chữ sai do thợ khắc Trung Quốc không biết chữ Nôm.

Đối với Truyện Kiều còn có ba loại văn bản được đặc biệt chú ý khi phân loại để tìm kiếm và khảo cứu là bản Phường, bản Kinh và bản Tiên Điền.

Ngoài ra còn cần phân biệt 2 loại văn bản: có hay không có phần bình chú.

Khi nói về một văn bản Kiều nào đó, ngoài năm in, nhà tàng bản (nhà xuất bản), người khảo đính hay bình chú, ta cần thông báo được xếp vào loại nào theo những tiêu chí trên.

Đáng tiếc, Nguyễn Văn Hoàn chắc là không thật sự thấy hết tầm quan trọng của việc phân loại văn bản này, nên đã lầm khi cho rằng “bản Kiều Oánh Mậu về cơ bản vẫn là một bản Phường” - tuy ông vừa nhắc lại ý kiến của Đào Duy Anh là: “bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu hiệu đính và cho khắc... là đại biểu cho bản Kinh” (442). Chính ông viết: “Khi mới bắt tay vào việc tôi chưa có một ý niệm gì về các loại bản Kiều” (343) và vào những năm sáu mươi, khi được làm việc với cụ Bùi Kỷ cũng như cụ Nguyễn Đình Ngân (436, 438), ông cũng không chú ý hỏi các cụ rằng các bản Kiều được đề cập đến là bản chép tay hay khắc gỗ. Điều này có lẽ đã phần nào hạn chế kết quả nghiên cứu của ông.

Lúc đầu, từ “bản Phường” chỉ để chỉ một bản duy nhất như một danh từ riêng, ta tạm gọi là “bản Phường gốc”. Về sau nó được mở rộng thành danh từ chung chỉ các bản có những đặc điểm nhất định. “Bản Phường” là khái niệm dùng để chỉ tất cả các bản Nôm in theo lối khắc ván của các nhà tàng bản... tại phường Hàng Gai, Hà Nội” (17). “Theo truyền thuyết thì “bản Phường” quý nhất, gần với nguyên tác nhất là bản do Phạm Quý Thích (1759 - 1825), “bạn văn chương của Nguyễn Du” (1766 - 1820), do yêu tác phẩm này, đã điểm xuyết đôi chỗ, đổi tên rồi cho khắc in tại phường Hàng Gai, Hà Nội, nhưng bản này đã thất lạc” (17). Đó là “bản Phường gốc”; nếu có, nó phải được in trước năm 1825.

“Cũng theo thuyết được truyền lại, “bản Kinh” là bản Truyện Kiều mà sau khi Nguyễn Du mất 51 năm, Tự Đức nhân việc tìm thấy bản Phường của Phạm Quý Thích, đã cùng quần thần sửa chữa đôi chút rồi làm bài Tổng từ, cho in ở kinh đô (Huế) vào năm 1871. Nhưng bản này đến nay cũng không còn” (18). Tạm gọi bản này là “bản Kinh in”. Theo Đào Thái Tôn, về sau, bản Kinh có thể được Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và Lê Văn Hòe dùng như một danh từ chung, chỉ “các bản Kiều chép tay có xuất xứ từ Huế mà các ông sưu tầm được” (63). “Các văn bản có xuất xứ từ Kinh đô (Huế)..., đầu thế kỷ này, rơi vào tay nhà biên khảo Truyện Kiều nào thì nhà biên khảo đó gọi là “bản Kinh” của mình” (148).

Bản Tiên Điền được nhắc tới “với hàm nghĩa một di cảo, một thứ “bản gốc” Truyện Kiều do các thế hệ cháu con của Nguyễn Du đã truyền nhau lưu giữ” (69).

Ai cũng biết: “Nhân tố tư liệu có tầm quan trọng sống còn đối với đề tài này”(434); “biện pháp căn bản nhất vẫn là cần phải tiếp tục công việc phát hiện, sưu tầm các bản Kiều cổ một cách hệ thống và sâu rộng hơn nữa” (114), như Nguyễn Văn Hoàn đã viết. Bởi thế, việc trước tiên phải làm là sưu tầm các văn bản Truyện Kiều; việc sưu tầm này tiến hành theo nhiều chiều hướng khác nhau:

+ “Mục tiêu cao nhất mà chúng ta đề ra gần nửa thế kỷ qua” là “đi tìm nguyên tác Truyện Kiều” (129). Việc đó nhiều người nhận ra là vô vọng hoặc mang máng nhận thấy là không thể làm được, nhưng chưa mấy ai nói ra. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã cho rằng “nguyên bản không tìm ra được nữa” (244). Phải chăng một phần vì thế mà có người không nhắc đến bản Tiên Điền, có người tuy nhắc đến nhưng không mấy mặn mà; bởi ít ai tin đó là nguyên tác hay có “tự tích” gì của Nguyễn Du.

+ Vì thế, người ta càng đặt hy vọng vào việc tìm được “bản Phường gốc”, là bản do Phạm Quý Thích khắc in và “bản Kinh in”, là bản do Tự Đức cho khắc in.

Đến đây chúng ta phải tìm hiểu lịch sử hình thành tên gọi một vài văn bản. Đào Thái Tôn viết: “Theo sự đọc của chúng tôi thì, người đầu tiên đề ra hai khái niệm “bản Kinh”, “bản Phường” chính là Kiều Oánh Mậu. Trong bản Đoạn trường tân thanh do ông khảo đính và cho khắc in năm 1902, Kiều Oánh Mậu đã tung ra giữa học giới hai khái niệm này mà không một lời “định nghĩa”. Ông không nói rõ “bản Phường” ông dùng là bản in năm nào, chỉ nói là có năm, sáu bản khác nhau. ông cũng không nói rõ “bản Kinh” ông dùng là bản in hay bản chép tay. Đọc ông, ta chỉ biết “bản Kinh” mà ông có được và muốn nói tới chỉ là bản do bạn ông là Đào Nguyên Phổ mang từ trong Kinh đô Huế ra, tặng ông vào năm 1898” (19). Phải chăng, chính việc Kiều Oánh Mậu không nói rõ về hai bản này là chép tay hay in, nếu in thì in năm nào, nên sau này học giả Hoàng Xuân Hãn phải phàn nàn rằng: “mình bây giờ hơi lỡ đỡ” (261) và nhiều người lúng túng.

+ Một khuynh hướng khác là tìm những bản Phường in vào thời Tự Đức, càng nhiều bản khác nhau càng tốt, các bản càng sớm càng quý. Cho đến nay trong các bản đã tìm được thì bản sớm nhất là bản Liễu Văn đường khắc in năm 1871.

+ Học giả Hoàng Xuân Hãn lại có xu hướng tìm những bản chép tay “có thể là xưa hơn bản in”, tức là trước năm 1871. Nhưng việc xác định xem bản chép tay này được chép vào khoảng thời gian nào là một việc rất khó, nên cụ viết “nhưng cũng không lấy gì làm chắc” (246). Trong các bản, có bản ở trong Nam thấy đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng. Thì mình chắc bản ấy người ta sao lại một bản từ đời Gia Long” (247). “Mình nhận thấy rằng cái bản còn giữ nguyên vẹn những chi tiết của cụ Nguyễn Du, thì bản ấy là bản đầu tiên, ít ra gần với cụ Nguyễn Du hơn cả” (257).

Công việc tiếp theo là xử lý văn bản và bắt tay vào khảo cứu, gồm các khuynh hướng sau:

+ Tìm hiểu sâu hơn, kỹ hơn về lai lịch Truyện Kiều và hành trạng Nguyễn Du để xem Truyện Kiều được viết vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào; nhờ đó hiểu rõ hơn về Truyện Kiều.

+ Nguyễn Văn Hoàn chủ trương: “Việc tra cứu và khôi phục lại nguyên tác Truyện Kiều phải được xem là một công việc nghiên cứu lâu dài. Nhưng trong lúc chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu như thế, trước mắt, chúng ta cần hiệu đính lại văn bản Truyện Kiều để đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội đương đòi hỏi... đặng phục vụ nhu cầu học tập, thưởng thức và nghiên cứu ở trong nước và cả ở ngoài nước” (141).

+ Nguyễn Thạch Giang đưa ra ba mục tiêu, trong đó có mục tiêu thứ hai là: “Cung cấp được cho bạn đọc một bản Kiều mà đông đảo quần chúng hiện nay chấp nhận được, nghĩa là bản Kiều quen với mọi người, một bản Kiều y như bản Kiều mà nhân dân ta, các bà mẹ Việt Nam chúng ta đã ngâm đã thuộc...” (119).

+ Đào Thái Tôn đã phản bác mục tiêu này và cho rằng: “bản Kiều mà đông đảo nhân dân ta đã ngâm đã thuộc chính là Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu chú thích” (119). Như thế “nghĩa là không “thoát” được câu chữ trong “bản Kinh” mà Kiều Oánh Mậu đã trung thành” (120). Anh chủ trương trên cơ sở “thảo luận... với nhau từng câu, từng chữ, từng điển tích, từng âm đọc...” (239); “phấn đấu để có một bản Kiều gần với nguyên tác... bằng việc đặc biệt chú trọng đến các bản in đời Tự Đức” (124). Chúng ta không thể tin nhiều vào các bản thuộc dòng bản Kinh, căn cứ theo Kiều Oánh Mậu bởi ông đã châm chước từng chữ, thay cũ đổi mới... nhân vần mà đổi hẳn đi để cho hợp với văn lý”. Anh chủ trương rằng nếu như những bản khắc in cuối đời Tự Đức đã thống nhất với nhau ở một chữ, một câu nào đó, thì chưa đặt vấn đề đó có phải là nguyên tác của Nguyễn Du không, nhưng nhất thiết phải theo. Nếu khi ta thấy tất cả các văn bản đời Tự Đức đều khắc thống nhất câu thơ như câu 327 đã dẫn (“Tháng tròn như gởi cung mây” – LTL chú), thì phải chú như Tản Đà là “không rõ ra sao” chứ không nên cưỡng giải” (129).

+ Tôi từng nghe Cụ Hãn nói có dự định viết 2 cuốn Kiều, một cuốn mang tính khảo cứu đưa cho một nhà xuất bản ở trung ương in, một cuốn mang tính giải nghĩa đưa cho nhà xuất bản ở quê Cụ in. Qua bài trả lời phỏng vấn này (243-174), ta phảng phất thấy điều đó, tuy cụ không có ý nhấn mạnh.

Cụ nói: “lấy tám bản Kiều đời Tự Đức là đời xưa, tôi (HXH) so sánh từng chữ một... chỉ cái kết quả mà tôi xét đoán ấy, in ra cũng thành cái bản Kiều, mà tôi gọi là bản Kiều Tầm Nguyên... Thì cũng chỉ như các bản Kiều khác, chứ không có gì là khác lắm... Phần chú thích như thế thì tôi làm rồi... đã 40, 50 năm rồi (274). Cụ nói “chỉ như những bản Kiều khác” là nói khiêm tốn, là nói đại để về phương pháp, chứ nhất định về nội dung, về chất lượng phải hơn các bản khác, nếu không thì cụ cặm cụi 50 năm làm cái “công việc kế toán” ấy làm gì.

Từ lâu, Hoàng Xuân Hãn đã không bằng lòng dừng lại ở “bản Kiều” đời Tự Đức mà Cụ đã “bơi ngược dòng tìm về những bản sớm hơn là những văn bản mang dấu vết được chép trong đời Gia Long hay những bản có chứng tích chứng tỏ được khắc theo loại văn bản đó (124) để “tái lập phần lớn văn bản đời xưa, có thể nói là nguyên lời Nguyễn Du” (244). “Cho nên cái phần khảo cứu là cần... thì cái công việc ấy, tôi cốt làm” (273).

Bây giờ chúng ta xem, kết quả chính của việc khảo cứu văn bản Truyện Kiều của Đào Thái Tôn.

1. Trong bài Không có “bản Phường” (Với nghĩa là bản Kiều do Phạm Quý Thích đưa in), trang 17 - 42, Đào Thái Tôn đã phản bác thuyết cho rằng Phạm Quý Thích “điểm xuyết đôi chỗ, đổi tên, làm đề từ, rồi cho khắc in Truyện Kiều”.

Trước tiên anh điểm lại quá trình hình thành khái niệm “bản Phường”. Người đầu tiên đưa ra khái niệm này là Kiều Oánh Mậu vào năm 1902. Năm 1925, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim nêu rõ hơn rằng bản này do Phạm Quý Thích in; nhưng ở trang 8 (bản Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim), các cụ lại viết hai chữ “nghe đâu”, tức là các cụ cũng không có các bản đó trong tay. Đó là vào giai đoạn thụ cảm, vào cái thời “không có đầu óc thiết thực”, các cụ chưa có khái niệm về văn bản học như ngày nay.

Việc khảo cứu chỉ thực sự bắt đầu từ Nguyễn Văn Hoàn vào năm 1965, khi đó ông cẩn thận, dè dặt cho rằng bản phường do Phạm Quý Thích in chỉ là truyền thuyết... nhưng rồi sự cẩn thận, dè dặt này cứ giảm dần qua Nguyễn Thạch Giang vào năm 1972, qua Đào Duy Anh vào 1979. Cuối cùng, vào năm 1996, Nguyễn Quảng Tuân đã không coi đó là truyền thuyết mà là sự thật.

Đào Thái Tôn đã lật lại vấn đề, bác bỏ khẳng định trên, chẳng những thế anh bác luôn truyền thuyết. Anh đã chứng minh đầy thuyết phục rằng Phạm Quý Thích không đổi tên cho tác phẩm của Nguyễn Du; ông không viết “đề từ” và nhất là ông không hề cho khắc in Truyện Kiều, tức là không có bản Phường do Phạm Quý Thích in.

Lập luận của anh có nhiều, chẳng hạn, Phạm Quý Thích yêu tác phẩm này lắm, đem triết tự cái tên Đoạn trường tân thanh đưa vào câu 5, câu 8 của bài thơ, sao ông lại có thể đem đổi cái tên ấy đi; bài thơ đó vốn không được viết ra để làm “đề từ” mà có tên là: Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm. Không có Hoa Đường tàng bản, không có nhà in Phạm Quý Thích, ngay đến thơ của bản thân ông, Phạm Quý Thích cũng có in được đâu. Ngày ấy chỉ có thơ của nhà vua hay của họ hàng nhà vua mới được khắc in... Những luận điểm này rất có sức thuyết phục.

2. Trong bài Không có “bản Kinh” Truyện Kiều do vua Tự Đức sửa đưa in, (43- 68), Đào Thái Tôn lại bác tiếp cái truyền thuyết thứ hai về sự tồn tại của một “bản Kinh in”.

Bằng một trực giác nhạy bén, không tin rằng có chuyện Tự Đức cho in Truyện Kiều của Nguyễn Du, Đào Thái Tôn lật lại trang sử hình thành truyền thuyết đó và cả sự việc từ truyền thuyết biến thành câu chuyện như thật; từ đó, anh tìm ra những chứng lý để phủ định câu chuyện hoang đường kia: không thể có sự kiện Tự Đức cho in Truyện Kiều mà lại không thấy các sử quan ghi chép lại. Mà thế thì các ông quan to là các học giả suốt đời lưu tâm đến trước thuật và tàng thư như Cao Xuân Dục chẳng hạn, phải có đến vài bản; thì các lầu tàng thư của các vua nhà Nguyễn, các tủ sách của các gia đình tôn thất ở Huế, các tủ sách của những tư gia từ Nam chí Bắc, trong và ngoài nước cũng phải có vài bản. Bởi vậy, anh viết, “theo tôi thì không thể có hiện tượng “hòn chì thì mất hòn đất thì còn như thế được” (45).

Anh tìm từng chứng cứ minh chứng cho trực giác của mình.

- Năm 1898, Đào Nguyên Phổ viết đây là “bản Kiều mới”. “Bản mới” – tức không phải là “bản cũ”, không phải bản Tự Đức cho in năm 1871 (nếu có), cũng không phải các bản Phường, chẳng hạn bản Liễu Văn đường in năm 1871.

- Năm 1902, Kiều Oánh Mậu “hé” cho ta biết “cái mới”, mà các bản khác không có, chính là lời bình của Vũ Trinh viết bằng mực đen, của Nguyễn Lượng viết bằng mực son. Kỹ thuật in của ta lúc đó chưa thể in sách hai màu mực như vậy được. Thế tất, đó phải là bản chép tay. Đã chép tay thì chẳng phải bản Tự Đức “cho in”. Ngay đến Diệu Liên tập của Công chúa Mai Am, bằng vai bà của vua Tự Đức được in năm 1867, ghi là có 5 mầu mực cũng chỉ in toàn một mầu mực đen. Các mầu kia chỉ có trong bản thảo chép tay được coi là “chuẩn” ở cái thời người ta xem “thủ bút” của tác giả mới là quý. Thế mà, ngặt nỗi, Kiều Oánh Mậu lại gọi “bản Kiều mới ấy là “bản Kinh”, không nói rõ đó là bản chép tay nên đã gây hiểu lầm cho một thế kỷ.

- Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim (năm 1925), Lê Văn Hòe (năm 1953) cũng gọi các bản Kiều chép tay có xuất xứ từ Huế mà các ông sưu tầm được là các “bản Kinh”. Vậy là “bản Kinh” không còn là một bản duy nhất nữa và đều là các bản chép tay.

Trở lên là ở giai đoạn thụ cảm, thời kỳ “không có óc thiết thực”; các vị đều không chú ý đến việc phải thông báo bản mình đang dùng được phân loại là bản chép tay hay bản in. Chính đó là điều làm cho lớp người sau “lỡ đỡ”, phân vân, lúng túng và hiểu lầm. Khi bước vào thời “khoa học”, vào năm 1965, Nguyễn Văn Hoàn đã xem chuyện Tự Đức cho in Truyện Kiều như một truyền thuyết, nhưng qua Nguyễn Thạch Giang, năm 1972, Đào Duy Anh năm 1979 thì hai chữ “truyền thuyết” đã mờ đi, cuối cùng đến Nguyễn Quảng Tuân, năm 1996 thì tuyệt nhiên không còn hai chữ “truyền thuyết” nữa.

Thôi thì, có như thế, mới có việc cho Đào Thái Tôn “thử sức”, khẳng định rằng không thể có việc Tự Đức cho in Truyện Kiều của Nguyễn Du.

3. Trong bài Tìm hiểu thực chất “bản Tiên Điền” Truyện Kiều, Đào Thái Tôn cho thấy đó là bản Kiều chép theo bản Kiều Oánh Mậu, không phải là “bản gốc” như mọi người vẫn tưởng. Bản Tiên Điền là bản được Phạm Kim Chi mượn của cụ Nghè Nguyễn Mai, cháu xa thuộc đời chi khác của Nguyễn Du, phiên âm quốc ngữ thành bản Kim Túy tình từ in năm 1917. Phạm Kim Chi viết rằng “bản Tiên Điền là “bổn chánh” Kim Túy tình từ có chú dẫn điển tích rõ ràng... Tôi thấy chắc gốc như vậy, nên xin phép ông Nguyễn Mai dịch lại, in ra... Ông Mai bằng lòng, nên cho tôi một bài tựa có in ra sau đó” (70). “Giới nghiên cứu Truyện Kiều lâu nay vẫn nhắc tới “bản Tiên Điền” với hàm nghĩa một di cảo, một thứ “bản gốc” Truyện Kiều do các thế hệ con cháu của Nguyễn Du đã truyền nhau lưu giữ” (69). Vậy mà gần một thế kỷ qua không mấy ai mặn mà với “bản Tiên Điền”.

- Cụ Lê Thước từ năm 1922 có về Tiên Điền, “mỗi lần tiếp xúc với cụ Nghè Mai, cũng như với các cụ tôn trưởng khác trong họ, chúng tôi (cụ Lê Thước) có để ý dò hỏi xem trong họ có còn ai giữ được nguyên bản Truyện Kiều, do chính tay tác giả viết ra, hoặc có tự tích tác giả sửa chữa, các cụ đều nói không có bản nào” (72).

- Học giả Hoàng Xuân Hãn cũng gặp cụ Nghè Mai, kể lại: “Người ta vào đây tìm ông Nghè Mai nhiều… tìm bản cũ của Nguyễn Du. Cái lối ngày xưa, người ta hỏi cái gì thì trả lời chóng vánh cho khỏi lôi thôi, thì cụ cứ ừ hết cả… Người nào cũng tưởng là bản của cụ Nguyễn Du cả. Mà sự thực không phải thế… Lời các cụ hồi trước, mình chỉ tin được phần nào mà thôi, không có sự thực, vì các cụ không có óc thiết thực, không có óc khoa học, hai nữa cũng không thấy cái mục đích phải nói thực làm gì” (75).

Đào Thái Tôn đã phân tích để “đi đến kết luận không sợ sai lầm là “Bản Tiên Điền” thực chất chỉ là bản sao lại có sửa chữa bản Kiều Oánh Mậu” (82).

Thế là cả hai văn bản Kiều quý: bản Phường do Phạm Quý Thích in, bản Kinh do Tự Đức cho in, bấy lâu vốn là đối tượng tìm kiếm của giới nghiên cứu Truyện Kiều là không có và bản Tiên Điền cũng không phải là một văn bản gốc. Từ nay, danh sách các bản Kiều trong các sách khảo cứu sẽ vắng bóng chúng và tất nhiên các vị trí số 1, số 2, số 3 sẽ dành cho các văn bản khác. Phải chăng có một các gì hơi hẫng ? Vâng ! Song, đó là sự thật. Chúng tôi đồng ý với Đào Thái Tôn rằng, “chúng ta sẽ đỡ đi cái đau đáu thắc thỏm vì cứ trông chờ vào một thứ văn bản in vốn không hề có nhưng cứ tưởng có mà đã mất, khiến lâu nay nhiều người tưởng rằng chỉ khi nào tìm được những văn bản ấy, mới mong có thể xác lập được một văn bản gần với nguyên tác Truyện Kiều (!)” (67).

Tôi có cảm giác là trước Đào Thái Tôn, học giả Hoàng Xuân Hãn hình như cũng đã có những ý kiến tương tự, nhưng Cụ chưa khẳng định, chưa chứng minh. Cụ viết: “Bản Nôm ấy (bản Phường - LTL chú), tôi chắc chưa in lúc đó đâu (vào thời cụ Phạm Quý Thích - LTL chú)” (258). “Tôi nhờ người ta chép lại thì chỉ có bản chép tay thôi, chứ không có bản in ở trong Huế (tức là bản Kinh in - LTL chú)” (259). “Cụ (Nghè Mai - LTL chú) có cho người này bản này, người kia bản kia (trong đó có bản cho Phạm Kim Chi mượn - LTL chú), người nào cũng tưởng là bản của cụ Nguyễn Du cả. Mà sự thực không phải thế” (245).

Dù sao Đào Thái Tôn vẫn có công đầu, anh phát biểu rõ ràng điều đó, anh chứng minh tính đúng đắn của “phủ định đề” này.

Việc làm của Đào Thái Tôn giống như việc chứng minh rằng “không có động cơ vĩnh cửu”. Đó là lời khuyến cáo cho lớp người sau đừng tốn công vô ích tìm cách phát minh những cái máy chạy bằng động cơ vĩnh cửu như nhiều người thuộc lớp trước.

Trong toán học đó là cách chứng minh phản đề. Cần chứng minh A = B. Ta giả thiết ngược lại là A ¹ B và cố chứng minh điều này. Có 2 khả năng: hoặc là phản đề đúng, tức là: quả thật A ¹ B; hoặc là phản đề sai, vậy có nghĩa là A = B. Trong lịch sử toán học không thiếu những trường hợp một vấn đề được đặt ra để chứng minh, cuối cùng người ta tìm ra lời giải phủ định điều cần chứng minh đó. Khoảng hai nghìn năm người ta tìm cách chứng minh tiên đề thứ 3 của ơ cơ lit để nó trở thành một định lý gọi là định lý về đường song song. Tiên đề này có một cách phát biểu tương đương là: “Tổng các góc trong một tam giác bằng 180o”. Cuối cùng, không một ai chứng minh được điều đó, nghĩa là nó vẫn là một tiên đề, không thể là định lý. Thế rồi, khi khoa học đã chín muồi, người ta thấy có 2 tiên đề khác, dường như là phủ định đề của tiên đề trên: một là: “Tổng các góc trong một tam giác nhỏ hơn 180o”; một nữa là: “Tổng các góc trong một tam giác lớn hơn 1800”; và đó chính là tiên đề thứ 3 của 2 môn hình học mới, đều là hình học phi Ơ cơ lit.

Theo thiển ý của tôi, trong việc nghiên cứu Truyện Kiều đã có nhiều bước ngoặt:

Bước ngoặt thứ nhất: Truyện Kiều được in ra vào năm 1871 bởi Liễu Văn đường tàng bản. Đây là bản in sớm nhất còn tìm thấy, thuộc dòng bản Phường.

Bước ngoặt thứ 2: Truyện Kiều được chú giải trong bản in của Kiều Oánh Mậu vào năm 1902. Đây là bản thuộc dòng bản Kinh được in lần đầu tiên; giá trị của nó là ở chỗ chú giải, nhưng việc nhuận sắc đã làm văn bản xa nguyên tác.

Bước ngoặt thứ 3: Vào năm 1965, bản Kiều của ông Nguyễn Văn Hoàn được in. “Đây là lần đầu tiên Truyện Kiều được biên soạn với một phương pháp văn bản học khoa học. Các văn bản đều được giới thiệu, miêu tả và nhận xét kỹ càng. Bản 1871 đã được giới thiệu nhìn nhận như một văn bản quan trọng trong việc “khảo dị” Truyện Kiều. Nhưng ngày đó, bản 1871 chưa được sao chụp để nhân bản, lưu giữ” (132). Tác giả còn nhầm khi cho rằng bản Kiều Oánh Mậu là bản Phường.

Bước ngoặt thứ 4: Đó là việc công bố cuốn Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận, khẳng định không có “bản Phường do Phạm Quý Thích in”; không có “bản Kinh do Tự Đức cho in” và “bản Tiên Điền” không phải nguyên tác của Nguyễn Du.

Bước ngoặt thứ 5: là việc Đào Thái Tôn sẽ giới thiệu bản Kiều Liễu Văn đường in năm 1871, một bản “xứng đáng được gọi là văn bản in Truyện Kiều cổ nhất”(133) trong một ngày gần đây. “Nhất thiết phải in kèm bản 1871 bằng phương pháp in chụp hiện đại” (138). “Công bố bản 1871, chúng tôi (ĐTT) không đưa thêm dị bản và chỉ đặt nhiệm vụ cố gắng trung thành tuyệt đối với văn bản trong việc phiên âm từng mặt chữ của văn bản này. Những chữ nào khắc sai hoặc mất, đều có chú thích ghi rõ khi thay thế. Trong công việc này, chúng tôi thừa kế thành quả của các nhà nghiên cứu” (143).

Có một lịch trình song song về văn bản học cho 2 vấn đề: Lịch Việt Nam Truyện Kiều:

Năm 1908 Deloustal cho rằng lịch Việt Nam là lịch Trung Quốc; năm 1944 Hoàng Xuân Hãn cho rằng lịch triều Lê khác lịch triều Thanh; năm 1982 Cụ công bố lịch triều Lê và lịch đầu triều Nguyễn do Cụ phục tính; năm 1986 chúng tôi tìm ra bản in Bách trúng kinh; năm 2000 chúng tôi công bố lịch Việt Nam từ năm 1544 đến nay do mình phát hiện ra. Đây là lời khẳng định.

Năm 1902 Kiều Oánh Mậu đưa ra khái niệm bản Phường, bản Kinh (Truyện Kiều); năm 1965 Nguyễn Văn Hoàn cho rằng đó chỉ là truyền thuyết; năm 1996, Nguyễn Quảng Tuân khẳng định đó là sự thật; có lẽ cũng thời gian đó Hoàng Xuân Hãn (bài in năm 1997) gợi ra rằng có lẽ không có việc đó; năm 1998 Đào Thái Tôn chứng minh rằng không có 2 bản in đó. Đây là lời phủ định.

II. Phần hai của cuốn sách tập trung thảo luận về bài viết của học giả Hoàng Xuân Hãn.

Phần này mở đầu bằng bài Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều đăng trên Tạp chí Văn học số 3-1997. Đây là phần hai của bài Cụ Hãn trả lời phỏng vấn của đài R.F.I (Cộng hòa Pháp) do bà Thụy Khuê thực hiện, sau đó in trên tờ Hợp lưu số 29, tháng 6-7/1996. Toàn bộ bài phỏng vấn nay được in lại trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I, từ trang 422 đến 487. (Đáng tiếc là bài đăng trên Tạp chí Văn học bị lược bỏ các câu hỏi của bà Thụy Khuê (tuy các câu hỏi này rất ngắn, thường chỉ một hai dòng), vì thế đã làm cho bài trả lời phần nào bị mất đi sự mạch lạc; chẳng hạn tại cuốn Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận, trang 266 đầu dòng 18 có một câu chỉ có chữ “không” rất lạc lõng; hay như ở trang 260 có câu “chắc cô cũng biết đấy” không ăn nhập vào đâu cả, độc giả không thể hiểu ý tứ của các câu đó. Cũng rất đáng tiếc là cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn đã không cho in các chữ Nôm mà Cụ Hãn nêu ra làm thí dụ, chỉ để lại một khoảng trống trong các dấu ngoặc vuông, người đọc không thông thạo chữ Nôm đoán sao được những gì ghi trong đó. Giờ đây, độc giả nào muốn hiểu chính xác ý Cụ, cần phải đọc đồng thời cả hai văn bản).

Tiếp đến là bài Một vài nhận xét về việc nghiên cứu Truyện Kiều của cố học giả Hoàng Xuân Hãn của Nguyễn Quảng Tuân. Chính bài này đã gây nên cuộc tranh luận giữa Đào Thái Tôn (3 bài) và Vũ Đức Phúc (2 bài) với Nguyễn Quảng Tuân (4 bài).

Phải nhận rằng, cách tập hợp, cho in tuần tự, trung thực các bài tranh luận chính vào phần hai cuốn sách của Đào Thái Tôn là một sáng kiến hay, nhất là anh lại cẩn thận bình chú những điểm cần lưu ý. Nhờ đó người đọc dễ dàng nhận thấy được chân tướng của sự việc.

Do khuôn khổ bài viết, chúng tôi sẽ không đề cập đến nội dung cụ thể của cuộc thảo luận, mà chỉ viết thêm đôi điều về học giả Hoàng Xuân Hãn.

Cụ Hãn sinh ngày 8/3/1908 tại Hà Tĩnh và mất ngày 10/3/1996 tại Paris. Cụ là một nhà bác học thông kim bác cổ, hiểu rõ khoa học hiện đại của phương Tây, vận dụng phương pháp khoa học của họ vào nghiên cứu các môn khoa học xã hội nước ta và nhờ thế đạt được những thành tựu vượt trội. Vào cái thời chưa mấy ai biết đến giá trị của những tư liệu cổ, những văn bản gốc, Cụ đã sưu tầm được nhiều tư liệu quý trước khi chúng bị hủy hoại trong chiến tranh và các biến cố xã hội. Khi thì mua, khi thì mướn chép, khi thì cho rập các văn bia quý, khi thì chụp lại… để chuẩn bị cho một cuộc nghiên cứu lâu dài. Bởi thế Cụ có hàng chục bản Kiều, gần chục bản Chinh phụ ngâm, một bản Truyện Song Tinh… (Đáng tiếc là cả Nxb. Văn học vào năm 1987 lẫn Nxb. Giáo dục vào năm 1998 khi in Truyện Song Tinh đều không cho in chụp bản chữ Nôm mà ông đồ Nghệ Lưu Trần Thiền chép lại cho Cụ Hãn. Đây sẽ là một văn bản rất quý cho những nhà nghiên cứu Ngôn ngữ học, vì đây là truyện thơ chữ Nôm Đàng Trong, có trước văn bản Kiều khoảng 100 năm, biết rõ tác giả, khoảng thời gian sáng tác). Người nước ta bây giờ không ai có kiến thức sâu rộng và vững chắc như Cụ. Cụ là Kỹ sư Cầu cống (năm 1934), Thạc sĩ Toán học (năm 1936), Kỹ sư Năng lượng nguyên tử (năm 1958), nhưng hơn hết Cụ là một nhà Việt Nam học số một với 16 cuốn sách, 160 bài báo trên nhiều lĩnh vực rất khác nhau: Lịch sử, Khoa học, Giáo dục, Ngôn ngữ học, Lịch pháp, Văn học cổ…

Cụ làm việc bền bỉ với một tinh thần tự do và khoa học. Cụ không bị ràng buộc bởi một thiên kiến chính trị nào, không bị câu thúc bởi bất cứ ai hoặc một thời hạn nào, chỉ những gì Cụ cho là có lợi cho dân trí, cho nền khoa học nước nhà là Cụ làm. Cụ chỉ công bố kết quả nghiên cứu khi nó đã chín muồi, hoàn chỉnh với một tinh thần thận trọng và khoa học. Quỹ thời gian của một đời người không cho phép Cụ hoàn thành công trình dài hơi nhất, tâm đắc nhất là Truyện Kiều. Có lần cố Giáo sư Tạ Trọng Hiệp cho chúng tôi biết, Cụ còn đang phiên âm, chú giải Hồng nghĩa giác tư y thư của danh y Tuệ Tĩnh; tới nay, chắc cũng chưa hoàn thành. Công việc đó cũng rất lớn, rất phức tạp, rất cần đến bàn tay khối óc của những người như Cụ.

Cụ Hãn được Nhà nước ta truy tặng Huân chương Độc lập và Giải thưởng Hồ Chí Minh. Phải chăng cụ là một Lê Quý Đôn, một Phan Huy Chú của thế kỷ XX ?

III. Phần cuối là phụ lục gồm 7 bài của 5 tác giả cũng rất thú vị.

Cùng giải thích về cái tên cuốn sách Đoạn trường thanh tân của Nguyễn Du mà Nguyễn Đăng Na và Phạm Luận có hai cách nhìn khác nhau, mỗi người một góc độ, một lý riêng, đều hay cả. Vấn đề này dường như chẳng cần phải có sự nhất trí; càng nhiều cách kiến giải càng rộng đường suy xét, càng giúp ra hiểu hơn về Nguyễn Du, về Truyện Kiều.

Chúng tôi có nghe nói Cao Xuân Hạo từng viết rằng ngữ pháp đang được dạy ở nhà trường là ngữ pháp tiếng nước ngoài, nhưng vì bận chưa có dịp nào tìm đọc bài viết hoặc sách của ông và thật sự có ý ngại, có lẽ đây là một vấn đề chuyên sâu, mình khó mà lĩnh hội được. Nay được đọc ba bài ông bàn về “chữ nghĩa” trong Truyện Kiều: “Nghỉ hay nghĩ”; “Nghĩa của “mày ngài” trong câu thơ “Râu hùm, hàm én, mày ngài” và “Trăm năm trong cõi người ta” nghĩa là gì ? thì vỡ ra rất nhiều. Phải thừa nhận rằng, những bài “giảng về ngữ pháp tiếng Việt “thông qua ngôn ngữ Truyện Kiều thế này rất sinh động, rất thuyết phục, đáng là những “mẫu mực sư phạm”. Tôi không còn nhớ mình đã được dạy ngữ pháp tiếng Việt như thế nào, nhưng liên hệ với những gì Cao Xuân Hạo viết thì mới nhận ra rằng, quả thật, lâu nay, mỗi khi viết mình vẫn thường dùng “ngữ pháp tiếng nước ngoài”.

IV. Thay lời kết

Trước hết, chúng tôi muốn góp thêm một vài ý kiến:

* Về hình thức, trong sách có các ảnh; trong nhiều trường hợp cần có đôi dòng thuyết minh kèm theo; hoặc là khi nào nội dung liên quan đến một ảnh thì mở ngoặc chỉ dẫn bạn đọc tìm xem ảnh đó ở trang nào. Có những ảnh theo chúng tôi, không nhất thiết chụp cả trang, chẳng hạn trang 347 có lẽ chỉ cần in một góc nhỏ thôi, nơi có chữ “khổ”.

Trang 303 chụp 1 đoạn trong lá thư của Nghiêm Xuân Hải, chữ rất nhỏ, chen vào giữa bài; rồi ghi chú ở dưới, hiệu quả rất thấp.

* Trong bài Nỗi đau của những câu thơ qua một chữ trong Truyện Kiều, theo chúng tôi, chữ “đôi” còn có nghĩa hai dải đất nhỏ song song nằm cạnh nhau (199), Thúy Kiều muốn được chết theo, nằm ngay bên cạnh Từ Hải.

* Chúng tôi nhận thấy Phạm Quý Thích đặt tên cho bài thơ này là Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm, tức là ông nghe đọc Đoạn trường tân thanh chứ ông đâu có nghe đọc Kim Vân Kiều truyện. Thêm chi tiết này vào bài (Không có “bản Phường” với nghĩa là bản Kiều do Phạm Quý Thích đưa in) thì lập luận sẽ đắt hơn (29).

* Tôi nghĩ rằng, giá như chuyển cái ý nghi ngờ bài Tổng từ của Tự Đức là không có thật, bởi Tự Đức không thể phạm húy chữ “hoa” ở trang 146 vào chuỗi lập luận ở trang 46, ngay ở bài Không có “bản Kinh” Truyện Kiều do vua Tự Đức sửa đưa in thì thật “đắc địa”, chắc sẽ thuyết phục hơn.

* Đào Thái Tôn (ĐTT) dẫn Nguyễn Thạch Giang (NTG):

“Bản này là bản sao lại bản gốc chép tay vào năm Long Phi Kỷ Hợi (1779) Cảnh Hưng thứ 40” (154).

Câu trên có 2 động từ, nên không thật rõ niên đại Kỷ Hợi là năm “sao lại” hay năm “chép tay”. Chỗ này dễ gây hiểu lầm. Nếu hiểu rằng năm Kỷ Hợi là năm “chép tay”, tức là Nguyễn Du sáng tác vào năm ông 14 tuổi; thì ĐTT cần xem lại lập luận của mình trên 2 trang 158-159 khi bác lại NTG.

* Nói về bản Liễu Văn đường in năm 1871, bà Vũ Thị Bích trả lời ông Nguyễn Văn Hoàn rằng: “Cuốn sách chỉ có một. Xin ông yên lòng” (136). Nhưng tôi không thấy yên lòng ! Bởi tôi thấy ở bản NTG (bản in năm 1976) in ảnh bìa bản Liễu Văn đường (1871) khác với bìa bản này ở trang 135 trong sách của ĐTT. Chúng tôi nhận thấy 2 trang bìa này mới nhìn rất giống nhau, nhưng xem kỹ thì không phải là một.

+ Nét chữ trong ảnh ở bản ĐTT mảnh hơn nét chữ trong bản NTG.

+ Bản NTG không có con dấu của thư viện phía trên chữ Liễu.

+ Nhìn kỹ từng chữ thấy có các chữ “tứ”, “tân”, “soạn” khác nhau, đặc biệt là chữ “tàng” khác hẳn nhau.

Chúng tôi đoán, có mấy khả năng sau:

+ Có thể đây là bìa của hai cuốn sách khác nhau. Như vậy là hiện nay còn tồn tại hai bản Liễu Văn đường in năm 1871. Nhưng, như vậy vẫn khó giải thích vì chẳng lẽ cùng năm in mà nhà tàng bản lại dùng 2 mẫu bìa khác nhau ?

+ Trang này ở bản NTG không hẳn là ảnh mà chỉ là một trang chép lại khá khéo. Phải chăng ngày ấy, Nguyễn Thạch Giang cũng chưa được tiếp xúc với phim do Cụ Hãn gửi về, nên tô lại như vậy ?

* Trang 20, dòng 12 và dòng 17 có 2 chữ “chắc cũng” in nghiêng, chúng không liên quan đến nhau vì vậy khổ thứ 3 của trang này trở nên không rõ nghĩa.

* Ông Nguyễn Văn Hoàn viết sai là: “Bản Kiều Oánh Mậu về cơ bản vẫn là một bản Phường” (442 dòng 14). Chỗ này người làm sách cần ghi chú để độc giả khỏi lầm.

* Vì cuốn sách đã in ra, độc giả còn dùng, chúng tôi xin đính chính hộ tác giả một vài lỗi in nhỏ:

Trang

Dòng

In sai

Sửa thành

50

12

đường

Đường

61

10

Diệu Liên thi tập

Diệu Liên tập

243

11-16

“… tiểu học, trì … ung học…”

(Máy tính “nhẩy” thành ra sai 1 đoạn)

266

9

“đầu đời Tự Dức (1840)

“đầu đời Tự Đức (1848)

272

4 ­

Dường

Rường

312

7 ­

huân chương

Giải thưởng

317

1 ­

Huế, 1966

Huế, 1986

333

16

Tuấn

Trấn

414

12

gì đâu ?

gì đâu !

419

4,5 ­

(Tiếng Pháp)

(Sai một chút do thay “phông chữ”

497

8

vm

 

 

 

 

Xin có đôi lời trước khi dừng bút.

Từ trước đến nay, chúng tôi chỉ có một bản Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang và một bản chữ Nôm chép tay vào những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước để đọc, để thưởng thức. Chúng tôi vốn chẳng có kiến thức gì về văn bản Truyện Kiều cũng như những vấn đề thuộc về “chữ nghĩa” trong Truyện Kiều. Cũng không ngờ vấn đề lại có thể phức tạp đến như vậy. Nhờ đọc cuốn sách Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận của Đào Thái Tôn mà chúng tôi vỡ vạc ra được nhiều, bèn theo tinh thần “thuật nhi bất tác” mà viết bài này. Những gì chúng tôi viết ra đây mà bạn đọc cảm thấy chấp nhận được đều là nhờ ở cuốn sách của Đào Thái Tôn. Còn gì sai sót là do chúng tôi chưa kịp “ngộ”; mong được độc giả lượng thứ. Tuy vậy, vẫn mong bài viết này góp được một chút ít vào tiếng nói chung.

L.T.L

CHÚ THÍCH:

(1) Nxb. Hội nhà văn, 2001.

(2) Từ đây, số trong vòng đơn ( ) là số trang trong cuốn Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận.

TB

VỀ BỘ BA TÁC PHẨM TRUYỆN NGẮN - KÝ - TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI

LẠI VĂN HÙNG

Dưới tiêu đề chung: Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại thì việc phân định thể loại thành ra: t ruyện ngắn - ký - tiểu thuyết chương hồi(1) là hợp lý. Tác giả Nguyễn Đăng Na đã theo đuổi đề tài vào cỡ có thể nói là ôm trọn hầu hết các thể tự sự quan trọng suốt dọc lịch sử văn học Hán Nôm. Và ông đã phải làm việc nhiều thập kỷ để hoàn thành công trình dài hơi, dày dặn và công phu này.

Cả ba tập đều có một kết cấu chung: 1- Phần Giới thiệu chung và 2 - Phần Tác phẩm tuyển chọn. Nhưng thường thì phần sau phải làm trước và phần trước tuy ghi là giới thiệu mà thực chất là sự tổng kết trên lượng tư liệu đã được chuẩn bị, tích góp và dàn sẵn theo một ý đồ khoa học nhất định. Và tôi đặc biệt chú ý đến các phần Giới thiệu chung ở đầu mỗi tập ấy. Bởi lẽ, việc phiên dịch, tập hợp các tác phẩm văn xuôi cổ trước nay đều đã có nhiều người làm. Thế hệ các cụ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Kế Bính, Đông Châu, Ngô Tất Tố, Trúc Khê, Trần Văn Giáp... là những người khai phá. Các thế hệ sau có người tuyển tập, có người dịch thêm, thậm chí có người gom gộp... Nhưng có lẽ vẫn thiếu một công trình giới thuyết cho thật sáng sủa về tiến trình văn xuôi cổ và phân loại nó thành các thể.

Trong tình hình ấy thì Giới thiệu chung ở đầu tập Truyện ngắn đã đáp ứng rất tốt yêu cầu trên. Mở đầu phần này, tác giả Nguyễn Đăng Na cho người đọc thấy một cách khái lược về tiến trình văn học trung đại nói chung và sự vận hành của tiến trình đó dựa trên ba bước nhảy vọt: mốc thế kỷ X “khai sinh ra nền văn học Việt Nam” - bước nhảy vọt thứ nhất; thế kỷ XII - XIII với việc “sáng chế ra chữ Nôm” văn tự dân tộc - bước nhảy vọt thứ hai; đến thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX, “văn học trung đại đạt độ chín muồi” - là bước nhảy vọt thứ ba. Trong ba bước nhảy vọt thì bước nhảy ban đầu được tác giả nhìn nhận như là bước nhảy tạo đà về mặt xã hội, bước thứ hai là văn tự và bước thứ ba là sự nhảy vọt có ý nghĩa tự thân của tiến trình văn học. Văn xuôi tự sự nương theo sự chuyển mình ấy mà phát triển. Cũng ở phần này, tác giả còn chỉ ra mối quan hệ giữa văn học chức năng và văn học nghệ thuật, sự tách dần của văn học nghệ thuật ra khỏi văn học chức năng, sự tồn tại song hành của hai loại văn học đó. Tách dần, cùng tồn tại; cả hai khả năng thực tế đó của văn học đã cho phép người nghiên cứu đi sâu phân loại chuyên biệt hơn về thể và loại, hay nói chung là thể loại.

Về mặt lý thuyết là như thế, nhưng đi vào “rừng” văn xuôi cổ lại thường gặp phải không ít những vấn đề nan giải. Thế nên đây đó đã có trường hợp, người ta quy chúng vào một thể: tiểu thuyết. Quy thế cho tiện, cho nhanh nhưng rõ ràng có sự bất ổn. Nguyễn Đăng Na không bằng lòng với cách làm đó. Nhà nghiên cứu đã dám đối diện với những rắc rối khó vượt: đó là tính không rõ ràng và không thuần nhất về mặt thể loại của tự sự cổ.

Lần sâu vào quá khứ, ông đã tìm thấy những manh mối mà các học giả đi trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú cũng đã từng hướng tới nhưng chưa có điều kiện giải quyết triệt để. Ông cũng tham khảo ý kiến của một nhà nghiên cứu Đông phương nước ngoài (B.L.Riptin) để đi tìm thể loại tác phẩm. Nhưng những kiến giải của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú... dẫu có vai trò cơ sở lý luận đầu tiên cũng còn nhiều bất cập; còn ý kiến của B.L.Riptin thì cũng chỉ đúng một phần. Phát hiện ra điều đó, Nguyễn Đăng Na đã tìm được giải pháp theo tôi là thỏa đáng. Ông đã căn cứ chứ không bị lệ thuộc hẳn vào cách gọi tên tác phẩm cổ (lục, truyện, chí, ký, tập, ngữ, ngữ lục...), để từ thực trạng tác phẩm mà trả chúng về đúng chỗ. Thứ nữa, ông đã lấy tiêu chí “thiên” để phân loại tác phẩm chứ không chỉ dựa vào việc định danh thể loại ở tác phẩm “mẹ” (thí dụ: Cùng ở Truyền kỳ mạn lục, nhưng thiên Đền Hạng Vương được xếp vào thể ký, còn Người con gái Nam Xương lại thuộc về truyện ngắn...). Trong một tác phẩm lại có nhiều thiên là tình trạng khá phổ biến của tự sự cổ. Việc tách riêng chúng là cần thiết để thấy thể loại nhiều khi lại nằm ở dưới tầng sâu của một tác phẩm.

Với cách nhìn thấu đáo về văn xuôi tự sự cổ như trên, Nguyễn Đăng Na đã đi đến việc phân chúng thành ba thể loại chính là: truyện ngắn, ký và tiểu thuyết chương hồi. Thật ra, tiểu thuyết chương hồi là thể loại được nhận biết không mấy khó khăn, nhưng vấn đề là ở chỗ phải phân biệt đâu là một thiên truyện ngắn và đâu là một thiên ký.

Khi đã xác định được thể loại rồi, tác giả lược khảo lại những bước đi của văn xuôi tự sự, trải dài gần 10 thế kỷ. Bước thứ nhất: từ thế kỷ X - XIV, đây là thời kỳ đặt nền móng cho tự sự nghệ thuật. Thời này là thời kỳ của văn học Lý - Trần, phát triển khá phong phú và đa dạng, nhưng tự sự nghệ thuật thì chưa nhiều. Số lượng tác phẩm - nói như tác giả - đều lấy cơ sở từ văn học dân gian và văn học chức năng. Tôi rất tán đồng nhận xét ấy. Chỉ có điều khi ngẫm nghĩ kỹ, tôi cứ băn khoăn là phải có cái gì đó khiến cho văn học chức năng của thời ấy khác với văn học chức năng các thời sau đó. Tuy đều thoát thai từ những cơ sở như vậy, nhưng chỉ cần thành công của một Lĩnh Nam chích quái lục thôi cũng đã đánh một dấu ấn đậm của văn xuôi tự sự, nhất là ở thể truyện ngắn. Bước thứ hai, thế kỷ XV - XVII được tác giả gọi là “thời kỳ đột khởi”. Nếu như ở giai đoạn X - XIV, vấn đề con người và thân phận con người chưa trở thành tiêu điểm, thì ở thời này, con người đã thực sự trở thành “đối tượng và trung tâm phản ánh nghệ thuật”. Đây cũng là thời của tự sự truyền kỳ với phương thức đan xen các yếu tố trữ tình. Dưới vỏ bọc kỳ ảo, các tác phẩm xuất sắc nhất của giai đoạn như Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục đã chủ trương đưa cái “sinh hoạt thường ngày” vào văn chương. Đó là một bước tiến dài, không những chỉ khẳng định thành công của tự sự mà nói rộng ra, còn là thành quả của tư duy nghệ thuật trong quan niệm về cuộc sống và con người. Do đó, đây là thời kỳ có bước chuyển quan trọng về cảm hứng sáng tác chủ đạo - bước chuyển từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng nhân văn. Bước thứ ba, thế kỷ XVIII - XIX, tác giả gọi là thời kỳ của các thể loại ký và tiểu thuyết chương hồi. Tuy vậy, người viết cũng nhận định rất đúng là truyện ngắn vẫn đang trên đà hoàn chỉnh cùng với hai thể loại chính kia. Theo tác giả, ký và tiểu thuyết chương hồi nở rộ là do những yêu cầu cấp thiết của lịch sử. Đúng vậy ! Hiện thực xã hội lúc bấy giờ đã dần dần làm phát sinh quan niệm văn học theo chiều hướng ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe. Nó lấn át quan niệm văn học truyền thống là chở đạo và nói chí.

Xem lại cả chặng đường văn xuôi tự sự, người đọc không khỏi còn điểm này điểm khác muốn vấn thoại với tác giả (như cách lý giải về vai trò đuối dần của thể loại truyền kỳ, hay việc vắng bóng của văn xuôi tự sự thế kỷ XVII), nhưng người ta lại thích thú với kết luận rằng: “Sau ngót mười thế kỷ với ba chặng đường lịch sử, văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại đã tiến gần đến văn học hiện thực”.

Dõi theo từng bước đi của văn xuôi tự sự, tác giả Nguyễn Đăng Na đã tổng kết thành ba xu hướng phát triển: 1- Xu hướng dân gian, 2- Xu hướng lịch sử, 3- Xu hướng thế tục. Đó là ba xu hướng tất yếu và có tính quy luật. Có nghĩa là khó có con đường nào khác cho văn xuôi tự sự ở giai đoạn định hình. Còn việc chúng có quay đi, trở lại hay đan xen nhau từ sau thời kỳ đã ổn định lại là chuyện khác, chuyện của chủ thể sáng tạo. Cũng như ta thấy ở văn học đương đại, nhà văn vẫn có thể khai thác đề tài từ lịch sử hay các típ truyện dân gian... Nhưng cũng ở thời kỳ định hình, người viết đã lưu ý bạn đọc rằng cần nhận ra “quá trình văn học hóa truyện dân gian”, hay việc truyện lịch sử thường bị dân gian hóa cho nó trở thành ly kỳ, hấp dẫn; còn truyện dân gian lại được lịch sử hóa để tỏ ra nó là có “thật”. Trên cơ sở dân gian và lịch sử, xu hướng thế tục là sự chuyển mình của tự sự nghệ thuật hướng tới thể hiện đời sống xã hội, con người.

Gần 50 trang sách ở đầu Tập I là giới thiệu chung của toàn bộ văn xuôi tự sự kèm theo phần giới thiệu về truyện ngắn. Truyện ngắn trung đại, theo như tác giả, có những đặc điểm đặc thù, không thể bê nguyên xi quan niệm truyện ngắn hiện đại để áp đặt vào. Điểm này rất đáng lưu ý.

Nếu như truyện ngắn được giới thiệu kèm với cả văn xuôi tự sự thì lời Giới thiệu chung ở đầu Tập II là dành riêng cho thể loại mà tập sách mang tên: Ký.

Với gần 80 trang sách, phần viết về ký theo chúng tôi, còn kỹ lưỡng và dày công hơn cả phần viết về văn xuôi tự sự (và truyện ngắn). Phần này gồm hai nội dung: đi tìm một định nghĩa thể loại và các bước phát triển của thể loại đó.

Ký là gì ? Câu hỏi này thật khó ! Ký trung đại là gì ? Câu hỏi này còn có phần khó hơn. Chẳng thế mà xưa nay các sưu tập truyện ngắn và tiểu thuyết cổ thường xuất hiện nhiều, còn muốn tìm một tuyển tập ký của tiền nhân thật khó ! Ngay cả với tác giả sách cũng thế. Không phải vô cớ mà trong bộ ba: Truyện ngắn - Ký - Tiểu thuyết chương hồi, thì lẽ ra Ký là tập hai, phải ra trước, thế mà tập ấy lại được in ra sau cùng. Và chính tác giả cũng phải thừa nhận “ký là loại hình văn học phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự trung đại”. Biết là phức tạp, là khó, nhưng không thể tránh né. Chúng tôi không dám nói nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đã giải quyết được hết các vấn đề đặt ra xung quanh thể ký, nhưng có thể khẳng định rằng ông đã nêu được những sở cứ căn bản và cũng có thể nói ông đã đánh thông được một con đường vốn mờ mịt và nhiều gai góc.

Tìm vào lý luận cổ Trung Hoa, nhà nghiên cứu nắm bắt được đúng chỗ mà Lưu Hiệp nói - ở khái niệm gốc về văn và bút: “Loại văn không vần là bút; loại có vần là văn”. Chỉ cần trích mấy chữ như vậy, cốt lõi của vấn đề đã dần sáng tỏ. Cái gọi là bút - phi vận văn đó, chính là manh nha của ký. Sau Lưu Hiệp, những lý luận gia của Trung Quốc như Diêu Huyễn, Chân Đức Tú tiếp tục phân loại văn học. Với Diêu Huyễn, văn học được chia thành 23 thể, trong đó có truyện lục, ký sự và ký. Với Chân Đức Tú qua Văn chương chính tông, văn được chia làm bốn loại lớn (tứ đại môn), trong đó có đại môn Tự sự. Nguyễn Đăng Na cũng vạch ra giới hạn bởi thời đại của Lưu Hiệp (chỉ khái quát được văn học thời Tiên Tần đến Nam - Bắc triều, ông này mất năm 532) và những cách phân loại không khái quát được bản chất thẩm mĩ của văn học sau Chân Đức Tú.

Trở lại với Việt Nam, tức là trở lại với thực tế tác phẩm ký, và cả thực tế lý luận - vẫn của hai tên tuổi lớn là Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú. Trong cách chia loại của Lê Quý Đôn có xuất hiện loại truyện ký. Thoạt nghe, cứ tưởng đó là truyện, ký và truyện ký, nhưng thực ra đó là sự hợp dung của sử, sách dạy làm vua và binh pháp yếu lược, chỉ có 7/19 bộ sách thuộc các thể: lục, tạp ngữ, ngữ lục, mạn lục. Thế là đến tận Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ XVIII) - vẫn theo Nguyễn Đăng Na - thì tiêu chí của thể ký vẫn “không rõ ràng”. Đến Phan Huy Chú, nhà thư tịch học này đã đưa ra cách phân loại sách thành 4 loại: Hiến chương, Kinh sử, Thi văn và Truyện ký. Phan Huy Chú vẫn dùng chữ truyện ký như Lê Quý Đôn. Nhưng số sách Phan đưa ra ở loại này lên tới 54 bộ, gồm 31 thể. Con số đó nói lên sự phức tạp, sự “đa chức năng” về loại thể tự sự cổ đối với truyện, và nhất là với ký. Thế nên, đi tìm một định nghĩa về ký là cực khó. Ký là ghi chép. Đúng rồi ! Nhưng nghĩa gốc ấy không còn đủ khi thể ký phát triển. Chỉ có thể tìm hiểu quá trình phát triển, hình dung về nó, còn để đưa ra một định nghĩa cho thể loại thì thật nan ngôn. Tôi cũng không tìm thấy một định nghĩa nào về thể loại qua những trang viết của tác giả. Nhưng người đọc cũng rất tán đồng với cách làm chừng mực, cách không định nghĩa mà như đã định nghĩa rồi ấy của ông.

Đi vào thể ký trung đại, Nguyễn Đăng Na lược quy thành ba giai đoạn tiến triển: từ thế kỷ X - XIV, thế kỷ XV - XVII và thế kỷ XVIII - XIX. Mới nhìn, kết cấu này có phần trùng với phần giới thiệu chung về văn xuôi tự sự trung đại. Nhưng đấy là sự trùng lặp có thể chấp nhận được, vì cũng khó đưa ra một kết cấu khác khi nói về cái bộ phận nhìn trong cái toàn thể, cái bao chứa nó. Ký ở giai đoạn đầu gắn với (hay dựa vào) “văn học chức năng lễ nghi”, hiện còn dưới hai thể chính là văn khắc và tự bạt. Thể văn khắc (mà chủ yếu là văn bia khắc trên đá) được tác giả thống kê, phân tích một cách khá chi tiết từ cấu trúc, nội dung đến văn thể. Cũng từ sự thống kê, phân tích chung về cả văn khắc và tự bạt, tác giả còn đưa ra những nhận xét khá tinh, ví như nhận xét rằng mỗi bài văn bia “thường là sự kết hợp tả cảnh, tả tình, kể việc, kể người với phát biểu trực tiếp cảm nghĩ cá nhân người cầm bút khiến chúng mang đậm chất ký”; hay như nhận xét về văn khắc “không đồng hành cùng thể ký” ở giai đoạn sau, còn tự bạt thì “bị chìm đi trước những tác phẩm trường thiên” và đóng một vai trò khác.

Ở giai đoạn thứ hai, tự bạt “bùng nổ” (chữ dùng của tác giả). Nhưng quả là chúng đã mang tính lưỡng phân: vừa là ký, vừa là tác phẩm khảo cứu, phê bình, lí luận. Cũng ở giai đoạn này, “ký nghệ thuật đích thực mới bắt đầu nảy mầm”. Tách các thiên ký dựa vào ba tác phẩm lớn: Nam Ông mộng lục, Thánh Tông di thảo Truyền kỳ mạn lục, nhà nghiên cứu nhắc lại sự khó khăn trong việc phân định ra đâu là truyện, đâu là ký. Nhưng tiến thêm một bước, tác giả khẳng định: “Điều làm nên sự phân biệt giữa truyện và ký về bản chất là thái độ người cầm bút. Nếu người cầm bút tách mình khỏi các sự kiện, khỏi các nhân vật mình miêu tả như người ngoài cuộc thì đấy là truyện; còn tác giả ẩn mình vào các sự kiện, các nhân vật với tư cách là người trong cuộc thì đấy là ký”. Thật khó có cách nói nào thẳng thắn và mạch lạc hơn. Vượt qua giai đoạn “nảy mầm”, sang giai đoạn thứ ba, ký thực sự đơm hoa kết trái. Mở đầu bằng Công dư tiệp ký, kết thúc bằng Giá Viên biệt lục, tác giả còn lần lượt khảo luận hơn mười tập ký: Cát Xuyên tiệp bút, Tiên tướng công phả lục Trần Khiêm Đường niên phả lục của Trần Tiến (1709 - 1777), Tục công dư tiệp ký của Trần Trợ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Vũ trung tùy bút Châu phong tạp thảo của Phạm Đình Hổ, Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Hải trình chí lược của Phan Huy Chú và một số tác phẩm của Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ... Tất cả các tập ký đó đều được tìm hiểu khá cặn kẽ và người viết ngoài việc vạch ra lịch trình của thể loại, còn nêu bật được những đóng góp có giá trị cũng như những điểm còn hạn chế của từng tác giả, tác phẩm. Như là, với Công dư tiệp ký: “Có thể đoán chắc rằng, lần đầu tiên ở Việt Nam có một tác phẩm mà cả 43 thiên của nó đều được tác giả xác định là ký” và Vũ Phương Đề “là người có công xới lên trào lưu viết ký”. Hay như đóng góp của Trần Tiến khi cố vượt ra khỏi phạm vi gò bó của thể liệt truyện (Tiên tướng công niên phả lục), và khi là tác giả văn xuôi tự sự Việt Nam đầu tiên viết thể ký tự thuật (Trần Khiêm Đường niên phả lục). Còn về Thượng kinh ký sự thì được đánh giá “là tác phẩm ký nghệ thuật đích thực đầu tiên của văn học Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao, là sự hoàn thiện thể ký thời trung đại, mà còn là mực thước cho lối viết ký sau này”. Hoặc như với Bắc hành tùng ký là tập ký vừa “làm tăng thêm độ dày cho dòng văn học hải ngoại” vừa có nội dung hiếm thấy là “viết về cảnh người Việt Nam trong ngục tù Trung Hoa”, có phong cách cũng hết sức riêng biệt là “lối mỉa mai quá đỗi sâu cay”. Hoặc về Phạm Đình Hổ, được đánh giá là một tác giả đã làm cho thể loại thêm đa dạng, phong phú – là người vừa viết ký phong cảnh, vừa viết ký du ngoạn, cả ký khảo cứu và ký ghi người ghi việc. Người đọc cũng hoàn toàn bị thuyết phục với lời kết luận: “Hai cột mốc cũng là hai đỉnh cao của ký thế kỷ XVIII - XIX là Thượng kinh ký sự Tây hành kiến văn kỷ lược. Cột mốc thứ nhất đánh dấu sự ra đời của ký; cột mốc thứ hai đánh dấu khả năng to lớn trong việc phản ánh hiện thực của ký (...); ký có thể phản ánh những vấn đề trọng đại mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế”. Hơn nữa, người ta không khỏi giật mình trước những nghiệm suy sâu về thể loại: “Chỉ khi con người ta ý thức được giá trị của mình, ý thức và chịu trách nhiệm về cái tôi của mình trước cuộc sống thì ký mới có thể ra đời. Ký là nơi để người viết bộc lộ trực diện nhất, rõ ràng nhất về bản thân mình”, rồi như “bỗng chốc” diệu ngộ ra rằng: “Nghiên cứu cái tôi cá nhân trong văn học trung đại mà bỏ qua ký là điều thật đáng tiếc”. Thế là, nhà nghiên cứu đã từ một thể loại mà gợi mở được một hướng tiếp cận với một trong những vấn đề hết sức có ý nghĩa của văn học sử - vấn đề quan niệm về con người, về cái tôi (cá nhân) - một vấn đề mà nơi này, nơi khác cũng đã có người này khác mạnh bạo luận bàn.

Về cơ bản, chúng ta đã theo dõi xong hai lời Giới thiệu chung ở đầu tập Truyện ngắn Ký. Tác giả đã vượt được hai phần ba chặng đường và giải quyết được không ít trở ngại. Có cảm giác như tác giả đã dồn sức vào chặng đường cuối khi viết tới 120 trang cho Giới thiệu chung về Tiểu thuyết chương hồi đầu Tập III.

Như đã nói, tiểu thuyết chương hồi dễ nhận diện hơn. Nó cũng ra đời chậm hơn ký và truyện ngắn. Điều ấy có duyên do từ bối cảnh lịch sử - xã hội của các thế kỷ XVI - XVII như tác giả đã chứng minh. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên là Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. Tác phẩm hoàn thành năm 1719 ở Nam Hà (Đàng Trong), cũng là cuốn sách ở vị trí “khai sinh ra nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam”. Tuy nằm ở vị trí mở đầu, mà Nam triều công nghiệp diễn chí đã có ngay những thành công rất đáng kể. Không phụ thuộc vào cách đặt tên sách ở ngoài nguyên bản là Việt Nam khai quốc chí truyện do người sau lạm chữa, Nguyễn Đăng Na đã “sục” vào gia phả và các bản sử sách chính thống để trả lại “nhan đề chính thức” cho tác phẩm. Việc khám phá ra tên thật của tác phẩm và trả nó về đúng cái mà nó mang danh như thế, chẳng những có ý nghĩa về văn bản học và cón có ý nghĩa như một phát hiện về mặt thể loại. Nhà nghiên cứu đã nhận ra thâm ý của người viết tiểu thuyết: “Với nhan đề Diễn chí đặt cho sách, Nguyễn Khoa Chiêm đã chỉ ra rằng đây là tác phẩm văn học. Diễn chí thực chất là lối diễn sử, giảng sử giống kiểu diễn nghĩa của Trung Hoa. Lần đầu tiên và cũng có lẽ là trường hợp duy nhất trong văn học Việt Nam trung đại có một tác giả thẳng thắn tự nhận mình viết văn chương chứ không phải viết lịch sử”. Việc nhắc lại và phê phán quan niệm coi thường tiểu thuyết từng tồn tại khá dai dẳng cũng là hết sức cần thiết giúp cho bạn đọc hôm nay thêm thấu hiểu rằng có những điều tưởng như đơn giản đã diễn ra không giản đơn chút nào. Hiển nhiên là tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm đã mô phỏng cách viết của tiểu thuyết chương hồi kiểu như Tam quốc chí diễn nghĩa, nhưng khi so sánh một cách cặn kẽ giữa chúng, nhà nghiên cứu đã nêu bật được những đóng góp nhiều mặt của tác giả Việt Nam. Đấy là cách chép thời gian đến tận can, chi. Đấy là quá trình hình thành tác phẩm: Diễn nghĩa của Trung Quốc vốn xuất phát từ Tam quốc chí với quãng cách thời gian cực xa, qua cả sự trải truyền dân gian, huyền thoại; còn diễn chí của Việt Nam thì hầu như “hiện thực lịch sử đi thẳng vào tác phẩm nghệ thuật”, “tác giả của nó tự mình tạo dựng ra tất cả từ cốt truyện, tình tiết, sự kiện đến nhân vật, tính cách nhân vật… Tác giả của nó vừa phải trung thành với sự thực lịch sử, vừa phải có trình độ khái quát hóa nghệ thuật…”

Sau khi thuyết giải khá tường tận về tiểu thuyết đầu tiên của Nam Hà, tác giả Nguyễn Đăng Na điểm qua về cuốn tiểu thuyết chương hồi đầu tiên của Bắc Hà: Thiên Nam liệt truyện. Điểm qua mà vẫn cho người đọc thấy được những nét nổi trội của cuốn sách này, như việc “dung nạp nội dung gia phả trong hình thức tiểu thuyết chương hồi” và việc đó là tác phẩm đầu tiên và duy nhất lấy đề tài từ cuộc nội chiến Lê - Mạc. Thiên Nam liệt truyện ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, phải đến cuối thế kỷ đó đến đầu thế kỷ XIX, khi Hoàng Lê nhất thống chí do các tác giả Ngô gia sáng tác thì tiểu thuyết chương hồi mới đạt tới độ chín và là đỉnh cao của thể loại. Đã từng có nhiều người viết về tác phẩm này, thậm chí nó từng là đối tượng nghiên cứu của một số luận văn khoa học từ Cử nhân, Thạc sĩ đến Tiến sĩ; và lần này, tác giả Nguyễn Đăng Na đã tinh kết thành bảy điểm đặc sắc: Thứ nhất, “có thể nói Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất phá bỏ lối kể chuyện theo trình tự thời gian”, đây là nhận xét sâu sắc và sáng giá sau khi tác giả đã dày công so chiếu giữa Hoàng Lê nhất thống chí và các tiểu thuyết cùng loại của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam. Thứ hai, “biết chọn thời điểm nóng bỏng, thời điểm bùng nổ những xung đột gay gắt nhất, thời điểm xảy ra những biến cố quyết định bước ngoặt lịch sử để đưa vào tác phẩm” và kèm theo đó là khả năng “cô cất hiện thực” trong quãng thời gian dồn nén vào chỉ một năm “gấp 3,5 lần Nam triều công nghiệp diễn chí… gấp 9,5 lần Thiên Nam liệt truyện”, và nữa là “tác phẩm độc nhất vô nhị phản ánh và phản ánh một cách tuyệt vời phong trào Tây Sơn”. Thứ ba, “họ Ngô đã đưa vào tác phẩm một không gian nghệ thuật cực kỳ rộng lớn trải dài khắp đất nước (…) và vượt khỏi biên giới lên đến vùng Nhiệt Hà, Bắc Kinh của Trung Hoa”. Thứ tư, là tác phẩm cho thấy cả một thế giới những con người có thực, những “yếu nhân lịch sử” và cả những “hạng người dưới đáy hoặc thấp cổ bé họng”. Thế nên, nhiều khi nghiên cứu về các nhân vật lịch sử giai đoạn đó, người ra có thể tham khảo Hoàng Lê nhất thống chí. Thứ năm, chính các nhân vật lịch sử có thật ấy được xây dựng thành các nhân vật văn học và “nhiều nhân vật được xây dựng thành công tới mức có thể nói là xuất sắc”. Nghĩa là các tác giả Ngô gia đã chọn được những lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách của từng loại nhân vật, khiến nhân vật có cá tính và rất sống động, rất dễ nhớ. Nhân vật không bị nhòa chìm trong sự kiện mà như tỏ nổi từ sự kiện. Thứ sáu, ngoài hệ thống hàng mấy trăm nhân vật “người” hữu hình, Hoàng Lê nhất thống chí còn có hai nhân vật “thực thực hư hư” là “nhân vật dân gian và trời”. Các cây bút Ngô gia đã “triệt bỏ hình thức thơ ca” ở cuối mỗi sự kiện, thay kiểu lời bình bằng thơ bằng các phẩm bình “khoác áo” rất khách quan kiểu: người ta nói, thiên hạ cho là, bầu trời cũng phải tối tăm... Và đặc sắc thứ bảy của tác phẩm chính là giọng điệu: “trong Nhất thống chí có cả cái hào hùng, cái bi tráng và cái hài hước. Hai giọng điệu ngợi ca và trào lộng dường như song hành và hỗ trợ cho nhau tạo thành tiếng nói vừa riêng, vừa mới, vừa độc đáo…”

Tiếp nối Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô Giáp Đậu cũng là con cháu của Ngô gia viết Hoàng Việt long hưng chí. Ở trên, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc sắc của Hoàng Lê nhất thống chí thì đến đây, ông cũng nói rõ những bước thụt lùi của Hoàng Việt long hưng chí, đồng thời cũng là sự suy thoái của thể loại trước khi bước vào hồi kết.

Cuốn tiểu thuyết cuối cùng được nhắc tới là Việt Lam tiểu sử, có thể do Lê Hoan (?) viết về giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XV. Việc dùng cái không khí “nhá nhem” của quá khứ để ngầm “thanh minh”, “giãi bày” cho hiện tại đã làm cho tác phẩm rơi vào “văn học minh họa”. Nhưng trong khi phê điểm hai tập Hoàng Việt long hưng chí Việt Lam tiểu sử, người viết cũng tỏ ra thấu tình đạt lý và khách quan khi “thanh lọc” ra những chỗ được của hai tác phẩm trên. Hoàng Việt long hưng chí có những đoạn văn tả, kể rất hay và khích lệ được người cầm bút đi sau; còn Việt Lam tiểu sử lại được sáng tác theo một phương pháp hiện đại - cách sưu tầm tìm hiểu tài liệu từ điền dã và thực địa…

Như vậy, cả ba lời Giới thiệu chung gộp lại có tới 224 trang in, bằng một tập chuyên luận khảo cứu về văn xuôi tự sự Hán văn Việt Nam. Đến nay, có lẽ chưa có ai viết được về mấy thể loại ấy dày dặn và chuyên sâu như thế. ít nhất, đọc xong người ta cũng có sự “lắng đọng” hữu ích về diễn tiến của các thể loại: truyện ngắn và ký tách dần thành những thể loại riêng biệt và đều có thành quả nghệ thuật rõ rệt; còn tiểu thuyết chương hồi xuất hiện sau và đạt tới đỉnh cao là biểu hiện của sự trưởng thành tư duy nghệ thuật tự sự trường thiên của cả nền văn học. Nhưng như trên đã nói, các lời giới thiệu được trả về nằm trong kết cấu của từng tập, và cũng ở mỗi tập này còn một phần quan trọng không kém là phần Tác phẩm tuyển chọn. Phần này gồm 117 truyện ngắn, 70 tác phẩm ký và 5 tiểu thuyết chương hồi với cả thảy khoảng 2000 trang sách. ở đầu mỗi tác phẩm lớn, nhà nghiên cứu còn giới thuyết về tác giả, các loại văn bản, tên gọi chính thức (và chính xác nhất), nội dung và đặc điểm nghệ thuật cơ bản. Có hàng chục lời giới thuyết viết khá tỉ mỉ như một bài tiểu luận, chẳng hạn các lời đặt ở đầu Truyền kỳ mạn lục, Tiên tướng công niên phả lục, Bắc hành tùng ký, Tây hành kiến văn kỷ lược, Giá Viên biệt lục, Nam triều công nghiệp diễn chí, Thiên Nam liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí, Việt Lam tiểu sử…; các giới thuyết cũng chiếm hàng trăm trang in và tôi thực sự khâm phục cách làm việc rất kỳ khu ấy. Vì ai cũng biết rằng viết một trang giới thiệu cho một tác phẩm cổ trung đại là một việc không dễ. Nhiều khi chỉ mắc một niên đại, một vài chữ dị biệt thôi cũng đã tốn nhiều công sức.

Nếu phần khái quát mang đến cho người đọc một hình dung chung nhất thì phần giới thuyết mang đến cho người ta những thông tin cần, đủ khi đọc vào tác phẩm. Các tác phẩm được chọn in gồm 2 mảng: mảng mới được dịch và mảng dùng bản dịch cũ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đồng thời cũng là một dịch giả với vốn Hán ngữ, Việt ngữ dồi dào. Tác giả dịch và giới thiệu khá nhiều tác phẩm mới. Với người làm văn học cổ thì việc kiên nhẫn sưu tầm, phát hiện và dịch chú các tác phẩm mới, hỗ trợ rất nhiều cho thao tác nghiên cứu, và nói cho thật chính xác, nó cũng là một phần của quá trình nghiên cứu. Còn việc nói chay, nói trên bản dịch của người khác thì hiệu quả không được là bao. Tóm lại, tác giả là người có thẩm quyền dịch thuật và có công lao đáng nể trong việc cho ra đời nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự mới. Tác giả cũng rất nghiêm túc trong khi dùng lại những bản dịch cũ. Nghiêm túc ở chỗ: vừa rà soát, xem xét kỹ những chỗ bản dịch cũ còn sơ xuất, vừa cẩn thận ghi rõ tên người đã dịch. Trong tình trạng sách vở “xào nấu” cốt in cho nhanh, cho có danh, có nhiều đầu sách như những năm vừa qua; thì thái độ nghiêm túc, khoa học, tôn trọng bản quyền như thế rất nên được đề cao.

Chung quy lại, cả mới và cũ, bộ sách đã cung cấp được một diện mạo tương đối đầy đủ về văn xuôi tự sự trung đại. Ba tập của bộ sách đều có độ vững của nền tảng lý luận, có bề dày của các văn phẩm được chọn tuyển. Tất cả nói lên sức lao động bền bỉ và sự tham bác sâu rộng của tác giả bộ sách. Tôi nghĩ rằng, đây là một trong những bộ sách có giá trị trên văn đàn mà Nhà xuất bản Giáo dục là nơi có cơ duyên được ấn hành. Bộ sách là công cụ tham khảo cần thiết và rất đáng tin cậy cho nhiều học sinh, sinh viên, nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu… và đông đảo công chúng yêu thích văn học cổ. Tôi viết bài đọc sách này, mà tự nghĩ như viết một bản thu hoạch sau khi đã đọc xong.

Hà Nội, tháng 3 năm 2002
L.V.H

CHÚ THÍCH:

(1) Xin xem Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập Một: Truyện ngắn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997; Tập Hai: Ký, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001; Tập Ba: Tiểu thuyết chương hồi, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000. (Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn).

TB

ĐỌC LỜI BẠT BẢN DỊCH NGA VĂN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

NGUYỄN NAM

Sau khi cho ra mắt độc giả bản dịch Nga văn đầu tiên tập truyện của Nguyễn Dữ vào năm 1969 dưới nhan đề Tướng Dạ Soa(1), đến năm 1974, Marian Tkachov lại xuất bản bộ sách này với tên gọi nguyên thủy của nó Truyền kỳ mạn lục(2). Không bao lâu sau đó, trong giới thiệu đề ngày 18 tháng 3 năm 1975, Xuân Diệu đã nồng nhiệt giới thiệu công trình này đến bạn đọc Việt Nam(3). Bài giới thiệu tập trung vào phần nghiên cứu dẫn luận “Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương” của Tkachov mà Xuân Diệu rất tán thưởng(4). Có lẽ do tính chất của tạp chí và khuôn khổ hạn chế của bài viết, Xuân Diệu chỉ đề cập rất vắn tắt các bước khảo sát của Tkachov, để đi thẳng vào kết quả nghiên cứu. Xuân Diệu tóm tắt, “Người viết tựa [Tkachov] đi vào một sự tìm tòi, tra cứu thật nghiêm khắc công phu, chính xác và khoa học các sách cổ Việt Nam…”(5). Người đọc không khỏi thắc mắc: những thư tịch nào đã được Tkachov sử dụng, và lập luận khoa học của ông ra sao ? Hơn một phần tư thế kỷ đã qua đi từ sau bài viết của Xuân Diệu, nhưng không thấy mấy người chú đến văn học truyền kỳ Việt Nam để tâm đọc kỹ lại Tkachov và Xuân Diệu. Ấy có lẽ vì tư liệu khó khăn, và có lẽ cũng vì tạm bằng lòng với những trích dịch trong bài giới thiệu tiếng Việt. Thế nên, để có thể phác thảo tình hình nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục ở trong vào ngoài nước, cần thấy rằng bài khảo cứu của Tkachov là một đóng góp đáng trân trọng và cần được tìm hiểu thấu đáo. Do đã có bản dịch toàn văn, ở đây chỉ xin đề cập một vài điểm đáng chú ý trong bài viết của Tkachov.

Bài khảo cứu của Tkachov có thể chia thành hai phần: phần khảo về tác giả và phần khảo về tác phẩm.

Để có thể khắc họa Nguyễn Dữ với những thông tin hết sức hạn chế hiện tồn, Tkachov đã sử dụng các bộ Hoàng Việt thi tuyển, Đại Việt sử ký toàn thư, Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí, và Đại Nam nhất thống chí(6). Tkachov nhắc rằng, “Nguyễn Dữ đã nhiều lần tham gia các kỳ thi Hội, vốn được tổ chức ba năm một lần. Điều này có nghĩa là ông đã ở kinh đô một thời gian dài, và ngụ tại nhà thân phụ, một trọng thần khi ấy… “Dường như Nguyễn Dữ đã phục vụ và từ quan trước triều Mạc”(7). Vận dụng những hiểu biết về chế độ khoa cử, phong tục tập quán Việt Nam thời ấy, cùng căn cứ vào hai niên kỷ hiếm hoi có được - năm 1496 (Nguyễn Tường Phiêu, thân phụ Nguyễn Dữ đỗ Tiến sĩ) và năm 1527 (Nhà Mạc tức vị), Tkachov đã lập nên một sơ đồ, ức đoán rằng “Nguyễn Dữ sinh khoảng năm 1496; học hành, thi cử, nhậm chức và từ quan trước năm 1527; sống ở quê ngay tại nhà cha mẹ, dạy học, giao tiếp với Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoàn thành tác phẩm Truyền kỳ mạn lục sau năm 1527”(8). Những ức đoán này đều khả thủ, chấp nhận sai số dao động không đáng kể. Cũng theo sơ đồ này, có thể phủ nhận những sai lầm phát sinh từ quá trình sao lục, ví như chép rằng Nguyễn Dữ “làm Tri huyện Thanh Tuyền, được mười năm thì từ về nuôi mẹ”(9).

Mẫu mực của người cha tận trung phụng sự Lê triều chính thống trong buổi cực thịnh của nó, thời gian lưu trú dài ở kinh để chờ ứng thí, thực tế làm quan dưới triều Lê, thế sự quan sát được khi ẩn dật là những điều có ảnh hưởng nhiều đến việc sáng tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Tkachov không ngừng nhắc đến vị minh quân Lê Thánh Tông và thời hoàng kim thịnh trị của ông, xem như một đối trọng, cho phép Nguyễn Dữ nghĩ đến một ngày khi không khí thảm đạm, u uất của thời tao loạn mà ông đang sống sẽ được xua tan. Tkachov so sánh những lời phê bình nghiêm khắc của ông tiều ẩn trong Na Sơn tiều đối lục với các phê phán Lê Uy Mục của Nguyễn Dục trong Hồng Thuận trung hưng ký và của Lương Đắc Bằng trong bài hịch dụ đại thần và các quan phế truất nhà vua. Bất ngờ thay, lời tiểu thuyết và lời chính sử lại trùng hợp với nhau !(10) Thế nên, theo Tkachov, Nguyễn Dữ soạn Truyền kỳ mạn lục không giản đơn để phê phán vương triều Mạc, “Ông [Nguyễn Dữ] đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình, không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam”(11).

Tkachov viết về Lê Thánh Tông không chỉ với tư cách là một minh quân biết an dân, trị quốc, danh chấn tứ hải, mà còn với tư cách là một đại gia xuất chúng của bút pháp truyền kỳ. Thánh Tông di thảo luôn được đề cập trong bài khảo cứu như một khuôn mẫu có sẵn mà Nguyễn Dữ có thể tham khảo để phóng bút trong một thế giới truyền kỳ riêng của ông. Tkachov nhận thấy sự tương đồng hình thức trong sự xuất hiện của lời bình ở cuối truyện trong Thánh Tông di thảo Truyền kỳ mạn lục. Thay vì gọi những lời thêm vào cuối truyện là “lời bình”, Tkachov xem chúng là những lời “khuyến giới” (Нравоучения)(12), không liên quan mấy đến việc hân thưởng nghệ thuật, mà lại đậm tính giáo điều Nho giáo. Ông cũng không xem những lời này là sự phản ánh mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ và con người Nho gia trong Nguyễn Dữ, nhưng giả định đấy là một thủ pháp nhằm vãn hồi tính tư tưởng - đạo đức hợp pháp cho tác phẩm, khiến nó lưu truyền được ở đời. ý kiến của Tkachov về vấn đề này góp thêm một cách lý giải, một góc nhìn cho hiện tượng không thống nhất giữa thể hiện tự sự và lời bình (hay lời “khuyến giới”) trong Truyền kỳ mạn lục.

Cố gắng đọc Truyền kỳ mạn lục trong bối cảnh Việt Nam và trong liên hệ với văn học khu vực (đặc biệt là văn học Trung Quốc) là một đặc điểm dễ thấy trong bài nghiên cứu của Tkachov. Ngoài việc thiết lập liên hệ phát triển tuyến tính giữa Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo Truyền kỳ mạn lục, Tkachov nỗ lực tái hiện không gian văn hóa mà Nguyễn Dữ từng sống, với các sinh hoạt văn hóa - xã hội địa phương, tín ngưỡng đình chùa (Quang Minh, Hạ Bì), cho thấy thể loại truyền kỳ đã được thâu dưỡng như thế nào bởi một tác gia Việt Nam thế kỷ XVI với những không gian văn hóa đặc thù của ông(13).

Một trong những ví dụ lý thú được trưng dẫn là việc so sánh nhân vật Dư Nhuận Chi trong Túy Tiêu truyện với từ nhân Liễu Vĩnh (980 ? – 1053 ?) của Trung Hoa và nhà thơ Lê Đức Mao (1462 - 1529) của Việt Nam(14). Tất nhiên, những so sánh thú vị này cũng có thể được bổ sung thêm với những nguyên mẫu mà Nguyễn Dữ đã trực tiếp nhắc đến trong truyện, thông qua dẫn dụng điển cố của ông. Nếu xem điển cố trong tiểu thuyết như nguồn văn liệu cho biết tác giả đã sử dụng những nguyên mẫu như thế nào, đã tiếp nhận, tổng hợp các nguyên mẫu khác nhau, nhằm sáng tạo ra một nhân vật mới vốn là tổng hòa của những nguyên mẫu nọ, có thể thấy rằng ngoài Túy Túy truyện của Cù Hựu(15), Nguyễn Dữ còn có nguyên mẫu Đỗ Mục (nhà thơ Trung Quốc, 803 - 852) và truyện Côn Lôn nô để tham khảo khi xây dựng Túy Tiêu truyện(16).

Trong khi nhắc độc giả về việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài một cách thông minh, sáng tạo, và có chọn lọc của các tác gia Việt Nam, Tkachov cũng chỉ ra những phương cách tàn khốc nhằm hủy hoại văn hóa Việt Nam của thế lực ngoại xâm phương Bắc. Tkachov là một trong rất ít học giả nước ngoài am tường, tố cáo, và lên án chính sách hủy diệt văn hóa (cultural holocaust) thâm độc của Minh Thành Tổ(17). Việc nêu tội ác của Minh triều đối với dân tộc Việt trong bài (dù vắn tắt) đã tinh tế góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm tinh thần phản Minh hiển hiện trong Truyền kỳ mạn lục. Nhân đọc về chính sách hủy diệt văn hóa bản địa của Minh Thành Tổ, bản dịch cũng góp thêm cứ liệu xác định ngày tháng của hai sắc lệnh hiểm độc tàn hại văn hóa Việt Nam của nhà Minh(18).

Về quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ, Tkachov đã có nhận xét rất đáng chú ý, “Có thể gọi hậu học của một bậc danh triết hay tôn sư là học trò (tức là thầy với ý nghĩa cao quý của từ này). ở đây các quan hệ được xây dựng không theo trường quy, và tuyệt nhiên không tính đến sự khác biệt về tuổi tác. Có chăng những quan hệ như thế giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và con người hầu như không vượt trội trong “vinh quang” Nguyễn Dữ [?]… Nhiều nguồn tư liệu cho rằng, dường như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đọc và sửa sách cho Nguyễn Dữ. Nhưng chúng ta hiện đã rõ: đấy hoàn toàn không phải là một sinh đồ trẻ, thiếu lịch lãm trình ‘sư phụ’ cao niên duyệt đọc nhưng câu chuyện của mình. Những câu chuyện ấy được viết bởi một người đã trưởng thành và tài năng, được đưa ra chất chính nghiêm khắc qua thiên tư và uy tín của người đồng chí hướng”(19). Nhận xét của Tkachov khiến người đọc bất chợt suy nghĩ lại về mức độ “phủ chính” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với Truyền kỳ mạn lục. Mức độ “phủ chính” nọ có chăng vượt khỏi khuôn khổ những câu chuyện, tham gia cả vào lời bình (“khuyến giới”)?

Bài khảo cứu của Tkachov rất kiệm chú thích,(20) và điều này đã gây không ít khó khăn khi muốn tra kiểm tư liệu. Chẳng hạn như khi so sánh Dư Nhuận Chi với Liễu Vĩnh (mà Tkachov đọc theo Hán ngữ, và phiên âm bằng tự mẫu Nga thành “Лю Юн”), Tkachov nhắc việc Liễu được mệnh danh là “đại thần trong manh áo vải” (Велъможа в холщовой одежде), và chú rằng có hai truyện vừa của Trung Quốc viết về Liễu, ý chừng có gốc khoảng thế kỷ XI, nhưng không cho biết cụ thể là những truyện nào. Đọc Chúng danh cơ xuân phong điếu liễu thất trong Dụ Thế Minh Ngôn của Phùng Mộng Long (1574 - 1646), thấy Tống Nhân Tông bãi chức Liễu Vĩnh kèm theo bốn câu phê. Câu thứ ba viết, “Nhậm tác bạch y khanh tướng” (Ưng làm khanh tướng áo trơn), và chính đây là nguyên ngữ của “đại thần trong manh áo vải.”(21) Thế nên, bản dịch bài khảo cứu của Tkachov đã tăng bổ chú giải nhằm tra kiểm và xác định nguồn tư liệu được sử dụng, đặt ra phản đề hoặc nghi vấn, cũng như giúp người đọc tiếp cận văn bản dễ dàng hơn.

Việc dịch và giới thiệu bài khảo cứu của Tkachov không ngoài mục đích cho thấy cách tiếp cận tác gia và tác phẩm cổ điển của một nhà văn - học giả nước ngoài. Cũng qua việc “tinh độc” (close reading, đọc sâu văn bản) mà nhiều vấn đề được kiểm nghiệm và đưa ra chất chính trong các chú thích của bản dịch. Hơn phần tư thế kỷ đã qua đi, nhưng bài khảo cứu của Marian Tkachov vẫn mang giá trị gợi mở, cho thấy việc nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục vẫn còn không ít vấn đề cần phải tiếp tục thảo luận.

N.N

CHÚ THÍCH:

(1) Trong tập này có cả lời giới thiệu của B. L. Riptin về quá trình hình thành của thể truyện ngắn Việt Nam. Xem N. I. Niculin. Mấy vấn đề nghiên cứu và giới thiệu văn học Việt Nam ở Liên Xô trong Tạp chí Văn học 2/1972, tr.88; về bài viết của Riptin, xem Phạm Tú Châu: Nhà Đông Phương học B. L. Riptin và văn học cổ Việt Nam trong Tạp chí Văn học, 6/1997, tr. 48-50.

(2) Tựa sách được dịch sang tiếng Nga thành ПросTранные записи рассказов об удивиTелъном [Ghi chép tản mạn các câu chuyện lạ], M. Ткачев (dịch), Художеcтвенная литература. Nxb. Văn học Nghệ thuật], Mocквa, 1974.

(3) Xuân Diệu: Một tác phẩm cổ điển Việt Nam dịch ở Liên Xô, Tác Phẩm Mới, số 48, 4/1975, tr. 91-94.

(4) Nguyên văn tiếng Nga MacTep pyкoTвopныx чудес из кpая СвеTлоrо мoря. Xuân Diệu viết, “[Bài] giới thiệu mở đầu sách của người dịch, nhà văn Xô Viết Marian Tkatsốp, là một bài nghiên cứu công phu và đầy thiện cảm, chứng tỏ một sự trân trọng và một sự hiểu biết sâu sắc đối với văn học cổ điển Việt Nam” (như trên, tr.91). Thực ra, phần nghiên cứu dẫn luận của Tkachov được xếp vào cuối sách như một lời bạt, từ trang 173-194.

(5) Như trên, tr.92.

(6) Để tiện theo dõi, xin xem toàn văn bản dịch “Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương” (Trương Văn Vĩ và Nguyễn Nam dịch, Nguyễn Nam hiệu chú).

(7) Tkachov, Sđd., tr. 176.

(8) Như trên, tr.179-180.

(9) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, tập 3, tr. 446.

(10) Tkachov, tr. 182-183.

(11) Như trên, tr. 183.

(12) Như trên, tr. 192-193.

(13) Như trên, tr. 186-189.

(14) Như trên, tr. 189-190.

(15) Xem Cù Hựu, Nguyễn Dữ, Tiễn đăng tân thoại (Phạm Tú Châu giới thiệu và dịch) - Truyền kỳ mạn lục (Trần Thị Băng Thanh giới thiệu và chỉnh lý), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999, tr.140-154.

(16) Như trên, tr.372 (chú 7) và 373 (chú 14).

(17) Tkachov, Sđd., tr.192.

(18) Xem chú thích 61 trong bản dịch.

(19) Như trên, tr.179.

(20) Chỉ có 3 chú thích cho hơn 20 trang viết (xem tr.181, 182, và 190).

(21) Xem chú thích 52 trong bản dịch.

TB

NÊN TRẢ CHỮ CANH (更) VỀ CHO BÀI THƠ TỰ TÌNH CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG

NGÔ GIA VÕ

Chúng tôi đã có dịp đề cập đến vấn đề này(1) nhưng dường như tác giả biên soạn phần Hồ Xuân Hương trong sách giáo khoa Văn học 10 (Chỉnh lý hợp nhất năm 2000)(2) chẳng mấy quan tâm. Vì vậy, bắt buộc chúng tôi phải có ý kiến thêm một lần nữa.

Trước hết, cần khẳng định rằng chọn bài thơ Tự tình II(3) vào chương trình văn học nhà trường là phù hợp, có tác dụng tốt đối với việc bồi dưỡng tri thức văn học và tâm hồn học sinh. Về mặt văn bản, bài thơ này không có những sai lệch lớn ở các bản in khác nhau. Từ trước đến nay, chưa có những tranh luận về nhan đề hay câu chữ trong đó. Tuy có bản gọi bài thơ là Vô đề(4), nhưng nhìn chung người ta đều chấp nhận và thích cái tên Tự tình. Đặc biệt, đây cũng không phải bài thơ đựơc xếp vào loại tồn nghi mà cùng với Mời trầu và hai bài Tự tình kia, nó đã tồn tại từ lâu với tư cách những thi phẩm đích thực của Hồ Xuân Hương.

Vậy mà, câu thơ đầu tiên trong sách giáo khoa Văn học 10 vẫn chép là:

“Đêm (2) khuya văng vẳng trống canh (3) dồn”.

Tác giả biên soạn lại còn chú thích như sau: “(2) Nhiều bản chép là “canh”, có lẽ không đúng. (3) Canh: một khoảng thời gian của một đêm (một đêm chia ra năm canh)” [trang 158]. Sách giáo khoa Văn học dạy cho biết bao thế hệ học trò mà lại chú thích tùy tiện rằng “có lẽ không đúng” thì thật là không hiểu nổi.

Chúng tôi đã tìm hiểu, đối chiếu khá nhiều văn bản thơ Hồ Xuân Hương (có thể nói là gần hết) từ Giai nhân di mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến(5) đến Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh(6), từ Kinh thi Việt Nam của Trương Tửu(7) đến Văn học trào phúng Việt Nam của Văn Tân(8), từ các văn bản tuyển chọn của Nguyễn Lộc(9), Lữ Huy Nguyên(10), Đào Thái Tôn(11), Đỗ Lai Thúy(12) đến cả bản chữ Nôm trong Quốc văn tùng ký của Hải Châu tử Nguyễn Văn San(13) thì thấy câu đầu đều chép là:

“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”.

Từ đầu thế kỷ XX đến giờ, biết bao nhà nghiên cứu uyên bác, biết bao nhà Hán học, Nôm học tài ba chả lẽ không nhận ra cái “có lẽ không đúng” như tác giả sách giáo khoa chỉ ra chăng? Về tự dạng, chữ đêm () khác hẳn với chữ canh (更). Không thể có chuyện các văn bản đều nhầm lẫn được. Chỉ có một lý do duy nhất là người biên soạn đã tự ý chữa thơ Hồ Xuân Hương theo định kiến của mình, đem cách hiểu của người hiện đại áp đặt vào một văn bản cổ. ấy là một bản in hai năm rõ mười, thống nhất tối đa mà còn thế, chả trách ở những bài tồn nghi, người ta còn chữa ẩu và in loạn đến thế nào.

Chúng tôi cho rằng chữ canh (更) đặt ở đầu câu thơ thứ nhất đã góp phần biểu hiện nghệ thuật ngôn từ siêu việt và cá tính sáng tạo độc đáo của Bà chúa thơ Nôm. Cổ thi, đặc biệt là các bài bát cú và tứ tuyệt, do sự hạn định của số câu, số chữ, cho nên các thi nhân rất kị lặp từ. Mọi trường hợp dùng lại chữ nào trong một câu thơ, thậm chí một bài thơ đều có ý đồ riêng nhằm nhấn mạnh một điều gì đó hoặc tạo ra một thông tin thẩm mỹ khác thường nào đấy.

Do vậy câu thơ mở đầu Tự tình II ẩn chứa một sự lạ gắn liền với hai chữ “canh” này. Một đêm có 5 canh, cho nên canh khuya chỉ thời gian cụ thể hơn đêm khuya. Canh khuya cho thấy chủ thể rất có ý thức về thời gian, cảm nhận rất rõ, rất cụ thể thời gian đang trôi đến chỗ nào. Canh khuya xác định cái khoảng khắc nữ sĩ đang đắm mình, lắng mình vào dòng thời gian. ấy thế mà lại còn “văng vẳng trống canh dồn” thì thật là trớ trêu và vô duyên. Hồ Xuân Hương muốn yên tĩnh mà chẳng yên tĩnh được. Tâm hồn bà đang muốn tan chảy vào không gian và thời gian thì âm thanh văng vẳng kia lại ngăn cản. Nhà thơ đang trầm lặng đếm thời gian, cần gì cái tiếng trống canh dồn kia điểm hộ, báo hộ. Rõ là cái không cần lại cứ chường mặt ra làm bà khó chịu. Hiểu như vậy mới nhận thức rõ tài năng dùng hai chữ “canh” của Hồ Xuân Hương trong câu thơ này. Đây là hai chữ “canh” in dấu tâm trạng của chủ thể trữ tình, kết lắng những nỗi niềm u ẩn, bứt rứt của một con người muốn yên tĩnh và trầm ngâm một mình cũng không được.

Đặt câu thơ vào phong cách nghệ thuật Xuân Hương, ta càng thấy toát lên ý nghĩa đó. Xuân Hương có 4 lần nói tới âm thanh văng vẳng vang lên trong đêm tối: “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” thì tiếp đó là “Oán hận trông ra khắp mọi chòm” (Tự tình II)(14); “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng” thì lại “Nín đi kẻo thẹn với non sông” (Dỗ người đàn bà có chồng chết)(15); “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì” thì tiếp theo là “Thương chồng nên mới khóc tì ti” (Bỡn bà lang khóc chồng)(16) và “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn” thì “Trơ cái hồng nhan với nước non” (Tự tình II)(17).

Như vậy, 4 lần thanh âm văng vẳng vang lên là cả 4 lần tâm trạng Xuân Hương đều buồn bực, tức tối, khó chịu; khi thì “Oán hận trông ra” lúc lại “Nín đi kẻo thẹn”, khi thì “Trơ cái hồng nhan”, lúc lại “Khóc tì ti”. Đặt vào hệ thống trên, cái tâm trạng khó chịu, buồn bực, tức tối khi tiếng trống canh dồn vang lên giữa canh khuya là hoàn toàn hợp lý.

Đến câu thừa đề, nỗi uất ức, khó chịu, buồn bực đã nặng hơn, đầy hơn như vón lại thành hòn, thành cục:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”.

Hồng nhan lẽ ra phải được quân tử yêu thương, anh hùng tri ngộ, đằng này lại trơ ra, lì ra với nước non thì thật là vô nghĩa, vô duyên. Nỗi đau khổ, bực bội về cái tài, cái tình bị bỏ rơi, bị quên lãng, thiếu tri kỷ của mình dường như đã lên tới đỉnh điểm. Hai câu đề với âm điệu riết róng đã tạc vào thời gian canh khuya, khắc vào không gian non nước hình tượng một người đàn bà trầm uất đang đối diện với chính bản thân mình, phát hiện ra số phận oái oăm, trớ trêu của mình.

Chúng tôi đã có dịp phân tích toàn bộ bài thơ Tự tình II trong tính chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của nó và đã lý giải khá cặn kẽ giá trị nhân văn đặc sắc và bản lĩnh nghệ thuật phi thường của Bà chúa thơ Nôm(18). ở đây chúng tôi xin dừng lại ở hai câu thơ đầu và mong muốn những người có trách nhiệm chỉnh lý, sửa chữa sách giáo khoa Văn học 10 hãy trả chữ canh (更) về cho bài thơ Tự tình II. Cả về phương diện văn bản và giá trị tư tưởng nghệ thuật, chữ đêm () không được phép thay thế chữ canh (更). Đối với văn hóa cổ - tài sản tinh thần quý hiếm và vô giá của cha ông, xin đừng có “chữa lợn lành thành lợn què”.

N.G.V

CHÚ THÍCH:

(1) (18) Xem bài Khát vọng về một tình yêu lớn trong bài Tự tình của Hồ Xuân Hương - Tập san Văn học và tuổi trẻ - Tập 39. In lại trong cuốn Tác phẩm văn học trong nhà trường, những vấn đề trao đổi - Nguyễn Văn Tùng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2000 (tr.113-119).

(2) Văn học 10 - Tập một - Phần văn học Việt Nam - Nxb. Giáo dục, H. 2000.

(3) (9) (14) (15) (16) (17) Đều trích dẫn theo bản Thơ Hồ Xuân Hương - Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu - Nxb. Văn học, H. 1982

(4) (13) Quốc văn tùng ký - Hải Châu tử Nguyễn Văn San, ký hiệu AB.383, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(5) Giai nhân di mặc - Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nhà in Đông Kinh ấn quán, H. 1917.

(6) Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài - Nguyễn Văn Hanh, in lần thứ 2, Aspas xuất bản, Sài Gòn, 1937.

(7) Kinh thi Việt Nam - Trương Tửu, Nxb. Hàn Thuyên, H. 1940.

(8) Văn học trào phúng Việt Nam - Văn Tân, Nxb. Văn Sử Địa, quyển thượng, H. 1958

(10) Hồ Xuân Hương - Thơ và đời - Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, giới thiệu, Nxb. Văn học, H. 1996.

(11) Hồ Xuân Hương - Tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa - Đào Thái Tôn, Nxb. Hội Nhà văn, H. 1999.

(12) Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực - Đỗ Lai Thúy, Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.

TB

THÀNH LẬP TRUNG TÂM PHẢ HỌC THUỘC VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

Trong vốn di sản Hán Nôm phong phú và lâu đời của nước ta, mảng tư liệu về phả là mảng di sản rất quý. Nhiều nhà học giả uyên bác xưa của nước ta, như Hồ Tông Thốc, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, v.v... trong các tác phẩm nổi tiếng của mình đã rất coi trọng và đánh giá hết sức cao phả nước nhà.

Phả nước ta có nhiều loại, trong đó chủ yếu có: gia phả, ngọc phả, thần phả, kỳ phả, ca phả, v.v. Nước ta có nhiều dân tộc, việc chép phả, ngoài chữ Hán, chữ Nôm phổ thông, còn những chữ khác. Phả nước ta được chép trên nhiều nguyên liệu khác nhau, nhưng nhìn chung, những nguyên liệu đó đều là những nguyên liệu sẵn có trong đời sống của nhân dân ta, đó là vải, gỗ, lá, đá, đồng và sau này là giấy.

Theo tư liệu hiện có, ở nước ta, ngọc phả, gia phả có từ thời nhà Lý; thần phả có từ thời nhà Trần; ca phả, kỳ phả có từ thời nhà Lê, v.v... Nếu việc sưu tầm, nghiên cứu được đẩy sâu hơn, rất có thể chúng ta còn tìm được những tư liệu có sớm hơn nhiều. Rõ ràng, những văn bản về phả này, không chỉ là những văn bản không thể thiếu được của ngành Phả học nước nhà; mà những văn bản này cũng là những tư liệu hết sức quý báu đối với nhiều môn khoa học khác, nhất là đối với Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học, Văn học, Ngôn ngữ học, v.v... Thế nhưng nước ta chưa có một số tổ chức chuyên ngành về Phả học.

Từ lâu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã lưu ý đến lĩnh vực Phả học, đặc biệt là với mảng gia phả, thần phả. Viện đã cho biên dịch, xuất bản sách về mảng này; song việc thành lập một tổ chức chuyên ngành Phả học thì chưa tiến hành được. Trên cả hai phương diện là nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng Phả học đều gặp khó khăn.

Với yêu cầu cấp thiết khách quan, theo Quyết định số 245/QĐ-KHXH, “Quy chế về tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu Hán Nôm” của Giám đốc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia; Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đã ra quyết định số 23/QĐ-HN Thành lập Trung tâm Phả học thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trung tâm Phả học có trách nhiệm chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc. Sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, biên khảo, xuất bản các ấn phẩm phả Việt Nam. Quan hệ, trao đổi với giới Phả học và các giới khoa học trong và ngoài nước có liên quan tới Phả học.

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã ra quyết định số 24/QĐ-HN bổ nhiệm Ông Trần Lê Sáng, Phó giáo sư, Nghiên cứu viên chính của Viện Nghiên cứu Hán Nôm giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Phả học. Trung tâm Phả học chịu trách nhiệm trước Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong việc quản lí tổ chức và hoạt động của Trung tâm, không thuộc quĩ lương từ ngân sách Nhà nước.

Trung tâm Phả học đã được thành lập, Tạp chí Hán Nôm trân trọng giới thiệu với bạn đọc cùng bà con xa gần. Trung tâm Phả học mong được hợp tác và giúp đỡ của mọi người. Mọi liên hệ xin gửi về Trung tâm Phả học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm: 183 Đường Đặng Tiến Đông - Hà Nội. Điện thoại: 8.573194 – 8.571 270. Fax: 8.570 940.

P.V

TB

HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ CƯ SĨ THIỀU CHỬU NGUYỄN HỮU KHA

Ngày 21 tháng 6 năm 2002, tại Nhà Thái học Văn miếu Quốc tử giám - Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Tạp chí Tia sáng đã phối hợp cùng dòng họ Nguyễn Đông Tác tiến hành tổ chức Hội thảo khoa học về danh nhân văn hóa Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha nhân 100 năm ngày sinh của ông (1902 - 2002).

Cư sĩ Thiều Chửu sinh ra trong một dòng họ nổi tiếng ở Thăng Long. Ông là hậu duệ của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (một người nổi tiếng về thơ văn thời Nguyễn), con của Cử nhân Nguyễn Hữu Cầu - yếu nhân của phong trào Đông kinh nghĩa thục của Hà Nội, em của Nhà giáo ưu tú Nguyễn Hữu Tảo - người từng dạy đồng chí Trường Chinh và đồng chí Nguyễn Văn Linh. Trong suốt cuộc đời mình, ông đã dốc lòng cho nền Hán học nước nhà. Ông đã để lại cho đời khoảng 80 cuốn sách, trong đó có những cuốn đáng chú ý như Hán Việt tự điển, Con đường Phật học thế kỉ XX...

Mở đầu cuộc hội thảo là phát biểu của Tổng thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, ông Dương Trung Quốc; tiếp sau đó là bài phát biểu của Giáo sư Vũ Khiêu và Hòa thượng Thích Thanh Tứ - Phó chủ tịch thường trực Giáo hội Phật giáo Việt Nam; khẳng định công lao đóng góp cho văn hóa nước nhà của Cư sĩ Thiều Chửu.

Cuộc hội thảo đã thu hút được nhiều học giả quan tâm với các tham luận tâm đắc như: Đôi điều suy nghĩ nhỏ về một nhân cách của nhà văn Nguyên Ngọc; Thiều Chửu nhân vật Phật giáo xuất chúng thế kỷ XX của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn - Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Cái sĩ của cụ Thiều Chửu của Đại đức Thích Đồng Bổn (tức Tiến sĩ Nguyễn Thành Nam, ủy viên ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam); Cư sĩ Thiều Chửu với nền giáo dục bình dân của Nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi; Sáng tác thơ ca của Cư sĩ Thiều Chửu của nhà Hán học Vũ Tuân Sán; Cư sĩ Thiều Chửu: cả một trời thơ của Tiến sĩ Đinh Công Vĩ; Bản dịch Khóa hư lục của Cư sĩ Thiều Chửu của Phó Giáo sư Phan Văn Các (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)...

Các tham luận đều khẳng định Thiều Chửu là một danh nhân của đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Những cống hiến đóng góp của ông cho Phật học và cho văn hóa nước nhà đáng được mọi người tôn vinh.

P.V

TB

LỄ BẢO VỆ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN NGÀNH HÁN NÔM KHOA VĂN HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NV. THUỘC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.

Ngày 15 tháng 6 năm 2002, ngành Hán Nôm, khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội long trọng tổ chức Lễ bảo vệ khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên khóa 43 tại giảng đường của Trường. Lễ bảo vệ đã thu hút khá đông các đại biểu, sinh viên các khóa, những người quan tâm đến ngành học này.

14 sinh viên thực hiện 10 đề tài nghiên cứu, trong đó có 2 đề tài tập thể.

Các khóa luận thể hiện sự lựa chọn phong phú về đề tài, nhằm tìm hiểu các vấn đề về văn hóa, tư tưởng, văn học, ngôn ngữ, lịch sử, thông qua việc vận dụng các kĩ năng thực hành về dịch thuật, khảo sát, xử lí các văn bản Hán Nôm cụ thể. Hai đề tài tập thể cũng biểu lộ xu hướng đi vào giải quyết các vấn đề một cách qui mô, trong đó đề tài Hệ thống văn bản Hán Nôm Huế - thư mục đề dẫn có thể xuất bản được, trở thành một công cụ tra cứu tiện lợi cho việc nghiên cứu về Hán Nôm Huế. Một số đề tài tìm hiểu về vị vua sáng lập triều Lý, về di sản văn hóa Hà thành là những đóng góp thiết thực trong không khí hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Lễ bảo vệ kết thúc tốt đẹp với 4 khóa luận đạt điểm 10 của các sinh viên, như: Lê Như Duy với Giới thiệu tư liệu Hán Nôm khu di tích Dục Khánh - Huy Văn, Nguyễn Thị Hường với Tìm hiểu một Lý Công Uẩn trong tâm thức dân gian qua “Lý Thuận Thiên ngọc phả thực lục”, Hà Đăng Việt với Tìm hiểu câu đối Hán Nôm các di tích lịch sử văn hóa quận Hoàn Kiếm Hà Nội (Sưu tầm và giới thiệu), Đào Thị Hải Yến với Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Thượng Hiền qua Nam Chi tập. Các khóa luận khác đều đạt điểm 9,5.

Ngành Hán Nôm đã hoàn thành khóa đào tạo với 29 Cử nhân Hán Nôm, góp phần bổ sung vào đội ngũ trí thức nước nhà.

Phạm Vân Dung

TB

THÔNG BÁO CUỘC THI VẼ MẪU
BIỂU TRƯNG

Để tiến tới kỷ niệm 50 năm ngày thành lập (12/1953–12/2002). Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức giai đoạn 2 cuộc thi sáng tác mẫu biểu trưng (Logo) của Trung tâm.

1. Đối tượng dự thi:

Tất cả mọi công dân Việt Nam và nước ngoài đều có quyền dự thi.

2. Chủ đề làm căn cứ sáng tác

Mẫu biểu trưng cần phải thể hiện được chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng hoạt động của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

3. Yêu cầu

Mẫu biểu trưng phải mang tính khái quát, có tính thẩm mĩ, tính hiện đại và mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Biểu trưng phải đảm bảo tính tiện lợi cho việc thể hiện trên mọi chất liệu (chất dẻo hoặc kim loại), dễ dàng thu phóng, sao chép, in ấn.

4. Thể lệ cuộc thi

+ Mẫu biểu trưng dự thi được vẽ trên khổ giấy A4 và sử dụng không quá 5 mầu. Góc dưới bên phải của bản vẽ mẫu dự thi vẽ hình mẫu biểu trưng được thu nhỏ (đen trắng) có chiều rộng nhất không quá 3cm.

+ Mẫu biểu trưng có mang dòng chữ khoa học xã hội được viết đầy đủ hoặc viết tắt KHXH. Dòng chữ khoa học xã hội có thể gắn liền hoặc tách rời trong bố cục của mẫu biểu trưng.

+ Mỗi mẫu biểu trưng dự thi có kèm theo bản tóm tắt nội dung ý tưởng sáng tác (không quá 200 từ). Cuối bản tóm tắt có ghi rõ họ và tên, địa chỉ, điện thoại (nếu có) của người dự thi.

Không ghi tên của người dự thi vào bản vẽ mẫu biểu trưng.

+ Bản dự thi đựng trong phong bì khổ 32cm x 42cm được dán kín và gửi về theo địa chỉ:

Ban chỉ đạo cuộc thi vẽ mẫu biểu trưng

Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia 36 Hàng Chuối, Hà Nội

Mọi chi tiết cụ thể xin liên hệ qua số điện thoại:

(84-4) 9710630 (đ/c Trịnh Dương)

+ Một tác giả có thể gửi nhiều mẫu dự thi.

+ Thời gian nhận bài dự thi: Từ ngày 1 tháng 6 năm 2002 đến hết ngày 31 tháng 7 năm 2002 căn cứ theo dấu bưu điện.

+ Thời gian công bố kết quả: Tháng 9 năm 2002.

+ Bản quyền tác phẩm trúng thưởng thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

+ Bài gửi dự thi không trả lại tác giả.

5. Giải thưởng

Mẫu được chọn sử dụng làm mẫu biểu trưng chính thức của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia được tặng thưởng 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Mẫu biểu trưng sẽ được sử dụng làm Kỷ niệm chương và được in trên mọi ấn phẩm của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia.

Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia trân trọng thông báo và mong nhận được sự nhiệt tình tham gia của các tập thể và cá nhân ở cả trong và ngoài nước.

Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia

+