TB

25 NĂM BỘ MÔN HÁN NÔM KHOA VĂN HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THUỘC ĐẬI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI *

NGUYỄN TUẤN THỊNH

Vào những năm cuối của thập kỷ sáu mươi, khi tiếng súng chống xâm lược đang vang lên khắp trong Nam ngoài Bắc, lòng người cả nước đang hướng cả về nhiệm vụ thiêng liêng liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, thì ở một nơi tập trung nhiều các trí thức của dân tộc - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, các bậc túc Nho lớp cuối cùng và các nhà khoa học tâm huyết với truyền thống dân tộc lại đang thầm lặng làm một việc ít ai biết đến, đó là việc chuẩn bị cho một ngành học ra đời, ngành Hán Nôm học. Việc định hướng khôi phục lại việc dạy và học chữ Hán chữ Nôm, nghiên cứu chữ Hán chữ Nôm, nối lại dòng mạch cho một ngành học truyền thống có bề dày trên nghìn năm và gắn liền với lịch sử và truyền thống dân tộc là một sự lựa chọn mang tính lịch sử. Có thể coi những cố gắng để khai sinh ra ngành học Hán Nôm là công lao hàng đầu của Đảng ủy và Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Hội đồng khoa học Ngữ văn hai nhiệm kỳ của giai đoạn 68-72. Cũng vào thời điểm nói trên, những người đóng vai trò là các sáng lập viên của ngành học ngay từ đầu đã mường tượng đến Hán Nôm học với quy mô một khoa độc lập, nhưng điều kiện thời đại chưa cho phép nên cuối cùng một bộ môn trực thuộc khoa Ngữ văn đã ra đời vào năm 1972. Đây là một mốc quan trọng của ngành Hán Nôm.

25 năm nhìn lại, những người làm Hán Nôm học hôm nay không thể không nhắc đến công lao, tâm lực và trí tuệ của các bậc tiền bối đã có công mở nền cho ngành học. Đó là các thầy Cao Xuân Huy, Hoàng Xuân Nhị, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Tài Cẩn, Trần Đình Hượu, Bùi Duy Tân, Lê Văn Quán, Nguyễn Đình Thảng, Trần Thuyết... Trong số đó có thầy do cương vị lãnh đạo Khoa thời bấy giờ mà đóng góp, có người làm Chủ nhiệm bộ môn đầu tiên, có người đóng vai trò cố vấn, người thiết kế chương trình và chuẩn bị những bài giảng đầu tiên cho sinh viên chuyên ngành.Vào thời điểm bộ môn được thành lập, nhờ có đội ngũ các thầy uyên thâm Hán học, thông tỏ Tây học nên mặt bằng khoa học của chuyên ngành đã vững mạnh ngay từ đầu. Cho đến tận ngày nay, sau 25 năm xây dựng, một đội ngũ các thầy có sức mạnh tri thức như buổi khai cơ vẫn là niềm ao ước của chúng tôi - Các cán bộ giảng dạy trong chuyên ngành.

Một phần tư thế kỷ qua, bộ môn Hán Nôm trực thuộc Khoa Ngữ văn của trường đã trải qua biết bao thăng trầm, biến cố. Khi những Giáo sư đầu ngành, những bậc “sư biểu” nối nhau tạ thế hoặc chuyển đi nhận công tác khác, bô môn Hán Nôm đã đứng trước những thử thách lớn lao, thậm chí có lúc có ý kiến bàn đến bộ môn Hán Nôm nên tồn tại như một bộ môn ngoại ngữ ? Các khóa đào tạo mở cách niên, so với các bộ môn khác thì sinh viên học Hán - Nôm luôn có số lượng ít hơn, phần lớn không đăng ký học Hán Nôm một cách tự nguyện. Sinh viên vào học Hán Nôm rồi, ban đầu thường ít hứng thú học tập. Điều kiện giáo trình, sách vở tham khảo hầu như không có gì. Giảng viên ai soạn được gì giảng nấy. Mãi đến những năm đầu thập kỷ 80 mới có mấy tập giáo trình in Rônêô quý giá. Xã hội nói chung đậm đà với bộ môn này. Nói đến nó ai cũng bảo rằng hay lắm, quý lắm đấy, nhưng nếu như phải gắn cả đời với nghiên cứu Hán Nôm, coi nó thành cái nghiệp cả đời thì sẽ thành ra khó lắm. Đội ngũ cán bộ của bộ môn cũng có lúc này lúc khác được bổ sung, nhưng thường thì từ nhiều nguồn khác nhau, do những duyên cớ nghề nghiệp khác nhau, nhưng đại bộ phận đều không phải được đào tạo Hán Nôm một cách căn cơ bài bản. Có nhiều người bởi lý do của đời sống phải chuyển đi nơi khác hoặc bộ môn khác, một số đến tuổi phải về nghỉ hưu... Vận động cho sự ra đời của bộ môn vào thời điểm 1972 đã là chuyện khó khăn, nhưng duy trì cho được sự tồn tại và phát triển còn khó khăn hơn nhiều. Có những lúc sự tồn tại của bộ môn Hán Nôm dường như lay lắt theo thời gian... Tuy nhiên bất chấp mọi khó khăn, bộ môn Hán Nôm vẫn cứ tồn tại, nó tồn tại trước hết nhờ sức sống nội tại của chính nó. Nó tồn tại vì nó có một hậu thuẫn to lớn và vững chắc đó là truyền thống dân tộc, do đường lối bảo tồn, tiếp thu văn hóa truyền thống của Đảng, thể hiện trực tiếp qua quyết tâm duy trì một ngành cổ học của nhà trường, của khoa. 25 năm, sự tồn tại của bộ môn Hán Nôm Trường Đại học Tổng hợp nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn chưa phải là một sự nghiệp lớn lao hoành tráng, nó chỉ khiêm tốn như chiếc cầu nối mong manh giữa quá khứ và hiện tại, thế nhưng các thế hệ hôm nay và mai sau chắc sẽ nhận thức hết được ý nghĩa to lớn của chiếc cầu nối mong manh này. Từ nhịp nối đó, nó đang nhân ra được ngày càng nhiều những lực lượng làm Hán Nôm học cần thiết cho hôm nay và mai sau.

Tính cho đến hôm nay, 16 khóa sinh viên chuyên ngành đã được đào tạo và hàng nghìn sinh viên không chuyên ngành đã và đang được học tập Hán Nôm. Sinh viên Hán Nôm ra trường hiện nay nhiều người đang đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp nghiên cứu Hán Nôm. Có nhiều người đã phấn đấu vươn lên hoàn thành luận án Thạc sĩ và Phó tiến sĩ. Trong bối cảnh văn hóa dân tộc có những gián cách to lớn giữa truyền thống và hiện đại, nhìn lại những gì mà bộ môn đã làm được mới thấy rằng nó thực quý giá biết bao.

Trong khó khăn gian khổ chung của đất nước vài thập kỷ qua, thầy và trò bộ môn Hán Nôm đã có những nỗ lực to lớn. Một quá trình đào tạo và tự đào tạo đã thực sự diễn ra mạnh mẽ đối với cả thầy và trò. Nhiều đề tài khoa học đã được triển khai và đem lại kết quả lớn, như những công trình nghiên cứu về âm vận học Hán Nôm, cách đọc Hán Việt, các công trình nghiên cứu về chữ Nôm, về ngữ pháp Hán cổ, về văn bản học Hán Nôm, về lịch sử thư tịch, lịch sử giáo dục khoa cử cùng nhiều đề tài về văn tự, văn hoá, tư tưởng cổ trung đại khác. Nhiều đề tài đã được công bố thành sách, một số tồn tại dưới dạng luận án chưa công bố, một số thành các chuyên đề cho sinh viên năm cuối. Hôm nay nhìn lại, chúng ta không có những bậc đại sư uyên thâm Hán học có tầm cỡ như các thầy những năm mở ngành, nhưng nhìn toàn bộ đội ngũ hôm nay thì chưa bao giờ chúng ta có lực lượng mạnh đến như vậy. Đó là điều không thể phủ nhận. Thế hệ sau có cái không bằng thế hệ trước nhưng lại có ưu thế hơn thế hệ trước ở chỗ họ tiếp thu những tinh hoa tri thức của nhiều thầy truyền thụ cho và những yếu tố do thời đại mang lại.

Mấy năm gần đây, xã hội đang có những chuyển biến to lớn. Chấn hưng văn hoá dân tộc, bảo lưu các giá trị truyền thống được đặt ra một cách cấp bách. Trong xu thế ấy, nhu cầu hiểu được, hiểu đúng truyền thống, tiếp nối, khai thác truyền thống cho hiện tại và tương lai thành một xu trào lớn trên phạm vi toàn xã hội. Ngày càng có nhiều sinh viên tự nguyện chọn Hán Nôm học làm sự nghiệp cho mình, ngày càng có nhiều chuyên ngành đào tạo khác trong khoa học xã hội nhân văn thấy cần thiết phải trang bị tri thức Hán Nôm. Kể từ khi chữ Hán mất vị trí quan học đầu thế kỷ đến nay, chưa lúc nào trong xã hội có nhiều người có nhu cầu học Hán Nôm như hiện nay. Tình hình đó tạo ra cho Hán Nôm một cơ hội rất tốt để phát triển. Nhưng đáp ứng được đòi hỏi đó từ phía xã hội cũng là một nhiệm vụ to lớn và nặng nề của ngành. Lịch sử đang đặt lên vai những người làm Hán Nôm học nhiệm vụ nặng nề. Có những cơ hội mà ngành chưa kịp chuẩn bị để đón nhận. Nhưng lịch sử không chờ đợi ai. Hơn lúc nào hết, bộ môn Hán Nôm Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đang đóng vai trò là một trong các trung tâm tiêu biểu cho việc đào tạo đại học và tiếp tới là sau đại học Hán Nôm trong cả nước. Những vấn đề lớn đang đặt ra cần giải quyết hôm nay vừa giống lại vừa khác nhiều so với nhiệm vụ của bộ môn Hán Nôm khi mới thành lập. Hiện đại hóa Hán Nôm học như thế nào ? Đối thoại và hội nhập với thế giới ra sao ? Xã hội hoá ngành Hán Nôm học như thế nào ? Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ như thế nào ? Vị trí của Hán Nôm học trong việc góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ra sao ? Phát triển bộ môn theo hướng nào ? Đầu tư cơ sở vật chất như thế nào, mô hình tổ chức, quy mô tổ chức của bộ môn trong tương lai như thế nào là phù hợp ? Bộ môn Hán Nôm có vị trí như thế nào trong Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ? Chương trình đào tạo bậc Cử nhân và sau Đại học như thế nào là phù hợp với nhu cầu của thời đại ? Làm thế nào để tiếp tục thu hút sinh viên vào học cả chuyên ngành và không chuyên ngành ? Sinh viên ra trường cần định hướng công việc và đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội ra sao... Những vấn đề đó khiến chúng tôi những người trực tiếp giảng dạy chuyên ngành, các vị lãnh đạo Khoa Văn học, lãnh đạo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đang rất lo toan trăn trở. Các vị lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội luôn quan tâm nhắc nhở.

Để bộ môn Hán Nôm phát triển, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, cần có sự ủng hộ to lớn, thiết thực, sự ủng hộ đặc biệt không cào bằng, bình quân từ phía nhà trường, đặc biệt cần sự quan tâm góp sức, góp trí tuệ của toàn giới các nhà nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn nói chung. Sự nghiệp Hán Nôm học là sự nghiệp của ngành Hán Nôm nói chung, nhưng cũng là sự nghiệp của toàn dân, là sự nghiệp của tất cả những ai tâm huyết với truyền thống dân tộc.

N.T.T

CHÚ THÍCH

(*) Bài viết nhân kỷ niệm 25 năm thành lập bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH & NV thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

TB

NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN CHỮ NÔM THEO PHƯƠNG PHÁP HÌNH THỂ

TRẦN XUÂN NGỌC LAN

Đã có hai phương pháp nghiên cứu diễn biến của chữ Nôm được đưa ra ở thập niên 70 và 80 :

1. Phương pháp nghiên cứu dựa vào các phương thức cấu tạo chữ Nôm (giả tá, hình thanh, hội ý) khảo sát thống kế số lượng, tìm tỷ lệ giữa các phương thức cấu tạo trên các văn bản Nôm thuộc những thời kỳ khác nhau, để trên cơ sở đó đối chiếu tìm ra xu hướng diễn biến chung, cũng như của từng phương thức cấu tạo trong tiến trình diễn biến của chữ Nôm(1).

2. Phương pháp nghiên cứu dựa vào “các mô hình ngữ âm” trong mỗi chữ. Ví dụ chữ đọc Nôm là Trèo. Âm Nôm này được biểu thị bằng âm “liêu” Hán - Việt. Ta có mô hình ngữ âm là trèo (liêu). Nếu phân biệt từng phương diện trong cấu trúc âm tiết, ta sẽ có các mô hình ngữ âm chi tiết :

- Phụ âm đầu Tr được biểu thị bằng 1 Hán Việt, mô hình ngữ âm là Tr (1).

- Nguyên âm E được biểu thị bằng iê Hán Việt, mô hình ngữ âm là E (iê).

- Âm cuối O được biểu thị bằng u Hán Việt, mô hình ngữ âm là 0 (u).

- Thanh huyền được biểu thị bằng thanh ngang Hán Việt, mô hình ngữ âm là Thanh Huyền (thanh ngang).

Theo cách phân tích trên đây thành lập mô hình ngữ âm hiện nay cho toàn bộ chữ Nôm, sau đó phân loại và nghiên cứu diễn biến của từng mô hình(2).

Hai phương pháp nghiên cứu này đã đem lại những kết quả cụ thể, đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu chữ Nôm những tri thức cơ bản nhất và quan trọng nhất.

Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có những hạn chế nhất định.

Phương pháp thứ nhất đòi hỏi phải có nhiều tài liệu chữ Nôm có niên đại chính xác, điều mà từ thế kỷ XV trở về trước không thể đáp ứng được, ngay từ thế lỷ XV trở về sau tài liệu có phần phong phú hơn, nhưng trong số đó phần lớn vẫn là loại sao chép lại không có niên đại chính xác.

Phương pháp thứ hai quá phụ thuộc vào các quy luật ngữ âm lịch sử. ở đây, những mô hình ngữ âm nếu không có sự giải thích của quy luật ngữ âm lịch sử, của cứ liệu phương ngôn, của cứ liệu ngôn ngữ dân tộc, của tiếng Việt thế lỷ XVII, v.v... thì chỉ là một mô hình đồng đại, chỉ có tác dụng gợi ý, chỉ có tác dụng minh họa cho một quá trình diễn biến ngữ âm nào đó.

Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi cố gắng đi tìm một hướng tiếp cân mới không phải xuất phát từ đây mà từ quá trình vận dụng hai phương pháp trên vào việc nghiên cứu chữ Nôm, chúng tôi gặp phải một số không ít các chữ Noom không thể phân tịch được bằng phương thức cấu taọ cũng như thành lập mô hình ngữ âm, từ đó nảy ra ý nghĩ phải tìm thêm một hướng tiếp cận khác cho loại chữ Nôm này. Hai phương pháp trên đã xuất phát từ âm thanh và ý nghĩa trong chữ Nôm, vậy đối với văn tự (chữ viết) mà nói thì còn phương diện nào có thể tiếp cận được ? Theo chúng tôi đó là phương diện hình thể. Chữ Nôm thuộc loại hình văn tự hình thể khối vuông, mỗi chữ viết phải nằm gọn trong một ô vuông. Ô vuông đó là chia ra thành 2 phần trên dưới bằng nhau và trái phải bằng nhau, và mỗi chữ viết cũng sẽ được chia thành những bộ phận trên dưới, bộ phận bên trái, bộ phận bên phải nằm trong các ô trên dưới và trái phải ấy. Chữ Nôm ngay từ khi mới hình thành cho đến đầu thế kỷ XX vẫn giữ được đặc điểm khối vuông đó. Như vậy phải chăng về mặt hình thể trong hơn 10 thế kỷ chữ Nôm không có sự biến đổi nào ? Hoàn toàn không phải như vậy. Trong bài tựa của bộ từ điển Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa tác giả viết :

Thánh xưa làm Nôm xe chữ kép

Người thiển học khôn(1)biết khôn xem

Bây chừ Nôm dạy chữ đơn

Cho người thiểu học nghỉ(2) xem nghỉ nhuần.

Như vậy hình thể chữ Nôm đã có sự biến đổi, nhưng sự biến đổi đó theo chúng tôi là từ từ đan xen chứ không phải đột biến, là tiềm ẩn chứ không hiển hiện, là tự nhiên chứu không phải nhân tạo. Và xu hướng chung của sự diễn biến đó là từ phức đến đơn. Có thể thấy được tình hình trên qua những hiện tượng sau đây của chữ Nôm :

- Hiện tượng tỉnh lược âm phù và di chuyển nghĩa phù.

Ví dụ : Chữ : chữ này rất phổ biến trong các bản Nôm miền Nam, đặc biệt trong những tuồng hát bội.

Lệnh trên mà truyền xuống... (TSH)

Mà chỗ Phật ngồi trên trời mây che..... (TSTĐ)

Nghe lệnh trên treo bảng cầu hiền. (NHLT).

Phương phi yểu điệu dưới trên khôn nhường. (LCTThư).

Thị Hương khi ấy bước lên trên bè. (LCTThư).

Ai mà lỗi đạo hoàng thiên trên trời. (TKCT).

Nghe người đồn trên chốn sơn vân có quỷ. (TSH).

Trong chữ Nôm thượng: trên có nghĩa phù, còn bộ xước theo nghiên cứu sau đây, chứng minh đó là vết tích còn lại của âm phủ. Có thể chứng minh được điều này là nhờ có những chữ trên viết khác nhau như :

Ví dụ :

Nào ai chẳng đội ở trên đầu (QÂTT).

... vì đức chúa Giê-su là ÔTô thật cả và mình cho đức chúa cha trên cây câu rút (M. ).

Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông. (KVKTT).

Nghe rằng trên chiếu chỉ .... (VTLT).

Thân này khác thể trái muồi trên cây. (LVT).

Nghiên cứu những chữ Nôm này, chúng ta dễ dàng nhận ra chữ và đều là chữ hình thanh: “thượng”: trên là nghĩa phù. liên” là âm phù. Chữ là chữ Nôm biểu âm. Từ chữ biểu âm , âm phù , có thể xác định được nguồn gốc của bộ xước trong chữ Nôm nêu trên. Đây là vết tích còn lại của bộ phận biểu âm sau quá trình giản hóa. Vậy vì sao phải giản hóa ? Đó là để cho phù hợp với tính chất vuông của chữ Nôm. Xem phân tích sau đây :

Chữ và phân tích theo thư pháp đều không phù hợp với tính chất khối vuông.

Chữ cấu tạo hình thể là hai ô vuông đứng, tạo nên hình thể chữ nhật đứng ; chữ cấu tạo hình thể là hai ô vuông nằm, tạo nên hình thể chữ nhật nằm . Hai khối hình thể này đều không phù hợp với tính chất khối vuông của chữ Nôm. Thuộc loại hình văn tự khối vuông, chữ Nôm không thể chấp nhận hiện tượng như vậy kéo dài, phải thay đổi hình thể theo hướng vuông. Muốn vậy chỉ có cách tỉnh lược một bộ phận của âm phù để chừa chỗ đó ra cho nghĩa phù di chuyển đến vị trí ấy. Quá trình đó có thể hình dung như sau :

Tỉnh lược đã phá vỡ cấu trúc hình thanh của chữ; di chuyển vị trí điều chỉnh lại hình thể của chữ theo tính chất khối vuông.

Có thể thấy phương pháp tỉnh lược và di chuyển này đã tác động đến nhiều chữ Nôm khác. Sau đây phân tích thêm một số chữ thuộc loại này. Ví dụ :

Chữ lên, mười, bảy.

: lên trời không pháp biến (TSH).

Tín làm một bài kệ dán lên nhà Nam Lang (TSTĐ)

Có đâu ở thấp mà chồm lên cao (PT).

: Tuổi tôi mới có mười ba (LCTT).

Mười lăm tuổi bỏ nhà mà đi tu (TSTĐ).

: Xưa bảy kỷ chẳng về cùng chúa (TSH).

Cách dặng bảy dặm đường (TSTĐ)

Bảy mươi hóa lại thời kỳ ấu nhi (LCTT).

Có thể dễ dàng nhận ra bộ phận nghĩa phù của ba chữ Nôm trên là thăng : lên, thập: mười, thất : bảy. Phần còn lại bộ xước và chính là vết tích của âm phù. Có thể chứng minh được điều này là nhờ có những hình thanh lên, mười, bảy cùng đang song song được sử dụng bên cạnh dạng giản thể. Ví dụ :

Vừng nguyệt lên thuở nước cường (QÂTT)

... liền kính đức chúa Giê-su lắm mà toan đặt Người lên làm vua (M. )

Vắt chân lên cổ mà chạy (H. OGER tranh 105)).

Tam bành bà đã nổi lên một hồi (NĐM).

Kế vua mười tám thế truyền (ĐNQSDC).

Ang nạ mười phen óc chín phen dạ (P trang 37b).

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình (K).

Thế sự người no ổi nước bảy (QÂTT. Ngôn chí).

Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên (LVT).

Già gần bảy mươi nào tiếc (KVK truyện).

Những chữ hình thang trên đây về hình thể đều không phù hợp với tính chất khối vuông của chữ Nôm nên đã diễn ra quá trình giản hóa hình thể như sau:

Trên đây là hiện tượng tĩnh lược âm phù và di chuyển nghĩa phù, còn giờ đây là hiện tượng ngược lại, tức tỉnh lược nghĩa phù và di chuyển âm phù.

Ví dụ : chữ

Bèn ra trước hiệu vua ngồi (LCTT)

... mà lo lão ngồi kề mặt đất (KLXP).

Vua mời tân trạng ngồi bày cùng vua (TKCT).

Trong chữ ngồi này, Ngoại là âm phù, bộ thổ là vết tích còn lại của nghĩa phù toạ: ngồi giản hóa hai chữ nhân . Có thể khẳng định được điều này vì chúng ta có các chữ ngồi hình thanh dạng đầy đủ như , hoặc . ví dụ :

Diệu Thường ngồi dựa bên triền câu lan (TKCT).

Một mình ta ngồi lại (TSTM ký).

Phiến sách này xuân ngồi cấm câu (QÂTT. Thủ vĩ ngâm).

Trên mui ngồi tót một người (KVK tân truyện).

Ngồi trong nón (Henri OGER tranh 201).

Tôn sư ngồi hởi thở than (LVT).

Trong hai dạng chữ ngồi trên, ngoại là âm phù, toạ: ngồi là nghĩa phù, mỗi bộ phận là một chữ Hán chiếm một ô vuông nên cấu tạo hình thể sẽ là một hình chữ nhật đứng: hay là một hình chữ nhật nằm : rất không phù hợp với tính chất khối vuông của chữ Nôm, do đó phải giản lược một bộ phận của nghĩa phù là hai chữ nhân để chừa ra một nửa trên của ô vuông cho chữ ngoại di chuyển đến vị trí ấy. Có thể hình dung bằng hình vẽ sau:

hinh1

Cũng với cách tiếp cận hình thể như vậy, chúng tôi cho rằng những chữ Nôm , , , v.v... cũng là kết quẩ của quá trình giản hóa hình thể.

Lấy rắn làm bạn tượng trời đã phân (CNNÂ. giáp trùng loại).

Xà : rắn (Tự Đức...).

Rắn không đầu khó chạy (TSH).

Kia là thuốc lá ép ngô(LVT)

Lãnh tuyệt đê mê mau mau đổ thuốc (KLXP).

Thuốc thang suốt một ngày thâu (K).

Tịnh thổ là long trong sạch (CTLĐ).

Ba chữ Nôm trên có âm phù là các chữ lận, thốc, long. Còn bộ phận , , là vết tích của nghĩa phù lưu lại sau quá trình giản hóa. Có thẻ chứng minh được điều đó vì trong vốn chữ Nôm hiện đang còn các chữ hình thanh mã bộ phận biểu nghĩa là xà : rắn, dược : thuốc, thanh: trong. Vì những chữ hình thanh này không thể hiện được tính chất khối vuông của văn tự nên phải thay đôỉ hình thể. Cách thức tỉnh lược và di chuyển cũng giống trường hợp trên. Cụ thể như sau :

Trẻ con làm rồng rắn (H. OGER. tranh 230).

Phân tích hình thể và sự diễn biến

Thầy thuốc xem mạch (H. OGER tranh 5).

Già lọ thuốc trường sinh (QÂTT tự thán).

Bề thuốc thang chia lượng cho hay (TSTMK).

Phân tích hình thể và sự diễn biến

Dưới cầu nước chảy trong veo (K).

Phân tích hình thể và sự diễn biến :

Những hiện tượng tỉnh lược trên đây có thể chứng minh được là nhờ trong kho chữ Nôm hiện có, chữ Nôm đơn và chữ Nôm phức còn được sử dụng đan xen. Chẳng hạn chữ Nôm lên trong Mazorica ở thế kỷ XVII dùng ba dạng ; Đại Nam quốc sử diễn ca, Phan Trần, Kim Vân Kiều truyện viết chữ hoặc ; Lục Vân Tiên viết hai dạng và ; Chỉ Nam ngọc âm viết và ; Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Tiểu Sơn hậu viết . Lý Công tân thư viết cả ba dạng , và . Những chữ trên, thuốc, ngồi, v.v... cũng thể hiện một tình hình dùng đan xen như vậy.

Lại có hiện tượng như các chữ bay , óc , may trong bài “Chữ Nôm hình thanh - một thách đó đối với các học giả” (Tạp chí Hán Nôm) chúng tôi đã giải thích là vết tích còn lại sau khi tỉnh lược bộ phận của nghĩa phù tường: bay; hình thể là vết tích còn lại sau khi tỉnh lược một bộ phận của nghĩa phù não: óc; hình thể là vết tích còn lại sau khi tỉnh lược bộ phận của nghĩa phù phung : may.

Như vậy là giả thiết đã từng có chữ hình thanh được sử dụng. Các chữ đó có hình thể được phục nguyên như sau :

hinh2

Cả ba trường hợp xét về hình thể để không phù hợp với tính chất khối vuông của chữ Nôm. Do đó không thể tồn tại mãi mà phải thay đổi hỉnh thể để vừa bảo đảm được tính chất khối vuông lại vừa có một tác dụng gợi ý nhất định nào đó trong tình hình các dạng chữ đơn và phức cùng song song tồn tại. Nhưng về sau, khi dạng phức đã mất đi hẳn thì tác dụng gợi ý cũng dần dần biến mất và trở thành một thách đố. Sau đây là giả thiết về quá trình thay đổi hình thể của các chữ Nôm này :

hinh4

Như trên đã nói, phương pháp hình thể thích hợp với toàn bộ chữ Nôm trong việc nghiên cứu sự diễn biến, do đó chúng tôi sẽ tiếp tục áp dụng nó để nghiên cứu những chữ Nôm khác, tuy nhiên phần thú vị nhất có lẽ là những chữ Nôm “có vấn đề về cấu tạo”, đồng thời tìm ra được sức mạnh của tính chất khối vuông của văn tự. Tính chất này cao hơn tất cả, chính thế mà dưới áp lực của nó, cấu tạo chữ Nôm đã bị phá vỡ.

Chú thích:

(1) Đào Duy Anh Chữ Nôm: nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến, chương IV. Nxb. KHXH, H., 1975.

(2) Nguyễn Tài Cẩn Một số vấn đề về chữ Nôm, bài 5. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1985.

(3) Khôn: khó

(4) Nghỉ: dễ

Bảng đối chiếu tên viết tắt các tác phẩm

1. Đại Nam quốc sử diễn ca (ĐNQSDC)

2. Kim Long Xích Phụng toàn tập (KLXP).

3. Kim Vân Kiều truyện (KVK).

(4) Lục Vân Tiên (LVT).

5. Lý Công tân thư (LCTT).

6. Mazorica (M).

7. Nhạc hoa linh truyện (NHLT).

8. Nhị Độ Mai (NĐM).

9. Phan Trần (PT).

10. Phật thuyết (P).

11. Quốc âm thi tập (QÂTT).

12. Tiểu Sơn Hậu (TSH).

13. Thích sử truyền đăng (TSTĐ).

14. Thoại Khanh Châu Tuấn thư tập (TKCT).

15. Thúy Sơn thu mộng ký (TSTMK).

16. Truyện Kiều (K).

17. Vũ Thành Lân truyện (VTL).

TB

ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA VĂN TẾ

NGÔ GIA VÕ

1.1/ Nghiên cứu thể loại văn học, xác định nguyên nhân và quá trình hình thành, phát triển cũng như kết thúc của nó là một hướng nghiên cứu rất được quan tâm hiện nay. Trong nghiên cứu thể loại, việc xác định đúng đắn những đặc điểm trưng nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật là một vấn đề hết sức quan trọng, giúp người nghiên cứu, giảng dạy và học tập có thể đi sâu vào bản chất nghệ thuật của một thể loại, khám phá chính xác các giá trị nội dung và hình thức của riêng nó, giải mã được các tín hiệu thẩm mỹ trong các văn bản nghệ thuật quá khứ.

1.2/ Hiện nay, trong sự phát triển nhanh chóng mối quan hệ đa chiều ngày càng chặt chẽ của các bộ môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, việc nghiên cứu thể loại văn học đã đạt được những bước tiến đáng kể. Khoa học tiếp nhận văn học phát triển đã mở ra những tri thức mới về thể loại văn học, xác định được mục đích, chức năng cũng như vùng tiếp nhận đặc thù của một thể loại. Điều đó dẫn đến việc thẩm định các văn bản nghệ thuật phải theo đúng vùng văn hóa - lịch sử và theo đúng hệ qui chiếu riêng của một thể loại.

2.1/ Với những gợi ý đó, chúng tôi cố gắng rà soát và suy nghĩ lại đặc trưng của thể loại văn học quá khứ, đặt từng thể loại vào vùng tiếp nhận của riêng nó với khát khao giải mã chính xác hơn chân lý nghệ thuật trong các tác phẩm văn học cổ.

2.2/ Trong nhiều năm giảng dạy và nghiên cứu thể loại Văn tế, đặc biệt là Văn tế Nôm ở nhà trường Đại học Sư phạm, chúng tôi phát hiện ra một đặc trưng thể loại của Văn tế mà chưa một cuốn sách, một tác giả để cập đến. Thậm chí, đặc trưng này còn có giá trị như một chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa nghệ thuật còn nhiều bí ẩn của Văn tế...

3.1/ Theo Từ điển văn học(1), thể loại Văn tế vốn là một thể loại văn bản có chức năng nghi lễ có nguốn gốc từ lâu đời ở Trung Quốc. Nó vốn có nghĩa rất rộng, "bao gồm các loại văn dùng để tế thần, tế thánh, (các bậc thánh được liệt hạng của Nho giáo), tế sống, tế ma và cả các loại văn dùng để chúc mừng (chúc thọ, chúc thăng quan tiến chức...), dần dần về sau Văn tế mới bị thu lại theo nghĩa hẹp là Văn tế ma, tức là tế người đã chết"(2). Sang Việt Nam, nó phát triển thành một thể tài quan trọng, với nhiều bài Văn tế có giá trị văn học cao của các tác giả có tên tuổi. Từ thế kỷ XVIII về trước, Văn tế chủ yếu hướng vào bộc lộ những tình cảm riêng tư (cha, con, vợ chồng, anh em, bè bạn...). Từ thế kỷ XIX, đặc biệt từ khi Pháp xâm lược nước ta, Văn tế trở thành một công cụ tuyên truyền, một loại vũ khí đấu tranh sắc bén của người yêu nước và cách mạng, phản ánh được những tình cảm và tư tưởng của dân tộc và thời đại.

Hiện nay, Văn tế vẫn được dùng trong dân gian nhưng đã bị biến dạng đi ít nhiều. điếu văn có thể coi là một biến thể của Văn tế.

3.2/ Văn tế thuộc loại văn trữ tình, mặc dù trong đó vẫn có những đoạn tự sự. Đây là một loại văn dùng để tế người chết, gắn liền với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng thương tiếc của tác giả và những người thân với người đã chết. Nội dung của Văn tế thường xoay quanh hai ý chính: một là kể về cuộc đời, công đức cử người chết ; hai là bộc lộ tình cảm, thái độ tiếc thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt.

3.3/ Văn tế có nhiều kiểu: kiểu văn xuôi cổ như bài Văn tế chị của Nguyễn Hữu Chỉnh ; kiểu tán như bài Văn tế một công chúa của Mạc Đĩnh Chi; kiểu lục bát như bài Khóc những người hi sinh sau vụ Hà Thành đầu độc năm 1908 I ( khuyết danh); kiểu song thất lục bát như bài Văn tế thập loại chúng sinh của nguyễn Du; kiểu phú như bài Văn tế Phan Chu Trinh của Phan Bội Châu, hoặc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu...

Trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại(3), các tác giả chia Văn tế thành hai thể: Thể tự do và thể phỏng theo phú Đường luật. Thể phỏng theo phú Đường luật là thông dụng nhất.

Văn tế thường có bố cục 4 phần: Lung khởi (Mở đầu), Thích thực (Kể cuộc đời công đức của người chết), Ai điếu (Lòng thương tiếc của người sống), Ai vãn (Lòng thương tiếc của người đứng tế). Nhiều khi, phần Ai điếu Ai vãn nhập vào làm một.

Văn tế phỏng theo thể phú Đường luật thường dùng" độc vận ", từ đầu đến cuôí chỉ có một vần. Vần trong Văn tế gieo vào cuối câu (vần chân). Câu Văn tế còn gọi là liên. Người ta lấy số vần để tính số câu trong bài Văn tế. Kiểu câu trong thể này thường hạn chế trong một số cấu trúc câu cố định như tứ tự, bát tự, song quan, hạc tất, cách cú...

Ở nước ta, Văn tế được viết bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm nhưng giá trị văn học chủ yếu rơi vào các tác phẩm viết bằng chữ Nôm.

4.1/ Đó là những đặc điểm thể loại chung của Văn tế đã được công bố và thừa nhận.

Theo chúng tôi, Văn tế còn có một đặc trưng thể loại rất quan trọng mà cho tới nay chưa có một tác giả nào đề cập đến. Đặc trưng này nằm ở ý thức và mục đích sáng tác Văn tế.

4.2/ Căn cứ vào điều kiện văn hóa - lịch sử trung đại, khi ý thức hệ phong kiến đang còn ngự trị, căn cứ vào vùng tiếp nhận đặc thù của Văn tế, chúng tôi nhận thấy Văn tế đọc khi tế người chết để cho người đang sống nghe, nhưng trong ý thức văn hóa cổ, trong tâm ý người xưa, Văn tế còn để đọc cho người chết nghe. Người đứng tế có niềm tin vững chức rằng người chết có linh hồn, họ chết đi - linh hồn họ còn tồn tại, người chết vẫn nghe thấy, nhìn thấy, vẫn tiếp nhận được nội dung bài Văn tế.

Như vậy, có hai loại thính giả cùng tồn tại và cùng tiếp nhận Văn tế: Một loại thính giả đang hiển hiện bằng xương bằng thịt trong thời khắc tiễn đưa, và một loại thính giả vô hình đang đón nhận tiếng lòng người Dương thế trước khi về âm phủ.

4.3/ Ngày nay, khi đọc Điếu văn, xét về chiều sâu tâm lý, người đọc vẫn nghĩ đến người chết, vẫn lờ mờ tin rằng người chết có linh hồn nhưng ít người tin chắc người chết còn nghe được, còn nhìn thấy như người xưa đọc Văn tế nữa. Do ý thức tư tưởng phân cõi Âm - Dương của thời trung đại, do niềm tin chắc chắn vào sự hiện hữu của linh hồn người chết mà thiên hướng nghiêng về phía người chết nhiều hơn đã chi phối tâm lý sáng tạo của nhà văn thời trung đại.

4.4/ Rõ ràng, có một dòng chảy tâm linh, có một không gian siêu thực, linh thiêng và huyền ảo trùm phủ lên Văn tế. Rõ ràng, đó là không gian nghệ thuật của riêng Văn tế mà các thể loại văn học khác tuyệt nhiên không có.

Chính vì vậy, có thể coi Văn tế là một tiếng nói đa thanh rất độc đáo trong văn học cổ. Người viết Văn tế bị đặt vào một tình thế sáng tạo bắt buộc: vừa đối thoại với người sống vừa đối thoại với người chết. Tính chất đối thoại song phương này trùm lên mọi cấp độ hình thức của bài Văn tế, thậm chí một câu văn, một chi tiết, một tiếng than cũng phải dung hòa được hai đối tượng thính giả đó.

5.1/ Đặc trưng thể loại độc đáo này mang tính chất toàn thế giới, gắn liền với quan niệm sự sống và cái chết của nhân loại. Từ xưa tới nay, sự sống là cõi Dương, là ánh sáng còn cái chết là cõi âm, là bóng tối. Do vậy, loài người cho rằng người chết là bất hạnh và cõi Âm là linh thiêng. Trước người chết, trước cõi Âm, người sống bao gờ cũng phải thương cảm, kính thờ. Từ đó, nảy sinh ước ao người đã sống là phương thức hiện sinh hóa người chết, là quan niệm bất tử về con người, lý tưởng hóa những yếu tố siêu hình.

5.2/ Tất cả những điều đó dẫn đến một sự phát triển mang nghịch lý trong Văn tế: Cõi Âm rất thiêng liêng nhưng người chết là bất hạnh. Đối diện với cái chết không phải là một hạnh phúc. Xét đến tận cùng ý tức và mục đích sáng tạo Văn tế, ta thấy đây là một thể loại văn học có yếu tố nhân văn vô cùng độc đáo và đặc sắc.

6.1/ Theo chúng tôi, đây là đặc trưng thể loại hết sức quan trọng của Văn tế. Đặc trưng này đã trở thành hệ qui chiếu mọi biểu hiện của hình thức và nội dung của thể loại. Về phương thức phản ánh, Văn tế căn bản phải là trữ tình, mặc dù có yếu tố tự sự. Văn tế khác Văn bia ở chính điều này. Văn bia căn bản là tự sự, tuy vẫn thỉnh thoảng chen vào một số đoạn trữ tình. Trong Văn tế, ngay cả những đoạn tự sự cũng không phải là những đoạn tự sự thuần túy mà là tự sự - biểu cảm, tự sự trong không khí trang nghiêm và xúc động.

6.2/ Người Việt Nam coi nghĩa tử là nghĩa tận lại tin chắc rằng linh hồn người chết còn đó, còn nghe thấy, còn nhìn thấy, cho nên thời điểm tiễn đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng là thời điểm quan trọng và thuận lợi nhất để người ta bộc lộ tình cảm của mình. Do vậy, Văn tế ngoài đoạn Ai điếu còn có thêm đoạn Ai vãn nữa. Điều đó chứng tỏ đặc trưng này đã chi phối cả cấu trúc hình thức của thể loại Văn tế.

6.3/ Về nội dung, Văn tế thường né tránh những khuyết điểm, những hạn chế của người chết. Trước cái chết, người ta xóa bỏ mọi oán thù, từ bỏ mọi phê phán người đã chết. Đây là một đặc điểm nội dung rất độc đáo bao trùm lên các bài Văn tế. Tất nhiên, chúng tôi loại trừ các bài Văn tế dùng để trào lộng, châm biếm hoặc để đả kích như Văn tế Cơ-Ri-Vi-e (khuyết danh), Văn tế sống Vĩnh Thụy (Tú Mỡ), Văn tế 111 Nghị Cừu (Đồ Phồn)... Chúng tôi chưa thấy có một bài Văn tế nào đề cập đến những điều xấu xa, khuyết điểm của ngưòi chết. Tất cả đều là những điều tử tế và tốt đẹp. Các công đức bao giờ cũng được đánh giá cao hơn. Tính chất giảm nhẹ và triệt tiêu khuyết điểm, đề cao và phóng to ưu điểm là một đặc điểm nội dung hết sức quan trọng trong Văn tế.

6.4/ Niềm tin người chết có linh hồn Sống khôn thác thiêng, chết là một sự khởi đầu đi vào một thế giới khác... nhiều khi đã vươt qua phạm trù tâm lý trở thành phạm trù tư tưởng trong bài Văn tế. Điều này quy định thời gian nghệ thuật của thể loại. Chúng ta nhận thấy tính chất đồng hiện của quá khứ - hiện tại - tương lai trong Văn tế. Thời gian tuyến tính được nén ép lại trong một bài văn với các đặc điểm mang tính công thức mà mọi tác giả phải tuân theo. Quá khứ-bao giờ cũng tốt đẹp, đáng khẳng định và ca ngợi. Hiện tại bao giờ cũng đau thương và thiêng liêng. Tương lai bao giờ cũng có giá trị đối với người sống bằng sức mạnh siêu hình bất diệt.

Khi Nguyễn Đình Chiểu viết :

"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia. Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó" (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) thì ta phải hiểu rằng ông đã tin chắc vào điều đó. Đây không phải là mong muốn, mơ ước, ảo tưởng, mà đây chính là hiện thực, hiện thực về sức mạnh tinh thần từ thế giới bên kia vẫn đêm ngày trợ giúp đoàn quân đánh giặc.

7.1/ Từ đặc trưng thể loại này, chúng ta cần phải xem xét lại một cách nghiêm túc một số quan niệm và cách hiểu Văn tế.

Vấn đề tính hiện thực trong Văn tế cần phải hiểu khác. Đây không phải là hiện thực cụ thể, trần trụi của đời sống được phản ánh trung thực theo quan niệm hiện thực như nó vốn tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại. Đây là những hiện thực, nói chính xác hơn là những hình ảnh của hiện thực được rọi sáng từ tâm linh tác giả, một hiện thực đã được giảm nhẹ và đôi khi được tô vẽ cho hơn lên.

Và cũng không nên đem quan điểm khoa học của chủ nghĩa vô thần để quy chụp sự hạn chế tư tưởng duy tâm trong các bài Văn tế. Có những điều hiện nay không chấp nhận được lại là niềm tin tưởng và sự ngưỡng vọng của người xưa. Cần phải đặt Văn tế vào vùng tiếp nhận đặc thù của nó mới thấy hết được cái hay của những tín hiệu thẩm mĩ có mầu sắc linh thiêng ấy.

Do đó, cách hiểu các hình tượng nghệ thuật trong Văn tế không chỉ căn cứ vào những chi tiết tác giả đề cập đến mà khẳng định tính chân thực lịch sử của hình tượng. Hình tượng thẩm mĩ nảy sinh trong một sự thương cảm và ngưỡng vọng do vậy nó chỉ là một mảnh, một phần của hiện thực. Nói cách khác, nó là một hiện thực đã biến dạng huyền ảo, là những hình ảnh hiện về trong lòng yêu kính, trong ký ức ngợi ca, chứ tuyệt đối không phải là những hình tượng được xây dựng với bút pháp hiện thực.

7.2/ Do không chú ý đặc trưng này, một số tài liệu đã đưa ra những cách hiểu Văn tế không chính xác, làm méo mó bản chất thẩm mĩ của hình tượng nghệ thuật. Một tài liệu đã viết: "Cái lợi thế của thể loại Văn tế cho phép người viết bằng tài năng và tình cảm của mình dựng cho rõ, cho chân xác (chúng tôi nhấn mạnh) hình ảnh của người đã khuất lúc sinh thời"(4).

Theo chúng tôi, tác giả Văn tế không có nhiệm vụ và cũng không có ý thức như vậy. Người chết nào cũng vậy, lúc sinh thời đều đẹp, đều tốt, đều có những công đức đáng được khẳng định và ca ngợi.

Theo quan niệm chưa phù hợp ấy, có tác giả phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, đã áp đặt vào một nhà văn trung đại năng lực của một nhà văn hiện đại:

"Ngòi bút không phút nào rời bỏ hiện thực khách quan, mà chăm chú ghi bắt những chi tiết, sự việc chân thật, có giá trị hiện thực và có sắc thái khuynh hướng hẳn hoi"(5)

Rõ ràng, cảm nhận như vậy đã hoàn toàn sai lệch với đặc trưng thể loại Văn tế, đem cái nhìn của người hiện đại áp đặt vào tâm thức sáng tạo của người trung đại.

8.1/ Theo chúng tôi, nghiên cứu và giảng dạy Văn tế phải đặc biệt chú ý đến đặc trưng đối thoại với người chết của nó. Phân tích Văn tế chủ yếu phân tích lòng tiếc thương và niềm tôn kính của tác giả, phải làm sáng rõ dòng nội cảm mang màu sắc linh thiêng của chủ thể sáng tạo trong vùng văn hóa lịch sử cụ thể và đặc biệt của Văn tế.

CHÚ THÍCH

(1). Từ điển văn học - nhiều tác giả, Nxb. Văn học , H., 1983-1984.

(2). Theo Từ điển Văn học Việt Nam, Lại Nguyên Ân chủ biên, Nxb. Giáo dục, H., 1997, tr.720.

(3). Thơ ca Việt nam, hình thức và thể loại - Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức, Nxb. KHXH, H., 1971

(4). Dạy và học văn 11 - Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa, 1991.

(5). Những bài giảng văn ở Đại học - Lê Trí Viễn, Nxb. Giáo dục, H., 1986.

TB

LƯỢC DỊCH QUỐC NGỮ CUỐI THẾ KỶ XIX (Khảo Sát Bản Lược Dịch Quốc Ngữ Truyền Kỳ Mạn Lục Trong Sử Nam Chí dị Và Quảng tập viêm văn)

NGUYỄN NAM

Năm 1898, giáo học Trường thông ngôn Edmond Nordemann xuất bản sách Quảng tập viêm văn (QTVV) tại Hà Nội(1). Khác với tập Manuel de Conversation Annamite – Francais (Giáo trình hội thoại Việt - Pháp) cũng do cùng một người soạn, QTVV cung cấp cho người học tiếng Việt những hình thức văn viết của ngôn ngữ này. Ngay trong lời tựa, người soạn đã nhắc độc giả lưu tâm đến hai hình thức chữ viết ở Việt Nam: chữ Nôm và chữ Hán, đồng thời cũng nêu rõ sách tập trung vào việc dịch các tác phẩm Hán văn thông dụng sang tiếng Việt(2). Chương III của sách dành cho “văn nho hay dùng, dịch ra Nôm lối thường,” trong đó chia ra làm 3 phần: 1/ “Rút ở sách nho An-nam làm,” 2/ Rút ở sách nho bên Tầu làm,”và 3/ “Văn nho An-nam thường viết, cóp nhặt hay là làm lấy.” Phần 1 và 2 của chương này ghi rõ các truyện được dịch ra Việt ngữ có gốc từ các nguồn tư liệu Hán văn nào. Một khảo sát sơ bộ cho thấy các truyện được giới thiệu qua phương thức tuyển dịch và lược dịch. Đọc QTVV dễ có cảm giác là Edmond Nordemann đã tuyển chọn và lược dịch trực tiếp từ Hán văn ra Việt ngữ. Thế nhưng nếu có dịp đọc thêm một tập văn Nôm nhan đề Sử Nam chí dị (SNCD) vốn ra đời trước QTVV hai mươi hai năm, sẽ dễ dàng thấy rằng hai phần 1 và 2 vừa nêu(3) không phải là kết quả của quá trình phiên dịch Hán - Việt, mà thực chất lại là sản phẩm của quá trình phiên âm SNCD từ Nôm ra Quốc ngữ. Đáng chú ý là có sáu truyện trong Truyền kỳ mạn lục (TLML) được SNCD lược dịch, và được giới thiệu lại trong QTVV. Khảo sát mối quan hệ giữa SNCD và QTVV sẽ cho thấy Edmond Nordemann đã tiếp nhận và sử dụng bản lược dịch Nôm như thế nào, đồng thời cũng cho phép nhận chân những nguồn tư liệu Hán văn đã được SNCD sử dụng. Sáu truyện lược dịch từ TKML sẽ được phiên âm, khảo sát và đối chiếu với bản phiên âm của QTVV nhằm làm rõ nghệ thuật lược dịch ở cuối thế kỷ XIX, cũng như mức độ Nordemann vay mượn từ tập văn Nôm Việt Nam nêu trên.

Sử Nam chí dị

Sách hiện được lưu trữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu AB.385). Bìa sách ghi “Tự Đức tam thập niên, thập nhị nguyệt, sơ thập nhật,” tức ngày 10 tháng 12 năm thứ 30 niên hiệu Tự Đức (1877). Một vài chi tiết về soạn giả cũng được chép ở đầu sách Nguyên Thái Bình tỉnh, Kiến Xương phủ Tri phủ Trần Gia Du thủ thư (nguyên Tri phủ phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình Trần Gia Du biên chép). Sách gồm 59 truyện (trong sách gọi là bài), nhưng không có mục lục. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu giới thiệu đại lược về sách(4), cho biết sách gồm các “truyện cổ tích, dân gian, thần thoại, truyền thuyết về Tản Viên, Trần Hưng Đạo, bánh chưng, bánh dày, nguồn gốc các nghề đúc sắt, chạm bạc, nghề in... của Việt Nam. Có một số truyện của Trung Quốc như Lục Tích (chữ Hán), Chu Mãi Thần (chữ Hán).”(5)

Toàn bộ năm mươi chín truyện trong SNCD đã được QTVV phiên ra Quốc ngữ(6). Lời tựa sách SNDC viết: “Sách này nói về các sự tích ông thánh, ông thần, kẻ trung, người hiếu, kẻ khôn, người dại cùng với chuyện lạ cũng đều chép cả” (tr.1). Đáng tiếc là Trần Gia Du không cho người đọc biết các truyện trong tập sách của ông có nguyên lai tự đâu, hay nói cách khác là được lược dịch Nôm từ những tác phẩm Hán văn nào(7). Chính do xác lập được quan hệ giữa SNCD và QTVV, nay có thể nói rõ thêm về những nguồn tư liệu đã được tác giả SNCD sử dụng. Đó là các tác phẩm Hán văn Việt Nam, Hán văn Trung Quốc, và ngạn ngữ dân tộc(8).

Truyền kỳ mạn lục trong Sử Nam chí dị và Quảng tập viêm văn

Có sáu truyện trong TKML được lược dịch trong SNCD: Nam Xương nữ tử truyện, Tây Viên kỳ ngộ ký, Đà Giang dạ ẩm ký, Đông Triều phế tự lục, Từ Thức tiên hôn lục , và Khoái Châu nghĩa phụ truyện(9). Lược dịch, hay tóm lược, chung cuộc là phải truyền đạt được cái tinh thần, nội dung cơ bản của nguyên tác. Một so sánh giản đơn giữa bản lược dịch trong SNCD với bản đối dịch toàn văn Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú (TBTKML) của Nguyễn Thế Nghi cho thấy bản lược dịch (hay tóm tắt) của Trần Gia Du đã vượt ra khỏi những ràng buộc của câu chữ, nhằm chuyển đến độc giả cái khung cốt cơ bản của truyện. SNCD gửi đến người đọc cốt truyện, nhưng cũng chính vì thế đã bỏ mất nhiều yếu tố nghệ thuật của nguyên văn.

SNCD cũng đã cập nhật hóa sự biến đổi hành chính trong phân vùng địa lý. Các địa danh xưa đều được chú kèm theo địa hạt đương thời của soạn giả. Đôi chỗ về ngữ nghĩa rất gần với chú giải trong TBTKML. Chẳng hạn như trong “Chuyện người liền bà mắc oan tự vẫn” có ghi lại thời gian nàng Vũ Thị Thiết sinh con sau khi từ biệt chồng. Trong nguyên bản Hán văn viết, “biệt hậu tiếp tuần nhi dục.”(10) Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch là: “sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh ra một đứa con.”(11) Bản TBTKML (1763) chú rằng: “tiếp tuần - thập nhị nhật dã” (tiếp tuần là mười hai ngày). SNCD dịch là “vừa được mười hai ngày thì nàng ấy đẻ ra một đứa con trai.”

Đọc “Chuyện người sống làm tướng ma,” thật lý thú khi thấy các đoạn đối thoại đã tách khỏi khuôn phép thường thấy trong văn chương thời ấy. Các đan xen vào lời thoại theo công thức “A nói rằng” “B nói rằng” đã được lược bỏ. Hội thoại sinh động hơn, và trở nên gần hơn với cách biểu đạt của tiểu thuyết hiện đại.

So sánh các truyện chép trong bản Nôm SNCD với bản gốc Quốc ngữ QTVV có thể thấy rằng QTVV chỉ phiên từ Nôm ra Quốc ngữ những gì đã sẵn có trong SNCD.

Mấy điểm tồn nghi

SNCD là một nguồn chính trong việc biên soạn QTVV. Đến nay chỉ còn một bản chép tay SNCD lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ra đời trước QTVV hai mươi hai năm, và dường như chưa hề được khắc in, mức độ phổ biến của SNCD có thể rất hạn chế. Phải chăng Edmond Nordemann đã dùng chính bản chép tay hiện có để phiên Nôm, biên soạn bộ sách của ông ? Vị giáo học Trường thông ngôn đã cho người đọc biết những sách nào đã được sử dụng để biên soạn SNCD, nhưng lại không minh bạch trình bày nguồn tư liệu dùng trong sách của mình. Đó là điều hiển minh. Điều chưa rõ là ông đã độc lập soạn sách, hay soạn sách với sự cộng tác của người khác ? Có tồn tại chăng một liên hệ nào đấy giữa Trần Gia Du và học giả người Pháp này ? Do còn hạn chế về nhiều mặt, trong bài này, mấy câu hỏi vừa nêu đành tạm gác lại, mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc trí giả gần xa.

Đến nay đã có thể tái lập phần nào dung mạo việc phiên dịch TKML. Lược dịch là một bước chuyển quan trọng, cho phép bản dịch thoát khỏi những câu thúc về câu chữ mà phương thức đối dịch mắc phải. Tuy thế phương thức lược dịch cũng bộc lộ những chỗ yếu của nó: trong khi cố gắng gạn lọc để nắm bắt những nét chính, cùng làm rõ cốt chuyện, đã để rơi rụng khá nhiều chi tiết nghệ thuật đáng giá. Đây chính là nguyên nhân khiến lược dịch chỉ là một phương thức tạm thời, là một bước chuyển, nối đối dịch với toàn dịch. Với những tư liệu hiện còn, có thể thấy được các phương thức dịch thuật đa dạng trong việc dịch kiệt tác văn chương viết bằng Hán văn này sang ngôn ngữ dân tộc: toàn - đối dịch (TBTKML), tuyển - lược dịch (SNCD - 1876 / QTVV - 1898), tuyển - toàn dịch (Truyện lạ nước Nam diễn nghĩa - 1912), toàn dịch (TKML - bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, 1943; TBTKML - bản dịch của Thứ Lang Bùi Xuân Trang, 1962-1963).

PHỤ LỤC I
Các truyện trong TKML được lược dịch ở SNCD

Nói về tích chuyện người liền bà mắc oan tự vẫn

Xưa ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nội, bây giờ thuộc về tỉnh Hà Nam,(12) có người con gái tên là Vũ Thị Thiết,(13) đẹp mà có nết na,(14) lấy chồng người làng tên là Trương Sinh.(15) Tính ngươi ấy hay nghi hoặc. Nàng ấy thấy chồng thế, càng giữ gìn ý tứ. Vợ chồng lấy nhau chưa được bao lâu, nàng ấy có thai. Gần đến tháng đẻ, thì có giặc Chiêm Thành. Ngươi ấy phải ra lính, trẩy đi đánh giặc. Vừa được mười hai ngày thì nàng ấy đẻ ra một đứa con trai. Cách nửa năm, mẹ ngươi Trương Sinh phải đau mà chết. Nàng ấy làm ma, làm chay cho mẹ chồng cũng như mẹ đẻ.

Đến năm sau, giặc Chiêm đã tan, quân lính ở đâu về đấy. Ngươi Trương Sinh về đến nhà, thấy mẹ mất rồi, mà con mới bập bẹ biết nói, muốn ẵm ra thăm mả mẹ, thì đứa con chỉ khóc, không chịu theo. Nó nói rằng: “Mọi khi cha tôi không biết nói, bây giờ ngươi lại biết nói, thì không phải là cha”. Ngươi ấy mới hỏi làm sao. Nó nói rằng: “Đêm nào cũng thấy cha tôi lại đây, mẹ tôi đi thì cũng đi, mẹ tôi ngồi thì cũng ngồi.” Ngươi ấy nghe con nói, ngờ vợ có tình riêng với ai, đêm ngày chửi mắng. Làng nước, họ hàng, ai can cũng không nghe. Nàng ấy phẫn chí, ra sông Hoàng Giang(16) tự vẫn.

Ngươi ấy tìm đâu cũng chẳng thấy. Đến đêm đốt đèn ngồi nghĩ, chợt thấy đứa con chỉ(17) vào bóng mình bảo rằng:“Kìa, cha tôi đã lại kìa.” Hỏi ra mới biết rằng lúc vợ ở nhà một mình, con hỏi cha, thì chỉ(18) vào bóng mình, nói giỡn(19) con là cha nó. Sau nghe thấy người ta nói, nàng ấy tự vẫn ở sông Hoàng Giang, ngươi ấy mới lập đàn giải oan ở bên sông ấy. Cúng ba đêm ngày, phắt(20) thấy ở giữa sông có chín mươi(21) cỗ xe, cờ quạt rợp bóng.(22) Nàng ấy ngồi trên xe,(23) nói rằng: “Giã ơn chàng có lòng giải oan cho tôi, nhưng mà(24) đấng Thượng Đế thương tôi là người tiết nghĩa, đã cho tôi ở trên cung tiên.” Nói vừa xong, rồi biến mất.(25)

Nói về tích chuyện người phải lòng ma

Đời vua Thái Tông nhà Lê,(26) ở phủ Thiên Trường(27), bây giờ thuộc tỉnh Nam Định, có một người học trò tên là Hà Nhân Giả,(28) theo thầy lên học ở Kinh sư. Buổi nào đi học về cũng thấy hai người con gái đẹp đứng ở trong vườn cũ nhà quan Thái sư, cười nói hớn hở, lúc thì lấy quả cho, lúc thì lấy hoa ném. Người ấy hỏi rằng là ai. Hai người con gái nói rằng: “Chúng tôi là con hầu quan Thái sư, tên là Liễu Nhũ Nương, với Đào Hồng Nương. Từ khi quan Thái sư mất, vẫn giữ dấu thơm. Nay gặp nhà thầy, xin kết làm bạn.” Ngươi ấy thuận, mới đưa nhau về nhà trọ, thi từ, gian díu, tuy chửa lấy nhau, cũng như vợ chồng. Từ đấy hai người con gái, sớm về vườn, tối lại đến. Hôm rằm tháng giêng, hai người con gái mời ngươi ấy lại chơi nhà. Nhân đêm sáng trăng, giải chiếu ở trong vườn, bày những đồ rượu bánh, hoa quả, mời ngươi ấy xơi. Lại thấy một lũ con gái đến mừng, nói tên là họ Vi, họ Lý, họ Mai, họ Dương, họ Kim, họ Thạch; trời gần sáng, đều về cả.

Được vài tháng, cha mẹ cho gọi về để cưới vợ cho. Ngươi ấy về, chối chưa chịu lấy, lại lên Kinh sư,(29) ngày thì đi học, tối lại chơi bời với hai nàng ấy. Một hôm ngươi ấy đi học về, thấy hai nàng ấy ngồi chỗ vườn khóc, mới hỏi làm sao. Hai nàng ấy nói rằng: “Chúng tôi chỉ độ đêm hôm nay, lúc nào gió to thì chết. Xin đưa hai đôi hài hạt châu này để nhà thầy làm khuây.” Ngươi ấy ngậm ngùi về nhà trọ, đến nửa đêm, thấy mưa gió ầm ầm, mới sang nói chuyện thực với ông láng giềng.(30) Ông ấy nói rằng: “Thôi người nhầm rồi ! Từ khi quan Thái sư mất, thì đã hơn hai mươi năm nay, không có ai ở đấy. Sao bây giờ lại có nhiều người như thế ? Hẳn là giống yêu tinh !”

Đến sáng ngày cùng nhau ra chỗ vườn ấy xem, chỉ thấy mấy tòa nhà nát, với lại cây đào, cây liễu gãy đổ. Ông ấy mới chỉ bảo ngươi ấy rằng: “Này đây là con Đào, con Liễu. Còn lũ bạn nói rằng họ Kim, ấy là hoa cúc kim tiền, họ Thạch là cây thạch lựu, họ Lý là cây mận, họ Mai là cây mơ, họ Vi là cây tường vi, họ Dương là cây dương, đều mượn tên cây mà đặt làm tên họ.” Ngươi ấy mới tỉnh biết, trở về lấy hai đôi hài ra xem, thì thấy những lá non cả.(31)

Nói về sự tích ngươi Hồ Quý Ly mắc lý con cáo với con vượn

Đời vua Phế Đế(32) nhà Trần(33) cùng với ngươi Quý Ly(34) đi săn, gặp phải mưa tuyết, không về được, đỗ(35) thuyền ở sông Đà Giang, đêm mở tiệc rượu.

Lúc bấy giờ có con cáo với con vượn tinh nói chuyện ở dưới chân núi gần đấy. Con cáo bảo con vượn rằng: “Vua tôi nhà Trần đem quân vào săn chỗ núi này là chỉ chăm vào lũ ta. Ví không mưa gió,(36) thì hai chúng ta chẳng mắc đạn cũng phải tên. Mày sao chẳng cùng với tao đi ra mà kêu để vua đừng vào săn đây nữa.” Con vượn nói rằng: “Chỉ sợ người ta biết mình thì khốn cả !” Con cáo lại nói rằng: “ở đấy chỉ có ngươi Quý Ly là giỏi, nhưng mà học cũng chưa rộng, tất nhiên cũng không biết ta được.” Con vượn thuận tai. Hai con mới hóa ra hai người: con vượn giả làm Tú tài họ Viên, con cáo giả làm xử sĩ họ Hồ.

Đến chốn vua đóng quân, tâu rằng: “Chúng tôi nghe nhà vua có đức tốt, thì những loài cầm thú được hòa thuận. Bây giờ đang lúc thái bình, sao nhà vua chẳng kén kẻ hiền tài để giúp nước, trị dân, mà lại chăm việc săn bắn ?” Bấy giờ vua đã mỏi muốn đi nghỉ, sai ngươi Quý Ly ra tiếp. Ngươi ấy mời hai người lên thuyền ngồi, mà nói rằng: “Việc săn bắn cũng là phép đời xưa, sao nên bỏ ?” Hồ xử sĩ thưa rằng: “Bẩm quan lớn, đời xưa đi săn là những lúc dân làm ruộng xong rồi, trước là đuổi những con tê, con tượng, khỏi làm hại dân; sau thì tập võ. Nay đang mùa hè mà để dân nhọc nhằn là không phải thì; dẫm nát lúa để bắt loài vật là không phải chốn; tát cạn đầm, đốt cháy núi là không phải lẽ;(37) sao quan lớn chẳng can vua trở về để giống người, giống vật đều được bình yên?” Ngươi Quý Ly nói rằng: “Nghe đây có con vượn với con cáo thành tinh, cho nên muốn săn mà trừ nó đi để nó khỏi quấy dân, không cốt gì việc đi săn.” Hồ xử sĩ với Viên Tú tài nghe nói, trông nhau mủm mỉm cười. Ngươi Quý Ly hỏi cớ sao mà cười thế. Hồ xử sĩ mới nói ra rằng: “Bẩm quan lớn, con sài, con lang đứng chắn đường sao chẳng hỏi, mà lại hỏi con cáo cùng con vượn làm gì ?” Ngươi Quý Ly lại hỏi rằng: “Nhà ngươi nói thế là nghĩa làm sao ?” Hồ xử sĩ thưa rằng:“Bẩm quan lớn, giặc Bồng Nga(38) như chó dại cắn ở cõi đông nam; giặc Lý(39) như hổ đói, kêu ở phương tây bắc, mà nhà vua bỏ chẳng xét đến, cứ chăm chăm những việc săn bắn, dẫu được cầm thú chất cao bằng núi, thì chúng tôi cũng không dám khen !” Ngươi Quý Ly nghe nói phải lẽ, nhận lời, rồi mời uống rượu. Hai người uống say, từ tạ xin về. Ngươi Quý Ly nghi tình, mới sai người đi theo dò xem. Đến giữa rừng, thấy hai người ấy hóa ra một con cáo, một con vượn chạy mất. Ngươi Quý Ly trót nhận lời, mới tâu vua đem quân về.

Nói về tích chuyện người sống làm tướng ma

Cuối đời nhà Trần ở phủ Quốc Oai(40) có một học trò tên là Văn Dĩ Thành, tính ngay thẳng, bạo dạn, không sợ những ma quỷ. Bấy giờ nhà Trần loạn, thiên hạ chết nhiều lắm. Những hồn người chết oan họp thành một lũ, cứ quấy dân(41) hại lắm, không ai phép nào trừ được. Ngươi Văn Dĩ Thành nghe tiếng đồn, mới cưỡi ngựa đi xem. Lũ ma đang ngồi ăn uống, trông thấy ngươi ấy đến, sợ chạy tan cả. Ngươi ấy gọi bảo, “Ta thấy chúng bay chẳng may(42) mà chết oan, ta đến chơi hỏi chuyện.” Lũ ma mới trở lại, mời người ấy ngồi trên nói chuyện. Ngươi Dĩ Thành hỏi:

- Sao chúng bay cứ hay hại người ta ?

- Thưa ông, chúng tôi bắt để thêm cho nhiều quân.

- Quân chúng bay nhiều thì làm gì ? Hại người ta chết, lấy ai cúng cho mà ăn ?

- Thưa ông, vì đời nhà Trần nay sắp biến, cho nên đổi người, đổi vật. Tại thế dưới Âm ty không cấm chúng tôi. Năm nay còn hại vừa, sang năm còn hại hơn nữa.

Ngươi Văn Dĩ Thành nói rằng:(43)

- Đã đành vận trời như thế, nhưng mà chúng bay làm việc gì cho nó có chừng, không nên hại người ta quá.

Lũ ma thấy ngươi ấy có uy vọng,(44) ngay thẳng, có nhân đức, mới xin bầu làm tướng. Ngươi ấy cười nói rằng.

- Ta văn hay, võ giỏi, dẫu làm tướng chúng bay cũng được; nhưng mà Dương gian, Âm phủ cách nhau, vả lại còn mẹ già, thì làm sao ?

- Thưa ông, chúng tôi chỉ xin ông dạy bảo cho uy nghiêm, kỷ luật.

- Có dùng ta làm tướng thì phải theo hiệu lệnh ta, hễ lỗi thì không được.

Lũ ma thuận cả, xin nghe lời. Từ đấy có việc gì cũng phải trình ngươi ấy, dân mới được đỡ hại.

Độ hơn một tháng, lũ ma nói:

- Bây giờ vua dưới Âm ty đặt ra bốn bộ Dạ Thoa, kén45 mỗi bộ một người tướng. Chúng tôi đã bầu ông thì không nên từ.

Ngươi ấy nói,

Đã gọi là người trượng phu, thì ta cũng làm để tiếng về sau.

Liền về nói với mẹ, dặn việc cửa nhà, rồi chết đi làm tướng.

Bấy giờ ngươi Dĩ Thành có bạn tên là Lê Ngộ, đi dạy học ở huyện Quế Dương.46 Ngươi ấy cưỡi ngựa đến chơi đấy, nói chuyện:

- Bây giờ tôi làm quan ôn, coi việc dịch lệ từ sông Trường Giang(47) về phương bắc. Tôi xem trong sổ thấy nhà anh phải nạn cả, tôi đến bảo anh để anh về, hễ có việc gì thì bày nhiều cỗ ở giữa sân mà lễ.

Ngươi Lê Ngộ nghe nói, về ngay, thấy ở nhà vợ con phải đau cả, liền làm cỗ bày ra sân. Một chốc thấy lũ ma kéo đến ăn. Ăn gần xong, ngươi Lê Ngộ ra lạy mãi, thấy quân bàn nhau rằng:

- Hẳn người này là chủ có cỗ, chả lẽ ăn một bữa mà trừ năm nhân mệnh.

Người tướng bảo:

- Thôi đã trót ăn rồi thì cứu cho người ta.

Mới mở sổ, lấy bút son xóa mười chữ, rồi kéo quân đi. Được vài hôm, nhà ngươi Lê Ngộ khỏi cả. Nhớ ơn ngươi Dĩ Thành, đặt tĩnh thờ. Sau dân làng đến cầu việc gì cũng được, mới lập đình thờ làm Thành hoàng. Đình ấy bây giờ vẫn còn, ở làng Thượng Hội, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức,(48) tỉnh Hà Nội.

Nói về sự tích ngươi Từ Thức

Đời nhà Trần ở tỉnh Thanh Hóa có ngươi Từ Thức, làm quan Tri huyện Tiên Du.49 Chùa bên huyện ấy có hội hoa mẫu đơn, hễ đến mùa hoa ấy nở thì các phương xe ngựa đến xem. Tháng hai năm Bính Tý, giáp thứ sáu mươi hai, có người con gái đẹp lắm, độ mười lăm, mười sáu tuổi, đến xem hội, vô ý đánh gãy một cành hoa, phải bắt. Trời đã gần tối mà chưa có ai nhận. Ngươi Từ Thức cũng đi xem hội, trông thấy thương tình, mới cởi áo gấm đền cho nhà sư để tha người con gái ấy đi.

Vốn tính ngươi Từ Thức hay uống rượu, gảy đàn, ngâm thơ, chơi cảnh, không chăm việc quan, phải quan trên quở, mới trả ấn, từ quan, về ở nhà bên núi huyện Tống Sơn.(50)

Có một ngày trở dậy, trông ra cửa bể Thần Phù(51) phỏng độ và [vài] mươi dặm, thấy năm thức mây mọc tròn như hoa sen,(52) mới xuống thuyền ra xem; thấy núi đứng thẳng như vách, cao ước chừng ngàn trượng, mới trèo lên, lấy bút đề thơ vào đấy. Xịch thấy vách đá mở ra một cửa hang tròn. Ngươi ấy mới bước vào vài bước thì cửa hang đóng chặt lại, tối u tối mịt.(53) Sợ hãi tay sờ chân dò, thấy có lối khúc khuỷu, lần lần lên đến đỉnh núi, lại thấy mặt trời sáng tỏ; mà ở chỗ ấy có những lâu đài. Chợt gặp hai người con gái, mặc áo xanh ra mời. Ngươi ấy theo vào cung, thấy tường gấm, cửa son, giường ngọc, chiếu ngà, có một bà tiên mặc áo gấm trắng, ngồi trên giường, bên cạnh giường đặt đèn hương,(54) cho người ấy ngồi. Bà tiên hỏi chuyện một lúc, mới gọi một người con gái ra, chỉ bảo rằng:(55) “Nàng này là con gái ta, tên là Giáng Hương, ngày trước có xuống xem hội hoa mẫu đơn, đánh gãy cành hoa. May gặp được ngươi cứu cho, bây giờ ta gả nó cho ngươi để đền ơn ấy.” Mới làm lễ cưới, mời những tiên các động đến ăn mừng, múa hát vui vẻ.

Ngươi ấy ở trên cung tiên, thấm thoát đã được một năm, nhớ nhà, nói với nàng Giáng Hương rằng: “Cho tôi xuống thăm nhà để chơi với bè bạn, độ vài tháng rồi tôi lại lên.” Nàng ấy khóc, nói rằng: “Tôi không dám lấy tình vợ chồng mà ngăn giữ chàng, nhưng mà bây giờ cửa nhà ở hạ giới không còn như trước nữa.” Ngươi ấy không nghe, cứ vào tâu với bà phu nhân. Bà ấy nói rằng: “Chẳng ngờ nhà ngươi còn nhớ cõi trần như thế.” Mới cho một bức gấm, với một cỗ xe để đi về. Nàng Giáng Hương tiễn một phong thư nhiễu, gạt nước mắt đưa người ấy lên xe. Đi một chớp mắt(56) đã xuống đến nơi. Thấy cửa nhà, làng nước chẳng còn gì như cũ, mới đem tên họ mình hỏi các ông già. Có một ông nói rằng: “Lúc tôi còn bé, nghe nói có ông tổ ba đời cũng gọi tên thế, lên chơi núi, sa vào hang, không thấy về đã hơn tám mươi năm. Bấy giờ là cuối đời nhà Trần. Bây giờ là đời thứ ba vua nhà Lê.” Ngươi ấy thấy thế lại muốn trở lên cung tiên, thì cỗ xe cưỡi dưới hóa con chim loan bay đi mất. Ngươi ấy mới mở phong thư ra xem, thấy trong có thư nói rằng: “Duyên chỉ có thế mà thôi - Đã xuống thì lên không được nữa.” Ngâm ngợi đi vào núi Hoàng Sơn biệt mất. Núi ấy bây giờ ở xã Hoàng Sơn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Nói về sự tích người liền bà có nghĩa

Xưa ở phủ Khoái Châu(57) có một người con gái con quan họ Từ, tên là nàng Nhị Khanh, lấy con trai quan Thiêm thư,(58) tên là Phùng Trọng Quỳ. Được mấy năm, ngươi Trọng Quỳ phải theo cha trẩy đi đánh giặc ở tỉnh Nghệ An.

Đã năm sáu năm chưa thấy về, nàng ấy ở nhà, cha mẹ đều mất; làm ma làm chay rồi về quê, ở với bà cô. Bấy giờ có một người cháu chồng bà cô, làm quan Tướng quân. Người ấy thấy nàng ấy xinh đẹp muốn lấy. Bà cô cũng toan ép gả, dỗ dành mãi, nàng ấy nhất định không theo, mới sai người vào tỉnh Nghệ An tìm chồng. Người ấy tìm đến nơi thì thấy ngươi Trọng Quỳ cha đã mất, mà tính quen chơi bời, cờ bạc, phá hết của cải, ăn mặc rách rưới, mới bảo về. Ngươi ấy về đến nhà, hai vợ chồng mừng rỡ, chuyện trò, than thở với nhau. Sau sinh được hai đứa con trai.

Ngươi Trọng Quỳ quen tính, lại làm bạn với người lái buôn giàu có, tên là Đỗ Tam, chỉ chơi rượu chè, cờ bạc như trước. Nàng ấy ngăn giữ không được. Đỗ Tam thấy vợ ngươi ấy đẹp, muốn lừa để lấy; làm tiệc rượu mời ngươi ấy, mới đặt một triệu quan tiền, làm cuộc để đánh bạc, bảo ngươi ấy rằng: “Không có tiền thì lấy vợ đặt cuộc.” Hai người cùng thuận, làm tờ giao với nhau rồi, thì ngươi Trọng Quỳ đánh ba tiếng bạc thua cuộc, ngồi sầm(59) mặt lại, ngất đi một lúc. Mới gọi vợ đến, đưa tờ cho xem. Nàng ấy thấy thế là sự đã trót rồi, không thể nào mà lo được tiền, mới cười gượng chịu nhận, rồi xin về chơi với con một chốc. Ngươi Đỗ Tam được cuộc, mừng lắm, thuận lời. Nàng ấy về than thở với hai đứa con, rồi lấy khăn thắt cổ tự vẫn.

Ngươi Trọng Quỳ thương nhớ lắm, làm ma, làm chay cho nàng ấy. Sau có một mình, kiếm ăn không đủ, túng bấn lắm, sực nhớ có bạn cũ làm quan ở châu Quy Hóa - bây giờ là phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa - mới đi tìm. Đến nửa đường mỏi chân, vào gốc cây nghỉ, thấy tiếng người văng vẳng(60) như nàng Nhị Khanh, nói rằng: “Có phải là chàng Trọng Quỳ thì mời ngày nữa phải đến đền bà Trưng Vương, ở huyện Phúc Lộc, xã Hát Môn(61) mà đợi lòng ơn.” Trông lên thì chỉ thấy áng mây(62), đem đi sang phương tây bắc, lấy làm lạ. Theo lời hẹn, đến đền ấy ngồi đợi. Sang canh ba, nàng Nhị Khanh hiện lên, than khóc, trách rằng: "Cảm ơn chàng lắm, không biết lấy vật gì mà đưa được.” Ngươi ấy xin chịu lỗi, mới dò hỏi chuyện. Nàng ấy nói rằng: “Từ khi tôi mất, trời thương có nghĩa, cho ở đền Nghiêm Từ,(63) chức giữ tờ tâu. Hôm nọ đi làm mưa, gặp thấy chàng, mới hẹn như thế để nói chuyện, không thì chẳng biết bao giờ được gặp nhau nữa. Nhân nghe thấy các tiên bàn rằng: nhà Hồ gần hết vận, đến năm Bính Tuất loạn to, thì có ông Lê Lợi ở đất Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ra dẹp loạn làm vua. Chàng cứ về nuôi dạy hai con để sau cố theo ông ấy.” Vừa nói xong, trời gần sáng, mới biến đi.

Ngươi Trọng Quỳ theo lời, trở về ở vậy, cứ nuôi dạy hai con. Đến khi hai đứa con khôn lớn, gặp thời ông Lê Lợi ra mở nước, mới bảo hai con đem quân theo. Rồi ông ấy lên làm vua, ấy là vua Lê Thái Tổ, thì hai đứa con ấy được làm quan đến chức Nội thị. Nay vẫn còn dòng dõi ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

PHỤ LỤC II
Mục lục Nam chí dị(64)

STT Tựa đề Trang Lược dịch từ
1. Nói người ta khôn hơn loài vật 1 Ngạn ngữ(1)
2. Nói chuyện con kiếm sữa hươu nuôi cha mẹ 1b Nhị thập tứ hiếu(2)
3. Nói về lời ví “Nước đổ khó bốc” 1b Bắc sử(3)
4. Nói về tích con giấu quít để biếu mẹ 2 Nhị thập tứ hiếu(4)
5. Nói tục lệ tết Thanh minh 2b Lễ ký(5)
6. Nói về sự tích nghề rèn đồ sắt ở nước An Nam 2b Bách nghệ tổ sư (6)
7. Nói về sự tích thuộc da làm giầy dép ở nước An Nam 3 Bách nghệ tổ sư(7)
8. Nói về sự tích sông Tô Lịch 3b Trích quái(8)
9. Nói về sự tích con tạc tượng thờ cha mẹ 4b Nhị thập tứ hiếu(9)
10. Nói về sự tích bà Triệu ẩu 5 Việt sử(10)
11. Nói về sự tích con đi kiếm quả dâu nuôi mẹ 5b Nhị thập tứ hiếu (11)
12. Nói về sự tích ông Bố Cái Đại Vương 6 Trích quái(12)
13. Nói về sự tích nghề thợ bạc ở nước Nam 6b Bách nghệ tổ sư (13)
14. Nói về sự tích Hồ Tây bên thành Hà Nội 7b Trích quái(14)
15. Nói về tích chuyện con cá tinh 8 Trích quái(15)
16. Nói về sự tích ông thần Long Đỗ 9 Trích quái(16)
17. Nói về tích lời ví “quần manh dẫn quần manh” 9b Ngạn ngữ(17)
18. Nói về sự tích câu chuyện rằng: ”Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” 10b U minh lục(18)
19. Nói về sự tích ông sư Huyền Chân 11b Công dư(19)
20. Nói về sự tích bánh dày, bánh chưng 12b Trích quái(20)
21. .Nói về sự tích quả dưa hấu 13b Trích quái(21)
22. Nói về sự tích ông thần Tản Viên cưới vợ 14b Trích quái(22)
23. Nói về sự tích lời ví “To đầu mà dại” 16 Ngạn ngữ(23)
24. Nói về sự tích ông thánh là Lý Ông Trọng 17 Trích quái(24)
25. Nói về sự tích lời ví rằng: ”Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông” 18 Ngạn ngữ(25)
26. Nói về tích chuyện người liền bà mắc oan tự vẫn 19b Truyền kỳ(26)
27. Nói về tích trầu cau với vôi 20b Trích quái(27)
28. Nói về tích chuyện người phải lòng ma 22 Truyền kỳ(28)
29. Nói về tích lời ví “Làm ơn nên oán” 23 Quốc sắc thiên hương (29)
30. Nói về tích lời ví “Của thiên trả địa” 24 Ngạn ngữ(30)
31. Nói về tích ông thần núi Tản Viên 26 Trích quái(31)
32. Nói về tích người Hồ Quý Ly mắc mưu con cáo với con vượn 28 Truyền kỳ(32)
33. Nói về sự tích vua An Dương với con rùa vàng 29b Trích quái(33)
34. Nói về sự tích ông Nguyễn Trãi 31b Công dư(34)
35. Nói về tích chuyện người sống làm tướng ma 34 Truyền kỳ(35)
36. Nói về sự tích người Từ Thức 35b Truyền kỳ(36)
37. Nói về tích ví ”Hồn vía Trương Ba, xương da hàng thịt” 37b Công dư(37)
38. Nói về tích lời ví ”Nói dối như cuội” 39b Ngạn ngữ(38)
39. Nói về sự tích người liền bà có nghĩa 41b Truyền kỳ(39)
40. Nói về sự tích vua Lý Thái Tổ 43b Dã sử (40)
41. Nói về sự tích ông Tú Uyên 45b Bích Câu kỳ ngộ (41)
42. Nói về tích chuyện con mèo có đủ năm đức – Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín 47b Thái bình quảng ký (47)
43. Nói về tích chuyện bà ni sư có đức hạnh 48 Trích quái(48)
44. Nói về sự tích bà Trưng Trắc, bà Trưng Nhị 49 Trích quái(58)
45. Nói về sự tích ông thánh Gióng 50b Trích quái(57)
46. Nói về sự tích ông Phạm Ngũ Lão 52 Hải dư phong vật chí(56)
47. Nói về sự tích ông Từ Đạo Hạnh với ông Nguyễn Minh Không 53b Trích quái(60)
48. Nói về sự tích ông thánh Hưng Đạo 56 Trần triều Cẩm Phả(59)
49. Nói về tích Tết cả, theo chữ là “Nguyên đán tiết” 58b Phong thổ ký (55)
50. Nói về sự tích ông Sĩ Vương Tiên 60 Trích quái(54)
51. Nói về sự tích ông thánh Trấn Vũ 61 Trích quái(53)
52. Nói về tích lời ví ”Dốt đặc hơn hay chữ lỏng” 62b Ngạn ngữ(52)
53. Nói về tích tết mồng ba, theo chữ là ”Hàn thực tiết” 63b Đông Chu liệt quốc(51)
54. Nói về sự tích khắc bản, in sách ở nước Nam 64b Bách nghệ tổ sư(50)
55. Nói về tích tết mồng hai tháng chạp, theo chữ là “Lạp tiết” 65 Phong tục thông(42)
56. Nói về tích tết “Khai hạ” 65b Chiêm tuế sự thư(46)
57. Nói về tích tết mồng năm tháng năm, theo chữ là “Đoan ngọ tiết” 66 Tam Lư cố sự (45)
58. Nói về tích tết rằm tháng tám, theo chữ là “Trung thu tiết” 67 Khai Nguyên di sự(49)

CHÚ THÍCH

1 Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn - Chrestomathie Annamite, Hà Nội, 1898.

2 “Faillait-il nous cantonner dans les écrits en chữ Nôm? Devions-nous, au contraire, étendre notre choix à la traduction annamite des textes chinois usuels? Après mure réflexion, c’est à cette dernière solution que nous nous sommes arrêté, estimant que, de facon ou d’autre, l’étudiant aura profit à connaitre en maintes circonstances la teneur d’écrits de ce genre.” (Quảng tập viêm văn, sđd., tr.V). Tuy nhiên sách cũng dành một số trang đáng kể cho việc trích phiên sang Quốc ngữ các tác phẩm Nôm quen biết ở ta, ví như: Bích Câu kỳ ngộ, Nguyễn Trãi Gia huấn ca (sic), Kim Vân Kiều, Nhị độ mai, Việt sử diễn ca, Phan - Trần, Hoàng Tú, Nữ Tú tài, Phương Hoa, Nhị thập tứ hiếu diễn ca, Cung oán, Chinh phụ ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm, Thúy Kiều thi tập, Tứ linh, Trinh thử, Hàn Vương Tôn Phú, Ca trù thể cách, các tác phẩm do Thị độc Đinh Viết Thận, Hoàng giáp Trịnh Đình Thái, Bảng nhãn Lê Quý Đôn soạn, Phật thuyết thập lục quan kinh, Văn đạo phù lục, Văn chầu đạo Tiên, Văn chầu Chư vị, và Văn chầu Đạo nội. (Xem Quảng tập viêm văn, chương II -Littérature annamite-Văn Nôm).

3 Nói chính xác hơn, một bộ phận trong chương I của Quảng tập viêm văn (Ngạn ngữ An-nam) cũng được phiên Nôm từ Sử Nam chí dị.

4 Gs. Trần Nghĩa, Gs.Francois (đồng Chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, 3 tập, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1993, tập 2, tr. 739: “[Sử Nam chí dị gồm] 1 bản viết, 136 tr., 30 x 18, có chữ Hán.”

5 Như trên. Toàn bộ các truyện trong sách được ghi lại trong phần phụ lục xếp ở cuối bài. SNCD lược dịch cả một số truyện từ các tác phẩm Hán văn Trung Quốc. Các truyện về Lục Tích (truyện thứ 4 - “Nói về tích con giấu quýt để biếu mẹ”), về Chu Mãi Thần (truyện thứ 3 - “Nói về lời ví 'Nước đổ khó vốc'”) đều viết bằng chữ Nôm chứ không phải bằng chữ Hán như Di sản Hán Nôm Việt Nam đã nêu.

6 Quảng tập viêm văn giới thiệu 180 bản văn, trong đó có 59 bản là từ SNCD (tỷ lệ gần 1/3).

7 Sử Nam chí dị không chỉ lược dịch các tác phẩm Hán văn mà còn tóm lược truyện thơ Nôm. “Sự tích ông Tú Uyên” (tóm lược truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ) là một ví dụ.

8 Xem mục lục Sử Nam chí dị ở cuối bài.

9 Tức là “Chuyện người liền bà mắc oan tự vẫn,” “Chuyện người phải lòng ma,” “Sự tích ngươi Hồ Quý Ly mắc lý con cáo với con vượn,” “chuyện người sống làm tướng ma,” “Sự tích ngươi Từ Thức,” và “Chuyện người liền bà có nghĩa” trong Sử Nam chí dị.

10 Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh chủ biên, Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san - Truyền kỳ loại - Đệ nhất sách - Truyền kỳ mạn lục, Pháp quốc Viễn Đông Học viện, Đài Loan Học sinh thư cục, 1987, tr.379.

11 Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, in lần thứ hai, Nxb. Văn học, H., 1971, tr.183.

12 Bây giờ thuộc về tỉnh Hà Nam: Sách QTVV không ghi đoạn này vào chính văn, nhưng lại tách ra thành một chú thích. Xem Quảng tập viêm văn, sđd., trg.16, chú thích 1.

13 QTVV chú “Vũ Thị Thiết - một phụ nữ Việt Nam sinh vào thế kỷ XIV công lịch. Lòng trinh liệt điển hình của nàng, việc nàng tuẫn tiết do chồng bất công ngược đãi đã khiến nàng nổi tiếng.” (tr.289)

14 QTVV : đẹp đẽ, có nết na (tr.16).

15 QTVV chú Trương Sinh - một nhân vật Việt Nam, sinh vào thế kỷ XIV sau công nguyên.” (tr.182)

16 QTVV chú “Hoàng Giang - tên cũ của sông Hồng.” (tr.195)

17 QTVV: chỏ (tr.16)

18 QTVV: chỏ (tr.16)

19 QTVV: bỡn (tr.16)

20 QTVV: phút (tr.16)

21 QTVV: sáu mươi (tr.16)

22 QTVV: lấp loáng (tr.16)

23 QTVV: ngồi xe (tr.16)

24 QTVV: nhưng mà bây giờ (tr.16)

25 QTVV:Nói vừa xong biến mất (tr.16)

26 QTVV chú “Thái Tông (vua) - vua nước Việt đời nhà Lê, con vua Lê Thái Tổ, trị vì từ năm 1434 đến 1443 sau Công nguyên.” (tr.268).

27 QTVV chú “Thiên Trường - tên cũ của ty (département) Xuân Trường.” (tr.274)

28 QTVV: chú “Hà Nhân Giả - học trò Việt Nam sinh vào thế kỷ XV sau Công nguyên.” (tr.194)

29 QTVV: Kinh đô (tr.18)

30 QTVV: mấy ông cụ láng giềng (tr.18)

31 QTVV: thì thấy rặt lá non cả (tr.19)

32 QTVV chú “Phế Đế (vua) - vua Việt Nam đời nhà Trần, trị vì từ 1378 đến 1390.” (tr.252)

33 QTVV: Xưa, vua Phế Đế, nhà Trần (tr.22)

34 QTVV chú “Quý Ly - tên tắt của Lê Quý Ly, đại thần Việt Nam, người lật đổ triều Trần và lên ngôi năn 1402 sau Công nguyên, dưới tên là Hồ Quý Ly. Năm sau, ông nhường ngôi cho một trong những người con của mình. Cả hai sau bị quân Trung Quốc bắt và chết trong khi bị lưu đày ở Trung Hoa.” (tr.257)

35 QTVV: đậu (tr.22)

36 QTVV: ví không có mưa gió (tr.22)

37 QTVV: lễ (tr.23)

38 QTVV chú “Bồng Nga - Thái tử Chiêm Thành, xâm lược Việt Nam vào năm 1378 sau Công nguyên và bị Quý Ly đánh bại.” (tr.176)

39 QTVV chú “lý (giặc) - gọi tắt của Lý Anh.” Giặc Lý Anh chỉ quân Trung Quốc do tướng Lý Anh chỉ huy, năm 1385 mượn cớ đánh Chiêm Thành hòng xâm lược nước ta (tr.209).

40 QTVV: Quốc uy (tr.27). QTVV cũng chú thêm rằng: “Quốc Uy (phủ) - thủ phủ tỉnh Sơn Tây.” (tr.257)

41 QTVV: cứ đi quấy dân (tr.27)

42 QTVV: chẳng bay chúng may (tr.27)

43 QTVV: (tr.28) không có đoạn này.

44 QTVV: Thấy ngươi thấy uy vọng (tr.28)

45 SNCD: hiện (tr.35b): QTVV: kén (tr.28)

46 QTVV chú “Quế Dương (huyện) - một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh.” (tr.257)

47 QTVV chú “Trường Giang - tên cũ của sông Hồng. Tên ngày nay là Nhĩ Hà.” (tr.282)

48 QTVV: không chép “phủ Hoài Đức” (tr.28)

49 QTVV chú “Tiên Du (huyện) - một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh.” (tr.279)

50 QTVV: chú “Tống Sơn (huyện) - một huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa.” (tr.281)

51 QTVV chú “Thần Phù (cửa bể) - cửa biển thuộc tỉnh Thanh Hóa.” (tr,270)

52 QTVV: như chiếc hoa sen (tr.29)

53 QTVV: tối mù tối mịt (tr.29)

54 QTVV: bên cạnh đặt giường đàn hương (tr.29)

55 QTVV: trỏ bảo rằng (tr.29)

56 QTVV: nháy mắt (tr.30)

57 QTVV chú “Khoái Châu (phủ) - một phủ thuộc huyện Hưng Yên.” (tr.200)

58 QTVV chú “Thiên thư (quan) - Thư ký viện Cơ mật dưới triều Trần.” (tr.274)

59 QTVV: ngồi xám mặt lại (tr.34)

60 QTVV: nghe văng vẳng thấy tiếng (tr.34)

61 QTVV chú “Hát Môn xã - một xã thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.” (tr.194)

62 QTVV: đám mây (tr.34)

63 QTVV: chú “Nghiêm từ (đền) - Khổng miếu tọa lạc ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, thờ bà Trưng Trắc và Trưng Nhị.”

64 Các số trong ngoặc đơn chỉ thứ tự của các truyện trong QTVV.

TB

NHỮNG TÁC PHẨM Y HỌC CỦA NGUYỄN GIA PHAN

LÂM GIANG

Nguyễn Gia Phan còn có tên Nguyễn Thế Lịch, hiệu Dưỡng Am và Từ An, sinh năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng 10 (1759) tại làng Yên Lũng, huyện Từ Liêm, (Hà Nội), năm 26 tuổi thi đỗ tiến sĩ, khoa Ât Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775), được bổ Thự giám sát Ngự sử đạo Sơn Tây.

Nguyễn Gia Phan xuất thân trong một gia đình nhiều đời làm nghề thuốc, cứu sống được nhiều người, rất nổi tiếng trong vùng. Nhưng đến đời ông thì theo nghiệp nho. Nhưng do hoàn cảnh xô đẩy khiến ông lúc ra làm quan, khi lui về làm thuốc, và cũng có lúc vừa làm quan vừa làm thuốc. Số là Trịnh Sâm khi ấy số con trai nối dõi không nhiều, thường lưu ý đến y đạo, biết Nguyễn Gia Phan xuất thân từ gia đình có truyền thống làm thuốc, nên lệnh cho ông khảo duyệt y thư, soạn thêm bộ Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp, để sử dụng trong cung.

Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ ra Bắc, triều đình Lê Trịnh sụp đổ. Nguyễn Gia Phan trở về quê, chuyên tâm với nghề thuốc, đi sâu nghiên cứu chuyên khoa nhi, khoa sản, liệu dịch.

Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh ít lâu, xảy ra nạn ôn dịch khá lớn. Nguyễn Gia Phan Lập tức tìm đọc khắp cổ thư, nhưng không có sách nào chuyên chữa trị cho bệnh dịch này. Đứng trước tình thế nguy cấp, ông chắt lọc những điều cần thiết từ các cổ thư, kết hợp với thực tiễn, chế ra những phương thuốc chữa dịch hiệu nghiệm, cứu sống nhiều người.

Năm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Gia Phan được mời vào Phú Xuân giữ chức Thượng thư bộ lại cho nhà Tây Sơn. Công việc làm thuốc phải tạm gác lại. Mười năm sau, năm 1802, nhà Tây sơn sụp đổ, Nguyễn Gia Phan lại trỏ về quê, tiếp tục làm nghề cũ. Từ đó đến cuối đời, ông tập hợp tất cả những gì đã gom góp được về y học, soạn tập nên những tác phẩm y học có gia trị như:

- Lý âm phương pháp thông lục toàn tập.

- Hộ nhi phương pháp tổng lục.

- Liệu dịch phương pháp toàn tập.

- Y gia phương pháp tổng lục.

Hiện nay, tập: Y gia phương pháp tổng lục chưa tìm thấy, chỉ có tên sách ghi trong bài tựa tập Lý âm phương pháp tổng lục của tác giả.

Quá trình biên soạn những tác phẩm trên ra sao, niên đại biên soạn và nội dung như thế nào, tình hình văn bản hiện còn ra sao, giá trị tác phẩm và sự đóng góp của Nguyễn Gia Phan như thế nào, xin lần lượt trình bày sau đây:

I. Lý âm thông lục toàn tập: Tập sách được biên soạn gần như suốt cuộc đời của tác giả. Hiện ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ 4 bộ với các ký hiệu: A.2853, VHv.4022, VHv.3876, VHv.4043, có chép 5 bài tựa, trong đó, 2 bài do tác giả viết, 3 bài do các bạn đồng liêu viết. Những bài tựa này cho biết quá trình biên soạn sách Lý âm thông lục toàn tập từ lúc khởi thảo đến khi hoàn thành, trải qua các giai đoạn biên soạn như sau:

- Năm Cảnh Hưng 38 (1777), theo yêu cầu của Trịnh Sâm ông soạn ra tập: Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp. Tập này có bài tựa của tác giả (gọi Tiền tự).

- Khoảng năm 1787, 1788, tác giả lui về quê nhà, ông soạn bổ sung cho tập trên và soạn thêm mục Tiểu nhi khoa, rồi đổi tên là Thai sản điều lý phương pháp. Tập này có bài tựa của Vũ Huy Phác viết năm 1788, của Nguyễn Nha viết năm 1790, của Ninh Tốn cũng viết năm 1790.

Năm Gia Long 13 (1814), cũng tại quê nhà, ông trên cơ sở cuả 2 tập trên, bổ sung đầy đủ hơn, toàn diện hơn thành bộ sách hoàn chỉnh gồm 4 quyển, với tên sách: Lý âm phương pháp thông lục. Tập sách đã tập hợp 5 bài tựa như đã nói trên: Hai bài của tác giả, một là Tiền tựa và một viết cho tập Lý âm phương pháp thông lục này (gọi là Hậu tự).

Các bài tự trên giúp chúng ta hiểu được quá trình xuất xứ và biên soạn các tác phẩm y học của Nguyễn Gia Phan:

Năm Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 36 (1775), Nguyễn Gia Phan đậu Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Thư giám sát Ngự sử, đô cấp sự trung đạo Sơn Tây. Khi ấy phủ chúa Trịnh, vì số con trai nối dõi chưa nhiều, nên rất chú ý đến y đạo. Biết Nguyễn Gia Phan xuất thân từ gia đình ba đời làm thuốc, nên đã lệnh cho ông khảo duyệt y thư, soạn ra tập: Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp, để dùng trong cung cấm. Thế là, ông đem các bộ y thư ra tham khảo, hiệu đính, trích lấy chỗ thiết yếu, lược biên thành một tập dâng lên. Còn như các phương pháp chữa trị các chứng bệnh của phụ nhân, các chứng thai tiền, thai hậu, hậu sản v.v. Thì đưa vào tập sách ấy chưa được đầy đủ (Tiền tự).

Lại ở bài tựa do Vũ Huy Phác viết cho biết thêm:

Năm Bính Ngọ (1786) đổi vạc (tức thay đổi triều đại), Nguyễn Gia Phan trở về quê nhà, nhân lúc an nhàn, bèn lấy y nghiệp làm vui, cổ kim phương thư, không sách nào là không để mắt tới, thường trích ra những chỗ tinh tuý của các nhà, cộng với cách nhìn nhận của mình mà tập hợp lại thành Thai sản điều lý phương pháp. Tập này bổ sung cho những chỗ còn thiếu của tập đã biên soạn dâng lên cho chúa Trịnh trước đây, với các phương pháp bảo vệ thai sản, chữa các bệnh sản hậu v.v. và biên soạn thêm phần Tiểu nhi khoa (Vũ Huy Phác viết năm 1788).

Mùa xuân năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn Gia Phan được triệu vào Phú Xuân, làm quan cho nhà Tây Sơn đến Thượng thư bộ Lại. Công việc chữa bệnh và biên soạn sách thuốc phải tạm dừng lại. ở Phú Xuân được 10 năm, năm Nhâm Tuất (1802), nhà Tây Sơn mất, ông lại trở về quê tiếp tục hành nghề y. “Từ đó, mới thường xuyên được an nhàn, chuyên tâm với nghề thuốc. Lại đọc khắp các quyển sách của các nhà từ thời Hiên Viên, Kỳ Bá trở về sau. Tất cả các chứng bệnh của người lớn, trẻ em và phụ nữ đều có tham cứu ở các ở các lời bàn luận khác nhau, hoặc giống nhau của các bậc tiên triết, lược thuật kỹ các phương pháp. Phàm những tôn chí chính yếu về điều dưỡng, trị liệu, nhất nhất đều thuật đủ. Những chỗ khó xử, phụ ghi vào ý kiến của mình, tham khảo, châm chước bàn luận, biên soạn tập hợp thành sách, nhưng vẫn chia làm 3 bộ để tiện sử dụng. Bộ thứ nhất là: Y gia phương pháp tổng lục, trong đó thuật lại đầy đủ các cách chữa bệnh cho người lớn. Bộ thứ hai là: Hộ nhi phương pháp tổng lục, đủ để nuôi dưỡng, chữa trị các bệnh ở trẻ em. Còn các chứng bệnh của phụ nữ, lại một lần nữa khảo duyệt kỹ càng thêm, gộp với tập đã soạn là Thai sản điều lý phương pháp trước đây, tập hợp thành 1 sách, gồm 4 quyển lấy tên là: Lý âm phương pháp thông lục...” (Hậu tự).

Như vậy tập sách trên đã trải qua một quá trình biên soạn khá dài từ Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp soạn dâng phủ Chúa Trịnh năm 1777, đến Thai sản điều lý phương pháp soạn bổ sung cho tập sách trên vào những năm Chúa Trịnh mới bị diệt (1786, 1788), để rồi, cuối cùng trở thành bộ Lý âm phương pháp thông lục với 4 quyển, được biên soạn kỹ càng, nội dung đầy đủ trên cơ sở của 2 tập đã soạn trước.

Hiện tại Viện Nghiên Cứu Hán Nôm có 3 bản:

1. Thai sản điều kinh phương pháp (VHv.2069), chép tay, chữ Hán, chữ viết chân phương, 55 từ, tờ 20 dòng, dòng 25 chữ, khổ 24 x 14cm. Tập này ghi rõ: Nguyễn Thế Lịch, Giám sát Ngự sử, Lục khoa cấp sự trung xứ Sơn Tây, soạn. Không có tựa, bạt, dẫn... Tập này có lẽ là tập Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp soạn dâng lên phủ chúa, vì vậy nội dung cho biết:

- Bàn về sự trưởng thành của bào thai, từ tháng thứ nhất đến tháng thứ 10, dựa vào đó mà nêu ra các phương pháp dưỡng thai hợp lý.

- Hình vẽ bào thai, thuyết minh rõ sự phát triển của nó từ tháng thứ nhất đến tháng thứ mười, mỗi tháng là một hình vẽ.

- Cách xem mạch cho người có thai.

- Cách xem thai là trai hay là gái.

- Những điều kiêng kỵ của người có thai khi ăn, lúc ở.

- Các bài thuốc chữa bệnh cho người có thai, cho người hiếu sinh vô dưỡng...

Mục cầu tự có nêu:

- Mạch cầu tự - Luận về khắc, giờ, ngày, tháng giao hợp để có hiệu quả

- Một năm có 12 tháng, trong đó, có tháng sinh con trai, có tháng sinh con gái, không đều nhau.

- Dựa vào kỳ kinh nguyệt, giáp hợp vào lúc nào thì có con trai hay con gái theo ý muốn

- Cách chuyển thai nữ thành thai nam.

- Dựa vào tuổi người chồng và người vợ, định ra tháng giao hợp để có con trai hay con gái theo ý muốn v.v.

Như vậy, tập sách đáp ứng được lòng mong mỏi muốn có nhiều con nối dõi của phủ Chúa Trịnh.

2. Tập Thai sản điều lý phương pháp: Có 2 ký hiệu A.556 và A. 442, cũng ghi: Thự Sơn Tây đạo Giám sát ngự sử, cấp sự trung Nguyễn Thế Lịch soạn năm Cảnh Hưng 38 (1777). Đều là bản chép tay, chữ Hán, chữ viết chân phương. A.556: 72 tờ, tờ 18 dòng, dòng 19 chữ, khổ 31 x 20cm; A.442: 179 tờ, tờ 18 dòng, dòng 11 chữ, khổ 30 x 21cm. Đây có lẽ là bản đã được biên soạn bổ sung trong dịp Nguyễn Gia Phan lui về quê nhà năm 1786. Vì nội dung gồm 2 phần Thai sản Tiểu nhi khoa, như tronglời tựa đã nói. Tập này được bổ sung đầy đủ hơn, phong phú hơn, tỉ mỉ hơn...

3. Lý âm thông lục (A.2583), chép tay, chữ Hán, chữ viết chân phương, 190 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 29 x 18cm. Ghi rõ: Nguyễn Gia Phan soạn và đề tựa năm Gia Long Giáp Tuất (1814), có 5 bài tựa, 1 mục lục. Tác giả và nội dung các bài tựa như đã trình bày ở phần trên. Đây chính là tập Lý âm phương pháp thông lục, gồm 4 quyển, nhưng hiện chỉ còn 3 quyển: Quyển 1: Trình bày các phương pháp điều dưỡng và bài thuốc chữa 23 bệnh phụ khoa. Quyển 2: Ghi chép bài thuốc và cách chữa các bệnh về thai sản v.v. Quyển 3: Nêu rõ các phương pháp cần thiết khi lâm sản. Các bài thuốc chữa các chứng sản hậu...

Hiện chưa thấy quyển 4.

II. Hộ nhi phương pháp tổng lục: Theo như lời bài tựa đã nêu trên, tập sách được hoàn thành cùng lúc với Lý âm phương pháp thông lục, và tập sách cũng được biên soạn cả một quá trình dài, khởi đầu là mục Cầu tự trong Phụ nhân thai sản điều lý phương pháp soạn dâng lên phủ Chúa Trịnh, sau được bổ sung thành mục Tiểu nhi khoa trong Thai sản điều lý phương pháp, soạn vào những năm triều đình Lê Trịnh sụp đổ, ông về nghỉ tại quê, đến khi biên soạn Lý âm phương pháp thông lục, tách ra thành bộ sách riêng, gồm 4 quyển.

Hiện ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm có 5 bộ Hộ nhi phương pháp thông lục: A.1989, VHv.1630, VHv.4063, VHv.3878, VHv.4046.

- A.19891/1-2: 2 sách chép tay, chữ Hán chân phương, 254 tờ, tờ 14 dòng, dòng 21 chữ, khổ 29 x 17cm, có 2 bài tựa, mục lục, gồm 4 quyển, đủ bộ.

- VHv.1630: 1 sách chép tay, chữ Hán, chân phương, 66 tờ, tờ 16 dòng, dòng 27 chữ, khổ 28 x16cm, chỉ chép một phần của quyển 4.

- VHv.4063: 1 sách chép tay, chữ Hán, viết đá thảo, 52 tờ, tờ 20 dòng, dòng 23 chữ, khổ 28 x 16cm, chép quyển 4.

- VHv.3878: 1 sách chép tay, chữ Hán, viết đá thảo, 46 tờ, tờ 20 dòng, dòng 25 chữ, khổ 28 x 16cm, chép Quyển 1.

- VHv.4046: 1 sách chép tay, chữ Hán, đá thảo, 30 tờ, tờ 20 dòng, dòng 25 chữ, khổ 16 x28, chép Quyển 2 (thiếu) và Quyển 3.

Như vậy, toàn bộ tác phẩm Hộ nhi phương pháp thông lục gồm 4 quyển. Ký hiệu A.1989 đủ bộ, các ký hiệu VHv.1630, VHv.4063, VHv.3798, VHv.4060 gộp lại đủ 1 bộ.

Bộ sách đều ghi rõ Nguyễn Gia Phan soạn và đề tựa. Ngoài ra còn bài tựa. Ngoài ra còn 1 bài tựa khác của Hoa Lĩnh tử.

Quyển 1: Chép các phép điều dưỡng, cách chữa bệnh trẻ sơ sinh: Cách móc miệng trẻ sơ sinh, chữa trẻ đẻ ra không khóc, cách cắt rốn, cách tắm, cách gọt tóc, cách cho con bú, cách xem tướng (có hình vẽ) trẻ thọ yểu. Cách chữa trẻ đẻ ra không có da, chữa toàn thấn trứng cá, sơ sinh không biết bú, sơ sinh nhắm mắt, sơ sinh không đi tiểu, sơ sinh đại tiện không thông, lỗ hậu môn không đóng v.v.

Quyển 2: Bài thuốc và cách chữa các bệnh của trẻ: nhức đầu, ho hen, suyễn, viêm, đau bụng, chướng bụng, hoàng thư, tích trệ, mồ hôi trộm v.v. Cách xem mạch (có hình vẽ bộ vị mạch văn) đoán bệnh cho trẻ. Tổng luận về bệnh kinh phong, cấp vạn kinh, kinh phong nhập hầu, cấp kinh phong, cấp kinh nhập hầu v.v.

Quyển 3: Kê bài thuốc và cách chữa các bệnh về bài tiết của trẻ: Hoắc loạn, thổ tả, lỵ, tiểu tiện, đại tiện bế, khí hư thoát cang v.v.

Quyển 4: Cách chữa các chứng cam và một số bệnh khác của trẻ gồm 91 chứng cam, ngoại cảm, ôn tật, thử chứng, phát nhiệt, ngược tột, ban chẩn v.v.

Trong lời đề tựa tác giả nói rõ tầm quan trọng và những khó khăn trong việc chữa bệnh cho trẻ em: “Chỉ cần một sai sót nhỏ thì bệnh nhẹ trở thành bệnh nặng, mà bệnh nặng thì tính mạng nguy khốn. Như vậy, há lại không phải thận trọng ư ? Lão phu này vì vậy, đã cẩn thận đọc rộng khắp các phương pháp bảo vệ anh nhi của các nhà, rồi biên soạn thành 1 tập, gồm 4 quyển, nhan đề là Hộ nhi phương pháp tổng lục, đại loại thuật lại những di ý của cổ nhân mà trích lấy những chỗ tinh tường thiết yếu, tập hợp thành 1 sách để tiện mở ra xem, để người thầy thuốc chữa bệnh cho trẻ kịp thời ứng dụng, vừa liếc nhìn là đã rõ, không phải vất vả đi tìm các quyển cổ thư mà những phương thuốc hay của tiên thánh, những tôn chỉ sâu xa của Hiên Viên, Kỳ Bá trên vài ngàn năm nay đều có thể nhất nhất thấy được đầy đủ...”

Bài tựa của Hoa Lĩnh tử còn cho biết thêm: “Tiên sinh, năm Cảnh Hưng đời Hoàng Lê đăng khoa giáp, giúp việc triều chính, thọ quốc, thọ dân, giúp nhiều cho thời vạn. Mỗi khi nhàn rỗi, cũng có ý muốn cứu sống người, nên dấu xe in khắp nẻo...”

Như vậy, mục đích biên soạn của tập sách đã rõ. Và để làm nên những trước tác ấy, tác giả đã phải lặn lội nhiều năm, nhiều nơi với thực tiễn chữa bệnh.

III. Liệu dịch phương pháp toàn tập: Nguyễn Gia Phan không những đi sâu vào chuyên khoa nhi, khoa sản mà còn đi sâu nghiên cứu cách chữa, biên soạn sách chữa ông dịch.

Trong lời tựa viết cho Lý âm phương pháp thông lục đã nêu trên, tác giả cho hay: “Duy chỉ có chứng ôn dịch là tối cẩn trọng, đi tìm ở sách cổ, phần nhiều chỉ nói sơ lược, nhưng vẫn phải đem gộp các phương pháp trị liệu cho người lớn, trẻ em, phụ nữ, lại chép làm 1 bộ, đặt tên là Liệu dịch phương pháp toàn tập...” (Hậu tự).

Như vậy, tập sách được hoàn thành cùng một lúc với Lý âm phương pháp thông lục năm Gia Long 13 (1814).

Tại viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 6 bộ Liệu dịch phương pháp, đều là bản chép tay, chữ Hán viết chân phương lẫn viết đá thảo, đều ghi Nguyễn Gia Phan soạn năm Gia Long 13 (1814), có lời dẫn của tác giả, lời bạt của ứng Xuyên Bá Du đề năm Gia Long 15 (1816). Lời dẫn của tác giả cho biết, Liệu dịch phương pháp là tập sách đã được đúc rút ra và thử nghiệm trong thực tế qua 2 trận dịch lớn: Một là vào năm Kỷ Dậu (1789), sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh, binh lính bị chết trận nhiều, gia súc bị giết hại lắm. Hai là vào năm Gia Long 13 (1814), trước khi tác giả hoàn thành tập sách này. Cũng qua đây được biết Liệu dịch phương pháp là tập sách đầu tiên xuất hiện ở nước ta với tư cách là sách chuyên khoa chữa dịch. Trước nó, kể cả y học Trung Hoa cũng chưa có bộ sách nào về chuyên khoa này. Như thế thì, Liệu dịch phương pháp của Nguyễn Gia Phan ra đời là một đóng góp cho y học nước ta thời đó.

Lời dẫn cho tập sách của tác giả viết: “... Thường đọc các sách, ghi chép về phương pháp trị liệu, phần lớn là giản lược, Nội kinh có phép nhưng chưa có phương, tiếp theo chưa thấy có phát minh ra tôn chỉ để nói rõ phương pháp ấy. Đến như Trương Trọng Cảnh đời Hán Thái Ninh, được gọi là “y thánh”, khi bàn về pháp trị bệnh thương hàn thì phương pháp rất đầy đủ, nhưng về ôn dịch lại không có phép chữa trị... Nhập môn của Lý tiên sinh, Cảnh nhạc, Trương tiên sinh, cho đến quần thư Tông kim quán đại tập làm ra, trong đó, phép luận trị, đại để giống như thương hàn. Duy có Tung Nhai Cảnh tiên sinh, lập phương luận chứng, phân tích rõ ràng, tỉ mỉ, ý nghĩa tinh thiết, và cũng có hơi khác với mọi nhà, khảo về phương trị, phần nhiều là dùng cho nhiệt chứng, còn như hàn dịch, ôn dịch cũng ít nói đến...

Lão phu này, khi còn ở quê nhà, vốn có biết y thuật. Sau khi thi đỗ, cũng vẫn thường đọc sách thuốc. Nhưng về ông dịch cũng chỉ lướt qua, chỉ thu hoạch được những điều chung chung, vốn chưa đọc kỹ cả quyển sách. Hồi cuối Lê gặp biến cố, phải nương náu ở thôn quê. Đầu mùa xuân, năm Kỷ Dậu (1789), trong nước xảy ra chiến tranh lớn, sát thương rất nhiều, chỉ trong tuần nhật, dịch khí nổi lên rất lớn. Khắp nơi vang lên tiếng kêu khóc. Người thầy thuốc không thể ra tay được, nhân mới đọc khắp quần thư, chọn lấy chỗ sở đắc, học lấy đại ý, dùng vào việc gấp rút cứu chữa người, may mà cứu sống được nhiều người. Mỗi khi nghiên cứu thành công, bèn biên tập thành sách để tiện sử dụng...”

Lời bạt của ứng Xuyên Bá Da, khẳng định: “Năm Kỷ Dậu (1789), Giáp Tuất (1814), 2 lần dịch khí lưu hành, chữa trị cứu sống nhiều người. Lại nghĩ rằng, chứng cảm nhiễm có nặng có nhẹ mà phương pháp luận trị thì khác nhau, trị pháp sơ lược, đơn giản. Trong lúc bệnh tình nguy kịch, chưa dễ gì mà ra tay...

Mùa xuân năm Bính Tý (1816) ở quán Từ Ngọc, được ông cho xem tập Liệu dịch phương pháp, lật đi lật lại, thấy tôn lão đài biên chép, liệt kê quả thực là giản dị mà dễ hiểu, chính xác mà không sai, đã nêu ra được cái mà y tông chưa nêu ra được, làm rõ được cái sở học của mọi nhà mà trước đây chưa làm rõ được...”

Bộ sách gồm 2 quyển, nội dung phong phú:

Quyển 1: Bàn về vận khí và vận khí tổng luận, về bệnh ôn dịch và phép xem mạch bệnh ôn dịch, về cách chữa dịch của các tiên thư, tiên y Trung Hoa, như: Nội Kinh, Y thống, Nhân Trai Dương tiên sinh, Đan Khê tiên sinh, Vân Lâm Cung tiên sinh, Triệu Thị Y quán, Nhập môn Lý tiên sinh, Cảnh nhạc tiên sinh, Phùng Thị Cẩm Nang, Ngô Miễn Học tiên sinh, và về phép chữa trị bệnh Thái âm kinh, phép chữa bệnh hàn dịch, thấp dịch v.v.

Quyển 2: Tiếp tục luận bàn về ôn dịch, trong đó có trích giới thiệu các chứng dịch của các nhà cùng các phương thuốc chữa: Tung Nhai Cảnh tiên sinh luận, Đông Viên Lý tiên sinh luận, phụ nhân thương hàn luận và phép dùng thuốc chữa bệnh thương hàn cho phụ nhân. Tiểu nhi ôn dịch luận và cách chữa dịch cho trẻ em. Kê nhiều phương thuốc ngoài tránh dịch khí, trong trị dịch khí. Tổng luận về ôn dịch, về chướng khí, chướng khí mạch pháp, bệnh chướng khí v.v.

Liệu dịch phương pháp toàn tập, hiện ở thư viện Hán Nôm có 6 ký hiệu:

- A.1306: Chép tay, chữ Hán, chân phương, 131 tờ, tờ 18 dòng, dòng 26 chữ, khổ 28 x17cm: Chép Quyển 1.

- A.3203: Chép tay, chữ Hán chân phương, 44 tờ, tờ 20 dòng, dòng 26 chữ, khổ 28 x 17cm: Chép Quyển 2.

- VHv.4034 và VHv.3889: Chép tay, chữ Hán đá thảo, 54 tờ, tờ 16 dòng, dòng 27 chữ, khổ 28 x16cm: Chép Quyển 1.

- VHv.4027 và VHv.3907: Chép tay, chữ Hán đá thảo, mỗi ký hiệu 56 tờ, tờ 16 dòng, dòng 26 chữ, khổ 28 x16cm: Chép Quyển 2.

Như vậy, với các ký hiệu thư viện hiện có, Liệu dịch phương pháp đã có đủ bộ gồm Quyển 1 và Quyển 2.

*
**

Để hiểu rõ thêm sự đóng góp của Nguyễn gia Phan về y học Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX, xinh tuyển dịch bài tựa của Hoa Lĩnh Tử viết cho tập Hộ nhi phương pháp tổng lục như sau:

“Ấu khoa có người còn gọi là á khoa. Quả thực về trị pháp khó nói ra cho rõ ràng, mà việc dụng dược không thể xem nhẹ được vậy. Ôi ! Đạo của người làm thuốc khó nói lắm thay ! Bệnh cơ bất đồng, phương pháp bất nhất, mà con trẻ thì rất khó hỏi, khó ra tay. Như vậy há chẳng phải là một khoa khó khăn nhất trong các khoa ư ?

Tiên sinh lý học nho tông, đức y thế phiệt. Khoảng năm Cảnh Hưng, đăng khoa giáp, bồi tòng chính sự, thọ quốc thọ dân, nhiều phen cứu giúp vất vả. Mỗi khi nhàn rỗi, càng có ý đi cứu sống người, nơi có dấu xe đi tới, thường thường cứu được người bệnh đau lâu ngày đã tới chỗ tuyệt vọng. Như vậy, cái học của Hiên Viên, Kỳ Bá có lẽ cũng với cái đạo của Chủ Công, Khổng Tử đều cùng được lưu truyền vậy. Ôi, bậc học giả tuổi cao, lý lẽ, học thuật càng tiến, lại làm sáng tỏ những điều còn mờ nhạt trong sách vở. Bèn làm cuộc đại tập hợp các phương pháp cổ kim, tường giải bệnh cơ, chắt lọc lấy những chỗ tinh hoa, dạy cho người đời sau những điều chuẩn tắc, nên đã soạn ra các tập Lý âm, Liệu dịch, Hộ nhi, tập hợp nhiều tông phái y đạo, và cũng đã đạt nhiều hiệu quả.

Dự tôi buổi đầu làm quan ở Hoài Đức, gia từ, gia quyến phần nhiều đều nhờ cậy ở ông mà được bảo toàn. Kế đó, phái chạy vạy bồi tòng đây đó, ông lại hẹn rằng, vào mùa xuân năm Đinh Hợi cho xem hai tập Liệu dịch Hộ nhi, rồi sai làm bài tựa. Dự tôi nghĩ rằng, những lời cách ngôn trong các phương thư từ cổ chí kim đầy rẫy như rừng, cho dù bậc học giả đời sau có muốn đọc hết thì cũng không biết bắt đầu từ đâu giữa những xe sách ngổn ngang, huống hồ muốn nắm một điểm chốt để biết toàn thể, không phải khó nhọc tìm tòi học hỏi. Hộ nhi phương pháp làm ra cũng là vì vậy. Nay làm bài tựa.

Dự tôi, tước Hoa Lĩnh tử, chức Phủ học phủ Hoài Đức, vái đề tựa”.

TB

GIỚI THIỆU KHO SÁCH CỔ CHỈ TẠI
THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Trong số thư tịch và tài liệu Hán Nôm do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) để lại, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu “kho sách Tục lệ” trên Tạp chí Hán Nôm số 2 - 1989; “ kho sách thần tích” trên Tạp chí Hán Nôm số 3-1996. Lần này, chúng tôi tiếp tục giới thiệu “kho sách Cổ chỉ ”.

Khác với “Tục lệ ”và “Thần tích”là những mảng tư liệu mang tính chuyên biệt, “Cổ chỉ” bao gồm những công văn giấy tờ thuộc nhiều loại hình tư liệu khác nhau như: công văn giấy tờ; các văn bản hành chính kê khai ruộng đất, thuế khóa, đinh bạ; các bản lệnh chỉ, thượng dụ, khải, tấu, sắc chỉ...; các khoa cúng tế, tụng niệm; các bí quyết tu luyện của nhà Phật; các sách mo; các câu thần chú, các phép thuật, thể lệ; các phong tục của dân tộc ít người...; gia phả các dòng họ; thần tích, ngọc phả v.v. Có thể thấy kho sách Cổ chỉ nội dung thật phong phú đa dạng, cung cấp nhiều thông tin bổ ích đối với việc nghiên cứu về phong tục tập quán, nhất là các sinh hoạt làng xã trong quá khứ.

Kho Cổ chỉ lưu trữ tại Viện Hán Nôm hiện chỉ có 21 sách, sưu tập các giấy tờ cổ thuộc địa bàn 5 tỉnh: Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Lạng Sơn, Phúc Yên; cùng mang ký hiệu xếp giá chung là AH; với các chữ cái a,b kèm theo các chữ số để biểu thị các tỉnh, như a3 (tỉnh Sơn Tây), a4 (tỉnh Lạng Sơn), v.v.

Sách Cổ chỉ được ghi chép theo đơn vị từng xã, tập hợp trong đó tất cả các tư liệu của bản xã, có ghi tên, chức tước và chữ ký của người thừa lệnh sao chép, nhận thực v.v. Có sách còn ghi rõ nơi tàng bản và có đóng dấu của xã hoặc tổng. Năm biên tập, sao chép thường được ghi ở trang cuối các tư liệu của từng xã.

Các văn bản trong Cổ chỉ đại bộ phận được ghi bằng chữ Hán, thỉnh thoảng có chữ Nôm. Đặc biệt sách Cổ chỉ ở Lạng Sơn có văn bản được ghi hoàn toàn bằng chữ Nôm của người dân tộc hoặc xen kẽ trong các văn bản chữ Hán có chữ Nôm của người dân tộc (như Cổ chỉ xã Thu Cúc, xã Quảng Mạc).

Dưới đây, xin giới thiệu qua về nội dung của kho sách Cổ chỉ :

1- Phản ánh trong loại công văn giấy tờ chủ yếu là các nội dung sau đây: Sức cho dân nộp tiền, gạo, lợn, trâu bò. Tìm người bổ thụ các chức quan Phó lý, Lý trưởng, Chánh tổng. Xem xét việc đắp thành lũy, việc các quan thường xuyên luân phiên xuống các địa phương kiểm tra đê điều. Xử lý bọn người có hành vi gian trá hại dân. Kê khai danh sách những người đi làm việc quan bị thương, bị chết... (xem cổ chỉ xã Giai Phạm, tỉnh Hưng Yên).

2- Các bản sắc chỉ, lệnh chỉ, thượng dụ, khải, tấu, thân... thuộc các năm Vĩnh Thọ, Cảnh Trị, Bảo Thái, Vĩnh Thịnh, Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức... Nội dung chủ yếu được phản ánh trong loại cổ chỉ này là: Lập các giao ước, giao từ về việc bồi đắp đê điều. Ghi tên họ, quê quán số binh lính đang tại ngũ. Quy định hạn mức và cách thức thu thuế. Việc chu cấp các khẩu phần lương thực cho thợ thuyền. Các thể lệ phạt khi để cho gia súc phá hại mùa màng... (xem cổ chỉ xã Phúc Nhạc, tỉnh Ninh Bình). Sắc chỉ về việc thờ cúng các vị thần, kê khai thể lệ cúng tế, vào các tiết như: tiết hạ điền 1 tháng 6, tiết trung nguyên 15 tháng 7, tiết trung thu 15 tháng 8, tiết trùng cửu 9 tháng 9, tiết thường tân 1 tháng 10, tiết trùng thập 10 tháng 10, tiết mộc dục 25 tháng 12, tiết trừ tịch 30 tháng 12... Ngoài ra còn có sắc chỉ về việc cắt cử người phục dịch tại các đền sở để tu bổ sửa chữa đền miếu, chỉnh biện lễ vật cúng tế. Hoặc sắc chỉ cho kê khai tình hình hộ tịch của các xã, việc bổ các suất đinh... (xem cổ chỉ các xã thuộc tỉnh Cẩm Đới, tỉnh Sơn Tây).

Đáng chú ý có cổ chỉ xã Thái Bạt và Phú Nghĩa thân trình về việc mốc giới giữa các xã bị dời đi không đúng chỗ hoặc việc tranh giành ruộng đất phải nhờ quan trên xét xử. Tất thẩy đều có ghi biên bản, từng người ký tên. Có ý kiến của quan trên điều người về xem xét lập lại mốc giới. Ngoài ra còn tấu trình về xin được phát chẩn cho dân do bị lụt, đê điều hư hại; khải tấu xin miễn phu dịch; kê xin đắp con đường khác để tiện tuần phòng...

3- Các văn bản hành chính kê khai tình hình thu thuế hàng năm với từng loại nông sản. Số ruộng công tư của xã. Tên tuổi số lượng các hạng người trong xã. Các loại tiền như: thập vật tiền (tiền các loại vật), dung tiền (tiền công thợ), chỉ tiền (tiền giấy) ...Các loại đất: đất công thổ, đất ao vườn, đất dân cư...

Cổ chỉ xã Hữu Thu có gần 100 bản kê và phê thị của các đời từ Cảnh Hưng đến Gia Long, Minh Mệnh về các việc ban chức sắc cho người có công tiễu trừ giặc, luyện tập binh nhung, tăng cường khuyến dụ việc cai quản binh dân nhằm giúp dân an cư lạc nghiệp. Chiêu tập người Nùng người Thổ đến nơi đất rộng người thưa để canh tác chịu quan dịch.

Cổ chỉ xã Yên Phú ghi phép tu luyện của nhà Phật cùng một số thơ ca, như môn tu luyện quan pháp, phép xin âm dương, quan âm chú...Cổ chỉ xã Liêu Trung ghi bí quyết tu luyện của Phật tổ nhà Trần. Ngoài ra, còn có tập Thích thị công văn định chế quốc ngữ tậ p (soạn bằng thơ Nôm lục bát).

4- Các văn bản ghi chép về thần tích ngọc phả, gia phả. Cổ chỉ thôn Trung Phú xã Giai Phạm có Lê hoàng ngọc phả ghi chép từ triều vua Lê Lợi, với khá đầy đủ mĩ hiệu của các Hoàng đế, Hoàng thái hậu, cùng ngày sinh, ngày mất. Ghi chép nguyên dạng bảo ấn, năm đúc tạo, trọng lượng, hình dạng, ấn khắc 4 chữ “sắc mệnh chi bảo”. Có vẽ hình dạng kiếm thần, ghi rõ kích thước, chất liệu. Có sơ đồ các thế hệ của triều Lê.

Gia phả của Hồng Hà phu nhân (Đoàn Thị Điểm) gồm 4 phần:

- Hồng Hà phu nhân gia phả , ghi chép chủ yếu từ đời ông của bà Đoàn Thị Điểm.

- Hồng Hà phu nhân di văn, gồm có câu đối, văn tế anh là Doãn Luân, phần thơ ca.

- Hồng Hà phu nhân truyện, viết về Nguyễn Kiều á phu Đoàn Thị Điểm.

- Hồng Hà phu nhân nghiêm phụ thần đạo bi ký, là tấm bia mộ cha Đoàn Thị Điểm, khắc năm Vĩnh Khánh Kỷ Dậu (1720).

Cổ chỉ xã Liêu Trung huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên ghi gia phả các dòng họ:

1- Doãn thị thực lục: nguyên quán tại xã Yên Quyết Hạ, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, sau di dời về tỉnh Hưng Yên, Hải Dương.

+ Thượng tổ Doãn Hoằng Duệ, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất, chức Lễ bộ Thượng thư.

+ Thủy tổ Thiếu khanh Doãn Tự.

+ Tiên tổ Doãn Mậu Khôi, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất, chức Lễ bộ Thượng thư. Tường An hầu. Ông có 5 người con trai và 1 người con gái.

2- Lưu gia phát tích phả thuyết: Phả viết dưới dạng tiểu thuyết, kể về Cao tổ tỉ dòng họ Lưu là người hiền lành chất phác, cư trú ở đầu làng xứ Đồng Kinh. Nhân một lần có một người phương Bắc đến ăn xin, bà hỏi nguyên do và giúp đỡ họ tận tình, cho cư ngụ, cấp tiền cho buôn bán sinh lợi, giữ gìn hộ tiền của, sau người này trở về nước được bà trả lại đủ tiền không thiếu một xu. Gia đình người đó rất biết ơn bà, họ trở lại thăm và có ý muốn giúp đỡ bà nơi ăn ở, tìm cách cho con cái bà được học hành làm quan... nhưng bà đều từ chối, họ bèn lập dương trạch ở ngay xứ Đồng Kinh để bà ở lại cư trú. Về sau, bà và 4 người con đầu có công lao đối với nhà Lý. Từ đó, dòng họ này ngày càng thịnh vượng, phát đạt.

3- Nguyễn tộc nguyên lưu phả hệ lược thuyết , do cháu đích tôn là Nguyễn Duy Trinh, Tri huyện các huyện Lập Thạch, Kim Hoa, Yên Dũng... soạn vào năm Gia Long 18 (1819). Phả hệ có biên chép húy hiệu, ngày giỗ, quan tước của dòng họ bắt đầu từ:

+ Hiển cao tổ khảo tự Phúc Minh, hiệu Thuần Nhã phủ quân, tiền Lê triều bản phủ hiệu sinh, chỉ thụ Thiếu khanh. Ông có người con thứ 3, tự Phúc Trí là Đô tổng binh sứ triều tiền Lê được gia tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, phụ quốc Thượng tướng quân.

+ Hiển tằng tổ khảo tự Phúc Dật hiệu là Nho Hào, tiền Lê triều bản phủ nho sinh.

+ Hiển tổ khảo tự Dương Giai, hiệu Đạo Vượng phủ quân, tiền Lê triều tướng sĩ lang phó sở sứ.

+ Hiển khảo tự Phúc Hoàn, thuỵ Đôn Thực phủ quân, tiền Lê triều Tiến công thứ lang, Huyện thừa huyện Thanh Vị. Ông có người con cả là Nguyễn Duy Trinh đã nói ở trên.

4- Bản quốc Thiền tông lịch đại tổ sư điển tích kỷ lục, do Bậtíô tử Pháp Định biên tập, gồm chín đời :

+ Đệ nhất tổ: Như Trừng Lân Giác thượng sĩ, quê Thanh Hóa, họ Trịnh tên Thập, con của Tấn Quang vương Trịnh Bính. Sinh ngày 5 tháng 5 năm Bính Tý niên hiệu Chính Hòa 17(1696), đời Lê Hy Tông.

+ Đệ nhị tổ: Đỗ Đa lưỡng quốc Hòa thượng, người Đa Cốc, Vũ Tiên, Nam Định, tục họ Hoàng, 12 tuổi xuất gia vào chùa Liên Tông (tức chùa Liên Phái, Hà Nội ngày nay)..

+ Đệ tam tổ: Từ Phong hải cố Hòa thượng, người xã Nghiêm Xá, Quế Dương, Bắc Ninh, tục họ Nguyễn, 16 tuổi xuất gia.

+ Đệ tứ tổ: Tiền Lê triều Hải Dương trấn, Quỳnh Lâm tự, tự tổ Nguyệt Quang Như Hiện tổ sư.

+ Đệ ngũ tổ: Hoàng triều Nguyệt Quang tự kế đăng Tính Tĩnh tổ sư Trần thị.

+ Đệ lục tổ: Hoàng triều kế đăng Kim Liên tông truyền đại tổ sư, người Trình Viên Thượng Phúc, trụ trì tại chùa Vân Trai.

+ Đệ thất tổ: Hoàng triều Vân Trai tự kế đăng tổ Thiền Quang Chiếu Giác Đại sư, người Tân Độ, Trình Viên, Hà Nội, họ Nguyễn, xuất gia từ nhỏ tới chùa Vân Trai.

+ Đệ bát tổ: Hoàng tri Đại Hùng sơn Thiền Quang tự kế đăng Phổ Tính đại tổ sư, người Vũ Lăng, Thượng Phúc.

+ Đệ cửu tổ: Hoàng triều Phúc Ân tự Tinh Kim Thiền sư, người Do Nghĩa, Sơn Tây.

Cổ chỉ xã Suất Lễ tỉnh Lạng Sơn ghi chép về dòng họ Vi, do Tuân Vũ bá Vi Đình Trinh ghi, kê khai tiên thế phả hệ. Thủy tổ của dòng họ này là Tuyền Quận công Vi Thế Đức, vốn quê ở xã Phát Xá, huyện Thiên Lộc, xứ Nghệ An, được ban làm phiên thần xứ Lạng Sơn sau lấy xã Suất Lễ, châu Lục Bình, phủ Trường Khánh, tỉnh Lạng Sơn làm quê quán cư ngụ.

Qua phả hệ dòng họ Vi, có thể thấy đây là một dòng họ lớn có nhiều công lao trong việc chống giặc ngoại xâm, kế tiếp các đời đều được phong hầu, phong bá.

Sau đây là bảng thống kê về số lượng và ký hiệu các sách cổ chỉ xếp theo địa phương, nhằm giúp bạn đọc tiện tra cứu.

Bảng thống kê các sách Cổ chỉ theo địa phương

STT Tên địa danhTỉnh, huyện, xã Số lượng sách Ký hiệu sách
I Tỉnh Hưng Yên 4 AH a1
+ Huyện Yên Mỹ 4 AH a1/1 đến a1/4
- Xã An Xá 1 AH a1/1
- Xã Giai Phạm 1 AH a1/2
- Xã Liêu Trung 1 AH a1/4
- Xã Yên Phú 1 AH a1/3
II Tỉnh Ninh Bình 1 AH a2
+ Huyện Yên Khánh 1 AH a2/1
- Xã Phúc Nhạc 1 AH a2/1
III Tỉnh Sơn Tây 7 AH a3
+ Huyện Bất Bạt 3 AH a3/1 đến a3/3
- Xã Vô Khuy
- Xã Ngọc Nhĩ
1 AH a3/1
- Xã Thái Bạt 1 AH a3/2
- Xã Phú Nghĩa 1 AH a3/3
+ Huyện Tiên Phong 4 AH a2/4 đến a3/7
- Xã Hoắc Châu 1 AH a3/5
- Xã Bằng Lũng 1 AH a3/5
- Xã Vân Hội
- Xã Nhuận Trạch
- Xã Viên Châu
- Xã Phúc Lộc
- Xã Phượng Kỳ
1 AH a3/6
- Xã Đồng Bảng 1 AH a3/7
IV Tỉnh Lạng Sơn 7 AH a4
+ Châu Điềm He 4 AH a4/1 đến a4/4
- Xã Thu Cúc 1 AH a4/1
- Xã Phú Mỹ 1 AH a4/2
- Xã Quảng Mạc 1 AH a4/3
- Xã Việt Yên
- Xã Hà Quảng
1 AH a4/4
+ Châu Lộc Bình 1 AH a4/5
- Xã Xuân Lệ 1 AH a4/5
+ Châu Thoát Lăng 1 AH a4/6
- Xã Hữu Thu 1 AH a4/6
+ Châu Văn Uyên 1 AH a4/7
- Xã Suất Lễ 1 AH a4/7
V Tỉnh Phúc Yên 2 AH a5
+ Phủ Yên Lãng 2 AH a5/1-2
- Xã Mãnh Ninh 1 AH a5/1
- Xã Bồng Mạc
- Xã Yên Mạc
1 AH a5/2

N.T.P

TB

MỘT DÒNG HỌ CÓ 60 NGƯỜI
ĐỖ TIẾN SĨ

ĐỖ THỈNH

Đó là dòng họ Đỗ quê gốc ở thôn Bồng Trung, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Theo bản Tông phả họ Đỗ do Đỗ Thiện Chính Hoàng giáp khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) đời Lê Thần Tông làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Công, khi về trí sĩ biên soạn từ khởi tổ đến đời thứ 11, sau đó con cháu biên soạn tiếp đến đời thứ 13, vào khoảng giữa thế kỷ 18(1) thì tổ họ Đỗ chỉ biết từ đời Đỗ Cảnh Thạc là một trong 12 Sứ quân thế kỷ thứ 10. Đời Lý, đời Trần đều có người làm quan to trong triều như Đỗ Tử Bình chức Trung thư môn hạ, Đỗ Tử Kiến, Đỗ Thiên Độc là Thị giảng, Đỗ Lễ làm Đại tướng, Đỗ Nguyên Thạc làm Dực thánh thủy quân, Đỗ Tỉnh làm Thượng thư bộ Hộ v.v... Khi nhà Minh xâm lược nước ta, dòng họ Đỗ chạy sang đất Lào, về sau có ông Đỗ Phú về Thanh Hóa, tương truyền là nhờ đem mả bố táng ở đất Lam Kinh nên từ đó về sau phát triển. Con ông Đỗ Phú là Đỗ Viên Thịnh mang gia quyến về sống ổn định ở làng Biện Thượng, được coi là tổ đời thứ nhất họ Đỗ ở Biện Thượng (còn gọi là Bồng Thượng).

Dòng họ Đỗ có truyền thống hiếu học, có nhiều người đỗ đạt cao. Theo Tông phả kể cả những người ở quê và những người đã di cư đi ở quê vợ, quê mẹ tính ra từ đời thứ 5 đến đời thứ 12 trong thời đại nhà Lê - Mạc từ 1463 đến 1733 tức là trong vòng 270 năm dòng họ này đã có 60 người đỗ đại khoa. Trong đó có 8 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ (2 Trạng nguyên, 2 Nhất giáp, 3 Bảng nhãn và 1 Thám hoa) 13 người đỗ Hoàng giáp và 39 người đỗ Tam giáp Tiến sĩ xuất thân.

Khai khoa của dòng họ là Đỗ Hân, con ông tổ thứ tư Đỗ Viên Đạo và bà vợ lẽ là Vũ Thị Tăng quê ở xã Cao Ly, huyện Thanh Miện, Hải Dương. Đỗ Hân ở quê mẹ đi thi đỗ Hoàng giáp khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4 (1463) làm quan Tả thị lang. Em cùng cha khác mẹ với Đỗ Hân là Đỗ Nhuận ở quê mẹ xã Kim Hoa, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) đi thi Hội đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466). Đỗ Nhuận là người thông minh hiếu học, đỗ Tiến sĩ năm 21 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Ông là người nổi tiếng giỏi văn thơ, đã được vua Lê Thánh Tông phong làm Tao đàn Phó nguyên soái, vào cung dạy Hòang tử. Ông sáng tác nhiều bài thơ hoạ thơ của vua, được in trong các tập Anh hoa hiếu trị, Quỳnh uyển cửu ca và tham gia biên sọan Thiên Nam dư hạ tậ theo lệnh của vua Lê Thánh Tông.

Sau đó còn có 10 người nữa cùng đỗ trong đời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức - thời kỳ thịnh trị nhất trong chế độ phong kiến Việt Nam, như Đỗ Thuần Nhân, tam giáp Tiến sĩ năm 1472, Đỗ Vinh, tam giáp Tiến sĩ năm 1475, Đỗ Toàn nhị giáp Tiến sĩ năm 1475, Đỗ Bá Linh tam giáp Tiến sĩ năm 1481, Đỗ Duy Kiểm nhị giáp tiến sĩ năm 1490, Đỗ Công Cẩn tam giáp Tiến sĩ năm 1490, Đỗ Nhân Cương nhị giáp Tiến sĩ năm 1493, Đỗ Toại tam giáp Tiến sĩ năm 1496, Đỗ Hoằng tam giáp Tiến sĩ năm 1496, Đỗ Túc Khang tam giáp Tiến sĩ năm 1496.

Trong số 10 người đỗ đời Hồng Đức, đáng chú ý có Đỗ Nhân Cương tức Đỗ Nhạc là con trai ông tổ đời thứ 6 là Đỗ Viên Tể và vợ là Nguyễn Thị Đài quê xã Lại ốc, huyện Văn Giang (Hưng Yên). Ông Nhạc ở quê mẹ đi thi, 20 tuổi đỗ Hoàng giáp, làm quan tới chức Hộ bộ Thượng thư, Đô ngự sử, Đông các đại học sĩ nhập thị Kinh diên. Con trai ông Đỗ Nhạc là Đỗ Tổng đỗ Trạng nguyên khoa Kỷ Sửu nhà Mạc, niên hiệu Minh Đức thứ 2 (1529), làm quan tới Hình bộ Tả thị lang, Đông các đại học sĩ. Em ruột Đỗ Tổng là Đỗ Tấn đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1535, em Đỗ Tấn là Đỗ Trực cũng đỗ nhị giáp Tiến sĩ năm 1580.

Đời vua Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống có 6 người đỗ đại khoa, đáng chú ý nhất có Đỗ Lý Khiêm là con trai thứ tư chi thứ là Đỗ Viên Đức lấy vợ họ Vũ quê ở xã Ngoại Lãng huyện Thư Trì (Thái Bình). Đỗ Lý Khiêm ở quê mẹ đi thi đỗ Trạng nguyên khoa Kỷ Mùi Cảnh Thống thứ 2 (1499), làm quan tới chức Đô ngự sử, làm Chánh sứ sang sứ nhà Minh. Em Đỗ Lý Khiêm là Đỗ Huỳnh đỗ Hội nguyên năm Đoan Khánh thứ 4 (1508). Cùng đỗ niên hiệu Đoan Khánh còn có 3 người nữa là Đỗ Bá Huân tam giáp Tiến sĩ năm 1505, Đỗ Hoàng (Miện) tam giáp Tiến sĩ năm 1505, Đỗ Văn Trung tam giáp Tiến sĩ năm 1505. Có hai người đỗ trong đời vua Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) là Đỗ Cảnh nhị giáp Tiến sĩ là con ông tổ đời thứ 7 theo cha đi du học lấy vợ quê ở Quỳnh Phụ Thái Bình rồi ở đấy, và Đỗ Văn Hãng con ông tổ đời thứ 5 là Viên Phúc làm quan võ ở trong cung vua lấy vợ người xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, ông Hãng ở quê mẹ.

Đời vua Quang Thiệu có hai người đỗ là Đỗ Văn Quýnh là con trai thư ba tổ đời thứ 5 chi trưởng là Đỗ Viên Ngạn. Tông phả viết: “Văn Quýnh bản tính kiêu ngạo, du học ở Kinh đô thường gặp khách hồng nhan, lấy người họ Đỗ quê ở xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng trấn Kinh Bắc, ở quê vợ đi thi đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1520, và Đỗ Dương “có tài văn chương nổi tiếng ở đời, nhân học ở Kinh thành lấy Vũ Thị Chi quê ở xã Quảng Bị xứ Hải Dương, ở quê vợ đi thi đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1518”... Em Đỗ Dương là Đỗ Tam Cương đỗ tam giáp Tiến sĩ đời Thống Nguyên năm 1523.

Trong thời nhà Mạc có 11 người đỗ, trừ 3 anh em Đỗ Tổng đã ghi ở trên, còn 8 người có Đỗ Uông là con trai cả Đỗ Viên Trinh đời thứ 7 chi trưởng ở quê mẹ xã Đoan Lâm (Hải Dương) đi thi đỗ Bảng nhãn niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556) làm quan tới chức Lại bộ Thượng thư, chú con bà vợ lẽ của ông là Đỗ Hiểu ở quê mẹ đỗ tam giáp Tiến sĩ năm Sùng Khang thứ 9 (1574) trú tại trại Ngọc Hà (Hà Nội). Em Đỗ Uông con ông chú là Đỗ Phi Tán ở quê vợ xã Cổ Đôi (Thanh Hóa) đỗ tam giáp năm Quảng Hòa thứ 4 (1544), làm quan tới chức Thượng thư, Thiếu bảo. Trong họ còn có Đỗ An là con ông tổ đời thứ 5 chi thứ là Đỗ Văn Lan chức Thượng tướng Thiêm sự, nhân khi Đỗ An đến làng Lại ốc viếng đền Trạng nguyên Đỗ Tông bị Mạc Đăng Dung giết, đã lấy vợ ở đấy rồi đi thi đỗ nhị giáp Tiến sĩ năm Sùng Khang thứ 3 (1568).

Còn 22 người đều đỗ đại khoa thời Lê Trịnh, đáng chú ý có một số người đỗ cao như Đỗ Tất Đại, đỗ đệ nhất giáp chế khoa năm Thuận Bình thứ 6 (1556) làm quan Đông các đại học sĩ. Đại là con của Đỗ Phi Tán (làm quan với nhà Mạc). Em Đại là Đỗ Tế Mỹ cũng đỗ đệ nhất giáp Chế khoa năm Chính Trị thứ 8 (1565) làm quan tới chức Thượng thư. Con Đỗ Tế Mỹ là Đỗ Công Liêm đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1670, làm Giám sát ngự sử. Không chỉ đỗ cao mà gia đình Đỗ Phi Tán đã có 4 người đỗ. Một gia đình 3 cha con đều đỗ Tiến sĩ là Đỗ Văn Tổng con bà vợ lẽ của Tả đô đốc Khương hầu Đỗ Viên Khang. Ông Tổng ở quê mẹ xã Thượng Yên Quyết huyện Từ Liêm đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1640, làm Hình bộ Tả thị lang. Con trai cả là Đỗ Văn Luân 26 tuổi đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1659, làm quan Hàn lâm viện Hiệu thảo, con trai thứ là Đỗ Công Toản đỗ tam giám Tiến sĩ năm 1683, làm Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam. Một nhà hai cha con đều đỗ Tiến sĩ như Đỗ Công Bật, con ông tổ đời thứ 8 chi trưởng là Thượng tướng đô đốc Đỗ Viên Thành Đỗ Công Bật học ở Kinh đô, lấy vợ ở huyện Gia Lâm, ở quê vợ đi thi đỗ tam giáp Tiến sĩ năm 1685, con trai là Đỗ Công Đĩnh đỗ Hội nguyên năm 1760.

Một số người đỗ cao như Đỗ Huy Kỳ đỗ Đình nguyên Thám hoa năm 1731, đi sứ nhà Thanh. Đỗ Công Trấn là con thứ ba ông tổ đời thứ 10, thuở nhỏ đi chơi bị người họ Vũ bắt cóc về xã Quách Thư, huyện Thanh Oai, đổi họ Vũ đi thi đỗ Bảng nhãn khoa Đông các năm 1728, làm quan tới chức Thượng thư bộ Binh, Bồi tụng.

Không thể kể hết tên 60 người trong bài viết này, nhưng có thể nói đây là một trong những dòng họ có nhiều người đỗ đại khoa nhất ở nước ta. Bản Tông phả là kỳ công sưu tầm của Hoàng giáp Đỗ Thiện Chính, có thời gian dài làm quan ở Thăng Long và đã từng đi nhiều nơi tìm hiểu về dòng họ của mình. Đây là một quyển Tộc phả có giá trị.

Sau đây là bảng danh sách tổng hợp những người đỗ Tiến sĩ của họ Đỗ từ năm 1463 đến năm 1733.

CHÚ THÍCH

(1). Bản dịch của Giáo sư Nguyễn Đình San (Cháu ngoại trong dòng họ Đỗ)

(2) Nay là phường Quan Hoa và phường Yên Hòa quận Cầu Giấy, Hà Nội.

TB

MỘT VÀI TỪ HÁN CÓ Ý NGHĨA TÔN GIÁO
SÂU XA TẠI ĐỀN NGỌC SƠN HÀ NỘI

HOÀNG GIÁP

Các di tích dù là đình, chùa, đền, quán... đều gắn chặt với tâm linh tôn giáo của con người. Nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo tượng, nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật bài trí, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, sử dụng âm nhạc ở các di tích là kết tinh của tâm linh tôn giáo ấy.

Đền Ngọc Sơn Hà Nội đã tụ hội đầy đủ những yếu tố đó. Có thể nói nó là đỉnh cao của các loại hình nghệ thuật. Chỉ riêng chữ Hán Nôm ở đền Ngọc Sơn cũng được thể hiện dưới dạng văn bia, văn chuông, văn khánh, câu đối, hoành phi, biển gỗ, đại tự, thần vị...

Tuyển tập văn bia Hà Nội đã tuyển dịch 2 văn bia là: "Ngọc Sơn Đế Quân từ ký" và "Trùng tu Văn Xương miếu bi ký".

Các tư liệu Hán Nôm khác cũng đã được dịch công bố ở đây đó trên các sách báo Trung ương và Hà Nội.

Công việc dịch thuật Hán Nôm ở đền Ngọc Sơn là vấn đề hết sức khó khăn bởi lẽ các trước tác ở đây do các đại bút cự nho viết. Chúng ta không dễ gì hiểu hết ý nghĩa của các từ ngữ ấy. Trong bài này tôi chỉ xin đề cập một vài từ ngữ Hán có ý nghĩa tôn giáo sâu xa để chúng ta cùng tham khảo.

1. Hiểu thêm về Văn Xương Đế Quân và Âm chất văn.

Trong đền Ngọc Sơn có hai nơi đề Văn Xương Đế Quân: thứ nhất là biển gỗ bên trái dưới tượng Văn Xương Đế Quân, thứ hai là bài vị trên bệ thờ cao nhất trước tượng Văn Xương Đế Quân. Nếu dịch ta chỉ có thể để nguyên âm Hán: Văn Xương Đế Quân. Để hiểu về Văn Xương Đế Quân, Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội đã viết tóm tắt tiểu sử thần Văn Xương. Nội dung ấy phù hợp với chú thích trong Tuyển tập văn bia Hà Nội: "Tử Đồng Đế Quân (Văn Xương Đế Quân) chính tên là Trương á Tử người đời Tấn, sau khi chết hiển linh được nhiều người thờ cúng. Đạo gia cho rằng Tử Đồng Đế Quân coi việc ở phủ Văn Xương và giữ sổ tước lộc của nhân gian".

Để hiểu Văn Xương Đế Quân, trước tiên ta cần tìm hiểu từ Văn Xương. Các sách như Từ Hải, Nho Phật Đạo bách khoa từ điển, Âm chất văn chú chứng đều dựa vào Thiên quan thư trong Sử ký của Tư Mã Thiên để giải thích: Sao Đẩu có 6 sao gọi là cung Văn Xương, một là Thượng Tướng, hai là Thứ Tướng, ba là Quý Tướng, bốn là Tư Mệnh, năm là Tư Trung, sáu là Tư Lộc. Sao Thượng Tướng và sao Thứ Tướng chủ về võ bị. Sao Quý Tướng chủ về văn học. Sao Tư Trung và Tư Lộc chủ về khen thưởng ban tước lộc. Sao Tư Mệnh chủ về trừng phạt gây tai họa.

Đạo giáo tôn sùng Văn Xương thành Văn Xương Đế Quân hay Tử Đồng Đế Quân. Từ Đế Quân chẳng qua chỉ là tôn hiệu của thần mà thôi. Thế là Văn Xương từ một cung gồm 6 sao, qua lăng kính của tôn giáo đã trở thành vị thần trông coi cung Văn Xương. Đã là thần thì có ngày sinh, ngày hóa, cũng cân đai mũ mão, cũng ái ố hỉ nộ. Đạo giáo đại từ điển và Âm chất văn chú chứng đều nói: Đầu thời Chu, Văn Xương Đế Quân giáng sinh vào nhà Trương ẩn đất Cối Kê tên là Trương Thiện Huân. Thời Chu Lệ Vương, giáng sinh vào nhà Trương Vô Kỵ gọi là Trương Trọng Tự. Thời Tấn, giáng sinh vào nhà họ Trương ở Kim Mã Sơn gọi là Trương á (Trương á Tử). Thời Tống, giáng sinh vào nhà họ Trương gọi là Trương Tuấn. Sau thời Tống, không thấy Văn Đế giáng sinh nữa (Đạo giáo do Trương Đạo Lăng sáng lập nên các thần của Đạo giáo nhiều vị mang họ Trương).

Đạo giáo phát tích ở đất Ba Thục nên đền thờ Văn Xương được xây dựng đầu tiên tại phía bắc Thành Đô gọi là Thanh Hư quán. Cũng ở huyện Tử Đồng đất Ba Thục còn ngôi đền thờ Tử Đồng Đế Quân. Tử Đồng Đế Quân là thần của Ba Thục, thần bảo vệ cho dân địa phương. Trong quá trình dung hợp tôn giáo, dân Ba Thục gộp Văn Xương và Tử Đồng làm một gọi là Văn Xương Đế Quân hay Tử Đồng Đế Quân.

Thời Đường, Tống, đền thờ Văn Xương Đế Quân phổ biến ở nhiều nơi. Tương truyền kẻ sĩ đi thi ngang qua đền thờ Văn Xương Đế Quân nếu gặp mưa thì đỗ Tiến sĩ. Các quan đại phu đi ngang qua đền thờ Văn Xương Đế Quân nếu gặp mưa thì làm Tể tướng. Vương An Thạch do đi qua đền thờ Văn Xương Đế Quân gặp mưa nên làm đến Tể tướng.

Thời Minh, nơi nào mở trường dạy học đều xây đền thờ Văn Xương Đế quân. Thời Thanh quy định ngày sinh của Văn Xương Đế quân là ngày 3 tháng 2. Hàng năm cứ vào ngày này các đền quán thờ Văn Xương Đế Quân lại mở hội tế lễ rất linh đình.

Việt Nam cũng có nhiều nơi thờ Văn Xương Đế Quân. Trong cuốn Trấn Vũ quán lục, Thanh Hòa Tử chép: Vào năm Quang Thuận triều Lê Thánh Tông (1460 - 1469) Nguyễn Công người làng Hoàng Xá huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) đi sứ Trung Quốc qua đền Văn Xương Đế Quân đem tượng Đế Quân về thờ tại Trấn Vũ quán Hà Nội. Sau đó lại đem tượng thần về quê lập đền phụng thờ.

Việc thờ Văn Xương Đế Quân ở đền Ngọc Sơn được Bài ký Đế Quân đền Ngọc Sơn ghi rõ: "Hội vốn thờ Văn Xương Đế Quân mà chưa có đền. Các con ông Tín Trai vốn thường đi lại giao hảo với hội, tình nguyện nhường lại nơi này... Hội liền sửa lại đền Quan Đế, dỡ bỏ gác chuông, cải tạo thành đền Văn Xương Đế Quân".

Đền Ngọc Sơn tuy xây dựng không phải sớm so với các đền quán khác ở Hà Nội nhưng đền đã rất nổi tiếng được nhiều người sùng mộ. Hội Hướng thiện đã góp phần tích cực làm cho Ngọc Sơn trở nên linh thiêng như vậy. Hội in các sách tôn giáo khuyến thiện như Lã Tổ toàn thư. Âm chất văn chú chứng, Văn Xương hiếu kinh, Văn Xương Đế Quân công quá cách...

Âm chất văn là một trong ba bộ kinh giáng bút khuyên con người làm điều thiện của Văn Xương Đế Quân. Các học giả Trung Quốc có người cho đây là tác phẩm trong Bão Phác Tử của Đạo sĩ Cát Hồng. Đại đa số đều cho đây là tác phẩm do Đạo sĩ viết vào trước thời Minh, nhưng chưa xác định rõ Đạo sĩ ấy là ai.

Trong thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ các sách Âm chất văn, Âm chất văn chú, Âm chất văn chú chứng. Các sách này cùng nội dung như Âm chất văn của Trung Quốc. Nhưng việc chú giải và dẫn chứng của các sách này khác xa so với Âm chất văn của Trung Quốc.

Tư tưởng khuyến thiện, báo ứng của Âm chất văn đã thể hiện qua nhiều tác phẩm chữ Hán ở đền Ngọc Sơn. Đặc biệt là hai câu đối:

Nhân gian văn tự vô quyền, toàn bằng âm đức,
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn, đơn khán tâm điền.

(Cõi đời chữ nghĩa không quyền, toàn dựa vào âm đức,
Thượng giới Chủ tư có mắt, chỉ nhìn xét cõi lòng.)

Thiên hà ngôn tai, hiển đạo phi quan ngã bốc,
Thần nhất giả dã, âm chất chỉ tại Trung kinh.

(Trời có nói gì đâu, hiển đạo nào do ta bói,
Thần trước sau nhất quán, âm chất chỉ ở Trung kinh.)

Tác giả Tuấn Nghi và Tảo Trang đã giải thích Âm đức, Âm chất, Chủ tư... và dịch như trên nhưng lại không giải thích từ Tâm điền. Theo tôi mỗi từ ở đây đều phải chú thích rất đầy đủ, đúng tinh thần tôn giáo của nó.

Trước tiên nói về Âm chất. Tác giả Tuấn Nghi và Tảo Trang chú thích: "Âm chất là công đức chỉ mình mình biết nhưng vẫn tác động đến cuộc sống của chính mình, kể cả con cháu mình".

Từ này thấy xuất hiện đầu tiên ở thiên Hồng phạm trong Thượng thư: "Duy Thiên âm chất hạ dân" (Trời ở cõi u minh ngầm bảo hộ con người).

Sách Văn Xương Đế Quân Âm chất văn chú chứng giải thích về Âm chất: Nếu nói về trời thì ngấm ngầm bảo hộ hay trừng phạt con người ở cõi u minh, nếu nói về người thì ngấm ngầm làm điều thiện để hưởng phúc lộc.

Sau này hai từ Âm chất Âm đức có cùng ý nghĩa như đã giải thích ở trên.

Trong Âm chất văn có một giáo luận rất quan trọng là "Dục quảng phúc điền tu bằng tâm địa, hành thời thời chi phương tiện, tác chủng chủng chi âm công" (Muốn làm ruộng phúc thì phải dựa vào tấm lòng, bất kỳ ở đâu lúc nào cũng làm điều tốt có lợi cho con người, âm thầm làm nhiều công đức.)

Người làm điều thiện thì được phúc lộc, giống như người làm ruộng dược thu hoạch hoa màu vậy.

Câu đối ở đền Ngọc Sơn nói trên đã cô đọng giáo luận trong Âm chất văn vào các từ Âm đức, Tâm điền.

2. Nội dung tấm bia khắc năm chữ "Thái Sơn thạch cảm đương".

Năm chữ Thái Sơn thạch cảm đương được tác giả Tuấn Nghi và Tảo Trang dịch: "Dám sánh ngang đá núi Thái". Đồng thời chú thích: "Núi Thái: núi ở tỉnh Sơn Đông Trung Quốc được coi là rất cao, rất tôn quý, trên có nhiều ngọc và là nơi ở của thần tiên".

Tác giả chú thích rất đúng. Núi Thái Sơn rất cao, đỉnh cao nhất 1524m so với mặt nước biển. Núi Thái Sơn tôn quý vì đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất, nơi các vua nhà Chu làm lễ phong thiền tế trời đất. Núi Thái Sơn là nơi có nhiều ngọc, truyền rằng Hoàng Đế ăn ngọc của Thái Sơn mà bay lên trời. Hoàng Đế ở đây, Bích Hà Nguyên Quân ở đây, nên núi Thái Sơn rất thiêng. Nếu chỉ dựa vào ngữ nghĩa của năm chữ Thái Sơn thạch cảm đương mà dịch là "dám sánh ngang đá núi Thái" là không chuẩn xác.

Do núi Thái Sơn của Trung Quốc linh thiêng như vậy nên còn một truyền thuyết nữa cần lưu ý. Người ta truyền rằng người Trung Quốc sinh ra thì phần hồn nhập xuống Trường An, khi chết thì phần hồn nhập về núi Thái Sơn. Tấm bia mộ thời Hán viết: "Sinh nhân thuộc tây Trường An, tử nhân thuộc đông Thái Sơn". Do quan niệm này mà sinh ra tôn thờ thần núi Thái Sơn, gọi thần núi Thái Sơn là Thái Sơn Quân, Thái Sơn Phủ Quân... Thần núi Thái Sơn còn có nhiệm vụ kiểm duyệt hồn ma, trấn trị quỷ quái, trợ giúp con người.

Tôn giáo nguyên thủy trên thế giới sùng bái tự nhiên, tôn thờ vạn vật. Đá là một trong các đối tượng được tôn thờ. Các nơi trên đất Trung Quốc đều có tục lệ thờ đá và thần đá. Thường họ tạc đá hình bia cột mốc, hình đầu thú, đầu người, có khi khắc các chữ "A Di Đà Phật", "Thạch cảm đương", vẽ bùa hay bát quái để trấn trị ma tà giữ yên làng xóm.

Sau này Đạo giáo đã thần thánh hoá đá núi Thái Sơn, nên người ta đua nhau đến núi Thái Sơn mua đá về làm bùa trấn yểm. Có được đá núi Thái Sơn coi như lá bùa hộ mệnh cho cả một vùng. Do người ở xa núi Thái không đến mua đá về làm bùa được nên đã khắc các chữ "Thái Sơn thạch cảm đương" vào các phiến đá bùa, coi đó là đá của núi Thái Sơn. Các phiến đá bùa ấy được dựng ở đường đi, ngõ xóm hay chân các công trình kiến trúc để trấn yểm ma tà.

Trong cuốn Thạch và Thạch thần chép: "Tại đầu đường đầu phố hay dưới nền móng các công trình kiến trúc thường chôn hòn đá bia một nửa lộ lên trên, một nửa chôn xuống đất. Trên bia khắc Thạch cảm đương hay Thái Sơn thạch cảm đương. Đây là di tục tín ngưỡng đá thiêng rất phổ biến ở các địa phương ở Trung Quốc. Hòn đá đó được dựng lên là để cầu thần đá trấn trị ma tà quỷ quái gây hại, bảo hộ sinh dân..."

Việt Nam cũng có tục thờ đá và thần đá. Hòn đá thiêng ở Bắc Ninh được tôn làm "Chuyển Hùng hạch tướng". Hòn đá thiêng ở Huế được tôn là "Kỳ thạch phu nhân" là một minh chứng. Đây đó không ít nơi còn thờ đá thiêng, đá bùa. Đình làng Thủ Lễ ở Huế còn giữ được phiến đá bùa có vẽ bùa và bát quái. Thôn Tây Tượng làng Dương Nỗ ở Huế còn có hòn đá bùa trên khắc 3 chữ Thạch cảm đương. Dưới chân Tháp Bút đền Ngọc Sơn Hà Nội có phiến đá bùa khắc 5 chữ Thái Sơn thạch cảm đương.

Về từ Cảm đương, Nhan Sư cố nhà huấn hỗ học đời Đường chú thích: "Cảm đương: sở hướng vô địch". Như thế từ Thạch hay Thái Sơn thạch trong Thạch cảm đương hay Thái Sơn thạch cảm đương là chủ ngữ còn cảm đương là vị ngữ. Tạm dịch Thạch cảm đương Đá thiêng vô địch, Thái Sơn thạch cảm đương Đá Thái Sơn vô địch. Chú thích và dịch như thế thì chính xác hơn, bởi vì các phiến đá ấy chỉ là những phiến đá bùa trấn yểm ma tà quỷ quái bảo hộ cho dân, bảo hộ cho một công trình kiến trúc mà thôi.

Tóm lại, đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương Đế Quân (Tử Đồng Đế Quân) là chính, ngoài ra còn thờ Phù Hựu Đế Quân (Lã Động Tân), Vũ Đế (Quan Vân Trường), Cửu Thiên Vũ Đế (Trần Hưng Đạo).

Thần Văn Xương Đế Quân chủ về văn và võ, tư mệnh kiêm tư lộc cho nên dù văn thần võ tướng, dù sĩ, nông, công, cổ đều đến đây cầu khấn xin phù giúp. Nhưng tư tưởng của thần của người, tư tưởng thiên nhân hợp nhất thật rõ ràng. Vấn đề căn cốt là Âm chất Tâm điền quyết không phải cúng bái xem quẻ "Hiển đạo phi quan ngã bốc".

Đền Ngọc Sơn là nơi hội tụ đầy đủ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và tôn giáo dân gian. Bởi vậy nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào ở đây cũng cần chú ý đến tư tưởng tôn giáo của nó.

Vấn đề dịch thuật tư liệu Hán Nôm ở đền Ngọc Sơn hay bất kỳ di tích nào cũng phải chú ý đến các từ ngữ tôn giáo có ý nghĩa sâu xa mới mong tiếp cận đến chân lý. Là một người đã tham gia dịch thuật Hán Nôm tôi không tránh khỏi sai lầm trong dịch thuật, những mong được các bậc cao minh chỉ giáo.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Hán Nôm: Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1978.

2. XA. Tô - ca - rev: Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.

3. Trần Đại Vinh: Tín ngưỡng dân gian Huế. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1995.

4. Tuấn Nghi, Tảo Trang: Câu đối hoành phi và đề tự bằng chữ Hán ở đền Ngọc Sơn Hà Nội. Tạp chí Hán Nôm. số 1, 1991.

5. Trấn Vũ quán Lục. Ký hiệu A1040, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

6. Âm chất văn chú chứng. Ký hiệu AC.31, Thư viện Viện Ngiên cứu Hán Nôm.

7. Lưu Tích Thành: Thạch và Thạch thần. Nxb. Học Uyển, Bắc Kinh, 1994.

8. Khanh Hy Thái: Đạo giáo Trung Quốc. Nxb. Tri Thức, Bắc Kinh, 1994.

TB

CHỮ HÁN TRÊN BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN HÔM NAY

PHAN VĂN CÁC

Năm 1945 khi Đại chiến thế giới kết thúc, bán đảo Triều Tiên phân chia thành hai quốc gia, phía Bắc là nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (CHDCNDTT), phía Nam là Đại Hàn dân quốc (ĐHDQ). Chế độ xã hội đối địch, tình hình phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa đều có nhiều điểm đối kháng. Riêng từ vựng gốc Hán và viết bằng chữ Hán tất nhiên không thể nói đến sự đối kháng, song cũng có nhiều chỗ không thống nhất. Thử so sánh:

CHDCNDTT ĐHDQ
最 高 人 民 會 議 Tối cao nhân dân hội nghị 國 會 Quốc hội
人 民 代 議 員 Nhân dân đại nghị viên / 國 會 議 員 Quốc hội nghị viên

Có những đơn vị từ vựng chỉ có ở quốc gia này mà không có yếu tố tương ứng ở quốc gia kia. Các từ gốc Hán như 愛 國 米 (ái quốc mễ = gạo yêu nước) hay 二 重 千 里 馬 速 度 (nhị trùng thiên lý mã tốc độ = tốc độ thiên lý mã bậc hai) chỉ có ở CHDCNDTT; và ngược lại, những từ như 社 團 法 人 (xã đoàn pháp nhân = những pháp nhân là công ty hoặc đoàn thể xã hội), hay 公 社 (công xã = công ty quốc doanh) lại chỉ có ở ĐHDQ.

ĐHDQ đến nay vẫn dùng chữ Hán, mặc dù các tổ chức như Hàn tự học hội của Hàn Quốc luôn luôn nỗ lực đề xướng quốc văn, kêu gọi mọi người dùng chữ Hàn, song một cách tự phát dân chúng vẫn có xu hướng thích dùng chữ Hán. Chỉ có các sáng tác văn học như tiểu thuyết, kịch nói và một số báo chí dùng thuần tuý ngôn ngữ Hàn Quốc, còn các loại sách báo khác vẫn dùng cả hai văn tự Hán Hàn và dường như thứ văn chương này tỏ ra thâm thúy và cao nhã hơn.

Từ thập kỷ 50 đến mãi gần đây, ĐHDQ không có quan hệ với CHND Trung Hoa. Người ĐHDQ hướng sang Nhật và Mỹ, vì thế nhiều thuật ngữ khoa học, từ ngữ thương mại và kinh tế, cho đến tên gọi hàng hóa đều dùng tiếng Anh hoặc tiếng Nhật, do đó có hạn chế sự phát triển và truyền bá từ vựng tiếng Hán. Hơn chục năm lại đây, quan hệ giữa CHND Trung Hoa với ĐHDQ có bước phát triển mới, nên ở ĐHDQ lại có xu hướng sử dụng hoặc tạo ra các từ gốc Hán mới. Có lẽ từ trong tâm thức của người Hàn Quốc, từ vựng gốc Hán đã bắt rễ sâu xa và dường như dễ nhớ dễ hiểu và gần gũi hơn, lại có thể ghép được từ mới một cách dễ dàng, chứ không xa lạ và khó khăn như tiếng Anh hay tiếng Nhật, phần nào đó.

CHDCND Triều Tiên thì từ năm 1948 bắt đầu phế bỏ chữ Hán, yêu cầu nhất loạt viết bằng chữ cái Triều Tiên, ngoại trừ một số ít trường hợp dính đến cổ văn. Đương nhiên là từ vựng gốc Hán vẫn tồn tại, chẳng qua là chúng được thể hiện ra bằng các chữ cái Triều Tiên mà thôi. Tình hình này cũng tương tự như người Việt Nam dùng chữ Quốc ngữ để ghi tất cả các từ gốc Hán trong tiếng Việt. Hay sát hơn, rất giống như cách người Nhật Bản dùng các “giả danh”(2) 假 名 để viết, thay cho các chữ Hán.

Sau khi bỏ chữ Hán, CHDCNDTT từng bước thúc đẩy việc cải tạo từ vựng với ý đồ dùng từ ngữ thuần Triều thay thế toàn bộ từ ngữ gốc Hán. Thí dụ:

入 口 (nhập khẩu) thay bằng “chỗ đi vào”

出口(xuất khẩu) thay bằng “chỗ đi ra”

配 役 (phối dịch = bảng diễn viên) thường dùng ở đầu phim ảnh, được thay bằng “những người ra vai”

航 道 (hàng đạo) thay bằng “đường trên biển”

空中 航 線 (không trung hàng tuyến) thay bằng “đường trên trời” v.v.

Từ vựng cải cách này nếu so với từ gốc Hán vốn có thì tỏ ra vừa phiền phức hơn (gồm nhiều âm tiết hơn, đọc không thuận miệng, nghe không êm tai), mà vừa không chuẩn xác, dễ gây hiểu lầm. Tình hình này phần nào giống như xu hướng Việt hóa cực đoan ở ta, đã có lúc muốn dùng “dân quân gái” “nhà văn gái” mà vứt bỏ hoàn toàn từ “nữ” (gốc Hán).

Ở tiếng Triều Tiên đã từng có sự lẫn lộn tới nghĩa trong diễn đạt do xu hướng “Triều hoá thuần tuý” gây ra. Thí dụ trong toán học, từ 三 角 (tam giác hình = hình tam giác), nếu thay bằng hình ba “giác”, từ “giác” trong tiếng Triều sẽ chỉ có nghĩa là sừng trâu, sừng dê, chứ không có nghĩa là “góc” trong hình học, vì thế khái niệm hoàn chỉnh của thuật ngữ bị phá vỡ.

Vì vậy có không ít “từ cải tạo” sau một thời gian dùng thử đã bị cộng đồng ngôn ngữ Triều Tiên đào thải. Các cụm từ “những người ra vai”, “đường trên biển”, “đường trên trời” nhắc đến trên kia, đã bị vứt bỏ.

Trước tình hình đó, CHDCNDTT đã phải qui định lại: Phàm những khái niệm cố định đã hình thành trong đầu óc người ta và được dùng với tần số cao thì nói chung không coi là từ gốc Hán, mà coi là từ Triều Tiên vốn có, không đưa vào diện “cải tạo”/

Thí dụ như 學 校 (học hiệu = nhà trường), 地下(địa hạ = bí mật) nếu chuyển thành từ thuần Triều “nơi học” hoặc “dưới đất” thì sẽ không chính xác, thậm chí sai lầm tai hại.

Liên quan nhiều tới việc dùng chữ Hán là các địa danh và nhân danh trên bán đảo này. Địa danh nói chung đều dùng chữ Hán, có cả những trường hợp vốn không thể biểu thị bằng chữ Hán, người ta cũng tìm mọi cách viết cho bằng được. Thí dụ như địa danh 長 山 , (Trường Sơn Xuyên), chữ (xuyên) ở đây chẳng dính dáng gì với nghĩa gốc của nó trong chữ Hán cả, mà là để thay cho một tiếng thuần Triều có nghĩa là “mũi đất” (doi đất nhô ra biển). Chỉ có SEOUL thủ đô của ĐHDQ là hơi đặc biệt: Mặc dù người Trung Quốc đặt cho nó cái tên chữ Hán là 漢 城 (Hán Thành), song cả Bắc lẫn Nam bán đảo này đều thống nhất gọi nó bằng một cái tên thuần Triều SEOUL, với ý nghĩa là kinh đô, kinh thành, gắn với vị trí của nó trong trường kì lịch sử.

Nhân danh, nhất là tên cưng lúc nhỏ, có thể dùng từ thuần Triều, trong đó có những cái tên có nghĩa như “thằng bé sinh trên đá”, “con gái sinh tháng chạp” v.v., nhưng tên chính thức nói chung đều dùng chữ Hán(3) , và họ thì trăm phần trăm là chữ Hán(4) , cả Nam lẫn Bắc bán đảo này, người ta có tập quán là thêm vào sau tên một chữ 一 , 二 , 三 , 四 , 五, 六 , 七 , 八 , 九 (nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu) tuỳ theo thứ hạng của người đó trong anh chị em, như 一 (Hi nhất), 斗 三 (Đẩu tam), 永 八 (Vĩnh bát) 應 九 (Ứng cửu) …

Mặc dù CHDCNDTT nhiều lần đề xướng đặt tên thuần Triều, nhưng dường như người ta cảm thấy những cái tên như vậy có vẻ quê mùa khiếm nhã, cho nên khi đặt tên khai sinh chính thức, người ta đều chuyển sang dùng chữ Hán. Còn ở ĐHDQ ngày nay có hai khuynh hướng: một là thêm một cái tên tiếng Anh hay tiếng Nga vào trước cái họ Hàn Quốc của mình, như ZTAN 李, MIHAIL 朴 …; hai là phục cổ, đặt tên đại loại 朴 赫 建 世 (Phác Hách Kiến Thế), hay 乙 支 文 道 (Ất Chi Văn Đạo). Khuynh hướng trước là nửa Tây nửa Tàu, khuynh hướng sau là phục cổ, nhưng cũng đều dùng chữ Hán.

Đến đây, xin trình bày thêm đôi nét về việc dạy chữ Hán ở bán đảo này hiện nay.

Do chỗ tỉ lệ chữ Hán và từ gốc Hán trong tiếng Triều Tiên rất cao, cho nên mặc dù cả ở CHDCNDTT lẫn ở ĐHDQ đều đề xướng “Hàn hoá” hoặc “Triều Tiên hoá”, song cả hai quốc gia đều cho rằng vì quá khứ, hiện tại và tương lai, cần phải đề xướng và cổ vũ việc học chữ Hán.

Hệ thống giáo dục ĐHDQ yêu cầu học sinh khi tốt nghiệp Cao trung (Phổ thông trung học) phải nắm được 1800 chữ Hán, còn sinh viên tốt nghiệp Đại học phải biết được trên dưới 3000 chữ Hán. Việc dạy Hán văn còn bao gồm các loại giáo dục nghiệp dư có ở mọi nơi trong xã hội. Có những cơ quan giáo dục Hán văn tựa như trường tư thục ngày xưa, do một thầy giáo đứng ra tìm một địa điểm, thu nhận vài chục học trò để dạy chữ Hán. Kiểu trường Trung văn như vậy chỉ riêng một thành phố Seoul đã có đến hơn một trăm trường. Có trường mang tính chất chuyên môn, dạy một cách có hệ thống lí luận Hán ngữ hiện đại, hoặc dạy nói, dạy nghe, thực hành hội thoại tiếng Hán. Còn riêng trường Đại học Thành Quân Quán ở Seoul thì chuyên dạy Cổ Hán văn. Đặc biệt là từ tháng 8-1992 Trung Quốc và ĐHDQ kiến lập quan hệ ngoại giao thì việc học tiếng Hán ở Hàn Quốc nổi lên thành một cao trào chưa từng có. Các loại trường lớp giảng dạy, các tổ chức nghiên cứu Hán ngữ đua nhau phát triển, thu hút đông đảo thanh niên học sinh sinh viên. Không những thế, số thanh niên xin sang Trung Quốc học cũng tăng vọt lên. Để nắm lấy cao trào này, cơ quan lãnh đạo giáo dục Hàn Quốc quyết định ngoài việc các thầy giáo dẫn học trò sang Trung Quốc học tập ngắn hạn trong các vụ nghỉ để tiến hành thực tập ngôn ngữ ra, tất cả những người nào xin đi học ở Trung Quốc đều nhất luật phải qua khảo thí thống nhất trình độ (HSK), thi đỗ thì mới được sang Trung Quốc học. Có người đã gọi HSK là “thi TOFEL tiếng Hán”.

Người Hàn Quốc rất coi trọng học tập Hán ngữ, và họ học khá hứng thú. Tuy rằng nói chung họ chỉ nhận biết mặt chữ và đọc theo ngữ âm tiếng Triều Tiên, không hiểu nghĩa mấy, nhưng vẫn rất hứng thú. Điều này có lẽ một phần là do tư tưởng Khổng Mạnh, học thuyết Nho gia và lễ nghĩa Nho gia đến nay vẫn có vị trí rất cao trong đầu óc người Hàn.

Hiện nay, người Hàn Quốc cũng dần dần học chữ giản thể.

CHDCNDTT mặc dù từ năm 1948 bắt đầu bỏ dần chữ Hán, nhưng trên phạm vi quốc gia, hoạt động giảng dạy chữ Hán vẫn được tiếp tục. Các trường từ Sơ trung bắt đầu dạy chữ Hán, cho đến khi tốt nghiệp Cao trung, yêu cầu nắm được khoảng hai ngàn chữ Hán. Một số trường Đại học thiết lập môn học Cổ Hán ngữ, không kể việc học Hán ngữ ở các trường và khoa ngoại ngữ. Tuy nhiên, vì Nhà nước chủ trương Triều Tiên hoá từ ngữ gốc Hán, sách báo toàn dùng chữ Triều Tiên, không dùng chữ Hán nên hiệu quả học tập chữ Hán trong nhà trường cũng bị hạn chế.

Dẫu sao, do thực tế từ ngữ gốc Hán của tiếng Triều Tiên có khá nhiều chữ đồng âm, cho nên để khỏi lẫn lộn, thường người ta phải cho thêm chữ Hán. Cùng một âm CHEONCIK trong tiếng Triều Tiên có thể có 3 từ đồng âm:

1. thiên chức (chức năng tự nhiên, trời phú cho)

2. thiên chức (chuyển công tác)

3. tiện chức (tiếng khiêm xưng của một quan chức)

Trong những trường hợp có khả năng hiểu nhầm thì cách tốt nhất là viết:

CHEONCIK 天 職 với (1);

CHEONCIK 遷 職 với (2); và

CHEONCIK 賤 職 với (3).

Xét trên xu thế phát triển thì chữ Hán trên bán đảo này sẽ giảm dần thế lực, song chắc chắn vẫn tồn tại một nhu cầu học tập và nghiên cứu chữ Hán ở phạm vi và mức độ nhất định vì hầu như toàn bộ thư tịch cổ đại và thư tịch lịch sử của mảnh đất này đều viết bằng chữ Hán; nghiên cứu lịch sử, tìm hiểu quá khứ tất yếu phải có một đội ngũ chuyên gia tinh thông thứ văn tự khối vuông này.

Tình hình đã diễn ra tương tự trên đất nước chúng ta. Với sự ra đời của chữ Quốc ngữ, thứ văn tự ghi âm tiện lợi, dễ học, dễ biết, nhanh chóng phổ biến từ đầu thế kỷ XX, chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam đã đi vào lịch sử, không còn sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội hàng ngày. Tuy nhiên khi muốn tìm hiểu lịch sử, tìm hiểu quá khứ trở về cội nguồn, tìm đến bản sắc văn hoá dân tộc, ta không thể không khai thác di sản Hán Nôm, và trên thực tế, từ ngày phổ biến dùng chữ Quốc ngữ, đã có mấy thế hệ chuyên gia Hán Nôm từng bền bỉ lao động và cống hiến trên lĩnh vực này. Đương nhiên một khi nhận thức đầy đủ ý nghĩa của công việc đó, xã hội và Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và đầu tư thích đáng để công việc được tiến hành hữu hiệu nhất.

Vai trò của chữ Hán trên bán đảo Triều Tiên, xét trong lịch sử, có thể khái quát trên mấy mặt sau đây:

Một là, hầu như toàn bộ thư tịch văn hiến cổ và tư liệu lịch sử đều nhờ chữ Hán mà bảo tồn và lưu truyền đến ngày nay. Các điển tịch lịch sử nổi tiếng như Tam quốc di sự 三 國 遺 事 , Tam quốc sử kí 三 國 史 記 , Lí triều thực lục 李 朝 實 錄 … đều viết bằng chữ Hán. Rõ ràng là nếu không có chữ Hán thì việc bảo tồn sử liệu cổ đã bị ảnh hưởng và thiệt thòi rất lớn. Điều này có thể thấy rõ khi chú ý rằng mảng tư liệu cổ sử trước khi có cách ghi chép “lại độc” cho đến nay vẫn là một khoảng trống.

Hai là, sự phát triển tiến bộ của văn học nghệ thuật Triều Tiên trong qúa khứ luôn gắn liền với chữ Hán. Những bài thơ Triều Tiên sớm nhất còn giữ được như Công vô độ hà ca 公 無 渡 河 歌 (5) (Chàng chớ sang sông), hay các tập tiểu thuyết sau đó như Lưỡng ban truyện 兩 班 傳 (Chuyện hai ban)… đều viết bằng chữ Hán. Hay như Nhạc học quỹ phạm 樂 學 軌 範 là bộ toàn thư ghi chép âm nhạc và vũ đạo Triều Tiên cổ đại cũng được lưu truyền nhờ chữ Hán.

Ba là, cùng với chữ Hán, việc truyền bá văn hoá Hán, đặc biệt là truyền bá khoa học kỹ thuật cổ đại Trung Quốc đã có tác dụng thúc đẩy không nhỏ đối với văn hoá Triều Tiên. Với chữ Hán, người Triều Tiên học được văn học Hán và phương pháp sáng tác thơ Hán, phương pháp biên soạn thư tịch lịch sử, phép chẩn đoán và trị liệu của Trung y, lịch pháp và khoa quan trắc thiên văn, các trước tác quân sự và binh pháp v.v… Bốn phát minh lớn của Trung Quốc cũng nhanh chóng được Triều Tiên tiếp thu và ứng dụng.

Đạo Khổng Mạnh, hệ tư tưởng Nho gia, lí học Trình - Chu và nhiều quan niệm triết học, hình thái ý thức của Trung Quốc được truyền bá và duy trì trong xã hội phong kiến Triều Tiên, từ đời này sang đời khác, thành trụ cột tinh thần của người Triều Tiên cho đến tận ngày nay.

Bốn là, chữ Hán và từ Hán đã có phát huy tác dụng thúc đẩy quan trọng làm phong phú ngôn ngữ Triều Tiên, thậm chí phát triển tư duy của người Triều Tiên. Từ vựng gốc Hán giàu sức biểu hiện và tinh xác, cô đọng, đã được du nhập vào tiếng Triều Tiên hàng loạt.

朦 朧 (Mông lung = bàng bạc)

恍 忽 (hoảng hốt = ngẩn ngơ)

一 舉 兩 得 (nhất cử lưỡng đắc = làm một được hai)

無 窮 無 盡 (vô cùng vô tận) ….

Rất nhiều thuật ngữ khoa học kỹ thuật, nhất là các ngành kinh tế, pháp luật, triết học, tâm lí học, như:

拋 物 線 (phao vật tuyến = đường parabole)

微 積 分 (vi tích phân)

化 合 (hóa hợp)

電 子 計 算 機 (điện tử kế toán cơ = máy tính điện tử)

金 融 學 (kim dung học = khoa học tài chính tiền tệ)

訴 誦 (tố tụng)

辨證 法 (biện chứng pháp)

心 理 主 義 (tâm lý chủ nghĩa)…

hoàn toàn là từ Hán.

Hình chữ và nét chữ Hán tự đã gợi ý rất nhiều cho những người sáng chế văn tự Triều Tiên, khiến cho văn tự Triều Tiên mang tính độc đáo là lối văn tự ghi âm có hình thức khối vuông.

Sự du nhập chữ Hán làm cho tư tưởng người Triều Tiên chuyển hướng, biết học tập tri thức văn hoá, khoa học và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, góp phần phá vỡ chính sách bế quan toả cảng của chế độ phong kiến Triều Tiên, để cống hiến xứng đáng cho sự phát triển văn hóa phương Đông.

Năm là, sự truyền bá chữ Hán góp phần thúc đẩy giao lưu văn hoá Trung Triều. Không những thế, trong lịch sử, chữ Hán còn là chiếc cầu nối rất tự nhiên giữa các nước Triều - Việt, Triều - Nhật, góp phần hình thành vùng văn hóa Hán ở nửa phía đông châu Á.

P.V.C

CHÚ THÍCH

(1) Xin xem: Phan Văn Các, Lịch sử sử dụng chữ Hán trên bán đảo Triều Tiên, Tạp chí Hán Nôm, số 1(30)-1997, tr.49-56.

(2) Giả danh 假 名 là sản phẩm của hình chữ Hán được Nhật hoá, là sáng tạo của người Nhật cải tạo chữ Hán để ghi tiếng Nhật. “Giả” có nghĩa là mượn, mượn dùng. “Danh” là tên, danh hiệu, ở đây chỉ chữ Hán. Thực chất của giả danh là hệ thống văn tự lấy âm tiết làm đơn vị mượn một số nét của chữ Hán làm kí hiệu để biểu thị ngữ âm Nhật.

(3) Ở ĐHDQ, ngày 1-4-1991 đã ban hành bảng Nhân danh dụng Hán tự 人 名 用 漢 字 (Chữ Hán dùng trong tên người), xác định 2731 chữ Hán được dùng làm tên người, có thể đăng ký chính thức theo Luật hộ khẩu.

(4) Hiện nay ở Hàn Quốc và Triều Tiên có 274 họ, tất cả đều viết bằng chữ Hán, như 金 Kim, 李 Lý, 朴 Phác, 鄭 Trịnh, 崔 Thôi, 姜 Khương v.v.

(5) Lời bài ca ấy như sau: 公 無 渡 河 , 公 竟 渡 河 , 墮 河 而 死 , 公 將 奈 何. Công vô độ hà, Công cánh độ hà, Đoạ hà nhi tử, Công tương nại hà. (Chàng chớ sang sông, Chàng lại sang sông, Rơi xuống sông chết, Chàng biết làm sao!).

TB

MẤY SUY NGHĨ NHÂN ĐỌC
THƠ NGHÌN NHÀ (*)

DUY PHI

Thơ nghìn nhà dịch giả Nguyễn Hà chọn từ tập Thiên gia thi đúng 100 bài thơ tứ tuyệt, bao gồm 51 bài thơ Đường và 49 bài thơ Tống.

Trong Lời vào sách, Nguyễn Hà nêu rõ sự cân nhắc khi tuyển lựa, kết quả là đã chọn "hơn 60% là những bài chưa ai dịch bao giờ". Khoảng 40 bài ở diện các tuyển tập thơ Đường xuất bản trước đã nhiều người dịch nhưng "hình như chưa chuyển hết được cái hay của nguyên tác", "Tất nhiên, một số rất ít bài nào, người dịch trước đã quá tài hoa thì không có ở đây nữa".

Thơ Tống và nhất là thơ Đường trước đây đã nhiều bài được dịch. Ngay trong tập Thơ Đường do Nam Trân tuyển, xuất bản 1962, Nguyễn Hà đã tuyển, dịch lại 27 bài.

Các tập thơ văn nước ngoài nổi tiếng ta tuyển đi tuyển lại, người này dịch, người khác dịch... là lẽ thường. Khi làm sách, dịch giả thường xuất phát từ những điều chưa chỉnh chưa đạt trong bản dịch cũ mà dịch lại. Người dịch nào cũng hướng tới một tái tạo, thể hiện được ý tứ, tư tưởng của nguyên văn, chuyển ngữ được từ những hình ảnh chân phác, đến những ẩn dụ sâu kín, làm sao cho bản dịch của mình nhuần nhị, đạt được như chính một bài thơ tiếng Việt.

Một yêu cầu nữa đối với người dịch là bám sát thể loại. Đây là một tiêu chí. Trong Thơ nghìn nhà Nguyễn Hà đã có nhiều bài, nhiều câu dịch chuẩn mực, sáng tạo, ví dụ:

Kỷ xứ bại biên vi cố tỉnh,
Hướng lai nhất nhất thị nhân gia.
(Hoài thôn binh hậ
u - Đái phục cổ)

Dịch thơ:

Mấy bức tường xiêu vây giếng cũ,
Nhà nhà đâu thấy mái nhà ta.

Có thể nêu nhiều dẫn chứng nữa.

Song, bên cạnh những thành công, tập Thơ nghìn nhà còn bộc lộ một số mặt, muốn được trao đổi thêm:

1) Một số từ trong các bài dịch thơ chưa chuẩn xác, hoặc hơi "quá".

Mấy câu trong "tuyệt cú" của Đỗ Phủ:

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

Dịch thơ:

Liễu xanh vang hót đôi oanh,
Tô trắng lên giữa trời xanh hàng cò.

Chữ "tô' theo từ điển tiếng Việt, dùng mực màu hoặc làm nổi lên những đường nét, mảng màu có sẵn. Nếu đúng vậy chữ đâu phản ánh được ý của nguyên tác ? . Trước đây, có người dịch câu cuối đó là "Trời lam trắng điểm một hàng cò bay" "tô" với "điểm" có khi nằm trong một từ ghép. Nhưng khi tách ra, thì ý nghĩa mỗi từ đã khác lắm. Chữ "điểm" lung linh sống động hơn.

Bài Đáp Chung Nhược ông của Mục Đồng:

Thảo phô hoành dã lục thất lý,
Địch lộng vãn phong tam tứ thanh.
Qui lai bão phạn hoàng hôn hậu,
Bất thoát suy y ngọa nguyệt minh.

Nguyễn Hà dịch thơ:

Cỏ phơi sáu bảy dặm đồng,
Chiều buông dăm tiếng sáo lồng gió đưa.
Hoàng hôn về chén cơm no,
Để nguyên áo rách nằm tho... trăng ngời.

Phải chăng "tho" là một từ ít dùng ? ép vận ?

Nhân đây, tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra bản dịch của mình để trao đổi:

Sáu bảy dặm đồng cỏ biếc giăng,
Sáo ba bốn tiếng thoảng bâng khuâng.
Về hoàng hôn tắt cơm no bụng,
Nằm nguyên áo rách ngắm ngời trăng.

Bài Trì thượng của Bạch Cư Dị, Thơ nghìn nhà dịch:

Thuyền con chở một cô em,
Luôn đi hái trộm hoa sen trắng về.
Ngây thơ nào đã biết gì,
Hớ hênh còn để dấu chia mặt bèo.

Cũng bài này, bản dịch của Trần Trọng Kim trong Thơ Đường (Nxb. Văn hóa - 1962) có vẻ thoát hơn, tránh được từ "hớ hênh" có ý tục.

Bài Cung từ của Bạch Cư Dị:

Lệ tận la cân mộng bất thành,
Dạ thâm tiền điện án ca thanh.
Hồng nhan vị lão ân tiên đoạn,
Tì ỷ huân lung tọa đáo minh.

Nguyễn Hà dịch, dùng từ "luỗng", nghe dễ sợ:

Bẽ bàng nước mắt đầm khăn,
Mộng tan lịm tiếng ca ngân trước thềm.
Nghiêng sầu lẻ gối tàn đêm,
Hồng nhan chưa luỗng ân trên đã ruồng.

Bài này, tôi có dịch:

Mộng chẳng thành, khăn đẫm lệ rơi,
Tiếng ca trước điện lắng... khuya rồi.
Vẻ đẹp chưa phai, ân đã dứt,
Tựa gối, lò nhen, đợi sáng trời.

2) Việc dịch tứ tuyệt "ngũ ngôn" hoặc tứ tuyệt "thất ngôn" sang thơ ta thành những câu năm chữ, bảy chữ hoặc thể lục bát, người dịch thường phải tỉnh lược hoặc thêm từ.

Bài: Phù dung lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:

Hàn vũ liên giang, dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Nguyễn Hà dịch thơ:

Trắng sông mưa lạnh đêm Ngô,
Tiễn nhau núi Sở lúc vừa bình minh.
Lạc Dương bạn hỏi thân tình,
Ngọc hồ một mảnh lòng trinh dãi bày.

Những chữ "nhập", "cô" bị lược tỉnh. Hai câu đầu trong bản dịch thơ, không rõ được cảnh gian nan, cô quạnh (Nguyên văn câu 2, nhấn mạnh sự cô quạnh). Có vậy, câu 1 và 2 mới chuẩn bị cho câu 3.

Câu 3, thể hiện tâm lý của cảnh chia ly. Người ở lại cảm thấy bị hẫng hụt "Thân hữu như tương vấn" - Thân hữu nếu như có thăm hỏi. Đó là một câu giả định.

Dịch thơ Lạc Dương bạn hỏi thân tình, đã mất đi nỗi bâng khuâng da diết.

Đến câu 4 là một hình ảnh trọn vẹn. Chỉ dùng ẩn dụ là đã đủ ý, người đọc tự hiểu. Dịch giả, để chuyển từ câu thơ chữ Hán 7 chữ sang câu thơ Việt 8 chữ, đã thêm hai chữ "dãi bày". Thành ra, một ẩn dụ đã bị phá vỡ, bởi sự giải thích. Nói như Xuân Diệu, ý thơ đáng lẽ "kín nhẹm" đã bị "lộ hương".

Bản dịch thơ bài Đề đô thành nam tran g của Thôi Hộ:

Tích niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng...

Nguyễn Hà dịch thơ:

Hôm nay năm ấy cổng này,
Hoa đào mặt ngọc ửng say sắc hồng...

Gói ghém một ý thơ hàm súc tinh tế ấy vào một câu thơ Việt 7, 8 chữ quả thật khó. Nhưng dù sao, từ "say" vẫn cứ như đi lạc. Bài Kim lũ y của Đỗ Thu Nương, có câu:

Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa, không chiết chi.

Dịch:

Thấy hoa xin kíp bẻ cành,
Đừng chờ hoa rụng buồn tanh cội già.

Thì bốn chữ "Buồn tanh cội già" quá xa với nguyên tác.

Những bài thơ trên đây của Vương Xương Linh, Thôi Hộ, Đỗ Thu Nương, từ lâu đã có những bản dịch của Tương Như, Khương Hữu Dụng... Tiếc rằng, những bản dịch của Nguyễn Hà công bố sau, mà không vượt được những bản dịch cũ (hoặc ít ra, cũng thể hiện được sự chu chỉnh, cẩn trọng).

3) Một số câu thơ, khi dịch thơ, đã bị đẩy đến sai lạc với nguyên tác.

Hai câu cuối bài thơ Đăng U Châu đài ca của Trần Tử Ngang:

... Niệm thiên địa chi du du,
Độc thương nhiên thi thế hạ.

Dịch thơ:

... Mênh mang giữa đất cùng trời,
Thương riêng mình cứ ngùi ngùi lệ tuôn.

Từ dịch xuôi "Riêng một mình ngùi ngùi rỏ lệ". Vì sao chuyển ra thơ lại thành ý "Thương riêng mình?"

Bài Túc bế châu môn ngoại lữ quán của Diêu Đoan Hữu:

Hàn lâm tàn nhật dục thê ô,
Bích lý thanh đăng sạ hữu vô.
Tiểu vũ âm âm nhân giả mị,
Ngọa thinh bì mã khiết tàn sô.

Nguyễn Hà dịch thơ:

Ngày tan rừng lạnh chen chân quạ,
Kẽ vách đèn khêu bóng tỏ mờ.
Lất phất mưa bay, vờ chợp mắt,
Nằm nghe ngựa mỏi nhá rơm khô.

"Dục thê ô" là quạ muốn đậu. Quạ sắp đậu thường nó bay lượn một vài vòng trước khi hạ cánh đậu xuống. Đó là bản tính tự nhiên của quạ. Phải đâu, rừng ít cành cây mà nhiều quạ. Quạ đỗ đã "chen chân", đến nỗi những con quạ về sau không còn chỗ đỗ ?

Bài này, có thể dịch:

Rừng lạnh chiều buông quạ lượn sương,
Hư thực đèn khêu vách chập chờn.
Mưa nhỏ lay phay vờ chợp mắt,
Nằm nghe ngựa mỏi nhá tàn rơm.

4) Có những bài thơ người dịch chỉ sửa lại 4, 5 chữ bản 4 dịch của người khác. Trường hợp bài Tống sứ An Tây của Vương Duy.

Tương Như đã dịch:

Mưa mai thấm bụi Vị Thành,
Liễu xanh quán trọ sắc xanh ngời ngời.
Khuyên anh hãy cạn chén mời,
Dương Quan ra khỏi ai người cố tri.

Nay Nguyễn Hà dịch lại, cũng theo thể lục bát, giữ nguyên cả năm vần đã có "Vị Thành", "xanh", "ngời", mời", "người".

Sớm nay mưa sũng Vị Thành.
Liễu nơi quán trọ sắc xanh ngời ngời.
Khuyên chàng cạn chén rượu mời,
Dương Quan ra khỏi ai người biết nhau.

Trong trường hợp này có nên ghi chú thích, hoặc mấy chữ "Theo Tương Như"?

5) Bài thơ Hành quân cửu nhật tư Trường An cố viên của Sầm Tham, có những ý, mà Thơ nghìn nhà dịch rất lạ.

Nguyên văn:

Cưỡng dục đăng cao khứ,
Vô nhân tống tửu lai.
Dao lân cổ viên cúc,
Ưng bạng chiến trường khai.

Dịch thơ:

Vừa toan tìm đến Đăng Cao,
Hỏi người bán rượu làm sao không về ?
Bỗng thương vườn cúc dưới quê,
Chiến trường đây, giá nở hoe hoe vàng.

Nguyễn Hà, cho "Đăng Cao" là một địa danh ? Và câu thơ 4 "Ưng bạng chiến trường khai", đã được hiểu là "Giá nó nở ngay ở chiến trường này thì đẹp biết bao".

Xét lại "ưng", là nên, lời nói lường tính trước. Sầm Tham làm bài thơ này vào ngày 9/9 (tết Trùng dương) trong lúc đang hành quân nơi xa. Trùng dương là một tết to, sum họp. Bởi vậy, người xa quê càng thêm nhớ quê, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh.

Bài thơ này, có chứa hai "tích": Một tết Trùng dương Đào Uyên Minh đang không có rượu uống thì bỗng có người mặc áo trắng đến dâng rượu. Đời Tần cũng vào ngày này, Hoàn Canh lên núi lánh nạn. Người đời sau hay bắt chước lên núi.

Sau này, những từ "tống tửu" "đăng cao" chỉ tết Trùng dương(1).

Đào Uyên Minh thương tiếc hoa cúc vườn xưa, giờ đây có lẽ đã nở bên chiến trường. Nhà thơ nào dám mang hoa ra chiến trường cùng dấn vào khói lửa với mình ?

Phải chăng bản dịch khuyết danh in trong Thơ Đường tập I (1962) vẫn trội hơn ?

6) Có một số trường hợp, khi dịch sang thơ đã "hoán vị" giữa câu 3 và câu 4. Ví dụ, hai câu cuối bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế:

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Nguyễn Hà dịch thơ:

Nửa đêm chuông vẳng thuyền ai,
Hàn Sơn chùa ấy phía ngoài Cô Tô.

Trong thơ Đường, thơ Tống và thơ tứ tuyệt nói chung, mỗi câu trong tổ chức, kết cấu, có một vị trí riêng. Giáo sư Bùi Văn Nguyên quan niệm "Thể tuyệt cú cũng theo phương hướng khai thừa - chuyển - hợp của luật thi". Nguyễn Sĩ Đại phân tích: Câu thứ ba, thường có vai trò như dây dẫn, cho sự bùng nổ ở câu 4. Câu bốn, thường có vai trò thâu tóm, mở rộng chiều liên tưởng, dư ba... Bởi vậy, khi dịch tứ tuyệt Đường, Tống, chẳng mấy ai đảo vị trí câu 3 và câu 4. Ngay hai câu cuối của Phong Kiều dạ bạc đổi vị trí, cũng là ảnh hưởng lắm. "Nửa đêm chuông vẳng thuyền ai" là một câu dư ba. Còn câu "Hàn Sơn chùa ấy phía ngoài Cô Tô", thuần chỉ vị trí địa danh và câm lặng, tứ thơ của nguyên tác bị phá vỡ, đảo lộn.

Mấy trường hợp dịch đảo câu 3 và câu 4 của Nguyễn Hà đều không đạt.

Đọc kỹ lời "Bạt" cuối sách Thơ nghìn nhà mới hiểu rõ "ba mươi năm về trước, khi mới ngoài ba mươi tuổi" Nguyễn Hà "chong nến dịch mấy trăm bài thơ của người xưa". Phải chăng thiếu thời gian bổ sung cho một bản thảo cũ ?

Nói như Băng Sơn: dịch thơ là kẻ lữ hành một mình vượt bách lý, thiên lý, là thầy thuốc dám cầm một con dao mổ xẻ một con tim..

Dịch là khó. Với sự học uyên thâm, Nguyễn Hà đã dịch thành công nhiều bài. Mấy điều trên đây chỉ là những gợi ý, trao đổi thêm.

Do sự hiểu biết về thơ và Hán học có hạn, có điều gì thái quá xin được bạn đọc và dịch giả lượng thứ.

CHÚ THÍCH

(*) Thơ nghìn nhà, Nguyễn Hà tuyển dịch, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1994.

(1) Xem: Một số đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt đời Đường, Nguyễn Sĩ Đại, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1996.

TB

"NGŨ THIÊN TỰ" MỘT CUỐN SÁCH BIÊN SOẠN VÀ HIỆU ĐÍNH CÓ NHIỀU SAI SÓT

THẾ ANH

TB

DIỄN VĂN KHAI MẠC TRIỂN LÃM THƯ HỌA LÊ XUÂN HÒA (tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội vào dịp xuân mậu dần - 1998)[trích]

NGÔ QUANG LỘC*

Thư họa Trung Hoa từng cổ kim lẫy lừng với các bậc đại bút như: Chung Diêu, Vương Hy Chi, Vương Hiến Chi, Trương Húc, Hoài Tố, Tô Đông Pha, Quách Mạt Nhược v.v...

Ở Việt Nam, từ khi chữ Hán được tiếp nhận, cha ông ta sớm nhận thức được đặc trưng bản chất của hệ văn tự này và sớm coi trọng nghệ thuật thư pháp. Do khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt và sự tàn phá của chiến tranh, di sản thư pháp của nước ta bị hủy hoại rất nhiều, nhưng cho đến nay còn lưu giữ được 27 văn bản từ thế kỷ thứ VII đến triều Lý khắc chữ trên đá (bia, mộ chí, cột kinh) và trên đồng (chuông).

Từ năm 1070, với việc lập Văn Miếu thờ các bậc tiên thánh của Nho học, năm 1076 lập Quốc Tử Giám đào tạo nhân tài cho đất nước qua học hành, thi cử, thì Thư pháp, Thư họa, cũng phát triển. Chỉ riêng tại di tích lịch sử - văn hóa Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn lưu giữ bức hoành phi "Cổ kim nhật nguyệt" của Tiến sĩ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, với nét chữ rất mực rắn rỏi nghiêm trang. Trên 82 tấm bia Tiến sĩ có thể lập được danh sách các cây bút tài hoa mà chữ viết đẹp đã được triều Lê tuyển chọn và người đương thời khẳng định như: Nguyễn Tưởng, Tô Ngại, Chu Đình Báo, Nguyễn Tấn,... và biết bao ông Nghè, ông Cử, cậu Tú, ông đồ trên khắp đất nước, từ thôn quê đến thành thị, đã đem đến cho mọi người sự xúc động, niềm vui và hy vọng trong những dịp hiếu hỷ, đình đám, lễ tết.

Từ năm 1919, chế độ khoa cử theo Hán học cáo chung cùng với khoa thi cuối cùng thì thư pháp Hán Nôm cũng suy tàn theo:

Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

và :

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ.
(Vũ Đình Liên - Ông đồ)

Tuy nhiên sự nghiệp Hán học 900 năm ấy không chỉ được giữ trên bia đá, trong kho tàng Hán Nôm đang được bảo tồn và khai thác, mà vẫn còn những người quyết tâm giữ nghiệp cha ông. ở thập kỷ 90 của thế kỷ XX này vẫn còn nhiều người say mê với thư họa, thư pháp, nhưng những người đáng gọi là nhà Thư pháp của nước ta không nhiều, trong đó Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa có thể kể đến là cây bút tiêu biểu.

Thực hiện đường lối bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, từ khi thành lập năm 1988, mỗi độ xuân về, Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chức nhiều hoạt động văn hóa dân tộc trong đó có thư pháp Lê Xuân Hòa. Những năm tiếp theo, Thư pháp Lê Xuân Hòa đã được trân trọng giới thiệu khắp trong Nam ngoài Bắc và cả nước ngoài với nét chữ rồng bay phượng múa, nội dung thâm thúy hàm súc, gửi tặng niềm vui và ước mơ cao đẹp, tao nhã đến tri âm, tri kỷ...

CHÚ THÍCH

* Phó Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa-khoa học Văn miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.

TB

TUỔI GIÀ MÀ CHÍ KHÔNG GIÀ

PHẠM THÚY HẰNG

Cụ Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa là người làng Phú Khê, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xuân Mậu Dần này đã tròn 87 tuổi.

Sinh ra và lớn lên ở quê hương, ngay từ nhỏ cụ đã được thân phụ là cụ Tú kép Lê Duy Bá dạy chữ, dạy nghĩa, vừa học Tứ thư, Ngũ kinh, vừa rèn luyện chữ viết. Hai mươi tuổi, cụ đã trở thành người viết chữ đẹp trong vùng. Thời gian trôi qua, với sự cáo chung của Nho học Việt Nam, chẳng kịp tham dự khoa thi Nho học nào, song cụ vẫn không nản chí, ôn cố tri tân, trau dồi, rèn luyện Hán học ngay cả trong khi cụ đi kháng chiến, trong thời gian công tác tại sở Giao thông, cục Đường bộ... để rồi đến những năm ngoài tuổi 80 tinh hoa nơi cụ mới có dịp phát tiết.

Năm 1990 cụ được mời đến Văn Miếu viết câu đối tết trên giấy hồng điều cùng với nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn và Trần Lê Văn, đã thu hút đông đảo khách tham quan du lịch trong nước và nước ngoài. Rồi cứ mỗi dịp xuân đến, cụ lại có mặt tại Văn Miếu với sự ngưỡng mộ, ngóng trông của bao người yêu thích cụ, muốn xin chữ cụ. Từ những cuộc trưng bày chữ viết trên giấy xanh, giấy đỏ treo bằng cặp căng trên dây thép, đơn sơ, dần được nâng lên viết trên giấy tô ky, giấy dó, trên lụa lồng trong khung kính trang trọng, và thế là chữ cụ đã tạo nên những cuộc triển lãm "Thư pháp Thanh Hoằng Khê" đầy lý thú, chẳng những tại Văn Miếu Hà Nội mà còn được trưng bày ở nhà Thông tin triển lãm quận 5 thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của họa sĩ vẽ tranh thủy mặc Nguyễn Văn Giao và 5 họa sĩ trong thành phố Hồ Chí Minh. Đến xuân này cụ đã có một cuộc triển lãm thư họa của riêng mình với hơn 50 bức họa mới vẽ gần đây về đề tài mai, được đề tựa bằng những bài thơ chữ Hán, Nôm viết theo 4 thể chữ chân, thảo triện, lệ theo một phong cách riêng, sáng tạo, thể hiện lòng khao khát yêu cuộc sống, yêu con người và mong muốn dân tộc vươn lên mãi mãi. Đặc biệt có 2 bức đại tự đề chữ "tâm", chữ "Đức" nét chữ rắn rỏi, uyển chuyển đã khơi dậy truyền thống văn hóa dân tộc, dạy cho đời "Đức là gốc", "chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài".

Nhiều độc giả yêu mến cụ, quý cái tài của cụ đã viết dòng lưu niệm rất xúc động: "... Thư pháp của bác Hòa được trình bày rất trân trọng, mang lại nhiều cảm nghĩ tốt đẹp cho lớp người ít được hiểu biết về chữ Hán, Nôm. Theo riêng tôi, đây cũng là chữ của dân tộc ta, đã nuôi dưỡng, củng cố, xây dựng nền văn hóa Việt Nam từ thuở dựng nước đến khi có chữ phiên âm La Tinh được phát triển".

Thật là: "Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao".

TB

XEM TRIỂN LÃM TRANH CỦA THƯ PHÁP GIA LÊ XUÂN HÒA

PHẠM NGỌC LINH

Đón xuân Mậu Dần năm nay, trong không khí của Tết cổ truyền dân tộc, chúng ta hãy để một buổi thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, nơi có cuộc triển lãm tranh của thư pháp Gia Thanh Hoằng Khê - Lê Xuân Hòa.

Trong cuộc triển lãm thư pháp vào dịp Tết Đinh Sửu vừa qua của Việt Nam - Trung Quốc cũng tại Văn Miếu này, danh tiếng của cụ Lê Xuân Hòa đã để lại một ấn tượng tốt đẹp. Kể từ khi đoạt giải trong cuộc triển lãm Thư pháp Quốc tế tại Bắc Kinh năm 1994, đây là lần đầu tiên cụ Lê Xuân Hòa triển lãm tranh theo trường phái Thủy mặc. Cái độc đáo là với hơn 50 bức tranh có những cách thể hiện và ý tưởng khác nhau mang những nét riêng của bút pháp Việt Nam. Người xem bị thu hút bởi chất trầm lắng suy tư qua những mảng đậm nhạt đen trắng, có điểm xuyết chút mầu để lóe lên cái tiếng nói của sự vật. Phòng tranh như ấm áp lên nhờ những tia nắng xuân vừa lọt qua lớp mây còn lạnh lẽo cuối đông. Nụ đào chen nhau đua nở trên bức "Xuân lai hương đọng" như nhắc ta đã gặp đâu đây trên cao nguyên Đồng văn, miền biên giới địa đầu của tổ quốc. Mùi hương còn ngưng đọng trên những giọt sương nơi cánh hoa sẽ tỏa dần trong nắng xuân sớm. Xem tranh mà ta như đứng nơi đỉnh cao biên giới đón làn gió còn se lạnh buổi sớm hít căng lồng ngực. Anh bộ đội biên phòng nào chẳng chạnh lòng nhớ quê hương mà lòng thêm tự hào mình đang cùng đồng đội lãnh trách nhiệm cao cả.

Mỗi bức tranh một kiểu hoa, một mầu sắc nhẹ nhàng và mới lạ. Ngày xuân cứ trôi đi, không gian đã kéo ta về phương Nam trong bức tranh "Mai hoa lộng nguyệt". Đúng rồi, trong một đêm trăng tròn xuân Đinh Sửu, nhà thơ - nhà thư pháp Lê Xuân Hòa đã vào Nam Bộ để được tận mắt thấy bông mai vàng nở trên xứ xở của nó. Ta không gặp cách vẽ cũng như bông mai này trong tranh Thủy mặc của Trung Quốc, vì Mai chỉ có ở vĩ tuyến gần miền xích đạo. Bông mai vàng có cuống mềm hơn như đang đùa với ánh trăng mỗi khi có làn gió nhẹ thổi. Và như màu vàng của ánh trăng đang tô đậm thêm sắc mai vàng trong đêm mùa xuân ấy. Cây lão mai như cùng tuổi với Trời Đất tràn đầy sinh khí của tuổi cao cứ vươn lên và nở những bông mai nhiều cánh vàng rực. Người cao tuổi xem hẳn thấy yêu đời và chắc muốn để lại những hình ảnh đẹp đẽ nhất của cuộc đời cho con cháu mình. Nét họa tài tình này đcược tác giả ghi lại với những bông mai như ẩn như hiện dưới ánh trăng. Cả ba yếu tố thi, thư, họa trong con người của tác giả làm cho bức tranh thêm phần giá trị.

Một chiến sĩ tình nguyện đã từng đón xuân nhiều năm ở Trường Sơn trong cuộc kháng chiến vĩ đại vừa qua muốn có được cả hai bức tranh hoa đào và hoa mai ở trên với lời đề tặng của tác giả: "Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn". Đó là lời thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là lời ước nguyện của Người mong mỏi Tổ quốc được thống nhất - sẽ là cầu nối của hai bức tranh trong phòng khách đón xuân sang.

Tôi không dám viết dài hơn vì mỗi người xem đều tìm được ở đây ý tưởng cho riêng mình. Các cụ cao tuổi sẽ tìm được ý nghĩa của bức tranh "Độc lập thường tùng" vẽ cây tùng ngàn năm. Các nhà say mê cây cảnh, nghệ thuật Bon Sai sẽ ngạc nhiên trước thế đứng khiêm nhường nhưng rất vững chãi vượt qua bão tố của bức "Xạ mặc trợ thanh hương" vẽ thân cây bằng một nét liền không nghỉ. Các nhà thư pháp mặc dù rất quen thuộc với nét chữ tài hoa của cụ Lê Xuân Hòa vẫn ngạc nhiên trưóc hai bức thư họa cao hơn đầu người: đó là chữ "TÂM" và chữ "Đức". Hai chữ với nét uốn lượn như Rồng bay Phượng múa, sẽ là hai cánh cửa rộng mời chào người đến thưởng thức tranh xuân, và hai bức thư hoạ ấy thật xứng bày ở nơi Văn Miếu -Quốc Tử Giám Hà Nội ngàn năm tuổi.

Phòng tranh mang đến không khí mùa xuân cho mọi người và mọi người còn ngạc nhiên mãi về sức tiềm ẩn sáng tạo ở nhà thư pháp có độ tuổi cửu tuần này. Năm Đinh Sửu đã vậy, năm Mậu Dần sẽ có nhiều tác phẩm chắc chắn làm say mê lòng người hơn. Tôi chợt nảy ra câu đối Tết tặng tác giả phòng tranh cũng là tiễn năm Sửu đón năm Dần:

Trâu gắng cày bừa trưa chẳng nghỉ
Hổ ham săn đuổi tối thêm hăng.

Thật vậy, bức "Mãnh Hổ xuất lâm" mà chúng ta được thưởng thức nay mai sẽ nói lên điều đó. Ta còn gặp lại những bức tranh của Triển lãm này trong một quyển sách sẽ xuất bản gần đây của nhà xuất bản Mỹ Thuật.

Kính chúc thư pháp gia Lê Xuân Hoà một năm mới mạnh khỏe, tràn đầy sức sống như những bức tranh xuân.

Những ngày giáp Tết Mậu Dần 1998.

TB

MỘT TẤM BIA ĐỀ CAO TRUYỀN THỐNG "TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO"

Bia đặt tại thôn Tiền, xã Minh Nghĩa, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

- Bia 2 mặt. Cỡ 90 x 40 cm (không kể trán bia). Khắc chữ chân phương, toàn văn chữ Hán, có xen Nôm, có kiêng húy. Gồm 19 dòng, khoảng trên 500 chữ.

- Bia được tạo vào năm Tự Đức thứ 17 (1864) thời Nguyễn.

- Tác giả soạn văn bia là: (Họ và tên bị mờ) hiệu Mỹ Phủ - Cử nhân Kỳ thi Ân khoa, làm Huấn đạo ở huyện.

- Người viết chữ: Đỗ Quát đỗ nhị trường - là Quan viên tử.

Dưới đây xin dịch toàn văn mặt bia thứ 1 và lược dịch mặt bia thứ hai để cung hiến cùng bạn đọc một tư liệu đáng quý về truyền thống "tôn sư trọng đạo" đã có từ lâu của nhân dân ta.

Mặt thứ nhất của bia (toàn văn):

Thôn Tiền, xã Trường Quang, tổng Cao Xá, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Các môn sinh dựng bia ghi về Hoàng môn nghĩa hội.

Trong đời sống của dân có ba nghĩa vụ (nghĩa vụ đối với) Thầy học là một vậy. Cha đem lại cuộc sống cho ta. Vua đem lại cho ta sự trị bình, mà dạy bảo ta biết cái đạo thờ Cha, thờ Vua là nhờ ở Thầy. Công lao của Thầy cao lớn như Bắc Đẩu, Thái Sơn vậy ! Vì vậy, khi Thầy sống thì ta phải hầu hạ nuôi dưỡng, khi Thầy chết thì ta phải để tang trong lòng ba năm. Mọi việc Lễ của người xưa bao giờ cũng bắt đầu từ Nghĩa, nên việc phụng thờ mà bắt nguồn từ Nghĩa thì tình cảm sao có thể bỏ qua được.

Tiên sinh Trường Xuyên của ta, đời trước kế tiếp nhau về khoa mục mà tiên sinh thì chú trọng giữ cái thực học, ở nhà căng màn dạy học. Bọn ta theo học cửa Thầy, lĩnh hội được cái tinh, nhận được cái đẹp tốt của người. Con nhỏ có Thầy.

Tiên sinh muộn mằn không có con trai, nuôi con của anh để nối dõi. Chỉ vẽ theo đường nghĩa, giảng dạy điều tốt lành rành rẽ như thuần hậu siêng năng. Con nuôi theo học. Tiên sinh thấy như gia thanh được phấn phát trở lại.

Năm Tân Hợi (1851) Tiên sinh mất, thọ 73.

Năm Giáp Dần (1854), con nuôi cũng chết mà việc nhà sa sút.

Nay Tiên sinh đã đi rồi mà nơi dạy học vẫn như còn nghe lời Thầy, bọn ta hàng năm đến lễ bái khôn xiết buồn bã cảm hoài. Biết lấy gì bày tỏ tình cảm đó, bèn cùng nhau mua bốn sào ruộng để hàng năm thờ cúng Thầy, kính cẩn biểu thị tình cảm của mình vậy.

Ngày 25 tháng 11 năm Tự Đức 17 (1864).

- Cử nhân Ân khoa Mậu Thân (1848) làm Huấn Đạo ở huyện nhà, tên hiệu Mỹ Phủ soạn văn bia.

- Người vâng lệnh viết chữ ở bia là Quan viên tử Đỗ nhị trường, Hội trưởng Đỗ Quát.

Mặt thứ 2 của bia (lược dịch):

Điều 1: Qui ước của nghĩa hội:

Đến kỳ tế trong lễ tang (ngu tế) Thầy, mỗi người đóng 3 quan tiền. Tất cả có 18 người tổng La Miệt. Có ghi cụ thể họ tên, quê quán và chức vị từng người. Trong số 18 người đó, có 1 Đội trưởng, 7 Lý trưởng, 1 Phó tổng, 3 Y sinh, 2 Thí sinh, 1 Khóa sinh, 1 Nhị trường, 1 Quan viên tử, 1 Hội trưởng.

Điều 2: Ghi về ruộng thờ cúng:

Có 1 thửa 4 sào ở bản thôn, xứ Ông Lễ. Vị trí của ruộng. Đây là ruộng của học trò mua như đã nói ở mặt bia 1. Ngoài ra còn 1 môn sinh là Hà Hữu Phác cúng 1 sào, cũng ở xứ đồng ấy. Một số môn sinh lớp sau (ghi tên 4 người) đóng tiền 1 quan 5 mạch.

Hoàng Lê dịch

CHÚ THÍCH

(1) Nay là xã Minh Nghĩa.

TB

MỘT SỐ SÁCH LIÊN QUAN TỚI CHỮ HÁN,
CHỮ NÔM VÀ CHỮ QUỐC NGỮ HIỆN TÌM THẤY TẠI VĂN KHỐ HỘI TRUYỀN GIÁO NƯỚC NGOÀI, PARIS

TRẦN NGHĨA

Trong chuyến đi công tác tại Pháp năn 1995, tôi có đến đọc sách ở Văn khố Hội truyền giáo nước ngoài, Paris (Archives des Missions Etrangères, Paris. 128, Rue du Bac. 75431, Paris Cedex 07). Tại đây, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Ô. Gérard MOUSSAY, Giám đốc Văn khố, tôi đã tìm thấy một số sách(1) liên quan tới chữ Hán, chữ Nôm, và chữ Quốc ngữ. Các sách này phần nhiều không ghi tên người biên soạn, nhưng cũng có thể nghĩ đây là những công trình do người nước ngoài kết hợp với người Việt Nam làm ra. Chính một tác giả trong số đó mà ngày nay chúng ta còn hân hạnh biết được tên - Ô. Pigneau de Béhaine - cũng đã nói như vậy trong bức thư đề ngày 15 - 5 - 1773 do ông viết cho Mgr BORGIA để báo tin ông vừa hoàn thành tập bản thảo cuốn Từ điển Việt – Latinh (Dictionnarium Anamitico Latinum): “Tôi vừa hoàn thành trong những ngày này một cuốn từ điển bao gồm tất cả chữ Nôm Nam Bộ với cách đọc Latinh và nghĩa Latinh tương ứng. Công việc vừa nói đã ngốn hết của tôi cùng 8 người Nam Bộ cả thảy 11 tháng” (xem Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques, tập 3, Nxb. Téqui, Paris 1925, tr.7, phần chú thích)(2).

Về mặt niên đại, trừ cuốn Từ điển Tày - Pháp (Lexique Tay - Francais) được biên soạn vào đầu thế kỷ 20, các sách còn lại hầu hết đều ra đời vào thời kỳ cuối Lê, như tình hình chữ Hán, chữ Nôm và đặc biệt là chữ Quốc ngữ trong phần lớn các tác phẩm cho thấy. Chẳng hạn chữ “lúc lắc” được viết thành “tlúc tlắc”. Chữ “dắt tay” được viết thành “deát tay” (Ditionnaire Annamite - Espagnol) Câu “Ai nấy phải ngợi khen Đức chúa trời” được viết là “Ai náy phải ngượi khen Đức ch’ Blời” (Imitation Psautier en Annammite) v.v. Chúng phản ánh tình trạng chữ Quốc ngữ còn đang trong thời kỳ chập chững, không khác mấy với loại chữ xuất hiện trong cuốn Từ điển Việt – Latinh của Pigneau de Béhaine hoàn thành vào năm 1773 được nhắc tới trên kia.

Mảng sách này, tóm lại, có thể giúp ta không ít trong việc nghiên cứu chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ Việt Nam thế kỷ XVIII, một giai đoạn mà cho tới nay vẫn còn đang khan hiếm thông tin.

Sau đây, chúng tôi xin lần lượt giới thiệu đặc điểm của từng tác phẩm (xếp theo ABC)

1. Bổn ba ngôi...

Không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn.

1 bản, 508 trang, 11,5 x 7cm, chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt, mực đen, trên giấy Tây.

. V.1100

Gồm các bài giảng đạo, ngắm lễ v.v. như:

- Bổn ba ngôi: soạn theo hình thức vấn đáp.

- Kinh càu (cầu) bảo đàng cho kẻ mình sinh thì

- Gương kẻ có tội

- Đức chúa Jesu, Quyển tất.

2. Catechisms Annamiticus

Không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn.

1 bản, 174 trang, 17x12,5cm, chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt, mực đen, trên giấy Tây.

. V.1092

Sách dạy về giáo lý đạo Cơ đốc, bản tiếng Việt, gồm 17 đoạn, trình bày dưới hình thức những câu hỏi (hỏi) và những câu trả lời (thưa).

Các đoạn gồm (nguyên văn): 1. Dạy về sự đức chúa Trời ba ngôi; 2. Dạy cho biết có Đức chúa Trời và mọi sự Đức chúa Trời đã sinh ra gọi là “Tạo thiên lập địa”; 3. Dạy về sự sau hết người ta; 4. Dạy về sự nhân đức; 5. Dạy về sự tội; 6. Dạy chung (?) về phép Sacavamentô; 7. Dạy về ph’ [phép] rữa [rửa] tội; 8. Dạy về phép Confimasou (?); 9. dạy về sự chịu lễ; 10. Dạy về ph’ xưng tội; 11. Dạy ph’ xức dầu th’ [thánh]; 12. Dạy về phép Mahrimôniô (?); 13. Dạy sự làm dấu; 14. Dạy ngiã [nghĩa] giái [giới] răn; 15. Ngiã [nghĩa] kính lạy cha; 16. Dạy ngiã [nghĩa] kinh Ave (?); 17. Dạy ngiã [nghĩa] kinh tin kính. Dạy sự chịu lễ. Các điều răn. Dạy sự xưng tội.

Mỗi đoạn gồm một số câu hỏi và câu trả lời. Thí dụ đoạn 2 (H: hỏi; T: thưa):

H: ĐCT [Đức chúa Trời] lấy đi gì mà dựng nên thế gian này ?

T: ĐCT [Đức chúa Trời] lấy lời phàn mà sinh ra mội [mọi] sự.

H: ĐCT [Đức chúa Trời] chg [chẳng] có xác chg có mình mà lấy lời phán làm sao được ?

T: Ng’ [Người] là ĐCT [Đức chúa Trời] muốn có mội [mọi] sự liền có tức thì.

H: Từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ được mấy năm?

T: Thưa ước đc [được] sấu [sáu] thiên năm.

H: ĐCT [Đức chúa Trời] tạo thiên lập địa bao lâu ?

T: Trải sấu [sáu] ng’ [ngày]

3. Ditionnaire annamite – espagnol

Không ghi tên tác giả ở đầu sách; cuối sách có ghi mấy chữ “Lausdeo, virginig - Maria” (?). Không đề năm biên soạn.

1 bản, 314 trang, 22 x 16 cm, chữ Quốc ngữ cổ, chữ Tây Ban Nha, viết bằng bút sắt trên giấy Tây đã ngả vàng. Bìa sách có bọc vải. Sách cũ nát.

. V.1059.

Từ điển song ngữ Việt Nam - Tây Ban Nha. Các đơn vị từ (từ điều) xếp theo trật tự ABC... Một số từ điều có ghi chữ “Nota” hoặc “No.” ở lề sách tương ứng.

Sau đây là một vài từ điều trích từ phần chính văn (nguyên văn):

deat = deát tay = Mevar de la mano v:c: deát ngựa, guival.

deột (vel dột) mưa deột, caevgateza.

tlá = dôi’ tlá enganar - nói dối, nói tlá, mentir enganando.

tlắc = tlúc tlắc = moverse, balancearse = tàu tlúc tlắc = el Navioba lan cea.

đô = Kinh đô (vel kẻ chợ = corte de Tonkin)

4. Ditonnaire anamitico – latinum

Pierre Pigneau de Béhaine (= Bá Đa Lộc) (1741-1799), người của Chủng viện Paris, thuộc Hội truyền giáo nước ngoài, Khâm mạng Tòa thánh Nam Kỳ, Campuchia và Ciampa biên soạn tại Nam Bộ (Cochinchinois) từ tháng 9 - 1772 đến tháng 6 - 1773.

1 bản, 732 trang, 34,5 x 24 cm, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, chữ La tinh, viết bằng bút sắt trên giấy Tây.

Từ điển song ngữ Việt - La tinh, gồm 5.943 mục từ.

*Xem thêm Trần Nghĩa: Một bộ Từ điển Việt - La tinh viết tay vào cuối thế kỷ XVIII vừa sưu tầm được; Nghiên cứu Hán Nôm năm 1984, tr.127-136.

5. Ditionnaire chinois - annamite – latin

Pierre Pigneau de Béhaine soạn. Không đề năm sách hoàn thành.

1 bản, 906 trang, 28,5 x 19 cm. chữ Hán, chữ Quốc ngữ , chữ La tinh, viết tay.

Từ điển Trung - Việt - La tinh.

Trong bức thư đề ngày 15 tháng 5 năm 1773 do Pierre Pigneau de Béhaine viết cho Mgr BORGIA mà trên kia đã dẫn, còn có đoạn như sau: “Nhờ ơn chúa, tôi đã dành 7 năm ròng để học tiếng Trung Quốc và tiếng Việt Nam, hai thứ tiếng này nay đối với tôi đều trở nên quen thuộc, tôi đã có thể đọc sách dễ dàng...” Qua đó có thể nghĩ bộ Từ điển Trung - Việt - La tinh, được tác giả bắt tay soạn thảo ngay sau khi ông hoàn thành bộ Từ điển Việt - La tinh, tức từ 6-1773 trở đi.

6. Gương phúc  (Imitation de Jessus - Christ)

Maiorica biên soạn năm 1728 (  )

1 bản, 155 trang, 25,5 x 15 cm, chữ Nôm, viết tay.

. V.1076

Sách nói về gương chúa Jésus, gồm những đoạn ngắn có tiêu đề riêng.

7. Imitation psautier en annamite

Không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn.

1 bản, khoảng 600 trang, 15 x 9cm. chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt, mực đen, trên giấy Tây.

.V.1096

Sách nói về gương các thánh, gồm 2 phần lớn:

1/ Vạch gương phúc: gồm 13 đoạn (đoạn 13 còn bỏ trống).

2/ Vạch, cắt nghĩa những kinh Psalmô, vua Đa vít làm và lại dịch ra tiếng Anam: phần này chia làm 150 Psamus (Thánh ca).

Cuối sách có dòng chữ: “Alleluja Ai náy [nấy] phải ngượi [ngợi] khen đức ch’ Blời [Đức chúa Trời]”.

8. Lexique tay – francais

Emmanuel Fénard soạn vào năm 1920.

1 bản, khoảng 650 đến 700 trang, 15 x 9,5 cm, chữ La tinh phiên âm tiếng Tày, chữ Pháp, viết bằng bút sắt, mực tím lẫn mực paker trên giấy Tây.

.V.1058

Từ điển Tày – Pháp loại nhỏ, xếp theo ABC...

Đầu sách ghi:

Consonnes (= phụ âm): B,CH, D, H, J, K, KH, L, M, N, NG, NH, P, PH, S, T, TH, V.

Voyelles ( = nguyên âm): A, E, E, Ê, Ê, I, Y, O, O, Ô, Ô, Ơ, U, Ư.

Diphtongues ( = Nguyên âm đôi): AI, AY, AM, ĂM, AN, AN, ANG, EO, etc etc, ETC, OA, UI.

Tiếp đó, nói về cách đọc nguyên âm, phụ âm, đặc điểm tiếng Tày, ngữ pháp tiếng Tày v.v.

Phần chính văn: Lexique Tay - Francais. Một vài thí dụ:

ăủ = prendre.

ăủ ma = apporter - importer

ăủ vạy = emporter pour réserver

ăủ pảy = ăủ siả = emporter

= emportez ?

Cuối sách, có bổ sung một số từ điều mà bên trên còn bỏ sót.

Đầu sách có dòng chữ ghi thêm bằng bút bi: “1920, Père Vincent Donjon, Missions Etrangères 84360 Sauris”.

9. Notes diverses

Langlois ghi chép năm 1775.

1 bản, khoảng 100 trang, 15,5 x 11 cm, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, chữ Pháp.

. V.1093

Tập Tạp ký ghi chép bằng nhiều thứ chữ, với các nội dung như: 1. Thánh giáo sơ nhập Triều Tiên quốc chi lai lịch ( = Lịch sử đạo Thiên chúa du nhập vào nước Triều Tiên): 29 trang, viết bằng chữ Nôm. Cuối phần này, có ghi “giáng sinh năm 1797” (= Dương lịch năm 1797); 2. Những luật pháp họ khó khăn đã lập tại làng mỗ xứ mỗ: 10 trang, viết bằng chữ Nôm; 3. Phép chung: 20 trang, viết bằng chữ Quốc ngữ cổ; 4. Sách dạy các thầy thuốc, các Bà sinh [đỡ đẻ] và các Bổn đạo có vợ chòu [chửa] cho biết cách chữa lấy các con trẻ về phần linh hồn: 15 trang, chữ Quốc ngữ cổ; 5. Phần còn lại là tiếng Pháp.

10. Sách dạy những phép giúp lễ mi sa

Không ghi tê tác giả, không đề năm biên soạn.

1 bản, 67 trang, 14 x8 cm, chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt, mực đen, trên giấy Tây. Có Mục lục sách thứ nhất và Mục lục sách thứ hai.

. V.1099

Sách dạy cách tổ chức lễ Mi Sa. Sách thứ nhất có 13 (hoặc 14) đoạn. Sách thứ hai có 20 đoạn.

11. Tam giáo chư vọng (?)

Không ghi tên tác giả, không đề năm biên soạn.

1 bản, 294 trang, 14,5 x10 cm, chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt, mực đen, trên giấy Tây.

. V.1098

Sách bàn về một số nội dung của Tam giáo (Nho giáo, Đại giáo và Thích giáo). Gồm 3 phần lớn:

1. Nho giáo chư vaọng (?)

- Tựa.

- Nho giáo chư vảo (?) mục lục:

Đoạn thứ 1: Luận Thái cực sinh blời [trời] đất.

Đoạn thứ 2: Luận Bàn Cổ bởi ai mà ra.

Đoạn thứ 3: Luận Thượng đế là đấng nào.

Đoạn thứ 4: Luận Chính [chín] đạo bởi ai mà ra.

Đoạn thứ 5: Luận hòu [hồng?] thuỷ.

Đoạn thứ 6: Luận thiện địa lục tỏu (?)

Đoạn thứ 7: Luận tế Ngũ đế ngũ thần.

Đoạn thứ 8: Luận lễ hộc miệng cừ [cùng ?]

Đoạn thứ 9: Luận Thành hoàng cừ (?) thượng trung hạ đẳng thần

Đoạn thứ 10: Luận vua 3ắỏ(?), vua Trùn (?), vua Bạch mã.

Đoạn thứ 11: Luận Táo quân, thổ fou (?), Thổ chủ, Tiên sư.

Đoạn thứ 12: Luận lễ tế vũ khỏu (?) cừ (?) các đại hiền

Đoạn thứ 13: Luận lễ tế vũ (?) Thái fvũ cừ (?) các đại tướng.

Đoạn thứ 14: Luận táng tế vũ (?) bà cha mẹ.

Đoạn thứ 15: Luận sự địa lý.

2. Đạo giáo chư vảo (?) mục lục

Đoạn thứ 1: Luận Lão Tử lập ra DDạo đạo (?)

Đoạn thứ 2: Luận Đạo đạo bởi Trương Nghi, Trương Giác mà sáng ra.

Đoạn thứ 3: Luận về th’ (?) Phù Thuỷ làm chữa người ta.

Đoạn thứ 4: Luận 12 Thần Hành khiển.

Đoạn thứ 5: Luận Cửu tinh cừ ? thiên lôi.

Đoạn thứ 6: Luận ngày giờ tốt xấu.

Đoạn thứ 7: Luận sự Hà Bá, Thuỷ quan, Phạm Nhan, Liễu Hạnh.

Đoạn thứ 8: Luận sự bói.

Đoạn thứ 9: Luận sự xem số cừ (?) xem khoa.

Đoạn thứ 10: Luận Ngũ tinh.

Đoạn thứ 11: Luận sự xem hướng cừ (?) xem giờ.

Đoạn thứ 12: Luận sự nhật thực nguyệt thực.

3. Thích giáo chư vảo (?) mục lục:

Đoạn thứ 1: Luận Phật giáo bởi ai mà ra.

Đoạn thứ 2: Luận Phật giáo nhập vào Trung Quốc.

Đoạn thứ 3: Luận Lâõ (?) nhà nho về Phật giáo.

Đoạn thứ 4: Luận Cửu kiếp Phật giáo truyền lại.

Đoạn thứ 5: Luận chính [chín] nghĩa của kiếp.

Đoạn thứ 6: Luận nghĩa chữ Khỏu (?) cừ (?) chữ Nhật.

Đoạn thứ 7: Luận cấm sát sinh cừ (?) luân hồi.

Đoạn thứ 8: Luận kinh bảo đàng (?).

Đoạn thứ 9: Luận lễ đốt nhà táng cừ (?) vàng mã.

Đoạn thứ 10: Luận Bụt Quan Âm cừ (?) cô hồn.

Đoạn thứ 11: Luận ngày Tết lập nêu ba (?) vôi bột.

12. Thánh giáo yếu lý quốc ngữ (Quốc ngữ)

Mgr Pigneau de Béhaine (Giám mục hiệu toà Adran, Khâm mạng Toà thánh Nam Kỳ, Cămpuchia và Ciampa, mất ngày 9-10-1799) biên soạn năm 1774.

1 bản, 81 trang, 15,5 x 10 cm, chữ Quốc ngữ cổ, viết bằng bút sắt với hai loại mực đen (phần nội dung) và đỏ (phần đề mục), trên giấy Tây. Sách được đặt trong một cái hộp bìa cứng, ngoài có bọc vải màu xám.

.V.1095

Sách dạy về giáo lý đạo Cơ đốc, bản tiếng Việt, gồm 11 phần, trình bày dưới dạng hỏi và trả lời:

Phần thứ nhất: dạy về sự một Chúa ba ngôi.

Phần thứ hai: về sự cứu chuộc.

Phần thứ ba: về sự chết.

Phần thứ bốn: dạy về sự tội.

Phần thứ năm: dạy về phép ví tích rửa tội cùng xức trán.

Phần thứ sáu: về phép thánh thể.

Phần thứ bảy: về phép giải tội.

Phần thứ tám: về sự xưng tội cùng đền tội.

Phần thứ chính [chín]: về phép xức dầu thánh và truyền chức thánh cùng lễ hôn phối.

Phần thứ mười: về giái [giới] văn ĐCT (Đức Chúa Trời) (8 giái).

Phần thứ mười một: dạy về luật điều hội thánh:

- Hội thánh là đí (?) gì ?

- Chính [chín] việc bổn đạo phải làm hằng ngày.

- v.v.

Xem thêm mục 2: Catechisms annamiticus; và mục 13: Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ (Nôm).

13. Thánh giáo yếu lý quốc ngữ (Nôm) 

Mgr d’ Adran (Pigneau de Béhaine) soạn. Khắc in năm Nhâm Dần (1782), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43.

1 bản, 76 trang, 25 x 15 cm, chữ Nôm và chữ Hán, in trên giấy bản, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 18 chữ (Riêng phần lời tựa mỗi trang 7 dòng, mỗi dòng 13 chữ).

Trang bìa trong, giữa có hàng chữ  viết từ trên xuống, đây là tiều đề sách. Bên phải tiêu đề sách có hàng chữ viết dọc "  (Thượng thiên vinh phúc ư đại chúa); bên trái tiêu đề sách có hàng chữ dọc " " (Hạ địa an hoà ư thiện nhân). Bên trên tiêu đề sách có hàng chữ ngang “Grand Catéchisme Cochinchinois composé par Mgr d’Adran 1782, corrigé par lui même”.

Mở đầu sách có một bài Thánh giáo dẫn ngôn (Tựa) viết bằng chữ Hán, với dòng lạc khoản “Thời Cảnh hưng tứ thập tam niên, tuế thứ Nhâm Dần trùng khắc”.

Phần chính văn in bằng chữ Nôm.

Sách dạy về giáo lý đạo Cơ đốc, bản chữ Nôm, gồm 13 thiên trình bày dưới dạng hỏi và trả lời. Tiêu đề các thiên là:

Thiên thứ nhất: Thiên chúa nhất thể tam vị

Thiên thứ hai: Giáng sinh cứu thế.

Thiên thứ ba: Tử kỳ hữu định.

Thiên thứ tư: Nhân sinh tội chủng.

Thiên thứ năm: Thánh bí tích.

Thiên thứ sáu: Thánh thể.

Thiên thứ bảy: Cáo giải.

Thiên tứ chín: Chung truyền thần phẩm.

Thiên thứ tám: Cáo minh bổ thục.

Thiên thứ 10: Thập giới.

Thiên thứ mười một: Hội thánh điều luật.

Thiên thứ mười hai: Thiên chúa kinh giải.

Thiên thứ mười ba: Thánh mẫu kinh giải.

Theo cuốn Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques (Sđd) thì tác phẩm Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ, bản Nôm của Mgr Pigneau được soạn xong vào năm 1774, bản thảo hồi bấy giờ dày 82 trang, 15,2 x 9,7 cm. Đến năm 1782, khi tác giả đem sách này sang khắc in tại Quảng Đông, Trung Quốc, sau khi đã sửa sang, hoàn chỉnh thêm bản thảo. Vậy hai chữ “trùng khắc” ghi ở lạc khoản bài Tựa nên hiểu là “Tân khắc”, tức bản in lần đầu thì có lẽ hợp lý hơn(3).

CHÚ THÍCH

(1) Chữ “sách” ở đây xin được hiểu một cách tương đối, vì có trường hợp văn bản chỉ là một tập tạp ký.

(2) Tài liệu do Ô. Gérard MOUSSAY, nguyên Giám đốc Văn khố, Hội truyền giáo nước ngoài Paris cung cấp. Nhân đây xin chân thành cảm ơn Ông.

(3) Tôi đã được ông Jean GUENNOU, nguyên Giám đốc Văn khố Hội truyền giáo nước ngoài Paris và bà Christiane RAGEAU, nguyên Giám đốc Thư viện Học viện Viễn đông Pháp tại Paris tận tình giúp đỡ để có được bản chụp sách Thánh giáo yếu lý Quốc ngữ soạn bằng chữ Nôm rất quý này. Nhân đây xin bày tỏ lòng tri ân.

TB

NGŨ TRI ĐƯỜNG

TẢO TRANG

“Ngũ tri đường" là tên nhà đọc sách của Nhậm Bố, người Trung Quốc, sống cuối thế kỷ 10 đầu thế kỷ 11, dưới triều Tống, từng đỗ Tiến sĩ, làm quan tới hàm Thái tử Thiếu bảo trước khi về hưu "Ngũ tri đường" chỉ 5 điều biết, coi như cần thiết cho mọi người: Tri ân, Tri đạo, Tri mệnh, Tri túc, Tri hạnh. Với 5 điều biết này, có thể nói đã thâu tóm hướng tu dưỡng, triết lý sống của con người chân chính.

1. Tri ân (biết ơn), được đưa lên đầu, điều "nhận biết" quan trọng bậc nhất, có thể nói nếu thiếu nó, không thể thành người. Biết ơn cha mẹ đã sinh ra và nuôi dạy. Biết ơn thầy dạy, và mọi người đối xử tốt với mình, dù là người trên, ngang hàng hay cấp dưới. Biết ơn xã hội đã cung cấp cho mình mọi thứ thuận lợi, nhiều bài học điều hay lẽ phải. Biết ơn thiên nhiên và môi trường đã đem lại cuộc sống cho con người, do đó phải bảo vệ và cải thiện. Biết ơn ngay cả cơ thể đã cung cấp cho mình nhiều điều vui, do đó phải chăm sóc và rèn luyện. Nhận biết như vậy, mọi hành động gây hại cho đời sống thể chất và tinh thần đều là bất nhân bất nghĩa. Sống có ân nghĩa là điều căn bản để sống có hạnh phúc, vì tạo được sự hài hòa giữa mình với chunh quanh, và sự hài hòa ngay trong bản thân mình. Rất nhiều chùa Phật giáo có tên "Báo ân tự", coi việc "Tri ân" là nhận thức quan trọng hàng đầu của con người. Và nếu có được "Tri ân", mọi ý định tự sát không thể chấp nhận.

2. Tri đạo (biết đường đi): Biết con đường phải đi theo, phân định rõ thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, chính đáng và tội lỗi. Điều này đứng ở hàng thứ hai, và rất quan trọng. Chỉ "Tri ân" mà không "Tri đạo", có thể dẫn tới hậu quả rất tai hại. Trả ơn nhưng phải hợp đạo nghĩa, không vì tình riêng hại đến ích chung. Ân và nghĩa phải đi đôi với nhau, mới tạo được cuộc sống chân chính. Biết chọn đường đi đúng, cho suốt cả cuộc đời, cho từng giai đoạn, và cho từng trường hợp cụ thể. Muốn thế phải sáng suốt và dũng cảm, gạt bỏ mọi định kiến suy tính cá nhân.

3. Tri mệnh: (mệnh) bao gồm mọi yếu tố quyết định cuộc sống của mỗi người, như sức khỏe của cơ thể, tiếp nhận từ cha mẹ, và do mình tạo nên (tăng cường hay hủy hoại), tính tình, nhận thức do ảnh hưởng từ bên ngoài, và do tác động tốt hay xấu của chính mình. "Mệnh" cũng bao gồm cả mọi yếu tố của hoàn cảnh khách quan (thiên nhiên hay xã hội) tác động đến con người, tạo điều kiện thuận lợi hay trở thành vật cản mà con người không thể vượt qua. Hiểu biết rõ bản thân và hoàn cảnh khách quan sẽ nhận thức được việc gì mình làm được, việc gì không làm được, giảm bớt tới mức tối đa sự thất bại, và dù có vấp váp, sẽ không oán trời, không trách người (bất oán thiên, bất vưu nhân - lời Kinh Dịch), bình tĩnh nhìn lại mình, tìm ra giải pháp thích đáng nhất. "Mệnh" như trình bày ở trên, sách cũ thường gọi là "mệnh trời" (thiên mệnh), chi phối mọi hoạt động con người, cần nhận thức đúng đắn mới có thể thực sự làm chủ được cuộc sống. "Tri mệnh" còn trợ giúp đắc lực, thậm chí là điều kiện thiết yếu để thực hành có hiệu quả "Tri ân" và "Tri đạo". ở hai địa hạt này, cũng như ở trong mọi địa hạt khác trong đời sống, phải "Tri mệnh", nhận hiểu thấu đáo khả năng mình cùng thế lợi và hại của hoàn cảnh khách quan, mới xác định được hướng hoạt động thích đáng, có hiệu lực cao nhất.

4. Tri túc (biết đủ): Tự cho mình là đủ, vui ở cái mình đang có, không cầu mong những thứ quá sức mình, những thứ không chính đáng. Không "đứng núi này trông núi nọ", biết vui hưởng núi trước mắt. "Biết đủ" không dẫn tới thái độ tiêu cực, không thủ tiêu chí tiến thủ, vì phải kết hợp với "Tri ân", và "Tri đạo", đòi hỏi sự vươn lên không ngừng. Sự nhận biết này là một khía cạnh của nghệ thuật sống: không quên vui ở hiện tại, đồng thời vẫn tích cực hướng tới một tương lai trong sáng hơn.

5. Tri hạnh (biết được may, được phúc). Nói tới "Tri hạnh", có thể coi việc "được may" đầu tiên là có được niềm vui nhận thầy mình "được" là người, tức có "tài năng kiến thức hơn muôn vật" ("linh ư vạn vật"), vì thế phải sống sao cho xứng đáng với danh hiệu đó, biết tu dưỡng, chiến thắng mọi thứ xấu xa hèn kém, vươn lên không ngừng. ở phạm vi sinh hoạt thường ngày, "Tri hạnh" giúp ta gạt bỏ mọi nỗi buồn phiền. Trong cuộc sống con người luôn luôn phải đối phó với những thứ không vừa ý, từ những vướng mắc nhỏ đến những tai họa bất thường. ở mọi hoàn cảnh, nếu biết nhìn nhận thấy những cái mình còn may mắn có, coi như đã có phúc vì không gặp phải những thứ nguy hại hơn, thì đó là biện pháp hữu hiệu để khỏi lo buồn vô ích, giữ được sự thăng bằng yên tĩnh trong tâm hồn, coi như vốn quý nhất của cuộc sống, và cũng là điều kiện cốt yếu để tìm được một giải pháp thích đáng nhất, khi gặp một hoàn cảnh khó khăn.

Đi sâu vào nội dung 5 điều "biết" trên, có thể nói ba điều đầu tiên (Tri ân, Tri đạo, Tri mệnh) là chủ yếu. Điều thứ tư (Tri túc) chỉ là một biểu hiện củ "Tri mệnh". Biết rõ khả năng và hoàn cảnh của mình sẽ chế ngự được lòng ham muốn triền miên, đem lại sự thất bại. "Tri đạo" cũng dẫn đến "Tri túc", vì khi đã phân định rõ "nên" hay "không nên" sẽ gạt bỏ lòng ham muốn vô độ, gây hại cho sự yên tĩnh của tâm hồn. Còn điều biết thứ 5 "Tri hạnh" cũng có thể coi như nằm trong "Tri mệnh": nhận biết rõ khả năng cá nhân và hoàn cảnh khách quan, sẽ biết chấp nhận hiện tại, thấy rõ rằng đau buồn không đem lại lợi ích gì mà còn phá rối cuộc sống. Tuy nhiên tách riêng hai điều biết này rất có lợi nếu không nói là cần thiết, để nhấn mạnh việc chống lại hai thói xấu rất thường thấy. "Tri túc" nhằm loại trừ lòng tham vô độ, đứng đầu trong "tam Độc" (tham sân si) của Phật giáo. "Tri hạnh" nhằm giải tỏa những phiền muộn bực dọc gắn liền với những chuyện vướng mắc khó tránh được trong sinh hoạt thường ngày.

Đối chiếu với "nhân trí dũng", ba đức tính chủ yếu của đạo Nho, đã được Khổng Tử nhắc tới hai lần như đã ghi trong Luận ngữ, có thể nói "nhân" nằm trong "tri ân", và "trí" nằm trong cả năm điều biết. Còn "dũng" thì bao hàm trong chữ "tri" ở cả "5 biết", với ý nghĩa hoàn chỉnh và tích cực của từ này: "biết" bao gồm cả thực hành, đã "biết" phải cố gắng "làm", nếu không thì chưa phải là thực biết.

Tóm lại, "năm cái biết" của Ngũ Tri Đường có thể coi như thâu tóm được dưới hình thức cô đọng cao độ, năm mặt chủ yếu của công phu tu dưỡng và thực hành để có được một cuộc sống chính đáng và hạnh phúc, tạo được sự hài hòa trong đời sống cá nhân, và cả sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội. (1)

CHÚ THÍCH

(1) Ngoài "Ngũ tri" trong "Ngũ tri đường" của Nhậm Bố, còn có "Ngũ tri" khác của Lý Dịch, Ông này cũng sống dưới thời Tống, đỗ Tiến sĩ, làm quan có nhiều chính tích. Nhưng vì lâu năm chỉ ở tỉnh ngoài, không được về Kinh đô theo ý muốn, đã viết "Ngũ tri": Tri thời (biết thời thế), Tri nan (biết khó khăn), Tri mệnh(biết mệnh trời và mệnh mình), Tri thoái (biết rút lui), Tri túc (biết đủ). So với "Năm biết" trong Ngũ tri đường, "năm biết" của Lý Dịch phạm vi hẹp hơn, nhằm chủ yếu những người làm việc trong chính quyền, những quan lại dưới thời phong kiến, cần "biết rút lui" (tri thoái) để khỏi mang vạ vào mình.

TB

HỌP CỘNG TÁC VIÊN
TẠP CHÍ HÁN NÔM ĐẦU NĂM 1998

Ngày 16 tháng 1 năm 1998, cuộc họp Cộng tác viên Tạp chí Hán Nôm đầu năm 1998 đã được tổ chức tại Hội trường Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với sự tham dự của đông đảo cộng tác viên cùng toàn thể cán bộ trong Hội đồng biên tập và Tòa soạn Tạp chí.

Mở đầu cuộc họp, đồng chí Trần Nghĩa, Tổng biên tập Tạp chí đã điểm lại tình hình Tạp chí năm 1997. Trong năm qua, Tạp chí Hán Nôm đã đăng tải hơn 60 bài viết, trong đó có bài nghiên cứu, bài đọc sách trao đổi ý kiến, bài sưu tầm, thường thức Hán Nôm, tin tức hoạt động Hán Nôm và tư liệu tham khảo.

Mục Nghiên cứu chiếm số lượng nhiều nhất, với nhiều vấn đề khoa học được đề cập như: Tìm hiểu về sách Đăng khoa lục; Chu Dịch; Bát quái; chứ húy; tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam; tiêu chí nhận dạng chữ Nôm mượn nghĩa; cấu trúc đối lập trong thơ Đường v.v.

Mục "Đọc sách - trao đổi ý kiến" cũng xuất hiện đều đặn, với các bài như: đọc Từ điển Chu Dịch; vấn đề phiên âm Truyện Kiều; vấn đề dịch Đường thi tứ tuyệt v.v. Đặc biệt trong khi tranh luận, các tác giả đều có thái độ nghiêm túc, bình tĩnh và văn hóa.

Ở mục "Thường thức Hán Nôm" đã có những bài thiết thực, bổ ích, không những đối với người mới tìm hiểu kho di sản Hán Nôm, mà ở mức độ nào đó còn cho cả những người đã hoạt động lâu năm trong lĩnh vực này: "Sách học chữ Hán cho học sinh nhỏ tuổi thời xưa"; "Chữ tục thể"; "Thư pháp và mĩ học thư pháp"; "Chữ dị thể".

Về mục "Sưu tầm", Tạp chí Hán Nôm tiếp tục giới thiệu những tư liệu mới phát hiện, như: "Một dạng truyền bản Lam Sơn thực lục mới tìm được ở Quảng Nam - Đà Nẵng"; "Tờ chiếu của vua Gia Long phong cho Nguyễn Du tước Du Đức Hầu"; v.v.

Cuối cùng, là mục "Tư liệu tham khảo" đã cung cấp đều đặn cho bạn đọc những tài liệu tham khảo được trích dịch từ các tác phẩm như Nhật Bản linh dị kí; Trung Quốc văn hóa sử tam bách đề; Vân nang tiểu sử.

Nhìn chung, chất lượng bài vở cũng như kỹ thuật in ấn của Tạp chí đều đã được nâng cao thêm một bước. Tạp chí ra đúng kỳ hạn nhưng vẫn còn những sai sót khó tránh trong khâu chế bản.

Sau bài phát biểu của đồng chí Tổng biên tập, các cộng tác viên cũng đã đưa ra nhiều gợi ý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của Tạp chí Hán Nôm, đặc biệt là cách thức tổ chức bài mục của Tạp chí.

Hi vọng rằng, với sự nỗ lực của Hội đồng biên tập và cán bộ Tòa soạn, cùng sự ủng hộ nhiệt tình của các cộng tác viên, Tạp chí Hán Nôm sẽ gặt hái được nhiều hơn trong năm 1998.

P.V

TB

HỌP TRÙ BỊ CHO HỘI THẢO
"VĂN HỌC SO SÁNH"

Vào ngày 11 tháng 2 năm 1998, tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm đã tổ chức cuộc họp trù bị cho hội thảo về "Văn học so sánh" trong khuôn khổ di sản Hán Nôm, dự tính sẽ tổ chức vào giữa năm1998.

Thành phần dự họp gồm Tòa soạn Tạp chí Hán Nôm cùng một số nhà khoa học quan tâm tới lĩnh vực văn học so sánh thuộc Viện Hán Nôm, Viện Văn Học, Trường ĐHKHXH & NV, Trường ĐHSP v.v.

Sau khi nghe giới thiệu một số thông tin sốt dẻo về các hội thảo quốc tế liên quan tới "văn học so sánh" được tổ chức gần đây, như Hội thảo tại Hà Lan (1997), Hội thảo tại Tô Châu, Trung Quốc (1997) v.v. mọi người đã cùng thảo luận sôi nổi về quy mô, chủ đề và nội dung của hội thảo sắp tới. Nhiều ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay, quy mô hội thảo chỉ nên vừa phải; Chủ đề hội thảo nên gắn với hai cái mốc: "di sản Hán Nôm" và "văn học so sánh"; nội dung hội thảo nên tập trung vào mảng tiểu thuyết và thơ ca Hán Nôm Việt Nam so sánh với tiểu thuyết và thơ ca cổ liên quan của Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. ở đây, có thể phát biểu những vấn đề mang tính chất lý luận, nhưng nên chú trọng nhiều hơn đến các hiện tượng văn học cụ thể v.v.

P.V

TB

NGHIÊN CỨU SO SÁNH
"CHỮ VUÔNG CHOANG" VÀ "CHỮ NÔM"

LÝ LẠC NGHỊ