TB

TÌM HIỂU TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM

LÊ VĂN QUÁN

Âm dương là một phạm trù triết học. Hai mặt âm dương ở trong một sự vật thống nhất, tức là bất cứ một sự vật nào trên thế giới đều có thể phân chia hai mặt âm dương. Ví dụ quyển sách, mặt trước là dương, mặt sau là âm; bên ngoài là dương, bên trong là âm. Nếu như mở quyển sách ra, thì trang bên trong tiếp nhận ánh sáng là dương, mặt trước mặt sau lại trở thành âm.

Cũng như thân thể con người, xuất phát từ phân biệt tính chất: nam là dương, nữ là âm; xuất phát từ phân biệt trên thân thể: nửa thân trên là dương, nửa thân dưới là âm; bên ngoài là dương, nội tạng là âm; lưng là dương, bụng là âm; xương thịt cố định là âm, khí huyết lưu động là dương. Phần xương thịt đối ứng: xương là âm, thịt là dương. Khí huyết đối ứng: huyết là âm, khí là dương, khí là thầy của huyết, thúc đẩy huyết lưu hành. Da thịt đối ứng: da là dương, thịt là âm. Da lông đối ứng: da là âm, lông là dương. Da không tồn tại, thì lông cũng không mọc được.

Như vậy, là nói âm dương không phải cố định, nó có thể chuyển đổi theo điều kiện ngoại giới chuyển đổi. Cho nên Lão Tử nói: “vạn vật phụ âm nhi bão dương” (Đạo đức kinh, Chương 12) - (muôn vật đội âm và bồng dương). Âm dương có thể chuyển đổi cho nhau, dựa vào nhau tồn tại. Không có âm, dương không thể tồn tại; không có dương thì âm cũng không thể tồn tại. Cũng giống như không có trời thì không có đất và ngược lại. Đó là qui luật phát triển, biến đổi sự vật. Âm dương hai mặt mâu thuẫn đối lập, thống nhất, cái này mất đi (tiêu) cái kia lớn lên (trưởng); cái này tiến, cái kia lui, cuối cùng ở trong trạng thái cân bằng mới có thể duy trì sự vật biến đổi phát triển bình thường.

Người Việt Nam từ lâu đã nhận thức về triết lý âm dương ở nhiều lĩnh vực. Do sống trong hoàn cảnh của nghề trồng lúa nước, cho nên nhân dân ta tiếp xúc với những cặp âm dương đối lập, như:

Nắng -- mưa (Nắng không ưa, mưa không chịu)

Đất -- trời (Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời)

Sương -- gió (Dầm sương dãi gió,)...

Bản thân cây lúa cũng là: gốc ngâm trong bùn nước (âm), ngọn phơi trong nắng gió (dương). Đến độ nảy bông thì hoa lúa chỉ phơi màu vào giờ Ngọ (giữa trưa, lúc dương khí thịnh) và giờ Tí (nửa đêm, lúc âm khí thịnh) để tiếp thu đủ khí âm dương trời đất mà biến thành hạt lúa(1).

Người Việt đã nhận thức được số chẵn là âm, số lẻ là dương. Lê Quí Đôn phân biệt tre đực tre cái bằng cách xem cành thứ nhất ở gốc: Nếu có 2 cành là tre cái, còn nếu một cành là tre đực (2).

Ngay trong cách lựa chọn vật tổ của người Việt cũng biểu hiện đặc trưng quân bình âm dương. Từ thời tiền sử, các dân tộc trên thế giới đã chọn những con vật có liên quan mật thiết đến đời sống con người làm biểu tượng, chẳng hạn, Ai Cập chọn con Bò, Pháp chọn con Gà trống, Nga và Thụy Sĩ chọn con Gấu, Mỹ chọn con ó, dân Bách Việt ta tự hào là con Rồng cháu Tiên và chọn Tiên - Rồng làm biểu tượng, thể hiện dấu vết tư duy âm dương của thời xa xưa.

Đặc trưng quân bình âm dương lại được người Việt Nam sử dụng trong ẩm thực: đồ ăn âm tính thường kèm theo gia vị dương tính - [ăn ốc luộc (âm) đi kèm với nước chấm gừng ớt (dương)].

Triết lý quân bình âm dương không chỉ cho người sống mà cả cho người chết: trong những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) có niên đại vào thế kỷ III trước Công nguyên được gióng theo hướng Nam - Bắc, các đồ vật bằng gỗ (dương tính) được đặt ở phía Bắc (âm tính) và ngược lại, các vật bằng gốm (âm tính) được đặt ở phía Nam (dương tính)(3).

Ở Việt Nam mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương đối ứng, hài hòa: Ông đồng bà cốt, con Rồng cháu Tiên... Khái niệm âm dương thể hiện ở mọi phương diện: xin âm dương (gieo hai đồng tiền sao cho một sấp một ngửa), chợ âm dương (chợ họp vào chập tối); ngói âm dương (ngói lợp nhà kiểu viên ngửa viên sấp) v.v. Cả những khái niệm vay mượn đơn lẻ, khi vào Việt Nam chúng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa mai mối chỉ là một ông tơ hồng, vào Việt Nam được biến thành ông tơ - bà nguyệt. ở ấn Độ chỉ có Phật ông, vào Việt Nam xuất hiện Phật ông - Phật bà (ở một số nơi, người Mường gọi là bụt đực - bụt cái)(4).

Thậm chí cả trong ca dao, thành ngữ cũng phản ánh qui luật “trong âm có dương, trong dương có âm” khá rõ, như: trong khổ có sướng, trong họa có phúc, trong rủi có may...

Theo qui luật âm dương chuyển hóa (âm sinh dương, dương sinh âm), người Việt Nam lại có các thành ngữ: Tre già măng mọc; Trèo cao ngã đau; bán bò tậu ễnh ương...

Ở người Việt Nam, triết lý âm dương không chỉ thể hiện qua nhận thức, mà còn được sử dụng cụ thể trong đời sống con người. Như Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã vận dụng triết lý âm dương vào công việc chữa bệnh. Ông nói: “Nghề làm thuốc đâu có thể vượt ra ngoài nguyên lý âm dương ngũ hành mà cứu chữa được những bệnh nguy nan” (Tiểu dẫn Y gia quan miện ); “Lý của âm dương là lý của y” (Luận về y ý và y lý). Qui luật quân bình âm dương cũng được ông vận dụng vào việc chữa bệnh. Ông nói: “Dương làm hại âm thì tinh huyết khô cháy, âm làm hại dương thì thần khí lặng tắt. Phàm mọi bệnh sinh ra không một bệnh nào không phải vì âm dương hại nhau mà mất điều hòa (Y hải cầu nguyên); “Phàm trăm bệnh của người ta không gì là không do âm dương chênh lệch nhau, điều đó quan hệ đến sống chết” (Y hải cầu nguyên); “âm dương cốt thăng bằng, không nên thiên lệch về một bên. Thủy hỏa trong thân thể của người ta cũng như là cán cân, nếu bên này nặng thì bên kia nhẹ, nếu bên này nhẹ thì bên kia nặng. Phương pháp chữa bệnh là, nếu bên kia nặng thì bổ cho bên này, nếu bên này nặng thì bổ cho bên kia, quyết không để sai nhau một ly thì mới thăng bằng” (Y hải cầu nguyên).

Hay là Ông cho rằng khi chữa bệnh phải chú ý đến thời tiết, “không nên quá câu nệ vào thuyết vận khí vì bệnh phát sinh do cả nguyên nhân bên ngoài, cảm nhiễm tùy theo thời tiết” (Vận khí kí điển); “Nói đến thời khí thì phải tùy cơ ứng biến, tức là trước phải theo khí hậu từng năm, nếu năm ấy mưa nhiều thì bệnh phần nhiều do thấp, phải dùng loại thuốc cay, đắng, ấm...” (Vận khí ký điển).

Qua thực tế, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác biết rất rõ, cơ thể con người cần phải thích hợp với khí hậu bốn mùa biến đổi. Bốn mùa biến đổi tức là âm dương chuyển hóa. Bởi vì một năm có bốn mùa, bắt đầu là mùa xuân, rồi đến các mùa: hạ, thu, đông. Mùa xuân, mùa thu khí hậu ôn ấm, khí đất bay nổi, dương sinh âm trưởng (lớn lên), muôn vật đều nảy sinh. Đến mùa thu, mùa đông, khí hậu rét lạnh, khí trời chìm lắng, dương sát âm tàng, muôn vật đều tiềm ẩn. Khí tiết hết thăng lại giáng, hết giáng rồi thăng như một vòng tròn không có đầu mối, chuyển hóa muôn vật. Khí trời như vậy, con người cũng ứng với nó. Cái mới thay thế cái cũ, sinh sinh hóa hóa không ngừng. Khí hậu bốn mùa thay đổi, mỗi mùa đều có đặc điểm khác nhau, do đó, ngoài bệnh tật nói chung, còn nảy sinh một số bệnh do thời tiết, như mùa xuân mọi người dễ mắc bệnh cảm mạo, tỷ lệ trẻ em viêm phổi cũng đột nhiên tăng lên cao. Viêm não phần nhiều nảy sinh ở mùa hè. Bệnh viêm phế quản mạn tính phần nhiều phát sinh ở mùa thu, mùa đông...

Tất cả những ví dụ nêu trên càng thể hiện sâu sắc các qui luật của triết lý âm dương. Nó không phải chỉ là hai mặt đối lập âm dương của một sự vật, mà là thể hiện tất cả sự đối lập song phương. Tất cả sự vận động biến hóa của muôn vật đều dựa vào sự đối lập biến đổi âm dương. Sự đối lập thống nhất, vận động biến hóa của âm dương quyết định sự ra đời, phát triển và biến đổi của muôn vật. Hết thảy sự vật của giới tự nhiên và xã hội đều liên hệ với nhau, hết thảy sự vật đều đang tồn tại mâu thuẫn đối lập, sự vật phát triển, vận động, biến hóa ở trong sự đối lập thống nhất.

Âm dương đối lập, trái ngược nhau, nhưng lại thống nhất, cùng nhau sinh thành. Âm dương tách rời nhau không thể phát triển tiến hóa. Cũng như nói, thực vật là âm, động vật là dương. Động vật không thể tách rời thực vật mà tồn tại được, đó là điều rõ ràng và dễ thấy. Động vật ăn cỏ, như bò, dê không có thực vật thì không sinh tồn. Ngoài vấn đề thức ăn, thực phẩm còn có không khí, động vật cần có khí ô-xy, và khí ô-xy chính là sản phẩm của tác dụng quang hợp, không có thực vật chế tạo khí ô-xy thì hết thảy động vật cũng sẽ tắc thở mà chết. Thực vật mọc ở trên đất tự sinh, tự diệt tựa hồ như không liên quan đến động vật. Nhưng trong thực tế, thực vật cũng rất cần động vật, thể khí CO2 của động vật nhả ra chính là tác dụng quang hợp của thực vật cần đến.

Cơ thể con người, bên trong là âm, bên ngoài là dương, trong ngoài đều vững bền tức là âm dương cân bằng. Nhưng thân thể con người là một thể sống hoạt tính, trong đó có cơ năng phức tạp. Nó có thể chuyển hóa tinh bột thành chất béo, cũng có thể chuyển hóa mỡ thành lòng trắng trứng. Có người cho rằng ăn thịt mỡ sẽ béo phì, nhưng trong thực tế rất nhiều người không ăn thịt mỡ mà vẫn béo. Tất cả những điều đó, chứng minh do cơ thể ở bên trong con người quyết định. Chuyển hóa cần phải tiêu hao năng lượng, hơn nữa, chuyển hóa chỉ có thể chuyển hóa bộ phận dinh dưỡng, khiến nó đạt đến mức cân bằng tương đối. Đó là nói, thức ăn vào trong con người, chỉ cần phối hợp đều đặn, cơ thể con người chuyển hóa từng phần, sẽ thực hiện tương đối cân bằng. Nếu chỉ tính toán thức ăn vào cơ thể con người một cách máy móc, tức là hoàn toàn coi nhẹ công năng chuyển hóa cơ thể.

Ngay cả đến trạng thái động tĩnh của con người cũng cần đến cân bằng âm dương. Về mặt triết học, Đạo gia nhấn mạnh tĩnh, Nho gia coi trọng động, y học nhấn mạnh kết hợp động tĩnh. ở trong Luận hành, Biệt thông thiên, Vương Sung đã nói: “Cây cỏ mọc ở trên đỉnh núi cao, bị gió thổi lay động suốt ngày đêm không ngừng sẽ sinh trưởng rất chậm, không tốt tươi như cây cỏ mọc ở hang núi không có gió. Cũng đạo lý như thế, thân thể con người nếu như luôn luôn vận động, cần cù lao khổ không được nghỉ ngơi, thì làm sao có thể sống lâu được?”. ở đây, Vương Sung phản đối luôn luôn vận động, phản đối vận động quá mức, phản đối mạch máu chuyển động quá độ ở trong cơ thể. Đồng thời, Vương Sung cho rằng mạch máu không thông, con người cũng không làm việc được. Ông nói: “Mạch máu bế tắc, con người lắm bệnh. Cho nên khí không thông, người khỏe mạnh cũng chết, vật tốt tươi cũng khô héo” (Luận hành, Biệt thông thiên). Hai phương diện liên hệ với nhau, như vậy có thể thấy, Vương Sung chủ trương vận động, nhưng phản đối vận động quá mức. Vương Sung chủ trương quan điểm động tĩnh kết hợp.

Theo quan niệm của người xưa, vũ trụ là một thái cực. thái cực sinh ra lưỡng nghi (âm dương), âm dương lại được sử dụng trong công việc quản lý. Ngày nay, khoa học hiện đại cũng cho rằng, nhà nước, xí nghiệp cho đến cá nhân đều là một thái cực hoàn chỉnh(5). Trong quản lý xí nghiệp, người quản lý và người bị quản lý làm việc với nhau, sản sinh quan điểm vận động đối lập nhau và bổ sung cho nhau, một vật này tiến tất phải có một vật khác lui mới có thể sản sinh trung hòa cân bằng. Người quản lý chỉ có nhận rõ nguyên lý thái cực, trong quá trình xử lý sự việc và quản lý người dưới mới có thể tự giác vận dụng hiện tượng tiến lui của dương và âm trong vòng thái cực. Không nên dùng lợi nhuận tối đa làm nguyên tắc duy nhất của việc quản lý kinh doanh, mà coi thường tính tự tôn và quan niệm giá trị của bản thân con người. Nên thừa nhận bất cứ ai cũng đều là một thái cực, bản thân nó dung hòa, đối xử với con người phải vì con người và có phân biệt ở giá trị kết quả lao động, trước sau duy trì tính tự tôn đó, khiến cho tổ chức tràn đầy hòa khí, giống như một gia đình, một sân khấu âm nhạc hài hòa. Phương thức tổ chức công nhân viên lại như gia đình, lấy hòa làm quý, phát huy năng lực chủ quan của công chức, có thể nói là phù hợp với học thuyết thái cực ở Kinh Dịch. Vì Kinh Dịch cho rằng, chỉ có thái cực hoàn chỉnh, mới có thể sinh sinh hóa hóa, phồn vinh thịnh vượng, cho nên điều gọi là hòa khí sinh ra của cải, chính là đạo lý này.

Hà Nội ngày 20-11-2000
L.V.Q

CHÚ THÍCH:

(1) Vũ Trọng Hùng - Ngô Hi, Bí ẩn và bí quyết sự sống - đời người, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1990, tr.173.

(2) Chú thích của Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP. HCM, 1997, tr.114.

(3) O. Jansé, Nguồn gốc văn minh Việt Nam, Nxb. Đại học, Huế, 1961, tr.17.

(4) Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Sđd., tr.124.

(5) Lê Văn Quán, Chu dịch với khoa học quản lý, Nxb. Giáo dục, 1997, tr.104 - 106.

TB

MẤY ĐẶC ĐIỂM VĂN HỌC LÝ - TRẦN

NGUYỄN CÔNG LÝ

Tìm hiểu đặc điểm văn học, thiết nghĩ không thể không nhắc đến một luận điểm tưởng đã cũ nhưng cực kỳ quan trọng: Văn học là tấm gương phản chiếu trung thành cuộc sống, là sản phẩm văn hóa tinh thần của thời đại. Văn học Lý - Trần cũng vậy, không ngoài quy luật trên.

Hơn một ngàn năm nô lệ phong kiến phương Bắc (111 TCN - 938 SCN), với ý chí ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với ý thức độc lập tự chủ, hễ có cơ hội, dân tộc ta đã vùng dậy đấu tranh đánh đuổi kẻ thù và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938 bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa nước ta sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: thời trung đại. Đây là thời kỳ Nhà nước phong kiến được thành lập, ngày càng hùng mạnh và phát triển qua các triều đại: Ngô (939 -967), Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009), Lý (1009 - 1225), Trần (1225 - 1400), Hồ (1400 - 1407) và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời Hậu Trần (1407 - 1418). Giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của các triều đại trên, trong đó có hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu đã gọi chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý - Trần. Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên ba nét lớn như sau:

- Một là, thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cộng đồng;

- Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước;

- Ba là, thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ(1)

Văn học Lý - Trần đã phản ánh sắc nét những đặc trưng cơ bản trên của thời đại.

Điều muốn lưu ý ở đây, văn học Lý - Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu, có nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc lập ở thế kỷ thứ X (năm 938). Nói thế không có nghĩa là văn học Lý - Trần không có được một tiền đề nào từ trước. Nền văn học này đã biết kế thừa những gì đã có tuy chưa nhiều của văn học thai nghén trong thời Bắc thuộc(2). Tuy vậy, những gì đã có ấy chưa thể coi là chính thức mở đầu của văn học thành văn Việt Nam, mà chỉ có thể coi đó là mầm mống phôi thai tạo tiền đề cho văn học Lý - Trần phát triển. Từ bước mở đầu có tính chất mở đường này, dù muốn hay không, văn học Lý - Trần một mặt chịu sự tác động của một thời đại khoan giản, nhân thứ, hào mại mà dũng liệt; mặt khác, nó cũng tự xác định cho mình một trách nhiệm cao cả mà lịch sử giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, có thể thấy văn học thời kỳ đầu này nổi lên mấy đặc điểm cơ bản sau đây:

Một là, văn học Lý - Trần hình thành trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hóa.

Trước hết là sự lệ thuộc, ảnh hưởng. Vấn đề này có nguyên nhân là nước ta bị lệ thuộc phong kiến Trung Quốc thống trị cả nghìn năm. Bấy giờ, văn hóa Hán đã xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, trong đó có con đường áp đặt do các quan cai trị Trung Quốc bảo trợ. Vì thế, khi nước nhà giành lại độc lập, văn học Lý - Trần có mặt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc, thậm chí là nặng nề những yếu tố của văn hóa Hán, văn học Hán trên các phương diện như ngôn ngữ văn tự, hệ thống thể loại và cả những học thuyết, tư tưởng, tôn giáo.

Về mặt ngôn ngữ văn tự, văn học Lý - Trần chủ yếu vay mượn văn tự Hán để sáng tác (mãi đến thế kỷ thứ XIII, dưới đời Trần, mới sử dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học). Bên cạnh việc vay mượn văn tự, văn học Lý - Trần còn vay mượn thi văn liệu, điển cố, điển tích lấy từ sử sách, từ thánh kinh hiền truyện của Trung Quốc. Sự vay mượn đó nhiều đến nỗi trở thành những mô-típ quen thuộc, tạo nên tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng trong văn học. Hồi ấy, những sáng tác văn chương có như thế mới được xem là bác học, cao nhã, cao quý. Chẳng hạn, nói đến cây và hoa, người đọc sẽ bắt gặp tùng, trúc, cúc, mai, sen... Đây là những biểu tượng để chỉ phẩm chất, khí tiết của bậc trượng phu, người quân tử; nói đến vật thì thường là long, ly, quy, phụng; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; tả cảnh mùa thu phải là rừng phong lá rụng, sen tàn giếng ngọc, mây đùn cửa ải, lá ngô đồng vàng rơi; nói hoa bốn mùa thì thường là xuân lan, thu cúc, hạ sen, đông mai... Vì thế, người đọc không lấy làm lạ là một kiệt tác như Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, để khích lệ lòng yêu nước của các tướng sĩ dưới quyền xông lên đánh quân xâm lược, tác giả lại nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ ở sách vở Trung Quốc như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên.

Về mặt thể loại, văn học Lý - Trần vay mượn những thể loại của văn học Trung Quốc để sáng tác, bao gồm vận văn, biền văn và tản văn: Vận văn có các thể thơ cổ phong, thơ luật Đường (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn thì mượn các thể như hịch, phú, cáo; tản văn thì mượn các thể chiếu, chế, biểu, tấu, tự, bạt, bi ký, sử ký, luận thuyết, các thể truyện... (riêng thể chiếu, chế, biểu, tấu có nhà nghiên cứu xếp vào loại biền văn (3). Tất cả các thể loại được sử dụng trong văn học Lý - Trần đều là những thể loại của văn học Trung Quốc. Khi vay mượn để sáng tác, các tác giả đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt theo những yêu cầu có tính quy phạm của từng thể loại đó. Theo như kết quả nghiên cứu hiện nay thì văn học Lý - Trần chưa có thể loại văn học tự thân, nội tại của dân tộc như ở giai đoạn văn học sau. Điều lưu ý là trong các thể loại trên, về số lượng và chất lượng thì vận văn nổi trội hơn tản văn; các thể loại trữ tình đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tự sự.

Bên cạnh vay mượn văn tự ngôn ngữ và thể loại, văn học Lý - Trần còn chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng tôn giáo, những học thuyết của nước ngoài như Phật, Lão, Nho, Bách gia chư tử... Đây là những tư tưởng, những học thuyết có ảnh hưởng lớn ở khu vực Đông á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam) thời trung đại. Tư tưởng Tam giáo đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, trong đời sống con người Việt Nam thời bấy giờ. Đối với các tầng lớp trên thì họ chịu ảnh hưởng những tư tưởng, học thuyết đó nặng nề hơn.

Tiếp theo, tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm như trên nhưng văn học Lý- Trần đã cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hóa.

Văn học Việt Nam tất yếu phải mang bản sắc tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học Lý - Trần cũng vậy. Trên đường hình thành và phát triển, cùng với việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của văn hóa, văn học nước ngoài, văn học Lý - Trần vừa phải từ bỏ, vừa phải chống lại sự lấn át, áp đảo của những yếu tố ngoại lai đó để ngày càng nâng cao tính dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo hướng dân tộc hóa diễn ra không chỉ ở hình thức mà còn biểu hiện ở nội dung văn học. Trên phương diện hình thức, biểu hiện đó trước hết là văn tự. Nếu ban đầu văn học Lý-Trần sử dụng chữ Hán thì từ thế kỷ XIII, các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để sáng tác. Việc chữ Nôm ra đời và được sử dụng đã chứng tỏ ý thức độc lập dân tộc ngày càng được khẳng định, nâng cao; văn hóa, văn hiến đã được phát triển, đang cố gắng để thoát khỏi sự lệ thuộc văn hóa phương Bắc. Đồng thời, sự ra đời của chữ Nôm còn cắm cái mốc cho sự phát triển văn học, làm tiền đề để giai đoạn sau kết tinh nên những kiệt tác văn chương bởi những tác giả ưu tú như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX)... Điều đáng tiếc là, theo thư tịch cổ cho biết, thời Lý - Trần có nhiều tác giả sáng tác văn học bằng chữ Nôm nhưng qua thời gian, binh hỏa, thiên tai, những tác phẩm đó hiện chẳng còn là bao.

Về điển cố, điển tích, văn thi liệu, bên cạnh sự vay mượn của văn học Trung Quốc thì văn học Lý - Trần còn sử dụng văn thi liệu của Việt Nam, lấy ngay đề tài ở Việt Nam để viết về cuộc sống con người Việt Nam, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước Việt Nam, phần nào biểu lộ niềm tự hào dân tộc.

Về thể loại, văn học thời kỳ này chưa có dấu hiệu gì về dân tộc hóa hình thức thể loại văn học như ở văn học giai đoạn sau.

Trên phương diện nội dung, văn học Lý - Trần đã biết “hút nhụy tinh hoa”(4), biết tiếp thu có chọn lọc rồi dung hợp, chuyển hóa cái của người thành cái của mình, phục vụ cho cuộc sống của mình, phù hợp với dân tộc mình. Nền văn học ấy đã thể hiện được tâm hồn, tình cảm, tâm tư nguyện vọng của người Việt Nam. Chẳng hạn, cũng là văn tự, thể loại nước ngoài nhưng những bài thơ như Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt ?) Tụng giá hoàn Kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) đọc lên nghe hào sảng, hả hê biết bao, bừng bừng khí thế và đậm đà tính dân tộc biết dường nào ! Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Tuy nêu những tấm gương nước người nhưng tác phẩm đã khích lệ, động viên được tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí chiến đấu và quyết chiến thắng quân xâm lược của các tướng sĩ đời Trần để góp phần làm nên hào khí Đông A của thời đại. Ngay cả những tư tưởng Tam giáo: Nho, Phật, Lão khi vào Việt Nam cũng đã được dân tộc ta tiếp thu, dung hợp rồi Việt hóa để phục vụ cho đời sống tâm linh của mình. Lý tưởng trung quân ái quốc, lý tưởng nhân nghĩa của Khổng-Mạnh; tư tưởng từ bi bác ái của Phật khi vào Việt Nam đã có sự chuyển hóa nên có khác với Trung Quốc, ấn Độ là nơi sản sinh ra chúng.

Hai là, văn học Lý - Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam.

Ở thời trung đại, trong đó có thời Lý-Trần, yêu nước gắn liền với lý tưởng trung quân. Yêu nước và trung quân là một. Trên cơ sở ý thức độc lập dân tộc được củng cố và phát triển, kết hợp với âm hưởng của thời đại phục hưng mà cảm hứng yêu nước trong văn học Lý -Trần được thể hiện ở nhiều khía cạnh, sắc thái, cung bậc, giọng điệu khác nhau bởi những thời điểm lịch sử khác nhau.

Trong điều kiện đất nước hòa bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ trong thơ văn thường là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc; là niềm khát vọng xây dựng đất nước hòa bình hạnh phúc; là yêu giống nòi, tiếng nói, cảnh trí của non sông gấm vóc và yêu cả nền văn hóa của dân tộc. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận “Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ niềm tin vào vận mệnh của đất nước. Bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) thể hiện sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ về tương lai đất nước, vì Thăng Long không chỉ đẹp ở thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi trung tâm để có thể “mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau”, điều mà cố đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu của thời đại lịch sử bấy giờ. Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu không chỉ đưa lại cho người đọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, mà còn đem đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Bài phú từng được xem là kiệt tác văn chương. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so sánh bài phú này với bài Xích Bích phú của Tô Đông Pha (đời Tống - Trung Quốc) rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”(5).

Cũng là con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa thế kỷ sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285), thứ ba (1287), Trần Minh Tông và Trương Hán Siêu cùng cảm nhận một màu máu tanh hôi trên dòng sông: “Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây”, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng với cảm hứng ấy, Phạm Sư Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn sóng, cảm thấy lòng bồi hồi tưởng nhớ chiến tích oai hùng năm xưa của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng Giang:

Hung hung Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 3, tr.79)

Dịch:

Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,
Tưởng thuyền chiến Ngô Vương.

Để hơn trăm năm sau, thi hào Nguyễn Trãi khi đến dòng sông này cũng đã có cảm xúc và niềm tự hào như thế trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu.

Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì yêu nước là lòng căm thù giặc, là tinh thần quyết chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đến cùng chủ quyền của dân tộc. Yêu nước còn là lòng biết ơn và ngợi ca những con người dám xả thân cứu nước; những con người thà hy sinh chứ không hàng giặc, không hợp tác với kẻ thù. Bài Thơ Thần (Nam quốc sơn hà) tương truyền của Lý Thường Kiệt vẻn vẹn chỉ hai mươi tám tiếng, gói gọn trong bốn câu mà ít nhất đã mang hai tầng ý nghĩa: vừa là lời hịch lại vừa là lời tuyên ngôn, vì đã khích lệ, cổ vũ tinh thần quyết chiến đấu và chiến thắng quân Tống xâm lược vào năm 1076 trên trận tuyến sông Cầu; đồng thời khẳng định cương vực bờ cõi chủ quyền của đất nước với sự phân biệt rạch ròi “Nam quốc” với “Bắc quốc” và “Nam đế” với “Bắc đế”. Do thế, xưa nay nhân dân ta đã coi bài thơ như là lời tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 1, tr.322)

Dịch:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây ?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Hay như lòng căm thù, sự căm tức của chủ tướng Trần Quốc Tuấn “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, với ước muốn “xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” thì đó cũng là lòng căm thù sôi sục của tướng sĩ trong thời điểm ấy. Còn đây là khí phách hào hùng cùng niềm tin vào vận nước nghìn thu được thể hiện trong bài thơ ngắn với giọng điệu hả hê của Trần Quang Khải:

Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 2, tr.424)

Dịch:

Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.

Cảm hứng yêu nước của thời đại Đông A còn vút lên giọng hào sảng của kẻ nam nhi quyết lập công để lưu danh hậu thế trong thơ của Phạm Ngũ Lão:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 2, tr.562)

Dịch:

Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Một thời đại văn học đầy chất tráng ca. Hào khí thời đại ấy đã làm cho Trần Phu, một sứ thần nhà Nguyên, vào thời điểm đó đi sứ sang ta, khi về lại Trung Quốc vẫn còn “giật mình kinh sợ” đến nỗi “tóc bạc”. Cái cảm giác này ông có ghi trong bài Sứ hoàn cảm sự:

Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung, bạch phát sinh.
Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn kinh.

Dịch:

Bóng lòe binh khí lòng đau khổ,
Vang vọng trống đồng, tóc bạc sinh.
Mừng được về nhà, thân khỏe mạnh,
Ngủ dài, trở dậy, thấy còn kinh.

Cảm hứng yêu nước ấy còn thể hiện qua giọng điệu uất hận, dồn nén của người anh hùng lỡ vận trong bài Cảm hoài của Đặng Dung. Đây là hai câu kết:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thơ văn Lý - Trần, tập 3, tr.517)

Dịch:

Thù trả chưa xong đầu đã bạc.
Gươm mài bóng nguyệt đã bao rày.

Ba là, văn học Lý - Trần đã hình thành những giá trị nhân bản, trong đó lòng nhân ái, nhân đạo trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn chương.

Xét đến cùng, cảm hứng yêu nước không hoàn toàn tách biệt với cảm hứng nhân bản, bởi yêu nước cũng là một phương diện cơ bản của nhân bản. Yêu nước bao giờ cũng gắn với vận mệnh, cuộc sống con người. Việc đấu tranh chống áp bức thống trị, sự chiến đấu chống ngoại xâm, giải phóng đất nước đều xuất phát từ sự mưu cầu hạnh phúc cho con người. Tuy vậy, nội dung nhân bản vẫn có những điểm riêng. Nội dung đó không chỉ hiểu theo nghĩa đạo đức học mà còn phải hiểu theo nghĩa triết học. GS. Nguyễn Đình Chú đã giới thuyết ngắn gọn thuật ngữ nhân bản như sau “Tinh thần nhân bản không chỉ là tình thương con người, đặc biệt là con người đau khổ, thiệt thòi trong cuộc sống, mà còn là sự khám phá, biểu dương tất cả mọi giá trị làm nên vẻ đẹp con người trong mối quan hệ với vũ trụ, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình, với chính nó trong hành động và trong tâm linh”(6).

Từ giới thuyết trên, nếu triển khai và vận dụng vào văn học Lý - Trần sẽ có rất nhiều vấn đề cụ thể, phong phú và khá phức tạp. ở đây, chỉ xin điểm qua giá trị nhân bản với hai cấp độ: thứ nhất, văn học Lý - Trần đã xây dựng và giải quyết được mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, tự nhiên; thứ hai, văn học Lý - Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người; con người với cuộc sống.

*
**

Ở cấp độ thứ nhất, có thể xem mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, tự nhiên chính là vũ trụ quan thì văn học Lý - Trần đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ cảm thức trung đại, con người Lý - Trần chưa nhận thức tự nhiên như một khách thể. Hồi ấy, con người nhận thức và phản ánh tự nhiên không chỉ ở cấp ý thức hệ mà ở cấp tâm lý xã hội; không chỉ ở cầu trường nhận thức về thế giới mà là ở cầu trường cảm quan về thế giớI như A.Gurevich đã phát biểu(7). Với cảm thức ấy, con người đã tự xem mình là một phần tử của vũ trụ, bởi quan niệm thiên nhân tương dữ, thiên nhân hợp nhất. Vì thế, giữa con người với vũ trụ, tự nhiên có sự gắn bó hòa đồng, có mối quan hệ tương giao. Có được điều này, như đã đề cập, là nhờ sự gặp gỡ giữa chất phóng khoáng, dân chủ, cởi mở, phá chấp, cùng xuất phát từ tư duy tổng hợp, nhất nguyên, vạn vật nhất thể, tâm pháp nhất như của Phật với chất phiêu diêu, phóng nhiệm, tinh thần biện chứng khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh và tư tưởng hòa quang đồng trần của Lão - Trang với đức tính dung dị, mềm dẻo, linh hoạt, sống phụ thuộc vào thiên nhiên của người Việt. Vì thế, văn học Lý - Trần, đặc biệt là văn học Phật giáo Lý - Trần đã đem lại cho người đọc nhiều tác phẩm thể hiện sự gắn bó tương giao ấy, tạo nên hình ảnh con người vũ trụ thật đẹp.

Ở cấp độ thứ hai, văn học Lý - Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cuộc sống. Đây là những nguyên tắc đạo lý làm người, là thái độ ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, là khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của con người, là lòng thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày càng hoàn thiện hơn. Về góc độ này, văn học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX phản ánh rõ nét và có nhiều thành tựu xuất sắc. Riêng trong văn học Lý - Trần thì vấn đề trên cũng đã được các tác giả đề cập đến tuy không nhiều bằng giai đoạn văn học sau.

Có thể nêu lên đây vài tác phẩm tiêu biểu thể hiện cảm hứng nhân bản ở cấp độ này như bài thơ Ai phù lỗ của Huyền Quang:

Khóa huyết thư thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 2, tr.642)

Dịch:

Chích máu thành thư muốn gởi lời,
Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi.
Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ ?
Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.

Bài thơ là nỗi lòng thương cảm sâu xa của Thiền gia thi sĩ đối với tên giặc bị bắt. Nhà thơ hiểu được tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ người thân của tù nhân và ghi lại những dòng thơ đầy xúc động. Thật hiếm gặp những bài thơ như thế trong văn chương đời Trần. Còn đây là nỗi niềm trăn trở, day dứt của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán khi nghĩ về nhân dân sống trong cảnh mất mùa đói kém, mà mình thì chẳng giúp ích được gì trong bài thơ Nhâm Dần lục nguyệt tác:

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
(Thơ văn Lý - Trần,
tập 3, tr.208)

Dịch:

Năm nay hạ hạn lại thu mưa,
Đau nỗi mùa màng, những thiệt thua.
Ba vạn sách đầy đành xếp xó,
Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ.

Trong một bài thơ khác, Trần Nguyên Đán cũng nhắc đến đầu bạc: “Ba phần tóc bạc tấm lòng son”. Bạc đầu vì dân. Một nỗi lo thật cao cả, cũng chỉ vì muốn cho con người sống đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn.

Có được nhân sinh quan đẹp đẽ, ấm áp tình người ấy, có lẽ là nhờ sự bắt gặp giữa lòng Thương người như thể thương thân của dân tộc với tư tưởng từ bi bác ái của Phật và học thuyết nhân nghĩa của Khổng - Mạnh. Nhờ sự gặp gỡ này mà văn học Lý - Trần mới có được những tư thế nhân sinh lành mạnh và khỏe khoắn.

Tóm lại, văn học Lý - Trần với những đặc điểm cơ bản vừa trình bày chính là sản phẩm tinh thần của thời đại Lý - Trần. Nó chi phối các bộ phận văn học thời đại này, cho dù đó là văn học của các nhà Nho hay văn học được sáng tác theo cảm hứng Phật giáo, cảm quan Thiền học; đồng thời còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của văn học trung đại Việt Nam.

CHÚ THÍCH

(1) Xin xem: Nguyễn Công Lý, Đặc trưng thời đại Lý - Trần. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Hà Nội, số 3 - 2000 (tr.20-24).

(2) Xin xem một số bài viết về vấn đề này của các tác giả:

- Trần Nghĩa, Một số tác phẩm mới phát hiện có liên quan tới dòng văn học viết bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc thuộc, Tạp chí Văn học, số 4, 1975 (tr.84-99).

- Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, tập 1, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, tái bản, 1970.

- Nguyễn Đăng Na, Về phương pháp viết văn học sử của GS. Nguyễn Đổng Chi, Tạp chí Văn học, số 3, 1996 (tr 39-43).

- Nguyễn Công Lý, Mấy nét về văn học Việt Nam trước thế kỷ X và về bài thơ chữ Hán viết vào thế kỷ thứ VII của người Việt, Tạp chí Văn học, số 10, 1997 (tr.62-65).

- Nguyễn Công Lý, Góp phần tìm hiểu văn học Phật giáo Việt Nam trước thời Lý - Trần, Tạp chí Hán Nôm, số 4-1999 (tr.17-31).

(3) Nguyễn Huệ Chi, Khảo luận văn bản trong Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb. KHXH., H., 1977 (tr.49-187).

(4) Chữ dùng của GS. Nguyễn Đình Chú.

(5) Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Bản dịch, Nxb. KHXH., H., 1977, tr.218.

(6) Nguyễn Đình Chú, Dạy sách giáo khoa trung học chuyên ban môn Văn, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Vụ Giáo viên, Bộ Giáo dục & Đào tạo, H., 1994, tr.24.

(7) A. Gurevich, Những phạm trù văn hóa trung cổ, Bd. Hoàng Ngọc Hiến, Nxb. Giáo dục, H., tái bản, 1996.

TB

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NHÀ MẠC

ĐINH KHẮC THUÂN

Nhà Mạc tồn tại với tư cách là một vương triều nằm trọn trong thế kỉ XVI. Vì nhiều lí do khác nhau mà đến nay sự hiểu biết về triều đại này còn những hạn chế nhất định. Để góp phần hiểu rõ hơn về triều Mạc, chúng tôi cố gắng trình bày ở đây đơn vị hành chính các cấp và chức quan chủ yếu ở đó, cũng như chức năng, nhiệm vụ của họ qua tư liệu văn bia và một số thư tịch cổ.

1. Đạo thừa tuyên.

Đơn vị hành chính thời Mạc dường như chỉ được biết đến qua một lời dẫn rất vắn tắt của Minh Thế Tông (1522-1566): "Còn đất 13 lộ, thì cứ chiếu theo tên đất cũ, đều đặt Tuyên phủ và các chức Đồng tri, Phó sứ, Thiêm sự, mỗi chức một viên" (Toàn thư, 1968, T.4, tr.133). Thực tế, dưới thời Mạc có 13 đơn vị hành chính lớn nhất ở các địa phương được gọi là đạo thừa tuyên.

Thừa tuyên tức Thừa tuyên bố chánh sứ ty vốn được thành lập ở Trung Quốc dưới thời Minh năm 1368 và được sử dụng ở Việt Nam từ thời Lê thế kỉ XV (Huang Bandai, 57; Lê triều quan chế, 77). Các thừa tuyên này là những cơ quan hành chính địa phương cao nhất, thường gắn với các đạo, nên còn gọi là "đạo thừa tuyên". Thời Mạc duy trì các thừa tuyên của thời Lê và đơn vị hành chính cao nhất được thống nhất sử dụng là "đạo", như nhận xét trong An Nam đồ thuyết: "Mạc Đăng Dung chia nước làm 13 đạo, ở đó đặt Thừa chánh ty" (Annan tushuo, 517). Đó là các đạo: Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam, Lạng Sơn, Ninh Sóc, Hưng Hóa, Tuyên Quang, An Bang, Thanh Hoa, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam.

Đạo là đơn vị hành chính địa phương cao nhất mà ở đó do Tam ty lo việc chính sự, quân sự và giám sát là : Thừa ty tức Thừa tuyên sứ ty, hay Thừa chánh sứ ty, Đô ty tức Đô chỉ huy sứ ty và Hiến ty tức Hiến sát sứ ty (Michel Cartier, 29). Điều này từng được Trịnh Nhược Tăng, sử gia Trung Quốc nhận xét năm 1561 như sau: "Mạc Đăng Dung, ngoài chia các đạo, lập Thừa chánh ty, Hiến sát ty và Tổng binh ty" (Trịnh Nhược Tăng, tr.517). Tổng binh ty ở đây chính là Đô ty vừa nêu ở trên.

Trong ba ty của chính quyền địa phương thì ty Thừa, tức Thừa chánh sứ ty là quan trọng nhất. Bởi bản thân tên gọi của nó mang ý nghĩa "thừa mệnh bố cáo mệnh lệnh của Hoàng đế" (thừa tuyên). Thừa chánh sứ là vị trưởng quan hành chính cao nhất ở địa phương cùng với Đô chỉ huy sứ và Đề hình án sát sứ phân chia nắm giữ việc dân chính, quân chính và hình ngục.

Dưới Thừa chánh sứ có hai chức phó giúp việc là Tham chính và Tham nghị. Thứ bậc của ba chức này là Thừa chánh sứ - Tham chính - Tham nghị. Bởi từ chức Tham nghị, có thể thăng lên chức Tham chính và Thừa chánh sứ. Nguyễn Khẳng Công, chẳng hạn, Tiến sĩ năm 1562, được giữ chức Tham nghị đạo Hải Dương năm 1569, sau được thăng lên chức Tham chính đạo Ninh Sóc năm 1576; còn Lê Quang Bí, thì từ chức Tham chính đạo Tuyên Quang thăng lên chức Thừa chánh sứ đạo Kinh Bắc năm 1539 (Văn bia thời Mạc, tr.199, 192). Thừa chánh sứ có thể thăng lên chức Thị lang thậm chí Thượng thư của một trong sáu bộ ở Trung ương. Trái lại, trong một số trường hợp khác, chức Thừa chánh sứ do viên Thị lang hoặc Thượng thư ở Lục bộ kiêm nhiệm. Trường hợp Trần Phỉ chẳng hạn, từ chức Thừa chánh sứ đạo An Bang được thăng lên chức Thị lang bộ Lại năm 1532 (Thông sử, 153), rồi lên Thượng thư bộ Lễ năm 1538. Tiếp đó năm 1540, nguyên là Thượng thư bộ Lễ, Trần Phỉ giao kiêm chức Thừa chánh sứ đạo Hải Dương. Trần Vĩnh Tuy, Tiến sĩ năm 1553, chức Thừa chánh sứ đạo An Bang được phong làm Thị lang bộ Lễ, Lê Quang Bí khi giữ chức Thị lang ở bộ Lại, được kiêm quản Thừa chánh sứ đạo Kinh Bắc năm 1539, Vũ Thoát - Thị lang bộ Binh cũng được kiêm nhiệm chức Thừa chánh sứ đạo Thanh Hoa năm 1583 (Văn bia thời Mạc, 192, 231). Như vậy phẩm trật của Thừa chánh sứ tương đương với chức Thị lang trong Lục bộ ở triều đình, nghĩa là ở hàng Tòng tam phẩm, sơ thụ là Gia hạnh đại phu, thăng thụ là Gia tích đại phu và gia thụ là Gia thông đại phu. Tuy nhiên do vị trí trọng yếu của một số thừa tuyên mà người đảm nhận chức vụ ở các nơi này có phẩm hàm cao hơn. Chẳng hạn thừa tuyên Hải Dương, đất "căn bản" của nhà Mạc, nơi đây vừa là quê hương, đất phát tích và vừa là nơi có kinh đô thứ hai: Dương Kinh, do Trần Phỉ kiêm nhiệm năm 1540, khi ông đã là quan Thượng thư, với phẩm trật hàng chánh tam phẩm (Thông sử, 172). Chức vụ Thừa chánh sứ đạo này về sau cũng do một vị Thượng thư là Nguyễn Đoan Trung đảm nhận. Tóm lại, ty Thừa có các chức quan tương tự thời Lê sơ và thời Minh, nhưng tổ chức gọn nhẹ hơn.

Hiến sát sứ ty, còn được gọi là Đề hình án sát sứ ty, là một trong ba ty ở đạo thừa tuyên, xuất hiện ở Việt Nam từ thời Lê thế kỉ XV (Lịch triều hiến chương loại chí, T.1, tr.477). Ty này lo việc giám sát, hình ngục ở địa phương như điều luật trong bộ Luật thời Lê Mạc Hồng Đức thiện chính đã quy định: "Dân gian bị oan, ắt có kiện. Có kiện, ắt có xét xử. Do vậy, trước phải do Xã trưởng, sau đến quan huyện, rồi nha môn hai ty Thừa và Hiến tra hỏi". Cùng với Thừa ty, Hiến ty đồng thời có chức năng duy trì trật tự, kỉ cương ở địa phương, và được tổ chức tương tự Thừa ty như vừa trình bày ở trên. Chức trưởng quan của Hiến sát sứ ty là Hiến sát sứ và dưới là hai viên phó quan giúp việc là Phó sứ và Thiêm sự (Huang Bandai, 58). Tư liệu văn bia phản ánh khá cụ thể các chức quan và hoạt động của ty Thừa này dưới thời Mạc. Văn bia chùa Hương Nham (Tuyên Quang, khắc năm 1537) cho biết Hiến ty đạo Tuyên Quang khi này có Hiến sát sứ Ngô Nghiêm Khê và Hiến sát Phó sứ Vũ Trạch Xuyên. Văn bia cho biết Ngô Nghiêm Khê tức Ngô Hoằng, đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1526), chức Hiến sát sứ đạo Tuyên Quang, thăng thụ Triều liệt đại phu; nghĩa là chức này có phẩm trật tương đương những quan văn hàng tòng tứ phẩm. Không rõ Vũ Trạch Xuyên còn mang thêm chức, tước gì và phẩm trật ở hàng nào, song được biết Trần Chấp Huyền năm 1583 cũng đảm nhận chức Phó sứ đạo Tuyên Quang này (Văn bia thời Mạc, 234). Khi đảm nhận chức đó, Trần Chấp Huyền được sơ thụ là Mậu lâm tá lang, tương đương văn quan hàng Tòng lục phẩm (Lê Kim Ngân, 143). Hoạt động của Hiến sát sứ ty liên quan mật thiết với Ngự sử đài, cơ quan giám sát, đàn hặc ở Trung ương, đặc biệt là với viên Giám sát ngự sử ở các đạo. Lê Quang Bí sau 9 năm làm việc ở Hàn lâm viện, được bổ làm Hiến sát sứ đạo Sơn Tây, thăng lên làm Tham chính Thừa ty đạo Tuyên Quang kiêm Đô Ngự sử (Văn bia thời Mạc, 191).

Về Đô ty, bộ phận tổ chức lực lượng quân sự ở địa phương, gắn liền với tổ chức quân sự chung trong cả nước. Nhà Mạc, ngay sau khi thiết lập chính quyền năm 1528, đã ban lệnh tổ chức lại các lực lượng quân sự qua đoạn trích sau: "Đăng Dung sai bàn định phép binh, đặt bốn vệ: Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô; các vệ sở nội ngoại trong Ngũ phủ, tên gọi các ty sở thuộc, các quan chức và viên số theo như triều trước (...). Chia bổ các ty, mỗi ty đặt một viên Chỉ huy sứ, một viên Chỉ huy đồng tri, một viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên trung hiệu, 1100 trung sĩ, chia làm 22 phiên..." (Thông sử, 138).

Như vậy tại Kinh đô, có 4 vệ là Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y và Kim Ngô, thuộc lính cấm thành; còn ở các địa phương thì lập các Đô ty. Dưới các vệ cấm thành lại đặt các ty, và dưới các Đô ty ở địa phương lại có các vệ, rồi sở và ngũ. Tư liệu văn bia cho biết ở vệ Cẩm Y có ty Phục Ba "Sãi Bùi Doãn Văn hiệu Phúc Thái, tước Trạch Dương bá ở Cẩm Y vệ Phục Ba ty". Vệ Kim Ngô ở Kinh đô năm 1542 có ty Thần Tý và ty Chiêu Dũng (Văn bia thời Mạc, 343, 67); còn vệ Chiêu Vũ có ty Hà Thanh, từng gắn với lực sĩ Nguyễn ích Diệu, thợ khắc tài hoa đã san khắc khá nhiều bia thời Mạc (Văn bia thời Mạc, 235, 248, 194, 300). Người đứng đầu mỗi ty này là một viên Chỉ huy sứ và hai viên giúp việc là Chỉ huy đồng tri và Chỉ huy thiêm sự.

Đối với các Đô ty, một trong ba cơ quan hành chính của chính quyền địa phương, lo về quân sự, mỗi Đô ty có một số vệ, như Đô ty Tuyên Quang năm 1537 có ba vệ là Tuyên Quang, Định Tây và Thanh Tây (Văn bia thời Mạc, 53). Về nguyên tắc, mỗi Đô ty có một viên chỉ huy trưởng là Đô chỉ huy sứ và hai viên giúp việc là Đô chỉ huy đồng tri và Đô chỉ huy thiêm sự, tương tự các vệ ở Kinh đô. Đối với một số ty thuộc các đạo ít dân cư, thì những người chỉ huy quân sự ở đây được gọi là Tổng binh sứ, Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự, tương tự chức quan võ của các xứ dưới thời Lê (Lê Kim Ngân, 93). Chẳng hạn Nguyễn Văn Trạch chức Tổng binh thiêm sự đạo Ninh Sóc (Văn bia thời Mạc, 340). Trái lại đối với một số vùng chiến lược trọng yếu thì lại đặt các trấn như trấn Cao Bằng thuộc đạo Ninh Sóc thời Mạc, ở đó cũng có các viên Tổng binh sứ, Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự, như Phạm Văn Tuấn, năm 1579, chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Tổng binh đồng tri trấn Cao Bằng, thuộc Đô tổng binh sứ ty đạo Ninh Sóc (Văn bia thời Mạc, 194). Dưới các vệ là các sở mà ở đó có các chức Khống lãnh, Võ úy và Phó Võ úy.

Về mặt hành chính, các vệ cấm thành và các đô ty được tổ chức như vậy dưới sự quản lí của bộ Binh trong Lục bộ. Nhưng khi có chiến tranh, thì quân đội được tập hợp và tổ chức thành các đạo quân dưới sự chỉ huy của các Tả hữu Đô đốc ở Ngũ phủ, như đã trình bày ở trên. Năm 1592, trong một trận quyết chiến với nhà Lê, "Mạc Mậu Hợp đã đốc thúc điều động binh mã trong bốn trấn, bốn vệ và ngũ phủ, cộng hơn mười vạn quân" (Thông sử, 293). Thất bại ở trận này đã kéo theo sự tan rã hoàn toàn lực lượng quân sự của nhà Mạc, cũng như sự suy sụp của vương triều này.

2. Các đơn vị hành chính dưới "đạo".

Chính quyền nhà Minh, nhất là trong triều đại Chu Nguyên Chương (1368 - 1399) là một chính quyền Trung ương tập quyền khá hoàn chỉnh, với bộ máy hành chính chặt chẽ gồm ba cấp: đạo thừa tuyên (sau chuyển thành "tỉnh") - phủ - châu hoặc huyện. Cấu trúc này ảnh hưởng đến Việt Nam thời Lê sơ và được duy trì ở thời Mạc. Tuy nhiên ở Việt Nam thời Lê Mạc, hệ thống hành chính lại gồm bốn cấp là đạo - phủ - huyện hoặc châu và xã.

Phủ là một đơn vị hành chính được sử dụng rộng rãi từ thời Đường, do châu chuyển đổi thành như châu Thành Ung thành phủ Kinh Triệu, châu Lạc thành phủ Hoài Nam. Đến thời Tống thì phủ hoàn toàn là đơn vị hành chính trên đơn vị hành chính châu, thậm chí ở một số nơi phủ trở thành đơn vị hành chính đứng đầu tương đương lộ, hoặc tuyên phủ ty. Dưới thời Minh, phủ là đơn vị hành chính trung gian giữa cấp hành chính cao nhất (Thừa tuyên sứ ty) và huyện, đơn vị hành chính cơ sở (Jean de Miribel, 123). Biến đổi của đơn vị hành chính "phủ" ở Trung Quốc cũng nhận thấy tương tự ở Việt Nam. Thời Lí, một số châu được đổi thành phủ, như châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức. Thời Trần, tên gọi phủ được dùng chỉ đơn vị hành chính cao nhất ở một số địa phương, như phủ Thanh Hoa do Thái sư Trần Thủ Độ cai quản, phủ Thiên Trường do Thái bảo Vương Nhữ Chi đảm nhận (Toàn thư, T.2, 192). Cho đến hết giai đoạn nhà Trần (cuối thế kỉ XIV), tên gọi phủ có lúc chỉ đơn vị hành chính lớn nhất ở địa phương, có khi là đơn vị hành chính thứ hai quản châu, huyện. Từ năm thứ 5 niên hiệu Quang Thuận (1466) đời vua Lê Thánh Tông, tên gọi phủ hoàn toàn dùng cho đơn vị hành chính thứ hai. Thời Mạc, phủ là đơn vị hành chính sau đạo, cai quản các huyện, châu mà văn bia ghi lại khá cụ thể, như "Thanh Hoa đạo Thiệu Thiên phủ Đông Sơn huyện, An Hoạch xã", hoặc "Sơn Tây đạo Tam Đới phủ Bạch Hạc huyện"... (Văn bia thời Mạc, 190, 331).

Phủ có vị trưởng quan là Tri phủ và vị phó quan là Đồng tri phủ. Chẳng hạn Đỗ Bá Chiêu chức Tri phủ phủ Yên Bình đạo Tuyên Quang năm 1537, Mạc Hoàng Trung, Tri phủ phủ Lâm Thao (đạo Sơn Tây) năm 1572 (Văn bia thời Mạc, 53, 159). Thông thường mỗi đạo bao gồm vài phủ trở lên, duy có đạo Tuyên Quang gồm một phủ Yên Bình. Phủ này quản lí tất cả các châu, huyện trong địa hạt đạo Tuyên Quang. Ngoài chức năng hành chính, phủ có chức năng nổi bật là chăm lo việc giáo dục, thi cử trong phủ mà chức quan đảm nhận việc này là Huấn đạo, cùng việc khuyến nông, hộ đê với các viên quan là Khuyến nông sứ và Hộ đê sứ. Phủ thực sự là đơn vị hành chính trung gian giúp đạo quản lí các châu, huyện.

Huyện là một đơn vị hành chính quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam trong lịch sử và cho đến tận ngày nay. ở Trung Quốc, về cơ bản, huyện là đơn vị hành chính cơ sở (Michel Cartier, Une réforme locale en Chine, 35), trong khi đó ở Việt Nam, từ cuối thế kỉ XIV trở đi, huyện quản lí các xã, đơn vị hành chính cơ sở. Dưới thời Mạc, viên trưởng quan của huyện là Tri huyện, cùng viên phó quan là Huyện thừa. Khá nhiều văn bia ghi lại được các chức quan này, chẳng hạn Vũ Giới là Tri huyện huyện Phúc Yên năm 1537, Trịnh Hướng chức Tri huyện huyện Thanh Oai năm 1573, Khổng Tuấn, Huyện thừa huyện Tây Lan năm 1557 (Văn bia thời Mạc, 53, 162). Khổng Tuấn được phong hàm Cẩn sự tá lang, tương đương văn quan hàng thất phẩm. Ngoài ra còn có người giúp việc, với chức danh là Đề lại. Như chức năng của đạo, huyện quản lí các việc chính sự, quân sự và kiện tụng, trong đó chịu trách nhiệm và có quyền lực đặc biệt quan trọng trong việc quản lí đất đai, thuế khóa, nhân đinh.

Châu là đơn vị hành chính xuất hiện khá sớm ở Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng trước giai đoạn nhà Minh và nhà Lê, thì châu là đơn vị hành chính khá lớn: châu quản huyện. Ví dụ thời thuộc Đường, nước ta được chia làm 12 châu cai quản 50 huyện, như châu Phong có 5 huyện, châu Diễn có 7 huyện (Lịch triều hiến chương loại chí, T.1, tr.32). Sau đó ở Trung Quốc, châu tồn tại dưới hai dạng: một là châu trực lệ lớn hơn huyện và châu tương đương huyện. Còn ở Việt Nam thì châu có một dạng duy nhất, tương đương huyện, nhưng sử dụng ở vùng núi, như một số châu ở đạo Tuyên Quang, Ninh Sóc ở phía Bắc và Nghệ An ở phía Nam. Nhiệm vụ của châu cũng tương tự nhiệm vụ của huyện như vừa nêu trên. Vị trưởng quan ở châu gọi là Tri châu, cùng vị phó quan là Đồng tri châu như văn bia chùa Hương Nham đã ghi lại được vị Tri châu châu Đại Man năm 1537 là Nguyễn Công Quyết và vị Đồng tri châu châu Thu Vật thuộc đạo Tuyên Quang, cùng năm đó là Bùi Bá Thông (Văn bia thời Mạc, 53).

Đơn vị hành chính cấp cơ sở ở Việt Nam là xã. Xã thường gắn liền với làng và tên gọi "làng xã" trở nên rất quen thuộc. Nguồn tư liệu thư tịch cho biết tên gọi chức quan "đại tư xã" (quan từ ngũ phẩm trở lên) và "tiểu tư xã" (quan từ lục phẩm trở xuống) xuất hiện vào năm 1242 dưới triều vua Trần Thái Tông (1225 - 1258). Nhưng đến cuối thời Trần vào năm 1397 đời Trần Thuận Tông (1388 - 1398), chức Xã quan bị bãi bỏ. Đến năm 1466, dưới đời vua Lê Thánh Tông, chức quan này được quy định cụ thể hơn : "đặt Xã quan, xã lớn 3 người, xã vừa 2 người, xã nhỏ 1 người, và đổi Xã quan làm Xã trưởng" (Lịch triều hiến chương loại chí, T.1, tr.479).

Nhìn chung, như thời Lê, mỗi xã ở thời Mạc có một viên đứng đầu dưới tên gọi là Xã trưởng. Bên cạnh đó, còn có tên gọi là Xã chính hay Xã quan. Tên gọi Xã quan và Xã trưởng đồng thời xuất hiện trên văn bia chùa Bảo Phúc dựng năm 1572, cùng liên quan đến nhân vật Bùi Gia Mô ở xã Tây Tựu huyện Đan Phượng (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội). Trong phần lạc khoản bài văn bia, Bùi Gia Mô là người viết chữ được ghi rõ chức quan là Xã quan; còn trong phần kê họ tên các vị xã thôn trưởng trong xã, cũng có Bùi Gia Mô (Văn bia thời Mạc, 154). Có nghĩa là Xã trưởng là chức trưởng quan ở xã, còn Xã quan là tên gọi chung cho những vị chức tước của xã, trong đó có cả Xã trưởng. Vị Xã trưởng đảm nhận chung mọi việc trong xã, còn Xã sử và Xã tư (sau này đổi thành Trương tuần) là người giúp việc, nhất là việc thuế khóa và tuần tra, an ninh. Vị Xã trưởng luôn được coi là người mẫu mực của xã "tiêu biểu cho phong hóa, phải nên khuyên dân làm điều thiện, xa điều ác", như điều luật thời Lê Mạc quy định (Hồng Đức thiện chính, 53). Thực tế họ đều là người làm công đức, người làm việc thiện như đã được ghi lại trong văn bia.

Ngoài các đơn vị hành chính vừa nêu trên, còn có "tổng", đơn vị hành chính trung gian giữa huyện và xã sử dụng phổ biến ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XVII đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cũng đã xuất hiện ở thời Mạc. Trong văn bia Mạc, chúng ta khôi phục được 12 tổng của huyện Tân Minh phủ Nam Sách. Sự xuất hiện đơn vị hành chính tổng này là sản phẩm của công việc quản lí nông thôn Việt Nam và là nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cộng đồng ngày một mở rộng cùng với sự phát triển ngày càng cao của làng xã. Cũng vào thế kỉ XVI ở vùng núi phía Bắc, xuất hiện đơn vị "đô", tương đương với đơn vị hành chính "tổng" vùng đồng bằng.

Tóm lại, chính quyền địa phương nhà Mạc có thể khái quát trong mô hình sau:

Sơ đồ hành chính này định hình từ thời Lê sơ, được duy trì dưới thời Mạc và trở nên phổ biến ở thời Lê Trung hưng thế kỉ XVII, XVIII.

Tuy có đôi chỗ khác biệt với thời Lê, song tổ chức chính quyền thời Mạc về cơ bản là duy trì bộ máy chính quyền từng được cải cách hoàn thiện vào năm 1471 dưới đời vua Lê Thánh Tông. Bộ máy chính quyền này được ảnh hưởng trực tiếp từ bộ máy chính quyền nhà Minh, nhưng không phải là toàn bộ mà chỉ sử dụng những yếu tố đã ổn định. Chẳng hạn, ở thời Minh đã xuất hiện nội các và đơn vị hành chính tỉnh, nhưng cả hai chưa hề xuất hiện ở thời Lê - Mạc. Thêm nữa, nhà Mạc duy trì bộ máy hành chính thời Lê, song lại khôi phục một số quy chế có tính truyền thống từ thời Trần như vua nhường ngôi cho con trưởng để làm Thái Thượng hoàng và tuy không dùng Tể tướng, nhưng lại lập Phụ chính để giúp vua điều hành chính sự, nhất là đối với những vị vua còn trẻ.

TÀI LIỆU DẪN

1. Annan tushuo (An Nam đồ thuyết) do Zheng Ruozeng (Trịnh Nhược Tăng) biên soạn vào thời Minh, Tứ khố toàn thư, chương 69, năm 1932, tr.473-548.

2. Cartier, Michel, Une réforme locale en Chine au XVIe siècle Hai Rui a chun'an 1558-1562, Paris, La Haye, Mouton & Co, 1973.

3. Đại Việt sử kí toàn thư do Phạm Công Trứ, Lê Hi biên soạn (Bản dịch) Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1968, 4 tập.

4. Đại Việt thông sử (Thông sử), do Lê Quý Đôn biên soạn năm 1774 (Bản dịch của Lê Mạnh Nghinh), Sài Gòn, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1973.

5. Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Mạc, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1996.

6. Huang Bandai (Hoàng Bản Đái), Lidai zhiguan biao, Shanghai, Zhonghua shuju, 1965.

7. Hồng Đức thiện chính (Bản chữ Hán, A.330) do Nguyễn Sĩ Giác dịch, Sài Gòn, Nam Hà ấn quán, 1959.

8. Lê Kim Ngân, Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tông: 1460-1497, Sài Gòn, Bộ Quốc gia Giáo dục 1963.

9. Lịch triều hiến chương loại chí, do Phan Huy Chú biên soạn (Bản dịch), Viện Sử học, KHXH., Hà Nội, 1992, 4 tập.

10. Mingdai difang guanli ji wenguan zhidu 明 代 地 方 官 吏 及 文 官 制 度 (dịch từ bản tiếng Pháp: L'administration provinciale et les fonctionnaires civils au temps des Ming 1368-1644 của Jean de Miribel, France), 陜 西 人 民 出 版 社, 1994.

11. Quan chế khảo 官 制 考 (Bản dịch từ Sử học bị khảo VHv.1850 của Đặng Xuân Bảng), Tư liệu Viện Sử học, 1986.

TB

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỆP LỤC TỔNG TỰ”,
MỘT BÀI TỔNG LUẬN LỊCH SỬ ĐÁNG CHÚ Ý CỦA QUỐC SỬ QUÁN THỜI TÂY SƠN

HOÀNG VĂN LÂU

Trong các bài tổng luận lịch sử Việt Nam, Đại Việt sử ký tiệp lục Tổng tự (xin gọi tắt là Tổng tự) có nhiều nét thực đáng chú ý:

Trước hết, đây là bài Tổng luận được viết bằng hai thứ văn tự: Chữ Hán và chữ Nôm. Phần chữ Hán là "nguyên văn"; phần chữ Nôm là "dịch chú" của tác giả, đúng như câu "dịch chú Quốc âm để tiện xem chung" đã ghi ở cuối bài Tổng tự.

Còn nếu xét về lập trường phê phán của Tổng tự, thì có thể nói, từ sau khi chúa Trịnh bị tiêu diệt, chưa có một bài tổng luận nào lại dành cho nhà chúa những lời ca ngợi nhiệt tình như thế.

Cũng là tác phẩm được khắc in (mộc bản), nhưng khác với Thông khảo tổng luận của Lê Tung và Việt sử tổng luận của Viện Tập hiền triều Nguyễn đều ghi rõ tác giả, niên đại biên soạn..., Tổng tự không có một thông tin nào về tác giả và niên đại tác phẩm... Những điều "đặc biệt" này đã lôi cuốn chúng tôi tìm hiểu lai lịch văn bản và nội dung của Tổng tự.

*
**

Triều đại Tây Sơn xuất hiện ngắn ngủi trong lịch sử, nhưng Quốc sử quán của họ do nhà trí thức lớn Bắc Hà Ngô Thì Nhậm làm Tổng tài đã kịp thời tổ chức in được bộ thông sử Đại Việt sử ký tiền biên (xin gọi tắt là Tiền biên) và bài tổng luận lịch sử Đại Việt sử ký tiệp lục Tổng tự. Bộ Tiền biên đã được giới nghiên cứu biết đến từ lâu và đã được công bố bằng bản dịch và chú giải. Riêng bài Tổng tự thì đây là lần đầu được chúng tôi phát hiện và giám định.

Đây là một tập sách mỏng, gồm 32 tờ, mỗi tờ in chữ 2 mặt, riêng tờ 32 in một mặt, tất cả gồm 63 trang. Sách đã mất tờ bìa. Tất cả những thông tin về tác giả, năm soạn, năm khắc in, nơi khắc in... đều không còn. Mỗi mặt tờ giấy đều có khung viền; chiều dài 22cm, chiều rộng 13cm. Mỗi khung chia hai phần, phần trên 2,5cm, phần dưới 19,5cm. Chữ khắc nằm trong phần khung phía dưới chia thành 10 cột. Phần nguyên văn bằng chữ Hán, khổ chữ to. Phần chú giải bằng chữ Nôm, khổ chữ nhỏ, viết thành hai hàng dưới câu, chữ cần chú giải. Toàn sách in trên giấy dó, để lâu có chỗ đã mủn, nhưng nhìn chung nét chữ còn rất rõ. Chỉ thiếu mất hai mặt (2 trang) là mặt 18b và 28b. Hai mặt thiếu này đã được bổ sung bằng chữ chép tay, có lẽ làm lúc bồi vá.

Tên tác phẩm tổng luận lịch sử này được chúng tôi lấy từ 8 chữ khắc hơi to hơn chữ chính văn ở ngay cột thứ nhất ở tờ 1a (chữ khắc đọc từ trên xuống dưới, từ phải sang trái): Đại Việt sử ký tiệp lục Tổng tự.

Xét về độ dài lịch sử, Tổng tự bắt đầu "từ khi nước Xích Quỷ dựng nên, họ Hồng Bàng mở vận...", kết thúc ở chỗ chấm dứt 15 đời vua Lê Trung hưng, từ Trang Tông đến Hiển Tông, gồm 254 năm. Đồng thời cũng là chấm dứt 8 đời họ Nguyễn gồm 175 năm, từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần và 12 đời chúa Trịnh gồm 243 năm, từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Bồng. Từ đó có thể suy ra: Tổng tự được soạn thảo sau khi cục diện Trịnh Nguyễn phân tranh chấm dứt.

Xét về lập trường tư tưởng, Tổng tự tỏ ra tôn trọng sự thực lịch sử: Thừa nhận cục diện cát cứ: "Họ Vũ nối giữ đất Tuyên Quang, họ Nguyễn cát cứ vùng Thuận Quảng, chúa Trịnh phò giúp nhà vua đóng ở Trung Đô...". Nhưng Tổng tự đánh giá các chúa Trịnh rất cao: "Chúa Trịnh phò giúp nhà vua, đóng ở Trung Đô, được hơn 10 đời, nắm giữ binh quyền mà biết tôn danh sợ nghĩa, phận vua tôi trên dưới sáng như mặt trời, mặt trăng không hề thay đổi...". Những dòng đánh giá này chắc chắn không thể phát biểu công khai (in mộc bản) vào thời Nguyễn (sau năm 1802). Hơn nữa khi viết về các chúa Nguyễn, Tổng tự đều dùng tên húy và thuỵ hiệu cũ, không dùng tên hiệu sau này do vua Gia Long truy tặng. Chứng tỏ, Tổng tự được soạn thảo trong khoảng thời gian từ 1786 đến 1802, tức là thời kỳ nhà Tây Sơn nắm giữ vận nước.

Xét về lãnh thổ đất nước mà Tổng tự xác lập: "Giáp Ba Thục, gần Lưỡng Quảng, liền biển lớn, tới Ô Lý, từ đông sang tây dài hơn vạn dặm". Ô Lý là tên hai châu của nước Chiêm Thành xưa, thời Trần (1306) đổi gọi Châu Ô là Thuận Châu, Châu Lý là Hóa Châu, nay là phần đất phía Nam tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên. Như thế, vùng lãnh thổ mà Tổng tự xác lập là vùng cai trị của vua Quang Trung và Quang Toản, từ Thừa Thiên -Huế ra đến Bắc, và Tổng tự cũng ra đời trong phạm vi địa lý ấy.

Về bối cảnh của Tổng tự, thì câu kết có nhiều thông tin đáng chú ý. "Nay cung kính chép phụ vào cuối bộ quốc sử, dịch chú Quốc âm để tiện xem chung." Câu này cho thấy: 1. Tổng tự được soạn thảo xong vào dịp một bộ quốc sử đã hoàn thành. 2. Tác giả của Tổng tự được phép của vua mới "chép phụ" Tổng tự vào cuối bộ quốc sử, vì dưới chế độ phong kiến, chỉ có vua mới có quyền ra lệnh biên soạn Quốc sử. Như vậy, Tổng tự phê phán, đánh giá lịch sử dựa vào bộ Quốc sử. Lập trường, tư tưởng của Tổng tự đại diện cho lập trường tư tưởng của một triều đại, chứ không phải của một cá nhân nào đó có thiện cảm với các chúa Trịnh.

Có thể xác định được bộ Quốc sử mà Tổng tự đề cập đến không ? Tên của bài Tổng tự là: Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự, có nghĩa là: Ghi nhanh Tổng luận về bộ Đại Việt sử ký. Quốc sử quán thời Tây Sơn có tổ chức biên soạn Quốc sử. Năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) hoàn thành khắc in bộ Đại Việt sử ký tiền biên (Tiền biên). Bộ sử này gồm 17 quyển, trong đó có 7 quyển đầu là Ngoại kỷ, 10 quyển sau là Bản kỷ. Toàn sách ghi chép các sự kiện lịch sử từ họ Hồng Bàng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) đến năm Đinh Mùi nội thuộc nhà Minh (1427) gồm 4354 năm. Theo dịch giả của sách Tiền biên thì ở biểu đồ phần đầu sách, sau phần nội thuộc Minh còn có Lê kỷ tục biên, nhưng trong Tiền biên không thấy chép. Có thể suy đoán: Bộ Đại Việt sử ký thời Tây Sơn có hai phần Tiền biên Tục biên. Phần Tiền biên đã khắc in, có tên là Đại Việt sử ký tiền biên, phần Tục biên (có thể có tên là Đại Việt sử ký tục biên) chưa thấy khắc in. Tổng tự dựa theo bộ Đại Việt sử ký này để tiến hành bình luận, phê phán. Một bằng chứng cho nhận định trên là: Trong Tổng luận của Lê Tung, khi đánh giá Trưng Vương có viết: "Trưng Vương... tụ họp người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận, huyện hưởng ứng, cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt...". Nhưng ở trong Tổng tự lại viết: "Người con gái đất Phong Châu, vì phục thù mà khởi binh, 56 thành ngoài Ngũ Lĩnh đều hưởng ứng, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu...". Con số 56 thành là kết quả khảo chứng của sử thần Ngô Thì Sĩ (chép trong Tiền biên ). Sau khi xác định số thành mà Trưng Vương thu phục được là 56, Ngô Thì Sĩ bàn tiếp: "Sử cũ theo sai lầm của sử nhà Hán chép là 65 thành, cho nên cải chính lại". Sử cũ ở đây là bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Trong Toàn thư cả ở Tổng luận lẫn phần Ngoại kỷ đều chép là 65 thành. Nhưng có điều dễ thấy là Tổng tự không hoàn toàn dựa vào Tiền biên. Như mục Kinh Dương Vương, có câu: ''Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình sinh ra Lạc Long Quân". Sau câu đó có chú: "Sử cũ chép: Năm Nhâm Tuất thứ nhất, Kinh Dương Vương đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, nay bỏ đi". Tiền biên đã bỏ quốc hiệu Xích Quỷ, nhưng Tổng tự lại thừa nhận: "Từ khi nước Xích Quỷ dựng nên, họ Hồng Bàng mở vận...". Lại như: Nhà Triệu, do Triệu Đà sáng lập, Tiền biên không công nhận là triều đại của Đại Việt, mà chép là Kỷ Ngoại thuộc Triệu, nhưng Tổng tự lại nhiệt thành ca ngợi: "Triệu Vũ Đế thừa cơ mở vận, trí tuệ đủ dựng nghiệp vương; chống Bắc giữ Nam, tài năng dẹp được loạn lạc. Mở lãnh thổ hơn một vạn dặm, khống chế Đông Mân và Tây Âu, chuyên chế một phương, ở ngôi 71 năm, ngồi xe Hoàng ốc, tự làm Hoàng đế nước mình. Từ Ngũ Lĩnh trở về Nam đều theo về sai khiến, chẳng phải là anh hùng vĩ đại đó sao?..."

Vấn đề quốc hiệu Xích Quỷ và triều đại họ Triệu quả thực không đơn giản. Với uy vọng của nhiều thế hệ sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy, những khẳng định của họ về nước Xích Quỷ, về triều đại nhà Triệu trong Toàn thư không dễ bị phủ nhận. Sau Tiền biên gần 1 thế kỷ, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục) cũng không công nhận nhà Triệu là triều đại chính thống, nhưng Việt sử tổng luận dựa trên Cương mục vẫn thừa nhận và đánh giá cao Triệu Đà: "Triệu Vũ đế chiếm giữ vùng Lĩnh Biểu, ngồi xe Hoàng ốc, phất cờ Tả đạo, tự mình làm đế một phương. Xem những lời đối đáp với sứ Hán Lục Giả của ngài có thể nói là có tài lược của bậc anh hùng, có thể sánh ngang về tài đức với Hán Văn Đế. Lại biết sợ mệnh trời, tôn trọng nước lớn, nên Nam Bắc chấm dứt chiến tranh, nhân dân được yên nghỉ. Quy mô dựng nước so với những anh hùng quật khởi một thời là có khác! ". Xem thế, Tổng tự của Quốc sử quán triều Tây Sơn khẳng định họ Triệu cũng là điều có thể lý giải.

Khác với Tổng luận của Lê Tung, phần mở đầu của Tổng tự không thuyết minh về đạo cương thường của trời đất, về nguyên lý tu, tề, trị, bình của đế vương, mà chỉ dùng 64 chữ khẳng định cương giới đất nước, và thế bình đẳng "hai vua phương Nam, phương Bắc đều xưng Hoàng đế...". Phần kết luận, Tổng tự nêu bài học tổng quát: "Minh đức thì thịnh trị và dài lâu, không minh đức thì rối loạn và ngắn ngủi", nếu so với nội dung phê phán và bình luận lịch sử phong phú hấp dẫn ở phần trên thì có vẻ hụt hẫng. Phải chăng đó là dự báo về một kết cục đáng buồn đang đến từng ngày từng tháng của một triều đại từng một thời đầy chiến công hào hùng.

Nội dung bình luận, phê phán lịch sử ở Tổng tự không dàn trải như ở Tổng luận. Tuy Tổng tự cũng phân tích toàn diện tiến trình lịch sử của dân tộc, nhưng mức độ đậm nhạt không giống nhau. Các triều đại độc lập, tự chủ Đinh, Lê, Lý, Trần được nhận định, đánh giá sâu sắc hơn, chi tiết hơn. Phần từ họ Hồng Bàng đến Mười hai sứ quân thì bình luận ngắn gọn. Tuy vậy, có nhiều đoạn viết rất súc tích, cảm động. Như đoạn bình luận sau khi họ Triệu bị diệt: "Than ôi, máy nỏ bị phá ngầm, đã lừa được nàng Mị Châu của Âu Lạc; Ngôi báu bị dời chuyển, là bởi con nghiệt phụ Hàm Đan. Luật tuần hoàn chẳng đổi, những kẻ quỷ quyệt nào có được gì? Từ đó, thế hiểm của Ngũ Lĩnh và đất đai của 9 quận đều thuộc cả về Trung triều! ".

Hay đoạn cảm thán về tình cảnh bị nô lệ: "Than ôi, lãnh thổ hơn vạn dặm, nhân dân sinh tụ hàng nghìn năm, đất không phải không rộng, người không phải không đông, mà bị người ta tàn ngược như thế, sao sánh với kẻ sĩ lập công danh, hăng hái cưỡi cơn gió lớn, vượt muôn dặm sóng to?".

Đặc biệt, đời Hậu Lê, từ Lê Lợi đến Cung Hoàng; đời Mạc; đời Lê Trung hưng từ Trang Tông đến Hiển Tông; chúa Trịnh cùng các thế lực cát cứ họ Vũ ở Tuyên Quang, họ Nguyễn ở Thuận Quảng đều lướt qua mà hầu như không có đánh giá, phê phán riêng. Như từ Lê Lợi đến Cung Hoàng chỉ có mấy dòng rất vắn tắt: "Thái Tổ dùng võ công khai sáng cơ nghiệp, Thái Tông lấy văn đức giữ vững cơ đồ, Nhân Tông tuổi nhỏ lên ngôi chẳng may trong nhà có họa, Thánh Tông dẹp loạn khôi phục, vận nước lại được hanh thông, Hiến Tông thiên tư anh duệ, khơi lại văn minh...". những dòng đánh giá trên đây còn sơ lược hơn mấy câu mở đầu của mỗi triều vua chép trong Toàn thư.

Ngược lại, đối với các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, thì lời bình rất hào hứng, độ khái quát rất cao. Như khi đánh giá Đinh Tiên Hoàng thì nhấn mạnh công lao dẹp yên 12 sứ quân, thống nhất đất nước, đặt quan chế, xây dựng quân đội quy mô khá đầy đủ... và nhấn mạnh: "Sau cuộc phân tranh, có được võ công lớn như vậy, dẫu có tiến cống nhà Tống nhiều tê giác, ngà voi; có lạm đặt hình phạt vạc dầu, hổ dữ cũng không che lấp được điều tốt đẹp tài giỏi của ngài...". Hay khi đánh giá Lý Thái Tổ thì nhấn mạnh việc đóng Kinh đô nơi thắng địa, lấy 6 điều tự trách mình. Bắt sống Vị Long Châu, đánh bại Chiêm Thành, hàng phục Chân Lạp... Đặt ra phú dịch, qui định quân chế, ban giảm ruộng tô, qui mô xa rộng... Đánh giá Lý Nhân Tông thì nêu công "Mở khoa thi Tiến sĩ, đặt các quan kinh diên, mở rộng chính sự mới... Đánh lui giặc trên trận tuyến Như Nguyệt; Hội kiến sứ Bắc bàn việc biên cương, thu lại đất Quảng Nguyên, Kim Động..." Cũng thẳng thắn phê phán những sai lầm khiếm khuyết của các vị Hoàng đế, như phê phán Lý Thái Tổ: "Xây dựng 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, độ cho trăm người làm tăng ni, chép Tam Tạng kinh chứa ở kho Đại Hưng, đúc chuông lớn ở chùa Đại Giáo, Chính học chưa lên, dị đoan đã nổi..." Phê phán Nhân Tông ưa thích điềm lành không nhàm, hết lòng thờ Phật không nản... Hay phê phán Lý Cao Tông "giữ đức không bền, hoang dâm vô độ" để đến nỗi "lòng người rối loạn, thế nước nguy nan"... Đọc đoạn ca ngợi vua Trần Nhân Tông của Tổng tự, thực hào hùng sảng khoái:

"Kiếm báu tỏ điềm lành, Kim tiên tụ khí tốt. Nhân tông nối nghiệp lớn của Thánh Tông, vì nhà Trần gánh vác việc lớn. Bấy giờ: Người Nguyên cậy oai phong tiêu diệt bốn mươi nước, lang sói tham tàn; Toa Đô đem đội quân ngoài biên trăm vạn, gầm gào đánh tới. Vua bèn cùng Thượng hoàng bàn mưu, lệnh các châu trưng phát binh lương. Họp quân mạnh ở Bàng Hà, Ba Điểm, tất cả do Hưng Đạo chỉ huy; Qua đánh lớn nơi Hàm Tử, Bạch Đằng, làm nhụt mũi tiên phong của giặc. Sở dĩ giữ vững non sông muôn thuở, dựng nên sự nghiệp trùng hưng, đâu chỉ do ý trời khiến thế. ắt hẳn phải có lòng muôn người hưởng ứng, sức quần chúng phù trì rồi sau mới đạt được thành quả lớn lao ấy. Hãy xem: Sáu chữ đề lên lá cờ, chí diệt giặc sao mà sâu sắc thế; Hai chữ thích lên cánh tay, lòng giết thù sao mà bền vậy. Bảo đảm tất thắng ở lần thứ hai, kế dự liệu sao thần tình vậy; hẹn thắng lợi trong vòng 3 ngày, mưu diệt địch sao quyết đoán vậy... Từ khi có kế hay chắc thắng, vua mới hội họp vương hầu ở Bình Than, đãi yến phụ lão ở Diên hồng, nhưng chăm chắm vào cơ nghi đánh giữ, vào phương lược hơn thua. Dẫu phải ăn bát cơm hẩm của người lính Trần Lai, đi chiếc thuyền côi trên bến sông Thủy Chú, chịu đựng đủ gian nan nguy hiểm mà không nhụt chí, buông lơi, cho nên đã tiễu trừ giặc mạnh, thu phục Kinh đô, thực là vị vua anh hùng của nước Việt ta! ".

Tổng tự không chỉ đánh giá các vị vua của từng triều đại, mà còn ca ngợi và phê phán các bà hoàng phi, các vị vương công, các văn thần võ tướng, các bậc chí sĩ, trượng phu. Như: "Giúp nền nội trị, hòa hợp lòng người thì bà phi của Lý Thánh Tông có danh hiệu là bà Quan Âm; cư xử với con đích con thứ ân nghĩa như nhau thì hoàng hậu vua Trần Minh Tông nổi tiếng là bậc nữ Nghiêu Thuấn..."hoặc: "Phiên vương tới đất phong, như Ngự Man vương ở Phong Châu, Ngự Bắc vương ở Phù Lan... nơi nào cũng tụ quân, lập đảng thì anh em họ Lê không bằng họ Trần; Tông thất ở quê mình như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương... người người đều giữ nước, cần vương thì ấp thang mộc nhà Trần lại hơn nhà Lý...".

"Nhận di chiếu Phụ chính, như hai ông Tô Hiến Thành, Lý Đạo Thành phảng phất như Y Doãn, Chu Công; Dựng sự nghiệp công lao như hai người Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, kiệt hiệt như Quách Tử Nghi, Lý Tĩnh. Dáng điệu đường hoàng, lòng son canh cánh, Trần Bang Cẩn xứng đáng là gốc tùng giữa mùa đông giá; Khí tiết hiên ngang, thể cách nghiêm nghị, Chu Văn Trinh không thẹn là thần tượng của làng nho...".

Khi cần, Tổng tự cũng đưa ra sự so sánh để đánh giá chung: "... Luận về thế nước thì: Quét sạch bọn giặc dữ, nhà Trần mạnh hơn nhà Lý, nhà Đinh; Đánh giỏi, mưu hay, võ công đầu phải nêu Ngô chúa. Kế đó là chiến thắng Hàm Tử, Bạch Đằng hiển hách, muôn thuở huy hoàng; Làm thơ, giữ lễ, văn tự bắt đầu từ Sĩ Vương, rồi sau là thời kỳ Thiệu Phong, Khai Thái, rực rỡ một thời hưng thịnh..."

Một điều rất có ý nghĩa là: Tổng tự có phần dịch chú viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm được sử dụng trong văn kiện hành chính từ cuối thời Lê - Trịnh, như bài biểu của Lê Quý Đôn, Bài Binh dân luận của Ngô Thì Sĩ. Đến triều Tây Sơn, vua Quang Trung viết chiếu cho La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp bằng chữ Nôm. Với việc dùng chữ Nôm để dịch chú Tổng tự, Quốc sử quán triều Tây Sơn có ý thức đưa Quốc sử tới với đông đảo quốc dân. Việc làm này đối với đương thời có một ý nghĩa chính trị, đi đôi với ý nghĩa học thuật. Còn đối với chúng ta ngày nay, Tổng tự, với cả phần nguyên văn chữ Hán và phần dịch chú bằng chữ Nôm lại mang song trùng ý nghĩa. Tổng tự vừa là một tác phẩm sử luận, thể hiện tập trung những quan điểm lịch sử của triều đại đương thời, tiêu biểu cho thành tựu của khoa phê phán, bình luận lịch sử thời ấy, vừa là tác phẩm chữ Nôm có giá trị, phản ánh tình hình sử dụng tiếng Việt trong lĩnh vực học thuật, ở đây là lĩnh vực sử học, là tư liệu quý để nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.

TB

NHO GIÁO TRONG TÂM THỨC VÀ
HÀNH XỬ CỦA ĐẶNG HUY TRỨ

NGUYỄN HỮU TÂM
VŨ DUY MỀN

Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), tự là Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh Trai; pháp danh là Hải Đức; quê ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Sinh thời ông là một nhà Nho - một trí thức yêu nước chân chính. Những việc ông làm - nêu tấm gương “liêm cần” trong chốn quan trường; lo tự cường dân nước đánh đuổi bọn ngoại xâm, khôi phục lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. Ngoài ra, những trước tác thơ văn của ông là những hạt châu ngọc đóng góp vào kho tàng văn học nước nhà.

Trong bài viết này, chúng tôi muốn tìm hiểu Nho giáo đã ảnh hưởng đến tâm thức và hành xử của Đặng Huy Trứ như thế nào, để tạo nên một bản thể - một nhân cách Đặng Huy Trứ hiện hữu.

Thiết nghĩ Đặng Huy Trứ cũng như muôn người đương đại không thể tránh khỏi những ảnh hưởng, chi phối của yếu tố thời thế.

1. Thời thế mà Đặng Huy Trứ sinh trưởng.

Thực tế cho thấy sự xác lập triều Nguyễn là cả một quá trình lịch sử lâu dài, gian khổ từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1612) đến Nguyễn Gia Long. Đất nước được mở rộng, thống nhất, trật tự xã hội được ổn định trở lại. Trên nền tảng của xã hội kinh tế tiểu nông, nhà Nguyễn ra sức củng cố hệ ý thức Nho giáo - vốn xuất xứ từ Trung Hoa.

Tuy nhiên Nho giáo (Tống nho) vào đến Việt Nam đã bị khúc xạ. Vì hoàn cảnh, trong đó gia đình là hạt nhân của xã hội ở Việt Nam khác với đại gia đình theo chế độ tông tộc ở Trung Quốc. Đạo trung - hiếu - tam cương, rường cột của Tống nho là tín điều bất biến, “thiên kinh địa nghĩa” đối với người quân tử - kẻ sĩ Trung Hoa. Vai trò của các đại tộc theo chế độ tông tộc cực kỳ to lớn đối với mỗi thành viên trong gia tộc khi thực thi đạo “hiếu”. Đến thời Minh - Thanh, do tác động của nền kinh tế hàng hóa, đã đặt ra yêu cầu cải biến Tống nho cho phù hợp với thực tế hơn (từ kinh học đổi mới Tống nho). Khảo chứng thực học đời Thanh phát triển hơn hẳn các thời trước. Các nhà Nho học Diêm Nhược Cừ, Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Vũ... khảo chứng tư liệu cổ sử, kinh sách Nho giáo của Chu Hy đã làm, phân biệt thật giả trong kinh sách. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Trần Ngọc Vương, bản chất của thực học là đề cao cái “thực”, phế bỏ cái “hư”. “Thực học đề cao kinh thế trí dụng” thành tư tưởng “kinh tế - chính trị cứu đời”(1). Một số nhà thực học đòi hỏi “công thương giai bản” (công thương đều là gốc) đối lập với tư tưởng Nho giáo truyền thống “trọng nông ức thương”; hoặc nên coi quan hệ vua - tôi, thầy - trò, chồng - vợ như quan hệ bạn bè(2). Tư tưởng thực học có ý nghĩa cách mạng lúc bấy giờ.

Trong khi đó Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX vẫn là Tống nho (Trình - Chu), không có tình trạng “phản truyền thống” như ở Trung Quốc. Nho giáo không còn là thời thịnh, nhưng không phải đã hết tác dụng. Nhà Nguyễn ra sức củng cố hệ tư tưởng Nho giáo bằng nhiều biện pháp: giáo dục, khoa cử; thường xuyên mở các khoa thi chọn Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, Tú tài. Bằng pháp luật thể chế hóa tư tưởng Nho giáo, thông qua các điều luật để duy trì đạo trung hiếu, Nhà nước ấn hành kinh sách Nho giáo làm sách giáo khoa cho hệ thống nhà trường, các sĩ tử chuẩn bị vượt qua các kỳ thi “học quan” (học để làm quan). Minh Mạng (1820 - 1840) cho ban bố rộng rãi Huấn điều gồm 10 mục nằm chấn hưng Nho giáo(3). Tự Đức cũng cho ấn hành rộng rãi Thập điều diễn nghĩa bằng chữ Nôm để “từ hoàng thân cho đến các quan, dân các xã thôn, mỗi người đều một bản” (4), nhằm duy trì, củng cố nho phong. Bằng biểu dương nêu khen những bề tôi tiết nghĩa, những người phụ nữ “tiết hạnh khả phong”; hoặc nhiều làng quê được cấp biển “mỹ tục khả phong”, “thiện tục khả phong”.

Nhìn chung Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX có phần được củng cố hơn thời Hậu Lê - Nho giáo khủng hoảng (phần đông các nhà Nho theo thời, ít người “ngu trung” theo kiểu Lý Trần Quán). Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới từng gia đình, nhiều đời Nho học, và cá thể, nhất là những người học Nho. Vốn sinh ra trong một gia đình nhiều đời Nho học, ngay từ nhỏ Đặng Huy Trứ đã được tiếp thu cả một khối kiến thức của Khổng - Mạnh do gia đình truyền dạy. Từ ông nội Đặng Quang Tuấn (1752 - 1825), thân sinh Đặng Văn Trọng (1799 - 1849) đều qua cửa Khổng sân Trình song không ra làm quan mà ở lại quê nhà Thanh Lương làm thầy dạy trường tư. Ông bác Đặng Huy Trứ là Đặng Văn Hòa (1791- 1865) đậu Cử nhân và ra làm quan trải nhiều chức tới Thượng thư Bộ công kiêm quản Hàn lâm viện, Thượng thư Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Hình kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Ngay từ nhỏ Đặng Huy Trứ đã được cha kèm cặp. Năm 9 tuổi mới thực vào lớp, năm 12 tuổi thì biết cách ngắt câu khi đọc “Ngũ kinh”, “Tả truyện” và “Tam sử”:

“Cha tôi truyền dạy cho ý chính từng chương, lý lẽ từng đoạn rõ ràng như dạy đứa trẻ chưa biết chữ nào. Năm 14 tuổi, tôi mới hơi thông hiểu thể văn Tam trường (Đặng Dịch Trai ngôn hành lục)”(5).

Sau này, khi Đặng Huy Trứ học cao, đi thi Hội trúng cách đỗ Tiến sĩ (nhưng do phạm húy nên bị cách và phạt đánh 100 roi, đi dạy học và làm quan ông vẫn không quên: “Cái học sáu kinh của gia đình truyền cho, chớ coi nhẹ mà vứt bỏ (Tự răn III). Kiến thức Nho học mà Đặng Huy Trứ học được từ gia đình, từ những người thầy như Cử nhân Đỗ Huy Viêm, Phó bảng Lê Thế Quán (Thanh Hóa), Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tạo (Đông Ngạc - Hà Nội), từ kinh sách Khổng - Mạnh, học ở bạn đồng liêu và học ở nhân dân trên hoạn lộ đã tạo nên một Nho sĩ Đặng Huy Trứ với một cách suy nghĩ và hành xử thức thời - khả ái. Trong hoàn cảnh xã hội mà các chuẩn mực Nho giáo không còn là “khuôn vàng thước ngọc” của kẻ sĩ, Đặng Huy Trứ trong tâm thức và xuất xử không cứng nhắc, mà luôn sáng suốt, năng động. Tự thân Đặng Huy Trứ là tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân.

2. Tâm thức và hành xử của Đặng Huy Trứ - về đạo trung - hiếu

Đặng Huy Trứ từng trước tác nhiều: Sách học vấn tân (1850), Vũ kinh trích chú (1854), Từ thụ yếu quy (1867), Đặng Hoàng Trung thi sao (1867), Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (1868). Ngoài những lĩnh vực thuộc chuyên môn học thuật liên quan đến giáo dục, quân sự, kinh tế, văn hóa (thơ - văn), tác giả đề cập tới nhiều vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng Nho giáo. Về tư chất của người làm quan phải “liêm cần”. Trách nhiệm của người làm quan trước vua và dân, lo trước vui sau (lẽ xuất xử). Quan niệm về dân - dân là gốc nước. Việc giữ gìn thanh danh nhà Nho v.v. như vấn đề nêu ra ở trên, trước hết chúng tôi chú trọng tìm hiểu về trung - hiếu theo cách hiểu và hành xử của ông - tức từ cái gốc trọng Nho trong thời đại của ông.

Nho giáo vốn dĩ rất coi trọng đạo trung - hiếu (trung với vua, trung quân ái quốc; hiếu với cha mẹ - tổ tiên); Tam cương (vua - tôi, cha - con, vợ - chồng); Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đạo trung hiếu cương thường được coi là rường cột của xã hội phong kiến Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX và đến lượt Đặng Huy Trứ vận dụng, thực hành đạo trung - hiếu đã chứa đựng tinh thần nhân văn, nhân bản và cả sự sáng tạo.

Trong suốt cả cuộc đời đi học, dạy học và làm quan, Đặng Huy Trứ đều nghĩ đến và giữ gìn nếp nhà thế gia Nho nghiệp. Khi từ biệt vợ, đi sứ sang Trung Quốc năm 1863, ông viết: “Đi xa ngàn dặm, người trời Nam, kẻ đất Bắc nhưng đạo cương thường vẫn là muôn thuở lẽ sống của tôi”(6). Theo đòi nghiệp Nho, Đặng Huy Trứ coi trọng trung hiếu, ông tự thề với mình khi đi sứ Quảng Đông lần đầu năm 1865: “Vượt biển trèo non, dù hiểm nguy cũng phải coi như bằng phẳng. ở đời tấm lòng trung hiếu là có quan hệ đến an nguy của đất nước”(7). Nếu không có bề tôi trung thành, lúc quốc gia hữu sự nhà vua biết trông cậy vào ai. Hoặc trong gia đình cũng vậy, nếu người con bất hiếu thì thật là nhà vô phúc. Trên đường xa nước vùng viễn xứ ông bộc bạch: “Tấm lòng một đời ta là làm tròn trách nhiệm người trung thần và người con hiếu” (Viễn diểu - Nhìn ra xa)(8). Dù làm gì hay ở đâu, Đặng Huy Trứ cũng lo tròn đạo trung hiếu. Trong khi đi sứ lần thứ hai (1867 - 1868), ông tâm sự khi ốm: “Ta há phải là người ham sống sợ chết, trước sau chỉ một lòng lo nước, lo nhà. Cơ hội trăm năm họa hay phúc là ở ngày nay”. “Nhờ chín chữ cù lao của cha mẹ mới có thân này. Làm bầy tôi ra sức vì chữ Trung đã báo đáp được bao nhiêu? Phận làm con theo đuổi chữ Hiếu, cũng chưa vẹn toàn(9)... Trong bài Tự thuật của Tĩnh Trai, tác giả tự thuật về mình: “Năm nay tôi đã bốn mươi tư (1868), từ nay sống một ngày là tu tỉnh một ngày. Đối với lỗi lầm trong dĩ vãng thì cốt sao thắng được, đối với tương lai cốt sao không vấp ngã. Như thế cũng là để đền đáp ơn vua, sớm tối không trễ nải thờ vua để thành người tôi trung. Như thế cũng là để đền đáp cha mẹ, sớm tối luôn nhớ để thành người con hiếu”(10).

Mặc dù Đặng Huy Trứ dốc nhiều tâm sức để thực hành đạo trung hiếu. nhưng rồi chính ông cũng thừa nhận: “Trung và Hiếu, xưa nay khó vẹn cả hai(11) (Họa bài Tâm sự khi ốm của quan Tuần phủ Quảng Đông Tương Hương họ Tưởng).

Qua những trước tác thơ văn dẫn trên và qua việc xuất xử - làm thầy, làm quan của ông sau đây, ta sẽ thấy suy nghĩ cụ thể của Đặng Huy Trứ về đạo trung hiếu: Thông phán ở Ty Bố chính Thanh Hóa (1857); Tri huyện Quảng Xương (1858); Theo Hoàng Kế Viêm đi thử pháo, sau về làm thơ tỏ thái độ quyết chiến với Pháp; Tri phủ Thiên Trường (1861); làm việc ở Nội các (1862); Ngự sử lĩnh chưởng ấn Binh khoa (1863); Bố chánh Quảng Nam (1864); đi Hương Cảng (1865); Bố chánh Nam Định (1867); đi sứ Quảng Châu (1867); mua “Tân thư”, “Binh thư”, máy móc gửi về nước...”; Thương biện tỉnh vụ Hà Nội; Khâm phái thương biện quân vụ Sơn - Hưng - Tuyên; mở hiệu ảnh “Cảm hiếu đường”; mở nhà in “Trí trung đường” (1869); Bang biện quân vụ - Lạng - Bằng -Ninh - Thái; cùng giúp Hoàng Kế Viêm đánh dẹp biên giới (1871), Đặng Huy Trứ tử trận ở Đồn Vàng Chợ Bến ngày 7-8-1874(12). Cuộc đời nhập thế, năng động, sáng tạo của Đặng Huy Trứ tất cả vì lo cho nước, cho dân, không biểu hiện thái độ cố chấp “khắc chu cầu kiếm” như nhiều nhà Nho xưa, mặc dù nhân tình thế thái thời đại của ông không mấy thuận theo. Dân ta còn chìm đắm trong nghèo nàn, lạc hậu. Thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng (1858) và chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, nhà vua Tự Đức không dám tuyên bố kháng Pháp, thật là một bi kịch Tự Đức. Trong khi nhân dân ở nhiều nơi Bắc - Trung - Nam đã tự phát tổ chức chống Pháp, trong những ngày tháng lâm nguy của đất nước, về hình thức Đặng Huy Trứ vẫn giữ lòng trung vào nhà vua, nhưng trên thực tế là trung hiếu chỉ hướng về phía nhân dân. Và ông tin rằng sẽ đến lúc dân ta sẽ xoay trời lại, sẽ giành lại được non sông. Từ suy nghĩ đến hành động, Đặng Huy Trứ rất coi trọng dân: “Dân là gốc của nước” (Văn tế cầu mưa)(13). Dân giàu nước mạnh... “Tuy nhiên thế mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Bồi bổ cái gốc đó mới là thầy thuốc giỏi” (Họa lại bài thơ của Tổng đốc Nghệ An)(14). Những điều tâm niệm, những việc ông làm mong chữa trị “bệnh nghèo đói” do thiên tai lụt lội, hạn hán, bệnh tật, quan lại đục khoét, giặc giã gây ra. Đặng Huy Trứ cảm nhận được đối với muôn dân kiếm được “miếng ăn gian nan”.

Trong tám chính sách thì cái ăn là chính sách hàng đầu: “dân dĩ thực vi thiên” (dân lấy ăn làm trời), cực chẳng đã mới phải bỏ ăn. Cày để ăn không có lúc nào gọi là cuối năm: “Ăn ngọc không được nhàn hạ, ăn thịt phải lo cho ai ?” làm sao khiến cho dân ăn rau có thể không có cái lo về gạo ăn, ăn mà không làm, xưa coi là nhục. Đủ ăn dân mới thư thái. Dân không được ăn, ta ăn làm sao được?(15). Từ đó ông nhắc nhở người làm quan - kẻ quân tử “phụ mẫu chi dân” (cũng là tự nhắc mình trách nhiệm trước nhân dân) cần biết trông nom “con đỏ” siêng cần (giống như bà nhũ mẫu trông nom đứa trẻ lọt lòng trải bao gian khó nhọc nhằn). Trong thơ tự răn mình, Đặng Huy Trứ viết: “Hưởng phúc không khó mà tạo ra phúc mới khó. Phúc không tạo ra thì hưởng sao yên. Một sợi tơ, một hạt gạo đều nhờ phúc ấm của tổ tiên. Gấm vóc cao lương là đầu mối của tai họa. “Muốn cho nhà cửa rạng rỡ, hãy trồng cây đức. Không muốn làm lợi cho dân thì đừng làm quan...”(16).

Trách nhiệm của kẻ sĩ - quan lại thay vua “chăn dân” thực quá rõ ràng. Đặng Huy Trứ cho rằng: “Tạo hóa sinh ra ta không phải để ngồi không, đối với cái lợi, cái hại của dân sớm đã có quan hệ. Văn chương, sớ tấu tầm thường đâu phải là vàng ngọc. Trăm vạn dân đen há là cỏ rác ? Muốn được làm dòng nước nhỏ chảy về biển cả và đâu chịu tay không mà xuống núi cao ? Bổng lộc mình được hưởng là mỡ dầu của dân, nhưng liệu có làm nên được gì ? Ăn không như ta cũng mặt dày!”(17).

Bởi thế, để báo đền ơn dân, ông vừa hành động cứu giúp dân, vừa cho lập kho Nghĩa Thương ở Thanh Hóa (1857), đề nghị xây Nghĩa trang cho dân (1861), giải quyết nạn đói do hạn hán, bão lụt ở Quảng Nam v.v. Ông viết bài này khuyên giải về người quân tử không ăn không (quân tử bất tố xan): “...Ta sinh ra may mắn được làm người. Đã được làm người lại được là nam nhi. Đã được là nam nhi lại được làm quan, từ kẻ áo vải mà nay có cân đai áo mũ. Triều đình có gạo kho để khuyến khích kẻ sĩ, hạt hạt trong kho đều là châu là ngọc, trăm cay ngàn đắng mới có được. Chính mỡ dầu của dân làm cho ta no bụng. Ăn mỡ dầu ấy phải tính sao đây? Chớ để năm tháng trôi đi vô ích...”(18). Người quân tử, kẻ làm quan không ăn không, chớ lười biếng; mà hãy siêng năng với công việc. Để lo tròn bổn phận người làm quan trước dân phải “lo trước vui sau”. Theo Đặng Huy Trứ, tư chất của người làm quan muốn giúp ích cho dân phải gồm đủ “thanh, kiệm, cần”. Để giữ thanh liêm, chính ông trong lúc nghèo túng, gia đình rất cần tiền của để lo thuốc thang cho con, miếng ăn cho gia đình, nhưng ông đã đuổi thẳng cổ kẻ đến nhà riêng”(19).

Khi viết tựa sách Từ thụ yếu quy (Những nguyên tắc chủ yếu của việc không nhận và nhận quà cáp, biếu xén) (1867), Đặng Huy Trứ cũng phải than rằng: “Trong ba chữ răn mình của nhà quan thì chữ thứ nhất là “thanh”, “thanh” là liêm khiết giữ mình, không lấy của ai mảy may. Nhưng người làm quan ngày nay mà hoàn toàn “thanh” thì khó lắm...

Trải hơn 12 năm làm quan (1856 - 1867) với thực tế phong phú những điều mắt thấy tai nghe, Đặng Huy Trứ tổng kết làm hai loại: “Không nhận gồm 104 trường hợp, nhận gồm 5 trường hợp” viết thành sách. Cũng theo Đặng Huy Trứ, thực ra đó là “phương châm làm quan, là qui phạm gia đình, để làm khuôn phép cho bản thân và con cháu đời sau của tôi” (20). Lời sách khiêm nhường mà đầy ý nghĩa giáo huấn sâu xa đối với những bạn đồng liêu đương thời và đối với cả hậu học, hậu thế .

3. Thay lời kết.

Trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, sự ra đời của triều Nguyễn đồng thời với việc tái lập chế độ quân chủ Nho giáo không còn vào lúc thịnh thời, sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp đã sớm phá vỡ sự ổn định xã hội, khiến Nho giáo và việc thực thi tư tưởng Nho giáo không còn đắc dụng. Trước và đặc biệt sau khi mất nước, tư tưởng Nho giáo không còn là chỗ dựa, là cứu cánh để xoay chuyển tình thế, mọi cuộc canh tân đặt ra đều quá muộn. Chính hoàn cảnh đó đã quy định và hạn chế vai trò tích cực của các nhân vật lịch sử đương thời.

Những trình bày ở trên về Nho giáo “trong tâm thức và hành xử” của Đặng Huy Trứ về chữ “trung” chữ “hiếu” (rường cột của tư tưởng Nho giáo) cho thấy trước sau ông vẫn là một nhà Nho, một trí thức nêu tấm gương sáng về lòng yêu nước. Thời thế lúc đó thực hành đạo trung hiếu thật khó vẹn toàn. Theo chúng tôi, khi vua đã xa dân, không đứng về phía nhân dân để chống Pháp, thì Đặng Huy Trứ lại đứng về phía kháng Pháp (chủ chiến), như vậy ông đã đứng về phía nhân dân (trung vua chỉ là hình thức). Những điều ông suy nghĩ , những việc ông làm cốt để giữ chữ “hiếu với dân” (hiếu với bố mẹ, ông bà, tổ tiên, trả ơn báo đáp nhân dân vì “bổng lộc mà mình được hưởng là mỡ dầu của dân”). Có ý kiến cho rằng ông thiên về “nghĩa”(21), luôn luôn lo đền ơn đáp nghĩa nhân dân. Một ông quan mẫu mực của việc thân dân. Đặng Huy Trứ coi trọng dân: “dân vi quý”, suốt đời vì dân, tư tưởng thân dân của ông mang tính nhân văn - nhân bản cao cả, thực không kém các bậc tiền bối trong lịch sử nước nhà. Những đóng góp tích cực của Đặng Huy Trứ trên nhiều lãnh vực: giáo dục, quân sự, kinh tế, đặc biệt là trong thơ văn của ông đã làm phong phú thêm kho tàng văn hóa nước nhà.

Chú thích:

(1), (2) GS. Phan Đại Doãn (chủ biên) - Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam (tái bản). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999, tr.93.

(3) Đại Nam thực lục chính biên (quyển 29, tập 15) Nxb. KHXH, H. 1973, tr.5-16.

(4) Thực lục... Sđd, tập 32, tr.126.

(5) Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm (viết tắt: ĐHT). Nxb. TP Hồ Chí Minh 1990, tr.62.

(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20 Sđd, tr.310, 305, 323, 446, 465, 429, 191, 152, 298, 297, 168, 177... (443-444).

(21). Xem thêm: Một số vấn đề... Nho giáo Việt Nam. Sđd.

Tsubo Yôshiharu: Nho giáo ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam - Văn hóa - Nghệ thuậtt số 2/1999, tr.94 - 96.

TB

VỀ VẤN ĐỀ NGƯỜI XƯA DỊCH TÊN CÁC LOÀI CÂY VÀ CÁC LOÀI CON TỪ HÁN SANG VIỆT

NGUYỄN TÁ NHÍ

Do điều kiện tự nhiên nằm cận kề ngay bên nước Trung Hoa rộng lớn, nên mãi từ xa xưa người Việt Nam đã có mối quan hệ giao lưu mật thiết với người Trung Quốc. Tuy rằng nhiều người Việt Nam không có cơ hội trực tiếp với người Trung Quốc, song qua các tư liệu văn hiến chữ Hán, họ có thể hiểu biết về nước Trung Hoa và học hỏi được nhiều điều cho mình. Thế nhưng trong khi tìm hiểu tri thức trong khối tư liệu cổ ấy, người Việt Nam gặp không ít trở ngại mà việc chuyển dịch tên gọi các loài thảo mộc (gọi tắt là loài cây) và các loài động vật (gọi tắt là loài con) là một trong những trở ngại đó. Cũng như người Trung Quốc, từ xưa người Việt Nam đã biết sử dụng các loại thảo mộc và động vật để tạo ra các phương thuốc chữa bệnh rất có hiệu quả. Tuy có thuốc Nam, song người Việt cũng rất coi trọng các vị thuốc Bắc, và thường dùng các dược liệu đó bổ sung cho phương thuốc chữa bệnh của mình. Sử gia Ngô Thì Sĩ cuối thế kỷ 18 đã soạn bài khải Binh dân luận dâng lên chúa Trịnh cũng khẳng định:

Nước Nam chẳng thiếu vật chi,
Chỉ một thuốc Bắc vậy thì phải mua.

Để sử dụng hữu hiệu các dược liệu quý giá đó, thì việc chuyển dịch đúng tên gọi của loài cây và loài con là việc làm cần thiết. Từ trong thực tế của cuộc sống hàng ngày, nhiều người Việt Nam xưa đã có ý thức biên soạn các loại tiểu từ điển song ngữ để giúp cho công việc chuyển dịch. Giữa thế kỷ XIX, Nguyễn Văn San đã biên soạn sách Đại Nam Quốc ngữ, trong bài tựa ở đầu sách ông viết:

“Trước đây khi đi xem người ta làm việc cải táng, nhìn thấy trong hòm áo quan chắc chắn ấy có đến bốn năm con cá trê, tôi chẳng hiểu ra sao cả. Đến khi xem sách y học thấy nói móng tay của người ta có thể hóa thành cá “hoàng tảng”. Hỏi các lương y, cá “hoàng tảng” là cá gì ? Không ai hay biết. Tra trong sách Bản thảo thấy chú giải “Hoàng tảng” là cá trê. Ôi ! Trung Quốc chỉ là một nước thế mà có người Sở tiếng Tề, huống hồ nước ta và Bắc quốc ngôn ngữ bất đồng, nếu không có việc người Nam dịch giải tiếng Bắc thì muôn vật kia làm sao có thể phân biệt rạch ròi ra được?”

Cùng làm công việc “Nam dịch Bắc âm” như Nguyễn Văn San có đến hàng chục vị. Hiện trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội cũng còn lưu giữ được hàng chục bộ sách loại tiểu tự điển song ngữ này. Trong đó có một số bộ đáng lưu ý, gồm:

1. Trùng san chỉ nam bị loại các bộ dã đàm đại toàn, chưa rõ tác giả, ký hiệu AB.372, biên soạn khoảng thế kỷ XVII.

2. Dược tính chỉ nam, ký hiệu VNv.182, sách chú giải âm đọc và nghĩa của các vị thuốc, chưa rõ tác giả và năm biên soạn.

3. Thực vật bản thảo, ký hiệu VNv.71, diễn dịch giải thích tên các vị dược liệu của Trung Quốc, chưa rõ tác giả và năm biên soạn.

4. Tự học toản yếu Tam thiên tự, ký hiệu AB.228, Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) biên soạn hồi thế kỷ XVIII.

5. Nhật dụng thường đàm, ký hiệu AB.17, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) soạn vào thế kỷ XIX.

6. Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, ký hiệu VHv.630, Tự Đức Nguyễn Phúc Thì (1829 - 1883) soạn vào thế kỷ XIX.

7. Đại Nam quốc ngữ, ký hiệu AB.106, Nguyễn Văn San soạn vào thế kỷ XIX.

8. Chỉ Nam bị loại, ký hiệu A.1239, chưa rõ tác giả và năm biên soạn.

9. Ngũ thiên tự giải âm, Ký hiệu AN.229, chưa rõ soạn giả và năm biên soạn.

Các bộ tiểu tự điển này biên soạn khá công phu, các mục từ hầu hết được sắp xếp theo môn loại, tra cứu tương đối thuận lợi. Do vậy các sách này được người xưa rất trân trọng, trong nhà có được quyển sách đã coi như gia bảo. Tuy thế, trong các sách đó có một số mục từ giải thích không thống nhất, điều này hẳn đã gây ra không ít phiền toái cho người sử dụng. Chẳng hạn như cách giải thích tên chim Bố cốc.

Về loài chim “Bố cốc” có thể là rất quen thuộc với người dân Việt Nam, nó gắn bó với làng quê với đồng ruộng và đã đi vào thi ca. Trong tập thơ Hồng Đức Quốc âm thi tập các tác gia thời Hồng Đức (1470 - 1497) đã hai lần nhắc đến tên loài chim này:

Rừng kia bố cốc còn khuya gióng
Làng nọ nông phu đã thức nằm.

(Bài Ngũ canh)

Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc
Lênh đênh mặt nước cái đè he.

(Bài Hạ thử)

Năm 1982 khi tái bản tập sách Hồng Đức Quốc âm thi tập do hai soạn giả Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu, các soạn giả đã chú giải:

Bố cốc: Chim tu hú. Theo từ thư chép thì giống chim này thường kêu về tháng tư Âm lịch. Tiếng kêu có ý nhắc người nông dân cấy lúa. Vì thế người ta gọi là chim tu hú”.

Tra trong từ thư, thấy sách Từ nguyên của Trung Quốc giải thích gần giống như thế:

Bố cốc: tên chim. Còn có tên là Thi cưu, lại gọi là Quách công, rất giống với chim đỗ quyên, nhưng hơi lớn hơn. Toàn thân lông màu tro đen, bụng trắng, có một vệt đen vắt ngang. Mỏ nhọn, bàn chân 4 ngón, trước sau mỗi phía 2 ngón. Tiếng kêu như giục giã cắt lúa gieo mạ (cát mạch bố cốc) nên có tên gọi như vậy. Hay ăn côn trùng, có ích cho cây cỏ, thuộc loài chim có ích”.

Từ nguyên đã giải thích tường tận về hình dáng, đặc tính của chim “bố cốc”, giúp chúng ta so sánh với loài chim sống ở Việt Nam và xác định xem tên gọi của nó là gì ? Có phải là “tu hú” hay không?

Tra cứu trong các bộ tiểu từ điển kể trên, thấy chim bố cốc được giải thích bằng ba tên gọi khác nhau:

1. Chè bẻo:

- Chu khách: chim vẹt trình qua.

Bố cốc: chè bẻo, quạ đà dái thay.

(Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa)

Bố cốc: Chè bẻo dài đuôi

(Đại Nam Quốc ngữ)

- Bố cốc: tên dân gian là cái chè bẻo. Tính ôn cam, không độc, rất bổ giúp cho an thần định chí. Ăn nhiều làm cho người ta ít ngủ.

(Dược tính chỉ nam)

2. Quýt chè:

- Chim quýt chè chỉn danh bố cốc

Mùi cam ôn nào độc chút phân.

Khiến người phu phụ tương thân

Vả thêm định chí an thần lạ bao !

(Thực vật bản thảo)

3. Tu hú:

- Thi cưu: là chim tu hú, cũng gọi là bố cốc.

(Nam phương danh vật bị khảo)

Chỉ một con chim bố cốc mà được các sách chuyển dịch thành ba tên gọi khác nhau: chè bẻo, quýt chè, tu hú. Cả ba loài chim này đều rất quen thuộc với người Việt Nam, sách Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, in năm 1988 có đưa cả ba loài chim này vào trong từ điển và giải thích khá tường tận.

Chè bẻ o còn có tên gọi là “Chèo bẻo”, là loại chim dữ, thường tranh chấp với chim quạ và loài quạ phải sợ: “quạ đà dái thay”. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Chèo bẻo: Chim ăn sâu bọ, lông đen cánh dài, đuôi dài chẻ thành hai nhánh”.

Quýt chè, còn gọi là “chích chòe” là loại chim nhỏ sống ở thôn dã, tên chim được gọi theo tiếng nó hót. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Chích chòe: Chim cỡ bằng sáo lông đen bụng trắng, thường kêu chích chòe”.

Tu hú là loại chim thường kêu vào mùa vải chín. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Tu hú: Chim lớn hơn sáo, lông màu đen hoặc đen nhạt có điểm nhiều chấm trắng, thường đẻ trứng vào tổ sáo sậu hay ác là, và kêu vào đầu mùa hè”.

Chim tu hú của Việt Nam được nhiều sách dùng để giải thích loài chim bá lao trong tiếng Hán:

- Bá lao: Chim tu hú

(Chỉ nam bị loại)

- Chân bá lao thực là tu hú,

Lại có danh cô ác, bá lao.

Vũ mao tích để cho nhiều

Tiểu nhi mòn mỏi, hằng đeo ắt lành.

(Thực vật bản thảo)

- Bá lao, tên dân gian là cái “tu hú”, lông vũ tính bình có độc tố, trị bệnh gày yếu sài mòn của trẻ nhỏ, đeo vào thì bệnh sẽ khỏi.

(Dược tính chỉ nam)

Cứ liệu trên cho thấy chim bố cốc không thể chuyển dịch thành chim “tu hú” được. Còn cách dịch “chè bẻo” và “chích chòe”, thì căn cứ vào định nghĩa của Từ nguyên Từ điển tiếng Việt về đặc tính của loài chim lông đen bụng trắng có tiếng kêu chích chòe hoặc cát mạch bố hòa, thì có thể khắng định chim bố cốc nên dịch là chích chòe hoặc quýt chè.

Theo hướng này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu cách chuyển dịch tên các loài chim trong sách Ngũ thiên tự giải âm:

Tên tiếng Hán Tên tiếng Việt
Anh vũ 鶧 鵡 Chim vẹt
Áp Vịt
Âu Chim két
Bằng Chim bằng
Cáp 鴿 Bồ câu
Câu khích 鴝 鵒 Chim sáo
Chí Chim cắt
Chí Chim ngói
Chiên Chim chiên
Cộ Vạc
Diên Diều hâu
Đăng Gà rừng
Đệ Cái trôi bè
Giá cô 鷓 鴣 Đa đa
Giang Giang
Giao Ngan
Hạc Hạc
Hào (Diều) hâu
Hạt Công
Hạt cát Chim thước
Học Chim dư
Hồng Chim hồng
Ích Giang
Liệt Chim hét
Loan Chim loan
Miết Gà gầy
Nga Ngỗng
Nha Vẹt (? quạ)
Oanh Oanh
Ô Quạ
Ốc Chim bói cá
Phù Cái le le
Phượng Chim phượng
Quát Cái phùng tranh
Quyên Chim quốc
Tải chu 載 鵃 Chèo bẻo
Thi Cái chim cốc
Thù Chim vè dào
Thuần Bồ câu quý
Thước Khách
Tích linh 鷯 鴒 Bồ châu
Tiêu liêu 鷦 鷯 Triện triện
Trạch Bồ nông
Tri phiên Chim cú
Trĩ Trĩ
Tước Sẻ
Uyên ương 鴛 鴦 Đôi cái
Ưng Ưng
Vụ
Xi hưu 鴟 鵂 Cái cú
Yến én

Toàn sách chuyển dịch tên gọi của 53 loài chim. Ngoại trừ trường hợp dịch chim nha thành chim vẹt, không thật hợp lý ra, còn lại 52 trường hợp đều thỏa đáng. Trong đó có 10 trường hợp khi chuyển dịch vẫn giữ nguyên tên gọi như âm đọc Hán Việt. Đó là các loài chim thường nói đến trong truyền thuyết, hoặc không thấy xuất hiện trong tiếng Việt, như chim bằng, chim hạc, chim hồng, chim loan, chim phượng, chim oanh, chim trĩ, chim ưng, chim chiên, chim giang. Có 3 trường hợp, một tên chim trong tiếng Việt dùng để chuyển dịch hai loài chim trong tiếng Hán:

Chim giang, dùng để dịch hào giang

Chim cú, dùng để dịch tri phiên xi hưu

Chim diều hâu, dùng để dịch âu hào

Nếu đem so sánh với bộ Từ điển Trung Việt (do Nxb. Khoa học xã hội in năm 1992), lại thấy có 9 trường hợp chuyển dịch khác nhau:

Tên tiếng Hán Tên tiếng Việt
Ngũ thiên tự Từ điển Tiếng Việt
Âu 鷗 Chim két Chim âu
Chí 鷙 Chim cắt loài chim dữ (như ó, diều hâu)
Giá cô 鷓 鴣 Đa đa Con gà gô
ích Giang Chim nghịch
Liệt 鴷 Chim hét Chim gõ kiến
Phù 鳧 Cái le le Vịt trời
Quát 鴰 Cái phùng tranh Chim quạ
Tiêu liêu 鷦 鷯 Chiền chiện Tiêu liêu
Uyên ương 鴛 鴦 Đôi cái Uyên ương

Tìm hiểu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch sang tiếng Việt tên gọi các loài cây và các loài con trong tiếng Hán, chúng tôi nêu ra một số cứ liệu về tên gọi của một số loài chim như trình bày ở trên, và bước đầu có một số nhận định:

1. Khi chuyển dịch tên gọi của các loài con, nếu ở Việt Nam không tìm thấy một con vật tương đương thì người ta đọc luôn bằng âm Hán Việt.

2. Tên một loài con trong tiếng Việt có thể dùng để chuyển dịch nhiều loài con trong tiếng Hán.

3. Tên một loài con trong tiếng Hán có thể được chuyển dịch thành nhiều tên gọi khác nhau trong tiếng Việt.

4. Trong các sách tiểu từ điển do người xưa biên soạn có một số từ chuyển dịch tên gọi loài con chưa thật xác đáng.

TB

KHAI THÁC TƯ LIỆU VỀ VIỆT NAM QUA VĂN UYÊN CÁC TỨ KHỐ TOÀN THƯ ĐIỆN TỬ BẢN (文 淵 閣 四 庫 全 書 電 子 版)

NGUYỄN NAM

Tuân mệnh Hoàng đế Thanh triều Càn Long năm 1772, bộ Tứ khố toàn thư được biên tập ròng rã trong 10 năm (1773 - 1782) với một đội ngũ 300 học giả xuất chúng nhất. Sau đó, lại phải mất thêm 8 năm để nhân thêm 6 bản: tổng cộng 7 bộ Tứ khố toàn thư đã được san hành khi ấy. Thế nhưng trải qua những thử thách lịch sử, nay chỉ còn 2 bộ hoàn chỉnh bảo tồn tại Thư viện quốc gia Bắc Kinh và Thư viện Cố Cung Đài Loan, cùng một bộ khiếm khuyết lưu trữ tại Thư viện tỉnh Cam Túc(1). Được mệnh danh là “Vạn lý trường thành của học thuật Trung Quốc”, Tứ khố toàn thư tập hợp 3.640 tác phẩm (gồm 36.000 sách, 800.000.000 chữ) phân thành 4 phần Kinh, Sử, Tử, Tập. Bộ sách là tập đại thành của 5.000 năm văn minh Trung Hoa(2), và cũng là nguồn tư liệu trọng yếu nhất để nghiên cứu quan hệ của Trung Quốc với các nước lân bang trong quá khứ. Tuy vậy, khai thác nguồn tư liệu này không hoàn toàn dễ dàng. Do thiếu những mục lục sách dẫn chi tiết cho toàn bộ kho sách(3), truy xuất tư liệu trong Tứ khố toàn thư đôi lúc tựa như bất khả thi vì thiếu hẳn những công cụ tra cứu hỗ trợ cần thiết. Đáng mừng là khó khăn này đã được giải quyết nhờ những ứng dụng tin học hiện đại vào lĩnh vực cổ học(4).

Năm 1997, Nhà xuất bản trường Đại học Vũ Hán được phê chuẩn xuất bản Tứ khố toàn thư nguyên bản điện tử(5). Năm 1998 Digital Heritage Pubishing Ltd. và Nhà xuất bản trường Đại học Trung văn Hong kong phát hành bộ Văn uyên các Tứ khố toàn thư điện tử bản (TKTTĐT) - Nguyên văn cập tiêu đề kiểm sách bản 原 文 及 標 題 檢 索 版 (gồm 167 đĩa quang), và năm 1999, Nguyên văn cập toàn văn kiểm sách bản 原 文 及 全 文 檢 索 版 gồm đủ Kinh, Sử, Tử, Tập (gồm 183 đĩa) cũng đã được xuất bản(6). Đối với chúng ta thì đây chính là chìa khóa thiết yếu để thâm nhập kho tư liệu, và khai thác sử liệu liên quan đến Việt Nam được ghi chép trong thư tịch Trung Hoa.

Nguyên tắc soạn thảo TKTTĐT có thể lược thuật như sau:

1. Đưa văn bản Văn uyên các Tứ khố toàn thư vào đĩa quang dưới dạng đồ hình với sự trợ giúp của máy nhập ảnh (scanner).

2. Dùng kỹ thuật “nhận biết phù hiệu văn tự bằng quang học” (Optical Character Recognition, OCR) để hiệu đối, chuyển các đồ hình đã có sang dạng thức Hán tự tiêu chuẩn Unicode (phồn thể và giản thể). Đây là công đoạn quan trọng nhất vì nó phá vỡ giới hạn không thể tra kiểm được của các đồ hình ở nguyên bản.

3. Trên cơ sở bản văn mới với mã Hán tự tiêu chuẩn có thể tiến hành tra kiểm toàn bộ thư khố. Với mục từ tra tìm (thu nhập với mã Hán tự tiêu chuẩn), hệ thống điện tử sẽ dễ dàng truy xuất các mã đồng dạng có trong thư khố.

Dựa trên cơ sở tên tác phẩm, nhân danh, triều đại, và chủ đề tiêu mục, TKTTĐT cho phép tra kiểm hoặc toàn bộ thư khố, hoặc hạn định trong một phần nào đó. Phạm vi tra cứu có thể giới hạn hoặc ở “Tứ khố phân loại” (chọn một trong 4 phần Kinh, Sử, Tử, Tập), hoặc ở “Thư danh điều kiện” (chỉ chọn tên tác phẩm), “Trứ giả điều kiện” (chỉ chọn tên tác giả), “Tổng hợp điều kiện” hay “Đặc thù thuộc tính” (sách địa phương chí, hay trứ tác của các tác gia nước ngoài). Từ điển điện tử, tư liệu tham khảo, công cụ biên tập cũng được thiết kế trong cùng hệ thống để tiện sử dụng.

Xin đơn cử một vài ví dụ để minh họa. Có thể truy xuất các tư liệu Trung Quốc liên quan đến Mạc Đăng Dung 莫 登 庸 trên cơ sở tra tìm toàn bộ thư khố “toàn văn kiểm sách”. Kết quả có 75 quyển trong đó danh tính của người sáng lập vương triều nhà Mạc được in đậm xuất hiện 127 lần. Riêng Minh sử có 8 quyển, và ở quyển cuối trong danh sách, tính danh “Mạc Đăng Dung” xuất hiện 2 lần (Phụ lục 1). Người sử dụng có thể tùy ý chọn đọc (và in) hoặc bản gốc Văn uyên các, hoặc bản hiện đại với mã Hán tự tiêu chuẩn (Phụ lục 2). Tương tự, có thể tìm thấy tên “Mâu Tử 牟 子” ở 315 quyển (542 lần) trong Tứ khố. Khi cần thiết, người đọc có thể phóng đại (zoom) một đoạn, hay một chữ trong nguyên bản để nghiên cứu chi tiết. Công năng này cho phép khảo sát các tự dạng đặc biệt (nhất là chữ húy).

TKTTĐT hẳn nhiên là công cụ tra cứu trọng yếu Trung Quốc cổ - cận đại (nói chung), và quan hệ của Trung Nguyên với các nước trong khu vực (nói riêng). Không ít tư liệu liên quan đến Việt Nam đang được tồn trữ trong Tứ Khố và cần được triệt để khai thác. Tuy nhiên, với giá bán còn rất đắt (Nguyên văn cập tiêu đề kiểm sách bản: 3,900US$, Nguyên văn cập toàn văn kiểm sách bản: 11,050US$), chỉ mới có một số thư viện trên thế giới trang bị được bộ thư khố điện tử này. Một bộ phận của TKTTĐT cũng đã được giới thiệu trên mạng, cho phép truy cập và sử dụng miễn phí (http://www.4kqs.com).

Sự ra đời của TKTTĐT thiết tưởng cũng là một gợi ý tốt cho việc khai thác và sử dụng kho sách Hán - Nôm quý giá của ta. Trong tình hình hiện nay, với kỹ thuật OCR cho Hán tự đã phổ biến tương đối rộng rãi, trước mắt có thể xử lý kho sách chữ Hán. Việc đưa chữ Nôm vào đĩa quang và chuyển hoán thành mã chữ Nôm tiêu chuẩn để có thể truy cập được tất cần nhiều thời gian hơn, nhưng cũng không phải là không tưởng.

Kết quả kiểm mục từ “Mạc Đăng Dung” trong Văn uyên các tứ khố toàn thư điện tử bản.

Phụ lục 1:

全 文 檢 索, 包 含 以 下 條

檢 索 字 串: 莫 (幕, 暮, 鏌) 登 (得,登) 庸

四 庫 分 類: [未 限 定]

書 名 條 件: [未 限 定]

著 者 條 件: [未 限 定]

檢 索 結 果: 共75 卷, 127 個 匹 配

[1] 《欽 定 四 庫 全 書 總 目》, 卷 五 十 三, 2 個 匹 配

[2] 《欽 定 四 庫 全 書 總 目》, 卷 七 十 八, 1 個 匹 配

[3] 《欽 定 四 庫 全 書 總 目》, 卷 一 百 七 十 六, 1 個 匹 配

[4] 《明 史》, 卷 十 七, 3 個 匹 配

[5] 《明 史》, 卷 一 百 五 十 四, 1 個 匹 配

[6] 《明 史》, 卷 一 百 九 十 八, 3 個 匹 配

[7] 《明 史》, 卷 二 百, 2 個 匹 配

[8] 《明 史》, 卷 二 百 三, 2 個 匹 配

[9] 《明 史》, 卷 三 百 十 八, 1 個 匹 配

[10] 《明 史》, 卷 三 百 二 十 一, 2 個 匹 配

[11] 《明 史》, 卷 一 百 二 十 一 孝 經, 2 個 匹 配

[12] 《御 批 歷 代 通 鑑 輯 覽》, 卷 一 百 九, 2 個 匹 配

[13] 《御 批 歷 代 通 鑑 輯 覽》, 卷 一 百 十 一, 1 個 匹 配

[14] 《炎 徼 紀 聞》, 卷 一, 3 個 匹 配

[15] 《明 史 紀 事 本 末》, 卷 二 十 二, 9 個 匹 配

[16] 《弇 山 堂 別 集》, 卷 十 五, 1 個 匹 配

[17] 《弇 山 堂 別 集》, 卷 六 十 九, 3 個 匹 配

[18] 《聖 祖 仁 皇 帝 聖 訓》, 卷 五 十 七, 1 個 匹 配

[19] 《御 選 明 臣 奏 訓》, 卷 二 十 三, 1 個 匹 配

[20] 《今 獻 備 遺》, 卷 十, 1 個 匹 配

Phụ lục 2: Tính danh “Mạc Đăng Dung” được in đậm trong một trang ở Đông Tây Dương khảo.

Chú thích:

(1) Khoảng 20 năm trước, Thương vụ ấn thư quán Đài Loan đã tiến hành in lại toàn bộ Tứ Khố toàn thư (thường gọi tắt là Văn uyên các 文 淵 閣), gồm 1500 tập.

(2) Tứ Khố toàn thư bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh điển, lịch sử, văn chương, triết học, địa lý, chính trị, luật lệ, kinh tế, xã hội, thiên văn, khoa học, kỹ thuật, y học v.v.

(3) Các bộ Tứ Khố toàn thư tổng mục 四 庫 全 書 總 目, Tứ Khố toàn thư giản minh mục lục 四 庫 全 書 簡 明 目 錄, tuy có giúp cho việc tra cứu thuận tiện hơn, nhưng cũng không giúp giải quyết được các khó khăn còn tồn đọng khi tra cứu chuyên sâu.

(4) Giáo sư Peter Cochrane (Đại học Bristol) cho rằng: “Công nghệ đang thổi sinh khí mới vào một công trình cũ của Trung Quốc để nắm bắt tinh hoa tri thức của nhân loại”. Xem Electronis Telegraph (số 1462. ngày 27/5/1999).

(5) Xem Ngô Thế Long, “Bộ Tứ khố toàn thư của Trung Quốc xuất bản trên đĩa quang (CD - rom)”, Tạp chí Hán Nôm, 2 (39) - 1999, tr.95-96.

(6) Đây là một công trình hợp tác của hơn 300 chuyên gia từ Bắc Kinh, Thượng Hải, Hồng Kông và Đài Loan.

TB

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC SỬ DỤNG
TỪ HÁN VIỆT HIỆN NAY

TRỊNH KHẮC MẠNH

Đất nước trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập; tiếng Việt đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, phản ánh những thay đổi lớn lao của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Nhưng cần làm thế nào để quá trình phát triển tiếng Việt phải đi đôi với việc giữ gìn những chuẩn mực và đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt.

Tiếng Việt của chúng ta rất giàu và đẹp, là tiếng nói của nhân dân, là ngôn ngữ văn học trong các sáng tác của các nhà thơ, nhà văn và trong các sáng tác văn học dân gian. Tiếng Việt của chúng ta giàu hình ảnh, nhiều mầu sắc và âm điệu, đầy tình cảm, phản ánh tâm hồn trong sáng và cốt cách vĩ đại của người dân Việt Nam trải hàng ngàn năm lịch sử.

Do vậy, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài của mỗi người dân Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trước đây và hiện nay luôn quan tâm đến việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đã có nhiều ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều dự án điều tra, nhiều công trình khoa học, nhiều bài tạp chí, nhiều bài báo của các nhà nghiên cứu đã được công bố, giới thiệu nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Thế nhưng thực trạng nói và viết tiếng Việt hiện nay lại đang có xu hướng tăng dần từ nước ngoài, nhất là việc sử dụng từ Hán Việt. Việc lạm dụng từ Hán Việt như hiện nay thật đáng báo động, cần được nhắc nhở nhằm bảo vệ và phát huy bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt.

Từ những năm mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong cuốn Sửa đổi lối làm việc viết vào khoảng tháng 10 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên phải chống thói ba hoa, Người viết: “Chúng ta chống bệnh chủ quan, chống bệnh hẹp hòi, đồng thời cũng phải chống thói ba hoa. Vì thói này cũng hại như hai bệnh kia. Vì ba thứ đó thường đi đôi với nhau. Vì thói ba hoa còn, tức là bệnh chủ quan và bệnh hẹp hòi cũng chưa khỏi hẳn. Thói ba hoa từ đâu ra ? Vì trước kia chúng ta học chữ Hán, sau này học chữ Pháp, cho nên khi nói khi viết, hay dùng chữ Hán và theo cách Pháp. Thành thử dài dòng mà khó hiểu, khó nghe.”(1) Cũng trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Có nhiều người có bệnh dùng chữ Hán, những tiếng ta sẵn có không dùng mà dùng chữ Hán cho bằng được. Thí dụ: “ba tháng” không nói ba tháng mà nói “tam cá nguyệt”. “Xem xét”, không nói xem xét mà nói “quan sát”(2) và Người nêu rõ: “Chúng ta không chống mượn tiếng nước ngoài để làm cho tiếng ta đầy đủ thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu.”(3)

Đồng chí Phạm Văn Đồng, một trong những đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, khi đương chức cũng như lúc nghỉ tham gia quản lý đã có nhiều bài viết, nhiều ý kiến chỉ đạo nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Gần đây nhất, ngày 06 tháng 9 năm 1999, trên Báo Nhân Dân, đồng chí Phạm Văn Đồng có bài Trở lại vấn đề: vì sự trong sáng và phát triển của tiếng Việt. Bài báo nêu rõ: “Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi mà nó ngày càng có tính chất trí tuệ hóa và quốc tế hóa. Điều này rất quan trọng khi ta đặt tiếng Việt trong bối cảnh thời đại ngày nay: thời đại của thông tin, của trí tuệ; thời đại của hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu; và do đó, tiếng Việt phải có những chuẩn bị, những thay đổi, để có đủ thế và lực giao lưu, tiếp xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà không sợ bị tổn thương đến giá trị, bản sắc, đến sự giàu đẹp của nó. Chính là từ trong tinh thần đó mà tôi đã nhiều lần chỉ ra sự cần thiết phải nhìn thấy khả năng phát triển phong phú của tiếng Việt, nhấn mạnh yêu cầu cần giữ gìn sự trong sáng và cả yêu cầu phát triển, nhìn về tương lai. Cho nên, ở thời điểm hiện nay, trước thềm thế kỷ XXI, cần có nhận thức phù hợp về nội dung của công việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là: giữ gìn cho tiếng Việt luôn luôn trong sáng trong quá trình phát triển mạnh mẽ của nó.”(4)

Như mọi người đều biết, do điều kiện lịch sử, tiếng Hán có ảnh hưởng rất lớn trong sự phát triển ngôn ngữ của người Việt. Cách đọc tiếng Hán của người Việt, thường được gọi là cách đọc Hán Việt. Nhiều từ gốc Hán đã trở thành từ của người Việt, mà chúng ta đã dùng, thí dụ như: tổ quốc, độc lập, tự do, hạnh phúc, giai cấp, cộng sản, trung, hiếu, lễ, nghĩa v.v., thì tiếng Việt không có từ để thay thế. Nhiều từ Hán Việt trước đây ta dùng, như không phận, hải phận, v.v. nay đã được chuyển sang tiếng Việt rất hay, như vùng trời, vùng biển, v.v. Nhưng cũng có nhiều từ Hán Việt và từ thuần Việt đồng nghĩa thì đều có thể sử dụng, nhưng phải phụ thuộc vào các văn cảnh và ngữ cảnh khác nhau, như từ Hán Việt “phu nhân” dùng trong giao tiếp trang trọng để giới thiệu “phu nhân Tổng thống, hoặc phu nhân Thủ tướng”, còn từ thuần Việt đồng nghĩa là “vợ” được dùng trong giao tiếp hàng ngày; ở đây có vấn đề về phong cách sử dụng ngôn từ, khi nào thì dùng từ Hán Việt, khi nào thì dùng từ thuần Việt. Hay từ “quan sát” (từ Hán Việt) và từ “xem xét” (từ thuần Việt) cũng vậy, khi cấp dưới đề nghị cấp trên một vấn đề gì đó thì không thể nói hoặc viết “đề nghị đồng chí quan sát và giải quyết” mà phải là “đề nghị đồng chí xem xét và giải quyết” và ví như khi giới thiệu thành phần các “quan sát viên” không ai lại nói là “xem xét viên”; theo tôi “quan sát” “xem xét” là hai từ có cấp độ nội dung ngữ nghĩa khác nhau, “quan sát” là xem xét để thấy rõ sự vật và hiện tượng nào đó, còn “xem xét” là tìm hiểu để đánh giá.

Việc sử dụng từ Hán Việt và từ thuần Việt trong câu văn hoặc lời nói là hết sức tinh tế, vừa phải đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt và vừa phải đảm bảo ngữ nghĩa của câu. Thế nhưng, vài năm gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy xu hướng gia tăng dùng từ Hán Việt, chen vào câu tiếng Việt, trong khi tiếng Việt đã có đủ từ để diễn tả câu ấy một cách trong sáng và chính xác. Xin nêu ra một vài ví dụ:

Trên báo chí hay phát thanh viên Đài phát thanh và truyền hình thường dùng từ “học đường” trong các câu như “ma túy học đường” khi nói về giáo dục học sinh không dùng ma túy trong nhà trường, “nha học đường” khi nói về giáo dục học sinh vệ sinh răng miệng trong nhà trường, hay “cao tầng hóa học đường” khi nói về việc xây dựng nhiều trường học cao tầng, rồi “sân khấu học đường” khi nói về việc học tập và biểu diễn ca múa nhạc của học sinh trong nhà trường. “Học đường” là từ Hán Việt, trong khi tiếng Việt ta có từ “nhà trường” rất dễ hiểu lại không dùng.

Gần đây, trên thị trường buôn bán nhà đất, chúng ta có mở ra Trung tâm buôn bán nhà đất, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân trong việc giao dịch, mua và bán nhà đất, nhưng trên các phương tiện thông tin tuyên truyền quảng cáo toàn nói và viết là Trung tâm buôn bán địa ốc. Từ “nhà đất” trong tiếng Việt đã có từ lâu và rất quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam chúng ta, tại sao lại phải dùng là “địa ốc” cho khó hiểu.

Hay có lần trên Đài truyền hình TW, khi nói về bão lũ làm sạt lở bờ biển ở Thuận An (Thừa Thiên - Huế), phát thanh viên nói: “sóng biển đã xâm thực bờ biển vùng biển Thuận An”, “xâm thực” là từ Hán Việt, ở ngữ cảnh này thì tiếng Việt có từ “sạt lở” (hay “xói mòn”) để thay thế từ “xâm thực” và câu này nên nói là “sóng biển làm sạt lở (hay “xói mòn”, bờ biển...” thì hợp lý và chính xác.

Những ví dụ về việc mượn từ gốc Hán chen vào câu tiếng Việt làm giảm sự trong sáng của tiếng Việt, có thể nêu ra khá nhiều. Đã có một thời kỳ khá dài, tiếng Việt được viết rất chuẩn, ít dùng từ nước ngoài chen vào, câu văn diễn tả được ý nghĩ và tình cảm của người nói, người viết; tạo nên những gợi cảm sâu sắc và sự mến phục cho người nghe, người đọc. Khi đó, tiếng Việt đã trở thành công cụ có hiệu quả đối với công cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa. Nhưng vào thời kỳ hiện nay thì một số người khi nói và viết tiếng Việt lại quá tùy tiện, nguyên nhân thì có nhiều, nhưng người ta hay đổ lỗi cho là do ảnh hưởng của thời kỳ mở cửa, của nền kinh tế thị trường, của hội nhập, mới nên như vậy.

Một thực tế cho thấy, chúng ta đang đứng trước một sự cần thiết phải bổ sung những từ mới cho tiếng Việt để đáp ứng yêu cầu phát triển của đời sống văn hóa xã hội hiện nay, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và thương mại. Nhưng bổ sung như thế nào ? Cơ quan nào tổ chức việc này ? thì chưa có sự quan tâm đúng mức, cho nên đã tạo ra một không khí thoải mái “nhập” từ nước ngoài trong câu tiếng Việt.

Theo tôi, đã đến lúc phải có những biện pháp kiên quyết và thiết thực nhằm bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là công việc thường xuyên và lâu dài, với ý thức trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, với lòng tự hào về tiếng nói của dân tộc Việt Nam, nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa, hội nhập nhằm xây dựng quốc gia Việt Nam ngày càng phát triển và phồn thịnh.

CHÚ THÍCH

(1) Về văn hóa văn nghệ, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr.55.

(2) và (3) Về văn hóa văn nghệ, Sđd., tr.58.

(4) Báo Nhân Dân, ngày 06 tháng 9 năm 1999.

TB

THỬ BÀN THÊM VỀ BỐN CHỮ
“KIẾM KHÍ, THU THANH” NHÂN ĐỌC BÀI CỦA TÁC GIẢ TẠ NGỌC*

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN

Bài của tác giả Tạ Ngọc viết nhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày mất Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chủ yếu giới thiệu đôi câu đối của Thám hoa Vũ Phạm Hàm (1864 - 1906).

Bài viết ngắn gọn công phu, viện dẫn nhiều sử liệu, văn liệu minh chứng cho sự lý giải của mình về đôi câu đối hay nổi tiếng của ông Thám hoa họ Vũ này. Sự nghiêm cẩn trong cách viết chứng tỏ tác giả là một nhà nghiên cứu lịch sử có trách nhiệm với bạn đọc và nhất là tỏ lòng thành kính trước vị anh hùng dân tộc, một trong 10 vị tướng tài thời trung cổ trong lịch sử nhân loại từ 20 thế kỷ nay.

Về đại thể mà nói, bài viết của tác giả đọc một lượt thấy có vẻ lô-gíc, ai đọc qua để giải trí có thể dễ chấp nhận. Song theo ý kiến cá nhân, tôi hiểu đôi câu đối:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.

của Vũ Phạm Hàm theo một lô-gíc khác.

Đọc văn học cổ viết bằng chữ Hán, tôi cũng như ông Tạ Ngọc và mọi người khác, ngoài việc thẩm văn, thẩm tứ, thẩm thanh, thẩm hình, thẩm điệu, thẩm cả cái vô thanh, vô hình, vô điệu nữa, còn phải rất chú ý đến những cái “hóc” điển cố. Do sự giao lưu lâu đời giữa văn chương Việt Nam với Trung Quốc, về điển cố, các tác giả Hán Nôm xưa có thể dùng trực tiếp hoặc gián tiếp, người đọc phải hiểu và phân tích điển cố nào dùng gián tiếp hay trực tiếp phù hợp với chủ đề tư tưởng của bài văn, bài thơ, câu đối... của tác giả đó viết về vấn đề gì, ở đâu, vào thời điểm nào. Chỉ nói sự học văn, hiểu văn cũng là một sự tu dưỡng không ngừng, cao hơn nữa cũng là một nghệ thuật thẩm mỹ. Nhất là đối với văn chương của các cây bút đại gia như Vũ Phạm Hàm chẳng hạn.

“Kiếm khí” mà Vũ Phạm Hàm dùng ở câu đối trên xuất xứ từ điển cố Truyện Trương Hoa trong Tấn thư: “Thời Tấn Huệ Đế (290-307) (Tư Mã Trang) Quảng Vũ hầu Trương Hoa ban đêm trông lên địa phận sao Ngưu, sao Đẩu thấy có khí sắc tía. Nghe tin Lôi Hoán người đất Dự Chương rất thông hiểu các hiện tượng trên bầu trời, vời đến hỏi, Lôi Hoán nói, đấy là tinh khí của bảo kiếm xông lên. Nhân đó Trương Hoa cử Lôi Hoán đi làm quan lệnh ở Phong Thành, khi đến huyện, Hoán sai đào dưới nền nhà ngục được một cái hòm đá trong đựng hai thanh kiếm Long tuyền và Thái a...

“Long tuyền” và “Thái a” từ lâu đã đi vào văn học:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long tuyền đới nguyệt ma.

(Thù nước chưa đền đầu đã bạc,
Long tuyền dưới nguyệt mấy lần mài).
(Đặng Dung)

Trong bài: Tiết trùng cửu ở nhà sàn trên núi, vị nho tướng Ngô Quang Bích thời Cần vương chống Pháp có câu:

Thùy thức Phong Thành Đẩu Ngưu khí,
Tình tương thử ý thướng tằng lâu.

(Ai người biết được kiếm khí ở Phong Thành xông lên tận sao Ngưu, sao Đẩu - Xin đem ý ấy bước lên lầu cao)

Đặng Dung và Ngô Quang Bích ở hai thời khác nhau, cách nhau hơn 5 thế kỷ, đều trăn trở đau đáu với công cuộc giết giặc cứu nước - Người thì mài kiếm Long tuyền, người thì đặt câu hỏi ai là người biết được kiếm khí. Ngô Quang Bích hỏi thế nhưng chính là ông đã nhìn thấy kiếm khí. Kiếm khí được hiểu như là sức mạnh quân sự, sức mạnh của dân tộc, một dân tộc thượng võ chống xâm lăng. Cho nên Ngô Quang Bích đem cái ý ấy bước lên lầu cao để nhìn bao quát non sông gấm vóc miền Tây Bắc, thúc đẩy và củng cố quyết tâm chống xâm lược đến cùng. Kiếm khí, khí sắc của bảo kiếm còn tượng trưng cho sự cao vời, xuyên vũ trụ (Sao Đẩu tức Bắc đẩu nằm trong chòm Tiểu hùng, một trong “Nhị thập bát tú”, cách xa trái đất 80 năm ánh sáng).

Trở lại câu của Vũ Phạm Hàm, nên dịch là:

“Ở Vạn Kiếp nơi nào có núi đều tỏa khí sắc bảo kiếm”.

Ở đây Vũ muốn nói đến kiếm khí của Trần Hưng Đạo. Vạn Kiếp là một địa danh cụ thể, một căn cứ kháng chiến, cũng tức là nói thời Trần đã thực hiện chiến lược toàn dân vi binh, toàn dân đoàn kết qua hội nghị Diên Hồng, tiếng hô Sát Thát chính là hình ảnh kiếm khí Đông A. Nếu cụ Thám hoa sống lại, xin thưa với cụ được đổi Vạn Kiếp thành Đại Việt: “Đại Việt hữu sơn giai kiếm khí” hẳn cụ cũng đồng tình. Song vì đề ở đền thờ Trần Hưng Đạo ở Kiếp Bạc nên cụ Thám hoa phải viết Kiếp Bạc vậy ! ý của Thám hoa rất tinh tế, sâu sắc, ca ngợi nghệ thuật quân sự của Trần Hưng Đạo khi còn sống và không khí hùng tráng của quân sĩ đương thời. Còn ở Đại Việt sử ký toàn thư nói: “Sau khi đại vương mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang bị bệnh đậu, nhiều người kêu cầu. Nay hằng năm đến tuần tiết hoặc khi trong nước có giặc thì tế ngài ở đền thờ, hễ thấy gươm trong hộp có tiếng kêu tất là đại thắng”.

Cái mô típ này là khi Hưng Đạo Vương đã hiển thánh và gươm trong hộp có tiếng kêu chỉ là gươm gỗ sơn son thiếp vàng thôi, nói cho linh ứng, chứ giết giặc bằng gươm gỗ sao được! Gươm gỗ kêu không ăn nhập gì với hai chữ “kiếm khí” đầy hùng tráng, đầy hình tượng, đầy chất thơ, điển cố hóa một cách tài tình, sáng tạo mà Vũ Phạm Hàm đã viết.

Còn hai chữ “thu thanh”, tôi không cho đó là tiếng thu. Nguyên tác “thu thanh” (啾 聲) chữ “thu” có bộ khẩu bên, khác với chữ “thu” (秋) là mùa thu. Trước Cách mạng tháng 8 - 1945, tôi đã đọc câu này trong tập Danh công trướng đối, bản chữ Hán chép tay của một gia đình Cử nhân cùng khoa với Vũ Phạm Hàm có viết bộ khẩu (口). Cố Trưởng phòng Bảo tồn, Bảo tàng Thái Bình Đỗ Phúc Hứa, một nhà Hán học đáng kính viết vào sổ tay cho tôi đôi câu đối này cũng có bộ khẩu, và cụ đọc là “ tin thanh”. Tra các bộ từ điển Từ hải, Từ nguyên, Khang Hy đều có âm là tửu. Còn trong bài Binh xa hành của Đỗ Phủ, đề hiệp vận thì cụ Đào Duy Anh phiên âm là “thu”. Đó là chuyện phiên âm, không quan trọng lắm. Do lâu ngày mưa gió làm xói mòn chữ khẩu, hay do mấy ông thợ nề sửa lại làm mất chữ “khẩu” chăng ? hoặc vị nào bạt chữ “khẩu” cho là vô nghĩa chăng? Có lẽ vì mất chữ “khẩu” nên sau này nhiều người hiểu “thu thanh” là tiếng thu và đã có sự tranh cãi bằng miệng với nhau về chữ này.

Vì hiểu “thu thanh” là tiếng thu nên tác giả Tạ Ngọc viện dẫn cả đến bài Thu thanh phú của Âu Dương Tu, âu cũng là chuyện thường tình (song có lẽ hơi quá đà). Một nhà bình luận văn học Trung Quốc có lời bình về Thu thanh phú như sau: “Tiếng thu là cái gì vô hình, song miêu tả được hình sắc của nó vốn tựa như thế; sự biến thái của nó rất nhiều mà cuối cùng quy vào sự lo âu, vất vả của con người từ tấm bé đến lúc tuổi già. Nó còn nói lên sự chịu đựng biến đổi của sự vật từ mùa xuân đến mùa thu làm cho ý buồn thu tràn đầy trong lời văn. Vĩ thanh kết thúc bằng tiếng rỉ rả của côn trùng càng phát huy nghệ thuật điểm xuyết đến tuyệt diệu!” (Nguyên văn chữ Hán - NTĐ dịch)

Như vậy “Thu thanh” (秋 聲) (tiếng thu) không nằm trong ý tứ vế đối thứ hai của Vũ Phạm Hàm. “tiếng thu” không ăn nhập gì với văn cảnh mà cụ Thám hoa viết, hoàn toàn “oóc jơ”! (Hors jeux)

“Thu” (啾) có bộ khẩu là tiếng trẻ con. Trong bài: Binh xa hành của Đỗ Phủ có câu:

Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp thanh thu thu.

(Ma mới kêu oan, ma cũ khóc,
Trời âm mưa thấm khóc hu hu).
(Hoàng Tạo dịch)

Các bộ Từ hải, Từ nguyên đều giải nghĩa “thu thu” là tiếng quỷ kêu. Theo tôi, cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã dùng ý ngày trong Binh xa hành của Đỗ Phủ để viết vế thứ hai rất thoát sáo:

Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.

phải dịch là: Sông Lục Đầu không dòng nước nào không có tiếng kêu la của quỷ”. Rõ ràng “quỷ” đây là những tên giặc xâm lược hung hãn Nguyên Mông bị thảm bại, hoảng sợ mà khóc mà rên. “Thu thanh” (tiếng kêu của quỷ) là hệ quả của “kiếm khí”. Dưới tài thao lược của Trần Quốc Tuấn cùng quân dân Đại Việt bấy giờ, với khí sắc của bảo kiếm, của toàn dân vi binh, của khí thế Diên Hồng mà bọn giặc Nguyên Mông thua tan tác, chúng phải kêu la như lũ quỷ ở Lục Đầu giang, ở những nơi xảy ra thủy trận của nước Đại Việt ta bấy giờ. Cũng là ca ngợi chiến công của Trần Hưng Đạo, nhưng đôi câu đối của Vũ Phạm Hàm chỉ 14 chữ mà toát lên được không khí hào hùng của sử thi, sự lẫm liệt hoành tráng của công cuộc kháng chiến vĩ đại chống Nguyên Mông của quân dân Đại Việt ta. Đó là chiều sâu và tầm tư tưởng khái quát cao của tác giả.

CHÚ THÍCH

* Văn nghệ trẻ số 38. Ngày 17- 9-2000.

TB

“BIA CHỢ XÃ ĐÔNG NGẠC” – THÊM MỘT BÀI VĂN BIA THỜI MẠC

TRẦN THỊ KIM ANH

Nhà Mạc tồn tại trong tiến trình lịch sử Việt Nam ngót một thế kỷ nhưng bị coi là “ngụy triều” nên trong chính sử, những ghi chép về Mạc hết sức sơ sài, thiếu sót, thậm chí sai lệch. Để bổ sung sử liệu cho vương triều phải chịu nhiều thiệt thòi này, từ lâu nay các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến các tư liệu dã sử, truyền thuyết và đặc biệt là nguồn tư liệu văn khắc trên bia đá, chuông đồng - nguồn sử liệu xưa nay luôn được coi là chuẩn xác bởi tính chất bền vững của vật liệu lưu giữ chúng.

Năm 1996, Nhà xuất bản KHXH đã cho xuất bản bộ sưu tập Văn bia thời Mạc của tác giả Đinh Khắc Thuân, gồm 147 bài văn bia và một bài minh chuông. Qua những thông tin về nhiều mặt của các bài văn đó, có thể thấy đây là một tập sử liệu quý giá đối với những nghiên cứu về nhà Mạc và xã hội thời Mạc. Tuy nhiên bộ sưu tập này còn có thể và cần bổ sung cho ngày càng đầy đủ và phong phú hơn, bởi rải rác ở nhiều địa phương, vẫn có những tấm bia, những quả chuông, những văn bản sao chép văn bia, minh chuông thời Mạc chưa được phát hiện.

Tư liệu lịch sử về các ngôi chợ hàng xã, hàng tổng, hàng huyện... là những tư liệu quí giúp đánh giá phần nào tình hình chính sách kinh tế văn hóa của mỗi triều đại phong kiến. Trong bộ sưu tập của Đinh Khắc Thuân, tư liệu về mảng này hết sức khiêm tốn: 2/147 bia. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về xã Đông Ngạc thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội, chúng tôi bắt gặp một bài văn bia chợ khá lí thú có niên đại nhà Mạc, nên qua bài viết này xin được giới thiệu để góp phần làm phong phú thêm cho mảng tư liệu nói trên.

Bài văn bia nói đến ở đây mang tên Đông Ngạc xã thị bi (Bia chợ xã Đông Ngạc) được chép trong sách Đông Ngạc xã chí. Sách Đông Ngạc xã chí là một tập tư liệu về lịch sử, địa chí, kinh tế, văn hóa của làng Đông Ngạc - một làng cổ điển hình của vùng ven Thăng Long. Sách không ghi niên đại, không có tên người biên soạn, nhưng qua nội dung, có thể biết sách được viết vào đầu thế kỷ XX, khi viết tác giả đã tham khảo khá nhiều sử liệu liên quan đến Đông Ngạc(1). Bài Đông Ngạc xã thị bi được chép cùng trong loạt các bài văn bia về xã Đông Ngạc như Trùng tu thần từ bi ký, Hậu thần bi ký... ở ngay đầu sách(2). Bài văn do Tiến sĩ Phạm Thọ Chỉ, một quan viên làng Vẽ sống vào thời Mạc soạn. Theo chúng tôi, bản sao này khá chuẩn xác, duy có dòng niên đại “Diên Khánh vạn vạn niên chi nhị”, tra niên biểu thì nhà Mạc không có niên hiệu Diên Khánh (延 慶) mà chỉ có Diên Thành (延 成) (1578 - 1585) nên chúng tôi cho rằng người chép đã nhầm chữ “Thành” sang chữ “Khánh”. Vậy niên đại của văn bia này là 1579, phù hợp với thời gian sống và làm quan của tác giả cùng một số nhân vật được nhắc đến trong bia.

Về Tiến sĩ Phạm Thọ Chỉ, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919(3) cho biết: Phạm Thọ Chỉ (范 壽 祉) (1539 - ? ), người xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, cháu họ Phạm Lân Định, ông nội của Phạm Hiển Danh. 39 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Sửu niên hiệu Sùng Khang 12 (1577) đời Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.

Như vậy, qua tác giả và niên đại ghi trên văn bia thì đây chắc chắn là một tấm bia đời Mạc. Để nắm được tư liệu xác tín hơn, trong nhiều lần về tìm hiểu và làm việc tại xã Đông Ngạc, chúng tôi đã để ý tìm hỏi nhưng không ai còn thấy tấm bia này. Có lẽ trận lụt năm 1915 hoặc những biến thiên dâu bể đã vùi tấm bia vào lòng đất.

Về nội dung, văn bia ghi lại sự kiện tranh chấp quyền mở chợ giữa hai xã Đông Ngạc và Thụy Hương vào niên hiệu Sùng Khang 8 nhà Mạc (1573). Để bạn đọc tiếp cận văn bia được dễ dàng hơn chúng tôi xin được lược qua vài nét về chợ Đông Ngạc.

Chợ xã Đông Ngạc còn gọi là chợ Vẽ bởi tên Nôm của xã là làng Vẽ. Chợ Vẽ có lẽ đã có từ cổ xưa. Văn bia cho biết, sách Thiên Nam dư hạ(4) ghi nhận chợ Vẽ là 1 trong 10 chợ lớn của huyện Từ Liêm. Chợ nằm sát bến sông Hồng, với phương tiện giao thông thời xưa chủ yếu bằng đường thủy, mà bến Vẽ là một bến sông khá gần Thăng Long thì đây là nơi rất thuận tiện cho hàng hóa tập trung về. Vào phiên chợ, các bè gỗ, mây song, tre nứa, nâu vỏ, trâu bò... từ miền ngược xuôi về. Mắm muối, cá tôm... từ miền biển ngược lên. Về sự sầm uất của chợ, sách Đông Ngạc xã tập biên (5) cho biết : chợ họp 1 tháng 6 phiên vào các ngày 2 và 7 (tức mùng 2, mùng 7, 12, 17, 22, 27). Thời cổ chợ họp ở khu đất bên ngoài xóm Hàng Quang ra mãi áp bờ sông nên thường gọi là “trên làng dưới chợ”. Còn xóm Hàng Quang thì như một con phố buôn bán, hai bên là 2 dãy cửa hàng chuyên bán quang gánh và vật liệu như mây song chẻ sẵn dùng làm quang gánh. Về sau do nước sông hằng năm làm xói lở bến, người ta phải họp từ dốc chợ Lụa qua Bến Ngự đến Hàng Quang và chợ cũ mới đủ chỗ để người đi lại mua bán. Rồi để thuận tiện hơn, người ta dời chợ lên đầu làng, trên một khu đất rộng, trước mặt giáp đường đê, đằng sau giáp chùa Cả. Trên bến dưới thuyền nên sự buôn bán rất sầm uất. Chợ khi mới mở có làm hai cái cầu gạch lợp ngói rất dài. Lại có cả cầu “quan cư” để các vị Hương hội đến xem tình hình buôn bán. Xung quanh chợ có trồng nhiều cây bàng cho bóng mát. Trong chợ bán đủ thứ, thượng vàng hạ cám chả thiếu thứ gì. Suốt từ chợ đến cổng cái Ngõ Đông, bề dài ước một cây số, hai bên đường đê đều có các cửa hàng buôn bán. Lái trâu lái bò kéo đến đông đúc, những cánh bè về đậu đầy sông. Kẻ mua người bán tíu tít vui vẻ...

Những mối lợi thu được từ chợ Vẽ rất lớn khiến cho Đông Ngạc trở thành một làng giàu có nổi tiếng. Có lẽ điều này đã dẫn đến sự tranh chấp giữa hai xã Đông Ngạc và Thụy Hương mà nội dung văn bia dưới đây ghi nhận được.

東 鄂 社 巿 碑

古 人 制 器 尚 象: 始 離 次 益, 次 噬 嗑, 所 取 者 食 貨 而 已. 故 立 為 巿, 致 民 聚 貨, 貿 易 有 無. 使 民 財 以 足, 國 用 有 餘. 斯 亦 王 政 之 一 端 也. 今 吾 社 巿 山 西 第 一 勝 會, 財 貨 之 來, 浩 浩 如 也. 舟 筏 所 至, 鄰 鄰 如 也.人 得 而 樂 其 樂, 而 利 其 利. 於 他 豈 得 以 觸 爭 乎! 第 於 崇 康 八 年 三 月 二 十 六 日, 瑞 香 社 人, 私 開 會 市, 掘 壕 築 壘, 起 釁 啟 爭. 本 社 員 人 登 投 告 該 丞 憲 二 司 究 勘. 參 政 貴 衙 武 靖, 憲 察 貴 衙 阮 清 靜 等, 具 本 議 處 勘 還. 九 年 五 月 二 十 日, 丞 司 丞 宣 使 貴 衙 阮 淵, 憲 察 貴 衙 王 拔 萃 等, 勘 圖 具 本 題 為 奉 勘 還 社 市 舊 額. 具 本 襲 勘 得 參 照 東 鄂 社 與 瑞 香 社 相 訟 市 額 事 由. 查 《天 南 餘 暇 》, 東 鄂 至 有 市 額 而 瑞 香 不 有 市 額. 縣 官 供 稱 東 鄂 社 有 會 市 納 稅 而 瑞 香 不 有 會 市 納 稅. 雖 有 須 知 簿, 未 有 全 信. 并 瑞 香 社 所 供, 既 曰 市 酣 又 曰 債 市, 至 八 年 始 告 會 市. 雖 《天 南 餘 暇 》 有 曰 債 市, 但 不 知 屬 在 某 社. 并 累 經 年 代, 未 曾 會 市, 涉 於 口 說 朦 朧, 無 有 憑 據. 且 查 前 例, 或 一 里 置 一 市, 或 三 里 置 一 市. 不 得 私 自 會 市, 懼 民 之 有 爭 心. 今 查 東 鄂 社 與 瑞 香 社 本 相 連 接. 其 東 鄂 社 既 有 舊 額 市 會 而 瑞 香 社 托 以 遠 憑, 欲 與 東 鄂 社 相 對 會 市. 非 但 違 例 又 以 啟 爭. 為 此 備 相 所 勘 得 市 額 事 由, 具 本 題 伏 乞 前 項 市 額 還 東 鄂 社 常 會, 聽 市 民 得 便 買 賣. 其 瑞 香 社 不 有 市 額, 停 會 市. 府 縣 官 撤 去 前 所 插 立 瑞 香 社 碑, 是 以 息 民 爭. 若 瑞 香 社 原 有 飯 肆 行 人 宿 泊. 且 仍 前 本 年 月 初 七 日 奉 敕 旨 定. 十 年 正 月 初 九 日, 慈 廉 知 縣 阮 維 允, 縣 丞 阮 伯 宰 等 備 抄 送 東 鄂 社 照 依 遵 欽 施 行. 得 此 鄉 老 正 長 徵 余 製 詞 刻 石 傳 之 永 久. 余 不 顧 淺 陋 乃 為 之 記 曰: 《天 南 餘 暇 》, 慈 廉 縣 市 額 有 十, 東 鄂 社 其 一. 前 朝 累 至 國 朝 遞 年 常 會. 此 其 額 舊 矣, 則 古 人 立 法, 正 所 以 塞 他 爭 之 心. 日 老 爭 訟 事 由 有 本 道 上 司 等 衙 門 奉 勘 還 額, 欽 遵 照 依, 謹 奉 錄 實 事 由, 刻 之 堅 石 垂 萬 萬 世. 於 是 乎 記.

延 成 萬 萬 年 之 貳, 龍 集 己 卯, 榖 日.

賜 丁 丑 科 進 士 出 身, 茂 林 郎 翰 林 院 撿 討 威 廉 鄂 派 范 壽 祉 鈍 夫 撰.

Bia chợ xã Đông Ngạc

Cổ nhân khi làm ra đồ dùng thường coi trọng cái “tượng”(6). Đầu tiên là Ly, thứ đến là ích, sau đó là Phệ Hạp(7). những điều đó đều nằm trong cái lẽ “thực hóa”(8) mà thôi. Cho nên mới lập ra chợ cốt để dân quy tụ hàng hóa, buôn bán đổi trao. Khiến cho dân đủ của, nước thừa dùng. Đó cũng là một đầu mối của vương chính vậy !

Nay chợ xã ta là nơi phồn thịnh đệ nhất Sơn Tây. Của cải đến ùn ùn, thuyền bè về san sát. Người ta được vui với cái vui ấy, lợi với cái lợi ấy. Há nào lại được đem điều đó ra để xúc xiểm tranh giành !

ấy vậy mà vào niên hiệu Sùng Khang thứ 8 (1573), ngày 26 tháng Ba, người xã Thụy Hương(9) mở chợ họp riêng, đào hào đắp lũy, gây hấn tranh giành. Các viên nhân bản xã đem sự việc cáo lên hai ty Thừa Hiến xin cứu xét. Các quan quý nha là Tham chính Vũ Tịnh(10) và Hiến sát Nguyễn Thanh Tĩnh(11) đã làm đầy đủ văn bản nghị xử khám xét trả về. Niên hiệu Sùng Khang 9 (1574), ngày 12 tháng Năm các quan Thừa ty là Thừa Tuyên sứ Nguyễn Uyên(12) và Hiến sát Vương Bạt Tụy(13) lại khám xét, vẽ bản đồ, làm đầy đủ văn bản để tâu lên là đã vâng lệnh khám xét, trả lại ngạch cũ cho chợ xã. Văn bản này đã tiếp tục khám xét, tham chiếu nguyên do việc hai xã Đông Ngạc và Thụy Hương kiện nhau về ngạch chợ. Tra trong Thiên Nam dư hạ thấy Đông Ngạc nguyên có ngạch chợ mà Thụy Hương không có ngạch chợ. Quan huyện khai Đông Ngạc có họp chợ nộp thuế còn Thụy Hương không có hợp chợ nộp thuế. Tuy sổ sách là cần nhưng cũng chưa thể tin tưởng hoàn toàn. Vả lại lời khai của xã Thụy Hương đã nói là chợ Cam, lại nói là chợ Trái(14) và đến niên hiệu Sùng Khang thứ 8 mới báo việc họp chợ. Tuy Thiên Nam dư hạ có nói đến chợ Trái nhưng không biết là thuộc xã nào. Hơn nữa đã qua nhiều năm xã Thụy Hương chưa từng họp chợ, chỉ là khẩu thuyết mơ hồ, không có bằng cớ. Đồng thời, tra tiền lệ, hoặc một làng cho đặt một chợ, hoặc 3 làng đặt một chợ, không cho tự ý họp chợ, sợ dân có bụng tranh giành. Nay tra thấy xã Đông Ngạc và xã Thụy Hương vốn liền ngay nhau, mà Đông ngạc đã có ngạch cũ về họp chợ còn Thụy Hương thì chỉ dựa vào bằng cớ xa xôi, hòng họp chợ cạnh tranh với Đông Ngạc, chẳng những trái lệ mà còn gây sự tranh giành. Vì vậy mới phải đem những điều khám xét được về nguyên do ngạch chợ, làm đầy đủ văn bản đề đạt lên, cúi xin được theo như ngạch chợ hạng trước đây, cho xã Đông Ngạc trở lại họp chợ như thường để dân chợ được tiện mua bán. Xã Thụy Hương không có ngạch chợ thì phải dừng họp chợ. Quan phủ huyện cho triệt bỏ biển treo trước đây ở xã Thụy Hương, ra cáo thị để ngừng tranh chấp trong dân. Nếu xã Thụy Hương nguyên có hàng quán cho người qua đường ghé trú thì vẫn cứ vâng theo như quy định trong sắc chỉ ngày mùng 7 tháng (mất 1 chữ) năm trước.

Niên hiệu Sùng Khang năm thứ 10 (1575), ngày mùng 9 tháng Giêng, các quan Tri huyện huyện Từ Liêm - Nguyễn Duy Doãn, Huyện thừa Nguyễn Bá Tể sao lại đầy đủ văn bản gửi xã Đông Ngạc kính cẩn chiếu y thi hành.

Được vậy nên các vị hương lão, chánh trưởng trong xã nhờ ta làm bài văn khắc lên đá để truyền lại mãi mãi. Ta không quản nông cạn quê mùa làm bài ký rằng: Trong Thiên Nam dư hạ, ngạch chợ huyện Từ Liêm có 10 thì chợ xã Đông Ngạc là 1. Từ các triều trước trải đến bản triều hằng năm thường họp. Như vậy ngạch đó là có từ cũ rồi ! Cổ nhân lập pháp, cái chính yếu là để ngăn chặn bụng tranh giành. Nguyên do việc tranh kiện ngày nay đã có Nha môn các Thượng ty bản đạo vâng lệnh xét trả lại ngạch chợ để kính cẩn chiếu y thi hành. Kính vâng sao đúng sự thật, khắc vào đá cứng lưu truyền muôn đời. Vậy làm bài ký này.

Vào niên hiệu Diên Thành thứ 2 (1579), ngày lành tháng Kỷ Mão.

Kẻ dốt nát là Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, Mậu lâm Tá lang Hàn lâm viện Kiểm thảo Uy Liêm Ngạc phái Phạm Thọ Chỉ soạn.

Chú thích:

(1) Đông Ngạc xã chí - Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2356.

(2) Những tấm bia này hiện vẫn được lưu giữ tại đình Đông Ngạc.

(3) Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1993, tr.477.

(4) Thiên Nam dư hạ: theo Phan Huy Chú sách gồm 100 quyển. Năm Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông sai các quan phụ trách về văn từ như Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận soạn tập. Sách ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn hàm, điều lệ, cáo sắc... Đại khái phỏng theo lối Hội yếu của các đời Đường, Tống.

(5) Đông Ngạc xã tập biên. Dĩ Thủy Phạm Văn Thuyết. Tác giả xuất bản và giữ bản quyền. SG.1963.

(6) Ở đây có thể hiểu là tính thực dụng. Cũng để chỉ hình dáng của đồ vật.

(7) Tên ba quẻ trong Kinh Dịch, có liên quan đến cái lợi: Bát thuần Ly, Phong lôi ích, Hỏa lôi Phệ Hạp.

(8) Thực hóa: (食 貨) lương thực thực phẩm và hàng hóa. Thiên Hồng phạm sách Hán thư chép: “Bát chính”: nhất viết Thực, nhị viết Hóa, tam viết Tự, tứ viết Tư không...” Vì vậy mà người đời sau thường dùng chữ thực hóa để nói về các vấn đề kinh tế, tài chính của quốc gia (Theo Từ nguyên).

(9) Thụy Hương: tên Nôm là làng Chèm, này là xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

(10) Vũ Tịnh (1525 - ?): người xã Mộ Trạch huyện Đường An, Hải Dương. Đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất niên hiệu Quảng Bảo 9 (1562) đời Mạc Phúc Nguyên, năm 38 tuổi. Từng được cử đi sứ nhà Minh, làm quan đến chức Tả Thị lang, tước Tây Khê bá, khi mất được tặng Thương thư.

(11) Nguyễn Thanh Tĩnh (1520 - ?): người xã Hoa Chử huyện Tây Quan, nay thuộc xã Thụy Duyên, Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, 46 tuổi đậu Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Sửu niên hiệu Thuần Phúc 4 (1565) đời Mạc Mậu Hợp.

(12) Nguyễn Uyên (?-?): người xã Kim Bài huyện Thanh Oai, nay là thôn Kim Bài xã Kim An huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Con Nguyễn Tuệ, chú Nguyễn Huyễn. Đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan đến chức Hàn lâm, từng được cử đi sứ nhà Minh. Còn một ông Nguyễn Uyên nữa, sinh năm 1525 - ? người Hưng Hà, Thái Bình. Đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo 2 (1556) đời Mạc Phúc Nguyên. ở đây chưa rõ là Nguyễn Uyên nào ?

(13) Vương Bạt Tụy (1532 - ?): người xã Hồng Lục huyện Gia Phúc, 31 tuổi đậu Đệ nhị giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất niên hiệu Quang Bảo (1562) đời Mạc Phúc Nguyên làm quan đến chức Thừa Chánh sứ.

(14) Chợ Trái (債 市): chưa hiểu đây là tên chợ hay một loại chợ được quy định trong Thiên Nam dư hạ. ở đây chúng tôi tạm dịch, chờ tra cứu thêm.

TB

TÌM THẤY HAI ĐẠO SẮC
THỜI HỒNG ĐỨC

THÙY VINH

Năm 1995, hai tác giả Chu Quang Trứ và Cung Khắc Lược có giới thiệu trên Tạp chí Hán Nôm một đạo sắc thời Mạc niên hiệu Sùng Khang 9 (1573), và cho đến thời điểm đó đạo sắc này được coi là cổ nhất ở nước ta mới được phát hiện(1). Nhưng đạo sắc này lại là sắc cho ngôi đền thờ vị thần ở đó chứ không phải sắc trực tiếp phong cho chính vị thần được thờ trong đền.

Mùa thu năm 1999 tôi và anh Lâm Giang được cử về huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình để sưu tầm tư liệu Hán Nôm. Khi đến đền Quang Lang thôn Quang Lang xã Thụy Hải huyện Thái Thụy, chúng tôi đã được các cụ trông coi di tích cho xem các tài liệu Hán Nôm còn lưu giữ tại đây. Thật là bất ngờ khi chúng tôi thấy tại ngôi đền này còn giữ được rất nhiều đạo sắc cổ, trong đó có hai đạo sắc niên đại Hồng Đức - Lê Thánh Tông.

Trước khi giới thiệu kỹ hai đạo sắc, thời Hồng Đức mà chúng tôi vừa tìm thấy, xin nói qua đôi nét về ngôi đền và thôn Quang Lang.

Thôn Quang Lang trước đây là xã Quang Lang thuộc tổng Hổ Đội huyện Thụy Anh phủ Thái Bình trấn Sơn Nam Hạ. Ngày nay thôn Quang Lang là một làng nhỏ ven biển, cách thị trấn Diêm Điền chừng 6km. Thôn Quang Lang hiện nay còn hai di tích liên quan đến hai lễ hội lớn của làng, một là miếu thờ bà chúa Muối, bà là Đệ tam Cung phi của vua Trần Anh Tông. Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 4 âm lịch, dân thôn Quang Lang lại tổ chức lễ hội “ông Đùng bà Đà” để tưởng nhớ đến bà. Di tích thứ hai là miếu Tam thôn, nhưng thực ra phải gọi là đền mới đúng, bởi trên chính giữa nóc mái của di tích này có đắp nổi hai chữ Hán 正 祠 chính từ, vậy phải hiểu đây là đền thờ chính, vì từ là đền, chính từ là đền thờ chính. Ngôi đền đặt ở giữa làng, cách biển gần 1 km, dân địa phương vẫn gọi là miếu Tam thôn vì cả ba thôn trong xã Thụy Hải đều thờ vị Thành hoàng làng Quang Lang. Nhưng theo tài liệu mới nhất vừa xuất bản(2), tác giả Nguyễn Thanh cho biết: miếu Tam thôn là nơi thờ Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Tây Hải Đại Vương, và Thành hoàng làng là Nguyễn Hãng. Tác giả cũng cho biết Thành hoàng làng Nguyễn Hãng trước đây được thờ ở đền Các Lái nhưng đền đã bị phá hỏng nên mới đưa về thờ ở đây. Ngôi đền này theo các cụ trong ban quản lý di tích cho chúng tôi biết, là từ cổ tới nay vẫn tọa lạc trên vị trí như hiện nay. Kiến trúc của ngôi đền thì hoàn toàn mới vào thời Nguyễn và có tu bổ trong thời gian gần đây. Hiện ngôi đền mang chức năng như một ngôi đình làng với 5 gian phía trước và hậu cung phía sau. Chúng tôi nói ngôi đền này mang chức năng như một ngôi đình làng ở chỗ ngoài việc thờ thần và Thành hoàng làng thì đây là chỗ tụ hội để bàn định việc làng. Trong đền có nhiều hoành phi câu đối, đáng chú ý là có một đôi câu đối của tướng quân Tạ Hiện đề trước hậu cung thờ Thành hoàng làng. Tướng quân Tạ Hiện là người của thôn Quang Lang và cháu ông là Tạ Quốc Luật, người cắm cờ trên nóc hầm tướng Đờ Cát, cũng là người của thôn này. Từ xa xưa, làng Quang Lang đã có hội rước nước cầu ngư được mở vào ngày mồng 10 tháng bảy Âm lịch và thường kéo dài ba ngày, ngày 11 là chính hội, và ngày đó được coi là ngày đại lễ của cả làng. Tục rước nước cầu ngư nguyên trước đó được tổ chức tại đền Các Lái, nhưng từ khi đền bị phá, nghi thức này được đưa về làm ở miếu Tam thôn. Ngày mở lễ hội là ngày hóa của Thành hoàng làng. Từ sáng sớm người được chọn cầm bình đi lấy nước vào làm lễ xin Thánh cho dân làng “rước nước năm trước hưởng lộc năm sau”. Người cầm bình nước có lọng che xuống thuyền ra khơi lấy nước. Khi nước mang về đến bến thuyền, bến cá thì ngư dân đã chực sẵn lễ bái cầu vọng sau đó cùng rước về miếu lễ bái và đặt bình nước vào ngai thờ cho đến năm sau. Khi nghi thức rước nước ở ngoài khơi đã xong, trên đường quay trở về, dân làng Quang Lang đã trình diễn nghề gieo ống đánh cá trên biển. Đây là một sáng tạo độc nhất vô nhị của ngư dân vùng ven biển Thái Bình. Ngư dân Quang Lang đã tạo ra hình thức gieo ống để lùa cá vào lưới bằng kinh nghiệm riêng của mình. ống là những cây luồng đại dài khoảng 8m, đường kính ống khoảng 25 - 30cm. Khi đi đánh cá, ống được xếp ở hai bên mạn thuyền, tới khoảng nước có thể triển khai thả lưới, giăng lưới xong, người gieo ống ngồi quặp hai đùi vào ống, tay cầm chiếc sào dài khoảng 7 - 8m, người trên thuyền đẩy ống xuống mặt nước, dùng sào đập nước khua cá theo đội hình chữ V và các ống khép dần vòng vây xua cá vào lưới.

Theo thần tích còn giữ được tại đền thì ngôi đền làng Quang Lang thờ Quang Linh Phổ Hựu Quảng Lợi Mậu Trạch Tuyên Tế Tĩnh Ba Hầu Đại Vương, vị thần này tên là Hãng hiệu là Quảng Lợi. Ông là một vị tướng phụ trách thủy quân thời nhà Đinh. Cùng với Nguyễn Bặc và Đinh Điền ông là trợ thủ đắc lực của vua Đinh Tiên Hoàng. Trong một trận chiến quyết liệt ở vùng Sơn Tây ông đã bị thương nặng rồi ôm cây ngô đồng mà hóa. Cây ngô đồng theo dòng nước chảy về đến vùng biển thôn Quang Lang thì dừng lại không đi. Dân thôn thấy thế bèn vớt lên tạc thành bộ ngai thờ ông. Kể từ đó ông đã phù hộ cho dân sở tại trong nghề đánh bắt tôm cá trên biển và cuộc sống của dân ngày một sung túc, ấm no. Các triều vua khi đi đánh giặc qua vùng này cầu đảo đều linh ứng. Vua Trần Nhân Tông đã ban cho ông sắc phong với mỹ tự là: Quảng Linh Phổ Hựu Phục Thánh Hộ Quốc Tế Thế Huệ Trạch Giao Hải Đại Vương. Vua Lê Thái Tổ sau khi dẹp xong giặc Minh đã phong cho ông là Phổ Tế Cương Nghị Anh Linh Đại Vương.

Trên đây là tóm tắt những điều mà thần tích đã ghi lại, nhưng thực tế ở ngôi đền này còn giữ được bao nhiêu sắc phong của các triều vua ? Chúng tôi đã giở kiểm tra tất cả các đạo sắc được cất giữ rất cẩn thận trong các hòm đựng sắc phong. Phải nói rằng cá nhân tôi chưa bao giờ được nhìn thấy ở nơi nào có các hòm đựng sắc phong cổ kính và có nhiều lớp hộp đến như vậy. Đầu tiên là một hộp to hình tròn có đường kính khoảng 60cm, bên ngoài hộp có phết sơn ta màu cánh gián, nổi bật trên lớp sơn đó là hình rồng. Khi mở hộp đó ra, ở bên trong có 3 hoặc 4 hộp nữa có đường kính khoảng 20cm cũng được sơn màu cánh gián. Mở tiếp các hộp này, bên trong có những ống đựng sắc dài mà chúng ta vẫn hay gặp ở các vùng khác. Có tất cả là 32 đạo sắc phong qua các thời kỳ khác nhau trong lịch sử, kéo dài từ triều Hồng Đức nhà Lê đến triều Tự Đức nhà Nguyễn. Số sắc phong được ban cấp qua các triều đại cụ thể như sau:

- Triều Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức ban cấp 2 đạo sắc: năm Hồng Đức 23 (1492) ban cho một đạo, năm Hồng Đức 28 (1497) lại ban tiếp một đạo nữa.

- Triều Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống 7 (1504) ban cấp một đạo.

- Triều Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận 2 (1510) ban cấp hai đạo.

- Triều Lê Cung Hoàng niên hiệu Thống Nguyên 2 (1523) ban cấp một đạo.

- Triều Mạc Đăng Dung nên hiệu Minh Đức 1 (1527) ban cấp một đạo.

- Triều Mạc Phúc Hải niên hiệu Quảng Hòa 1 (1541) ban cấp một đạo.

- Triều Mạc Phúc Nguyên niên hiệu Cảnh Lịch 1 (1548) ban cấp một đạo.

- Triều Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Tộ ban cấp hai đạo sắc, một đạo năm Vĩnh Tộ 6 (1624) một đạo năm Vĩnh Tộ 8 (1626).

- Triều Lê Thần Tông niên hiệu Đức Long ban cấp ba đạo sắc, một đạo năm Đức Long 2 (1630) một đạo năm Đức Long 5 (1633) một đạo năm Đức Long 6 (1634).

- Triều Lê Thần Tông niên hiệu Dương Hòa ban cấp ba đạo sắc, một đạo năm Dương Hòa 3 (1637), một đạo năm Dương Hòa 5 (1639) một đạo năm Dương Hòa 8 (1642).

- Triều Lê Chân Tông niên hiệu Phúc Thái ban cấp ba đạo sắc, hai đạo năm Phúc Thái 3 (1645), một đạo năm Phúc Thái 7 (1649).

- Triều Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức 4 (1657) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị ban cấp hai đạo sắc, một đạo năm Cảnh Trị 2 (1664) một đạo năm Cảnh Trị 8 (1670).

- Triều Lê Gia Tông niên hiệu Dương Đức 3 (1674) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa 4 (1683) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Lê Duy Phường niên hiệu Vĩnh Khánh 2 (1730) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng 1 (1740) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Lê Duy Kỳ niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) ban cấp một đạo sắc

- Triều Tây Sơn niên hiệu Cảnh Thịnh 4 (1797) ban cấp một đạo sắc.

- Triều Nguyễn niên hiệu Tự Đức 6 (1853) ban cấp hai đạo sắc.

- Một đạo sắc bị rách phần ghi niên hiệu.

Như thế là trong khoảng thời gian gần 400 năm từ niên hiệu Hồng Đức - Lê Thánh Tông đến niên hiệu Tự Đức triều Nguyễn, đức Thành hoàng làng Quang Lang đã liên tục được các vương triều ban sắc phong. Có một điều đáng lưu ý ở đây là có 3 niên hiệu Hồng Thuận, Phúc Thái Tự Đức trong cùng một năm đã hai lần ban sắc cho thần. Trường hợp này chúng tôi chưa có điều kiện để khảo cứu nguyên nhân, nhưng những trường hợp tương tự như vậy chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp. Ví như tại ngôi đền thờ công chúa Bảo Hoa nhà Trần tại thôn Phất Lộc xã Thái Giang huyện Thái Thuỵ cũng có những đạo sắc được ban ra trong cùng một năm. Đó là vào năm Thiệu Trị 6 (1846) đã ban hai lần sắc: lần thứ nhất là vào tháng 6, nhân dịp mừng thọ Minh Mạng 50 tuổi, lần thứ hai là vào tháng 7 năm đó lại ban thêm cho thần hai mỹ tự nữa để dân thờ cúng. Đây có thể là nhân những dịp trọng đại của đất nước cùng xảy ra trong một năm mà triều đình phong kiến muốn nhân đó để tăng thêm uy tín cho thần nên đã ban sắc nhiều lần.

Dưới đây là tình hình cụ thể về hai đạo sắc thời Hồng Đức.

Đạo sắc năm Hồng Đức 23 (1492) chúng tôi gọi là sắc phong 1, đạo sắc năm Hồng Đức 28 (1497) chúng tôi gọi là sắc phong 2.

* Về chất liệu giấy để ghi sắc phong:

Cả hai đạo sắc đều được viết trên loại giấy màu trắng ngà, mỏng, mịn. Đáng tiếc là cả hai đều đã bị bồi thêm một lớp giấy trắng dày ở mặt sau, chỉ cách vài ngày trước khi chúng tôi về Quang Lang. Dẫu vậy vẫn có thể nhận ra rất rõ chất giấy; nổi rõ trên nền giấy trắng ngà đó là hình các con rồng với những đường viền vàng nhạt mà bằng mắt thường chúng ta cũng có thể nhận ra. Hình dáng rồng mềm mại, rồng xuất hiện ở phía góc trái trên cùng của đạo sắc, đầu rồng chạm vào một góc của dấu ấn; hình một con rồng khác uốn lượn trên khắp trang đạo sắc, nhưng một phần bị chìm khuất bởi chữ viết đè lên. Phía góc trên bên trái của đạo sắc Hồng Đức 23 có hình đầu rồng, phần đầu rồng hướng về hai chữ Hồng Đức là hai chữ đầu của dòng niên đại, tiếp dưới đầu rồng là một dải tua dài mềm mại. ở góc dưới tiếp giáp với hai chữ cuối của dòng niên đại cũng có hình đầu rồng tương tự. Đạo sắc Hồng Đức 23 vẫn giữ được những tua gờ trang trí của một cạnh trên cùng, chúng được tạo bởi những tua nhỏ có khoảng cách đều nhau giống như sóng nước.

Cả hai đạo sắc đều không còn nguyên vẹn, chúng bị rách ở phần đầu mất mấy dòng [tính theo chiều dọc] và rách mất một dòng cuối [tính theo chiều ngang]. Số dòng hiện còn trên đạo sắc Hồng Đức 23 là 10 dòng, nếu kể cả dòng niên đại là 11 dòng; số chữ nhiều nhất ở mỗi dòng là 10 chữ, ít nhất là 3 chữ, toàn bộ đạo sắc có khoảng 100 chữ. ở đạo sắc Hồng Đức 28, số dòng hiện còn cũng là 11 dòng, theo như khoảng cách bị rách với khoảng cách hiện còn của các dòng chữ thì ở văn bản này dòng viết đủ phải có 11 chữ; toàn bộ văn bản 2 có khoảng110 chữ. Như vậy số chữ trên văn bản sắc phong1 ít hơn so với văn bản sắc phong 2.

* Về dấu ấn triện trên hai đạo sắc Hồng Đức:

Đó là bốn chữ Sắc mệnh chi bảo được đóng dấu đỏ từ giữa chữ 洪 hồng đến giữa chữ 年 niên, cách đóng dấu này cũng giống như cách đóng dấu trên văn bằng của Bộ Lại cấp năm Hồng Đức 19 (1488) mà chúng tôi có dịp tham khảo qua bài viết và ảnh chụp ở cuốn sách Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I mục “Những phông tài liệu bằng chữ Hán - Nôm” do Cục Lưu trữ Nhà nước xuất bản năm 1989. Dấu ấn triện của vua với bốn chữ sắc mệnh chi bảo đóng trên dòng ghi niên đại còn rất rõ màu son đỏ. Chúng tôi đã lấy tay miết đi miết lại trên dấu mực son xem có bị bong ra không, song mực dấu bám rất chặt vào giấy và nổi gờ mỏng nhưng chắc chắn.

* Về chữ viết trên lòng sắc phong

Toàn bộ hai đạo sắc được viết bằng chữ Hán theo lối chân phương, rõ nét dễ đọc, không có một chữ Nôm nào trên hai văn bản này. Tuy nhiên kiểu chữ có phần khác so với các dạng chữ được viết trên những đạo sắc về sau. Nếu từ thế kỷ XVII chữ Hán được viết với khổ chữ dài về chiều dọc thì chữ viết trên hai văn bản Hồng Đức lại phình to ra về chiều ngang. So với các kiểu chữ mà chúng tôi đã đọc trên các đạo sắc từ niên đại Hồng Thuận, Thống Nguyên và các đạo sắc thời Mạc có tại chính ngôi đền này thì kiểu chữ trên sắc Hồng Đức viết theo một tự dạng riêng, gây cho người đọc có cảm giác vững chãi khi nhìn xem con chữ.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bản phiên âm, dịch nghĩa hai đạo sắc trên.

· Đạo sắc năm Hồng Đức 23 (1492):

Phần chữ Hán (chúng tôi trình bày số chữ và số dòng theo như văn bản):

豐 物 佑 民 之 貨 靈 應 [ ] [ ]

妙 興 雲 致 雨 之 機 感 浮 [ ]

測 玆 迓 泰 享 之 福 盍 崇 [ ]

帥 之 文 可 加 美 號 曰 光[靈]

廣 賴 匡 德 威 靖 昭 惠 忠 信

文 誠 丕 定 靜 波 宣 濟 侯 尚

其 光 受 寵 章 默 扶 丕 祚 俾

陰 陽 無 愆 無 伏 屨 協 貞 祥

斯 國 家 有 報 有 祈 永 隆 香 火 故 敕.

洪 德 二 十 三 年 八 月 二 十 八 日

Phiên âm:

... phong vật hựu dân chi hóa linh ứng [ ] [ ]

diệu hưng vân trí vũ chi cơ, cảm phù [ ]

trắc, tư nhạ thái hưởng chi phúc, hạp sùng [ ]

súy chi văn, khả gia mỹ hiệu viết: Quang [ Linh ]

Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung Tín

Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Hầu. Thượng

kỳ quang thụ sủng chương, mặc phù phi tộ, tỷ

âm dương vô khiên vô phục, lũ hiệp trinh tường.

Tư quốc gia hữu báo hữu kỳ, vĩnh long hương

hỏa, cố sắc.

Hồng Đức nhị thập tam niên bát nguyệt nhị thập bát nhật.

Dịch nghĩa:

... Khiến cho vật thịnh dân yên, diệu cơ linh ứng, mưa thuận gió hòa, khiến cho sự tin cậy cảm động không sao kể xiết. Nay đón hưởng phúc thái bình sao chẳng lấy lời văn tôn sùng làm chuẩn tắc ? Vì thế gia tặng mỹ hiệu là Quang [linh] Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung Tín Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Hầu. Thần hãy thụ hưởng ánh sáng của văn chương mà ngầm phù giúp cho vận nước được dài lâu, khiến cho âm dương hòa hợp, gặp nhiều điều tốt lành. ấy là quốc gia có báo đáp có cầu phúc, mãi mãi hương hỏa thờ cúng. Vì vậy nên ban sắc.

Ngày 28 tháng 8 năm Hồng Đức 23 (1492).

· Đạo sắc năm Hồng Đức 28

Phần chữ Hán: (chúng tôi trình bày số chữ và số dòng theo như văn bản)

[ ] 鍾 天 地 扶 輿 之 [ ] 炳 山 [ ]

旁 薄 之 靈 參 元 默 贊 於 兩 儀

孔 昭 神 化 必 祀 顯 徵 於 六 祝

丕 迓 邦 休 玆 當 咸 秩 之 初 載

廣 懷 柔 之 典 可 加 美 號 曰 光

靈 廣 賴 匡 德 威 靖 昭 惠 忠 [信]

文 誠 丕 定 靜 波 宣 濟 康 輔 侯

尚 其 洋 洋 歆 享 亹 亹 默 扶 惟

福 祥 茂 著 於 民 依 斯 香 火 [益]

崇 於 歲 祭 故 敕.

洪 德 八 年 五 月 二 十 五 日.

Phiên âm:

[ ] ...

[ ] chung thiên địa phù dư chi [ ] bỉnh sơn [ ]

bàng bạc chi linh, tham nguyên mặc tán ư lưỡng nghi,

khổng chiêu thần hóa, tất tự hiển trưng ư lục chúc,

phi nhạ bang hưu. Tư đương hàm trật chi sơ, tải

quảng hoài nhu chi điển, khả gia mỹ hiệu viết Quang

Linh Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung [Tín]

Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Khang Phụ Hầu.

Thượng kỳ dương dương hâm hưởng, điệp điệp mặc phù, duy

phúc tường mậu trứ ư dân, y tư hương hỏa [ích]

sùng ư tuế tế. Cố sắc.

Hồng Đức nhị thập bát niên ngũ nguyệt nhị thập ngũ nhật.

Dịch nghĩa:

... đất trời chung đúc... sự linh thiêng lan tỏa khắp núi non, tham dự vào việc ngầm phù giúp trời đất, biến hóa khôn lường. Việc thờ cúng nhất định đã được hiển hiện rõ ràng trong sáu điều cúng tế(3) khiến cho vận nước được kéo dài to lớn. Nay [thần] vẫn đang mang hàm trật ban đầu được ghi rộng rãi trong điển Quảng hoài(4), gia tặng thêm mỹ hiệu cho thần là Linh Quang Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung Tín Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Khang Phụ Hầu. Thần ở trên hãy đón nhận mà ngầm phù giúp giáng phúc lành cho dân, theo đó để hương hỏa, tăng thêm sự tôn sùng đối với việc cúng tế hàng năm. Vì thế nên ban sắc.

Ngày 25 tháng 7 năm Hồng Đức 28 (1497).

Như vậy là so với đạo sắc năm Hồng Đức 23 thì đạo sắc năm Hồng Đức 28 đã ghi thêm hai mỹ tự mới cho thần là “Khang Phụ”. Điều này cũng cho thấy đây chính là hai đạo sắc phong cùng ban cho một vị thần và đó cũng là sự tiếp nối liên tục không bị ngắt quãng. Đạo sắc năm Hồng Đức 28 nhắc lại toàn bộ mỹ tự của đạo sắc năm Hồng Đức 23 và còn đầy đủ hơn vì một vài chữ trên đạo sắc 23 bị rách không đọc được thì ở đạo sắc năm Hồng Đức 28 lại còn giữ được, đó là chữ Linh trong dòng mỹ tự. Cũng như vậy, ở đạo sắc 1 lại bổ sung cho dòng mỹ tự của đạo sắc 2 bị rách một chữ, đó là chữ Tín. Trên đạo sắc Hồng Đức 28 có một chữ mà chúng tôi tự khôi phục lại theo một phần chữ hiện còn đó là chữ ích 益. Chúng tôi xin nhắc lại ở đây các mỹ tự của cả hai đạo sắc để bạn đọc dễ tham khảo:

Ở đạo sắc 1 dòng mỹ hiệu là: “Quang [ ] Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung Tín Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Hầu”.

Ở đạo sắc 2 dòng mỹ hiệu là: “Quang Linh Quảng Lại Khuông Đức Uy Tịnh Chiếu Huệ Trung [Tín] Văn Thành Phi Định Tĩnh Ba Tuyên Tế Khang Phụ Hầu”.

Vị thần được nhắc đến ở đây đã giúp dân trong việc cầu đảo cho mưa thuận gió hòa, dân yên vật thịnh. Chính điều này rất phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết và cư dân nông nghiệp của Việt Nam nói chung và ngư dân phía ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.

2 đạo sắc năm Hồng Đức 23 và Hồng Đức 28 còn lại đến ngày nay đã cho chúng ta rất nhiều thông tin quí giá.

- Văn bản sắc phong 1 cho biết chỉ đến năm Hồng Đức 23 tức là năm 1492 vị thần được thờ ở đền Quang Lang mới lần đầu tiên được ban sắc phong mỹ hiệu. Điều này được nhắc lại trong văn bản sắc phong 2 cách sắc phong 1 năm năm, ấy là cho đến thời điểm đó vị thần vẫn mang hàm trật ban đầu “tư đương hàm trật chi sơ” tức “nay vẫn mang hàm trật lúc ban đầu”.

- Chất liệu giấy cũng như những họa tiết hoa văn trên tờ sắc đã chứng tỏ nghề làm giấy để viết sắc phong ở thế kỷ XV đã phát triển với kỹ nghệ rất tinh xảo. Tiếc thay, loại giấy này chỉ sau gần 100 năm đã không còn được sản xuất nữa. Điều này được thể hiện rất rõ trên các văn bản sắc phong có tại ngôi đền thôn Quang Lang hiện nay cũng như ở các địa phương khác. Chất liệu giấy trên văn bản sắc phong từ thế kỷ XVII đến gần cuối thế kỷ XVIII đã dày hơn, độ trắng cũng ít đi, thay vào đó là màu xám nhạt. Còn chất liệu giấy của sắc phong thời Nguyễn thì khác hẳn, với màu vàng sẫm, dày. Hình rồng trên sắc phong thế kỷ XVII, XVIII rất to, khỏe, uốn lượn nhiều vòng. Trên sắc phong thời Nguyễn hình rồng cũng to khỏe với các bờm và móng vuốt trông dữ dội nhưng không rườm rà như trên sắc thế kỷ XVII, XVIII.

- Lời văn trên văn bản sắc phong Hồng Đức so với các loại sắc phong về sau có những điểm khác ở chỗ: cũng dùng những điển tích, điển cố để ngợi khen công đức của thần, nhưng trên văn bản sắc Hồng Đức câu chữ không rườm rà như trên sắc thời Lê trung hưng hoặc Tây Sơn. Cách diễn đạt súc tích, giản dị, không cầu kỳ phô trương. Trên sắc phong thời Nguyễn và thời Lê trung hưng thường hay trình bày nguyên nhân phong sắc mà nguyên nhân này thường là do các vị vua, chúa nhân dịp vui nào đó như mới đảm nhiệm cương vị mới ở chính phủ, nhân dịp sinh nhật vua, hoặc dịp có ngày vui của cả nước (quốc khánh) đó là dịp để ban sắc cho thần. Điều này không thấy xuất hiện trên sắc Hồng Đức. ở đây nguyên nhân chính là do công lao của thần đã phù giúp dân, giúp nước khiến cho dân yên vật thịnh, mưa thuận gió hòa. Trên sắc thời Nguyễn thường hay đưa địa danh nhận sắc lên trên, còn các văn bản sắc phong thời Lê dòng địa danh được ghi ở mặt sau. Tiếc rằng cả hai đạo sắc Hồng Đức không còn được nguyên vẹn từ đầu nên chúng tôi không thể đọc được dòng địa danh và những câu đầu tiên của đạo sắc.

Việc giữ được những đạo sắc có niên đại vào loại cổ nhất ở Việt Nam tại một làng quê miền biển Thái Bình đã cho chúng tôi một niềm hy vọng mới: biết đâu rồi đây chúng ta lại chẳng tìm được những văn bản viết tay hoặc những văn bản in trên giấy có niên đại sớm hơn nữa với nội dung phong phú hơn, góp phần giúp chúng ta nhận biết một cách chân xác về quá khứ của ông cha ta trên các chặng đường phát triển của lịch sử ?

CHÚ THÍCH

(1) Chu Quang Trứ - Cung Khắc Lược: “về đạo sắc Tử Dương thần từ sớm nhất hiện còn” - Tạp chí Hán Nôm số 1/1995.

(2) Nguyễn Thanh: Lễ hội truyền thống ở Thái Bình - Nxb. KHXH. 2000.

(3) Lục chúc: Từ nguyên giải thích là: [Lời đại chúc trong Chu Lễ ] là từ đứng đầu trong 6 điều cầu chúc để thờ cúng quỷ thần.

Nguyên văn: 六 祝: [周 禮 大 祝] 掌 六 祝 之 辭 以 事 鬼 神 示: 一 曰 順 祝, 二 曰 年 祝, 三 曰 吉 祝, 四 曰 化 祝, 五 曰 瑞 祝, 六 曰 莢 祝.

(4) Quảng hoài: chỉ “Hoài nhu”. Từ nguyên giải thích hoài nhu là: lời vời tới mà để có sự bình yên.

Nguyên văn: 言 招 之 來 而 有 以 安 之 也.

TB

VỀ BÀI THƠ CHỮ HÁN CỦA THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ ĐỀ Ở ĐỘNG LONG QUANG (THANH HÓA)

HỒNG PHI - HƯƠNG NAO

Ở phía Bắc thành phố Thanh Hóa, có dãy núi Long Hàm (Hàm Rồng) chạy dài từ Thiệu Dương, thuộc huyện Đông Sơn, uốn khúc như mình con rồng và cuối cùng nổi vọt lên một ngọn núi, gồm nhiều tảng đá lớn xếp chồng lên nhau, tựa như đầu con rồng. Trên ngọn núi này có một cái động đá không lớn lắm, tên chữ gọi là động Long Quang, nghĩa là “Mắt Rồng”. Động có hai lỗ thông về phía phải và phía trái. Mùa mưa nước chảy xuống, màu gạch cua, nên người ta bảo đó là nước mắt rồng.

Động Long Quang nằm ở vị trí có cảnh quan rất đẹp, sát bên bờ sông Mã, ngay cạnh quốc lộ 1A. Hiện trong động còn thấy khắc trên vách đá khá cao một bài thơ chữ Hán của Thiên Nam Động Chủ, tức vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), đề ngày 22 tháng 2, niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1476) và một bài của Thượng Dương Động Chủ, tức vua Lê Hiến Tông (1461 - 1504), đề vào năm Cảnh Thống bài thứ 4 (1501)(1).

Bài thơ của Lê Thánh Tông chữ khắc còn khá rõ. Từ xưa đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và giới thiệu trên các sách báo. Mới đây, khi chúng tôi đem thang thấp, rồi thang cao trèo lên tận nơi, đối chiếu từng chữ, từng nét khắc trên đá với những bài đã được công bố, thì phát hiện thấy còn xuất nhập một số chữ . Xin được dẫn ra đây để bạn đọc cùng tham khảo.

Nguyên văn như sau:

Phiên âm:

Đề Long Quang động tịnh dẫn

Dư yết bãi sơn lăng, du du phản bái. Thời hà sơn chiếu noãn, hoa thảo điêu xuân, thiều đệ quy đồ, thích kinh thạch động, nãi xả chu đăng ngạn, bộ thạch lâm cao, lam thúy trích y, cầm thanh nhập nhĩ, thi hoài tuyền dũng, dã hứng phong sinh, tứ vận câu thành, vĩnh lưu vu thạch.

Thời Hồng Đức chi thất, nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật dã.

Thi vân:

Thúy vi hữu địa khả bồi hồi,
Vọng viễn đăng cao vũ trụ khôi.
Khước nhạ cáo thành phong ngọc kiểm(2),
Thù tri thất lộ nhập Thiên Thai.
Nhàn vân mãn địa vô nhân tảo,
Hư thất lăng tiêu trấn nhật khai.
Yểu điệu giản cùng lâm tận ngoại,
Thời yêu hoàng ốc thúy hoa lai.

Thiên Nam Động Chủ đề.

Dịch nghĩa:

Đề động Long Quang và bài tiểu dẫn

Trẫm bái yết Sơn lăng xong, bóng cờ ra về phấp phới. Bấy giờ, sông núi dưới ánh mặt trời sưởi ấm, hoa cỏ xanh tươi, cảnh xuân như vẽ. Trên bước đường về, bỗng qua động đá, liền rời thuyền lên bờ, bước theo lối đá lên cao, hơi rừng bốc lên đẫm áo, tiếng chim líu lo bên tai, hồn thơ lai láng, tình quê dạt dào, liền làm bốn vần để mãi mãi lưu lại trên vách đá.

Lúc đó là ngày 22 tháng 2, niên hiệu Hồng Đức 7 (1496)

Thơ rằng:

Cảnh đẹp trên sườn núi xanh, khiến lòng ta bồi hồi xao xuyến,

Lên cao nhìn ra xa thấy đất trời rộng lớn bao la.

Những nghĩ rằng làm lễ cáo Tiên tổ xong, mở tráp ngọc xem xét những di huấn của vua cha căn dặn, niêm phong rồi ra về.

Nào ngờ lại lạc lối đi vào chốn Thiên Thai này.

Mây trôi lơ lửng ngập đất không người quét,

Động rỗng vượt tầng không suốt ngày ánh mặt trời soi.

Cảnh đẹp kéo dài mãi tới tận ven rừng, chân suối,

Thi thoảng lại mời xa giá nhà vua đến thăm !

Thiên Nam Động Chủ đề.

Tạm dịch thơ:

Sườn non xanh biếc dạ bồi hồi,
Xa ngắm bao la cảnh đất trời.
Những tưởng lễ rồi phong tráp ngọc,
Nào ngờ lạc lối tới Thiên Thai.
Mây nhàn ngập đất không người quét,
Động vút tầng không ánh nắng soi.
Sóng cuốn ven rừng duyên dáng lượn,
Như mời hoàng thượng đến thăm chơi
(Hồng Phi phiên âm và tạm dịch)

3. So bản khắc trên vách động Long Quang, với một số bản khác chép trong sách, chúng tôi thấy có những chỗ khác nhau sau:

Bản khắc trong động
Long Quang
Bản “Lê Thánh Tông
thơ văn và cuộc đời”
(3)
Bản “Địa chí thành phố
Thanh Hóa”
(4)
a. Phần tiểu dẫn:
- Yết bái
- Bái yết - Du bái yết
- Du du phản bái - Du du nghịch sóc bái - Du phản thi thi
- Hà sơn chiếu noãn - Sơn hà chiếu noãn
- Hoa thảo điêu xuân - Thiếu 4 chữ: “Hoa thảo điêu xuân”
- Thiều đệ qui đồ - Thiều đệ khách đồ - Cấu đệ qui từ
- Bộ thạch lâm cao - Bộ thạch đăng cao - Bộ thạch lãm cao
- Lam thúy trích y - Phong lộ thích y - Phong thủy trích y
- Cầm thanh nhập nhĩ - Ly thanh nhập nhĩ
- Dã hứng phong sinh - Nhã hứng phong sinh - Đô dung phong sinh
- Tứ vận câu thành - Tứ vận tiện thành
- Thời Hồng Đức chi thất nhị nguyệt, nhị thập; nhị nhật giã. Thi vân: - Hồng Đức bát niên
b - Phần thơ:
- Câu 4: Thù tri
- Thù phi - Thù phi
- Câu 6: Hư thất lăng tiêu - Hư thất lăng không - Hư thất lăng tiên
- Câu 8: Đặc yêu - Thời yêu - Đọc yên

Bài thơ của vua Lê Thánh Tông đề ở động Long Quang, cách nay đã trên 500 năm. Nhiều nhà nghiên cứu đã đọc, dịch và cho công bố. Nhưng đến nay hai lần bắc thang xem lại, đọc kỹ từng chữ, đối chiếu với vài văn bản in, chúng tôi vẫn thấy một số khác biệt, xin ghi lại như trên để tham khảo.

H.P-H.N

CHÚ THÍCH:

(1) Bài thơ của Lê Hiến Tông sẽ xin giới thiệu sau. Sự kiện đi bái yết sơn lăng vào năm Hồng Đức 7 (1496) này của vua Lê Thánh Tông, sách Toàn thư có chép.

(2) Tráp ngọc để lời di huấn của Lê Thái Tổ răn dạy con cháu, cất tại Lam Kinh (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Các vua sau mỗi lần về bái yết Sơn lăng thì mở tráp xem, rồi đóng kín lại, nên mới dùng chữ: Phong ngọc kiểm.

(3) Mai Xuân Hải tuyển chọn, biên soạn. Nxb. Hội Nhà văn Hà Nội, 1998.

(4) Nxb. Văn hóa Thông tin 1999.

TB

BÀI VĂN BIA DO VUA MINH MỆNH NGỰ CHẾ HIỆN LƯU GIỮ TẠI CHÙA
THÚY VÂN

TRẦN THỊ THANH

1. Vài nét về chùa Thánh Duyên và bài văn bia do vua Minh Mệnh làm.

Chùa Thúy Vân hay Thánh Duyên (tên dân gian thường gọi là chùa Túy Vân hoặc Túy Ba; chữ "Túy" đúng ra phải đọc là "Thúy") tọa lạc trên ngọn núi Thúy Vân nổi lên giữa đầm nước mặn Cao Đôi (đầm Cầu Hai). Muốn tới đó, chúng ta sẽ từ thành phố Huế xuôi theo đường quốc lộ số 1 vào Nam khoảng gần 30 km tới đầm Cầu Hai ở gần cửa Tư Dung - nơi Lê Thánh Tông đã từng qua và làm thơ vịnh cửa biển này (nay là cửa Tư Hiền thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế).

Núi Thúy Vân nằm trong chi nhánh Hải Vân Sơn thuộc hệ Trường Sơn chạy ra tận biển. Cảnh sắc ở đây nhìn xa như một bức tranh thủy mặc. Vì vậy chùa Thúy Vân nằm trên ngọn núi này được vua Thiệu Trị xếp vào cảnh thứ 9 trong 20 thắng cảnh của đất Thần Kinh. Chùa do chúa Nguyễn Phúc Chu dựng và về sau được vua Minh Mệnh cho trùng tu lại. Do vậy nó cũng là một trong ba ngôi quốc tự ở Thuận Hóa.

Ngôi chùa này có hai tấm bia. Tấm bia thứ nhất dựng trong nhà bia ở dưới chân núi có tên là "Vân Sơn thắng tích" do vua Thiệu Trị viết vào năm 1841. Tấm bia thứ hai đề là "Ngự chế" bao gồm 4 bài thơ, xen kẽ mỗi bài thơ là những đoạn văn chú thích cho rõ nghĩa, do vua Minh Mệnh viết và được khắc vào năm 1837. Tấm bia này được dựng ở nhà bia trong chùa. Bia cao 1,72m, rộng 0,84m, dày 0,25m. Trán bia chạm lưỡng long triều nguyệt, riềm bia chạm hình hoa lá. Nội dung bia viết lý do vua Minh Mệnh cho tái thiết chùa, giới thiệu toàn cảnh chùa, ca ngợi cảnh đẹp chùa. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ bài văn bia này.

2. Phiên âm, dịch nghĩa, chú thích bài văn bia.

Phiên âm:

Thánh Duyên tự chiêm lễ.
(Bát vận)
Tàn khuyết tích cơ tận,
Trang nghiêm kim nhất tân.

(Thử sơn tích thời tự vũ thậm đa, giai Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế sở kiến. Hậu kinh Tây Sơn tàn tặc hủy cơ tận. Khứ niên tằng kinh lâm hạnh, niệm danh sơn thắng tích bất khả luân một vô truyền. Huống thử xứ thị ngã Hoàng Tổ vi thần dân kỳ phúc. Thả khai niên vi Thánh mẫu Hoàng Thái hậu thất tuần đại khánh. Viên quảng thôi từ niệm sung khuếch Thánh Duyên, ư thị niên thu cát thần vu cựu chỉ kiến tự, danh: Thánh Duyên tự, Ngôn Hoàng Tổ lưu tích dã. Cố dư sở chế đối liên vân:

Thánh tức thị Phật, Phật tức thị Thánh, hữu thị Thánh phương khai Phật pháp chi sùng thâm,

Duyên bản hữu Nhân, Nhân bản hữu Duyên, hữu thị Nhân nãi khuếch thiện Duyên chi quảng bị.

Hựu ư kỳ hậu sơn yêu kiến nhất các danh Đại từ các. Phật ư sơn điên kiến nhất tháp danh Điều Ngự tháp. Bản niên chính nguyệt cáo thành, kính phụng chư thiên tôn Phật. Nẵng dĩ xuân sơ vị hạ lâm hạnh, tư tam xuân hòa sướng, vạn cơ sảo hạ, thân dịch an dư đăng tư danh thắng. Huy hoàng điện vũ bảo tướng trang nghiêm. Duyệt dịch Thánh tâm, khang cường bộ lý, cố dự du viết: "Hoàng đế khả vị thiện kế thiện thuật hỹ". Dư tiểu tử tạ bất cảm đương. Đản năng thượng phó Hoàng tổ chi thiện tâm, thứ duyệt Hoàng mẫu chi từ niệm, dụ kỳ Thánh mẫu hà linh thượng thọ, gia quốc an ninh, hạ ký thần dân hàm mông khang thái, niên phong hà thuận, nội tĩnh ngoại an, thực dư chi tố nguyện giả dã).

Tường quang ngưng bảo tướng,
Tuệ nhật huyến kim thân.
Bối ỷ Thúy Sơn kiểu,
Diện lâm tiểu hải tân.

(Tức Hà Trung hải nhi)
Tùng quan hoa tiếu khách,
Thạch kính điểu nghênh nhân.
Khánh vận xuyên lâm hưởng,
Kinh thanh nhiễu thụ tần.
U nham ứng thắng họa
Diệu cảnh khả di thần.
Khấu trúc kỳ từ thọ,
Đảo cầu phúc tử dân.
Cảm vân năng hậu thuật,
Đản đắc xiển tiền nhân.

Đại từ các.
Cao các cứ sơn yêu,
Phủ quan cảnh sắc nhiêu.
Đăng lâm du bách cấp,
Tuấn trĩ tủng tằng tiêu.
Nam liệt quần phong củng,
Bắc lai đại hải triều.
U lâm thụ mật mật,
Khúc kính lộ điêu điêu.
Hoa vũ bán không lạc,
Hương phong ngọ nhật phiêu.
Chân như cư thắng địa,
Kim bảng đại từ tiêu.

Đăng Điều Ngự tháp.
Nguy nga bảo tháp cứ sơn điên,
Thập cấp nhi đăng khởi quyện yên.
Tứ diện hà quan lâm đại địa,
Tam tằng cao súc lập trung thiên.
Vĩnh lưu Điều Ngự thiên thu tại,
Thường chuyển pháp luân vạn cổ truyền.

(Điều Ngự tháp thượng kiến đồng trục pháp luân. Luân giai chuyết linh, nhập phong thường chuyển, viễn cận thính văn. Hựu tháp vi tam tằng: Thượng, phụng Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Tây Thiên Cực Lạc Pháp Vương; trung, phụng Nhân Gian Điều Ngự Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn; hạ, phụng Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diêm La Chủ Tể. Trung Thiên Điều Ngự nãi Pháp Vương chi hiệu, sự kiến kinh văn. Kỳ nhị, nãi dư chi ý kiến sáng thủy dã. Hựu như Địa Phủ Điều Ngự U Huyền diệc bất tất thuyết. Chí như Nhân Gian Điều Ngự nhi hiệu dĩ Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn, hoặc vấn diệc hữu thuyết hồ ? Viết hữu phù. Nhân thế chi quân như Nghiêu Thuấn chi chí Thánh, dĩ chí Nam Bắc lịch triều vi nhân chủ nhi năng đức trạch cập nhân, hậu thế mông phúc hựu vô tàm đức khả chỉ, tắc Thích gia chi sở vị Phật, Nho gia chi sở vị Giác, tắc pháp chi dĩ vi sư biểu. Phụng chi dĩ úy quần sinh, hữu hà bất khả, nhi ư lý lượng diệc bất bội).

Nội điển vị am thông Diệu đế
Thiện tâm sung khuếch ngộ chân thuyên.

Thúy Hoa sơn hành cung tức cảnh.
(Lục vận)
Tường hậu ỷ sơn lộc,
Song tiền lâm thủy biên.
Thái đầu thốn Bắc hải,
Đối đỉnh kình Nam thiên.

(Linh Thái sơn đầu hướng Bắc dĩ lâm hải. Cao Đôi sơn tại Miêu Ngạn chi Nam. Kỳ cao Kinh kỳ vô hữu tỉ giả).

Túng mục hà quan thậm,
Ngô tâm khôi khuếch nhiên.
Thử khí dĩ tiềm quyên,
Thanh phong tài sạ chí,
Nhai thụ như vân ấm,
Lâm hoa đắc vũ tiên.
Chung thanh bán dạ hưởng.
Ngọ nhật phạn âm tuyên.

Minh Mệnh thập bát niên Đinh Dậu tam nguyệt cát nhật cung tuyên.

Dịch nghĩa:

Ngự chế
Dự lễ chùa Thánh Duyên
(Tám vần)
Xưa đổ nát gần hết,
Nay hầu hết trang nghiêm
Hào quang ngời bảo tướng,
Tuệ nhật sáng kim thân.(1)
Lưng dựa núi Thúy Vân,
Mặt hướng về biển cả
Cửa tùng hoa mừng khách,
Lối đá chim đón người.
Khánh rung xuyên rừng rậm
Tiếng kinh rộn hàng cây.
Núi sâu đẹp như vẽ,
Cảnh đẹp vui lòng người.
Khấu đầu chúc thọ mẹ,
Cầu đảo phúc con dân.
Đâu dám xưng hậu thuật(2)
Chỉ cốt rạng tiền nhân(3)

* (4) Thời xưa núi này chùa rất nhiều, đều do Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế(5) xây dựng. Về sau trải qua nạn giặc Tây Sơn, nơi đây bị tàn hủy gần hết. Năm ngoái ta đi kinh lược tới đây, nghĩ rằng: danh sơn, thắng tích không thể để mai một mà không truyền lại. Huống chi đây là nơi Hoàng Tổ của ta làm ra để cầu phúc cho thần dân, vả lại đầu năm sau là đại lễ mừng thọ bảy mươi tuổi cho Thánh mẫu Hoàng thái hậu, vì nhớ nghĩ đến mẹ nên đẩy mạnh việc mở rộng Thánh Duyên. Vào dịp tốt mùa thu năm đó ở nền cũ xây chùa rồi đặt tên là: “Thánh Duyên tự”, ý nói rằng Hoàng Tổ lưu dấu tích ở đây, cho nên ta đặt ra câu đối rằng:

“Thánh tức là Phật, Phật tức là Thánh, có Thánh ấy mới mở ra sự cao sâu của Phật pháp.

Duyên vốn có Nhân(6), Nhân vốn có Duyên, có Nhân đó mới khuếch trương sự đủ đầy của thiện duyên.”.

Lại ở sau đó trên lưng chừng núi cho xây một cái gác tên là “Đại từ các”. Lại nữa, ở trên đỉnh núi xây một cái tháp tên là “Điều Ngự tháp”. Vào tháng Giêng năm này cũng đã hoàn tất để cung kính phụng thờ chư thiên tôn Phật. Hồi đầu mùa xuân, vì chưa rảnh rỗi đến đây. Nay là tháng ba tiết trời mùa xuân mát mẻ, vạn việc triều chính vơi bớt, ta mới thân hành dìu mẫu thân lên danh thắng này, thấy điện vũ huy hoàng, bảo tướng trang nghiêm. Trong lòng Thánh mẫu vui vẻ, khỏe khoắn bước chân, liền quay lại dạy ta rằng: “Hoàng đế có thể nói là người giỏi kế tục những việc làm tốt của các vị tiên vương đặt ra vậy”. Ta là phận làm con chỉ biết cảm tạ mà không dám nhận lời ban khen. Chỉ cốt trên thì phụ giúp hoàn thành thiện tâm của Hoàng tổ, thứ đến là làm đẹp lòng Thánh mẫu, cầu mong cho Thánh mẫu được thượng thọ sống lâu, quốc gia đươc an bình, dưới thì thần dân được khang thái, mùa màng tươi tốt, sông nước thuận hòa, nội tĩnh ngoại yên, đó thực là ý nguyện vốn sẵn từ trước của ta vậy.

* Tức biển Hà Trung.
Đại từ các
Gác cao dựa lưng núi
Cúi nhìn cảnh sắc nhiều.
Vượt lên cao trăm bậc,
Núi thẳm vờn mây trời.
Phía Nam ngàn núi phục,
Phía Bắc biển rộng chầu,
Rừng sâu cây rậm rạp,
Quanh co lối dẫn vào.
Lưng trời mưa hoa tụ,
Giữa trưa gió cuốn hương.
Chân như(7) nơi thắng địa
Bảng vàng đề “Đại từ”
Lên tháp Điều Ngự
Bảo tháp nguy nga tận núi cao
Mười bậc trèo lên há mỏi sao,
Bốn mặt mênh mông ngàn đất rộng,
Ba tầng chọc thẳng giữa trời cao.
Điều Ngự ngàn thu còn lưu dấu,
Pháp luân thường chuyển vạn cổ truyền
Nội điển(8) chưa am, thông diệu đế (9)
Thiện tâm rộng mở hiểu chân thuyên(10)

* Trên tháp Điều Ngự dựng trục pháp luân bằng đồng. Bánh xe đều gắn chuông. Đến lúc gió thổi vào, bánh xe chuyển động và phát ra tiếng, xa gần đều nghe thấy. Lại nữa, tháp xây ba tầng. Tầng trên thờ Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Tây Thiên Cực Lạc Pháp Vương. Tầng giữa thờ Nhân Gian Điều Ngự Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn. Tầng dưới thờ Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diêm La Chủ Tể. Trung Thiên Điều Ngự là hiệu của vị Pháp Vương, sự tích này thấy trong Kinh văn. Thứ hai theo ý của ta, thấy đây là vị đầu tiên sáng lập ra đạo Phật. Còn về Địa Phủ Điều Ngự U Huyền khỏi phải nói cũng rõ. Đến như Nhân Gian Điểu Ngự mà hiệu là Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn, hoặc có người hỏi có thuyết nào nói không ? Thưa rằng, có thể đấy. Các vị vua trên thế gian chí thánh như hai ông Nghiêu, Thuấn cho đến các triều đại Nam Bắc (hễ ai) làm chủ thiên hạ mà ban ơn đức đến cho mọi người, để cho đời sau chịu phúc mà không có điều gì đáng hổ thẹn, chê trách, người như thế thì Thích gia gọi là Phật, Nho gia gọi là Giác, còn Pháp gia gọi là Thầy. Phụng sự các vị ấy để an ủi quần sinh, thì có gì không được. Xét về lý thì cũng chẳng có gì sai trái.

Thúy Hoa sơn hành cung tức cảnh.
(Sáu vần)
Sau tường dựa chân núi,
Cửa sổ sát bờ nước
Non Thái nuốt Bắc hải.
Núi Đôi chạm nam thiên
Mắt phóng xa nhìn ngắm,
Lòng vui mở mang nhiều.
Gió mát từ đâu thổi,
Khi nóng đã dần tiêu.
Sườn núi cây mây phủ,
Rừng hoa được mưa tưới.
Nửa đêm tiếng chuông vọng,
Giữa trưa kinh chùa vang.

* Núi Linh Thái đầu hướng ra phía Bắc cho tới biển. Núi Cao Đôi nằm ở phía Nam của Miêu Ngạn, đây là ngọn núi cao ở chốn Kinh kỳ mà không núi nào có thể sánh bằng.

Cung kính khắc vào ngày tốt tháng ba năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mệnh thứ 18.

T.T.T

CHÚ THÍCH:

(1) Kim thân: giống như kim tướng. Những chữ này đều chỉ Phật hoặc tướng Phật. Trong truyền thuyết của Trung Quốc có nói: Hán Minh Đế nằm mộng thấy Phật bằng vàng nên khi tỉnh dậy liền cho người đến Nguyệt Thi quốc thỉnh tượng Phật về thờ, lấy kinh điển rồi vời tăng già về tu tập.

(2) Hậu thuật: tiếp nối phát triển sự nghiệp đời trước.

(3) Tiền nhân: nhân duyên đời trước.

(4) Những phần nguyên chú của chính văn trong văn bia chúng tôi ký hiệu bằng dấu * đồng thời đưa xuống cuối mỗi bài.

(5) Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế: là Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) là vị chúa thứ sáu trong chín vị chúa của triều Nguyễn. Khi lên ngôi chúa, ông lấy hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân, khi mất được truy tôn là Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế.

(6) Nhân duyên: Phật giáo cho rằng mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp sinh ra. Từ hải giảng nhân là thế mạnh, trực tiếp, duyên là thế lực yếu, gián tiếp. Giống như trong việc trồng cây thì hạt giống là nhân còn gió mưa và người nông dân là duyên.

(7) Chân như: nguyên lý tự có vĩnh cửu, không thay đổi, không sinh, không diệt theo quan điểm của đạo Phật.

(8) Nội điển: tín đồ Phật giáo gọi kinh, luận của nhà Phật là nội điển.

(9) Diệu đế: là một trong “tứ diệu đế”: Khổ đế, Tập đế, Diệu đế, Đạo đế. Đây là bốn chân lý đúng đắn của nhà Phật.

(10) Chân thuyên: chỉ chân lý của nhà Phật.

TB

MỘT SỐ SÁCH CHỮ NÔM Ở
THƯ VIỆN QUỐC GIA PARIS

CHƯƠNG THÂU

Trong chuyến đi sưu tầm tài liệu lịch sử Việt Nam tại Pháp vào mùa hè năm 1999, chúng tôi có dịp đến đọc ở Thư viện Quốc gia (cũ) tại 58 Rue de Richelieu, Paris. ở đây, hiện còn tàng trữ nhiều “Hồ sơ lưu trữ về Đông Dương thuộc Pháp” chưa kịp chuyển về trụ sở mới của Thư viện Quốc gia mang tên F. Mitterand ở bên bờ sông Seine. Trong đó, có một tập bản thảo viết tay của cuốn Thư mục mang tựa đề: “Catalogue du fonds Vietnamien” dày 170 tờ giấy khổ đôi (20 x 30cm), đóng bìa cứng.

Tập Thư mục này do Melle M.R. Seguy thực hiện năm 1953, trong thời gian cô chuẩn bị viết luận án Tiến sĩ về đề tài này (?), với sự giúp đỡ trực tiếp của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Nội dung thư mục gồm 3 phần:

- Phần A: Sách chữ Hán, có 107 cuốn sách mang ký hiệu từ A.1 đến A.107, mà phần lớn các tên sách đều khá quen thuộc với chúng ta và đã được thống kê phân loại trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (3 tập) - Nxb. KHXH - Hà Nội, 1993.

- Phần C: có các ký hiệu sách từ C1 đến C5, gồm 5 cuốn Tự điển, Từ vựng như Tự điển Việt - Bồ - La của A.de Rhodes, Tự điển Việt – La của P. de Béhaine, Tự điển La - Việt của J.L Taberd v.v.

Phần B: sách chữ Nôm gồm 134 cuốn, có ký hiệu từ B1 đến B134. Trong đó, từ B20 – B134 tức mục 2B, đa số là những Truyện Nôm khuyết danh viết theo thể thơ lục bát hoặc văn vần như Lục súc tranh công, Hoàng Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa v.v. Còn lại 19 ký hiệu sách từ B1 đến B19 tức mục 1B là dành cho chuyên mục Sách Nôm Công giáo, một chủng loại sách chữ Nôm khá đặc biệt mà lần đầu tiên chúng tôi được tiếp xúc và bước đầu có mấy nhận xét như sau:

Nhận xét đầu tiên là: những Sách Nôm thuộc Công giáo ở mục 1B này có một số không thấy các soạn giả của bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu (3 tập) ghi danh ở trong đó, kể cả ở phần Phụ lục: sách về Thiên Chúa giáo.

Nhận xét thứ hai là: tại một “ghi chú” ở cuối bản thảo tập Thư mục này cho biết rằng: “Những phiếu gốc của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn chứa trong hộp Thư mục về Việt Nam soạn từ năm 1951, đã được cô M.R. Seguy chép vào sổ năm 1953. Rồi tìm đọc lại Thư mục Hoàng Xuân Hãn trong bộ sách La Sơn Yên Hồ Hoàn Xuân Hãn (1908 - 1996), Tập 3, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.1395, chúng ta thấy: từ năm 1953, ông đã có một bài khảo cứu, nhan đề: Girolamo Majorica, ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque Nationale de Paris. In Archivium Historium societatis Jesu (Rome) - Tome XXII, 1953, PP.203-214.

Từ điều “ghi chú” và bài “khảo cứu” trên, chúng ta có thể biết thêm thông tin về mảng “thư mục đặc biệt” này.

Tất cả 19 tác phẩm chữ Nôm Công giáo được chép với đầy đủ các yếu tố cần miêu tả, kể cả tóm tắt nội dung tác phẩm ở mục 1B của tập Thư mục, thứ tự như sau:

B1: Đức Chúa Jesu

B2: Truyện Đức Chúa Jesu

B3: Các Thánh truyện (Quyển thượng)

B4: Thiên Chúa Thánh giáo hối tội kinh

B5: Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ

B6: Thiên Chúa Thánh giáo khải mông

B7: Những kinh lễ mùa Phục sinh

B8: Sách Thánh

B9: Ngâm lễ trong mùa Phục sinh đến tháng Bảy

B10: Những điều ngâm trong các ngày lễ trọng

B11: Thiên Chúa Thánh mẫu (Quyển thượng)

B12: Thiên chúa Thánh mẫu (Quyển trung)

B13: Các Thánh truyện

B14: Tháng Năm ba mươi lục

B15: Truyện Thánh mẫu Elisabeth

B16: Truyện ông Thánh Ignace

B17: Sách ngâm

B18: Sách tôn đạo Thánh Chúa Vẩy (Chúa Blời)

B19: Chân đạo yếu lý

Trong 19 tác phẩm Nôm Công giáo này, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn lọc ra được 12 tác phẩm có ghi tên tác giả là Majorica để khảo sát, khảo tả từng tác phẩm khá tỉ mỉ, ở đây khỏi phải nhắc lại. Tuy vậy, ở góc độ người nghiên cứu lịch sử và lịch sử văn hóa Việt Nam, chúng tôi xin bổ sung mấy ý kiến nhỏ sau đây:

- Jerolamo Majorica (1591- 1656) (có chỗ phiên âm là Girolando Majorica) là một nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên, sinh tại Napoli (Italia), từng qua xứ Goa năm 1619, qua Macao năm 1623, rồi tới Đàng Trong truyền đạo ở Faifo và ở lại đây 5 năm liền. Năm 1629, ông bị trục xuất khỏi xứ Đàng Trong. Năm 1631, ông lại theo tàu Bồ Đào Nha cập bến Đàng Ngoài, rồi sống tại đây cho đến năm 1656 và từ trần tại Thăng Long. Ông rất thông thạo tiếng Việt, là tác giả của hơn 30 tác phẩm Nôm Công giáo, viết dưới hình thức thuật truyện cho các thầy đồ Nho Việt Nam chép lại bằng chữ Nôm thế kỷ XVII. Hiện nay bản gốc các tác phẩm của ông còn giữ được một số như đã kể trên, gồm khoảng 4200 trang viết bằng bút mực nho trên giấy bản. Mỗi trang có từ 9 - 12 dòng, mỗi dòng trung bình 30 - 40 chữ Nôm. Các tác phẩm này có niên đại biên soạn từ năm 1634-1646. Cùng với nhiều hồ sơ, tài liệu sách vở khác của Công giáo ở khu vực Đông Nam á, các tác phẩm trên đều vốn là “tài sản” của Hội truyền giáo nước ngoài Paris (M.E.P.), đáng lẽ ra phải được lưu trữ tại Thư viện của M.E.P. ở 128 Rue de Bac, nhưng nay lại hiện diện ở Thư viện Quốc gia Paris - Đó là vì khi cuộc Cách mạng Tư sản Pháp nổ ra (1789 - 1892), các tài sản của các vương triều phong kiến, trong đó có cả động sản và bất động sản của Hội truyền giáo nước ngoài Paris (M.E.P.) đều bị chính quyền Cách mạng tịch thu. Thế là sách báo của Thư viện M.E.P. đều chuyển về Thư viện Quốc gia, đến nay vẫn được bảo tồn ở đây.

- Chữ Nôm ở các tác phẩm của Majorica chính là thứ chữ mà nhân dân ta (các nhà Nho và các trí thức Công giáo) thời đó vẫn thường dùng, nhất định có ít nhiều sai biệt so với chữ Nôm ở những thế kỷ sau, nhất là dưới triều Nguyễn, từ sau khi có những luật lệ húy kỵ các tên của Hoàng đế, Hoàng hậu..., làm thay đổi không ít tự dạng của chữ Hán và chữ Nôm nguyên thủy. Cho nên, khi trực tiếp đọc các văn bản Nôm thế kỷ XVII, chúng ta sẽ có “sở cứ” tốt hơn để nghiên cứu lịch sử chữ Nôm.

- Một điều lý thú khác nữa là: những tác phẩm Nôm của Majorica đều thuộc thể văn xuôi nhằm phản ánh xã hội, tâm lý, văn hóa thời đại bấy giờ. Khi đọc chuyện kể về những vị Thánh của phương Tây và phương Đông trong Truyện các Thánh... qua lối văn mang tính chất khẩu ngữ mộc mạc, kiểu chuyện kể dân gian (folkloro) không kém phần hấp dẫn. Trong số hàng trăm nhân vật ở trong Truyện các Thánh, mỗi truyện coi như một “đoản thiên tiểu thuyết” được miêu tả khá sinh động. Có nhiều truyện giống như Truyện Đức Phật Thích Ca xuất hành từ bốn cửa thành. Có truyện lại tương tự như Truyện Phật bà Quan Âm Thị Kính, truyện gái giả trai sống chung một cách đứng đắn trong cộng đồng giới tu hành như Truyện Thánh Théodore v.v.

- Quá trình những truyện Nôm của Majorica được xác lập văn bản từ thế kỷ XVII đã để lại cho chúng ta những “văn liệu” chữ Nôm thật quý giá. Nó mang đầy đủ những nét “đặc trưng của chữ Nôm và văn xuôi Nôm” thời đó. Nó là những nguyên bản (original), là bản văn đầu tiên. Nó không giống với “các tác phẩm thơ ca thuộc loại văn vần” như Hồng Đức Quốc âm thi tập, như thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v. mà “văn bản chữ Nôm” của chúng phần lớn mới được người đi sau xác lập lại từ thế kỷ XIX.

Tóm lại, dù chưa đủ thời gian để đọc kỹ số tác phẩm Nôm ở thế kỷ XVII này, chúng tôi vẫn có thêm được một số nội dung về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội..., nhất là tiết lộ một kho tư liệu lịch sử vô giá về ngôn ngữ học đúng như ý kiến của M. Durand trước đây đã viết: “ở những tác phẩm này, thứ nhất là còn lưu truyền một thứ chữ Nôm nguyên vẹn, chưa bị Tự Đức san định lại, cũng như nhà vua này đã san định lại cả các tác phẩm văn học và sử học, khiến người ta phải nghĩ rằng các văn bản xưa không còn nguyên vẹn, cũng như các bộ chính sử Việt Nam còn chính xác được bao nhiêu. Thứ hai là chữ Nôm của Majorica có thể coi là chữ Nôm nguyên thủy. Đối với nhà ngôn ngữ học đây là một thứ tư liệu ngôn ngữ rất tốt mở ra những công trình nghiên cứu thông thời (études diachromiques) cho nhà xã hội học tìm hiểu lịch sử phong tục, cho nhà nghiên cứu khoa học nhân văn có những dữ kiện xác thực hơn về lịch sử văn học, và lịch sử tư tưởng Việt Nam và các nước Đông Nam á”(1)

Cuối cùng, nhân dịp đọc mảng sách Nôm thế kỷ XVII hiện được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Paris, chúng tôi đề nghị với Viện Nghiên cứu Hán Nôm của ta hãy tìm cách sao chụp đưa về Việt Nam số sách đó, để tiện dụng cho các nhà nghiên cứu.

Và cùng với số sách Nôm quí hiếm này, khá nhiều tư liệu sách báo Hán Nôm khác hiện còn “lưu lạc” ở Pháp, được tàng trữ tại nhiều Thư viện và Trung tâm khác..., cũng mong Viện Nghiên cứu Hán Nôm có kế hoạch sưu tầm, biên soạn một tập Thư mục đề yếu bổ sung cho bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (3 tập) đã xuất bản năm 1993.

Hà Nội, ngày 30-11-2000

CHÚ THÍCH

(1) M. Durand. Introduction à la littérature vietnamienne, Paris, 1969, P.23.

TB

"PHONG THỦY" HAY CÁCH NHÌN CỦA NGƯỜI PHƯƠNG ĐÔNG THỜI CỔ VỀ MÔI TRƯỜNG

THỌ NHÂN

Như chúng ta biết, "phong thủy" 風 水 là một môn cảnh quan văn hóa, được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng triết học truyền thống phương Đông như "khí luận", "âm dương", "ngũ hành", "bát quái", "thiên nhân hợp nhất"…

Phong thủy nhấn mạnh sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, mà thực chất là lựa chọn, thiết kế cho con người một môi trường sống và phát triển lý tưởng. Phong thủy không những trực tiếp chi phối việc chọn địa điểm để tạo lập thôn trang, xây dựng phố chợ, làm nhà, cất mộ… mà còn liên quan tới Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, cùng thơ, tranh sơn thủy của người xưa.

Quả tình trong phong thủy có hàm chứa một số thành phần mê tín, phi khoa học, nhưng mục tiêu mà nó nhe nhắm, theo đuổi - giành lấy cho con người một môi trường sống và phát triển lý tưởng - thì lại mang tính vĩnh hằng. Điều này giải thích vì sao ngày nay, trong thời buổi khoa học kỹ thuật phát triển, lại có không ít người ở phương Tây cũng như phương Đông chăm chú tìm hiểu, khai thác một số mặt tích cực nào đó trong thuật phong thủy truyền thống để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống trước mắt.

Bài này viết nhằm cung cấp một số hiểu biết có tính chất "thường thức" về phong thủy, một lĩnh vực mà nhiều người hiện đang quan tâm.

I. Những tiền đề triết học của phong thủy.

1. Nguồn gốc tư tưởng "âm dương" và ảnh hưởng của nó đối với phong thủy.

Nói về nguồn gốc tư tưởng "âm dương" 陰 陽, ta có thể truy nguyên tới Kinh Dịch 易 經. Trong cuốn sách được xem như "ông tổ" của văn hóa phương Đông này, hai từ "âm", "dương" tuy chưa xuất hiện, nhưng mầm mống của chúng đã được mã hóa bằng hai ký hiệu " ¾ " và " - - " rồi ! Các nhà nghiên cứu cho rằng " ¾ " (một vạch dài) là biểu trưng cho tính đực, tính nam, tính dương và "- -" (hai vạch ngắn) là biểu trưng cho tính cái, tính nữ, tính âm. Về sau gọi " ¾ " là "hào dương" (dương hào 陽 爻) và "- -" là "hào âm" (âm hào 陰 爻), hai ký hiệu cơ bản của Kinh Dịch. Mỗi tổ hợp 3 hào làm thành một "quẻ" (quái 卦); các hào âm và dương phối hợp với nhau được cả thảy 8 kiểu, gọi là 8 "quẻ đơn" (kinh quái 經 卦), cũng tức "bát quái 八 卦"; 8 quẻ đơn này lại phối hợp với nhau được cả thảy 64 kiểu, gọi là 64 "quẻ kép" (biệt quái 別 卦), cũng tức "lục thập tứ quái 六 十 四 卦". Có thể xem đây như bảng phân loại tổng quát của Kinh Dịch về quy luật vận hành của các sự vật trong vũ trụ chủ yếu thuộc 4 cõi: trời, đất, sinh vật và người. Kinh Dịch cho rằng âm dương là căn nguyên của sự vật hay nói khác đi, trời đất, sinh vật và con người đều là sản phẩm của âm dương. Do có sự tác động, chuyển hóa giữa hai thế lực đối lập là âm và dương dưới hình thức "giao cảm" 交 感 mà sự vật ra đời. Cách nhìn này có lẽ được khái quát từ các hiện tượng phổ biến ở người và vật như nam nữ "giao cảm" với nhau sinh ra con cái, đực cái "giao cảm" với nhau sinh ra những con con , v.v.

Ngoài Kinh Dịch, tư tưởng âm dương còn được ghi lại trong nhiều sách khác như Kinh Thi 詩 經 (Mân phong / Thất nguyệt; Tiểu nhã / Thái vi; Đại nhã / Công Lưu), Hoàng Đế tố vấn 皇 帝 素 問 (âm dương ứng tượng đại luận), Quản Tử 管 子 (Tứ thời thiên), Hoài Nam Tử 淮 南 子 (Bảo kinh huấn) v.v. Ở những tác phẩm vừa nêu, khái niệm "âm", "dương" đã được thể hiện bằng ký tự, nghĩa là không còn dừng lại ở dạng ký hiệu như trong Kinh Dịch nữa.

Tư tưởng âm dương, như ta sẽ thấy, ảnh hưởng rất nhiều đến môn phong thủy. Chẳng hạn sách phong thủy Hoàng Đế trạch kinh 皇 帝 宅 經 viết: "Âm giả, sinh hóa vật tình chi mẫu giã. Dương giả, sinh hóa vật tình chi phụ giã. Tác thiên địa chi tổ, vi dựng dục chi tôn = Âm là bà mẹ làm cho muôn vật sinh sôi nảy nở. Dương là ông cha làm cho muôn vật sinh sôi nảy nở. Làm ông tổ của trời đất, là đấng tôn trưởng thai nghén và nuôi dưỡng muôn loài ". ở đây, sách đã dựa vào tư tưởng âm dương để giải thích sự ra đời của muôn vật. Hay một cuốn sách phong thủy khác, Quản Thị địa lý chỉ mông 管 氏 地 理 指 濛 có đoạn: "Hỗn độn khai tịch, giang sơn diên mậu. Dung kết âm dương, bàng bạc vũ trụ. Cương cốt ký thành, nguyên mạch dĩ thấu. Dĩ chung hình thế, dĩ thông khí hậu = Trời đất khai phá, sông núi dặc dài. Âm dương giao hòa, bàng bạc vũ trụ. Sườn gò đã thành, nguồn mạch đã thấu. Để tạo hình thế, để thông khí hậu". ở đây, sách đã dùng tư tưởng âm dương để giải thích sự sinh thành của trời đất.

2. Sự ra đời của "khí luận" và dấu ấn của nó trong phong thủy.

Nếu như tư tưởng âm dương là kết quả nhận thức buổi đầu của người phương Đông đối với thế giới xung quanh, thì ở giai đoạn tiếp theo, vấn đề đặt ra trong chương trình nghị sự của họ lại là "khí luận" 氣 論.

"Khí" trước hết được gắn với âm dương. Sách Quốc ngữ 國 語 (Chu ngữ thượng) khi bàn về nông vụ, có nói vào tiết lập xuân, khí dương náu trong đất bắt đầu bốc lên, nhà nông nên chớp dịp này mà cày cấy trồng trọt. ở một chỗ khác cũng trong Quốc ngữ, người ta cho rằng động đất là do khí âm và khí dương bị trục trặc trong sự phối hợp: "Phù thiên địa chi khí bất thất kỳ tự ; nhược quá kỳ tự, dân loạn chi giã. Dương phục nhi bất năng xuất, âm bách nhi bất chưng, ư thị hữu địa chấn = Kìa như khí của trời đất không thể mất trật tự vốn có của nó; nếu vượt qua trật tự này thì dân sẽ loạn. Khí dương náu mà không ra được, khí âm đè không cho khí dương bốc lên, thế là sinh động đất".

“Khí” còn được dùng để giải thích sự cấu tạo và biến đổi của sự vật. Chẳng hạn sách Tả truyện 左 傳 (Chiêu công ngũ niên) chép lời Y Hòa 醫 和 nói về "Sáu khí": "Thiên hữu lục khí, giáng sinh ngũ vị, phát vi ngũ sắc (...) dâm sinh lục tật. Lục khí viết: âm, dương, phong, vũ, hối, minh = Trời có sáu khí, giáng sinh thành năm vị, phát ra thành năm sắc (...). Khi sáu khí biến đổi bất thường sẽ làm nảy sinh sáu căn bệnh. Sáu khí đó là: âm, dương, gió, mưa, tối, sáng". Lại có thuyết "tinh khí" của Lão Tử 老 子 được trình bày trong Đạo đức kinh 道 德 經 (Thiên 21): "Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín = Đạo là một vật chỉ thấp thoáng mập mờ. Mập mờ thấp thoáng, trong đó có hình tượng. Thấp thoáng mập mờ, trong đó có sự vật. Sâu xa tăm tối, trong đó có cái mầm. Cái mầm ấy rất chắc chắn, trong đó có cái đáng tin". Trong đoạn văn trên, cái mà Lão Tử gọi là "tinh khí", ta có thể hiểu là "tinh trùng", tức là cái mầm của sự sống.

Đến sách Quản Tử, người ta đem khái niệm "khí" thay cho khái niệm "đạo" 道 của Lão Đam 老 聃: Thủy giả, địa chi huyết khí, như cân mạch chi lưu thông giả giã = Nước là khí huyết của đất, lưu thông như gân mạch vậy"; "Nhân, thủy giã, nam nữ tinh khí hợp nhi thủy lưu hành = Người là nước vậy, tinh khí của nam và nữ giao hòa cùng nhau mà nước được lưu thông"; "Khí giả, thân chi sung giã = Khí là thứ chứa đầy cả thân người" (Quản Tử / Tâm thuật thiên hạ); "Tinh giã giả, khí chi tinh giả giã = Tinh là cái tinh của khí"; "Thiên xuất kỳ tinh, địa xuất kỳ hình, hợp thử dĩ vi nhân = Trời cấp cho cái tinh, đất cấp cho cái hình, hợp hai thứ đó lại thành con người" (Quản Tử / Nội nghiệp thiên); "Hữu khí tắc sinh, vô khí tắc tử, sinh giả dĩ kỳ khí = Có khí thì sống, không có khí thì chết, sống được là nhờ ở khí" (Quản Tử / Xu ngôn thiên).

Ngoài ra, còn có các thuyết như "khí phân âm dương" (khí chia ra âm và dương) của Trang Tử 莊 子 (Trang Tử / Tắc dương); "âm dương nhị khí ly hợp" (hai khí âm dương lúc tách lúc hợp) của Hát Quan Tử 鶡 冠 子 (Hát Quan Tử) v.v.

"Khí luận" dã trở thành chiếc cột đỡ quan trọng giúp môn phong thủy hình thành và phát triển. Một loạt thuật ngữ phong thủy đã dựa vào "khí luận" để ra đời, như "sinh khí" "tử khí", “dương khí”, "âm khí", "thổ khí", "địa khí", "nạp khí", "tụ khí", "khí mạch", "khí mẫu"... Ngay bản thân hai chữ "phong thủy" cũng được xác lập trên cơ sở "khí luận": "Kinh viết: Khí thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ, cổ nhân tụ chi sử bất tán, hành chi sử hữu chỉ, cố vị chi phong thủy = Kinh phong thủy nói: Khí gặp gió thì tản mát, gặp nước thì dừng lại, người xưa tìm cách làm cho khí ngưng tụ, không để bị tản mát, dắt dẫn nó đi tới điểm dừng, vì vậy mà gọi là phong thủy".

3. Quan niệm vũ trụ là một thể thống nhất và quả đất là một vật sống, một người mẹ.

Vũ trụ vốn là một thể thống nhất. Thể thống nhất ấy, với Lão Tử là "đạo": "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật = Đạo sinh ra cái Một (Thái cực), cái Một sinh ra cái Hai (âm dương), cái hai sinh ra cái Ba (âm dương và giao hợp giữa chúng), cái Ba sinh ra muôn vật" (Lão Tử, Thiên 42). Với một số người khác, thể thống nhất của vũ trụ lại là "khí": "Thiên địa thành vu nguyên khí = Trời đất hình thành từ nguyên khí" (Hát Quan Tử / Thái lục); "Nhất thiết vật giai khí sở vi giã = Mọi vật đều do khí làm nên" (Trương Tải 張 載 Chính mông / Càn xưng thiên); "Nhân dữ thiên địa, quỷ thần, vạn vật nhất khí giã = Người cùng trời đất, quỷ thần, muôn vật đều thống nhất ở khí" (Vương Đình Tướng 王 廷 相: Thận ngôn / Tác kinh). Do trời đất, muôn vật, người đều sinh ra từ "đạo" hoặc "khí" nên có thể nói như Trình Hiệu 程 顥: "Thiên địa vạn vật vi nhất thể = Trời đất, muôn vật là một thể thống nhất" (Di thư, Q.15), hoặc Vương Đình Tướng: "Dư giảng học chỉ chủ lục tự, viết: Thiên địa vạn vật nhất thể = Ta dạy học chủ yếu chỉ có sáu chữ, là: trời đất muôn vật thống nhất" (Thận ngôn / Tác kinh). Ngày nay chúng ta cũng quan niệm gần như thế: vũ trụ được tạo nên bởi "vật chất". Khác chăng là ở chỗ khái niệm "vật chất" vừa nêu so với khái niệm "đạo", "khí" hoặc "ê-te" (Leibniz, 1646 - 1715)... của người xưa toàn diện hơn, đầy đủ hơn, khách quan và khoa học hơn.

Trong cái vũ trụ thống nhất ấy, quả đất được xem như một sinh thể. Trạch kinh 宅 經 một cuốn sách phong thủy khi bàn về một vùng miền khả dĩ chọn làm nơi ở tuyệt hảo đã viết như sau: "Dĩ hình thế vi thân thể, dĩ tuyền thủy vi huyết mạch, dĩ thổ địa vi bì nhục, dĩ thảo mộc vi mao phát, dĩ xá ốc vi y phục, dĩ môn hộ vi quan đái, nhược đắc như tư, thị sự nghiêm nhã, nãi vi thượng cát = Lấy địa hình làm cơ thể, lấy nguồn nước làm huyết mạch, lấy đất đai làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy nhà cửa làm quần áo, lấy môn hộ làm mũ đai, nếu được một vùng miền như vậy thì đấy là một lựa chọn nghiêm túc, trang nhã, có thể xem như cực tốt”. Các thành phần tạo nên quả đất cũng giống các yếu tố tạo nên con người: “Thủy tắc nhân thân chi huyết (...), hỏa tắc nhân thân chi khí (...), thổ tắc nhân thân chi nhục (...), thạch tắc nhân thân chi cốt (...), Hợp thủy hỏa thổ thạch tắc vi địa, do hợp huyết khí cốt nhục vi nhân = Nước như là máu ở thân người (...), lửa như là khí ở thân người (...), đất như là thịt ở thân người (...), đá như là xương ở thân người (...). Nước, lửa, đất, đá hợp lại thành đất, cũng như huyết, khí, xương, thịt hợp lại thành người” (Thái Mục Đường 泰 牧 堂: Phát vi luận).

Quả đất không chỉ là một vật sống, có “sinh mệnh” riêng, mà nó còn được quan niệm như một người mẹ: “Càn, thiên giã, cố xưng hồ phụ; khôn, địa giã, cố xưng hồ mẫu = Càn là trời, nên gọi là cha; khôn là đất, nên gọi là mẹ” (Dịch truyện / Thuyết quái truyện). Nói về người mẹ, cũng tức là nói về nguồn mạch của sự sống, một cái gì rất đỗi thiêng liêng. Khoa nhân loại học ngày nay cho thấy, vào thời tiền sử, con người dã man chưa hình dung được rằng muốn tạo nên một con người, phải có hai người khác giới tính. Họ không nghĩ “tính giao” sinh ra con cái; trong ý thức người thái cổ, nam giới bị gạt ra ngoài vòng sinh sản. Từ đó dẫn tới sự sùng bái mẫu quyền. Không phải bỗng dưng mà Lão Đam lại hoài niệm về một xã hội “nước nhỏ, dân ít” (tiểu quốc, quả dân) thời thượng cổ, trong đó, người mẹ được đặc biệt tôn thờ. Ta còn thấy trong sách Lão Tử, tác giả hết sức tán dương những cái mà trong con mắt người đời thường cho là “mặt trái”, như thư (con cái), nhược (yếu), khúc (cong), hạ (thấp), hậu (phía sau), từ (thương xót), cốc (cái hốc đen)... Tất cả các từ đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới nữ giới, tới bà mẹ, người đã cung cấp cho nhân loại căn phòng ở đầu tiên vừa an toàn, vừa thoải mái trước khi ra chào đời, như Freud từng nhận xét: “Tử cung là căn phòng ở đầu tiên, loài người trong mười phần có đến tám chín phần còn lưu luyến nó, bởi nơi ấy an toàn, thoải mái”. Và điều này cũng giải thích tại sao Lão Đam lại nói: “Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn. Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần = Sự thần diệu của cái hang (âm đạo) không chết, cho nên gọi là bà mẹ huyền diệu, đó là cái gốc của trời đất. Tồn tại xem ra dằng dặc, dùng mà không hết”. (Lão Tử, Thiên 6).

Chính những cách nhìn trên đây đã ảnh hưởng không ít tới môn phong thủy, nhất là quan niệm quả đất là một sinh thể, một bà mẹ mà loài người đã gắn bó từ thuở ấu thơ.

II. Lịch sử hình thành và phát triển của môn phong thủy Trung Quốc

Từ những tiền đề triết học do lịch sử cung cấp, môn phong thủy phương Đông mà nôi sinh của nó là Trung Quốc đã thai nghén, hình thành và từng bước phát triển. Có thể chia lịch sử phong thủy Trung Quốc ra làm mấy giai đoạn lớn như sau:

1. Tiên Tần:

Đây là thời kỳ quan niệm phong thủy được thai nghén. Con người từ khi còn “ở hang” (huyệt cư), “ở tổ” (sào cư), cho đến lúc vươn ra làm nhà làm cửa sống ở ngoài trời (dã xử), đều có sự lựa chọn trong chừng mực nhất định về hoàn cảnh cư trú. Chẳng hạn khi “ở hang” thì chọn nơi cao ráo: “Cổ nhân nhân khâu lăng quật huyệt nhi xử = Người xưa nhân gò, đồi đào hang mà ở” (Mặc Tử 墨 子 / Tiết dụng). Khi “ở tổ” thì chọn chốn an toàn: “Cổ giả cầm thú đa nhi nhân dân thiểu, ư thị dân giai sào cư dĩ tị chi, trú kiểm tượng lật, mộ thê thụ thượng, cố mệnh chi viết Hữu Sào Thị dân = Thời xưa chim muông nhiều, nhân dân ít, vì thế dân đều ở bằng tổ để lánh chúng, ban ngày thì đi nhặt hạt gắm, hạt dẻ, ban đêm thì leo ngủ trên cây, cho nên gọi là dân họ Hữu Sào” (Trang Tử / Đạo Chích thiên). Đến lúc ra ở ngoài trời, việc lựa chọn môi trường thể hiện lại càng rõ qua một di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ văn hóa Ngưỡng Thiều được phát hiện ở Bán Pha Thôn thuộc Tây An (tỉnh Thiểm Tây) vào năm 1954 mà ta có thể phác họa sơ đồ như sau:

Sơ đồ di chỉ khảo cổ Bán Pha Thôn ở Tây An

(Theo Lưu Bái Lâm: Phong thủy – Trung Quốc nhân đích hoàn cảnh quan. Thượng Hải Tam liên thư điếm xuất bản, 1998, tr.27)

Trong sơ đồ trên:

1. Khu dân cư.

2. Khu nhà hang.

3. Sông ngòi.

4. Mương rãnh.

5. Khu mộ táng.

Điều đáng chú ý ở đây là khu dân cư và khu mộ táng đã tách rời nhau, báo hiệu việc phân biệt “âm trạch” 陰 宅 với “dương trạch" 陽 宅 sau này.

2. Tần Hán - Ngụy Tấn:

Trong văn hiến Tiên Tần đã thấy xuất hiện những từ liên quan đến môn phong thủy như “bốc trạch” 卜 宅 tức bói chỗ ở (Giáp cốt văn 甲 骨 文), “tướng địa” 相 地 tức xem đất (Kinh Thi / Công Lưu), nhưng quan niệm phong thủy hồi bấy giờ còn trong tình trạng mò mẫm, chiêm nghiệm, chưa nâng lên thành lý luận. Phải đợi sang thời kỳ Tần Hán - Ngụy Tấn, lý luận phong thủy mới từng bước hình thành.

Vào thời Tần Hán, thuyết âm dương được phổ biến rộng rãi, trở thành nguyên lý giải thích mọi vật trong thế gian. Thuyết âm dương hồi này đã cung cấp cho môn phong thủy chí ít là về mặt phương pháp luận khi bàn về địa hình địa thế.

Thuyết “ngũ hành” 五 行 đến thời Tần Hán cũng phát triển mạnh. Môn phong thủy đã mượn “ngũ hành” gồm mộc, kim, hỏa thủy và thổ để thay thế cho “ngũ phương” 五 方 gồm đông, tây, nam, bắc trung ương. Không chỉ vậy, ở thuyết “ngũ hành” còn có chuyện “tương sinh, tương khắc” 相 生 相 克, “ngũ đức chung thủy” 五 德 終 始 đến đời Hán được Đổng Trọng Thư 董 仲 舒 khoác lên một lớp áo đẳng cấp, trở thành chỗ dựa quan trọng về mặt lý luận cho môn phong thủy đương thời: “Mộc ở bên tả, kim ở bên hữu, hỏa ở mặt tiền, thủy ở mặt hậu, thổ ở trung ương (...). Cho nên mộc ở phương đông chủ về khí xuân, hỏa ở phương nam chủ về khí hạ, kim ở phía tây chủ về khí thu, thủy ở phương bắc chủ về khí đông. Do đó mộc chủ sinh mà kim chủ sát, hỏa chủ nhiệt mà thủy chủ hàn” (Xuân thu phộ lộ 春 秋 蘩 露 / Ngũ hành chi nghĩa). Ngoài ra, do thuộc tính khác nhau, mỗi đơn vị ngũ hành còn đại diện cho một loại màu sắc: “Khí đất thắng thì màu chuộng vàng (...), khí mộc thắng thì màu chuộng xanh (...), khí kim thắng thì màu chuộng trắng (...), khí thủy thắng thì màu chuộng đen (...) (Lã Thị xuân thu 呂 氏 春 秋 / ứng đồng).

Bát quái đến thời Hán được lồng thêm tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” 天 人 合 一 (trời và người hợp nhất với nhau), khiến cho mỗi quẻ mang một hàm nghĩa riêng: “Càn 乾 là trời, còn được hiểu là vua, tông, môn, đầu, đức... “Khôn” 坤 là đất, còn được hiểu là bề tôi, thành ấp, ruộng, nhà cửa, đất liền... “Chấn” 震 là sấm, còn được hiểu là chủ, đường bằng phẳng, hàng rào, bên trái... “Khảm” 坎 là nước, còn được hiểu là sông, suối, ao đầm, giếng nước... “Ly” 離 là lửa, còn được hiểu là cửa, nhà giam, bếp... “Cấn” 艮 là núi, còn được hiểu là đá, đền, miếu, cung điện, huyệt... “Đoài” 兌 là chẵm, còn được hiểu là em gái, bên phải... Bát quái lại phối hợp với “10 cành” (Thập can: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) và “12 nhánh” (Thập nhị chi: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) để dùng vào việc xác định tọa độ trong môn phong thủy.

Trên cơ sở phát triển mới của âm dương, ngũ hành, bát quái cùng những phái sinh của chúng là ngũ phương, ngũ sắc, thập can, thập nhị chi, kể cả “tứ thú” (còn gọi là tứ linh, tứ tượng: đông thanh long, tây bạch hổ, nam chu tước, bắc huyền vũ), một số thuật ngữ về môn phong thủy và sách vở nói về phương vị trong phong thủy cũng đã bắt đầu xuất hiện như "địa mạch" 地 脈 (Sử ký / Mông Điềm liệt truyện), “kham dư gia” 堪 輿 家 (Sử ký / Nhật Giả liệt truyện), Kham dư kim quỷ 堪 輿 金 櫃 gồm 14 quyển, Cung trạch địa hình 宮 宅 地 形 gồm 20 quyển (Hán thư / Nghệ văn chí) v.v.

Đến thời Ngụy Tấn, hệ thống lý luận về phong thủy bắt đầu xác lập, với một số nhà phong thủy nổi tiếng như Quản Lộ và Quách Phác.

Quản Lộ 管 輅 (209 - 256), người Sơn Đông, sống vào đời Tam quốc, thuở nhỏ thích thiên văn, lớn lên tinh thông Kinh Dịch, và giỏi về bói toán, phong thủy (Tam quốc chí / Ngụy thư / Quản Lộ truyện). Có sách Quản Thị địa lý chỉ mông 管 氏 地 理 指 蒙 gồm 40 quyển, thác danh Quản Lộ soạn. Nội dung sách nói về “âm dương giao cảm” 陰 陽 交 感 “vọng khí tầm long” 望 氣 尋 龍 dựa vào thuyết ngũ hành để bàn về đất mai táng.

Quách Phác 郭 樸 (276 - 324) người Sơn Tây, sống vào đời Đông Tấn, tinh thông kinh học, thuật số, nhất là việc dùng thuyết “âm dương vọng khí” để “xem đất” (tướng địa). Có tác phẩm Táng thư 葬 書 thác danh Quách Phác soạn. Nội dung sách bao gồm các phần sau:

a. Thuyết "sinh khí": Muôn vật đều sinh từ khí. Có sinh khí thì sẽ hưng thịnh, cho nên việc chôn cất phải tìm nơi có sinh khí.

b. Thuyết "tàng phong đắc thủy": “Phong” và “thủy” là hai nhân tố chủ yếu trong việc bảo vệ sinh khí, cho nên vừa phải “tàng phong” 藏 風 (trốn gió), lại vừa phải “đắc thủy” 得 水 (được nước chắn lại), trong đó “đắc thủy” đứng hàng đầu, “tàng phong” đứng hàng thứ hai. Bởi vì nước đóng vai trò chính trong việc giữ cho môi trường sinh thái có “sinh khí”.

c. Thuyết "địa hình tàng khí": “Khí” dựa vào địa hình địa thế mà di chuyển hoặc dừng lại trong đất. Chung quanh nơi mai táng cần có nhiều gò đồi để dẫn sinh khí và tụ sinh khí. Cảnh quan do vậy phải nhấp nhô mới gọi là tốt được.

d. Thuyết "phương vị": Dùng “tứ linh” (4 vật linh) thay cho bốn hướng. Nơi mộ táng, bên tả là “thanh long” (rồng xanh), bên hữu là “bạch hổ” (cọp trắng), mặt tiền là “chu tước” (chim công đỏ), mặt hậu là “huyền vũ” (rùa đen). Bốn vật linh này lấy dáng núi để tượng trưng, cốt gây cảm giác đăng đối, trang trọng.

e. Thuyết "di thể thụ ấm”: Thân thể con người là do cha mẹ sinh ra; xương cốt của cha mẹ là gốc gác của con cháu. Hình thể con cháu là một phần của hình thể cha mẹ còn lưu lại trên đời. Hài cốt của cha mẹ nếu được sinh khí bảo vệ, con cháu sẽ được phúc ấm. Vì vậy mà tìm cho người chết một nơi mai táng lý tưởng (huyệt có sinh khí) sẽ dẫn tới hai cái lợi: một là người quá cố được nơi yên nghỉ tốt; hai là con cháu cũng được che chở, làm ăn thịnh vượng...

Táng thư, tương truyền do Quách Phác soạn, lần đầu tiên nêu ra được một khái niệm phong thủy tương đối cụ thể, trong đó, về mặt lý luận, lấy “âm dương” làm căn bản, lấy thuyết “sinh khí” làm hạt nhân, lấy “tàng phong đắc thủy” làm điều kiện, nhằm đạt tới một môi trường sinh thái lý tưởng cho cả “dương trạch” (địa điểm cư trú) lẫn “âm trạch” (địa điểm mai táng).

3. Đường Tống:

Đây là thời kỳ lý luận phong thủy phát triển và định hình. Vào giai đoạn này xuất hiện nhiều nhà phong thủy có tên tuổi như Viên Thiên Cang 袁 天 罡, Lý Thuần Phong 李 淳 風, Dương Duân Tùng 楊 筠 松, Thái Nguyên Định 泰 元 定, Lại Văn Tuấn 賴 文 俊... trong đó, ảnh hưởng nhiều nhất là Dương Duân Tùng và Lại Văn Tuấn.

Dương Duân Tùng hiệu Cứu Bần 救 貧 người Quảng Đông, sống vào đời Đường. Lý luận phong thủy của ông chủ yếu thể hiện ở ba bộ sách sau:

a. Hám long kinh 撼 龍 經: bàn về hình thế các long mạch gồm “9 ngôi sao” (cửu tinh) là bần lang, cự môn, lộc tồn, văn khúc, liêm trinh, vũ khúc, phá quân, tả phụ, hữu bật.

b. Nghi long kinh 疑 龍 經 bàn về “can trung tầm chi” (tìm chi 支 trong can 干, “tầm long đáo đầu” (tìm nơi rồng tới), “kết huyệt hình thế” (hình thế huyệt kết).

c. Táng pháp 葬 法: bàn về cách “điểm huyệt” (chỉ ra chỗ nào là huyệt chứa sinh khí)...

Lại Văn Tuấn hiệu Bố Y Tử 布 衣 子, người Phúc Kiến, sống vào đời Tống, có soạn sách Thôi quan thiên 崔 官 篇 gồm 2 quyển, bàn về long, huyệt, sa, thủy...

Sách phong thủy giai đoạn này, ngoài mấy bộ trên, còn có không ít những tác phẩm khác nữa: Đường thư 唐 書 giới thiệu cả thảy 15 bộ; Tống thư 宋 書 giới thiệu cả thảy 51 bộ...

Đáng chú ý là đến Đường Tống, phong thủy đặc biệt gắn bó với Đạo giáo, vì cả hai đều coi trọng âm dương, ngũ hành, bát quái, khí luận, thậm chí có lúc Đạo giáo còn xem phong thủy như sân chơi của mình. Điều này cắt nghĩa vì sao trong Đạo tạng lại có mặt nhiều sách phong thủy đến thế.

Ngoài Đạo giáo, phong thủy còn bắt tay cả với Nho, Phật, Lão trên tinh thần bình đẳng, các bên cùng có lợi và rõ ràng đây là điều kiện để lý luận phong thủy được bảo vệ, phát triển và định hình.

4. Minh Thanh:

Đến Minh Thanh, lý luận phong thủy được sàng lọc, chú giải và đúc kết. Một loạt sách chỉnh lý, khảo chứng về phong thủy được công bố: vào đời Minh có Kham dư quản kiến 堪 輿 管 見 gồm 2 quyển của Tạ Đình Trụ 謝 廷 柱, Kham dư biện hoặc 堪 輿 辯 惑 gồm 1 quyển của Từ Bột 徐 渤; vào đời Thanh có Táng kinh tiên chú 葬 經 箋 注 gồm 1 quyển của Ngô Nguyên Âm 吳 元 音, Nghi long kinh hiệu bổ 疑 龍 經 校 補 gồm 3 quyển của Dương Minh Huân 楊 明 勛, Thanh nang giải hoặc 青 囊 解 惑 gồm 4 quyển của Uông Nguyên 汪 沅, Dương trạch tịch mậu 陽 宅 辟 謬 gồm 1 quyển của Mai Y Lão Nhân 枚 漪 老 人. Phong thủy khu hoặc 風 水 祛 惑 gồm 1 quyển của Đinh Nhuế Phác 丁 芮 朴 v.v.

Các tổng tập, toàn tập về địa lý phong thủy cũng nối tiếp nhau ra đời. Thuộc triều Minh, có Dương trạch thập thư 陽 宅 十 書 gồm 4 quyển của Vương Quân Vinh 王 君 榮, Dương trạch tập thành 陽 宅 集 成 gồm 9 quyển của Trần Mộng Hòa 陳 夢 和, Dương trạch đại toàn 陽 宅 大 全 gồm 10 quyển của Vô danh thị, ... Thuộc triều Thanh, có Địa lý đại thành 地 理 大 成 gồm 36 quyển của Diệp Cửu Thăng 葉 九 升, Sơn pháp toàn thư 山 法 全 書 gồm 19 quyển và Bình Dương toàn thư 平 陽 全 書 gồm 15 quyển của Diệp Thái 葉 泰, Dương trạch đại thành 陽 宅 大 成 gồm 15 quyển của Ngụy Thanh Giang 魏 青 江, Địa lý đại toàn 地 理 大 全 gồm 55 quyển của Lý Quốc Mộc 李 國 木...

III. "Hình thế" và "Lý khí", hai phái lớn trong phong thủy Trung Quốc

Về phương diện lý luận, phong thủy Trung Quốc dần dần phát triển theo hai hướng khác nhau: một đằng thì nhấn mạnh "khí chi hình" hay “ loan đầu hình thế" (hình thế các chỏm núi hoặc mô đất cao); và một đằng thì nhấn mạnh "khí chi vị" hay "khí chi phương vị" (vị trí di chuyển của khí). Hướng đi thứ nhất sau thành phái "hình thế ", còn gọi là phái "hình pháp" hay "phong thủy Giang Tây". Hướng đi thứ hai sau thành phái "lý khí" còn gọi là phái "phong thủy Phúc Kiến".

Phái Giang Tây (hình thế) chủ yếu dựa vào đặc điểm địa hình, địa thế để chọn đất cư trú hoặc mai táng. Theo phái này, có 5 yếu tố tạo thành môi trường phong thủy, đó là long, huyệt, sa, thủy và hướng (Địa lý ngũ quyết). "Long" (rồng) chỉ “địa mạch chi hành chỉ khởi phục = sự đi hoặc dừng, nhô lên hoặc lõm xuống của mạch đất" (âm dương nhị trạch toàn thư). Cũng có người giải thích: "Long giả hà ? Sơn chi mạch giã (...). Thổ nãi long chi nhục, thạch nãi long chi cốt, thảo nãi long chi mao = Rồng là gì ? ấy là mạch của núi vậy (...). Đất là thịt của rồng, đá là xương của rồng, cỏ là lông của rồng" (Sơn pháp toàn thư). "Huyệt" chỉ nơi "khí" hay "sinh khí" hội tụ; "Sa" chỉ những gò đồi hoặc núi nhỏ vây quanh "rồng" tức núi liền mạch, có tác dụng thu khí, chắn gió. "Thủy" là dòng chảy cắt ngang, buộc khí phải tụ lại. "Hướng" chỉ đường di chuyển của "khí". Nhiều người cho rằng thuyết "long mạch" 龍 脈 của phái "hình thế" có nguồn gốc từ hai bộ sách cổ Ngũ tạng sơn kinh 五 藏 山 經 và Vũ cống 禹 貢. Bộ sách đầu chia núi non Trung Quốc ra thành 5 hệ thống, cũng tức là 5 hệ "sơn mạch" hay "long mạch" lớn: Nam, Tây, Bắc, Đông và Trung ương. Bộ sách thứ hai dõi theo vết chân trị thủy của vua Hạ Vũ, chia Trung Quốc ra làm 9 châu, trong đó các dãy núi, các con sông được mô tả như là hình thành một cách mạch lạc, và đây là chỗ dựa quan trọng của thuyết "tam điều tứ lệ" 三 條 四 例 nói về sự phân bố các hệ sơn mạch trên lục địa Trung Quốc về sau.

Phái Phúc Kiến (lý khí) chủ yếu căn cứ vào "khí luận" trong triết học cổ Trung Quốc để chọn nơi ở hoặc chôn cất. Phái này cho rằng: "Nhất thiết vật giai khí sở vi giã = Mọi vật đều do khí làm ra" (Phương Dĩ Trí 方 以 智); "Sơn trạch, thủy thổ khí giai nhập thừa chi, tạo hóa chi đại trạch giã = Núi, chằm, nước, đất đều được khí lồng vào, trở nên ngôi nhà lớn của tạo hóa" (Vương Đình Tướng 王 廷 相); do vậy mà "Khí chi lưu hành sung tắc vũ trụ = Khí lưu hành khắp cả vũ trụ" (Chu Hy 朱 熹); "Thiên địa vạn vật vi nhất thể = Trời đất muôn vật là một thể thống nhất" (Trình Hiệu 程 顥). Trời đất, muôn vật đã là một thể thống nhất thì giữa chúng tất phải có một cái gì chung, cái chung ấy chính là "lý" hay "thiên lý". Trình Hiệu nói: "Vạn vật chỉ thị nhất cá thiên lý = Muôn vật chỉ là một cái thiên lý". Vấn đề đặt ra là con người phải biết dựa vào "thiên lý", một "lẽ trời" hạy “luật trời” chung để chọn cho mình một môi trường sống tối ưu, khả dĩ làm ăn, phát triển thuận lợi và tạo phúc cho con cháu. Một quan niệm về "thiên lý" gắn chặt với nhân sinh như thế đã dẫn tới những tìm tòi liên quan đến độ số các vì sao (Kinh Thi: Định chi phương trung, tác vu sở cung), năng lượng bức xạ (Lã Thị xuân thu / Tinh thông), từ trường quả đất (Lưỡng nguyệt đối nhiếp triều tịch đồ 兩 月 對 攝 潮 汐 圖), kim nam châm

(Tăng Tam Dị 僧 三 异: Nhân thoại lục 因 話 錄; Thẩm Quát 沈 括: Mộng khê bút đàm 夢 溪 筆 談). Những phát hiện trên cố nhiên không thể nào đạt đến trình độ khoa học như ngày nay, nhưng vẫn có tác dụng thúc đẩy môn phong thủy tiến lên phía trước.

Ngoài ra, phái "lý khí" còn quan tâm đến việc "trấn sát" 鎮 煞. Do phái này nhấn mạnh sự nhất trí giữa "lý" và "khí" nên vị trí của "khí" như thế nào là điều hệ trọng. Chẳng hạn hướng "đông nam" được phái này quan niệm là "tốt" (cát) vì có sinh khí; còn hướng "tây bắc" bị quan niệm là "xấu", "dữ" (hung) vì có "sáu hung thần" (lục sát). Mục đích của "trấn sát" là nhằm tránh "tà", chuyển "hung" thành "cát". Phương pháp "trấn sát" chủ yếu dùng đồ vật hoặc đạo bùa để trấn yểm. Đồ vật có đá, "thạch cảm đương", mặt nạ hình đầu thú, gương treo ngược, gương bát quái... Còn "bùa" thì phần nhiều dùng chữ viết biến dạng, khó nhận diện, cốt tạo ra cảm giác huyền bí, thiêng liêng. Các chữ dùng để viết bùa thường liên quan đến việc "nhương tai giải hạn" như sắc, phụng, nhật, nguyệt, thần, sát, quỷ, trảm, lệnh, hổ, tai, dị v.v. kết hợp với phù chú của Đạo giáo, Phật giáo... Việc "trấn vật" hay "trấn bùa" ở đây, xét cho cùng, cũng chỉ cốt thỏa mãn nhu cầu tâm lý, một hình thức văn hóa "dân tục học" không hơn không kém.

Sự phân biệt giữa hai phái thật ra chỉ là tương đối. Bởi lẽ trong môn phong thủy, "hình" và "khí" xoắn xuýt với nhau, không thể tách rời nhau: "Hình giả, khí chi trứ; khí giả, hình chi trưng. Khí ẩn nhi nan tri; hình hiển nhi dị kiến = Hình là biểu hiện bên ngoài của khí; khí là cấu tạo bên trong của hình. Khí ẩn nên khó biết; hình hiện nên dễ thấy" (Mạnh Hạo 孟 浩: Tuyết tâm phú chính giải 雪 心 覆 正 解). Sách Táng thư cũng nói: "Phù thổ giả, khí chi thể = Kìa như đất là cơ thể của khí"; "Địa hữu cát khí, thổ tùy nhi khởi = Nơi có khí tốt, đất theo đó nhô lên" v.v. Chính vì lẽ đó mà một nhà phong thủy nổi tiếng đời Thanh, Trương Tâm Ngôn 張 心 言 đã viết: "Kẻ không biết loan đầu (hình thế) thì không thể nói với họ về lý khí; kẻ không biết lý khí thì không thể nói với họ về loan đầu. Kẻ tinh thông loan đầu thì cuối cùng sẽ dung hợp với lý khí; kẻ tinh thông lý khí thì cuối cùng sẽ bắt gặp loan đầu" (Địa lý biện chính sớ 地 理 辯 正 疏).

Về mặt phổ cập, phái “lý khí” do đi sâu vào “lý”, “số” những khái niệm đặc biệt trừu tượng và rối rắm nên ít người nắm được, kết quả là lý luận về phong thủy của họ ngày một trở nên khó hiểu, không dễ phát huy ảnh hưởng. Trong khi đó thì phái “hình thế” lại bàn về địa hình cao thấp, một đối tượng cụ thể, mắt có thể nhìn, tay có thể sờ mó, nhờ vậy mà lý luận phong thủy của họ được truyền bá rộng rãi trong dân gian.

*
**

Môn phong thủy Trung Quốc sau khi được xác lập về mặt lý luận, đã sớm ảnh hưởng đến nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, kể cả những nước, những vùng miền có nhiều người Hoa cư trú như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Philipin v.v. Tại nơi du nhập, phong thủy Trung Quốc sẽ được chọn lọc, cải biên hoặc nhiều hoặc ít cho phù hợp với điều kiện địa lý và phong tục tập quán địa phương, để rồi sau đó lại đồng hóa, tiếp biến theo quy luật chung của giao lưu văn hóa.

Riêng trường hợp Việt Nam, phong thủy Trung Quốc được du nhập muộn lắm là vào thời kỳ Cao Biền sang làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta; từ đó về sau, Việt Nam cũng có một lịch sử phong thủy lâu dài và mang đậm dấu ấn của người đất Việt mà 70 cuốn sách về phong thủy của ta hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một minh chứng. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này vào một dịp khác, khi điều kiện cho phép.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Bái Lâm: Phong thủy - Trung Quốc nhân đích hoàn cảnh quan, Thượng Hải Tam liên thư điếm xuất bản, 1998.

2. Trịnh Càn Đức chủ biên: Chư tử bách gia, Ba Thục thư xã xuất bản, 1999.

3. Đoàn Văn Thông: Phong thủy về nhà ở và cơ sở làm ăn buôn bán, Nxb. Thế giới mới, Hoa Kỳ.

TB

HÌNH BÓNG CỦA EMILE GASPARDONE

KAZU MURAMASTU

LTS. Vừa qua, Tòa soạn TCHN có nhận được bản sao chụp bài viết bằng tiếng Nhật của bà Muramatsu Kazu nhan đề “Hình bóng của Emile Gaspardone” đăng trên Tạp chí Đông phương học số 66, tháng 7 năm 1983, do ông Trần Nghĩa gửi tặng. Theo lời Ô. Trần thì đây là tài liệu do GS. AKIRA MATSUMOTO tại Đông Dương văn khố (Toyo Bunko) cung cấp trong dịp Ô. Trần sang công tác ở Nhật Bản vào năm 1998. Xét thấy, bài viết của bà KAZU đặc biệt bổ ích đối với những ai muốn tìm hiểu sâu về E. Gaspardone, một thành viên của Học viện Viễn Đông Pháp tại Hà Nội, tác giả của cuốn Thư mục Việt Nam (Bibliographie annamite) nổi tiếng, đồng thời là một nhà Việt Nam học “gắn bó với người Việt Nam ngay cả sau khi qua đời”, như nhận định của tác giả bài tạp chí nói trên, nên chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết này với bạn đọc qua bản dịch của Lương Thị Thu. Do khuôn khổ tạp chí có hạn, chúng tôi đã lược bớt một số đoạn nhỏ trong bản dịch.

Dù có hoài công dò hỏi thì ngày nay liệu mấy ai biết đến Emile Gaspardone – người chồng quá cố của tôi. Cũng phải công nhận điều đó bởi Emile Gaspardone là người vốn ghét hư danh, chẳng chú trọng đến hình thức bên ngoài, không thích xã giao, thậm chí hiếm khi thấy ông cởi mở với một vài người bạn thân, ông chẳng làm gì ngoài vấn đề ông lưu tâm.

Tôi không ngờ nhận được lời đề nghị rất chân thành từ thầy Enoki Kazuo công tác ở Đông Dương văn khố (Tokyo Bunko) là phải viết một bài về ông. Điểm Enoki Kazuo yêu cầu không phải là cuộc sống cá nhân của Emile, mà là thành tựu của ông trong công việc. Dựa vào cuốn Ai là ai ở Pháp ? (Who’s who in France)(*). tôi đã lựa ra một đoạn như sau :

“Emile Gaspardone là Giáo sư về vấn đề lịch sử và ngôn ngữ Đông Dương thuộc trường Collège de France. Ông sinh ngày 20/6/1895 tại quận Bouches du Rhône, thị trấn Peypin. Ông là con của Engine(1) Gaspardone và một phụ nữ Pháp (xuất thân từ gia đình Bonne). Ông kết hôn với một phụ nữ Nhật tên là Muramatsu Kazu.

Năm 1926 ông là cộng tác viên Học viện Viễn Đông Pháp.

Năm 1928 là nghiên cứu viên thường trú.

Năm 1938 giảng dạy tại trường Ngôn ngữ phương Đông quốc gia.

Năm 1946 là Giáo sư trường Collège de France.

Ông có nhiều bài viết liên quan đến các vấn đề như lịch sử, văn bản, biên soạn, thư tịch chí, ngôn ngữ học... được công bố trên Kỷ yếu Học viện Viễn Đông Pháp (BEFEO) xuất bản ở Hà Nội, hay trên Kỷ yếu Hội Nhật – Pháp ở Tokyo, hoặc in trong cuốn Hành trình về Châu Á ở Paris...

Ông được nhận huân chương Bắc đẩu bội tinh (huân chương cao nhất của người Pháp) khi tham gia Thế chiến lần thứ nhất (1914 - 1919)”.

Những phần tôi vừa nêu trên là trích dẫn từ cuốn Ai là ai ở Pháp ? , xuất bản năm 1956. Tôi sẽ nói thêm phần đời của Emile từ sau năm 1956 trở đi là như thế này:

Emile giảng dạy cho trường Collège de France trong 18 năm. Năm 1965 Emile nghỉ hưu, nhưng ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu với tư cách là Giáo sư danh dự của trường, và quyết định cư trú phần đời còn lại trên đất Nhật.

Năm 1967, Emile Gaspardone tự mình vận chuyển trên 10 tấn sách lên tàu Le Tunggus của Na Uy đi từ Marseille tới Kobe trong 2 tháng (tới Nhật ngày18/10). Trước đó tôi đã sang Nhật để xây nhà ở Tateno - 1587 thành phố Zama tỉnh Kanagawa. Vì có khối lượng sách đồ sộ như vậy nên phải mất gần một năm Emile mới hoàn chỉnh phòng sách, phòng làm việc của mình. Sau đó Emile lại tiếp tục miệt mài với công việc nghiên cứu, viết lách. Do không thích xã giao nên ở Nhật ông chỉ quan hệ thân thiết với người anh cả của tôi. Niềm vui của ông là mỗi tuần một lần ra Tokyo mua những đồ ăn ưa thích, rồi lại ghé qua các hiệu sách có thể tìm mua hoặc chỉ để xem.

Cuối năm Chiêu Hòa 55(1980), sau khi mua hàng ở một cửa hàng trong thành phố Tokyo, Emile bị ngã ở giữa thang máy. Ông đau quá, kêu to. Ngay lập tức ông được đưa tới bệnh viện Ngoại khoa Aoyama, được các bác sĩ tạm thời sơ cứu để đưa lên tàu chuyển về Viện Kosei ở Zama - nơi ông sống. Tại đây các bác sĩ xác định vết đau do rạn xương. Sau một tháng điều trị, Emile bình phục trở về nhà. Nhưng bắt đầu từ đó, ông ngày một già yếu. Một năm bốn tháng sau, tức ngày(19/2/1982) ông qua đời, thọ 87 tuổi.

Vợ chồng tôi không theo tôn giáo, nhưng chúng tôi có một người bạn thân là nhà sư Yahata Zyotaro trụ trì ở chùa Seiryuzi, nên tang lễ của ông được cử hành theo nghi lễ đạo Phật. Ngày 18/9 mộ ông được xây dựng trong khuôn viên của chùa. Trên mộ có dựng tấm bia đá khắc tên ông bằng chữ Hán, song song với hàng chữ đó là hàng chữ tên tôi. Mặt trái của tấm bia có dòng chữ bằng tiếng Pháp:

Ci - git
Emile
Gaspardone
Professeur honoraire
au Collège de France
1895 - 1982

Mặt trái tấm bia đó được dựng hướng về địa phương Provence - quê hương xa xôi của Emile, chỉ từng ấy cũng phần nào an ủi cuộc đời còn lại của tôi.

Thành tựu nghiên cứu:

Emile Gaspardone không có một cuốn sách nào, nhưng ông lại có rất nhiều bài nghiên cứu, đánh giá, được công bố trên các tạp chí liên quan đến Đông phương học như đã ghi trên cuốn Ai là ai ở Pháp ? Tất cả những bài viết đó đều được ông làm thư mục với tiêu đề chung là Ma Bibliographie. Phần thư mục này sẽ được đăng ở Tạp chí Đông phương học số 67.

Những bài viết chưa công bố:

Viết xong bộ thư mục, Emile hoàn thành tiếp một tác phẩm và một tác phẩm nữa chưa hoàn thành (* ).

Trong Niên báo (1980 - 1981, của trường Collège de France) có thông báo về 2 tác phẩm với tựa đề: “Cải tác ” và “Lam Sơn vương lăng bi”. Năm 1935, ảnh về lăng mộ vua Lam Sơn đã được Học viện Viễn Đông xuất bản dưới dạng an-bum cỡ lớn. ở phần lời nói đầu của an-bum có viết: “Lam Sơn là nơi phát tích của nhà Lê (thế kỷ 15 - nửa đầu thế kỷ 16, triều đại phát triển nhất) cai quản từ bắc phần miền Trung trở ra. Lam Sơn chính là vùng đất nằm giữa tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Tại khu vực này, trong một khu rừng nguyên sinh có 7 tấm bia mộ bị hư hỏng nặng vùi lấp trong cỏ. Năm 1931 Emile đã đến vùng đất này, tu sửa bia, ghi chép lại địa lý của vùng và miêu tả cụ thể từng tấm bia. Phần chính – phần khảo chứng lịch sử và chú thích văn khắc trên bia sẽ được làm rõ ở bài viết tới, khi công bố những bức ảnh này”. Bốn năm sau (1935), Emile trở lại khảo sát vùng đất này, nhưng phần chính vẫn chưa ra đời.

Những năm sau đó, vài lần trong lúc giảng bài ở Collège de France, Emile có giải thích văn khắc trên các tấm bia cho sinh viên nghe. Sau khi sửa đổi, bổ sung nội dung giảng dạy, hình như Emile có ý định công bố, nhưng việc tiến triển đến đâu thì tôi không rõ.

Cho đến ngày Emile qua đời, công việc dang dở đó vẫn được đặt trang trọng trên bàn làm việc, bên cạnh mục “Lê triều Nhân Tông quyển 11, Việt sử thực lục của cuốn Đại Việt sử ký ”. Việc công bố tác phẩm này theo nguyện vọng của ông có vẻ không có khả năng thực hiện, bởi Emile là người rất coi trọng cách viết của mình. Có lần Emile đã từng nói với tôi rằng ông không thể chịu đựng được khi bị người khác sửa bài, cho dù chỉ là một dấu phẩy. Chính vì lẽ đó tôi không biết công bố tác phẩm chưa hoàn thành này như thế nào, đành rằng đó là một tác phẩm chưa thể xuất bản được, nhưng cứ bỏ mặc đấy thì bản thân tôi vẫn cảm thấy áy náy.

Sinh thành.

Emile sinh ở quận Bouches de Rhône. Tên quận có nghĩa là cửa sông đổ vào vùng Địa Trung Hải. Thị trấn của Emile thuộc vùng miền núi, nằm giữa vùng Aix - en - Provence và thành phố Marseille - ven bờ Địa Trung Hải. Emile xuất thân trong một gia đình mà từ ông nội đến bố đều giữ chức Trưởng thôn. Hồi bé, Emile thường được người trong gia đình gọi với cái tên rất dễ thương là Mimi hoặc Mimiru. Mọi người trong làng đều nói tiếng địa phương, tức tiếng Provence. Một thứ tiếng Pháp hầu như chỉ được sử dụng trong chính quyền địa phương, trường học và nhà thờ ở đó. Ông nội của Emile làm việc ở chính quyền địa phương, nên ông ấy nói và viết được tiếng Pháp, tất nhiên sử dụng ngôn ngữ địa phương vẫn làm ông cảm thấy thoải mái hơn. Ông thường kể chuyện cổ tích cho Emile nghe. Bao giờ cũng vậy, câu chuyện cứ đến giữa chừng thì bỏ dở. Emile đòi ông kể tiếp, ông nói: “ Ông đã mệt mỏi vì phải kể bằng tiếng Pháp quá rồi, phần sau ông sẽ kể bằng tiếng địa phương nhé! ”. Do đó, trong một câu chuyện, phần đầu ông kể bằng một ngôn ngữ, phần sau lại bằng một ngôn ngữ khác. Năm 1935, khi Emile đưa tôi về thăm quê, lúc đó đã cách thời của ông nội hơn 30 năm, nhưng người trong làng vẫn nói chuyện với nhau bằng tiếng Provence. Chỉ khi nói chuyện với chúng tôi, họ mới dùng tiếng Pháp. Tôi nhận thấy người trong làng cho là buồn cười khi họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Emile hiểu được cả 2 ngôn ngữ, thỉnh thoảng ông cũng nói tiếng Provence. Ngay từ thời niên thiếu, một vài tạp chí văn học bằng tiếng Provence, phát hành ở Marseille và Aix - en - Provence, Emile thích tất cả tạp chí này nên không bao giờ ông có thể quên được ngôn ngữ địa phương của mình.

Vài năm sau, tôi có nói với Emile là muốn học tiếng Provence. Tôi bắt đầu học tiếng Provence tại Trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ Provence do một giáo sư người Pháp thành lập ở Sorbonne, và Emile thường đọc những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ này cho tôi nghe. Lúc đó tôi muốn ghi băng cách đọc tiếng Provence, nhưng sử dụng máy móc thì quá kém nên đã không thực hiện được mong muốn này. Ngôn ngữ Provence nhìn chữ có thể hiểu được, nhưng phát âm thì khó. Không phải người sinh ra từ địa phương này, chắc chắn không thể phát âm được.

Trước đó tôi nghĩ nói đến Pháp là nói đến Paris, nói đến Pháp tức nói đến màu tóc vàng. Còn ở Provence mọi thứ hoàn toàn khác biệt, người dân sử dụng ngôn ngữ địa phương của họ, thực phẩm ăn uống dùng nhiều tỏi, và màu tóc của những người dân ở đây lại rất đen.

Ở Peypin - nơi Emile sinh ra không ai được học cao. Khi còn nhỏ, Emile học ở trường làng, nhưng ông luôn thích đọc sách hơn tới lớp. Thời đó, ông nội đặt báo thiếu niên cho Emile đọc. Một tuần báo ra một lần, Emile không bao giờ chờ đợi được đến khi người ta mang báo tới, mà tự mình vượt rừng trám lên huyện cách làng hơn 3km tới ki-ốt nhận báo. Những tờ báo đó luôn được cất giữ cẩn thận.

Ngoài học ở trường làng, Emile muốn được hiểu biết nhiều nữa. Emile theo cha đạo học tiếng Latin. Cha đạo vốn là người không quan tâm đến học trò của mình có theo tôn giáo hay không, cha cứ say sưa giảng giải tất cả những gì mình hiểu biết. Lúc đó ông nội và bố đều cho rằng không thể để Emile ở lại làng học hành như thế được, phải cho Emile theo học Sư phạm ở Marseille - nơi có phương pháp giáo dục tốt. Còn mẹ thì nói rằng, Emile vẫn là đứa trẻ mới 13 tuổi, bà không thể chịu được khi để Emile đi xa hơn, tức tới Marseille. Emile nghĩ nếu tới Marseille con đường học tập sẽ mở ra, liền nghe theo lời cha và ông.

5 năm học ở trường Sư phạm, 2 năm hoàn thành nghĩa vụ giáo viên, thời gian đó Emile nhận thức sâu sắc một điều là ông hoàn toàn không hợp với nghề này. Được biết tại Hội nghị công thương Marseille đang mở lớp học ngoại ngữ buổi tối, Emile đi ngay tới đó đăng ký nhập học. Ban ngày là giáo viên, tối là học viên. Emile chọn học ba ngoại ngữ: Đức, Anh và Tây Ban Nha. Với các giáo viên người Đức, Anh và Tây Ban Nha giảng dạy, chỉ mất hai năm ông sử dụng thành thạo các ngoại ngữ này.

Như trên đã nói, Emile có để lại cuốn thư mục tác phẩm của ông. Ngay trang đầu tiên, trong phần lời nói đầu có ghi rõ nội dung, đầu đề, tên tạp chí, số ra, năm tháng phát hành... Tôi chưa đọc những tác phẩm này, nhưng được biết trong đó có thơ, bút ký và cả dịch thơ Tây Ban Nha. Emile rất tự tin vào công việc này, cuối năm 1913 ông vẫn tiếp tục thu thập tác phẩm của mình từ thời thanh thiếu niên. Khi đó Emile muốn thành công trong lĩnh vực văn học.

Emile chủ yếu công bố bài viết của mình trên Tạp chí La Criée (Tạp chí văn nghệ ở Marseille), nhiều nhà văn tên tuổi đã thành danh từ tạp chí này.

Học nghiệp:

Năm 1923 Emile lên Paris, vào học trường Ngôn ngữ phương Đông quốc gia. Ông đăng ký học 2 khoa: tiếng Trung và tiếng Nga. Đồng thời ông còn làm thủ tục nhập học khoa Ngôn ngữ học và Thư tịch chí ở Sorbonne. Lúc đó Emile 28 tuổi. Tôi không hỏi rõ Emile chuyện xảy ra trong thời gian xuất ngũ rồi lên Paris như thế nào, nhưng tôi biết Emile đã phải mất khá nhiều thời gian để xếp đặt các công việc trong gia đình như: ông nội mất khi Emile ở chiến trường, bố mất khi Emile vừa trở về, bán nhà và đất cho người chú ruột, mua một ngôi nhà gần nơi mẹ sinh ra, mượn người họ hàng xa tới giúp mẹ...

Sau khi hoàn tất mọi việc trong gia đình, Emile lên Paris. Dường như ông đã quyết định rõ mục tiêu của mình khi tới đó. Lúc bấy giờ ở Pháp, ngành Trung Quốc học phát triển sớm nhất Châu âu. Đương nhiên, khi chọn ngành này, Emile đã biết nhiều những bậc tiền bối sáng lập ra ngành Trung Quốc học(*). Sau này tôi có hỏi Emile: “ Tại sao anh lại chọn học tiếng Trung Quốc và tiếng Nga? ”, Emile trả lời tôi rằng: “ Lúc đó hai thứ tiếng này là khó nhất! ”. Tôi nghĩ đấy không hẳn là lý do chính, nhưng phần nào đã thể hiện tính cách mạnh mẽ, thích khắc phục khó khăn của chồng tôi.

Năm 28 tuổi, Emile mới vào Đại học, hình như ông rất sốt ruột vì sự chậm trễ của mình, cảm giác tự ti cũng tràn ngập lòng ông. Nhưng không thể chậm hơn được nữa. Emile cần phải nộp chứng chỉ của 4 môn học để nhận được bằng Licence (bằng Cử nhân). Chỉ ba năm sau, năm 1926 Emile nhận được bằng này. Cũng năm đó, Emile tốt nghiệp hai khoa tiếng Trung và tiếng Nga – hai thứ tiếng được coi là khó nhất. Có một lần, không nhớ rõ vào lúc nào, Emile đã nói với tôi: “à pas de géant” [(Đi những bước khổng lồ) - ý nói tiến bộ rất nhanh]. Đúng là như vậy. Tôi đã từng học ở Sorbonne, với người bình thường như tôi, phải mất một năm để nhận một loại chứng chỉ.

Công tác ở Học viện Viễn Đông [Hà Nội].

Năm 1926, Emile tốt nghiệp trường Ngôn ngữ phương Đông quốc gia. Ngay lập tức, Emile là người duy nhất trong lớp tiếng Trung được cử sang Đông Dương, được chọn làm việc tại Học viện Viễn Đông [Hà Nội], làm bạn bè trong lớp phải ghen tỵ. Emile đã khóc khi xa mẹ, nhưng cũng rất vui, hãnh diện với cơ hội được khám phá Đông Dương. Emile đã kể lại lần đó trên thuyền MM vừa vui vừa sốt ruột, tự nhiên ông đã hát vì cảm giác thuyền sao chạy chậm thế.

10 năm sau khi ba nước Đông Dương trở thành liên bang (1888), Học viện Viễn Đông thành lập(*). Đây là cơ quan nghiên cứu nổi tiếng ở Châu âu nói riêng và trên thế giới nói chung. Tại đây có những trang thiết bị tốt nhất cho việc nghiên cứu. Mục tiêu của Học viện là khai quật di tích trong lòng đất, gìn giữ thư tịch, khảo sát văn hóa, văn minh của các quốc gia trong khu vực. Thành viên của học viện này đã khai quật được những di tích nổi tiếng trong lòng đất như: Angkor, Champa... Họ được cử sang các nước đó để khảo sát và được phép lưu trú lâu dài ở những nơi mà họ yêu cầu.

Năm 1933, Emile được cử sang Nhật Bản và Trung Quốc. Nhờ sự giúp đỡ của thầy Sylvain Levi - Hội quán Nhật - Pháp ở Tokyo, Emile được nhận trọng trách làm Biên tập viên lâm thời cho Tạp chí Pháp - Bảo - Nghĩa - Lâm. Chỉ trong một thời gian ngắn, Emile làm quen với rất nhiều thầy giáo nổi tiếng như: Takakusu Junjiro, Ishida Mikinosuke, Haneda Tooru, Oyama Kashiwa, Kuroita Katsumi, Yanagida Kunio... Mặc dù không thích quan hệ rộng nhưng vì là người của Học viện Viễn Đông nên Emile đã quen biết với những thầy giáo này.

Trở về Học viện Viễn Đông, Emile được nghỉ phép sáu tháng. Ông qua vùng Sibérie, rồi quay lại Nhật Bản. Ông được giao nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát ở Nhật Bản và ở Trung Quốc cho tới năm 1933. Tôi và Emile đã kết hôn trong thời gian này, và lên đường đi Bắc Kinh. Đúng lúc đó, đoàn điều tra dẫn đầu là ông Litton (người nước Anh) đến Bắc Kinh điều tra về việc Nhật xâm lược Trung Quốc năm 1932. Do sự kiện này, người Trung Quốc tránh quan hệ với người Nhật. Nhưng Emile - chồng tôi lại làm quen được với các học giả như: Truyền Kỳ Niên, Viên Đồng Lễ, Cố Hiệt Cương, Trương Tinh Lương. Một hôm, không ngờ chúng tôi nhận được lời mời đến ăn tối ở nhà thầy Cố. Buổi tối hôm đó, mọi người đều sử dụng tiếng Anh để giao tiếp, nhưng thầy Cố - chủ nhà lại hoàn toàn không dùng ngoại ngữ để nói chuyện. Thầy và vợ thầy đều ăn mặc rất giản dị. Vợ thầy ngồi cạnh tôi. Bà ấy để tóc bình thường như một cô sinh viên hay một giáo viên tiểu học. Tôi không nói được tiếng Trung Quốc, nên bà đã bút đàm cùng tôi. Chúng tôi trò chuyện với nhau trên giấy. Khi đang còn băn khoăn chưa biết viết điều gì, vợ thầy đã chìa tờ giấy sang phía tôi: “Hôm nay chúng tôi rất vui được cô tới chơi”. Chúng tôi cứ viết đi, viết lại trao cho nhau xem. Cách giao tiếp này khiến tôi có thời gian để nghĩ, để viết, rất thích hợp với trường hợp của tôi.

Một lát sau, vợ chồng thầy giáo Cố nói là sẽ đặt cho Emile một cái tên Trung Quốc như cách làm đối với những người nước ngoài khác khi tới nước này. Thầy liền lấy bút, lấy nghiên mực ra mài, ông nghĩ một hồi lâu rồi viết 3 chữ: “Tra Kỳ Bổ”. Nét chữ thật đẹp. Thế rồi vợ thầy giáo viết một câu: “Bây giờ em là vợ của anh Tra này rồi ! ”. Tờ giấy lần lượt chuyển cho mọi người xem, khiến tất cả đều cười. ít lâu sau, thầy Trương lại mời chúng tôi tới nhà hàng. Vợ chồng thầy giáo Cố cũng đến. Tôi đến ngồi cạnh bà vợ thầy Cố, bà lấy bút và giấy ra viết: “Đây là lần đầu tiên tôi tới nơi này. Nghe nói em đến, tôi cũng đến”. Điều khiến tôi ngạc nhiên là tại nhà hàng này vợ chồng thầy Cố vẫn ăn mặc giản dị như lần trước - khi chúng tôi gặp nhau tại nhà bà. Sắp tới ngày rời Bắc Kinh, chúng tôi có mời những người bạn này ăn tối ở khách sạn Bắc Kinh, thật đáng tiếc là vợ chồng thầy Cố đã không đến được, đúng như phỏng đoán của chúng tôi.

Kết thúc thời gian khảo sát ở Nhật Bản và Trung Quốc, Emile quay trở về Học viện Viễn Đông [Hà Nội]. Học viện là nơi rất đẹp, có nhiều cây cổ thụ, hoa trồng xung quanh. Có một Thư viện rộng lớn trưng bày nhiều cuốn sách liên quan đến Viễn Đông. Tôi và Emile sống trong ngôi nhà tập thể của Học viện. Thời gian này tôi biết thêm được nhiều điều, nhờ những chuyến đi công tác cùng Emile trên bán đảo Đông Dương suốt từ phía Bắc tới phía Nam, chẳng hạn như: Huế, Thanh Hóa, Nam Định, Cao Bằng... các vùng bờ biển Việt Nam, SiemReap ở Campuchia. Emile đã sang Đông Dương năm 1927, ông khảo sát được nhiều nơi. Nhờ có Học viện này, Emile đạt được nhiều thành tích trong công việc. Hiện nay những tài liệu cổ Emile thu thập được trong thời gian sống và làm việc vẫn được cất giữ cẩn thận [ở Nhật Bản], chờ người nghiên cứu.

Thầy giáo Paul Boaie(2)

Cuối năm 1926, Emile sang công tác ở Học viện Viễn Đông [Hà Nội]. 10 năm sau, năm 1936, Emile trở về trường cũ – trường Ngôn ngữ phương Đông với tư cách là giáo sư tiếng Việt. Trở lại sự kiện Emile được vào làm việc ở Học viện Viễn Đông ngay sau khi tốt nghiệp mà nhiều bạn bè phải ghen tị, đây không phải chỉ nhờ ở thành tích học tập cao của Emile mà quyết định hơn là do có sự giúp đỡ tận tình của thầy Boaie. Thầy Boaie - Hiệu trưởng trường khi đó đã nhiệt tình giới thiệu Emile tới Học viện Viễn Đông.

Thầy Boaie rất giỏi tiếng Nga. Nói về thầy, người ta thường nhận định thầy là một nhà giáo dục đúng hơn là một học giả. ở một khía cạnh nào đấy thầy cũng là một nhà chính trị. Thầy Boaie tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm. Đây là trường khó vào nhất ở Pháp. Người tốt nghiệp trường này được gọi là Cử nhân sư phạm (Normalien) và rất được tôn trọng. Normalien có thế lực lớn trong giới giáo dục và chính trị. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các Normalien thành lập được một hội có vai vế, quyền lực trên cơ sở tình đoàn kết vững chắc.

Thầy Boaie chính là một Normalien nên ngay cả giới Bộ trưởng, giới nghiên cứu của Học viện đều biết đến ông. Danh tiếng và vị trí của trường cũng tăng lên nhờ ông.

Trong trường, thầy Boaie dạy tiếng Nga, ông gần gũi với sinh viên, quan sát năng lực, tính cách của từng người, hướng cho sinh viên tới công việc, nghề nghiệp thích hợp nhất với chí hướng của họ. Người ta nói thầy Boaie luôn đánh giá đúng năng lực của từng sinh viên khi xem xét họ.

Còn Emile - chồng tôi, ngay từ đầu dường như đã được thầy chú ý. Trong khóa học, duy chỉ Emile là cựu chiến binh. Emile chưa lần nào bỏ học, cũng như tới lớp muộn. Bài giảng của thầy Boaie đều là những tác phẩm Nga chưa xuất bản, hay ít ra là chưa được dịch sang tiếng Pháp, nên sinh viên học rất vất vả. Có một hôm, tài liệu mà thầy Boaie sử dụng là một đoạn trong bức thư của Leb Hиkoлabиy Toлctoй gửi cho. Trong tài liệu có một từ, mang ý nghĩa đặc biệt, khiến sinh viên khó hiểu. Tra trong cuốn Từ điển Nga - Pháp thông dụng không có, Emile tìm trong tập thư của Leb Hиkoлabиy đã xuất bản, chợt phát hiện ra ý nghĩa độc đáo của từ này. Khi đó thầy Boaie không hi vọng lắm ở đám sinh viên, nhưng cuối cùng thầy vẫn gọi Emile lên hỏi. Thầy Boaie quá bất ngờ trước kết quả Emile phát hiện, khiến bộ mặt thường ngày nghiêm khắc của thầy bỗng sáng lên. Thầy vừa nói: “C'est ỗa” (Được đây! ), vừa thể hiện động tác đắc ý của thầy. Emile cũng rất sung sướng về chuyện đó, ông hay kể lại cho tôi nghe.

Từ đấy, niềm tin của thầy Boaie đối với Emile tăng lên. Khi đã thực sự tin tưởng vào cậu học trò cưng của mình, thầy mới hỏi: “Sau khi tốt nghiệp, em định làm gì ? ”. Emile trả lời ông muốn theo ngành Trung Quốc học. Đến lúc này thầy Boaie biết Emile học tiếng Nga không phải vì sự cần thiết trước mắt, mà đơn giản ông muốn hiểu biết sâu sắc hơn trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Từ đó, thầy Boaie tạo mọi điều kiện để Emile đi tới con đường đã chọn. Do vậy, khi Học viện Viễn Đông thiếu một chức vụ, thầy Boaie cho rằng Emile thích hợp nhất với công việc này, nên ông đã cố tiến cử Emile với Viện Hàn lâm, mặc dù khi đó có cả ứng cử viên nặng cân hơn Emile.

Đúng 10 năm sau sự việc này, Emile trở lại trường xưa - trường Ngôn ngữ phương Đông quốc gia với tư cách là Giáo sư tiếng Việt. Đó là một thời gian ngắn ngủi. Tháng 6 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ở Châu âu, Emile lại vào quân đội. Nhiệm vụ của ông lần này là giải mật mã. Emile làm việc tại đội bảo vệ đảo If. (Fuliulu) ngoài cảng Marseille. Chủ nhật hàng tuần, Emile thường về thăm mẹ ở Aubague. Lúc đó mẹ đang mang bệnh nên rất mong Emile trở về. Emile không ngờ mẹ lại ra đi nhanh đến vậy. Cử hành tang lễ cho mẹ xong, cũng là lúc ý tuyên chiến vớí Pháp. Bản tính hay lo lắng, Emile sợ rằng miền Nam nước Pháp - nơi chúng tôi đang sống sẽ trở thành chiến trường ác liệt, sẽ bị quân ý xâm lược. Emile khuyên tôi đi sơ tán. Tôi nghĩ nếu sơ tán, tôi sẽ về Nhật quê hương tôi. Tôi không muốn chia tay với Emile, nhưng rồi tôi cũng phải lên chuyến tàu Hakusanmaru. Đó là con tàu cuối cùng của Nhật cập cảng Marseille. Nhưng tôi không ngờ chiến tranh ở Nhật còn ác liệt hơn. Gần 8 năm chiến tranh chúng tôi không được gặp nhau.

Tháng 4 năm 1948, nhờ lời đề nghị đặc biệt của Bộ ngoại giao Pháp tới tổ chức GHQ ở Tokyo (Tổng tư lệnh các nước Đồng Minh), tôi được sang Pháp. Nơi ngày xưa chúng tôi sống giờ hoàn toàn thay đổi. Nhà cũ bị bán. Nơi ở bây giờ chỉ là một phòng nhỏ nằm trong thành phố Lille, đối diện với trường Ngôn ngữ phương Đông. Trước chiến tranh, có một thời gian ngắn chúng tôi đã thuê ở đây, vì Emile dạy ở trường này. Toàn bộ sách vở của Emile được gửi ở phòng hầm của trường. Bây giờ hai vợ chồng thầy Boaie cũng chuyển về một căn phòng ở tầng dưới cùng của tòa nhà. Thầy Boaie nay đã về hưu, thầy cũng già đi rất nhiều.

Emile - chồng tôi sau đó không dạy ở trường Ngôn ngữ phương Đông nữa, ông đã thành đạt hơn trong sự nghiệp, ông trở thành giáo sư thỉnh giảng ở Collège de France. Như các bạn đã biết, Collège de France là vũ đài hoạt động lý tưởng cho các học giả nổi tiếng ở Pháp.

Dạy ở Collège de France.

(...) Liên tục trong 18 năm, Emile giảng bài tại Collège de. France, 2 tuần 1 lần, 30 tiếng trong một năm. Trong giờ giảng của Emile, sinh viên tham dự hầu hết là người Việt tại Pháp. Một tạp chí ở Pháp đã giới thiệu ảnh Emile giảng bài và các sinh viên Việt Nam đang chăm chú ghi chép chữ Hán. Hoàng hậu Việt Nam khi nhìn thấy bức ảnh này, có gửi tặng Emile một viên đá quý và nhờ dạy Hán học cho Thái tử. Emile từ chối, chuyện này gây xôn xao dư luận thời đó.

Tháng 2 năm 1965, Emile giảng dạy buổi cuối cùng. 7, 8 sinh viên người Việt Nam tổ chức một buổi lễ tiễn đưa Emile tại nhà anh Trần – một sinh viên lớn tuổi nhất. Chúng tôi được mời ăn món ăn Việt Nam và được tặng một món quà là bức sơn mài. Dưới món quà đó có dòng chữ Quốc ngữ. Tôi không đọc được dòng chữ đó, nhưng tôi biết đó là món quà đầy tình nghĩa của người Việt Nam. Tôi cất giữ nó cẩn thận, vì chưa biết đặt nó vào vị trí trang trọng nào mới xứng đáng.

Mùa xuân năm ngoái tôi chợt nghĩ ra là nên đặt vật kỷ niệm đó ở phía sau bài vị thờ chồng tôi. Làm như vậy tôi sẽ có cảm giác món quà của Emile sẽ ở bên cạnh Emile và ông ấy sẽ luôn được gắn bó với người Việt Nam ngay cả sau khi qua đời.

Sách sưu tập.

Trên 10 tấn sách Emile gom góp được trong cuộc đời của ông. Như trên đã nói, thuở nhỏ, môi trường tri thức của Emile rất nghèo, nhưng ông lại rất thích sách. Ông cất giữ cẩn thận tất cả những cuốn sách ông có, nhưng ghét sách bẩn. Tính cách này ông cả đời không thay đổi.

Bây giờ tôi sẽ nói về những cuốn sách đặc biệt trong khối lượng sách đồ sộ này(*). Emile là học giả về Đông phương học nên đương nhiên ông có nhiều sách về triều Minh, triều Thanh ở Trung Quốc. Tôi nhớ lại hồi chúng tôi trọ ở khách sạn Bắc Kinh, tuy căn phòng rất rộng, nhưng sau 4 tháng liên tục mang sách về, cuối cùng đâu đâu cũng toàn sách là sách, trừ giường ngủ. Thời kỳ đó chính phủ Trung Quốc cấm mang sách cổ ra nước ngoài, Emile rất lo. Tới khi 15, 16 thùng sách được chuyển lên tàu không vấn đề gì, tàu rời cảng bình yên vô sự, không sao nói hết được nỗi mừng vui chúng tôi.

Trong kho sưu tập của Emile, quý hiếm nhất là thư tịch Việt Nam. Tôi nghĩ lúc đó Emile đã mua nhiều sách sẵn có ở nước này. Trường hợp không mua được, Emile nhờ người khác sao chép lại. Trước thế chiến thứ 2, ở Việt Nam có nhiều người giỏi chữ Hán, Emile có thuê một thanh niên giỏi chữ Hán sao chép lại những sách ông không có. Sách sao chép được mấy chục cuốn và hầu như không có trường hợp nào chữ viết bị nhầm lẫn.

Giấy của Việt Nam được làm từ vỏ cây dó. So với giấy Nhật nó mỏng hơn, màu vàng. Nhìn bề ngoài chất lượng không cao, nhưng đã hơn 50 năm trôi qua, những cuốn sách này của chồng tôi vẫn còn đó, thật ngoài sự tưởng tượng của tôi.

Thời gian Emile ở cố đô Huế, ông được xem khu lăng mộ của các Tiên vương triều Nguyễn và tham quan bên trong hoàng cung. Khi đi qua vườn thượng uyển, ông để ý thấy có một cái kho cũ tối om. Do thói quen hay quan sát, qua khe cửa, Emile liếc nhìn vào trong, ông thấy có nhiều ván khắc được chất đống. Đó chính là ván khắc bộ sử Đại Nam thực lục. Quay về Học viện Viễn Đông, Emile báo cáo ngay việc này. Người ta quyết định chuyển số ván khắc đó về [Hà Nội] in lại thành vài bộ. Tôi nghe nói một bộ được chuyển sang Đông Dương văn khố (Toyo Bunko), một bộ được chuyển sang thư viện của trường Đại học Keio. Hiện nay trong danh mục của Đông Dương văn khố có ghi ngày 31/3/1936 nhận được bộ sách này.

Trong thời gian ở Đông Dương, Emile đã có công trong việc cứu vãn bộ văn khắc này khỏi bị hư hỏng (*).

Nếu là người bình thường, khi chở trên 10 tấn sách sang Nhật thì cứ chở bằng tàu, còn mình thì lên máy bay. Nhưng vốn là người yêu sách, Emile đã lên tàu cùng với 10 tấn sách vòng qua Châu Phi, Philippin, cập nhiều cảng, nhiều đảo. Hơn 2 tháng lênh đênh trên biển cùng 10 tấn sách, Emile mới tới được Nhật.

Emile yêu sách, sẵn sàng chết cùng sách khi tàu chìm. Con người ông là vậy. Emile đã gửi tâm hồn của mình vào chúng. Tôi muốn giữ mãi kho tàng này của chồng bên cạnh mình.

Những điều tôi nói trên đây chỉ là hình bóng, một phần nhỏ trong cái bóng lớn. Vừa viết bài này, tôi vừa hối hận không nguôi khi đã không quan tâm, để ý kỹ tới cuộc sống, tới thành tựu trong công việc của một con người thân thiết nhất trong cuộc đời tôi gần 50 năm.

Đáng lẽ ra tôi nên hỏi kỹ hoặc đề nghị Emile chỉ bảo cụ thể hơn trong học thuật. Nhưng tôi đã không làm được điều đó. Nhật ký của tôi đã mất trong chiến tranh. Tài liệu chồng tôi để lại lại quá nhiều. Tôi không thể hình dung được phải mất bao năm để đọc hết những tài liệu Emile để lại. Bây giờ tôi đã già rồi, lại bị bệnh mắt, đến bao giờ tôi mới có thể viết được toàn bộ diện mạo người chồng kính yêu của tôi cho các bạn biết ?

Bài viết này chỉ sơ lược qua con người Emile. Mong các bạn hiểu và thông cảm cho tôi.

CHÚ THÍCH

(1) Theo tài liệu của Viện viễn Đông bác cổ là: Dominique

(2) Tên của người này hiện chúng tôi chưa thể khôi phục nguyên dạng được - ND.

(3) Bản dịch này trước lúc đưa in, đã được Cô giáo Rika - người Nhật và ông Nguyễn Văn Trường ở Học Viện Viễn Đông Pháp tại Hà Nội xem lại và đính chính cho một số chỗ, nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

(*) Những chỗ chúng tôi lược bớt.

Lương Thị Thu dịch