 |

"PHONG THỦY" HAY CÁCH NHÌN CỦA NGƯỜI PHƯƠNG ĐÔNG THỜI CỔ VỀ MÔI TRƯỜNG
THỌ NHÂN
Như chúng ta biết, "phong thủy" 風 水 là một môn cảnh quan văn hóa, được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng triết học truyền thống phương Đông như "khí luận", "âm dương", "ngũ hành", "bát quái", "thiên nhân hợp nhất"…
Phong thủy nhấn mạnh sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, mà thực chất là lựa chọn, thiết kế cho con người một môi trường sống và phát triển lý tưởng. Phong thủy không những trực tiếp chi phối việc chọn địa điểm để tạo lập thôn trang, xây dựng phố chợ, làm nhà, cất mộ… mà còn liên quan tới Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, cùng thơ, tranh sơn thủy của người xưa.
Quả tình trong phong thủy có hàm chứa một số thành phần mê tín, phi khoa học, nhưng mục tiêu mà nó nhe nhắm, theo đuổi - giành lấy cho con người một môi trường sống và phát triển lý tưởng - thì lại mang tính vĩnh hằng. Điều này giải thích vì sao ngày nay, trong thời buổi khoa học kỹ thuật phát triển, lại có không ít người ở phương Tây cũng như phương Đông chăm chú tìm hiểu, khai thác một số mặt tích cực nào đó trong thuật phong thủy truyền thống để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống trước mắt.
Bài này viết nhằm cung cấp một số hiểu biết có tính chất "thường thức" về phong thủy, một lĩnh vực mà nhiều người hiện đang quan tâm.
I. Những tiền đề triết học của phong thủy.
1. Nguồn gốc tư tưởng "âm dương" và ảnh hưởng của nó đối với phong thủy.
Nói về nguồn gốc tư tưởng "âm dương" 陰 陽, ta có thể truy nguyên tới Kinh Dịch 易 經. Trong cuốn sách được xem như "ông tổ" của văn hóa phương Đông này, hai từ "âm", "dương" tuy chưa xuất hiện, nhưng mầm mống của chúng đã được mã hóa bằng hai ký hiệu " ¾ " và " - - " rồi ! Các nhà nghiên cứu cho rằng " ¾ " (một vạch dài) là biểu trưng cho tính đực, tính nam, tính dương và "- -" (hai vạch ngắn) là biểu trưng cho tính cái, tính nữ, tính âm. Về sau gọi " ¾ " là "hào dương" (dương hào 陽 爻) và "- -" là "hào âm" (âm hào 陰 爻), hai ký hiệu cơ bản của Kinh Dịch. Mỗi tổ hợp 3 hào làm thành một "quẻ" (quái 卦); các hào âm và dương phối hợp với nhau được cả thảy 8 kiểu, gọi là 8 "quẻ đơn" (kinh quái 經 卦), cũng tức "bát quái 八 卦"; 8 quẻ đơn này lại phối hợp với nhau được cả thảy 64 kiểu, gọi là 64 "quẻ kép" (biệt quái 別 卦), cũng tức "lục thập tứ quái 六 十 四 卦". Có thể xem đây như bảng phân loại tổng quát của Kinh Dịch về quy luật vận hành của các sự vật trong vũ trụ chủ yếu thuộc 4 cõi: trời, đất, sinh vật và người. Kinh Dịch cho rằng âm dương là căn nguyên của sự vật hay nói khác đi, trời đất, sinh vật và con người đều là sản phẩm của âm dương. Do có sự tác động, chuyển hóa giữa hai thế lực đối lập là âm và dương dưới hình thức "giao cảm" 交 感 mà sự vật ra đời. Cách nhìn này có lẽ được khái quát từ các hiện tượng phổ biến ở người và vật như nam nữ "giao cảm" với nhau sinh ra con cái, đực cái "giao cảm" với nhau sinh ra những con con , v.v.
Ngoài Kinh Dịch, tư tưởng âm dương còn được ghi lại trong nhiều sách khác như Kinh Thi 詩 經 (Mân phong / Thất nguyệt; Tiểu nhã / Thái vi; Đại nhã / Công Lưu), Hoàng Đế tố vấn 皇 帝 素 問 (âm dương ứng tượng đại luận), Quản Tử 管 子 (Tứ thời thiên), Hoài Nam Tử 淮 南 子 (Bảo kinh huấn) v.v. Ở những tác phẩm vừa nêu, khái niệm "âm", "dương" đã được thể hiện bằng ký tự, nghĩa là không còn dừng lại ở dạng ký hiệu như trong Kinh Dịch nữa.
Tư tưởng âm dương, như ta sẽ thấy, ảnh hưởng rất nhiều đến môn phong thủy. Chẳng hạn sách phong thủy Hoàng Đế trạch kinh 皇 帝 宅 經 viết: "Âm giả, sinh hóa vật tình chi mẫu giã. Dương giả, sinh hóa vật tình chi phụ giã. Tác thiên địa chi tổ, vi dựng dục chi tôn = Âm là bà mẹ làm cho muôn vật sinh sôi nảy nở. Dương là ông cha làm cho muôn vật sinh sôi nảy nở. Làm ông tổ của trời đất, là đấng tôn trưởng thai nghén và nuôi dưỡng muôn loài ". ở đây, sách đã dựa vào tư tưởng âm dương để giải thích sự ra đời của muôn vật. Hay một cuốn sách phong thủy khác, Quản Thị địa lý chỉ mông 管 氏 地 理 指 濛 có đoạn: "Hỗn độn khai tịch, giang sơn diên mậu. Dung kết âm dương, bàng bạc vũ trụ. Cương cốt ký thành, nguyên mạch dĩ thấu. Dĩ chung hình thế, dĩ thông khí hậu = Trời đất khai phá, sông núi dặc dài. Âm dương giao hòa, bàng bạc vũ trụ. Sườn gò đã thành, nguồn mạch đã thấu. Để tạo hình thế, để thông khí hậu". ở đây, sách đã dùng tư tưởng âm dương để giải thích sự sinh thành của trời đất.
2. Sự ra đời của "khí luận" và dấu ấn của nó trong phong thủy.
Nếu như tư tưởng âm dương là kết quả nhận thức buổi đầu của người phương Đông đối với thế giới xung quanh, thì ở giai đoạn tiếp theo, vấn đề đặt ra trong chương trình nghị sự của họ lại là "khí luận" 氣 論.
"Khí" trước hết được gắn với âm dương. Sách Quốc ngữ 國 語 (Chu ngữ thượng) khi bàn về nông vụ, có nói vào tiết lập xuân, khí dương náu trong đất bắt đầu bốc lên, nhà nông nên chớp dịp này mà cày cấy trồng trọt. ở một chỗ khác cũng trong Quốc ngữ, người ta cho rằng động đất là do khí âm và khí dương bị trục trặc trong sự phối hợp: "Phù thiên địa chi khí bất thất kỳ tự ; nhược quá kỳ tự, dân loạn chi giã. Dương phục nhi bất năng xuất, âm bách nhi bất chưng, ư thị hữu địa chấn = Kìa như khí của trời đất không thể mất trật tự vốn có của nó; nếu vượt qua trật tự này thì dân sẽ loạn. Khí dương náu mà không ra được, khí âm đè không cho khí dương bốc lên, thế là sinh động đất".
“Khí” còn được dùng để giải thích sự cấu tạo và biến đổi của sự vật. Chẳng hạn sách Tả truyện 左 傳 (Chiêu công ngũ niên) chép lời Y Hòa 醫 和 nói về "Sáu khí": "Thiên hữu lục khí, giáng sinh ngũ vị, phát vi ngũ sắc (...) dâm sinh lục tật. Lục khí viết: âm, dương, phong, vũ, hối, minh = Trời có sáu khí, giáng sinh thành năm vị, phát ra thành năm sắc (...). Khi sáu khí biến đổi bất thường sẽ làm nảy sinh sáu căn bệnh. Sáu khí đó là: âm, dương, gió, mưa, tối, sáng". Lại có thuyết "tinh khí" của Lão Tử 老 子 được trình bày trong Đạo đức kinh 道 德 經 (Thiên 21): "Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín = Đạo là một vật chỉ thấp thoáng mập mờ. Mập mờ thấp thoáng, trong đó có hình tượng. Thấp thoáng mập mờ, trong đó có sự vật. Sâu xa tăm tối, trong đó có cái mầm. Cái mầm ấy rất chắc chắn, trong đó có cái đáng tin". Trong đoạn văn trên, cái mà Lão Tử gọi là "tinh khí", ta có thể hiểu là "tinh trùng", tức là cái mầm của sự sống.
Đến sách Quản Tử, người ta đem khái niệm "khí" thay cho khái niệm "đạo" 道 của Lão Đam 老 聃: Thủy giả, địa chi huyết khí, như cân mạch chi lưu thông giả giã = Nước là khí huyết của đất, lưu thông như gân mạch vậy"; "Nhân, thủy giã, nam nữ tinh khí hợp nhi thủy lưu hành = Người là nước vậy, tinh khí của nam và nữ giao hòa cùng nhau mà nước được lưu thông"; "Khí giả, thân chi sung giã = Khí là thứ chứa đầy cả thân người" (Quản Tử / Tâm thuật thiên hạ); "Tinh giã giả, khí chi tinh giả giã = Tinh là cái tinh của khí"; "Thiên xuất kỳ tinh, địa xuất kỳ hình, hợp thử dĩ vi nhân = Trời cấp cho cái tinh, đất cấp cho cái hình, hợp hai thứ đó lại thành con người" (Quản Tử / Nội nghiệp thiên); "Hữu khí tắc sinh, vô khí tắc tử, sinh giả dĩ kỳ khí = Có khí thì sống, không có khí thì chết, sống được là nhờ ở khí" (Quản Tử / Xu ngôn thiên).
Ngoài ra, còn có các thuyết như "khí phân âm dương" (khí chia ra âm và dương) của Trang Tử 莊 子 (Trang Tử / Tắc dương); "âm dương nhị khí ly hợp" (hai khí âm dương lúc tách lúc hợp) của Hát Quan Tử 鶡 冠 子 (Hát Quan Tử) v.v.
"Khí luận" dã trở thành chiếc cột đỡ quan trọng giúp môn phong thủy hình thành và phát triển. Một loạt thuật ngữ phong thủy đã dựa vào "khí luận" để ra đời, như "sinh khí" "tử khí", “dương khí”, "âm khí", "thổ khí", "địa khí", "nạp khí", "tụ khí", "khí mạch", "khí mẫu"... Ngay bản thân hai chữ "phong thủy" cũng được xác lập trên cơ sở "khí luận": "Kinh viết: Khí thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ, cổ nhân tụ chi sử bất tán, hành chi sử hữu chỉ, cố vị chi phong thủy = Kinh phong thủy nói: Khí gặp gió thì tản mát, gặp nước thì dừng lại, người xưa tìm cách làm cho khí ngưng tụ, không để bị tản mát, dắt dẫn nó đi tới điểm dừng, vì vậy mà gọi là phong thủy".
3. Quan niệm vũ trụ là một thể thống nhất và quả đất là một vật sống, một người mẹ.
Vũ trụ vốn là một thể thống nhất. Thể thống nhất ấy, với Lão Tử là "đạo": "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật = Đạo sinh ra cái Một (Thái cực), cái Một sinh ra cái Hai (âm dương), cái hai sinh ra cái Ba (âm dương và giao hợp giữa chúng), cái Ba sinh ra muôn vật" (Lão Tử, Thiên 42). Với một số người khác, thể thống nhất của vũ trụ lại là "khí": "Thiên địa thành vu nguyên khí = Trời đất hình thành từ nguyên khí" (Hát Quan Tử / Thái lục); "Nhất thiết vật giai khí sở vi giã = Mọi vật đều do khí làm nên" (Trương Tải 張 載 Chính mông / Càn xưng thiên); "Nhân dữ thiên địa, quỷ thần, vạn vật nhất khí giã = Người cùng trời đất, quỷ thần, muôn vật đều thống nhất ở khí" (Vương Đình Tướng 王 廷 相: Thận ngôn / Tác kinh). Do trời đất, muôn vật, người đều sinh ra từ "đạo" hoặc "khí" nên có thể nói như Trình Hiệu 程 顥: "Thiên địa vạn vật vi nhất thể = Trời đất, muôn vật là một thể thống nhất" (Di thư, Q.15), hoặc Vương Đình Tướng: "Dư giảng học chỉ chủ lục tự, viết: Thiên địa vạn vật nhất thể = Ta dạy học chủ yếu chỉ có sáu chữ, là: trời đất muôn vật thống nhất" (Thận ngôn / Tác kinh). Ngày nay chúng ta cũng quan niệm gần như thế: vũ trụ được tạo nên bởi "vật chất". Khác chăng là ở chỗ khái niệm "vật chất" vừa nêu so với khái niệm "đạo", "khí" hoặc "ê-te" (Leibniz, 1646 - 1715)... của người xưa toàn diện hơn, đầy đủ hơn, khách quan và khoa học hơn.
Trong cái vũ trụ thống nhất ấy, quả đất được xem như một sinh thể. Trạch kinh 宅 經 một cuốn sách phong thủy khi bàn về một vùng miền khả dĩ chọn làm nơi ở tuyệt hảo đã viết như sau: "Dĩ hình thế vi thân thể, dĩ tuyền thủy vi huyết mạch, dĩ thổ địa vi bì nhục, dĩ thảo mộc vi mao phát, dĩ xá ốc vi y phục, dĩ môn hộ vi quan đái, nhược đắc như tư, thị sự nghiêm nhã, nãi vi thượng cát = Lấy địa hình làm cơ thể, lấy nguồn nước làm huyết mạch, lấy đất đai làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy nhà cửa làm quần áo, lấy môn hộ làm mũ đai, nếu được một vùng miền như vậy thì đấy là một lựa chọn nghiêm túc, trang nhã, có thể xem như cực tốt”. Các thành phần tạo nên quả đất cũng giống các yếu tố tạo nên con người: “Thủy tắc nhân thân chi huyết (...), hỏa tắc nhân thân chi khí (...), thổ tắc nhân thân chi nhục (...), thạch tắc nhân thân chi cốt (...), Hợp thủy hỏa thổ thạch tắc vi địa, do hợp huyết khí cốt nhục vi nhân = Nước như là máu ở thân người (...), lửa như là khí ở thân người (...), đất như là thịt ở thân người (...), đá như là xương ở thân người (...). Nước, lửa, đất, đá hợp lại thành đất, cũng như huyết, khí, xương, thịt hợp lại thành người” (Thái Mục Đường 泰 牧 堂: Phát vi luận).
Quả đất không chỉ là một vật sống, có “sinh mệnh” riêng, mà nó còn được quan niệm như một người mẹ: “Càn, thiên giã, cố xưng hồ phụ; khôn, địa giã, cố xưng hồ mẫu = Càn là trời, nên gọi là cha; khôn là đất, nên gọi là mẹ” (Dịch truyện / Thuyết quái truyện). Nói về người mẹ, cũng tức là nói về nguồn mạch của sự sống, một cái gì rất đỗi thiêng liêng. Khoa nhân loại học ngày nay cho thấy, vào thời tiền sử, con người dã man chưa hình dung được rằng muốn tạo nên một con người, phải có hai người khác giới tính. Họ không nghĩ “tính giao” sinh ra con cái; trong ý thức người thái cổ, nam giới bị gạt ra ngoài vòng sinh sản. Từ đó dẫn tới sự sùng bái mẫu quyền. Không phải bỗng dưng mà Lão Đam lại hoài niệm về một xã hội “nước nhỏ, dân ít” (tiểu quốc, quả dân) thời thượng cổ, trong đó, người mẹ được đặc biệt tôn thờ. Ta còn thấy trong sách Lão Tử, tác giả hết sức tán dương những cái mà trong con mắt người đời thường cho là “mặt trái”, như thư (con cái), nhược (yếu), khúc (cong), hạ (thấp), hậu (phía sau), từ (thương xót), cốc (cái hốc đen)... Tất cả các từ đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới nữ giới, tới bà mẹ, người đã cung cấp cho nhân loại căn phòng ở đầu tiên vừa an toàn, vừa thoải mái trước khi ra chào đời, như Freud từng nhận xét: “Tử cung là căn phòng ở đầu tiên, loài người trong mười phần có đến tám chín phần còn lưu luyến nó, bởi nơi ấy an toàn, thoải mái”. Và điều này cũng giải thích tại sao Lão Đam lại nói: “Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn. Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần = Sự thần diệu của cái hang (âm đạo) không chết, cho nên gọi là bà mẹ huyền diệu, đó là cái gốc của trời đất. Tồn tại xem ra dằng dặc, dùng mà không hết”. (Lão Tử, Thiên 6).
Chính những cách nhìn trên đây đã ảnh hưởng không ít tới môn phong thủy, nhất là quan niệm quả đất là một sinh thể, một bà mẹ mà loài người đã gắn bó từ thuở ấu thơ.
II. Lịch sử hình thành và phát triển của môn phong thủy Trung Quốc
Từ những tiền đề triết học do lịch sử cung cấp, môn phong thủy phương Đông mà nôi sinh của nó là Trung Quốc đã thai nghén, hình thành và từng bước phát triển. Có thể chia lịch sử phong thủy Trung Quốc ra làm mấy giai đoạn lớn như sau:
1. Tiên Tần:
Đây là thời kỳ quan niệm phong thủy được thai nghén. Con người từ khi còn “ở hang” (huyệt cư), “ở tổ” (sào cư), cho đến lúc vươn ra làm nhà làm cửa sống ở ngoài trời (dã xử), đều có sự lựa chọn trong chừng mực nhất định về hoàn cảnh cư trú. Chẳng hạn khi “ở hang” thì chọn nơi cao ráo: “Cổ nhân nhân khâu lăng quật huyệt nhi xử = Người xưa nhân gò, đồi đào hang mà ở” (Mặc Tử 墨 子 / Tiết dụng). Khi “ở tổ” thì chọn chốn an toàn: “Cổ giả cầm thú đa nhi nhân dân thiểu, ư thị dân giai sào cư dĩ tị chi, trú kiểm tượng lật, mộ thê thụ thượng, cố mệnh chi viết Hữu Sào Thị dân = Thời xưa chim muông nhiều, nhân dân ít, vì thế dân đều ở bằng tổ để lánh chúng, ban ngày thì đi nhặt hạt gắm, hạt dẻ, ban đêm thì leo ngủ trên cây, cho nên gọi là dân họ Hữu Sào” (Trang Tử / Đạo Chích thiên). Đến lúc ra ở ngoài trời, việc lựa chọn môi trường thể hiện lại càng rõ qua một di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ văn hóa Ngưỡng Thiều được phát hiện ở Bán Pha Thôn thuộc Tây An (tỉnh Thiểm Tây) vào năm 1954 mà ta có thể phác họa sơ đồ như sau:
Sơ đồ di chỉ khảo cổ Bán Pha Thôn ở Tây An
(Theo Lưu Bái Lâm: Phong thủy – Trung Quốc nhân đích hoàn cảnh quan. Thượng Hải Tam liên thư điếm xuất bản, 1998, tr.27)
Trong sơ đồ trên:
1. Khu dân cư.
2. Khu nhà hang.
3. Sông ngòi.
4. Mương rãnh.
5. Khu mộ táng.
Điều đáng chú ý ở đây là khu dân cư và khu mộ táng đã tách rời nhau, báo hiệu việc phân biệt “âm trạch” 陰 宅 với “dương trạch" 陽 宅 sau này.
2. Tần Hán - Ngụy Tấn:
Trong văn hiến Tiên Tần đã thấy xuất hiện những từ liên quan đến môn phong thủy như “bốc trạch” 卜 宅 tức bói chỗ ở (Giáp cốt văn 甲 骨 文), “tướng địa” 相 地 tức xem đất (Kinh Thi / Công Lưu), nhưng quan niệm phong thủy hồi bấy giờ còn trong tình trạng mò mẫm, chiêm nghiệm, chưa nâng lên thành lý luận. Phải đợi sang thời kỳ Tần Hán - Ngụy Tấn, lý luận phong thủy mới từng bước hình thành.
Vào thời Tần Hán, thuyết âm dương được phổ biến rộng rãi, trở thành nguyên lý giải thích mọi vật trong thế gian. Thuyết âm dương hồi này đã cung cấp cho môn phong thủy chí ít là về mặt phương pháp luận khi bàn về địa hình địa thế.
Thuyết “ngũ hành” 五 行 đến thời Tần Hán cũng phát triển mạnh. Môn phong thủy đã mượn “ngũ hành” gồm mộc, kim, hỏa thủy và thổ để thay thế cho “ngũ phương” 五 方 gồm đông, tây, nam, bắc và trung ương. Không chỉ vậy, ở thuyết “ngũ hành” còn có chuyện “tương sinh, tương khắc” 相 生 相 克, “ngũ đức chung thủy” 五 德 終 始 đến đời Hán được Đổng Trọng Thư 董 仲 舒 khoác lên một lớp áo đẳng cấp, trở thành chỗ dựa quan trọng về mặt lý luận cho môn phong thủy đương thời: “Mộc ở bên tả, kim ở bên hữu, hỏa ở mặt tiền, thủy ở mặt hậu, thổ ở trung ương (...). Cho nên mộc ở phương đông chủ về khí xuân, hỏa ở phương nam chủ về khí hạ, kim ở phía tây chủ về khí thu, thủy ở phương bắc chủ về khí đông. Do đó mộc chủ sinh mà kim chủ sát, hỏa chủ nhiệt mà thủy chủ hàn” (Xuân thu phộ lộ 春 秋 蘩 露 / Ngũ hành chi nghĩa). Ngoài ra, do thuộc tính khác nhau, mỗi đơn vị ngũ hành còn đại diện cho một loại màu sắc: “Khí đất thắng thì màu chuộng vàng (...), khí mộc thắng thì màu chuộng xanh (...), khí kim thắng thì màu chuộng trắng (...), khí thủy thắng thì màu chuộng đen (...) (Lã Thị xuân thu 呂 氏 春 秋 / ứng đồng).
Bát quái đến thời Hán được lồng thêm tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” 天 人 合 一 (trời và người hợp nhất với nhau), khiến cho mỗi quẻ mang một hàm nghĩa riêng: “Càn 乾 là trời, còn được hiểu là vua, tông, môn, đầu, đức... “Khôn” 坤 là đất, còn được hiểu là bề tôi, thành ấp, ruộng, nhà cửa, đất liền... “Chấn” 震 là sấm, còn được hiểu là chủ, đường bằng phẳng, hàng rào, bên trái... “Khảm” 坎 là nước, còn được hiểu là sông, suối, ao đầm, giếng nước... “Ly” 離 là lửa, còn được hiểu là cửa, nhà giam, bếp... “Cấn” 艮 là núi, còn được hiểu là đá, đền, miếu, cung điện, huyệt... “Đoài” 兌 là chẵm, còn được hiểu là em gái, bên phải... Bát quái lại phối hợp với “10 cành” (Thập can: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) và “12 nhánh” (Thập nhị chi: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) để dùng vào việc xác định tọa độ trong môn phong thủy.
Trên cơ sở phát triển mới của âm dương, ngũ hành, bát quái cùng những phái sinh của chúng là ngũ phương, ngũ sắc, thập can, thập nhị chi, kể cả “tứ thú” (còn gọi là tứ linh, tứ tượng: đông thanh long, tây bạch hổ, nam chu tước, bắc huyền vũ), một số thuật ngữ về môn phong thủy và sách vở nói về phương vị trong phong thủy cũng đã bắt đầu xuất hiện như "địa mạch" 地 脈 (Sử ký / Mông Điềm liệt truyện), “kham dư gia” 堪 輿 家 (Sử ký / Nhật Giả liệt truyện), Kham dư kim quỷ 堪 輿 金 櫃 gồm 14 quyển, Cung trạch địa hình 宮 宅 地 形 gồm 20 quyển (Hán thư / Nghệ văn chí) v.v.
Đến thời Ngụy Tấn, hệ thống lý luận về phong thủy bắt đầu xác lập, với một số nhà phong thủy nổi tiếng như Quản Lộ và Quách Phác.
Quản Lộ 管 輅 (209 - 256), người Sơn Đông, sống vào đời Tam quốc, thuở nhỏ thích thiên văn, lớn lên tinh thông Kinh Dịch, và giỏi về bói toán, phong thủy (Tam quốc chí / Ngụy thư / Quản Lộ truyện). Có sách Quản Thị địa lý chỉ mông 管 氏 地 理 指 蒙 gồm 40 quyển, thác danh Quản Lộ soạn. Nội dung sách nói về “âm dương giao cảm” 陰 陽 交 感 “vọng khí tầm long” 望 氣 尋 龍 dựa vào thuyết ngũ hành để bàn về đất mai táng.
Quách Phác 郭 樸 (276 - 324) người Sơn Tây, sống vào đời Đông Tấn, tinh thông kinh học, thuật số, nhất là việc dùng thuyết “âm dương vọng khí” để “xem đất” (tướng địa). Có tác phẩm Táng thư 葬 書 thác danh Quách Phác soạn. Nội dung sách bao gồm các phần sau:
a. Thuyết "sinh khí": Muôn vật đều sinh từ khí. Có sinh khí thì sẽ hưng thịnh, cho nên việc chôn cất phải tìm nơi có sinh khí.
b. Thuyết "tàng phong đắc thủy": “Phong” và “thủy” là hai nhân tố chủ yếu trong việc bảo vệ sinh khí, cho nên vừa phải “tàng phong” 藏 風 (trốn gió), lại vừa phải “đắc thủy” 得 水 (được nước chắn lại), trong đó “đắc thủy” đứng hàng đầu, “tàng phong” đứng hàng thứ hai. Bởi vì nước đóng vai trò chính trong việc giữ cho môi trường sinh thái có “sinh khí”.
c. Thuyết "địa hình tàng khí": “Khí” dựa vào địa hình địa thế mà di chuyển hoặc dừng lại trong đất. Chung quanh nơi mai táng cần có nhiều gò đồi để dẫn sinh khí và tụ sinh khí. Cảnh quan do vậy phải nhấp nhô mới gọi là tốt được.
d. Thuyết "phương vị": Dùng “tứ linh” (4 vật linh) thay cho bốn hướng. Nơi mộ táng, bên tả là “thanh long” (rồng xanh), bên hữu là “bạch hổ” (cọp trắng), mặt tiền là “chu tước” (chim công đỏ), mặt hậu là “huyền vũ” (rùa đen). Bốn vật linh này lấy dáng núi để tượng trưng, cốt gây cảm giác đăng đối, trang trọng.
e. Thuyết "di thể thụ ấm”: Thân thể con người là do cha mẹ sinh ra; xương cốt của cha mẹ là gốc gác của con cháu. Hình thể con cháu là một phần của hình thể cha mẹ còn lưu lại trên đời. Hài cốt của cha mẹ nếu được sinh khí bảo vệ, con cháu sẽ được phúc ấm. Vì vậy mà tìm cho người chết một nơi mai táng lý tưởng (huyệt có sinh khí) sẽ dẫn tới hai cái lợi: một là người quá cố được nơi yên nghỉ tốt; hai là con cháu cũng được che chở, làm ăn thịnh vượng...
Táng thư, tương truyền do Quách Phác soạn, lần đầu tiên nêu ra được một khái niệm phong thủy tương đối cụ thể, trong đó, về mặt lý luận, lấy “âm dương” làm căn bản, lấy thuyết “sinh khí” làm hạt nhân, lấy “tàng phong đắc thủy” làm điều kiện, nhằm đạt tới một môi trường sinh thái lý tưởng cho cả “dương trạch” (địa điểm cư trú) lẫn “âm trạch” (địa điểm mai táng).
3. Đường Tống:
Đây là thời kỳ lý luận phong thủy phát triển và định hình. Vào giai đoạn này xuất hiện nhiều nhà phong thủy có tên tuổi như Viên Thiên Cang 袁 天 罡, Lý Thuần Phong 李 淳 風, Dương Duân Tùng 楊 筠 松, Thái Nguyên Định 泰 元 定, Lại Văn Tuấn 賴 文 俊... trong đó, ảnh hưởng nhiều nhất là Dương Duân Tùng và Lại Văn Tuấn.
Dương Duân Tùng hiệu Cứu Bần 救 貧 người Quảng Đông, sống vào đời Đường. Lý luận phong thủy của ông chủ yếu thể hiện ở ba bộ sách sau:
a. Hám long kinh 撼 龍 經: bàn về hình thế các long mạch gồm “9 ngôi sao” (cửu tinh) là bần lang, cự môn, lộc tồn, văn khúc, liêm trinh, vũ khúc, phá quân, tả phụ, hữu bật.
b. Nghi long kinh 疑 龍 經 bàn về “can trung tầm chi” (tìm chi 支 trong can 干, “tầm long đáo đầu” (tìm nơi rồng tới), “kết huyệt hình thế” (hình thế huyệt kết).
c. Táng pháp 葬 法: bàn về cách “điểm huyệt” (chỉ ra chỗ nào là huyệt chứa sinh khí)...
Lại Văn Tuấn hiệu Bố Y Tử 布 衣 子, người Phúc Kiến, sống vào đời Tống, có soạn sách Thôi quan thiên 崔 官 篇 gồm 2 quyển, bàn về long, huyệt, sa, thủy...
Sách phong thủy giai đoạn này, ngoài mấy bộ trên, còn có không ít những tác phẩm khác nữa: Đường thư 唐 書 giới thiệu cả thảy 15 bộ; Tống thư 宋 書 giới thiệu cả thảy 51 bộ...
Đáng chú ý là đến Đường Tống, phong thủy đặc biệt gắn bó với Đạo giáo, vì cả hai đều coi trọng âm dương, ngũ hành, bát quái, khí luận, thậm chí có lúc Đạo giáo còn xem phong thủy như sân chơi của mình. Điều này cắt nghĩa vì sao trong Đạo tạng lại có mặt nhiều sách phong thủy đến thế.
Ngoài Đạo giáo, phong thủy còn bắt tay cả với Nho, Phật, Lão trên tinh thần bình đẳng, các bên cùng có lợi và rõ ràng đây là điều kiện để lý luận phong thủy được bảo vệ, phát triển và định hình.
4. Minh Thanh:
Đến Minh Thanh, lý luận phong thủy được sàng lọc, chú giải và đúc kết. Một loạt sách chỉnh lý, khảo chứng về phong thủy được công bố: vào đời Minh có Kham dư quản kiến 堪 輿 管 見 gồm 2 quyển của Tạ Đình Trụ 謝 廷 柱, Kham dư biện hoặc 堪 輿 辯 惑 gồm 1 quyển của Từ Bột 徐 渤; vào đời Thanh có Táng kinh tiên chú 葬 經 箋 注 gồm 1 quyển của Ngô Nguyên Âm 吳 元 音, Nghi long kinh hiệu bổ 疑 龍 經 校 補 gồm 3 quyển của Dương Minh Huân 楊 明 勛, Thanh nang giải hoặc 青 囊 解 惑 gồm 4 quyển của Uông Nguyên 汪 沅, Dương trạch tịch mậu 陽 宅 辟 謬 gồm 1 quyển của Mai Y Lão Nhân 枚 漪 老 人. Phong thủy khu hoặc 風 水 祛 惑 gồm 1 quyển của Đinh Nhuế Phác 丁 芮 朴 v.v.
Các tổng tập, toàn tập về địa lý phong thủy cũng nối tiếp nhau ra đời. Thuộc triều Minh, có Dương trạch thập thư 陽 宅 十 書 gồm 4 quyển của Vương Quân Vinh 王 君 榮, Dương trạch tập thành 陽 宅 集 成 gồm 9 quyển của Trần Mộng Hòa 陳 夢 和, Dương trạch đại toàn 陽 宅 大 全 gồm 10 quyển của Vô danh thị, ... Thuộc triều Thanh, có Địa lý đại thành 地 理 大 成 gồm 36 quyển của Diệp Cửu Thăng 葉 九 升, Sơn pháp toàn thư 山 法 全 書 gồm 19 quyển và Bình Dương toàn thư 平 陽 全 書 gồm 15 quyển của Diệp Thái 葉 泰, Dương trạch đại thành 陽 宅 大 成 gồm 15 quyển của Ngụy Thanh Giang 魏 青 江, Địa lý đại toàn 地 理 大 全 gồm 55 quyển của Lý Quốc Mộc 李 國 木...
III. "Hình thế" và "Lý khí", hai phái lớn trong phong thủy Trung Quốc
Về phương diện lý luận, phong thủy Trung Quốc dần dần phát triển theo hai hướng khác nhau: một đằng thì nhấn mạnh "khí chi hình" hay “ loan đầu hình thế" (hình thế các chỏm núi hoặc mô đất cao); và một đằng thì nhấn mạnh "khí chi vị" hay "khí chi phương vị" (vị trí di chuyển của khí). Hướng đi thứ nhất sau thành phái "hình thế ", còn gọi là phái "hình pháp" hay "phong thủy Giang Tây". Hướng đi thứ hai sau thành phái "lý khí" còn gọi là phái "phong thủy Phúc Kiến".
Phái Giang Tây (hình thế) chủ yếu dựa vào đặc điểm địa hình, địa thế để chọn đất cư trú hoặc mai táng. Theo phái này, có 5 yếu tố tạo thành môi trường phong thủy, đó là long, huyệt, sa, thủy và hướng (Địa lý ngũ quyết). "Long" (rồng) chỉ “địa mạch chi hành chỉ khởi phục = sự đi hoặc dừng, nhô lên hoặc lõm xuống của mạch đất" (âm dương nhị trạch toàn thư). Cũng có người giải thích: "Long giả hà ? Sơn chi mạch giã (...). Thổ nãi long chi nhục, thạch nãi long chi cốt, thảo nãi long chi mao = Rồng là gì ? ấy là mạch của núi vậy (...). Đất là thịt của rồng, đá là xương của rồng, cỏ là lông của rồng" (Sơn pháp toàn thư). "Huyệt" chỉ nơi "khí" hay "sinh khí" hội tụ; "Sa" chỉ những gò đồi hoặc núi nhỏ vây quanh "rồng" tức núi liền mạch, có tác dụng thu khí, chắn gió. "Thủy" là dòng chảy cắt ngang, buộc khí phải tụ lại. "Hướng" chỉ đường di chuyển của "khí". Nhiều người cho rằng thuyết "long mạch" 龍 脈 của phái "hình thế" có nguồn gốc từ hai bộ sách cổ Ngũ tạng sơn kinh 五 藏 山 經 và Vũ cống 禹 貢. Bộ sách đầu chia núi non Trung Quốc ra thành 5 hệ thống, cũng tức là 5 hệ "sơn mạch" hay "long mạch" lớn: Nam, Tây, Bắc, Đông và Trung ương. Bộ sách thứ hai dõi theo vết chân trị thủy của vua Hạ Vũ, chia Trung Quốc ra làm 9 châu, trong đó các dãy núi, các con sông được mô tả như là hình thành một cách mạch lạc, và đây là chỗ dựa quan trọng của thuyết "tam điều tứ lệ" 三 條 四 例 nói về sự phân bố các hệ sơn mạch trên lục địa Trung Quốc về sau.
Phái Phúc Kiến (lý khí) chủ yếu căn cứ vào "khí luận" trong triết học cổ Trung Quốc để chọn nơi ở hoặc chôn cất. Phái này cho rằng: "Nhất thiết vật giai khí sở vi giã = Mọi vật đều do khí làm ra" (Phương Dĩ Trí 方 以 智); "Sơn trạch, thủy thổ khí giai nhập thừa chi, tạo hóa chi đại trạch giã = Núi, chằm, nước, đất đều được khí lồng vào, trở nên ngôi nhà lớn của tạo hóa" (Vương Đình Tướng 王 廷 相); do vậy mà "Khí chi lưu hành sung tắc vũ trụ = Khí lưu hành khắp cả vũ trụ" (Chu Hy 朱 熹); "Thiên địa vạn vật vi nhất thể = Trời đất muôn vật là một thể thống nhất" (Trình Hiệu 程 顥). Trời đất, muôn vật đã là một thể thống nhất thì giữa chúng tất phải có một cái gì chung, cái chung ấy chính là "lý" hay "thiên lý". Trình Hiệu nói: "Vạn vật chỉ thị nhất cá thiên lý = Muôn vật chỉ là một cái thiên lý". Vấn đề đặt ra là con người phải biết dựa vào "thiên lý", một "lẽ trời" hạy “luật trời” chung để chọn cho mình một môi trường sống tối ưu, khả dĩ làm ăn, phát triển thuận lợi và tạo phúc cho con cháu. Một quan niệm về "thiên lý" gắn chặt với nhân sinh như thế đã dẫn tới những tìm tòi liên quan đến độ số các vì sao (Kinh Thi: Định chi phương trung, tác vu sở cung), năng lượng bức xạ (Lã Thị xuân thu / Tinh thông), từ trường quả đất (Lưỡng nguyệt đối nhiếp triều tịch đồ 兩 月 對 攝 潮 汐 圖), kim nam châm
(Tăng Tam Dị 僧 三 异: Nhân thoại lục 因 話 錄; Thẩm Quát 沈 括: Mộng khê bút đàm 夢 溪 筆 談). Những phát hiện trên cố nhiên không thể nào đạt đến trình độ khoa học như ngày nay, nhưng vẫn có tác dụng thúc đẩy môn phong thủy tiến lên phía trước.
Ngoài ra, phái "lý khí" còn quan tâm đến việc "trấn sát" 鎮 煞. Do phái này nhấn mạnh sự nhất trí giữa "lý" và "khí" nên vị trí của "khí" như thế nào là điều hệ trọng. Chẳng hạn hướng "đông nam" được phái này quan niệm là "tốt" (cát) vì có sinh khí; còn hướng "tây bắc" bị quan niệm là "xấu", "dữ" (hung) vì có "sáu hung thần" (lục sát). Mục đích của "trấn sát" là nhằm tránh "tà", chuyển "hung" thành "cát". Phương pháp "trấn sát" chủ yếu dùng đồ vật hoặc đạo bùa để trấn yểm. Đồ vật có đá, "thạch cảm đương", mặt nạ hình đầu thú, gương treo ngược, gương bát quái... Còn "bùa" thì phần nhiều dùng chữ viết biến dạng, khó nhận diện, cốt tạo ra cảm giác huyền bí, thiêng liêng. Các chữ dùng để viết bùa thường liên quan đến việc "nhương tai giải hạn" như sắc, phụng, nhật, nguyệt, thần, sát, quỷ, trảm, lệnh, hổ, tai, dị v.v. kết hợp với phù chú của Đạo giáo, Phật giáo... Việc "trấn vật" hay "trấn bùa" ở đây, xét cho cùng, cũng chỉ cốt thỏa mãn nhu cầu tâm lý, một hình thức văn hóa "dân tục học" không hơn không kém.
Sự phân biệt giữa hai phái thật ra chỉ là tương đối. Bởi lẽ trong môn phong thủy, "hình" và "khí" xoắn xuýt với nhau, không thể tách rời nhau: "Hình giả, khí chi trứ; khí giả, hình chi trưng. Khí ẩn nhi nan tri; hình hiển nhi dị kiến = Hình là biểu hiện bên ngoài của khí; khí là cấu tạo bên trong của hình. Khí ẩn nên khó biết; hình hiện nên dễ thấy" (Mạnh Hạo 孟 浩: Tuyết tâm phú chính giải 雪 心 覆 正 解). Sách Táng thư cũng nói: "Phù thổ giả, khí chi thể = Kìa như đất là cơ thể của khí"; "Địa hữu cát khí, thổ tùy nhi khởi = Nơi có khí tốt, đất theo đó nhô lên" v.v. Chính vì lẽ đó mà một nhà phong thủy nổi tiếng đời Thanh, Trương Tâm Ngôn 張 心 言 đã viết: "Kẻ không biết loan đầu (hình thế) thì không thể nói với họ về lý khí; kẻ không biết lý khí thì không thể nói với họ về loan đầu. Kẻ tinh thông loan đầu thì cuối cùng sẽ dung hợp với lý khí; kẻ tinh thông lý khí thì cuối cùng sẽ bắt gặp loan đầu" (Địa lý biện chính sớ 地 理 辯 正 疏).
Về mặt phổ cập, phái “lý khí” do đi sâu vào “lý”, “số” những khái niệm đặc biệt trừu tượng và rối rắm nên ít người nắm được, kết quả là lý luận về phong thủy của họ ngày một trở nên khó hiểu, không dễ phát huy ảnh hưởng. Trong khi đó thì phái “hình thế” lại bàn về địa hình cao thấp, một đối tượng cụ thể, mắt có thể nhìn, tay có thể sờ mó, nhờ vậy mà lý luận phong thủy của họ được truyền bá rộng rãi trong dân gian.
* * *
Môn phong thủy Trung Quốc sau khi được xác lập về mặt lý luận, đã sớm ảnh hưởng đến nhiều nước phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, kể cả những nước, những vùng miền có nhiều người Hoa cư trú như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Philipin v.v. Tại nơi du nhập, phong thủy Trung Quốc sẽ được chọn lọc, cải biên hoặc nhiều hoặc ít cho phù hợp với điều kiện địa lý và phong tục tập quán địa phương, để rồi sau đó lại đồng hóa, tiếp biến theo quy luật chung của giao lưu văn hóa.
Riêng trường hợp Việt Nam, phong thủy Trung Quốc được du nhập muộn lắm là vào thời kỳ Cao Biền sang làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta; từ đó về sau, Việt Nam cũng có một lịch sử phong thủy lâu dài và mang đậm dấu ấn của người đất Việt mà 70 cuốn sách về phong thủy của ta hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một minh chứng. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này vào một dịp khác, khi điều kiện cho phép.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Bái Lâm: Phong thủy - Trung Quốc nhân đích hoàn cảnh quan, Thượng Hải Tam liên thư điếm xuất bản, 1998.
2. Trịnh Càn Đức chủ biên: Chư tử bách gia, Ba Thục thư xã xuất bản, 1999.
3. Đoàn Văn Thông: Phong thủy về nhà ở và cơ sở làm ăn buôn bán, Nxb. Thế giới mới, Hoa Kỳ.
|