TS. Ngữ văn, Trường CĐSP Nha Trang

Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hoá, Đại học Keio (Nhật Bản)

GS. Đại học Quốc gia Hà Nội

TS Ngữ văn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

ThS. GV. Trường THPT Phú Bài, Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế

NCS. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh

22/VIA Vĩnh Phúc I, Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội

Thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

PGS. TS. Đại học Quốc gia Hà Nội

TS Ngữ văn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Cán bộ Bảo tàng tỉnh Long An

Quan Nhân, Thanh Xuân, Hà Nội

CN. Hán Nôm - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

TB

TINH THẦN DUNG HỢP TƯ TƯỞNG PHẬT - LÃO - NHO TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO THỜI LÝ - TRẦN

NGUYỄN CÔNG LÝ

Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên từ đầu khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, phục vụ cho mình.

Đọc kỹ các tác phẩm văn học Phật giáo Lý - Trần, chúng ta sẽ dễ nhận thấy tinh thần điều hòa, dung hợp này. Có khi là sự phân công hợp tác giữa Phật và Thánh (Nho); có khi đó là sự kết hợp rất uyển chuyển giữa Phật với Lão - Trang để đi đến thống nhất: Tam giáo đồng nguyên. Tư tưởng Phật giáo không phải là hệ tư tưởng đóng kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà là tư tưởng mở, đầy khai phóng. Nhờ thế mà các nhà tu hành có cái nhìn thông thoáng, có thái độ sống cởi mở, phá chấp. Người tu hành không bắt buộc phải cạo đầu xuất gia, phải từ giã gia đình vào chùa mà họ có thể tu tập, Thiền định ngay giữa cuộc đời, trong gia đình và cũng có thể chứng ngộ. Điều này thực tế lịch sử đã chứng minh: một Trần Thái Tông, một Trần Tung (Tuệ Trung), một Trần Nhân Tông v.v. Đó là chưa kể các Thiền sư vào đời giúp vua trị nước an dân mà vẫn làm tròn bổn phận của người tu hành. Chất rộng mở phóng khoáng này còn thể hiện qua hệ thống kiến trúc nhà chùa. Nhà chùa không chỉ là chốn thâm nghiêm huyền diệu, mà ngược lại, cửa từ bi luôn rộng mở đón nhận khách thập phương, sẵn sàng cứu vớt kẻ trầm luân. Cảnh bụt bao giờ cũng hữu tình kỳ thú, luôn là chốn đi về của những ai muốn quên đi bao nỗi phiền muộn, bao điều trắc trở nhọc nhằn của cuộc đời. Họ đến viếng cảnh già lam để tìm sự thư thái, sự thanh thản của tâm hồn. Chất dân chủ rộng mở ấy còn biểu hiện qua hệ thống triết lý, kinh điển với chủ trương tâm không phân biệt. Tất cả đều sẽ giác ngộ. Cơ sở của tinh thần dung hợp là vậy.

Tinh thần dung hợp này được biểu hiện ở các khía cạnh sau:

1. Phật - Nho phân công hợp tác:

Qua các tác phẩm, các Thiền sư Lý - Trần đã thừa nhận tư tưởng của đức Thánh cần thiết cho sự duy trì trật tự xã hội cũng như giáo lý của đức Phật cần thiết cho sự giải thoát tâm linh con người. Lời sư Trí Thiền sau đây có thể nói lên tinh thần vừa phân biệt lại vừa hòa đồng giữa Phật và Nho: “Như Lai lục ngữ cái bất hư thiết. Thế gian chư pháp hư huyễn bất thực, duy đạo vi thực, ngã phục hà cầu. Thả Nho gia khả thuyết quân thần phụ tử chi đạo, Phật pháp khả ngôn Bồ Tát, Thanh văn chi công. Nhị giáo tuy thù, kỳ quy tắc nhất. Nhiên, xuất sinh tử, nhược đoạn hữu vô kế phi Thích tắc bất năng dã”. Nghĩa là: “Mấy lời nói kia của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các phép ở trên thế gian này đều là hư ảo, không thực, chỉ có Đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa; Vả lại, Nho gia thì nói đạo vua tôi, cha con; Phật pháp thì nói về công đức của các bậc Thanh văn, Bồ Tát. Hai giáo tuy có khác nhưng quy về chỉ một mối mà thôi. Nhưng muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô, ngoài Phật giáo ra thì không thể đạt được” (Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh, ký hiệu A.3144).

Nho và Phật tuy khác nhau ở thực hiện giáo lý nhưng cũng cần thiết như nhau. Sự phân biệt chẳng qua là một sự phân công để cùng giúp ích cho đời. Bàn về sự khác biệt ấy, Viên Chiếu đã cho rằng Phật và Thánh như ánh sáng rực rỡ của trời soi tỏ khắp nơi, đem lại sự sống cho vạn vật; như bóng trăng êm dịu mang đến sự thanh tĩnh cho con người; như mùa xuân ấm áp thì chim oanh líu lo; như mùa thu về thì cúc vàng rực rỡ:

“Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh”

Nghĩa là:

“Trùng dương đến, cúc vàng dưới giậu,
Xuân ấm về, oanh náu đầu cành”.
(Thơ văn Lý - Trần, T1, 1977, tr.274)

Đệ tử vẫn chưa hiểu, sư đáp tiếp:

“Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh”

Nghĩa là:

“Ngày vầng ô chiếu sáng,
Đêm bóng thỏ rạng soi”.
(Thơ văn Lý - Trần, T1, tr.274)

Trên bình diện tư tưởng, các Thiền sư thường kết hợp vũ trụ quan biến động của Dịch, tư tưởng nhất quán của Khổng Tử với tư tưởng “Nhất như” cùng chủ trương tất cả quy về tâm của Phật để phát biểu một vấn đề hiện thực. Đoạn mở đầu bài bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa) của Pháp Bảo (Giác Tính Hải Chiếu) là một minh chứng cho khuynh hướng kết hợp này: “Phù ! Thiền tổ hiển thực nhi trực chỉ nhất tâm; thánh nhân thích thời nhi thông hồ vạn biến. Vạn giả nhất chi tán; nhất nãi vạn chi tông. Chí ư hiền trí gián xuất; quỹ phạm điệt hưng. Tụ kỳ tán dĩ quy tông; bão ư nhất dĩ thống vạn. Lập tượng tướng nhi thị hữu sở thống; sùng tháp miếu nhi linh hữu sở quy...” Nghĩa là: “Phật tổ soi tỏ cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; Thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt muôn biến. “Muôn” là sự phân tán của “một”. “Một” là cội gốc của “muôn”. Đến như các bậc hiền trí thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy lên. Nhóm cái đã phân tán để đưa nó về cội gốc; ôm cái “một” để thâu tóm cái “muôn”. Tạc nên hình tượng để biểu thị sự thâu tóm; Dựng nên đền tháp để có sự hướng về. (Thơ văn Lý - Trần, T1, tr.358)

Cuối bài bia có bài minh ca tụng chân như với đức tính “hóa dục vạn vật” của Thái cực: “Chí tai chân như,

Thể lượng Thái hư.
Thần như bất trắc,
Hóa nhi hữu dư.
Nhất vũ bái nhuận,
Tam thảo tam thư.
Pháp chàng đại thụ,
Tà võng đốn trừ.”

Nghĩa là:

“Cùng tột chân như !
Thể lượng Thái hư.
Khôn lường linh diệu,
Biến hóa có thừa.
Mưa nhuần thấm đượm,
Cây cỏ sởn sơ.
Giương cao cờ phướn,
Dẹp hết tà nhơ”
(Thơ văn Lý – Trần, T1, tr.360).

Sang đời Trần, Trần Thái Tông đã trình bày rõ nhiệm vụ của Phật và Thánh trong bài tựa Thiền tông chỉ nam. Phật: “Thị dĩ dụ quần mê chi phương tiện, minh sinh tử chi tiệp kính giả, ngã Phật chi đại giáo dã. Nghĩa là: “Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật”. (Thơ văn Lý - Trần, T2, Quyển thượng, KHXH, 1989, tr.26). Thánh: “Nhiệm thùy thế chi quyền hoành, tác tương lai chi quỹ phạm giả, tiên thánh chi trọng trách dã”. Nghĩa là: “Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn khổ cho tương lai, ấy là trách nhiệm của bậc tiên thánh”. (Thơ văn Lý - Trần, T2, tr.27).

Một bên là đạo, một bên là đời. Một đằng là thỏa mãn giải thoát tâm linh của cá nhân, một đằng là đáp ứng yêu cầu tổ chức của đời sống xã hội. Sự phân công hợp tác giữa Phật và Nho kể trên đã đưa tới kết quả tốt đẹp trong đời sống của một dân tộc vừa phục hưng, đó là sự tương trợ giữa tôn giáo và chính trị. Điều đó rất cần thiết cho đất nước vừa độc lập đang trên đà phát triển như nước ta thời bấy giờ.

Ngay từ ngày giành độc lập, Nho học đã nhờ Phật giáo mà phát triển. Trí thức Nho học ngày ấy chắc đã được sự dạy dỗ bởi những ông thầy ở chùa. Khi khoa cử chưa tổ chức, nhiều trí thức Nho học được triều đình bổ nhiệm làm quan là nhờ sự bảo cử, tiến cử của các nhà sư. Trong Văn học đời Lý, Ngô Tất Tố đã dẫn lại câu nói xưa: “Trước Nhân Tông, chưa có khoa cử, những kẻ thông minh nhanh nhẹn đều phải do bọn Thích đạo lựa chọn và cất nhắc cho”(1) là minh chứng cho ý trên. Ngày ấy, chính quyền rất cần đến tôn giáo và phải nhờ đến sự giúp đỡ, cố vấn của các nhà sư. Đời Đinh, Tiền Lê, Lý đều nhờ đến các vị Khuông Việt, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh... để ổn định chính trị, nhà nước. Các vua đời Trần vừa trị nước vừa tu Thiền cũng đã thể hiện rõ mối quan hệ này. Trong khi Nho phải nhờ Phật để phát triển, chính trị cần sự trợ giúp của tôn giáo thì ngược lại, Phật cũng phải nhờ Nho, tôn giáo cũng phải nhờ đến phương tiện vật chất dồi dào của chính quyền để hoằng dương đạo pháp. Trong bài văn bia chùa Linh Xứng, Pháp Bảo đã thừa nhận: “Tự Phật giáo dĩ lai, đãi kim nhị thiên dư tải, nhi kính phụng ích tân. Phàm hữu danh sơn thắng cảnh, mạc bất khải thác dĩ kiến giác trường. Nhiên phi vương công đại nhân, hoằng lộ khuông duy tắc mạc năng thành yên”. Nghĩa là: “Từ khi có Phật giáo tới nay đã hơn hai nghìn năm, mà sự thờ phụng ngày càng thêm mới. Hễ có cảnh đẹp núi non thì không nơi nào là không mở mang để xây dựng chùa chiền, nhưng không có các bậc vương công đại nhân giúp đỡ thì làm sao mà nên được”. (Thơ văn Lý - Trần, T1, tr.361).

Mặt khác, lớp văn hóa Phật giáo sau này từ đường bộ Trung Quốc truyền xuống với hệ thống kinh sách đã dịch sang Hán văn, nên các nhà sư muốn học kinh Phật phải học chữ Hán của nhà Nho và thực tế là các vị đều uyên thâm Hán học. Điều đó có nghĩa là giáo lý từ bi của nhà Phật phải nhờ đến Hán tự của Nho gia làm phương tiện truyền bá. Câu nói của Trần Thái Tông đã giải thích thêm lời của Lục Tổ Huệ Năng là Phật và Thánh không khác gì nhau: “Cổ Lục Tổ hữu ngôn vân: Tiên đại thánh nhân dữ đại sư vô biệt. Tắc tri ngã Phật chi giáo, hựu giả tiên thánh dĩ truyền ư thế dã”. Nghĩa là: “Cho nên Lục Tổ có nói “Bậc thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau”. Như thế đại giáo của đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời”. (Thơ văn Lý - Trần, T2, tr.26).

Mặt khác, chúng ta không lấy làm lạ nhiều người xuất thân từ Nho học nhưng khi về già lòng lại hướng về Phật về Thiền. Nhiều người sáng tác thơ văn ca ngợi cảnh già lam với lời thơ đầy ý vị Thiền đạo mà có nhà nghiên cứu gọi đó là “dòng thơ Thiền thế sự”(2).

Từ giữa đời Trần về sau, Nho giáo thịnh dần, Phật suy yếu; nhiều nhà Nho trước đây đã từng lên án chỉ trích Giáo hội Phật giáo, Tăng đồ gay gắt như lợi dụng tôn giáo để gieo rắc điều mê tín dị đoan, không chịu giữ gìn giới răn... vậy mà cuối đời chính họ lại vào chùa sống đời muối dưa thanh đạm, làm thơ như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh với Cam Lộ tự, Đăng Dục Thúy sơn lưu đề, Du Phật Tích sơn ngẫu đề ca ngợi cảnh đẹp già lam, ca ngợi đức độ danh tăng và trong bài văn viết về việc chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi thờ tượng Đại Bi, ông đã ca ngợi công đức nhà sư xây chùa, tạo danh thắng cho đất nước và chùa thờ Phật là để cầu nguyện cho quốc thái dân an; Trần Nguyên Đán với Sơn trung khiển hứng, Ngẫu đề; Chu Khắc Nhượng với Đề Sài Trung Vĩnh Hưng tự v.v... Đặc biệt, bậc “nhất thế sư biểu” Chu Văn An đã làm thơ ca ngợi vị sư đạo cao đức trọng, tán dương tư cách thanh cao của nhà sư y như tư cách của một nhà Nho quân tử sống ẩn dật chịu ảnh hưởng Lão - Trang trong bài Đề Dương công Thủy Hoa đình(3); Phạm Nhân Khanh thì ca ngợi đức độ cùng tài thơ của Thiền sư Lãm Sơn trong bài Tống Lãm Sơn Quốc sư hoàn sơn(4).

Nhìn chung, sự kết hợp vừa dung hợp vừa điều hòa có phân biệt giữa hai tư tưởng Nho, Phật vào thời Lý - Trần đã tạo nên một lý tưởng cao đẹp với cuộc đời từ lý tưởng của con người cá nhân vừa lập công giúp nước để sau đó khi xong nhiệm vụ về nghỉ ngơi vui với thiên nhiên, tâm hướng về Phật. Sự kết hợp ấy còn là biểu tượng cho nếp sống của dân tộc. Hình ảnh chùa tháp nguy nga tráng lệ chứng tỏ quốc gia ấy thanh bình, xã hội ấy thịnh vượng và con người trong xã hội ấy đã biết tôn trọng, giữ gìn những giá trị văn hóa tinh thần và do vậy mới có những tác phẩm ca ngợi đạo lý cao thâm huyền diệu.

2. Phật - Lão kết hợp tịnh hành.

Văn học Phật giáo Lý - Trần đã có nhiều tác phẩm mang tư tưởng siêu thoát nửa Phật, nửa Lão - Trang như thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung. Bài Phóng cuồng ngâm của Tuệ Trung là sự kết hợp của hai luồng tư tưởng Phật giáo và Lão - Trang, có pha chút ngông nghênh, ngang tàng của nhà Nho trong một con người vừa là Thiền sư, vừa là quý tộc:

“Thiên địa diếu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương...
Quy sơn tác lân hề mục thủy cổ
Tạ Tam đồng chu hề ca thương lương.
Phỏng Tào Khê hề ấp Lư thị,
Yết Thạch Đầu hề sái Lão Bàng
Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc,
Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hóa cuồng.
Đốt đốt phù vân hề phú quý,
Hu hu quá khích hề niên quang...
... Thâm đắc lệ hề thiển tắc kệ,
Dụng tắc hành hề xả tắc tàng”.

Nghĩa là:

“Trời đất liếc trông chừ, sao mênh mang!
Chống gậy nhởn nhơ chừ, phương ngoài phương !...
... Láng giềng cùng Quy Sơn chừ, chăn con trâu nước,
Cùng thuyền với Tạ Tam chừ, hát khúc Thương Lương.
Thăm Tào Khê chừ, vái chào Lư thị,
Viếng Thạch Đầu chừ, sánh vai Lão Bàng.
Vui cái ta vui chừ, Bố Đại vui,
Cuồng cái ta cuồng chừ, Phổ Hóa cuồng !
Ối ối ! giàu sang chừ, lưng trời mây nổi,
Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang !
... Sâu thì dấn chừ, nông thì xắn vén,
Dùng thì làm chừ, bỏ thì ẩn tàng”.
(Thơ văn Lý - Trần, T2, quyển thượng, tr.279).

Chất phiêu diêu này ta còn gặp trong nhiều bài thơ của ông như: Phỏng Tăng Điền đại sư, Xuất trần, Tự tại, Giang hồ tự thích, Phúc Đường cảnh vật, Thoái cư...

Sự ưa thích cảnh sống phóng khoáng, phiêu diêu thoát tục dường như là cái chất của trí thức thời Lý - Trần. Thơ văn các vị Thiền sư Lý - Trần cũng mang chất phiêu diêu lãng đãng này. Chẳng hạn, hai câu thơ của Thiền Lão trả lời Lý Thái Tông lại man mác phong vị tiêu dao thoát tục kiểu Lão - Trang của một Thiền sư ẩn mình tu luyện nơi thiên nhiên u tịch, thoát khỏi hồng trần.

Những bài thơ của nhóm Bích Động thi xã chủ yếu là những dòng thơ ca ngợi thú vui nhàn tản, ca ngợi thiên nhiên, xem thường danh lợi, vừa mang ý vị Thiền đạo, vừa mang chất phóng nhiệm của Lão - Trang. Trần Quang Triều với những bài thơ thanh thoát, đáng ưa(5); giàu tình cảm, tinh tế, phóng khoáng tài hoa(6) như Ngư điếu, Mai thôn phế tự, Hoàng châu đạo thượng tác, Đề Gia Lâm tự(7). Những bài thơ như: Xuân nhật thôn cư, Nguyên nhật yết kiến Diên Quang tự Nguyệt Đàm thượng nhân của Nguyễn Ức(8); Nguyễn Sưởng với những bài thơ ca ngợi cảnh già lam Phả Lại sơn tự, Tiên Du Vạn Phúc tự, Túc Thứu thượng nhân Thiền phòng, Trùng đáo Quỳnh Lâm Bích Động am lưu đề(9). Tất cả đều mang đậm nội dung vừa nêu. Nhà Nho như Chu Văn An khi lui về quê nhà cũng đã viết những vần thơ ca ngợi thiên nhiên, bộc lộ tâm tình tiêu dao, phóng khoáng tự tại mang cốt cách của Thiền sư, của Đạo sĩ:

“Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh”.

Nghĩa là:

“Thân nhàn tựa áng mây trôi,
Gió trăng nửa gối việc đời nhẹ tênh.
Cõi trần xa, cõi Phật thanh,
Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu lường”.
(Thơ văn Lý - Trần, T3, tr.57).

Ngay cả trong dân gian sự kết hợp trên cũng được thể hiện rõ nét qua những câu chuyện lưu truyền mà sau này có chép lại trong Lĩnh Nam chích quái. Có điều, trong những câu chuyện ấy, tính chất thần bí thần thuật lộ rõ nét ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông hoặc của Đạo giáo phù phép. Bên cạnh đó, còn có sự kết hợp tư tưởng của Tam giáo với tín ngưỡng vật linh của quần chúng. Truyện Man Nương nói về nguồn gốc Phật giáo vào Việt Nam. Lúc ấy Phật giáo đã pha lẫn tín ngưỡng Bà la môn tạo thành một biến thái phù hợp với tín ngưỡng vật linh chất phác của người Việt cổ. Việc sư Già La Đồ Lê cho Man Nương chiếc gậy thần làm nước suối tuôn chảy cứu dân khỏi cảnh hạn hán, việc đặt tên cho bốn tượng Phật tạc từ cây có giấu đứa bé con của Man Nương là Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp Điện, Pháp Vũ, là kết quả Phật hóa các hiện tượng thiên nhiên: mây, sấm, chớp, mưa vốn được người Việt cổ sùng tín. Cây đổ trôi đến trước chùa, trăm người không kéo được, Man Nương đụng vào cây, cây di chuyển theo vào bờ cho thấy những người tin Phật vẫn còn mang trong người niềm tin về sự liên lạc của tình cảm huyết thống. Truyện Thông Huyền, Giác Hải, Không Lộ cho thấy bấy giờ Nhà nước coi Phật và Đạo ngang nhau. Chính vua nhà Lý đã có thơ ca ngợi:

“Giác Hải tâm như hải,
Thông Huyền đạo hựu huyền.
Thần thông kiêm biến hóa,
Nhất Phật nhất thần tiên”.

Nghĩa là:

“Giác Hải lòng như biển,
Thông Huyền đạo rất huyền.
Thần thông kiêm biến hóa,
Một Phật một thần tiên”.
(Thơ văn Lý - Trần, T1, tr.434)

Truyện về Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không với pháp thuật phù chú giải quyết tranh chấp, trả thù; dùng pháp thuật để trị bệnh, để hóa kiếp đầu thai, thể hiện đức tin của quần chúng, chứng tỏ sức mạnh của uy linh huyền bí. Tất cả là sự kết hợp tịnh hành giữa Phật với Lão - Trang và Đạo giáo.

3. Quan niệm Tam giáo đồng nguyên

Tinh thần Phật - Nho hợp tác, Phật - Lão kết hợp như trên là bắt nguồn từ quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Vấn đề Tam giáo đồng nguyên không phải là hiện tượng của riêng Việt Nam mà là hiện tượng chung của lịch sử tư tưởng Đông Á, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Xét về cội nguồn, quan niệm Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện từ thời Ngụy - Tấn Nam Bắc triều ở Trung Quốc mà người đầu tiên đề xuất là Đạo sĩ Cát Hồng (284 - 364), sau đó được Đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh (456 - 536) sống đời Tề Lương phát triển thêm. Từ đó, quan niệm này đã ảnh hưởng đến các nhà sư phái Hoa Nghiêm tông, phái Thiền tông Lâm Tế Nghĩa Huyền và Tào Động ở thời Lục triều - Tùy Đường. Chẳng hạn, sư Tông Mật, vị tổ thứ năm phái Hoa Nghiêm tông đã phát biểu: “Thiền - Đạo nhất trí, Nho - Thích nhất gia” trong sách Hoa Nghiêm nguyên nhân luận: “Khổng Tử, Lão - Tử, Thích Ca đều là bậc chí thánh, tùy thời đem ứng dụng vào vật, giáo lý tuy khác đường nhưng nội ngoại đều có thể hỗ trợ cho nhau, cùng có lợi cho quần sinh. Muôn việc cần đến đều có thể dựa vào Tam giáo”(10). Tư tưởng quan niệm này còn ảnh hưởng đến các nhà Nho. Các Nho sĩ đời Tống như Chu Đôn Di, người đặt nền tảng cho Lý học, tuy bề ngoài đã phê phán Phật - Lão nhưng thực chất bên trong lại kế thừa và phát huy tư tưởng của Phật - Lão. Ông còn là người chủ trương Tam giáo dung hợp. Trong lịch sử Trung Quốc có ghi những câu chuyện về sự dung hợp này như chuyện Phó Ông, một nhân vật sống thời Nam Bắc triều, đầu đội mũ nhà Nho, thân mặc áo nhà sư, chân đi dép Đạo sĩ. Hình ảnh này nói lên cái ý Tam giáo nhất gia. Còn câu chuyện Hổ Khê tam tiếu với việc sư Tuệ Viễn mải vui chuyện đã đi quá Hổ Khê để tiễn nhà Nho Đào Uyên Minh và Đạo sĩ Lục Tu Tỉnh khiến cho con hổ sống ở đó thấy lạ mà gầm lên, với ý nghĩa là ba đạo cần hòa hợp với nhau. Quan niệm Tam giáo đồng nguyên ngay từ thời Bắc thuộc đã xâm nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng suốt thời trung đại.

Về mặt cơ sở khách quan của quan niệm này có thể có hai căn cứ. Một là cơ sở văn hóa - văn tự: Phật vào Việt Nam giai đoạn sau phải qua văn tự Hán và văn hóa Hán: Văn hóa Nho ở phương Bắc, văn hóa Lão ở phương Nam. Các nhà sư đọc kinh từ văn bản Hán, thường chịu ảnh hưởng của tri thức văn hóa Hán, văn tự Hán, nhất là hồi ấy trong tình hình hỗn dung văn hóa, ít có sự đối cực. Hai là cơ sở thực tiễn tâm lý xã hội, đời sống xã hội: Như đã nêu, người Việt phương Nam sống linh hoạt, rộng mở, dân chủ nên dễ dàng tiếp thu cái của người, miễn là cái đó phù hợp với mình, có lợi cho mình rồi dung hợp để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của dân tộc mình mà ở trước chúng tôi có điểm qua.

Văn học Phật giáo Lý - Trần đã thể hiện tinh thần của quan niệm trên. Sở dĩ ở Việt Nam chưa bao giờ có sự xung đột Tam giáo như ở Trung Quốc là nhờ sự dung hợp linh hoạt này của người Việt. Quan niệm Tam giáo đồng nguyên đã thể hiện qua lời vua Lý Nhân Tông nói với Mãn Giác: “Chí nhân thị hiện, tất vụ tế sinh, vô hạnh bất cụ, vô sự bất tu, phi duy định tuệ chi lực, diệc hữu tán dương chi công, thả kính nhậm chi”. Nghĩa là: “Bậc chí nhân thị hiện tất phải làm việc cứu giúp chúng sinh, không hạnh nào là không cần có đủ, không việc gì không phải chăm lo, chẳng phải chỉ sức định tuệ mà cũng có công giúp ích nên phải kính nhận nó” (Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh 11, kí hiệu A.3144).

Lời nói trên nêu rõ quan niệm về con người lý tưởng của xã hội. Đó là con người có trí tuệ sáng suốt của bậc giác giả (tri), lại biết đem đức hạnh và tài sức ra giúp nước cứu dân (hành); con người ấy, xong việc rồi lại tự tại tiêu dao như bậc Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh kiểu Trang Tử. Cho nên, lời của vua Lý Nhân Tông đã thể hiện Tam giáo kết hợp, tịnh hành. Sử sách cũng cho biết rằng nhà vua tuy là người sùng mộ đạo Phật nhưng lại chú trọng đến Nho. Chính vua đã thiết lập chế độ khoa cử đầu tiên ở Việt Nam để chọn nhân tài (năm 1075) và cũng là người mở trường đại học (Quốc tử giám) đầu tiên để đào tạo trí thức Nho học (năm 1076) cho nước nhà.

Trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông đã đưa ra phương pháp sám hối của nhà Phật chẳng khác nào phép tự tu tự tỉnh của Nho gia: mỗi ngày ta phải tự xét mình ba lần (nhất nhật tam tỉnh ngô thân) mà học trò Khổng Tử là Tăng Tử đã nói trong thiên Học nhi, sách Luận ngữ. ở bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, nhà vua cho rằng Khổng Tử, Thích Ca và Lão Tử đều như nhau với những tư tưởng, hoạt động gần nhau, bởi Đạo chỉ là một mà thôi: “Tuy ngôn thân mệnh chi chí trọng, do vị túc trọng ư chí đạo giả dã. Cố Khổng Tử viết: triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ. Lão Tử viết: Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngộ hữu thân. Thế Tôn cầu đạo xả thân cứu khổ. Khởi phi tam thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo giả tai !”. Nghĩa là: “Tuy nhiên nói thân mệnh là đáng trọng nhưng cũng còn chưa trọng bằng cái đạo tối cao. Cho nên, Khổng Tử nói: Sớm nghe đạo, chiều có thể chết được rồi. Lão Tử nói: Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân. Đức Thế Tôn cầu đạo, quên mình cứu hổ. Há chẳng phải ba bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo đó sao ?” (Thơ văn Lý - Trần, T2, tr.61)

Chính vì thế, Nguyễn Đăng Thục đã phát biểu thú vị rằng: “Phật giáo là một tôn giáo mở cửa độc nhất trong các tôn giáo thế giới, không tự khẳng định mình là thật mà phủ định cả Ngã và Pháp, siêu lên cả có lẫn không, mới có thể cống hiến cho dân tộc Việt Nam đất Giao Chỉ cái nhựa sống thiết yếu để hợp nhất các khuynh hướng tư tưởng, tín ngưỡng giao lưu xung khắc thành cái ý thức hệ khai phóng của địa lý đòi hỏi”(11).

Tóm lại, văn học Phật giáo Lý - Trần có được tinh thần trên là nhờ chất cởi mở, phóng khoáng, dân chủ nên dân tộc ta sẵn sàng mở cửa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng nước ngoài rồi dung hợp để tạo nên nét độc đáo riêng, phù hợp với điều kiện của một dân tộc vừa phục hưng, một đất nước vừa phát triển mà phần nào đã trình bày trên.

N.C.L

CHÚ THÍCH

(1) Ngô Tất Tố: Văn học đời Lý, Nxb. Mai Lĩnh, 1942, tr.22.

(2) Nguyễn Phạm Hùng: Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý - Trần, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Văn học, tháng 7.1995.

(3),(4) Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, KHXH., H., 1978, các trang 51, 315.

(5) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, (Văn tịch chí), bd, Nxb. Sử học, H., 1960, tr.71.

(6) Thơ văn Lý - Trần, Tập 2, quyển thượng, Nxb. KHXH., H., 1989, tr.608.

(7) Xin xem nguyên văn các bài thơ trong Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, tr.609 - 614.

(8), (9) Xin xem nguyên văn các bài thơ trong Thơ văn Lý - Trần, Tập 2 quyển thượng, tr.43 - 46 và tr.760 - 775.

(10) Thiền sư Tông Mật: Hoa Nghiêm nguyên nhân luận. Dẫn lại Nguyễn Tài Thư: Tam giáo đồng nguyên - hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (40)-1999, tr.12.

(11) Nguyễn Đăng Thục, Phật giáo Việt Nam, Nxb. Mặt Đất, Sài Gòn, 1974.

TB

SỬ LIỆU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TÁI BIÊN HƯƠNG ƯỚC Ở BẮC BỘ VIỆT NAM THỜI LÊ

SHIMAO MINORU

Trong bài "Xem xét từ một ví dụ tái biên hương ước qua trình tự tái biên ở làng xã Bắc bộ Việt Nam thời thực dân"(1), tôi đã nêu lên 3 vấn đề: 1) Sự ra đời của hương ước thế kỷ XV; 2) Sự phổ cập của hương ước thế kỷ XVII - XVIII; 3) ảnh hưởng của quá trình thực dân hóa vào hương ước(1*). Bài viết trước chúng tôi đã đề cập đến vấn đề thứ 3 trong ba vấn đề trên. Bài viết lần này, chúng tôi xin đề cập tới hai vấn đề 1 và 2 qua việc giới thiệu văn bản hương ước thời Lê, đồng thời đưa ra một số nhận định về bản hương ước nói trên.

1. Về sử liệu

Sử liệu chúng tôi muốn giới thiệu ở đây là bản Đại Phùng tổng khoán ước, kí hiệu A.2875, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đó là sử liệu mà Viện nghiên cứu này kế thừa từ thư viện Viễn đông Bác cổ Pháp. Trong sử liệu này tiêu đề Đại Phùng khoán ước không có. Tiêu đề này là do Mục lục của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đặt ra theo nội dung của văn bản. Theo tiêu đề này thì từ trang mở đầu đến trang 11 là khoán ước(2*) của tổng Đại Phùng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, và 48 trang còn lại là sắc phong, sự tích các vị thần và văn tế trong các dịp tế lễ của tổng. Trong sắc phong các thần của tổng này thấy có ghi thời Bảo Đại (1926-1945), chứng tỏ bản khoán ước này là bản sao chép mới.

Chúng tôi xin giới thiệu phần mở đầu của khoán ước này. Trong phần mở đầu đã ghi cả ba niên đại khác nhau trong một khoán ước. Trọng tâm của văn bản là 12 điều quy ước của năm Chính Hòa thứ 5 (1684). Phần đầu khoán ước ghi rõ, các chức sắc các xã thôn trong tổng tập hợp mọi người lại để đặt ra quy ước, có ghi rõ họ tên, địa vị, chức tước của một số chức sắc.

Phần mở đầu của khoán ước Chính Hòa thứ 5 ghi việc biên soạn hương ước đã có từ năm Hồng Đức thứ 6 (1475) và còn ghi rõ bản khoán ước năm Chính Hòa thứ 5 là bản có kế thừa một số quy định từ khoán ước năm Hồng Đức thứ 6. Khi biên soạn lại khoán ước vào năm Chính Hòa thứ 5 có gặp một số trở ngại do bản khoán ước năm Hồng Đức thứ 6 mực nhạt chữ nhòe, lại bị mối mọt rách nát. Trong các điều của năm Chính Hòa thứ 5 có tới ba chỗ chú thích dẫn một phần quy ước của năm Hồng Đức thứ 6. Có thể đấy là đầu mối để dẫn đến khoán ước Hồng Đức thứ 6. Trong phần chú thích cho biết có sự thay đổi trong ngày tế lễ thời kì Lê Túc Tông, từ đó cho thấy vào năm 1504 người ta lại cải chính hương ước một lần nữa.

Phần đầu của khoán ước năm Chính Hòa thứ 5 có ghi 12 điều đã được biên soạn lại vào thời điểm đó. Nhưng thực tế có 13 điều vì phía sau điều 13 ghi: "điều này được bổ sung từ khoán ước trước", không rõ nó được bổ sung vào từ thời điểm nào ?

Sau điều 12 (+1 điều) của bản khoán ước Chính Hòa thứ 5 có chép bốn điều của khoán ước năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781). ở thời điểm đó, (tức năm Cảnh Hưng thứ 42) các chức sắc lại tập trung dân một lần nữa để đặt ra quy ước. Không nêu tên người chủ xướng. Không biết có phải để lập ra một quy ước mới ở quy mô nhỏ hay không ?

Trong mục 3, phần chính văn của khoán ước chia thành 4 bộ phận (A: Phần đầu của khoán ước năm Chính Hòa thứ 5; B: Các điều của khoán ước năm Chính Hòa thứ 5; C: Trong một phần các điều của năm Chính Hòa thứ 5 có sử dụng lại các điều của năm Hồng Đức thứ 6; D: Các điều của năm Cảnh Hưng thứ 42).

2. Một vài suy nghĩ

Xin được giới thiệu nội dung chủ yếu của khoán ước năm Hồng Đức thứ 6, năm Chính Hòa thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 7 và một số nhận định về bối cảnh biên soạn các khoán ước nói trên.

2.1 Khoán ước năm Hồng Đức thứ 6 (1475).

a). Quy định có liên quan đến việc phân bổ và vai trò của các làng xã trong các dịp lễ tế ở miếu của tổng.

b). Quy định có liên quan đến vai trò của các làng xã khi tu sửa thần vị.

c). Quy định có liên quan đến sự giúp đỡ, tương trợ, bảo vệ làng xóm đất đai, đặc biệt những lúc mùa màng thu hoạch của các làng xã trong tổng.

Như mọi người đã biết, vào những năm Hồng Đức là thời kì xác lập trật tự pháp lệnh ở Việt Nam(2). Căn cứ vào điều luật hạn chế lập khoán ước vào thời Hồng Đức, người ta khẳng định rằng việc dân gian lập khoán ước đã phổ biến vào thời Hồng Đức(3), nhưng tôi chưa biết văn bản khoán ước của thời kì này hiện nay có còn hay không ? Với ý nghĩa đó có thể nói việc dẫn lại khoán ước cũ tuy mang tính cục bộ, nhưng những thông tin của sử liệu (khoán ước) đó rất quan trọng. Có thể thấy cuối thế kỷ thứ XV những điều luật quan trọng về việc phân bổ và vai trò của các làng xã trong tế lễ, bảo vệ làng xóm, đất đai đã được chế định.

Một điểm quan trọng hơn, ở quy định c như đã nêu trên có ghi, mặc dù đã có những quy định về ranh giới các làng xã, nhưng thực tế tổng là đơn vị hành chính cao hơn vẫn tồn tại với tính nhất thể, ở đó người ta vẫn phải cùng nhau xử lí công việc. Vấn đề ở đây là đơn vị tổng. ở thế kỷ XV, xã là đơn vị hành chính cao nhất thì tổng hầu như không tồn tại. [Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) , điều tháng 4, năm Hồng Đức thứ 21](4). Nhưng ở đây tên gọi tổng vẫn được người biên soạn khoán ước năm Chính Hòa thứ 5 sử dụng trái với tên gọi hành chính thời bấy giờ. Khoán ước năm Hồng Đức thứ 6 được dẫn trong khoán ước năm Chính Hòa thứ 5, nếu nói là được dẫn lại thì có lẽ nên coi nó bao hàm cả sự giải thích của người biên soạn khoán ước năm Chính Hòa thứ 5. ở chỗ đó vẫn cần thiết phải có chú ý. Nhưng điều đáng nói ở đây là tên gọi tuy không rõ ràng nhưng hình như trước năm Hồng Đức thứ 6, đơn vị hiệp đồng mở rộng tương đương với phạm vi tổng Đại Phùng sau này đã tồn tại. Trong những năm Hồng Đức, người ta đã nhấn mạnh đến việc lập ra các đơn vị được gọi là xã với tư cách là đơn vị hành chính từ trên xuống(5). Từ việc cần thiết phải sửa lại các quy định về phân công trách nhiệm hoạt động của các xã trong đơn vị hiệp đồng trước đây do có sự phân chia các đơn vị như xã trong các đơn vị hiệp đồng từ trước tới nay, người ta đã phải lập ra khoán ước vào năm Hồng Đức thứ 6. Trong điều a ghi, quyết định việc phân bổ và vai trò của các xã trong việc tế lễ khi miếu được xây dựng vào năm Hồng Đức 6, nhưng thực tế có thể thấy trước đó đã tồn tại phạm vi tế lễ rộng lớn đối ứng với đơn vị hiệp đồng như trên đã ghi.

Còn một bối cảnh nữa để dẫn đến việc lập khoán ước năm Hồng Đức thứ 6 là việc phát triển học vấn của địa phương này. Sau thời kỳ Hồng Đức, năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), Lương Khản người xã Phượng Trì đã đỗ Tiến sĩ(6). Cũng chẳng khó tưởng tượng vì sao vào những năm đầu Hồng Đức, trí thức ở địa phương này đã hăng hái tham gia việc khoa cử mà Lê Thánh Tông mở rộng và kêu gọi.

2.2. Khoán ước năm Chính Hòa thứ 5 (1684)

a). Quy định liên quan đến vai trò của các làng xã trong việc tế lễ cầu phúc ở tổng.

b). Quy định liên quan đến vai trò của các làng xã trong việc đón tiếp quan khách đến dự lễ tế xuân ở tổng.

c). Quy định liên quan đến vai trò của các làng xã trong việc tu sửa thần vị của tổng.

d). Quy định xử phạt những người có hành vi cưỡng hiếp, tập trung đồ đảng ở các làng xã trong tổng.

e). Quy định thưởng cho những người bắt được kẻ gian, xử phạt những kẻ trộm cướp do dân các xã bắt được.

f). Quy định liên quan đến việc đối xử ở mức tổng đối với trộm cướp vào các làng xã.

g). Quy định nghĩa vụ cứu trợ của các làng xã những lúc khẩn cấp như tin báo hỏa hoạn đêm khuya, có trộm cướp.

h). Quy định liên quan đến việc đắp bờ ruộng ở các làng xã trong tổng.

i). Quy định xử phạt đối với việc phá hoại bờ ruộng và đê điều ở các làng xã trong tổng.

k). Quy định liên quan đến việc bắt đầu vụ thu hoạch ở các làng xã trong tổng.

l). Quy định liên quan đến việc bầu người đứng đầu ở các làng xã trong tổng.

m). Quy định liên quan đến quyền sở hữu thu hoạch hoa màu ruộng đất của các làng xã trong tổng.

n). Quy định bồi thường thóc gạo, hoa màu bị mất mát (quy định bổ sung theo khoán ước cũ)

Tổng Đại Phùng đã xuất hiện trước năm Chính Hòa thứ 5. Đây có lẽ là bản quy ước đầu tiên với tư cách là đơn vị tổng. Cũng không thể nói chính xác bởi không biết toàn bộ bản khoán ước năm Hồng Đức thứ 6, nhưng chúng tôi cho rằng từ việc có liên quan đến trị an, có thể thấy những quy định cụ thể mới đã được xác lập.

Vào những năm nửa sau thế kỷ XVII, dưới chính quyền họ Trịnh là thời kì Nho giáo được phục hưng, có thể thấy rõ điều này qua "Giáo hóa tứ thập thất điều" (47 điều mục Giáo hóa) ở những năm Cảnh Trị đầu (1663)(7). Năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) xã Mộ Trạch, trấn Hải Dương là một làng "siêu" ưu tú đã tổ chức biên soạn khoán ước. Thời kì nhà Lê ở xã Mộ Trạch có tới hơn 30 người đỗ Tiến sĩ. Xã Dương Liễu thuộc tổng Dương Liễu giáp với tổng Đại Phùng (cùng phủ Quốc Oai) năm Cảnh Trị thứ 4 (1666) cũng đã tổ chức biên soạn khoán ước và bổ sung khoán ước vào các năm Cảnh Trị thứ 6 (1668), Cảnh Trị thứ 8 (1670) và Chính Hòa thứ 12 (1691). Khởi xướng biên soạn và bổ sung các lần đó là do hai Tiến sĩ. Hai người này đã tiến hành biên soạn khoán ước sau khi họ đỗ Tiến sĩ được vài năm (đó là các ông Phí Đăng Nhiệm, đỗ Tiến sĩ năm Vĩnh Thọ thứ 4 (1661) biên soạn khoán ước năm Cảnh Trị; ông Nguyễn Danh Dự, đỗ Tiến sĩ năm Chính Hòa thứ 6 (1685), biên soạn khoán ước năm Chính Hòa). Nếu là những thôn lân cận thì cũng có những khoán ước chỉ ở mức độ "xã" như khoán ước xã Dương Liễu, nội dung khác xa với khoán ước tổng Đại Phùng (như là các quy định có liên quan đến sự thay đổi địa vị, thứ bậc trong thôn, quy định có liên quan đến công tô công khóa, quy định có liên quan đến phân phối công điền v.v...).(8)

Việc lập khoán ước của tổng Đại Phùng có lẽ có liên quan đến xu hướng của thời đại bấy giờ. Ông Tạ Đăng Vọng, người kí đầu tiên trong phần đầu khoán ước là người xã Đại Phùng, đỗ Tiến sĩ năm Chính Hòa thứ 4 (1683). Không phải ngẫu nhiên ông biên soạn khoán ước vào năm sau. Con trai ông Tạ Đăng Vọng là Tạ Đăng Huân đỗ Tiến sĩ năm Chính Hòa thứ 21 (1700), cháu là Tạ Đăng Thọ cũng đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760). Trần Đồng là người xã Đan Phượng đỗ Tiến sĩ năm Long Đức thứ 2 (1733)(9).

2.3 Khoán ước năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781)

a). Quy định phạt với những người chậm trễ, hoặc vắng mặt khi có tin báo hỏa hoạn, trộm cướp.

b). Quy định cảnh giác với sự xâm nhập của những nhóm vũ trang tự xưng làm công vụ.

c). Quy định cảnh giác với những người nguy hiểm có ý chống đối.

d). Quy định ngoài những cảnh báo ban đêm, cấm không được dùng tù và hoặc các hiệu lệnh khác.

Vào những năm Cảnh Hưng, tổng Đại Phùng đổi thành tổng Đan Phượng Thượng, không rõ lí do.

Khoảng giữa thời Cảnh Hưng (1740-1786) là những cuộc nổi dậy của nông dân khắp một dải Bắc bộ. Từ năm 1744-1751 ở tỉnh Sơn Tây, trị an bị uy hiếp bởi quân nổi dậy do Nguyễn Danh Phương đứng đầu. Sau cùng, vào năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770), cuộc phản loạn của Lê Duy Mật có căn cứ ở Xieng Khouang (Lào) đã được trấn áp. Sau đó trong khoảng mười mấy năm, ở Bắc bộ hầu như không có các hành động quân sự lớn. Nhưng vào năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), ở Bình Định vùng Trung bộ, ba anh em nhà Tây Sơn đã nổi dậy. Năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774) nhân lúc họ Trịnh đưa quân xuống phía Nam, họ Nguyễn đã lật đổ chính quyền. Khoán ước này được lập trước khi Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tấn công ra Bắc, năm Cảnh Hưng thứ 47 (1786), nhưng nó cũng đã kịp phản ánh tình hình bất ổn của xã hội. Xã Dương Liễu bên cạnh cũng liên tục bổ sung khoán ước vào những năm: năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739), Cảnh Hưng thứ 10 (1749), Cảnh Hưng thứ 15 (1754), Cảnh Hưng thứ 21 (1760). Và có thể thấy những quy định đều có liên quan đến duy trì trị an, tuần tra ở các thôn(10).

Liên quan đến điều thứ 2 trong khoán ước, ĐVSKTT ghi những việc như sau: Năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) ở các trấn có những tay hung hãn xảo quyệt, mượn danh Tuần huyện, Tri tổng, Tuần thám được đặt ra thời bấy giờ làm ra vẻ đi kiểm tra các nơi để trộm cướp, vì vậy chính quyền cấm chỉ đặt các chức danh trên [ĐVSKTT, điều tháng 11 năm Vĩnh Hựu thứ 5](11). Năm Cảnh Hưng thứ 34 (1773), khi các cuộc hỗn loạn đã chấm dứt vào nửa trước thời kì Cảnh Hưng, trong dân chúng số người được ban thưởng chức tước do có công lao đánh dẹp tăng lên, nhân lúc đó, việc mượn danh chức sắc đã trở nên phổ biến, số chức sắc trong các thôn và số bạch đinh (người dân bình thường) đã tương đương nhau, vì vậy chính quyền phải tiến hành thẩm tra tư cách của các chức sắc [Điều tháng 5 năm Cảnh Hưng 31 và điều tháng 4 năm Cảnh Hưng 34 trong ĐVSKTT](12). Năm Cảnh Hưng 44 (1783) cũng có chỉ thị cho các quan địa phương nhằm hạn chế sự chuyên quyền của một số thế gia địa phương như lấy thuế thông hành...(13).

Trong Khoán ước tổng Đại Phùng có sắc phong các thần của tổng Đại Phùng vào năm Tự Đức 33 (1880) nhưng không có khoán ước của triều Nguyễn, hoặc có thể vì lí do nào đó mà khoán ước triều Nguyễn bị thất lạc. Tôi cho rằng có khả năng nó đã không được biên soạn. Trong bài viết này, tôi đã đề cập đến mối liên quan giữa các vị Tiến sĩ và việc lập khoán ước thời Lê, và ở triều Nguyễn tổng Đại Phùng đã không thành công trong việc phát triển học vấn. Xem trong Quốc triều hương khoa lục, thời kì nhà Nguyễn, các bậc hậu sinh ở tổng Đại Phùng chỉ một người đỗ Tiến sĩ vào năm Thành Thái thứ 4 (1892) (Tạ Văn Cán là người xã Thu Quế). Ngoài ông này ra ngay cả Cử nhân cũng không có ai thi đỗ(3*). Vấn đề lập khoán ước có liên quan đến khoa cử ở triều Nguyễn cần được đi sâu nghiên cứu(4*), nhưng từ tình hình của thôn mang tính cá biệt này, có thể suy đoán rằng do không có những người có lực hướng tâm như các Tiến sĩ của thời Lê nên cũng không có ai có khả năng khởi xướng, tập hợp dân để bàn về việc lập khoán ước mới, họ có lẽ không thể bàn thêm gì được về những quy ước được lập ra trong tay của các tiền nhân "vĩ đại". Có lẽ chúng ta phải chờ kết quả phân tích các văn bản hương ước được thu thập khá phong phú ở thế kỷ XIX trong sự triển khai bàn về mối liên quan giữa sự di chuyển trung tâm mang tính học vấn (mang tính chính trị ?) với việc lập khoán ước của xã hội Bắc bộ thế kỷ XIX.

Toàn văn khoán ước

A. Quan viên các xã: Đan Phượng Thượng xã, Đan Phượng Hạ xã, Phượng Trì, Đại Phùng, Thu Quế, tổng Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Phủ Quốc Oai là ông Tạ Đăng Vọng bậc quí quan bản triều, ông Huyện thừa Nguyễn Thế Bảng, ông Giám sinh Nguyễn Kim Toàn và các ông Nguyễn Thế Doanh, Nguyễn Quý Nhã, Bùi Đăng Phượng, Nguyễn Đình Thiệm, Trùm xã thôn trưởng ông Nguyễn Quế, Nguyễn Thế Hào, Nguyễn Quốc Bảng, Chu Hữu Tài, Nguyễn Văn Hưng, Phạm Khắc Minh, Tạ Duy Sĩ, Bùi Kim Anh, Nguyễn Công Trữ, Nguyễn Tuyển Si, Nguyễn Hữu Phú, Nguyễn Hữu Dung, Bùi Viết Phú, Trần Đình Như, Nguyễn Khắc Phục, Tạ Đăng Khoa, Tạ Đăng Khiêm, cùng lớn nhỏ toàn tổng lập khoán ước.

Từng nghe, nước có kỉ cương, có thưởng có phạt. Khoán ước của dân, đề cao việc thiện, trừng phạt gian tà. Lí ở chỗ kịp thời, coi đó là trước tiên, việc thay đổi phải nên gấp. Nguyên tổng ta triều trước đã có khoán ước (có sao lại bản năm Hồng Đức thứ 6 dưới đây), từ đó tổng ta tuân hành, nhất nhất không dám sai cũng đã trải qua nhiều năm. Trong khoán ước trên có điều còn sơ giản, chưa được rõ ràng, cũng không biết có bao nhiêu điều. Vả lại lâu ngày bị mối mọt, giấy rách mực nhạt, không còn rõ chữ. Nay mọi người trên dưới tổng ta chọn ra chỗ nào đáng lấy thì lấy (lấy ra 4, 5 điều), chỗ nào không đáng thì bỏ đi. Các điều kê khai dưới đây:

Khoán ước tổng ta có tất cả 12 điều. Kê như sau:

B.- Các xã thôn tổng ta cùng phụng sự cầu phúc năm mới. Tổng ta từ các triều trước trở lại đây [xem chú i ở phần C] các việc phụng thờ tế lễ hàng năm nhất nhất theo như thôn Đông Khê, không được làm trái cũng không được khiếm khuyết. Các viên đô quan theo như lệ cũ, quan viên, trùm trưởng trước ngày cầu phúc phải trai giới sạch sẽ, mũ áo tề chỉnh. Sáng sớm chuẩn bị rước đồ thờ phụng, đến trước cửa miếu, đến giờ yết thần nghênh ngai lên kiệu; xã thôn nào thiếu quan đô, tróc một quan tiền cổ, thiếu người khiêng kiệu tróc năm mạch tiền cổ, thiếu quan viên, mỗi người tróc một mạch tiền cổ.

- Lễ tế xuân là để cầu mạch nước dài lâu, dân cư yên ổn. Hàng năm đến kì trọng xuân các quan tế lễ các xã thôn cùng tề tựu trước cửa miếu, phân bổ định liệu mua sắm đồ tế khí như nghi thức. Các quan viên, trùm xã, thôn trưởng trước ngày hôm đó phải trai giới sạch sẽ, tề tựu đến cửa miếu, đón tiếp tế quan túc yết, sớm hôm sau lễ hậu quan hầu như nghi thức. Nếu xã thôn nào, trước đã giao khoán rồi, sau lại thoái thác, bỏ, thiếu lễ vật thì tổng ta trình lên quan trên, theo đó tróc một quan tiền cổ, bắt làm lại theo bổn phận.

- Tổng ta có có một vị Thượng đẳng thần, tại địa phận thôn Đông Khê. Như có thay đổi gì, tổng ta cùng chịu, y như lệ cũ [xem chú ii phần C]. Nếu xã thôn nào thiếu người, cho phép thôn Đông Khê hỏi tróc phạt.

- Các xã thôn tổng ta, có người nào chứa chất bọn gian, sau lại dung túng cướp bóc, nhiễu hại dân lành, nếu tra được bằng chứng, trình lên cấp trên trừng trị, tổng ta căn cứ vào khoán ước, tùy theo xử tội, các quan bất kể ai cũng phạt như vậy.

- Các xã thôn tổng ta, nếu có ai, đêm thường cướp trâu bò, gà lợn, hoa mầu, hoa quả, gia tài của cải, nếu có người nào khỏe bắt được làm bằng chứng thì tổng ta sẽ thưởng cho người xã thôn đó một quan tiền. Phạt kẻ gian thì tùy theo nặng nhẹ. Như có người xã thôn nào nể tình nhận hối lộ, đã bắt lại tha riêng sẽ phạt người đó như kẻ gian để làm nghiêm trong tổng. Số tiền thưởng phạt là bốn quan, xã đó được nhận.

- Các xã thôn tổng ta, người nào khỏe có thể bắt được kẻ gian, nếu nhỡ quá tay thì phải hô hoán gọi hàng xóm, cùng biết để đi báo. Tổng ta xem xét thực chứng, nếu đúng là kẻ gian, tổng ta cùng nhận, để khiến người đi bắt kẻ gian tin phục, nghiêm theo điều ước.

- Tổng ta nhiều năm đã bị các nạn lũ lụt, hỏa hoạn, trộm cắp, đêm khuya nghe thấy tiếng kêu phải đánh trống liên hồi, rúc tù và và gõ mõ, mọi người ai nấy phải đốt đuốc, truy đuổi đến nơi đó. Người nào vắng mặt phạt một quan tiền để nghiêm theo khoán ước.

- Các xã thôn trong tổng, hễ có bờ vùng bờ thửa, khi xuân sang phải bồi đắp cẩn thận để tiện cho việc đi lại. Hè đến phải be bờ giữ nước đề phòng hạn hán. Nếu xã thôn nào không theo khoán ước và người nào tự tiện khai đào, đến kì tổng ta sẽ kiểm tra, nếu đúng sẽ phạt một con lợn, một vò rượu, cộng chuẩn tiền cổ là một quan năm mạch.

- Các xã thôn trong tổng hễ có người nào mở rộng canh tác lấn vào bờ vùng bờ thửa, tự tiện đào đất trên đê, hoặc hạ thấp làm thấm nước ruộng, phạt một quan tiền.

- Xã thôn nào trong tổng ta, hễ lúa chín vào tháng mười như đã cam kết cùng nhau thu hoạch. Nếu người nào không tuân theo khoán ước tư tình gặt trước, tự thả trâu bò, gây rối đồng điền, tổng ta phạt một quan tiền cổ. Nếu ngoài địa phận thì không cấm.

- Xã thôn nào trong tổng ta hàng năm đều có người tri thôn là người đứng đầu hương đảng. Nếu xã thôn nào có bầu cử, nên chọn người tốt, có tuổi mới có thể ghi bầu. Nếu xã nào tự tiện cắt sai người thường làm, không đặt trùm khán thì tróc một quan tiền cổ.

- Các xã thôn trong tổng hễ là các vật như hoa quả, cá ốc, cỏ rả trên các ruộng quan, ruộng tư do chủ ruộng quản lí, khi làm phải có bằng cứ và xin người làm chứng. Nếu người nào tự tiện lấy làm của riêng, nếu có người tố cáo, tróc một quan tiền cổ [chú iii phần C]

- Tổng ta nay lập thêm một điều, tất cả việc thóc lúa, hoa màu mọi việc đều phải giữ nghiêm. Nếu bị mất ở địa phận xã nào thì địa phận đó phải bồi thường, theo đúng như lệ. Bồi thường và thưởng phạt, cộng số tiền một quan (đây là điều giao mới).

Lập khoán ước vào ngày 20 tháng 11 năm Chính Hòa thứ 5 (1684)
Trần Quế kí

C. i - Năm Hồng Đức thứ 6, tổng ta cùng lập miếu vũ, khắc tô một tòa Thánh vị tại xứ Đề Tân thuộc địa phận Đông Khê để toàn tổng phụng thờ. Hàng năm ngày nhập tịch 12 tháng 3 cùng phụng nghênh xây dựng hạng sở, như lệ các xã thôn trùm trưởng họp bàn chọn nơi sạch sẽ, lấy bài đo lường dài ngắn rộng hẹp để hàng rào được bằng nhau. Hai tấm bên cửa kiệu phân cho Đoài Khê và Thụy ứng cùng làm. Chính ngự và đồ tế khí, phân cho Đông Khê làm. Bốn gian tả hữu hai bên phân cho Đại Phùng và Thu Quế. Bài trí đô sở phân cho Phượng Trì. Mỗi xã thôn chọn cử 2 đô quan. Các hạng đinh nam trung phụng nghênh đồ tế khí, chuẩn y theo sự phân công của làng Đông Khê.

- Nghi thức tế lễ: Xã Đan Phượng Thượng viết văn, xã Đan Phượng Hạ đọc tế văn, còn các xã khác như có phẩm hàm không được tranh giành, phải phân thành các hàng chủ viên, bồi viên, trùm trưởng. Đông tây xướng đọc thì Đương thứ, Tổng mục phải chấp sự. Các xã thôn luân phiên nhau, không được hỗn tạp để nghiêm việc tế tự.

- Lễ vật: Thuần dùng các loại đuôi cứng [như trâu, bò, lợn - ND], giá cổ tiền 4 quan. Các xã thôn luân phiên cùng làm. Phải lấy cân trung bình làm chuẩn. Người nào vi phạm sẽ bị phạt 3 mạch tiền cổ. Sau khi lễ xong, thủ giao cho các vị trùm trưởng, Khoanh cổ giao cho các vị khán thủ, các vị viết, đọc văn tế và các vị đông tây "xướng" mỗi bên được biếu đôi chân giò. Số còn lại chia làm 9 phần, Đông Khê được hai phần (đến khi vua Lê Túc Tông lên ngôi, dụ chuẩn bách thần, cho phép phụng thờ đầu xuân, tổng ta lại họp bàn thay đổi, lấy ngày 12 tháng giêng làm ngày phụng thờ).

ii - Chiểu theo năm Hồng Đức thứ 6, thôn Đông Khê tu sửa Thượng tòa, các xã thôn khác tu sửa Hạ tòa.

iii - Nguyên lại vào năm Hồng Đức thứ 6, toàn tổng họp giao các xã thôn chia đều địa giới, nhưng thực vẫn như một ấp. Nếu có việc gì xẩy ra cùng bảo vệ, giúp đỡ nhau để tỏ rõ nghĩa khí. Thôn ấp cùng ruộng, hỗn cư hỗn canh, cùng làm cùng dựng, không có phân biệt. Nhà cửa, ruộng màu chỗ nào cũng phải nghiêm ngặt giữ gìn, đề phòng kẻ gian bên ngoài xâm nhập. Lại vào những lúc mùa màng thu hoạch, tổng mục và khán thủ các xã thôn dựng điếm tuần tra, cho đến khi xong công việc, không để sót lượm lúa nào, để dân được trông mong. Nếu xã thôn nào có người sơ sài bỏ nhiệm vụ, phạt cai khán thủ một quan cổ tiền để giữ nghiêm việc ruộng đồng.

D. - Các quan viên sắc mục, trùm xã thôn trưởng cùng trên dưới toàn tổng Đan Phượng Thượng, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai lập khoán ước.

- Tổng ta cùng luận, hễ có lũ lụt, hỏa hoạn trộm cắp, theo như trước việc tuần phòng đã có cựu ước. Nhiều lần xem lại bản cũ, từ nay về sau kịp thời trình sức. Địa phận xã thôn nào nếu có hỏa hoạn lập tức phải đánh trống, rúc tù và liên hồi làm hiệu. Như thấy trộm cắp vào chỗ nào chỉ cho phép chỗ đó thổi tù và liên hồi làm hiệu, các xã thôn chuẩn theo khoán cũ, lập tức đến cứu. Những người đến chậm khi có hỏa hoạn tróc phạt ba quan tiền cổ. Những người đến chậm khi có trộm cướp tróc phạt 10 quan tiền cổ. Tiền thưởng và tiền bồi thường theo như khoán cũ.

- Xã thôn nào trong tổng ta nếu có người tự xưng công sai, đem theo người và khí giới ngang nhiên vào làng, xã dân nếu không phân biệt được thật giả, không kể ngày đêm, lập tức mật trình tổng trưởng luân báo các xã thôn. Quan Khán thủ đem 10 trai tráng các xã cùng gậy gộc lập tức đến chỗ đó để đề phòng có nguy biến. Thảng hoặc có sinh sự thế nào, tổng ta cùng chịu. Đợi thẩm tra đúng việc công mới được giải tán. Nếu xã nào vắng người, tróc phạt năm quan tiền cổ.

- Các xã thôn tổng ta, hoặc có người nào trộm cắp, tuy chưa rõ bằng chứng, nhưng đáng nghi ngờ cho phép xã thôn khán thủ xã trưởng xã đó nhắc nhở để ngừa gian manh. Nếu rốt cuộc không thay đổi, đêm hôm vô cớ rình mò, nếu bắt được thì Tổng trưởng, Khán thủ tùy việc mà xử trí. Gần đây có những kẻ du thủ du thực, không theo trật tự trên dưới trong hương đảng, trong thôn nếu ai chứa chấp, tróc 3 quan tiền cổ.

- Các xã thôn trong tổng, đêm khuya nếu không có xẩy ra việc lớn như lũ lụt, hỏa hoạn, trộm cắp thì không được rúc tù và. Nếu không tuân theo tróc 5 quan tiền cổ.

Lập ước từ ngày 18 tháng 12 năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781).

CHÚ THÍCH

1*. Hiện tại có một số giả thuyết cho rằng trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII hương ước trước hết được lập ở một số làng tiên tiến, sau đó một thời gian dài tới thế kỷ thứ XIX mới được phổ cập ở các nơi khác(12).

2*. Về tên gọi quy ước làng xã, có rất nhiều cách như hương ước, khoán ước, tục lệ... Về vấn đề này chúng tôi không bàn ở đây. Trong bài viết này chúng tôi dùng từ hương ước chỉ chung các quy ước của làng xã, trong văn bản cá biệt có chỗ dùng từ theo thuật ngữ của sử liệu.

3*. Mộ Trạch và Dương Liễu là hai xã trong thời nhà Nguyễn cũng có sự suy thoái về học vấn tương đối giống nhau. Xã Mộ Trạch triều Nguyễn chỉ đỗ 9 Cử nhân, có thể nói tuy là làng xã tiên tiến nhưng lại không có người nào đỗ Tiến sĩ nên không thể so sánh với triều Lê được. Xã Dương Liễu cũng chỉ có 2 người đỗ Cử nhân. Về hương ước của xã Mộ Trạch và xã Dương Liễu chỉ mới thấy giới thiệu bản dịch qua các bài nghiên cứu, theo các bài giới thiệu đó thì chưa có sự bổ sung hoặc cải đính gì ở triều Nguyễn (13)(14).

4*. Như chú thích 1 có thể suy đoán ở triều Nguyễn đã phổ cập rộng rãi hương ước tới các làng kể cả làng không có người đỗ Tiến sĩ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Shimao Minoru: Việc tái biên liên kết các dòng họ ở làng xã Bắc Bộ Việt Nam thời kì thực dân, trong sách Sự kết hợp cùng dòng họ với dòng phụ hệ ở Đông Nam châu Á trong việc tái cấu trúc huyết thống. Yoshihara Katsuhara, Suzuki, Suenari chủ biên. Nxb. Fukyosha. 2000, tr.213-254.

2. Katakura: Nghiên cứu có tính cơ sở pháp luật Việt Nam thời tiền cận đại. Nxb. Fukan, 1987, tr.122, 123.

3. Bùi Xuân Đính: Hương ước và quản lí làng xã. Nxb. KHXH, 1998, tr.28.

4. Trần Kinh Hòa: Hiệu hợp bản Đại Việt sử kí toàn thư (Trung). Trung tâm văn hiến Đông Dương học thuộc Viện Nghiên cứu Đông Dương Đại học Tokyo. 1985, tr.738.

5. Sakurai Yumio: Sự hình thành làng xã Việt Nam. Nxb. Kuzama, 1987, tr.168-170.

6. Ngô Đức Thọ (chủ biên): Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Nxb. Văn học, 1993, tr.259.

7. Taylor: The Literati Revival in Seventeenth - centuyry Vietnam. Journal ò Southeast Asean Studies 18(1), pp 1-22.

8. Bùi Xuân Đính: Lệ làng phép nước. Nxb. Pháp lí, 1986, tr.232-262.

9. Ngô Đức Thọ (chủ biên): Sđd, các trang 615, 632, 694.

10. Trần Kinh Hòa: Hiệu hợp bản Đại Việt sử kí toàn thư (Hạ). Trung tâm văn hiến Đông Dương học thuộc viện Viện nghiên cứu Đông Dương Đại học Tokyo. 1986, tr.1172-1177.

11. Trần Kinh Hòa: Hiệu hợp bản Đại Việt sử kí toàn thư (Hạ), Sđd, tr.1191.

12. Shimao Minoru: Việc tái biên liên kết các dòng họ ở làng xã Bắc Bộ Việt Nam thời kì thực dân. Sđd.

13. Bùi Xuân Đính: Lệ làng phép nước. Sđd., tr.189.

14. Bùi Xuân Đính: Hương ước và quản lí làng xã. Sđd, tr.232-262.

Nguyễn Thị Oanh dịch
Shimao Minoru hiệu duyệt

TB

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VĂN BIA
THÔN BÁCH CỐC (VỤ BẢN, NAM ĐỊNH)

PHAN ĐẠI DOÃN

Làng Bách Cốc được thành lập từ bao giờ, hiện chưa có những chứng tích vật chất để khẳng định điều này. Cứ theo ghi chép của gia phả họ Nguyễn Công và gia phả họ Bùi thì làng Bách Cốc được thành lập vào thời Trần, đầu thế kỷ XIV. Có thể như vậy. Sang đầu thế kỷ XV, làng Bách Cốc phát triển khá thịnh vượng và đã có những đóng góp nhất định cho đất nước. Đó là trường hợp Bùi Ư Đài làm quan đại thần dưới thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều ghi: năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), Đồng tri bạ tịch Bắc Đạo Bùi Ư Đài dâng sớ trình bày bốn điều: "Điều thứ nhất đại ý nói: Xin bệ hạ bên trong thì kén chọn các bậc hoàng huynh, quốc hữu, am hiểu điển chế giữ làm nhập thị để khuyên răn nhắc bảo cho mình; bên ngoài thì đặt chức sư phó để làm cột trụ chỉ huy trăm quan.

Điều thứ hai đại ý nói: Những quan viên văn võ, quân lính và dân chúng trước kia bị tội đày đi các nơi, đó là cách trừng trị của tiên đế đối với chúng. Nay lại thấy chúng trở về làm quan, nắm quyền coi quân trị dân, thế là trái với ý của tiên đế, không hợp với đạo của trời đất".

Đề nghị của Bùi Ư Đài bị tể tướng là Lê Sát cực lực phản đối, lại được các đại quan Bùi Cầm Hồ và Lê Văn Linh ủng hộ. Vua Thái Tông buộc phải đày Bùi Ư Đài đi châu xa. Đến năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), Thái Tông bãi chức Lê Sát thì Bùi Ư Đài mới được tha, phục chức làm Tham tri Tây Đạo quân dân bạ tịch kiêm Đồng tri môn hạ tả ty sư.

Những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư đã khẳng định vị trí trong triều đình và nhân cách cao thượng của Bùi Ư Đài. Bài vị thờ Bùi Ư Đài ở đền Nhất Thôn ghi là: "Khai quốc công thần, Thái phó Bình quận công".

Những sự việc trên bổ sung tư liệu về nhân vật lịch sử Bùi Ư Đài, đồng hời cũng phản ánh sự phát triển của làng Bách Cốc vào đầu thế kỷ XV. Đấy cũng là cơ sở kinh tế - xã hội để Bách Cốc sang các thế kỷ sau phồn thịnh hơn, là một làng tiêu biểu điển hình cho làng xã đồng bằng sông Hồng vào thời Lê - Nguyễn.

Nét đặc sắc của "văn hóa làng" của đồng bằng sông Hồng là sự xuất hiện phổ biến văn bia vào thời Hậu Lê đến Nguyễn. Các làng xã ở Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, tuy số lượng nhiều ít có khác nhau, nhưng đều có hiện tượng xuất hiện văn bia. Nhiều như làng Vân ở Bắc Giang có trên 100 văn bia, Phù Ninh ở Gia Lâm - Hà Nội có trên 90.

Bách Cốc ở xứ Sơn Nam cũng vậy, nằm trong xu thế chung cùng xuất hiện nhiều loại bia làng. Khác với văn khắc trên gỗ, văn viết trên giấy, văn khắc trên bia đá có ý nghĩa đặc biệt. Trước hết là người viết và người giữ có ý thức bảo tồn "vĩnh cửu" loại hình văn bản này; đồng thời cũng muốn nó làm vật trang sức, tăng thêm vẻ đẹp, vẻ trang nghiêm cho nơi lưu giữ. Văn bia ở Bách Cốc cũng vậy, nó đã tạo cho Bách Cốc một nét văn hóa cổ kính rất đáng quý mà ngày nay cần trân trọng và bảo vệ.

Bách Cốc hiện có 35 bản văn bia (bao gồm cả Phú Cốc)(1). Trong đó hàng chục văn bia có số chữ từ 1000 đến hơn 2000 và cũng vài ba văn bia đã bị mờ hẳn. Văn bia sớm nhất là Hương Cái am bi lập vào năm Sùng Khang thứ 8 thời Mạc Mậu Hợp (1573); văn bia có niên đại muộn nhất là Hậu kỵ điều lệ bi văn ở nhà thờ họ Nguyễn Như, lập vào năm Bảo Đại thứ 16 (1941). Theo nhân dân địa phương thì còn có một số bia đá khác bị tiêu hủy, chủ yếu là bia chùa, bia đền. Còn bia các dòng họ, bia lăng mộ thì hầu như còn đầy đủ.

Căn cứ trên 35 bản văn bia còn lại, tôi phân chia chúng thành các chủng loại sau:

1. Văn bia về chùa . Bia chùa sớm nhất là Hương Cái am bi cũng là bia sớm nhất hiện có của Bách Cốc. Theo gia phả họ Nguyễn Công thì Hương Cái am thời Mạc chỉ là một thảo am nhỏ. Sau đó, am này là nơi thờ Phật của bà vợ cụ Bình Tâm người họ Bùi, mẹ của Phương quận công Nguyễn Công Triều. Không rõ am Hương Cái bị hủy mất vào lúc nào. Bia muộn nhất là Trần Công bi ký lập vào năm Khải Định thứ 7 (1922).

Hầu hết các văn bia về chùa của Bách Cốc đều có nội dung hậu Phật. Chẳng hạn văn bia Hương Cái am bi ghi rõ 4 người họ Vũ (2 nam 2 nữ) cúng vào chùa 4 sào đất và 1 mẫu ruộng. Văn bia này không nói về việc ký kỵ, còn phần lớn các văn bia khác đều khắc ghi tên họ người gửi giỗ, có nam và nữ. Chẳng hạn văn bia Nguyễn công hậu Phật bi ký, lập năm Cảnh Hưng thứ 40 (1780) ghi rõ hai vợ chồng Thản Thọ hầu Nguyễn Đình Dị và phu nhân cúng ruộng đất để hậu kỵ. Văn bia Trần công bi ký ghi rõ cúng ruộng đất vào chùa để ngày tết nguyên đán và ngày giỗ ông Trần Công Nhật (ngày 6 tháng 7) cùng ngày giỗ bà chính thất (ngày 1 tháng 10) được nhà chùa tiến hành cúng lễ. Như vậy chùa chiền là nơi tu hành của Phật giáo, cũng là nơi thờ cúng tổ tiên của một số gia đình.

2. Văn bia từ đường: Văn bia từ đường ở Bách Cốc có trên một chục. Hầu hết các dòng họ lớn như Nguyễn Công, Nguyễn Tài, Nguyễn Như, họ Vũ, họ Bùi... đều có. Riêng họ Bùi có đến 6 bản văn bia.

Nói chung, các văn bia từ đường đều ghi lại thể lệ cúng giỗ các vị tổ tiên, cùng ngày giỗ và ruộng đất dùng cho ngày giỗ. Riêng văn bia từ đường họ Bùi - Bùi tộc bi ký lập năm Minh Mệnh thứ 20 (1834) có ghi điều khuyến học như sau: người nào đó trong nội tộc họ Bùi dự thi trúng Tú tài thì được thưởng 5 quan; người nào trúng Cử nhân thì được 10 quan.

Sự xuất hiện văn bia từ đường thể hiện dòng họ ở Bách Cốc đã được củng cố khá chặt chẽ. Văn bia từ đường ở Bách Cốc hầu hết xuất hiện vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX). Vào thời Hậu Lê hiện tượng cúng tế tổ tiên ở Bách Cốc đã phổ biến, nhiều họ tộc đã có nhà thờ; văn bia hậu Thần, hậu Phật ở đây đã chứng tỏ tục thờ cúng tổ tiên rất thịnh hành, nhưng trong thời gian này không thấy có văn bia từ đường.

Các văn bia từ đường ở Bách Cốc đều có niên đại từ Minh Mệnh cho đến Bảo Đại. Riêng văn bia chi phái họ Nguyễn Công ngành ba không ghi rõ niên đại, nhưng câu đầu trong văn bia có ghi: “Đại Nam quốc, Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện…). Chứng cứ địa danh học Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, cho biết văn bia này chỉ xuất hiện từ năm 1831 trở về sau.

Hiện tượng xuất hiện văn bia từ đường ở Bách Cốc vào thời Nguyễn cho phép tôi nghĩ rằng vào thời Nguyễn, cộng đồng huyết thống tộc họ ở đây được củng cố hơn thời trước.

3. Bia lăng mộ: ở Bách Cốc có hai quan Thái giám thời Lê Mạt là Phương Quận công Nguyễn Công Triều và Bái Quận công Nguyễn Công Thiệu (hay là Nguyễn Công Vị). Lăng mộ Nguyễn Công Triều gọi là Lăng Đá tạo dựng năm Canh Thìn (1700). Văn bia về Nguyễn Công Triều Phụng tự hậu thần bi ký ở bên đền Quả Linh do Tiến sĩ cập đệ khoa ất Sửu người Đan Loan Vũ Phác Phủ và Đồng Tiến sĩ khoa Mậu Thìn người Hoa Cầu Nguyễn Thận Trai đồng biên soạn, lập vào năm Chính Hòa thứ 19 (1699). Gia phả họ Nguyễn Công cũng ghi lại một văn bia ghi công đức của Phương Quận công do Chu Danh Tể, Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1670) người xã Thiểm Ninh huyện Yên Dũng (Bắc Giang) soạn vào năm Chính Hòa thứ 12 (1691). Lăng mộ Nguyễn Công Thiệu gọi là Lăng Gạch có một hệ thống văn bia phong phú có văn bia của hai giáp Đông, Đoài, và bốn giáp, của tư văn xã Bách Cốc, của tư văn tổng Trình Xuyên (huyện Thiên Bản). Riêng văn bia mang đầu đề Nguyễn Công vị hậu thần bi ký cũng có 3 văn bản của ấp Nhì xã Bách Cốc, của thôn Thượng Linh xã Quả Linh, và của Tiểu Cốc.

Nội dung chung của văn bia Lăng Gạch là ghi nhớ công ơn của quan Thái giám có nhiều đóng góp với làng xã là Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, thượng trụ quốc, thượng trật, thị cận nội giám tư lễ giám tổng thái giám, tham đốc Đại tư đồ, Bái Quận công Nguyễn.

Các văn bia ở Lăng Gạch ghi rõ thể lệ cúng tế quan thái giám đại thần, một vị tiên hiền của xã, các ngày lễ tết trong năm và ruộng đất hương hỏa sử dụng trong các ngày lễ trên. Nếu nhiều bia chùa được gọi là hậu Phật thì loại bia này thường gọi là hậu hiền do các cộng đồng thôn giáp lập nên.

Một thông tin đáng lưu ý ở đây là xác định niên đại năm Mậu Thìn mà Nguyễn Huy Oánh, một danh sĩ Bắc Hà nổi tiếng về nghiên cứu kinh học, về văn thơ, đã từng đỗ Thám hoa năm dương lịch nào ? Văn bia Nguyễn Công Vị hậu thần bi ký của thôn Thượng Linh xã Quả Linh lập năm Vĩnh Khánh thứ ba ghi rõ là năm Tân Hợi (1731) dựng lập. Người soạn là Thám hoa khoa Mậu Thìn, Hình bộ hữu thị lang, người xã Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An(2) tước Nghiên Lĩnh bá Nguyễn Huy Oánh(3).

Văn bia Nguyễn Công Vị hậu thần bi ký của ấp Nhì xã Bách Cốc lập năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) cũng do Nguyễn Huy Oánh biên soạn (học vị, quan tước, quê hương như bia trên). Gia phả họ Nguyễn Công cũng ghi rõ bài văn bia của thôn Chiền xã Bách Cốc là do Thám hoa khoa Mậu Thìn Nguyễn Huy Oánh người xã Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang biên soạn năm Vĩnh Hựu thời Lê (1735-1740).

Tuy nhiên, các tài liệu như Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Lịch triều hiến chương loại chí (phân khoa mục chí) của Phan Huy Chú đều ghi Nguyễn Huy Oánh đỗ Thám hoa khoa Mậu Thìn thời Cảnh Hưng năm thứ 9 (1748). Bản dịch Bia nghè trường Giám trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 2-1995) cũng ghi như vậy(4). Các nhà nghiên cứu hiện nay cũng đều cho Nguyễn Huy Oánh đỗ Thám hoa vào năm này.

Vậy niên đại cụ thể chính xác của khoa Mậu Thìn mà Nguyễn Huy Oánh đỗ Thám hoa là năm dương lịch nào ? Vào khoảng thời gian này chỉ có hai năm Mậu Thìn là 1688 và 1748. Theo Văn bia ở Lăng Gạch thì năm Mậu Thìn là năm 1688 (vì năm 1731, Nguyễn Huy Oánh đã có học vị Thám hoa); còn theo các tài liệu như Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789) Nghệ An ký Lịch triều hiến chương loại chí thì năm Mậu Thìn là năm 1748. Bên nào chính xác, đó là vấn đề đặt ra để tiếp tục giải quyết.

4. Bia chân dung: Bia chân dung bằng đá xuất hiện vào thời Hậu Lê ở Kinh Bắc, ở Hải Dương… vào thế kỷ XVII – XVIII, như bia tượng Thái giám ở chùa Nành (Gia Lâm, Hà Nội) tạo năm Đức Nguyên thứ 2 (1675); bia tượng hậu cũng ở chùa Nành tạo năm Kỷ Dậu (1789); bia tượng hậu ở chùa Tĩnh Quang ở xã Từ Sơn, huyện Quế Dương (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh) tạo năm Vĩnh Trị thứ 3 (1673); bia tượng hậu hai vợ chồng ở chùa Mao Yên xã Hồng Mao, huyện Quế Dương tạo năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707).

Ở Bách Cốc hiện còn một bia chân dung tạo vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686), do quan viên hương lão thôn Chiền xã Bách Cốc dựng lập. Bia có chiều cao 1,20m (kể cả trán bia), chiều rộng là 0,70m và chiều dài là 0,21m. Riêng tượng chân dung phụ nữ khá đẹp, trang phục kiểu sư nữ.

Theo gia phả họ Nguyễn Công thì chân dung người được tạo là bà Bùi Thị Lư, trong văn bia ghi là Bùi Thị Muôn, vợ của cụ Bình Tâm, là mẹ của Phương Nham hầu, sau là Phương Quận công Nguyễn Công Triều. Bia tượng này có ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật đáng quý.

Sự xuất hiện văn bia làng Bách Cốc nói riêng và nông thôn đồng bằng sông Hồng nói chung là hiện tượng lịch sử xảy ra từ thời Mạc cho đến thời Nguyễn. Dường như trước đó chưa có. Đây là loại văn bia làng xã, của làng xã phản ánh một quá trình vận động phát triển của kết cấu và tổ chức xã hội nông thôn. Đó là kết cấu tự quản tự trị của làng xã ngày càng đậm đà, nặng nề. ở đây có cộng đồng thôn ấp, có cộng đồng giáp, có cộng đồng họ tộc, có quan viên hương lão, có tư văn. Các cộng đồng trên có tính địa vực, có tính huyết thống, có tính tuổi tác và vị trí xã hội; trong đó tính cộng đồng huyết thống và địa vực là nổi trội. Các loại cộng đồng trên cũng đồng thời tồn tại, đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau trong hoạt động của làng xã Bách Cốc thời đó.

P.Đ.D

CHÚ THÍCH

(1) Bài viết này dựa trên cơ sở tư liệu văn bia làng Bách Cốc của các đoàn học giả Nhật Bản và tư liệu của tác giả sưu tầm tại địa phương.

(2) Nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

(3) Theo ghi chép của tôi thì văn bia này còn một tác giả nữa là Đồng Tiến sĩ khoa Bính Thìn Chu Danh Tể người huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Khoa Bính Thìn là khoa thi năm 1676.

(4) Những câu mở đầu của văn bia khoa Mậu Thìn theo bản dịch lại ghi là khoa Bính Thìn.

TB

VIỆC KHẮC LẠI 12 BIA TIẾN SĨ
Ở VĂN MIẾU – HÀ NỘI

NGUYỄN THÚY NGA

Trước đây, trong chuyên đề Nghiên cứu văn bản học đăng khoa lục Việt Nam, chúng tôi có đề cập đến hiện tượng một số bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Hà Nội được dựng thời Lê sơ - Mạc, nhưng lại ghi một số địa danh thời Lê Trung hưng như tên các huyện: Thanh Trì, Vũ Giang, Yên Sơn, Thọ Xương, Duy Tiên, Tiên Phong, La Sơn, Phú Xuyên và một tên huyện đến đời Tây Sơn mới có (huyện Gia Lộc).

Chúng tôi đã thống kê tên của 9 huyện này xuất hiện 22 lần trên 8 tấm bia. Cụ thể như sau:

1. Tên huyện Thanh Trì xuất hiện trên bia 3 khoa:

- Đại Bảo 3 (1442): quê Nguyễn Như Đổ

- Cảnh Thống 5 (1502): quê Lê Sạn

- Hồng Thuận 3 (1511): quê Ngô Sĩ Kiện.

2. Tên huyện Vũ Giang xuất hiện trên bia 4 khoa:

- Đại Bảo 3 (1442): quê Trần Bá Linh

- Quang Thuận 7 (1466): quê Nguyễn Nhân Thiếp, Nguyễn Nhân Bị

- Hồng Đức 12 (1481): quê Nguyễn Tất Thông

- Hồng Đức 27 (1496): quê Nguyễn Huân, Nguyễn Đạo Diễn, Nguyễn Củng Thuận, Vũ Tiến Chiêu, Nguyễn Sở Thùy, Nguyễn Kính.

3. Tên huyện Yên Sơn xuất hiện trên bia 2 khoa:

- Hồng Đức 9 (1478): quê Nguyễn Địch Tâm

- Cảnh Thống 5 (1502): quê Đỗ Văn Hiệu.

4. Tên huyện Gia Lộc xuất hiện trên bia 4 khoa:

- Quang Thuận 7 (1466): quê Đoàn Lạn

- Cảnh Thống 5 (1502): quê Nguyễn Duy Minh

- Quang Thiệu 3 (1518): quê Đỗ Dương

- Minh Đức 3 (1529): quê Nguyễn Địch Giáo và Vũ Ngung.

5. Tên huyện Thọ Xương xuất hiện trên bia 2 khoa:

- Quang Thuận 7 (1466): quê Nguyễn Quang Lộc

- Hồng Đức 12 (1481): quê Nguyễn Thái.

6. Tên huyện Duy Tiên xuất hiện trên bia 2 khoa:

- Hồng Đức 27 (1496): quê Nguyễn Kiện Hy

- Minh Đức 3 (1529): quê Phan Tế.

7. Tên huyện Tân Phong xuất hiện trên bia khoa:

- Hồng Đức 27 (1496): quê Phạm Giới

8. Tên huyện La Sơn xuất hiện trên bia 2 khoa:

- Hồng Đức 27 (1496): quê Trần Tước

- Cảnh Thống 5 (1502): quê Trần Dực.

9. Tên huyện Phú Xuyên xuất hiện trên bia 2 khoa:

- Đại Bảo 3 (1442): quê Bùi Lôi Phủ

- Cảnh Thống 5 (1502): quê Nguyễn Ngạn

Trong chuyên đề đó, chúng tôi đã chứng minh những địa danh này được người đời sau đục sửa lại, nhưng chưa có bằng chứng cụ thể để xác định chính xác thời điểm xảy ra sự sửa chữa đó, mà mới phỏng đoán có thể sự việc xảy ra vào đầu triều Nguyễn(1).

Sau đó chúng tôi được biết trong khuôn viên Văn Miếu - Hà Nội, gần tường bên phải cửa Đại Thành có một tấm bia hình thức còn tốt, tên là Đề danh bi đình ký. Tấm bia này đã được Viện Viễn đông Bác cổ làm thác bản, hiện thác bản đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm(2), ký hiệu số N° 1328/a-b.

Bia có 2 mặt, khổ 1,29 x 0,83m. Trán bia chạm mặt trời, rồng; diềm bia chạm hoa lá, nét khắc đẹp, tinh xảo. Chữ khắc chân phương, sắc nét, đẹp, dễ đọc. Cuối mặt trước có dòng lạc khoản như sau: “皇 朝 嗣 德 拾 陸 年 拾 貳 月 初 陸 日” (Hoàng triều Tự Đức năm thứ 16, tháng 12 ngày mồng 6). Tấm bia này do Lê Hữu Thanh(3) 黎 有 聲, Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1851) lĩnh Bố chính sứ Hà Nội soạn. Tôn Thất Hàn, Thự hậu quân đô thống lĩnh Tổng đốc quan phòng Hà Ninh giám định. Đặng Tá(4), Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ lĩnh án sát sứ Hà Nội nhuận sắc. Trần Quang Luyện, người thôn Yên Ninh huyện Vĩnh Thuận đỗ Tú tài viết chữ.

Mặt trước bia là bài ký của Lê Hữu Thanh viết về việc sau khi đến nhậm chức Bố chính sứ Hà Nội, thấy cảnh tượng Văn Miếu bị hoang phế, các tấm bia thì đổ ngả nghiêng, rêu bám đầy; ông đã bàn với các quan đầu tỉnh Hà Nội lúc bấy giờ là Tổng đốc Tôn Thất Hàn và án sát sứ Đặng Tá, cùng quyên góp tiền để làm lại nhà bia. Đồng thời ông cũng đã cho làm một việc có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với di sản văn hóa này là dựng đặt lại các tấm bia đổ, khắc lại những tấm bia bị mờ. Trong bài ký, Lê Hữu Thanh viết: "gió táp mưa sa, cỏ lan rêu mọc, nét chữ mờ mòn, hơn mười tấm để tản mác, phần lớn loang lổ không thể đọc hết được... Tấm nào để tản mác thì dựng đặt lại, tấm nào mờ mòn thì đối chiếu mà khắc lại, để giữ lấy vết tích xưa vậy". Mặt sau là danh sách những người cúng tiến tiền bạc để dựng đình bia, trong đó có 3 vị quan đầu tỉnh Hà Nội là Tổng đốc quan phòng Tôn Thất Hàn, Bố chính sứ Lê Hữu Thanh, án sát sứ Đặng Tá và các vị làm quan ở các tỉnh như: Bố chính sứ Bắc Ninh Bùi Tuấn, Bố chính sứ Quảng Bình Bùi Duy Cơ, tất cả gồm 65 người.

Chi tiết "hơn mười tấm để tản mác, phần lớn loang lổ không thể đọc hết được... tấm nào mờ mòn thì đối chiếu mà khắc lại" (十 面 餘 零 星 散 立, 多 斑 駁 不 可 卒 讀 。 。 。 漫 漶 者, 校 而 鐫 之. Thập diện dư linh tinh tán lập, đa ban bác bất khả tốt độc... mạn hoạn giả, hiệu nhi thuyên chi) của bài ký đã gợi ý cho chúng tôi biết các tấm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu hiện nay, có hơn 10 tấm đã được khắc lại. Vì vậy mà chúng tôi đã rà soát lại toàn bộ bia Văn Miếu để tìm xem số bia được khắc lại chính xác là mười mấy tấm? Đó là bia của những khoa nào?

Qua nghiên cứu lịch sử dựng bia Văn Miếu, chúng ta biết các khoa thi đầu đời Lê sơ, từ khoa Đại Bảo 3 (1442) đến khoa Hồng Đức 15 (1484) được vua Lê Thánh Tông cho truy dựng vào năm Hồng Đức 15, gồm 10 tấm của các khoa sau: Đại Bảo 3 (1442), Thái Hòa 6 (1448), Quang Thuận 4 (1463), Quang Thuận 7 (1466), Quang Thuận 10 (1469), Hồng Đức 3 (1472), Hồng Đức 6 (1475), Hồng Đức 9 (1478), Hồng Đức 12 (1481), Hồng Đức 15 (1484)(5). Sau đợt truy dựng lớn này, các khoa thi tiếp theo ở đời Lê sơ phần lớn đều được dựng ngay trong năm có khoa thi (các khoa đời Hồng Đức, Cảnh Thống 2, Hồng Thuận 3 v.v...) hoặc được truy dựng sau một số năm (đời Tương Dực truy dựng 2 bia đời Đoan Khánh, đời Chiêu Tông truy dựng bia khoa Hồng Thuận 6, v.v...)(6). Nếu kể cả tấm bia khoa Cảnh Thống 5 (1502) sau này được nhà Mạc dựng lại (trùng lập) và bia khoa Quang Thiệu 3 (1518) đến năm Đại Chính 7 (1536) đời Mạc Đăng Doanh truy dựng thì cả 21 tấm bia Tiến sĩ đời Lê sơ(7) đều được dựng hoặc truy dựng ngay trong đời Lê sơ và đời Mạc. Nhưng 8 tấm đã bị mất nên hiện chỉ còn 13 tấm.

Đối với đời Mạc, như chúng ta đã biết, triều Mạc tổ chức được tất cả 22 khoa thi Tiến sĩ, nhưng chỉ có duy nhất một khoa Minh Đức 3 (1529) được dựng bia, và dựng ngay trong năm đó.

Những khoa thi đầu đời Lê Trung hưng, từ khoa Thuận Bình 6 (1554) đến khoa Khánh Đức 4 (1652), gồm 26 khoa thì phải đến năm Thịnh Đức 1 (1653) đời vua Lê Thần Tông, nghĩa là gần 100 năm sau mới được truy dựng một loạt. Sau đó, vào năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) đời vua Lê Dụ Tông, đợt truy dựng lớn thứ hai cho 21 khoa, gồm từ khoa Thịnh Đức 4 (1656) đến khoa Vĩnh Thịnh 11 (1715). Từ đó về sau, nói chung là khoa nào cũng được dựng bia ngay trong năm có khoa thi hoặc sau đó một vài năm. Đời Lê Trung hưng tổ chức 73 khoa thi, số bia được dựng là 68 tấm, có 5 khoa không được dựng bia(8). Những bia đầu đời Lê Trung hưng truy dựng đợt năm Thịnh Đức 1 (1653) kích thước không lớn lắm, chữ khắc nhỏ và nông, còn những tấm dựng sau này có kích thước lớn hơn (nhất là đời Cảnh Hưng, có bia khổ rất lớn: 2,05m x 1,35 m - khoa Cảnh Hưng 27, 2,05m x 1,37m - khoa Cảnh Hưng 37), chữ to, khắc sâu. Hơn nữa, thời gian lại không xa nên bia còn tốt, chữ đọc rất rõ, chúng tôi không nghĩ đến việc rà soát lại những tấm bia này mà tập trung chú ý vào bia đời Lê sơ - Mạc và đầu Lê Trung hưng.

Bia đời Lê sơ - Mạc và đầu đời Lê Trung hưng có kích thước không lớn lắm, chữ nhỏ, khắc nông, trải qua thời gian gần 4 thế kỷ nên không tránh khỏi hư hỏng mờ mòn. Lê Quý Đôn đã từng có nhận xét như sau: "Bia ở nước Nam ta chữ viết đã nhỏ, khắc lại nông, chân rùa cao, không che lợp gì, dầm mưa dãi gió, rêu mọc đặc cả, ngày lâu không thể đọc được rõ chữ". Ông cảm thán kêu lên: "Than ôi ! Người ta ghi tên vào vàng đá. Vàng đá cũng không phải là thứ không mục nát được"(9). Đó là nhận xét của ông về bia ở Việt Nam nói chung, nhưng nó cũng đúng với thực tế của bia Văn Miếu Hà Nội.

Qua nghiên cứu tìm hiểu, chúng tôi phát hiện thêm tên huyện đời Lê sơ và Lê Trung hưng còn có trên 3 tấm bia khác:

Trên bia đời Lê sơ:

1. Khoa Hồng Đức 9 (1478): quê Nguyễn Địch Tâm ghi là huyện Yên Sơn.

Trên bia đời Lê Trung hưng:

1. Khoa Thuận Bình 6 (1554): có tên huyện La Sơn quê Nguyễn Chiêu và huyện Thanh Trì quê Nguyễn Đức.

2. Khoa Chính Trị 8 (1565): có tên huyện Thanh Trì quê Đỗ Cảnh.

Ngoài ra, đối với bia khoa Thái Hòa 6 (1448), mặc dù không có hiện tượng thay đổi địa danh, nhưng chúng tôi cho rằng tấm bia này cũng đã được khắc lại. Vì qua nghiên cứu cả nguyên bản và thác bản, chúng tôi thấy toàn bộ bia đã mờ mòn, chữ lòe nhòe, nhưng một số nét chữ của lần khắc trước vẫn còn thấy rõ. Ví dụ chữ 天 (Thiên) trong tên phủ quê của Đinh Minh, nét mác của chữ cũ vẫn còn; chữ 寧 (Ninh) trong tên phủ quê của Trịnh Kiên, nét khắc mới chồng lên chữ cũ chưa cạo hết thành ra chữ bị nham nhở v.v...

Ngoài những chứng cứ về việc khắc sửa địa danh, chúng tôi còn nhận thấy trên một số bia vẫn còn dấu vết của lần khắc cũ để lại. Trên bia Đại Bảo 3, nhìn kỹ chữ Giang 江 thấy có một nét sổ mờ dưới chữ "công", ở chữ Trì 池 cũng có một nét sổ lờ mờ dọc qua thân bên phải. Hai chữ Giang 江 và Lộc 祿 trên bia khoa Quang Thuận 7 đều có nét khắc thô, rất dị dạng so với những chữ khác. Chữ Thọ 壽 nét khắc mới còn chồng lên nét chữ cũ. Cũng trên bia này còn có chữ Khê 溪 (xã Phúc Khê) khắc thành chữ Hồng 洪 với nét khắc thô, xấu và phía trên còn nhìn rõ bộ đầu của chữ Khê... Chữ Trì 池 nhìn rõ nét đục thô và mất nét mảnh ở cuối các nét mác. Bia Thái Hoà 6 nét khắc cũ của chữ Thiên 天, chữ Ninh 寧 vẫn còn làm cho chữ mới khắc chồng lên nhìn hơi nham nhở, có thể nhận ra ngay v.v...

Bằng những chứng cứ như đã nêu trên, chúng tôi xác định cả thảy 12 tấm bia đã được Lê Hữu Thanh cho khắc lại năm Tự Đức 16 (1863), gồm:

- Đời Lê sơ: 9 tấm, gồm bia các khoa: Đại Bảo 3 (1442), Thái Hòa 6 (1448), Quang Thuận 7 (1466), Hồng Đức 9 (1478), Hồng Đức 12 (1481), Hồng Đức 27 (1496), Cảnh Thống 5 (1502), Hồng Thuận 3 (1511), Quang Thiệu 3 (1518).

- Đời Mạc: 1 tấm, bia khoa Minh Đức 3 (1529).

- Đời Lê Trung hưng: 2 tấm, gồm bia các khoa: Thuận Bình 6 (1554), Chính Trị 8 (1565).

Số lượng này có lẽ cũng đã ứng với con số mà Lê Hữu Thanh ghi là "hơn 10 tấm".

Việc mà Lê Hữu Thanh gọi là "đối chiếu mà khắc lại" là việc người thợ khắc nhìn theo vết chữ còn đọc được trên bia, theo đó mà khắc đè lên vết cũ "cốt giữ lấy vết tích xưa vậy", vì thế bia được khắc lại khá chính xác. Việc một số tên huyện đời Lê sơ bị thay đổi trên bia có lẽ là do những chỗ đó bị mờ, người khắc biết đến địa danh quen thuộc đời Lê Trung hưng nên khắc điền vào chứ cũng không có ý thức sửa đổi toàn bộ. Điều đó lý giải vì sao trên cùng một bia, chỗ thì ghi địa danh đời Lê Trung hưng, chỗ lại vẫn để địa danh đời Lê sơ: bia Đại Bảo, chỗ ghi tên huyện Thanh Trì (quê Nguyễn Như Đổ), chỗ lại ghi Thanh Đàm (quê Nguyễn Đạt); bia Hồng Đức 9 vừa có tên huyện Yên Sơn (quê Nguyễn Địch Tâm) vừa có tên huyện Ninh Sơn (quê Vương Khắc Mại); bia Cảnh Thống 5 vừa có tên huyện Gia Lộc (quê Nguyễn Duy Minh), vừa có tên huyện Gia Phúc (quê Vũ Bá Huyên) v.v... Vả lại việc khắc lại do nhiều người đảm nhận nên chúng tôi cho rằng việc sửa tên địa danh là việc làm tùy tiện của từng người mà thôi.

Trên mỗi bia, ở phần bài ký và họ tên người thi đỗ chữ viết to hơn, sâu hơn nên dù có mờ mòn thì việc "đối chiếu" cũng không mấy khó khăn. Phần khó khăn nhất là dòng chữ ghi quê quán, thường được ghi "lưỡng cước" dưới mỗi tên người, chữ viết nhỏ lại nông nên nhiều khi mờ quá không nhận ra được nét chữ, cho nên đã có một số tên huyện bị sai so với nguyên khắc. Trên bia Thái Hòa 6 quê của Đinh Minh ghi là "huyện Vĩnh Ninh phủ Ngự Thiên". Thực ra huyện Vĩnh Ninh (sau đổi là Vĩnh Lộc) thuộc phủ Thiệu Thiên trấn Thanh Hóa chứ không phải phủ Ngự Thiên. Ngự Thiên là tên huyện đời Trần, thời thuộc Minh là huyện Tân Hóa thuộc phủ Trấn Man, thời Lê lại đổi tên là Ngự Thiên. Năm Gia Long 7 (1808) đổi là huyện Hưng Nhân, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Cũng cùng trong bia đó, quê của Trịnh Kiên người cùng huyện với Đinh Minh ghi đúng là "huyện Vĩnh Ninh phủ Thiệu Thiên". Có thể chữ "Thiệu" trong tên huyện quê của Trịnh Kiên còn nhận ra nét chữ nên người khắc lại không bị nhầm, còn chữ "Thiệu" trong tên huyện của Đinh Minh mờ, chỉ còn rõ chữ "Thiên" nên người khắc không nhận ra, lại liên tưởng đến tên huyện Ngự Thiên nên khắc nhầm. Trên tấm bia duy nhất của đời Mạc cũng có tên huyện bị khắc lại nhầm là huyện Quang Phúc (quê Nguyễn Hữu Hoán). Đời Mạc về trước không có tên huyện nào là huyện Quang Phúc. Các tài liệu đăng khoa lục đều ghi ông quê ở huyện Tân Phúc. Tân Phúc là tên huyện đời Lê sơ, đến Lê Trung hưng, do kiêng húy vua Kính Tông Lê Duy Tân (1600 - 1619) mà đổi thành Tiên Phúc. Người khắc lại bia muốn sửa tên huyện là Tiên Phúc, nhưng có lẽ do tự dạng của chữ tiên 先 và chữ quang 光 giống nhau nên đã khắc nhầm.

Tấm bia Đề danh bi đình ký thực sự là một tư liệu quý, nó đã làm sáng tỏ vấn đề có một số địa danh xuất hiện ngược hệ thống và hiện tượng có những nét chữ khắc chồng lên nhau nhưng vẫn còn nhìn rõ nét khắc cũ trên một số bia Văn Miếu đời Lê sơ - Mạc mà từ trước chúng tôi vẫn băn khoăn khi nghiên cứu. Chúng tôi xin cung cấp nguyên văn chữ Hán và bản dịch bài ký, còn mặt sau là phần ghi danh sách những người đóng góp để làm nhà bia thì chúng tôi chưa giới thiệu.

Phần chữ Hán:

題 名 碑 亭 記

昇 龍 古 都 城 也

文 廟 古 之 太 學 也 , 門 左 右 列 進 士 題 名 碑 。 上 朔 大 寶 壬 戌 , 下 迄 景 興 己 亥 。 今 見 存 八 十 二 面 。 僮 天 百 之 什 一 其 間 風 撞 雨 滴 , 草 翳 苔 蔓 , 字 刻 漫 漶 者 十 面 餘 。 零 星 散 立 , 多 斑 駁 不 可 卒 讀 。

聲 赴 蒞 來 玆 , 每 常 有 志 。 今 秋 事 稍 簡 , 乃 商 請 制 臺 暨 臭 臺 規 建 瓦 亭 , 每 邊 二 座 , 每 座 十 一 間 。 零 星 者 位 而 置 之 , 漫 漶 者 校 而 鐫 之 , 存 古 跡 也 。

或 曰 : 題 名 碑 記 自 前 黎 光 順 始 俯 仰 三 四 百 年 , 已 失 其 真 。今 可 考 鏡 者 , 獨 登 科 錄 耳 。石 猶 蘑 滅 寧 奚 為 應 之 ? 曰 : 物 之 成 毀 。 存 乎 其 人 。 藤 王 閣 , 岳 陽 樓 不 偶 一 辰 遊 觀 之 致 , 嗣 起 而 修 之 遂 可 千 古 。 太 學 之 有 碑 韻 事 也 。

斯 亭 之 建 , 想 亦 關 於 名 教 所 恃 以 長 存 也 , 天 理 之 在 人 心 耳 , 若 徒 以 物 衡 物 則 茫 茫 大 塊 中 有 形 必 有 壞 而 況 於 碑 乎 ?

皇 朝 嗣 德 拾 陸 年 拾 貳 月 初 陸 日 。

辛 亥 科 第 二 甲 進 士 領 河 內 布 政 使 黎 有 聲 恭 記 。

署 後 軍 都 統 領 河 寧 總 督 關 防 尊 室 翰 鑑 定 。

翰 林 院 侍 講 學 士 領 河 內 按 察 使 鄧 佐 潤 色 。

轄 下 永 順 縣 安 寧 村 秀 才 陳 光 練 奉 寫 。

Phần dịch nghĩa:

BÀI KÝ ĐÌNH BIA TIẾN SĨ

Thăng Long là đô thành thời xưa. Văn Miếu là nhà Thái học ở xưa. Hai bên cửa tả hữu la liệt bia đề danh Tiến sĩ, ngược lên từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo (1442) đến khoa Kỷ Hợi Cảnh Hưng (1779), nay hiện còn 82 tấm, chỉ là một phần trong trăm nghìn. Trong số đó gió táp mưa sa, cỏ lan rêu mọc, chữ khắc mờ mòn đến hơn mười tấm, để tản mác, phần lớn loang lổ không thể đọc hết được.

Thanh tôi từ khi nhậm chức đến nay, ngày thường vẫn lưu ý về việc ấy. Mùa thu năm nay công việc hơi rỗi, tôi bèn cùng quan Tổng đốc và quan án sát bàn quy cách làm đình ngói, mỗi bên hai dãy, mỗi dãy 11 gian. Tấm nào đổ tản mác thì dựng đặt lại, tấm nào mờ mòn thì đối chiếu mà khắc lại để giữ lấy vết tích cũ vậy.

Có người nói bia đề danh Tiến sĩ bắt đầu từ năm Quang Thuận (1460 -1469) đời Lê sơ(10), trải ba bốn trăm năm đã mất sự chuẩn xác. Nay có thể khảo xét được chỉ có sách đăng khoa lục. Còn như đá mờ mòn thì biết ứng phó thế nào? Xin đáp rằng: vật còn hay mất là do ở người. Kìa như Đằng Vương các, Nhạc Dương lâu nếu không gặp được sự du lãm nhất thời [của Vương Bột, Thôi Hiệu] thì không đạt được sự nổi tiếng, từ lúc được đề thơ bỗng trở thành thắng tích muôn thủa(11). Nhà Thái học có bia, đó là việc văn chương vậy.

Nay dựng ngôi đình này tưởng cũng có quan hệ đến sự trường tồn của thanh danh giáo hóa, lẽ trời là ở lòng người vậy. Còn nếu đánh giá theo hiện vật thì trong khối mênh mông, vật đã có hình hài tất có hư hoại, huống hồ là bia?

Hoàng triều Tự Đức năm thứ 16, tháng 12 ngày mồng 6.

Lê Hữu Thanh, Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Tân Hợi (1851) lĩnh Bố chính sứ Hà Nội kính làm bài ký.

Tôn Thất Hàn, Thự hậu quân đô thống lĩnh Hà - Ninh Tổng đốc quan phòng giám định.

Đặng Tá, Hàn lâm viện thị giảng học sĩ lĩnh Hà Nội án sát sứ nhuận sắc.

Trần Quang Luyện, Tú tài người thôn Yên Ninh huyện Vĩnh Thuận vâng viết chữ.

N.T.N

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:

1. Nguyễn Thúy Nga: Nghiên cứu văn bản học đăng khoa lục Việt Nam. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H.,1999.

2. Đại Việt sử ký toàn thư, T.1. Ngô Đức Thọ dịch chú; T.2, 3 Hoàng Văn Lâu dịch chú. Nxb. KHXH., H., 1993.

3. Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ. Hoa Bằng dịch và chú giải, Văn Tân hiệu đính, Nxb. KHXH, H. 1975.

4. Các nhà khoa bảng Việt Nam . Ngô Đức Thọ chủ biên, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Nxb. Văn học, H. 1993.

5. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục . Phạm Trọng Điềm dịch và chú thích, Nxb. Sử học, H.1962.

6. Cao Xuân Dục: Quốc triều hương khoa lục. Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch; Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1993.

7. Đinh Khắc Thuân: Văn bia thời Mạc. Nxb. KHXH, H.1996.

6. 16 thác bản văn bia các khoa đời Lê sơ, đời Mạc và đầu đời Lê Trung hưng.

CHÚ THÍCH:

(1) Nguyễn Thúy Nga: Nghiên cứu văn bản học đăng khoa lục Việt Nam. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 1999, tr.103-110.

(2) Bài ký này cũng được chép trong tập Nhị giáp Lê Khắc Cẩn tập, Thư viện Quốc gia, ký hiệu R.1763 (Phần tiếp theo), tờ 4a và 4b.

(3) Lê Hữu Thanh: người xã Thượng Tầm, huyện Thanh Quan, tỉnh Nam Định - nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

(5) Đặng Tá: trước tên là Đặng Văn Tá, người xã Bác Vọng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị 1 (1841).

(5) Trong số này có 3 bia đã bị mất là bia các khoa: Quang Thuận 10, Hồng Đức 3 và Hồng Đức 15.

(6) Bia 5 khoa sau đây cũng bị mất: Hồng Đức 21, Hồng Đức 24, Cảnh Thống 2, Đoan Khánh 1 và Đoan Khánh 4.

(7) Đời Lê sơ tổ chức cả thảy 26 khoa thi Hội, nhưng chỉ có 21 khoa được dựng bia. Về những khoa không được dựng, xin xem thêm: Ngô Đức Thọ, Văn miếu - Quốc tử giám và Hệ thống bia Tiến sĩ ở Thăng Long. Trung tâm Văn Miếu - Quốc tử giám, Hà Nội, 2002.

(8) Các khoa không được dựng bia là: Đức Long 6 (1634), Cảnh Hưng 42 (1781), Cảnh Hưng 46 (1785), Chế khoa Chiêu Thống 1 (1787) và Chính khoa Chiêu Thống 1 (1787).

(9) Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. Bd. của Trần Văn Giáp, Nxb. Văn hóa, 1962, T.2, tr.149

(10) Đúng ra thì việc dựng bia bắt đầu từ năm Hồng Đức 15 (1484).

(11) Nói việc Vương Bột đề thơ gác Đằng Vương, Thôi Hiệu đề thơ lầu Hoàng Hạc mà hai nơi này trở thành nổi tiếng.

TB

Ý NGHĨA CỦA CA, NGÂM, HÀNH, TỪ, KHÚC
TRONG NHAN ĐỀ THƠ CỔ

TRIỀU NGUYÊN

Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đĩnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát...); và danh từ trung tâm biểu thị (ấy là) bài hát, lời ca (về...) (như: Long Thành cầm giả ca - Nguyễn Du, Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều, Dương phụ hành - Cao Bá Quát, Hoán tỉnh châu dân từ - khuyết danh, Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ...). Có thể do cùng cách cấu trúc hoặc ranh giới giữa một số thể loại với ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ văn cổ chưa phân định, nên đã có sự nhầm lẫn, hoặc cho tất cả đều thuộc thể loại, hoặc chú thích nghĩa nhóm sau thiếu chính xác.

Bài viết này tách Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc ra để xem xét, vừa nhằm để hiểu các từ này, đồng thời, cũng là một mặt của vấn đề, sẽ giúp nhận diện mặt thể loại dễ dàng hơn.

1 Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc (trong nhan đề tác phẩm) được sử dụng phổ biến trong văn học cổ Trung Quốc và Việt Nam (riêng Từ, người Việt ít dùng hơn); và chỉ sử dụng trong lĩnh vực thơ ca. Sách Hán Việt từ điển (Đào Duy Anh; Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1994) đã định nghĩa: Ca [歌]: “bài hát” (tr.77-I); Ngâm [吟]: “đọc tiếng dài” (tr.21-II); Từ [詞]: “một thể văn Tàu” (tr.333-II); Khúc [曲] : “một bài hát” (tr.470-I). Sách Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Nxb. KHXH - Trung tâm Từ điển học, 1994), định nghĩa: Ca: bài văn vần ngắn, thường dùng để hát hoặc ngâm” (tr.93); Từ: “thể thơ, thường dùng làm lời cho các khúc nhạc, không hạn định số chữ số câu, câu ngắn xen lẫn với câu dài tùy theo tiết tấu, và vần thường ở cuối câu” (tr.1035). Sách Thơ Đường (nhiều người dịch, 2 tập, Nxb. Văn học, 1987) định nghĩa Hành [行]: “tên một điệu ca khúc thời xưa” (tr.69-I). Sách Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb. KHXH, 1982) định nghĩa Hành: “một thể thơ nhạc phủ trong Cổ phong biến ra, như bài Cổ bách hành của Đỗ Phủ, hay bài Tràng Can hành của Lý Bạch (tr.60).

Dù khi dùng Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc để đặt tên tác phẩm, ý nghĩa có thể biến đổi so với các kết hợp khác của chúng, những cách hiểu vừa nêu có chỗ không phù hợp lắm khi dịch nhan đề. Cách dịch phổ biến là bài há t (Hành, Ca); khúc hát (Khúc); khúc ngâm (Ngâm); bài thơ, bài hát, lời ca, lời (Từ); ví dụ: Lũng Tây hành: “Bài hát Lũng Tây” (Trần Đào), Long Thành cầm giả ca: “Bài ca về người đánh đàn cầm ở Long Thành” (Nguyễn Du), Bạch đầu ngâm: “Khúc ngâm đầu bạc” (Lý Bạch), Hậu cung từ: “Lời trong hậu cung” (Bạch Cư Dị)... Trần Trọng Kim ở tập sách Đường thi (Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1950) đã dịch nhan đề của 33 bài có Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc là “bài (khúc) hát” chỉ có 2/7 bài Từ là dịch hơi khác (Oán từ: “Lời oán giận”, Diễm nữ từ:

“Lời ca người đẹp”). Các dịch giả sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb. Văn học, 1988), đã giữ nguyên, không chuyển Hành thành “bài hát” như ở Thơ Đường Đường thi, cả bốn bài trong tập sách (ví dụ: Sở kiến hành: “Bài hành về những điều trông thấy”;...). Cũng bài Sở kiến hành này, sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX) (Huỳnh Lý chủ biên; Nxb. Văn học, 1987) dịch là “Những điều trông thấy”...

2 Để tìm hiểu ý nghĩa của Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc trong nhan đề thơ cổ, người viết phối hợp cả hai tập sách Đường thi (sách này giới thiệu 336 bài) và Thơ Đường (hai tập của sách này gi ới thiệu 256 bài) đã dẫn, để chọn ra 57 bài có cấu trúc nhan đề chứa chúng như đã nêu, rồi xem xét phạm vi của đối tượng được đề cập là chung hay riêng, đặc điểm của đối tượng được đề cập là quen thuộc hay mới lạ, tâm trạng của chủ thể trữ tình là hào sảng hay sầu thương và cách thể hiện là kể hay tả; đồng thời, cũng xét mặt thể thơ được sử dụng. Sở dĩ chọn thơ Đường để xem xét, về hai lý do:

a. Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc xuất phát từ văn chương Trung Quốc cổ; mà thơ Đường có mức thể hiện đáng chú ý.

b. Thơ Đường có ảnh hưởng lớn đối với các nhà thơ Việt Nam xưa. Kết quả của việc làm này được nêu ở bảng sau:


Ghi chú: - Con số 57 không tính các bài ghép.

- Cột ghi “+” hiểu là vừa mặt này vừa mặt kia.

Có mấy nhận xét bước đầu:

+ Về phạm vi đối tượng được đề cập, Ca Hành thiên về cái chung, cái lớn lao của tự nhiên, cộng đồng,...

+ Về đặc điểm của đối tượng được đề cập, Ngâm, Từ, Khúc mạnh về các vấn đề, cảnh huống quen thuộc, trong lúc Hành lại ngả về sự kiện mới lạ,...

+ Về tâm trạng chủ thể trữ tình, số lượng Ca Từ có giọng hào sảng khá lớn, ít ra cũng nổi trội so với Hành.

+ Về cách thể hiện đối tượng, Ca Hành được kể nhiều hơn tả, trong lúc Ngâm thường theo cách kết hợp.

+ Về thể thơ, Ngâm dùng Cổ phong; Ca và Hành cũng dùng Cổ phong khá phổ biến (riêng Hành, số lượng bài Cổ phong có dung lượng lớn cao hơn Ca); Từ, Khúc lại có vẻ thích hợp với thể thất ngôn tứ tuyệt. Và thể thất ngôn bát cú thì vắng bóng.

Các nhà thơ Việt Nam ít dùng Từ để đặt tên bài thơ của mình, Khúc cũng không nhiều (lại có thể hiểu như ngâm khúc). Riêng Ngâm, chúng ta có hai tác phẩm lớn (Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, 470 dòng thơ Cổ phong; Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, 356 dòng thơ thể song thất lục bát), trong lúc bốn bài ngâm ở thơ Đường (Giang thượng ngâm, Bạch đầu ngâm - Lý Bạch; Tiết phụ ngâm - Trương Tịch; Du tử ngâm - Mạch Giao) cộng lại chỉ 58 dòng thơ. Trong lúc đó, Ca Hành được dùng nhiều hơn. Riêng Cao Bá Quát, trong số 29 bài thơ được tuyển vào tập Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (sđd), có 4 bài Ca, 1 bài Hành; Nguyễn Du, trong Bắc hành tạp lục (tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd), có 2 bài Ca, 4 bài Hành, trừ một bài (Thương Ngô trúc chi ca, gồm 15 đơn vị, viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, của Nguyễn Du). Tất cả số Ca, Hành này đều theo thể Cổ phong; có đối tượng được đề cập là những sự kiện, vấn đề gây cảm xúc mạnh, và khó phân biệt giữa chúng. Chẳng hạn, trong chuyến sang Inđônêxia cùng phái đoàn ngoại giao nước ta, Cao Bá Quát đã lần đầu tiên trông thấy tàu thủy chạy bằng hơi nước, ông viết:

“Guồng quay, sóng tung tóe ầm ầm như sấm ran
Có lúc đi ngang, chạy ngược, nhanh như ngựa phi
Không buồm, không chèo, cũng không người đẩy...
Chỉ búng ngón tay đã vượt qua những đợt sóng kinh người”.

Cũng là lần đầu thấy người phụ nữ phương Tây, ông miêu tả:

“Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết...
Kéo áo nói rì rầm với chồng...
Một cốc sữa hững hờ trên tay...
Nghiêng mình đòi chồng nâng dậy...”

Cả hai hình ảnh đều mới lạ, tạo ấn tượng, cảm xúc mạnh, nhưng hình ảnh đầu thuộc bài Ca (Hồng mao hỏa thuyền ca), hình ảnh sau thuộc bài Hành (Dương phụ hành). Và cũng không hẳn chuyện tác động hẹp thuộc về Hành, chuyện ảnh hưởng rộng lớn thuộc về Ca. Vì như Nguyễn Du lúc đi sứ sang Trung Quốc, giữa đường bị binh biến chặn lại, hoặc khi dùng thuyền vượt thác mà không được, cố gắng và lo sợ đến mức “người trẻ trong thuyền đều thành bạc đầu cả”; nhưng nhà thơ không dùng Ca, mà dùng Hành (đó là hai bài Trở binh hành Bất tiến hành)... Như vậy, cách sử dụng Ca, Hành của các nhà thơ Việt Nam không khác mấy so với các nhà thơ Trung Quốc (qua thơ Đường).

3. Đến đây, đã có thể nêu ý nghĩa của Ca, Ngâm, Hành, Từ, Khúc trong cấu tạo nhan đề của thơ cổ:

- Ca: bài thơ (có thể dùng để hát), thường đề cập đến những vấn đề lớn lao của tự nhiên, cộng đồng, cuộc sống...; tác giả thường dùng cách kể với tâm trạng hào sảng, cảm xúc mạnh mẽ và thể thơ Cổ phong khoáng đạt.

- Ngâm Khúc được dùng tương đương về nghĩa, hoặc theo cách kết hợp: Ngâm khúc. Ngâm khúc: tác phẩm bằng văn vần, thường để bày tỏ niềm riêng, nỗi đau buồn về một số vấn đề bức xúc trong cuộc sống; thể thơ Cổ phong, thơ song thất lục bát với dung lượng đáng kể, được sử dụng để chuyển tải nỗi niềm ấy (phân biệt với cách hiểu Ngâm, Khúc ở thơ Đường qua bảng trên).

- Hành: bài thơ, thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến, thể thơ Cổ phong thường được sử dụng để biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc.

- Từ: ít sử dụng (theo cách đặt nhan đề) trong thơ Việt Nam cổ. Với thơ Đường, thì Từ là bài thơ thường đề cập đến những vấn đề gần gũi, có tính chất cộng đồng, chủ thể trữ tình thường thiên về tả với tâm trạng hào sảng, do đối tượng được đề cập chỉ cần phác họa vài nét cần thiết, nên Từ thường sử dụng các thể thơ ngắn (như tứ tuyệt).

Những cách hiểu này dựa trên sự phân tích, xem xét, thống kê như đã trình bày. Chúng có thể góp phần giúp vào việc nghiên cứu, giảng dạy, thưởng thức thơ cổ thấu đáo hơn.

T.N

TB

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU MẢNG SÁCH NÔM TÀY - NÙNG TRONG KHO THƯ TỊCH VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM

TRẦN THU HƯỜNG

Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều góp vào sự hình thành sắc thái văn hóa chung của cả nước bằng những đặc trưng văn hóa riêng của chính mình.

Trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, Tày và Nùng là hai dân tộc thiểu số cùng có chung nhiều đặc điểm về phương diện cư trú, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, văn tự, văn học và huyết thống. Riêng dân tộc Tày là dân tộc thiểu số có số dân đông nhất, với khoảng hơn một triệu người, đứng thứ hai sau dân tộc Kinh, chiếm hơn 20% dân số toàn khu Việt Bắc. Dân tọc Tày và Nùng, cùng các dân tộc thiểu số nước ta trong lịch sử đều cùng chung một vận mệnh, gắn bó máu thịt với dân tộc và với quốc gia Việt Nam. Người Tày và Nùng sinh sống bên cạnh nhau, có quan hệ hòa hợp, gănd bó với nhau về vật chất cũng như tinh thần. Họ cư trú rải rác ở hầu khắp các tỉnh thượng du và trung du Bắc bộ, với một địa bàn khá rộng, nhưng tập trung đông nhất là ở các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Tuyên, Thái Nguyên, chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng. Văn hóa Tày và Nùng với những sắc thái riêng độc đáo, góp phần tạo nên bức tranh muôn màu, muôn vẻ của văn hóa Việt Nam. Điều đó được phản ánh khá rõ nét trong nguồn thư tịch Nôm Tày - Nùng hiện đang lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Nghị quyết TW.5 (khóa VIII) về văn hóa nêu rõ “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”. Một trong những nhiệm vụ cụ thể đưa nghị quyết TW. 5 vào cuộc sống là: Bảo tồn phát huy và phát triển văn tốt hơn nữa công tác giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số. Đồng thời với việc sưu tầm, nghiên cứu khai thác và giới thiệu, cần có kế hoạch bảo tồn các công trình văn hóa có giá trị tiêu biểu ở các vùng dân tộc thiểu số (như các chùa, tháp, nhà sàn, các làng bản có nghêg thủ công truyền thống...) và các di sản văn hóa có giá trị khác, để bảo tồn tinh hoa văn hóa các dân tộc... Theo phương hướng đó, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu và thống kê được hơn 70 cuốn sách Nôm Tày - Nùng đã lên ký hiệu, và khoảng 300 cuốn nữa do Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới sưu tầm thêm, đang đăng ký để đưa ra phục vụ bạn đọc. Đây là một nguồn thư tịch rất phong phú và vô cùng quý giá, một thành tựu văn hóa lớn của dân tộc Tày - Nùng.

Do đặc điểm lịch sử, các sản phẩm tinh thần của dân tộc Tày - Nùng có xu hướng hóa thân vào nền văn hóa dân gian của dân tộc mình. Vì vậy, văn hóa truyền thống của dân tộc Tày - Nùng tồn tại và phổ biến chủ yếu ở văn hóa dân gian, với các loại hình tiêu biểu như ngôn ngữ (nói và viết), văn học, dân vũ, âm nhạc, lễ hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng v.v.

Trong nội hàm “văn hóa dân tộc”, điều trước tiên cần phải đề cập tới là tiếng nói và chữ viết. Dân tộc nào cũng có tiếng nói riêng, là công cụ thực hiện giao tiếp xã hội, gắn với sự hình thành và phát triển của mỗi dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của mỗi dân tộc. Với 26 dân tộc có hệ thống chữ viết trong tổng số 53 dân tộc thiểu số Việt Nam, dân tộc Tày - Nùng tự hào vì họ đã sáng tào ra hệ chữ viết riêng cho dân tộc mình từ khá sớm. Đó là tài sản văn hóa vô giá của quốc gia, là thông điệp phản ánh bước phát triển của dân tộc Tày - Nùng.

Như chúng ta đã biết, trên địa bàn Việt Nam, tiếp theo sau chữ Hán và trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện thì đã có một lối chữ viết được gọi là chữ Nôm. Chữ Nôm Việt của người Kinh ở vùng đòng bằng đô thị và chữ Nôm Tày - Nùng của người Tày - Nùng ở các tỉnh miền núi thuộc khu Việt Bắc. Cũng như chữ Nôm Việt, chữ Nôm Tày - Nùng là một loại chữ khối vuông, tuy phát sinh từ văn tự Hán, nhưng lại chuyên dùng để ghi âm tiếng Tày - Nùng. Và tiếng Tày - Nùng cũng như tiếng Việt, xét về đặc điểm ngôn ngữ thì đây là những ngôn ngữ âm tiết tính đơn lập, về cơ bản giống như tiếng Hán. Chữ Nôm Tày - Nùng ra đời đã trở thành công cụ đắc lực, phục vụ trong nhièu thế kỷ cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc Tày - Nùng nói chung và cho sự phát triển nền ngôn ngữ văn học Tày - Nùng nói riêng. Hơn 400 cuốn sách Nôm Tày - Nùng trong kho sách của Viện Nghiện cứu Hán Nôm sẽ giúp chúng ta thấy rõ điều đó. Chúng tôi xin giới thiệu khát quát về nội dung nguồn thư tịch này qua 5 loại tác phẩm chủ yếu sau đây:

1. Các truyện sli cáu (truyện thơ cổ)

Truyện thơ cổ được sáng tác theo thể loại thất ngôn trường thiên, vừa có tính chất tự sự, vừa có tính chất trữ tình, chứa đựng những vấn đề chính trị xã hội có tầm khái quát. Đây là những tác phẩm ngôn từ thành văn do chính khối óc, tấm lòng và bàn tay lao động của bao thế hệ người Tày - Nùng kế tiếp nhauangs tạo nên, rồi được sao chép, nhân bản và truyền lại đến nay. Cụ thể có các truyện sau đây:

- Kim Quế cổ tuyện (Truyện cố về nàng Kim Quế)

- Toọng Tương tuyện (Truyện về chàng Trọng Tương).

- Slam Pee Eng Tài tuyện (Truyện Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài)

- Tần Chu tuyện (Truyện về chàng Tần Chu)

- Lương Quân - Bjooc Lả tuyện (Truyện về Lương Quân - Bjoóc Lả)

- Lưu Đài - Hán Xuân tuyện (Truyện về Lưu Đài - Hán Xuân)

- Khảm hải tuyện (Truyện kể về quá trình vượt biển)

- Lưu Tương tuyện (Truyện kể về chàng Lưu Tương)

Nội dung của mảng thư tịch này phản ánh cuộc sống và chiến đấu bền bỉ, dũng cảm của nhân dân lao động, quan niệm ở hiền gặp lành, tinh thần khuyến thiện, chống thói hư tật xấu trong xã hội. Đề cao đạo đức truyền thống trung hiếu tiết nghĩa, tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên. Ca ngợi lòng yêu nước, tình đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tình bằng hữu trung thực, tình vợ chồng thủy chung. Biểu dương đức tính cần cù và trí thông minh sáng tạo của người lao động. Đả kích ngững đồi phong bại tục, cường quyền ác bá, vua quan tàn bạo v.v. Tư tưởng đạo đức của truyện thơ cũng là tư tưởng, phẩm chất và đạo đức của dân tộc Tày - Nùng. Qua nội dung của mảng thư tịch này, chngs ta nhận thấy dân tộc Tày - Nùng cùng với các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam có một truyền thống nhân đạo, dân chủ lâu đời và sâu xa.

2. Thư tịch là các bài Sli Lẩu (hát lễ cưới)

Đây là những bài hát lễ cưới của người Tày - Nùng. Lời văn hoa mỹ và tươi vui, dí dỏm, nhằm mời mọc, chúc mừng hai họ, chúc mừng cô dâu chú rể v.v. Chẳng hạn như các bài:

- Chiềng các thân quan quý tộc (Trình các thân quan qúy tộc)

- Chiềng đẳm (Trình tổ tiên)

- Chiềng sloong bưởng pỏ mẻ (Trình đôi bên phụ mẫu)

- Chiềng họ háng (Trình các vị họ hàng)

- Chiềng bại quý khách tàng quây (Triình các quý khách đường xa)

- Chiềng tông slân (trình bà con)

- Chiềng bại nàng bại á (Trình các nàng các ả)

- Mởi nẳng (Mời ngồi)

- Mởi kin nặm chà (Mời uống nước chà)

- Mởi mjầu nha (Mời trầu)

- Mởi kin khẩu (Mời cơm)

- Hát chồm mản gấm mon va (Hát mừng màn gấm gối hoa)

- Hát khửn khoẳn đuây (Hát lên cầu thang)

- Hát pjạc căn (Hát chia tay) v.v.

Qua đó, chúng ta thấy được phong tục tập quán của người Tày - Nùng xưa trong những ngày lễ cưới, họ thể hiện lòng vui mừng phấn khởi bằng những bài hát. Ngay cả việc thực hiện nghi lễ trang trọng trong cưới xin, người Tày - Nùng cũng dùng lời ca tiếng hát để thay thế cho những câu đối thoại giữa hai họ. Vì vậy, những bài hát đám cưới đã được người Tày - Nùng sao chép tập hợp thành một kho tàng văn học lưu truyền mãi đến đời nay.

3. Các bài Lượn cọi (hát giao duyên)

Đây là những bài hát đối đáp giao duyên giữa nam nữ thanh niên, chứa đựng nội dung trữ tình trong sáng, lạc quan, yêu đời; là loại dân ca phong phú và phát triển hơn cả trong đời sống tinh thần của dân tộc Tày - Nùng, là nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính nghệ thuất cao. Chẳng hạn như các bài:

- Cung lồng lảng (cung đi lấy chồng)

- Cung nam tông nữ vọng (cung nam mong nữ nhớ)

- Cung khuyên mà lội (cung khuyên nàng hỡi)

- Cung slương căn (cung thương nhau)

- Cung tàng rà (cung đường đôi ta)

- Cung khềm mừ au cằm mjặc (cung chắp tay lấy lời đẹp)

- Cung sloong rà (cung lượn đôi ta)

- Lượn chèo lừa (lượn chèothuyền)

- Lượn tứ quý (lượn bốn mùa)

- Cung mong nặm mong lồm (cung mong mưa thuận gió hòa) v.v.

Mảng thư tịch này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu thêm về nền nghệ thuật âm nhạc và dân vũ của dân tộc Tày - Nùng. Hát múa đã ngấm vào máu thịt các thế hệ người Tày - Nùng. Các nhạc cụ dân tộc đã trở thành người bạn tâm tình trong cuộc sống của họ. Điệu sli lượn đuổi theo ánh mắt các chàng trai, cô gái mỗi phiên chợ tình. Những làn điệu dân ca, những giai điệu nhạc, những nhịp múa (múa tung còn, múa giã cốm, múa quạt...) đã thôi thúc con người hướng tới thế giới của chân - thiện - mỹ, làm giảm bớt những lo âu trong cuộc sống thường ngày còn nhiều vất vả.

4. Các bài Then (hát trong các buổi lễ cầu phúc)

Đây là những bài Then hát trong các buổi lễ cầu phúc, cầu may nhân dịp đầu xuân của người Tày - Nùng xưa, như các bài:

- Then khảm hải (then vượt biển)

- Then pác nộc (then về trăm loài chim rừng)

- Then pác va (then về trăm loài hoa)

- Then hải bjoóc (then hái hoa) v.v.

Mảng thư tịch này giúp chúng ta tìm hiểu về các hoạt động văn hóa dân gian liên quan đến tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Tày - Nùng. Các bài Then được sử dụng nhiều trong các nghi lễ tín ngưỡng, cúng thần linh, tổ tiên, được các thầy mo, ông Then, bà Then thể hiện, với các bài như: đuổi ma trừ tà, mời ma lành, ma tốt về phù hộ cho gia đình, dân bản, Then giải hạn, Then cầu yên, Then cứu bệnh, Then thượng thọ, Then hợp hôn v.v. Đó là những sắc thái riêng cảu văn hóa tín ngưỡng Tày - Nùng. Nền văn hóa dân gian ấy, với tính chất vừa huyền thoại, vừa hư ảo, vừa thực tế. Tuy nhiên, bên trong cái vẻ hư ảo, huyền thoại đó, các thế hệ con người dân tộc Tày - Nùng đã kế thừa, sáng tạo, bồi đắp, duy trì và phat triển nền văn hóa của dân tộc mình cho đến tận ngày nay.

5. Các bài văn Than (văn tế những người đã mất)

Đây là các bài văn điếu để thương nhớ những người thân bi mất, lời văn lâm li thống thiết, diễn tả tình cảm của người còn sống đối với những người thân đã quá cố, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, những đức tính cần cù lao động, liêm khiết trong đời sống, lòng thương yêu chăm sóc dạy bảo con cháu của người đã chết, để con cháu noi theo, như các bài:

- Văn tế slíp sloong bươn hoài thai (văn tế mười hai tháng mang thai)

- Than mẻ (văn than khóc mẹ)

- Than mìa (văn than khóc vợ)

- Văn khươi tế pỏ mẻ (văn con trai tế cha mẹ)

- Văn tế phua mìa (văn chồng tế vợ)

- Văn lan tế pú dả (văn cháu tế ông bà)

- Than hả keng (văn than năm canh) v.v.

Ngoài những đặc điểm nội dung của 76 văn bản Nôm Tày - Nùng đã lên ký hiệu như chúng tôi đã trình bày, còn có 356 văn bản Nôm Tày - Nùng khác nữa, do Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới sưu tầm bổ sung. Trong số mới bổ sung này, khá nhiều văn bản đáng chú ý như:

1. Sách đối. Số sưu tầm (ST): 1102, ghi chép một loạt các câu đối về các vấn đề: Thần miếu, Đạo gia, Miếu Quan Thánh Đế Quân, Thần thổ địa, Miếu thần Bắc Đế, Xuân mới, Nhà ở ngày xuân, Câu đối phúng đám hiếu, Câu đối cho gia đình. v.v.

2. Văn ơn pỏ mẻ (văn nhớ ơn cha mẹ): ST.1770, ghi chép các cách xưng hô, văn tế mẹ, văn tế cha, văn tế ông bà v.v...

3. Xỉnh mà chiêu quân (mời về chiêu quân): ST.1096, với các bài như: Cháu khóc tìm tổ, Anh khóc tìm em, Tống táng quỷ sơn lâm, Tang phục, Con khóc tìm cha, Gái tiến chồng đi lính v.v.

Qua 5 loại tác phẩm giới thiệu trên ta thấy, đây là một nguồn thư tịch phong phú và giá trị, góp phần giúp chúng ta hiểu thêm nền văn hóa Tày - Nùng, đặc biệt là các mặt: lễ hội, cưới xin, tang lễ, sự hợp tác lao động, tổ chức vui chơi giải trí, hình thành thuần phong mỹ tục và trở thành nếp sống đặc trưng của dân tộc Tày - Nùng. Đó là của cải trong hành trang của dân tộc Tày - Nùng mà chúng ta cần tìm hiểu, bảo tồn, phát huy để phục vụ cuộc sống hôm nay. Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số là giữ gìn cho được vốn quý của tổ tiên, bảo vệ những giá trị văn hóa cốt lõi và tích cực, đưa những giá trị văn hóa đó sống trở lại với mỗi người dân và mỗi cộng đồng dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Nền văn hóa Tày - Nùng nổi lên như là nền văn hóa tiêu biểu của vùng Việt Bắc, đóng một vai trò to lớn trong lịch sử văn hóa khu vực. Và nó cũng là thành phần cấu thành hữu cơ, là tài sản chung của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Mặc dầu hiện nay, nguồn thư tịch Nôm Tày - Nùng này vẫn chưa được chú ý khai thác và giới thiệu đúng mức, nhưng với những đặc diểm nội dung mà nguồn thư tịch này phản ánh, thì đây là một thành tựu văn hóa quan trọng của dân tộc Tày - Nùng, đặc biệt là văn hóa dân gian Tày - Nùng. Nó có một vị trí xứng đáng trong nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong đại gia đình văn hóa các dân tộc Việt Nam.

T.T.H

TÀI LIỆU THAM KHẢOƯp>

1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng (khóa 8). Nxb. Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1998.

2. Phan Đăng Nhật: Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Văn hóa dân tộc - Hà Nội 1981.

3. Văn hóa truyền thống Tày - Nùng. Nxb. Văn hóa Dân tộc - Hà Nội 1993.

4. Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX. Nxb. Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001.

5. Lượn cọi. Cung Khắc Lược - Lê Bích Ngân phiên âm và chú thích. Nxb. Văn hóa dân tộc - hà Nội 1987.

6. Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Nôm Việt. Luận án PTS. Cung Khắc Lược. Hà Nội 1991.

TB

NGUYỄN DỮ hay NGUYỄN TỰ?

NGUYỄN NAM

Điểm qua các bản dịch quốc ngữ Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy ngay rằng tên tác giả bộ sách đã được đọc theo nhiều cách khác nhau: Nguyễn Dư, Nguyễn Dữ và Nguyễn Tự(1). Vậy thì đâu là cách đọc khả thủ ?

Năm 1987, sau khi khảo cứu tận tường nhiều nguồn tư liệu Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp văn, Giáo sư Nguyễn Khắc Kham đã đặt nghi vấn về cách đọc tên tác giả Truyền kỳ mạn lục là Nguyễn Dữ. Ông viết:

“Chủ trương đọc tên gọi của tác giả là dữ hay dự chính là do xem chữ Hán 璵 như một chữ Nôm, thông qua việc chỉ chú ý vào bộ phận biểu âm 與 mà bỏ qua bộ 玉. Chữ Hán 與 với tư cách là bộ phận biểu âm cho 璵 có thể đọc theo 3 dấu, và có nghĩa khác nhau như sau:

1. dữ = a) và, với, cùng với, so với; b) cho, góp với

2. dự = tham gia vào

3. = giống như chữ 歟 (từ nghi vấn)

Tuy nhiên, chữ Hán này chỉ có một vai trò hạn chế trong chữ Nôm. Trên thực tế, nó chỉ được dùng để ghi âm hai từ thuần Việt là dữ (“dữ dằn, tàn nhẫn, hung ác”) và dữ (từ chỉ mức độ, nghĩa là “đáng sợ, quá đáng”)… Trong chữ Nôm, cả dữ dự đều không được ghi âm bằng chữ 璵 vốn không có một âm đọc Hán - Việt nào khác hơn âm .

Vả lại, có một lý do khác để phủ nhận việc phiên âm quốc ngữ tên tác giả là Dữ. Vốn là con Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, tác giả sống vào đầu thế kỷ XVI khi Hán học đang thời hưng thịnh ở Đại Việt. Thế nên, mặc cho sự phát triển đáng chú ý của nó trong thế kỷ trước, chữ Nôm vẫn phải nhường bước trước chữ Hán, chứng cứ là bản thân Truyền kỳ mạn lục được viết bằng văn ngôn Hán văn, chứ không phải bằng chữ Nôm. Trong những điều kiện này, tên tác giả có thể phải là chữ Hán hơn là chữ Nôm. Thật khó mà nghĩ được rằng cụ thân sinh tôn quý, một vị đại Nho và trọng thần trong triều lại đặt cho con mình cái tên chẳng lành là Dữ !”(2).

Sau khi phủ định khả năng đọc tên tác giả là Dữ, căn cứ theo cách ghi của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) và Phan Huy Chú (thế kỷ XIX), ông đi đến kết luận sau đây:

“Hai cách phiên âm quốc ngữ khả tín nhất, không gì hồ nghi hẳn phải là Nguyễn Tự và Nguyễn Dư, phiên âm từ chữ 嶼 trong Nghệ văn chí, và từ chữ 璵 trong Văn tịch chí. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải chọn giữa Nguyễn Tự và Nguyễn Dư, và đây quả là một chọn lựa khá khó vì không sử dụng được các văn bản hiện tồn của Nghệ văn chí, Kiến văn tiểu lục Văn tịch chí.

Trong khi mong mỏi trông chờ một văn bản hiếm có nào đấy xuất hiện để có thể soi sáng được vấn đề, chúng tôi xin đề nghị tên tác giả hoặc sẽ tạm thời được giới thiệu là “Nguyễn Tự, biệt danh Nguyễn Dư” hoặc chỉ đơn giản là “Nguyễn Dư”. Đây là lý do dẫn đến đề nghị thứ hai [chỉ đọc là “Nguyễn Dư”]: như chúng ta đã thấy, chữ Hán 嶼 trong một số bản Nghệ văn chí (1749) hiện tồn có cách đọc tữ/tự theo như Tự điển Khang Hy (1710). Tuy nhiên, trong Tân Hoa tự điển 新 華 字 典 (Bắc Kinh, 1972), chúng ta lại thấy: 嶼yỹ 小 島. Thế nên, tự như trong Tự điển Khang Hy chỉ là một lối đọc cũ của 嶼, trong khi cách đọc mới dư của chữ này hiện đã giống như cách đọc của chữ 璵”(3).

Hẳn nhiên chữ dữ 與 quen thuộc, bộ phận chi âm trong các chữ 嶼 và 璵, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành âm đọc theo quán tính dữ cho các chữ trên. Khi đọc là dữ, người đọc không nhất thiết xem các chữ trên là Nôm. Do áp lực của bộ phận chỉ âm, cách đọc dữ đã xuất hiện và được đọc một cách tự nhiên, dễ dãi, bất chấp những phiên thiết hướng dẫn cách đọc của chữ ghi trong tự điển. Việc đọc tên tác giả là Dữ trong một thời gian dài, hầu như không bị chất nghi cũng là một bằng chứng cho thấy người đọc không nghĩ Dữ là một từ Nôm, mà xem nó là một từ Hán - Việt, hàm chứa một ý nghĩa nào đấy mà người đọc thường không rõ. Chỉ đến khi đưa ra hiện tượng đồng âm của một từ dữ (Hán - Việt, âm đọc quán tính, nghĩa không thật rõ) và dữ (thuần Việt, “tàn ác”, “hung dữ”), người đọc mới nhìn lại cách đọc dữ không hợp lý (cho dẫu là Hán - Việt) với tên người.

Việc phát hiện bản Cựu biên truyền kỳ mạn lục (1712)(4) có thể đã đáp ứng được mong muốn của GS. Nguyễn Khắc Kham là có thêm văn bản cổ hơn, khả tín hơn nhằm xác định cách đọc tên của tác giả Truyền kỳ mạn lục. Trong bài tựa của Tùng Châu Nguyễn Lập Phu ở đầu sách, có ghi tên tác giả, kèm theo phiên thiết cách đọc và nghĩa chữ như sau:

嶼 私 呂 切, 海 中 州 上 石 山 也

[Tự] tư lữ thiết, hải trung châu thượng thạch sơn dã.

[Tự] tư lữ thiết, núi đá trên bãi giữa biển)

Như vậy, 嶼 phải đọc là tự(5). Chữ tư 私 trong cách đọc phiên thiết (tư lữ thiết) in khá rõ, nhưng một lần nữa, có lẽ do ảnh hưởng của cách đọc quán tính đã có, chữ này đã bị đọc thành di (移), và phiên thiết thành di lữ thiết, để cho kết quả là dữ. Nhằm xác minh thêm phiên thiết tư lữ thiết, có thể xét qua các cách đọc ghi trong Khang Hy tự điển.

Tự điển Khang Hy cung cấp các phiên thiết như sau:

唐 韻: 徐 呂 切

Đường Vận: từ lữ thiết [= tự]

集 韻: 象 呂 切

Tập Vận, Vận Hội, Chính Vận: tượng lữ thiết [= tự]

Các phiên thiết đều có kết quả chung, cho cách đọc là tự. Điều đáng nói là từ 徐 và tượng 象 đều thuộc thanh mẫu (âm trị Hán trung cổ là [*Z]), trong khi tư 私 thuộc thanh mẫu tâm (âm trị [*S]). Tuy nhiên, những thanh mẫu này sau đã cùng các thanh mẫu tinh, tùng, bang, tịnh đồng quy lại thành S, rồi chuyển sang T trong cách đọc Hán - Việt. Dựa theo An Nam dịch ngữ, H. Maspéro cho rằng quá trình này về cơ bản đã hoàn thành vào khoảng thế kỷ XV(6). Do đó, dùng được trong phiên thiết, thay cho từ tượng.

Các ví dụ phiên thiết trong Tự điển Khang Hy (1710) cũng cho thấy rằng đến thế kỷ XVIII, 嶼 vẫn chưa được đọc là yỹ ( trong Hán - Việt). Cựu biên truyền kỳ mạn lục với phiên thiết cụ thể là một cứ liệu quý cho phép xác định cách đọc tên tác giả Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Tự.

Năm 1962, khi xuất bản Tân biên truyền kỳ mạn lục, Thứ Lang Bùi Xuân Trang đã ghi tên tác giả của tập sách là Nguyễn Tự(7). Năm 1965, trong bản dịch Kiến văn tiểu lục, Đàm Duy Tạo cũng đọc theo cách này(8). Nay căn cứ theo bản Cựu biên, xác định lại tự thể (嶼), âm đọc (Tự), ngữ nghĩa (núi đá trên bãi giữa biển) là tên tác giả Truyền kỳ mạn lục.< /p>

N.N

CHÚ THÍCH:

1. Nguyễn Nam: Phiên dịch học lịch sử - văn hóa: trường hợp Truyền kỳ mạn lục, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002.

2. Nguyễn Khắc Kham, “Questions About a Sixteenth - Century Vietnamese Collection of Tales in Classical Chinese” (Những vấn đề về một tập truyện Việt Nam viết bằng văn ngôn Hán văn), Vietnam Forum, Yale Center for International and Area Studies, số 9 (đông - xuân 1987), tr.30-31. Bài viết nguyên bằng tiếng Anh, tạm dịch như trên.

Tương tự, khi tái bản Truyền kỳ mạn lục vào năm 1988, Nxb. Văn nghệ và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. Hồ Chí Minh có thêm phần “Lưu ý bạn đọc” ở cuối sách như sau, “Tên tác giả là Nguyễn Dữ hay Nguyễn Dư ? Nếu theo bản Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, in năm 1763 thì tên tác giả là 阮 璵 (Nguyễn Dư). Chữ 璵 viết có bộ 玉 (Ngọc) là Dư Phan tức là một thứ ngọc quý. Chữ 與 (Dữ) viết không có bộ 玉 (Ngọc) có lẽ không đúng. Trong quyển Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (tr.290, d.12 - bản in lần thứ nhất 1944) có in sai là Nguyễn Dữ nhưng ở cuối sách tác giả đã đính chính là Nguyễn Dư, có lẽ số đông chúng ta không để ý đến, cứ đọc mãi là Nguyễn Dữ thành thói quen. Thiết tưởng chọn tên người không ai đặt tên xấu (Dữ) như vậy” (tr.239).

3. Nguyễn Khắc Kham, “Questions About a Sixteetnth - Century…” bđd, tr.31-32

4. Trần Nghĩa: “Một bản Truyền kỳ mạn lục in năm 1712 vừa tìm thấy”. Tạp chí Hán Nôm, số 2/1984, in lại trong Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000, tr.37-44.

5. Chính xác theo phiên thiết, tư lữ thiết, âm đọc sẽ là tữ. Tuy nhiên do thanh ngã nặng có thể chuyển đổi cho nhau, kết quả thiết cũng đọc được là tự. Xem thêm Thiều Chửu: Hán Việt tự điển. Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr.164.

6. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1979, tr.186-192.

7. Nguyễn Tự : Tân biên truyền kỳ mạn lục. Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1962.

8. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. Đàm Duy Tạo dịch, Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn, 1965, tập 2, tr.16 (dẫn theo Nguyễn Khắc Kham, “Questions about a Sixteenth - Century…” bđd, tr.27 và 35 (chú 29)).

TB

TẠI SAO CÓ TRANH LUẬN VỀ THÀNH HOÀNG ĐÌNH LÀNG KHƯƠNG THƯỢNG

NGUYỄN THẾ LONG

Hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử - văn hóa đình Khương Thượng ghi thành hoàng đình làng là Cao Sơn đại vương. Sách Giới thiệu vài nét lịch sử Khương Thượng (xưa và nay) do UBND, UBMTTQ phường Khương Thượng phát hành tháng 5 năm 1991 ghi: "Qua các di vật, di chỉ còn lại, Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Hà Nội đã xác nhận trong bản đề nghị xét duyệt đình Khương Thượng là một di tích lịch sử văn hóa như sau: "Vị thần được thờ làm thành hoàng là Cao Sơn đại vương..." Đoạn sau ghi: "Từ xưa vị thành hoàng làng Khương Thượng là Cao Sơn đại vương đúng như Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch (VHTTDLTT) đã kết luận trong quyết định số 1539 ngày 27.12.1990...". Sách Đình và đền Hà Nội của Nguyễn Thế Long do Nxb. Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1998 và Bách khoa thư Bảo tàng - Di tích Hà Nội công trình chào mừng kỉ niệm 1000 năm Thăng Long của Thành ủy và UBND thành phố Hà Nội, do Nxb. Từ điển bách khoa xuất bản năm 2000 đều ghi thành hoàng đình Khương Thượng là Cao Sơn đại vương do căn cứ vào hồ sơ xin xếp hạng gửi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội và Bộ VHTTDLTT.

Tuy vậy, ngay trong sách Giới thiệu vài nét lịch sử Khương Thượng (xưa và nay) cũng đã nêu lên băn khoăn: "Nếu giả thiết vị thành hoàng làng Khương Thượng là "Phổ hóa hoằng tĩnh đại vương" thì cần phải tiếp tục tra cứu một cách nghiêm túc, không thể chỉ bằng cảm tính..." (tr.15).

Thành hoàng đình Khương Thượng có phải là Cao Sơn đại vương không? Vấn đề này đã gây nên tranh cãi trong nhân dân đến nỗi đã có những bài ca phản bác nhau được đọc lên trong những cuộc họp đông người trong nhiều năm nay. Là người viết sách Đình và đền Hà Nội tôi cũng quan tâm và chú ý theo dõi. Đến nay tư liệu sưu tầm được khá đầy đủ, hoàn cảnh chín muồi, nên tôi thấy đã đến lúc có thể trao đổi về vấn đề này.

Cuối năm 1946, làng Khương Thượng cũng như những làng ven nội thành Hà Nội đã bị giặc Pháp đánh chiếm, tàn phá, các đồ thờ cúng như thần phả, sắc phong, ngai thờ, hương án, hoành phi, câu đối (có tới 8 bức hoành phi và 49 đôi câu đối) ở đình hầu hết bị mất mát. Tiếp đến giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại, đình lại một lần nữa tiếp tục bị hủy hoại nặng nề. Sau khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, xếp hạng những di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật thì dân làng đã lập hồ sơ đình để xin công nhận là di tích lịch sử. Có thể vì trong tay không có đủ tư liệu cần thiết nên những người lập hồ sơ lúc đó chỉ căn cứ vào một bức hoành phi còn lại ghi CAO SƠN NGƯỠNG CHỈ để cho rằng thành hoàng thờ ở đình là Cao Sơn, song Thành hoàng đình làng Khương Thượng không phải là Cao Sơn vì:

1/ Hồ sơ xin xếp hạng di tích căn cứ vào bức hoành phi còn lại trong đình viết: CAO SƠN NGƯỠNG CHỈ nên cho là đình thờ thần CAO SƠN và Cao Sơn ở đây là danh từ riêng chỉ tên thần. Song trên thực tế, trong nhiều bức hoành phi ta thường thấy hai chữ CAO SƠN (cao như núi) để ca ngợi công đức các vị thần. Một chứng cớ là cổng đền Hùng ở Phú Thọ thờ các vua Hùng cũng có một bức tự viết 4 chữ CAO SƠN CẢNH HÀNG. Hai chữ CAO SƠN của 2 bức đại tự này đều lấy từ một câu thơ trong phần Tiểu nhã trong Kinh Thi (tập dân ca cổ của Trung Quốc), nguyên văn là: "Cao sơn ngưỡng chỉ. Cảnh hàng hành chỉ" nghĩa là: Ngước nhìn lên núi cao, tiến theo con đường lớn. Nghĩa rộng là: Ngưỡng mộ đạo đức cao thượng của thần và nguyện đi theo. Những chữ viết trong đại tự, hoành phi thường nhằm ca ngợi công đức, phẩm chất hoặc nói lên nguyện vọng, lời chúc tụng đối với thần hoặc một người nào đó mà thôi, không bao giờ dùng để ghi tên thần hay người lên đó. Tên thần hay tên người được ghi trên các bài vị để thờ và đặt trong ngai.

2/ Để giải quyết những tranh cãi về thành hoàng làng Khương Thượng là ai, cần phải căn cứ chủ yếu vào các tư liệu văn bản như thần phả, thần tích, sắc phong qua các triều đại phong kiến.

Từ năm 1938 với chủ trương của Trường Viễn đông Bác cổ, do một học giả Pháp là G. Xơ Đét thực hiện, việc sưu tầm tư liệu thành hoàng, thần sắc các làng đồng bằng Bắc bộ đã được tiến hành và hồ sơ được lưu giữ ở Thư viện Viễn đông Bác cổ, nay là Viện Thông tin khoa học xã hội (VTTKHXH), trong đó có làng Khương Thượng.

Sau đây là trích bản kê khai của Lý trưởng Khương Thượng năm 1938:

"Phụng kê sự tích thành hoàng làng Khương Thượng.

"1. Làng Khương Thượng, tổng An Hạ, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông

2. A) Thành hoàng không có tên gọi thường và tên húy. B) Ngài là thiên thần, không phải là nhân thần. C) Không có ngày sinh, ngày hóa, ngày hiển thánh. D) Sự tích ngài: Tục truyền đời xưa mới lập thành làng không biết ngày tháng năm nào, một đêm có hào quang trên trời chiếu xuống cái gò lớn ở cạnh đường đi, tức là đồng quán Quy, tự nhiên trong làng nhân vật (dân) không được yên ổn, vì vậy người làng dựng miếu thờ lên trên cái gò lớn ấy, trong làng mới được yên ổn. Đến đời ông Cao Biền nhà Đường sang đô hộ đóng ở thành Long Biên tặng phong vị thiên thần này là Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm đại vương. Đến đời vua Thái tổ nhà Lý đắp thành Đại La, một hôm ngài ngự giá qua đường này, có vào ngủ ở miếu ấy một đêm, mộng thấy vị thiên thần yết kiến. Khi đắp thành xong sai một vị quan đem lễ vật đến lễ tạ. Đến đời nhà Lê mở trường thi võ nên truyền đắp một cái gò lớn dựng lá cờ lên trên làm hiệu, gọi là núi cây cờ. Khi ấy trong nước có giặc giã, ngài ngự giá đến miếu mật khẩu: đức thiên thần âm phù việc diệt giặc, đánh đâu được đấy. Lúc ấy vua cấp cho 7 mẫu công điền để làm ruộng nhang đăng thờ vị thiên thần ấy quanh năm. Sự tích này sao theo bản giấy chữ Hán để trong ngọc phả của làng chứ không có sách có bia. Còn những bản sắc đời nào phong xin đính theo đây..."

Những sắc phong của các triều vua cho thành hoàng làng Khương Thượng còn được lưu giữ ở VTTKHXH gồm 20 đạo, trong đó có 14 sắc đời Lê, 2 sắc đời Tây Sơn, 6 sắc đời Nguyễn, sắc sớm nhất đời vua Lê Thần Tông niên hiệu Dương Hòa 8 (năm 1642), sắc gần đây nhất là năm Khải Định 9 (1924), 14 sắc phong dưới triều Lê mở đầu đều ghi: "Sắc Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm bảo quốc hộ dân, hiển ứng linh tế..." (Nghĩa là: Sắc Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm, giữ gìn đất nước bảo hộ nhân dân, ứng hiện rõ ràng, cứu giúp linh nghiệm...). Đoạn cuối các sắc này đều lặp lại: "Nay gia phong Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm, giữ gìn đất nước, bảo vệ nhân dân, linh ứng rõ rệt, sáng tỏ ân trên...". Cụm từ "Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm" đều được nhắc đến 2 lần, mở đầu sắc và đoạn cuối trong gia phong. Sắc 15 niên hiệu Tự Đức 7 không thấy ghi chữ “Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm”. Từ sắc 16 trở đi lại thấy ghi những chữ đó và lại thấy thêm chữ Tuấn lương, sắc 17 thêm Linh phù, sắc 18 thêm Dực bảo Trung hưng (là những mỹ từ ca ngợi phẩm chất tài năng và tốt đẹp của thần).

Theo kết cấu một sắc phong thành hoàng, nếu thần có tên gọi thì ngay từ đầu viết là sắc cho thần X và nhắc lại một lần nữa ở đoạn trao nhiệm vụ cho thần phải thờ vua giúp dân. Trong sắc phong ghi những mỹ từ vua ban tặng thần, những mỹ từ này cứ dài thêm ra qua các triều đại, có khi lên tới 150 mỹ từ. Những tước vị vua phong cho thần viết ở đầu sắc phong thường được ghi trên bài vị thờ thần ở đình làng để thờ, nếu thần không còn tên ban đầu thì những mỹ từ này được coi như tên gọi tôn kính thiêng liêng của thần.

Trong 21 bài văn tế thành hoàng đình Khương Thượng đọc trong các tiết tế trong năm, bài văn tế số 1 về sắc hiệu thượng đẳng thần có viết: "Tối linh đại vương Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm, bảo quốc hộ dân..." (Đại vương rất linh thiêng Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm giúp nước che chở cho dân), mỹ từ Phổ hóa... được dùng ngay sau từ đại vương đã cho ta nhận biết tên thần là Phổ hóa...

Trên cơ sở bản kê khai của Lý trưởng làng Khương Thượng năm 1938 "sao theo bản chữ Hán để trong ngọc phả của làng" và những sắc phong cùng những bài văn tế thần, chúng ta có thể kết luận là thành hoàng làng Khương Thượng là thiên thần, ban đầu có thể không có tên gọi (là một hiện tượng thiên nhiên sấm chớp, có thể có tên là Thần sấm), sau đó thần được các triều đại vua ban sắc phong có các mỹ từ về sự phù trợ rộng khắp linh thiêng của thần đối với dân chúng là Phổ hóa hoằng tĩnh chiêu cảm... thì dân làng gọi tên thần theo mỹ từ đó và lâu ngày thần có tên là Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm.

3/ Trong bản sưu tập 350 vị thành hoàng các làng ở đồng bằng Bắc Bộ của Viễn đông Bác cổ, ta thấy tên nhiều vị thành hoàng cũng là những mỹ từ như Phổ Đồng, Phổ Cứu, Phổ Hộ, Phổ Tế, Phổ Lại, Hoằng Tế, Hoằng La, Tuấn Lương... Những mỹ từ Phổ đồng, Phổ cứu... cũng được biến thành tên gọi của các thần, vậy Phổ hóa ở đây cũng theo nguyên tắc chuyển hóa đó. Điều này cũng phù hợp với thói quen của dân ta trước đây, không gọi tên chính của một người nào đó mà thường hay dùng chức vị của người đó ra gọi để tỏ sự kính trọng, lâu ngày không ai còn nhớ tên chính là gì, biến chức vị được phong thành tên người đó. Khi căn cứ vào hiện tượng đầu tiên để thờ, thì thần có thể có tên là thần Sấm, nhưng để tỏ sự kính trọng cái thiêng liêng của thần, người dân không muốn gọi thần bằng cái tên nôm giản dị ấy mà dùng những chữ Hán (do vua ban) để tôn thêm sự linh thiêng. Cứ thế sau đó tên gọi ban đầu bị quên đi, thần chỉ còn tên theo mỹ từ vua ban. Xét theo luận lý ấy thì tên thần, được những sắc phong ghi, từ năm 1642 trở đi là Phổ hóa Hoằng tĩnh Chiêu cảm là thông dụng và thần chỉ được gọi bằng những mỹ từ đó mà thôi.

Khi viết các sách Đình và đền Hà Nội cùng Bách khoa thư Bảo tàng di tích Hà Nội, chúng tôi đã căn cứ vào hồ sơ xếp hạng di tích của Bộ VHTTDLTT nên viết Thành hoàng đình Khương Thượng là Cao Sơn là không đúng. Nay qua việc sưu tầm, tiếp xúc với những văn bản mới được tìm thấy gần đây và kiểm tra lại thận trọng, tôi thấy cần phải sửa lại theo như phân tích trên, mong được các vị quan tâm trao đổi thêm về vấn đề này.

Từ việc xác định lại tên thành hoàng đình Khương Thượng có thể thấy việc xác nhận hồ sơ một di tích lịch sử văn hóa để xếp hạng cần được cơ quan văn hóa các cấp có trách nhiệm thực hiện hết sức cẩn thận chu đáo, đảm bảo tính chân thật khoa học; nhất là khi những người lập hồ sơ ở cơ sở thiếu thông thạo chữ Hán Nôm, không được tiếp xúc và tường tận các văn bản Hán Nôm lưu trữ liên quan đến di tích đó.

N.T.L

TB

BÀN VỀ BẢN DỊCH SẮC THẦN ĐÌNH TÂN HƯNG TRONG SÁCH BẠC LIÊU XƯA VÀ NAY

TRẦN PHƯỚC THUẬN

Bạc Liêu xưa và nay là một trong những tác phẩm nói về Bạc Liêu xưa đã được nhà nghiên cứu Huỳnh Minh biên soạn năm 1966, nội dung sách rất phong phú đã đáp ứng một phần lớn các nhu cầu tìm hiển về đất nước con người Bạc Liêu trong tiền bán thế kỷ XX và các thế kỷ trước, có thể nói đây là một tập tài liệu có giá trị về mặt sử học hiện đang được nhiều nhà nghiên cứu dùng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài khoa học xã hội có liên quan đến vùng đất Bạc Liêu. Tuy nhiên trong sách cũng có một số điểm hạn chế, cần nên xem lại; điển hình như bản dịch sắc thần đình Tân Hưng ở trang 148 - 149, cả phần phiên âm và phần dịch nghĩa đều có sai sót nhiều chỗ.

Nhận thấy Tân Hưng là một trong những ngôi đình cổ ở Bạc Liêu đã được xây dựng gần 200 năm trước, đây là một di tích lịch sử có liên quan rất lớn đến công cuộc khai mở đất hoang xây dựng làng xã của người Bạc Liêu. Đình đã được triều Nguyễn ban tặng sắc thần từ niên hiệu Tự Đức thứ 5 và hiện nay đã trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu của các công trình văn hóa lịch sử tỉnh Bạc Liêu và bản dịch sắc thần trong sách Bạc Liêu xưa và nay lại được thường xuyên sử dụng, cho nên việc bổ sung và hiệu đính bản dịch này, theo chúng tôi, đó cũng là những việc làm cần thiết.

Bản dịch sắc thần của đình Tân Hưng trong sách Bạc Liêu xưa và nay có nội dung như sau:

“Sắc bổn cảnh Thành - hoàng chi thần, nguyên tặng quản hậu chi thần,

“Hộ quốc tí dân nẫm trứ, linh ứng chí kim phỉ ứng, dịch mạng niên niệm thần hựu.

“Khả gia tặng Quản - hậu chính - trực hựu thiện đôn ngưng chi thần.

“Nhưng chuẩn Phong - Thạnh huyện, Tân - Hưng thôn, y cựu phụng - sự.

“Thần kỳ tương hựu, bảo ngã lê dân. Khâm sai.

“Tự - Đức ngũ - niên, thập nhất nguyệt, trấp cửu nhật.

* Dịch nghĩa:

Linh triều đình phong sắc cho vị Thành hoàng bổn cảnh, chức cũ là vị thần Quản hậu.

Giúp dân giữ nước sáng tỏ công lao, linh ứng đến ngày nay, nhân dân bổn địa đều nhìn nhận.

Lòng trẫm cũng tin tưởng là Thần giúp nên dân mới được bình an. Vậy hôm nay trẫm gia phong thêm là Quản hậu chính trực, hựu thiện đôn ngưng chi thần.

Sắc này chỉ phong vị Thành - hoàng tại thôn Tân - Hưng huyện Phong - thạnh, nhân - dân sở tại hãy y theo lối cũ mà phụng thờ.

Thần sẽ giúp cho, và Thần phải hết bổn - phận gìn - giữ lê dân của Trẫm. Hãy vâng theo sắc lịnh.

Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý 1852) tháng 11 ngày 29.

Sau khi đối chiếu bản dịch này với bản gốc của sắc thần thì phần trình bày thấy không đúng với hình thức trình bày một sắc thần, một số từ trong câu và một số dấu phẩy đặt không đúng vị trí; phần phiên âm thì vừa vào đầu đã thiếu mất 4 từ: Tôn hiệu cũ của thần được ghi trong sắc thần là “Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện” nhưng trong bản dịch chỉ ghi “Quản hậu” tên hiệu không viết hoa, từ “Quảng” lại phiên âm là “Quản”. Tiếp theo là các từ: Tứ (肆), phi (丕), ưng (應), cảnh (耿), miến (緬) trong bản phiên âm lại ghi: “Chỉ, phỉ, ứng, dịch, niên” không có nghĩa gì? Chấm dứt nội dung bằng hai từ “Khâm tai” lại ghi là “khâm sai”. Bốn từ cuối của sắc thần là “nhị thập cửu nhật” ở bản dịch lại ghi “trấp cửu nhật”. Vẫn biết “trấp” cũng là “nhị thập” nhưng quy định viết ngày tháng năm trong sắc thần phải dùng chữ phức chứ không dùng chữ biết tắt, cho nên “nhị thập” không thể phiên âm là “trấp” được.

Phần dịch nghĩa vì vậy cũng bị ảnh hưởng, nhất là phần cuối của bản dịch lại càng không đúng. Nguyên văn của phần cuối ghi: “Tự Đức ngũ niên thập nhất nguyệt nhị thập cửu nhật”: bản dịch ghi: “Tự Đức năm thứ 5 (Nhâm Tý 1852) tháng 11 ngày 29”. Thực ra Hoàng tử Nguyễn Phúc Thì (Hồng Nhậm) lên ngôi từ tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), nhưng năm đó còn dùng niên hiệu cũ là Thiệu Trị, đến năm sau 1948 mới đặt niên hiệu mới là Tự Đức, ngày 29 tháng 11 của niên hiệu Tự Đức thứ 5 là ngày 08/01/1853 dương lịch.

Bởi các lý do đã trình bày trên, chúng tôi xin phép bổ sung và phiên dịch lại bản dịch sắc thần của đình Tân Hưng như sau:

* Phiên âm:

Sắc bổn cảnh Thành hoàng chi thần, nguyên tặng Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện chi thần, hộ quốc tí dân nhẫm trứ linh ứng.

Tứ kim phi ưng Cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng chi thần.

Nhưng chuẩn Phong Thạnh huyện Tân Hưng thôn y cựu phụng sự.

Thần kỳ tương hựu hảo ngã lê dân.

Khâm tai.

Tự Đức ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập cửu nhật.

* Dịch nghĩa:

Sắc ban cho thần Thành hoàng bổn cảnh, nguyên được phong tặng là thần Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện, đã có công giữ nước giúp dân, lâu nay linh ứng rõ ràng.

Nay Trẫm vâng mệnh Trời, tưởng nhớ đến công của thần lâu nay che chở chúng dân.

Nên gia tặng thần hiệu là Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng.

Chuẩn y cho thôn Tân Hưng huyện Phong Thạnh vẫn phụng thờ như cũ.

Thần hãy tiếp tục trông coi giúp đỡ và bảo hộ con dân của Trẫm.

Hãy kính cẩn thi hành sắc mệnh này.

Ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý, niên hiệu Tự Đức năm thứ 5 (tức ngày 08 tháng 01 năm 1853 dương lịch).

T.P.T

TB

BẢN NGỌC PHẢ VỀ BÀ VỢ LÊ ĐẠI HÀNH ĐÁNH GIẶC TỐNG

TRẦN BÁ CHÍ

Hiện nay ở làng Tó, xã Tả Thanh Oai ngoại thành Hà Nội còn ngôi đền đẹp thờ bà Đô Hồ Phi Nhân (vợ vua Lê Đại Hành) có công đánh giặc Tống khi chúng xâm lược nước ta lần thứ nhất năm 980-981.

I. GIỚI THIỆU QUA ĐÌNH MIẾU HOA XÁ

Bà Đô Hồ được thờ ở đình Hoa Xá thuộc xã Tả Thanh Oai. Bản Ngọc phả cũng được cất giữ ở đó. Đình Hoa Xá còn gọi là miếu Bà Chúa Hến (婆 主 ) hoặc có người gọi là đình Thành Hoàng làng Tó. Sự thực thì miếu có từ xưa, sau mới có đình.

Địa danh Hoa Xá ra đời do nguyên ủy sự tích gì, nay ít người biết. Cũng có người đoán, "đặt ra tên Hoa Xá để sánh với tên Hoa Lư, nơi cung cấm của các Hoàng hậu vua Lê tại tỉnh Ninh Bình". Nhưng có người ngờ từ Hoa Xá đã có trước thế kỷ X.

Đình Hoa Xá đứng chênh vênh bên bờ sông Nhuệ, kiến trúc không nguy nga, đồ sộ bằng đền thờ vua Đinh, vua Lê ở Hoa Lư, Ninh Bình. Nó nhỏ gọn, nhưng xinh xắn, trang nhã.

Trong đình Hoa Xá có nhiều hoành phi, câu đối của nhiều văn sĩ thuộc nhiều đời, câu nào văn cũng hay, nội dung biểu dương tinh thần yêu nước, khí thế quyết đánh giặc Tống xâm lược, nên đã được nhiều nhà nghiên cứu đến tham quan ghi chép về làm tư liệu.

Từ ngoài đi vào đình Hoa Xá, ngay ở cửa Tam quan đã có nhiều phù điêu, bích họa tuyệt đẹp và nhiều câu đối có giá trị.

Một cặp câu đối ở mặt ngoài hai cột trụ biểu:

前 李 後 丁 留 聖 跡
襟 蘇 帶 銳 壯 神 居

Phiên âm:

Tiền Lý hậu Đinh lưu thánh tích:
Khâm Tô đới Nhuệ tráng thần cư.

Tạm dịch:

Trước Lý sau Đinh truyền dấu thánh;
Vành Tô giải Nhuệ đẹp đền thần.

Phía trong cửa "Tam quan" lại có cặp câu đối ngoảnh vào sân đình:

正 統 繼 丁 朝, 故 國 山 河 永 奠
廟 亭 臨 銳 左, 天 顏 咫 尺 不 違

Phiên âm:

Chính thống kế Đinh triều, cố quốc sơn hà vĩnh điện;
Miếu đình lâm Nhuệ tả, thiên nhan chỉ xích bất vi.

Tạm dịch:

Ngôi chính thống nối triều Đinh, giữ nước vững bền sông núi:
Dựng miếu đình bên sông Nhuệ, thờ vua chẳng cách tấc gang.

Từ cửa chính Tam quan, muốn vào đình ta phải bước qua sân đình và leo lên một tam cấp ghép bằng đá. Hai bên tam cấp có hai con sấu đá hiền lành, ngẩng mặt nhìn vào khách như hoan hỉ chào đón.

Giữa sân có hai con ngựa đá, lộ nét khắc chạm rất thần tình. Đây là đôi ngựa của văn thần Ngô Thì Nhậm, mưu sĩ của vua Quang Trung, thuê thợ khắc, dâng đặt thờ bà Đô Hồ và vua Lê Đại Hành vào năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798) để tưởng niệm công tích của hai vị thành hoàng làng mình. Ngựa đá cao 1,25m tính từ đầu gối chân trước đến mút đuôi ngựa đá. Yên ngựa cân đối, hai tà áo yên phủ hai bên hông ngựa có khắc thân rồng ẩn hiện trong mây. Cổ ngựa đeo vòng chuông nhạc, mỗi vòng 5 quả chuông tròn, riêng quả chuông giữa thì to dài và đã khắc tên hiệu ngựa vào đó. Tên con ngựa bên tay phải (bên hữu) gọi là "Bổng thần" (俸 宸) tên con ngựa bên trái (bên tả) gọi là "Ngự nhật" (馭 日). Dáng dấp ngựa thon, ngắn, thanh thoát.

Bước lên đình, tức Lễ đường có 5 gian rộng rãi, kiến trúc vững chắc: có biển đề thơ và nhiều hoành phi, câu đối. Qua lễ đường, hay đại bái, lại qua một ngôi nhà dọc, tục gọi chuôi vồ, thì đến miếu điện thờ bà Đô Hồ.

Giữa điện đặt long ngai ghi bài vị bà Đô Hồ và vua Lê Đại Hành. Hai vị thành hoàng này được phản ánh qua nội dung đôi câu đối treo ở đình:

Tạm dịch:

- Xưng đế cõi thiên nam, phá Tống bình Chiêm, ngựa sắt mấy phen lừng lẫy.

- Làm thần bên giang tả, dòng Tô mạch Nhuệ, sóng vàng một giải long lanh.

Cách đền một quãng đến Minh ngự lâu: Theo Lư sử thì Minh ngự lâu là vườn cũ của bà Đô Hồ, về sau xây thành cung phủ để bà ở. Từ đó theo dòng Cừ Hoàng đi tới cánh đồng Triều. Đồng Triều gồm có ruộng đất do vua Lê Đại Hành và dân làng Tó chia cho bà Đô Hồ để cày cấy sinh sống. Khi Bà Đô Hồ chết, thì Minh ngự lâu thành nơi thờ Bà và một số ruộng đất trở thành ruộng tế (ruộng lấy hoa lợi chi phí vào việc thờ Bà).

Kiến trúc tòa Minh ngự lâu rất đẹp, văn, thơ, câu đối ở đây vừa phản ánh công tích vừa ca ngợi mối tình của bà. Xin dẫn một câu:

天 福 巡 遊 元 妃 如 古 公 出 水 滸
銳 江 景 致 今 卻 憶 周 南 詠 河 洲

Phiên âm:

Thiên phúc tuần du, nguyên phi như Cổ Công xuất Thủy Hử;
Nhuệ giang cảnh trí, kim khước ức Chu Nam vịnh Hà Châu.

Tạm dịch:

Cuộc tuần du thời Thiên phúc thắm tình, tựa Đản Phụ(1) bên bờ Thủy Hử
Ngắm cảnh trí sông Nhuệ giang gợi nhớ, thơ Chu Nam vịnh bãi Hà Châu.

Câu “Ức Chu Nam vịnh Hà Châu” gợi lên hình tượng một thôn nữ có tài sắc, đức hạnh trở thành vương phi, đã được phản ánh trong Kinh Thi. Mở đầu Kinh Thi có bài Thư cưu thuộc phần Chu Nam phong có câu:

"Quan quan thư cưu,
tại Hà chi châu..."

Ở đây cuộc tình duyên giữa bà Đô Hồ và vua Lê Đại Hành lại có ý nghĩa hơn cả tình yêu trong Kinh Thi. Vì tình yêu ở đây bắt nguồn từ sự cảm phục nhau trước hành động tham gia cuộc chống Tống bảo vệ độc lập dân tộc.

Ở phần nghi lễ thờ Bà cũng liên quan nhiều sử liệu đặc sắc. Lễ tế chính bà Đô Hồ vào ngày rằm tháng giêng.

Dù ai đi Bắc đi Nam
Nhớ về hội Tó ngày rằm tháng giêng

Kế hoạch vào đám, thường được triển khai từ hôm mồng 4 tháng giêng âm lịch, qua mấy khâu: tập phu rước kiệu, dọn cỏ dọc đường, dựng 3 gian rạp hát, may sắm áo ngự v.v...

Vào lễ chính phải rước kiệu đưa bài vị từ đình Hoa Xá đến Minh ngự lâu để tắm cho thần, gọi là lễ "Mộc dục". Nội dung lễ phản ánh sự tích vua Lê ban áo gấm xiêm ngự, bảo Bà tắm gội thay y phục để cùng về Kinh đô Hoa Lư.

Đáng chú ý phần lễ chính ở tục "Soạn cỗ giỗ" thờ bà Đô Hồ. Lễ rằm tháng giêng soạn mâm đặt trước bài vị vua Lê Đại Hành gồm 3 thứ: bánh chưng, bánh dày, chè lam. Nhưng mâm soạn đặt thờ trước bài vị bà Đô Hồ tức bà chúa Hến thì rất đặc biệt. Nội dung các món ăn đã phản ảnh trung thực cuộc sống giản dị ở thời thơ ấu của Bà. Mâm cơm giỗ có 5 món: 1 liễn cơm tẻ, 1 bát canh hến, 1 bát canh đậu, 1 đĩa rau lang luộc, 1 đĩa muối vừng.

Các phần lược thuật trên đây hỗ trợ cùng bản ngọc phả tôi giới thiệu, chắc chắn sẽ giúp ích cho một số bạn đọc quan tâm đến sử học, văn học nghệ thuật và lễ hội. Đặc biệt về việc nghiên cứu Thăng Long và thời Tiền Thăng Long.

II. BẢN NGỌC PHẢ

Bản ngọc phả viết bằng chữ Hán, ghi tên ngoài bìa là Hoa Xá thành hoàng miếu phả lục. Khác với tên bài tựa ghi là đình. Chữ viết hàng dọc từ phải sang trái.

1. Phiên âm:

a. Hoa Xá đình Ngọc phả tự

Kê cổ thánh đế linh dị chi tích, bố kiến ư động thiên phúc địa, thiên niên thượng hạ do khả luận kỳ do lai dã. Phù nhân nhi hóa vị chi thánh, thánh bất khả tri vị chi thần.

Án linh tích tại giang tả ấp Hoa Xá đình, địa do Tô giang dẫn mạch, miếu do Nhuệ thủy bồi cơ. Tiền cảo vân: "Long lai ngọc xích, thủy khúc huyền thằng, tả hữu tương đối, chủ khách đồng đăng, trâm anh xuất sắc, khoa mục điệp hưng". Cố bản ấp tự cổ đa phát nhân tài hĩ.

Án Hoa Xá đình phả nội, bản ấp tự Đinh Lê triều, dĩ hữu thánh lai thần giáng, linh tích kim tồn, ấp dân tuế thời phụng tự thành hoàng nhị vị, viết: ngã đế quân, đế phi, thần vũ khắc quân, từ nhân vi mẫu.

Thánh phi sơ phát tường vu Hoa Xá, hậu thiên duyên định tại Nhuệ giang, thủy để trầm ngư tồn cựu tích, vân trung lạc nhãn kiến thiên nhan. Phi chi vi nhân quốc chi chân sắc, thuần hiếu chí tính, thượng cách thiên tâm, đạo cốt tiên phong, cố dĩ Đô Hồ, dĩ Uyển Nhàn vi mỹ hiệu giả dã.

Phi chi ấu thời trạch tích gia bần, hà triêu thảo cáp, lộ tịch phụ tân. Phi chi trưởng phối, gia cán quốc thần, dự đế quân bình Chiêm phạt Tống, lục cung củ phạm đoan trang; chấn anh thanh ư việt điện, lưu chiến tích vu giang san, tài do hải nhạc tú chung, đức do hà châu biểu thục. Một hậu tất anh linh như sinh chính trực, cố hương hỏa vạn vạn niên chi trường tồn, kỳ sự tích vạn vạn niên hữu phả lục. Tư tự.

Bính Thìn khoa Tiến sĩ, Lễ bộ Tả thị Lang, Thanh Xuyên bá Lê công cẩn chí.

b. Hoa Xá Lê đế phi miếu phả lục (Khảm chi bộ thượng đẳng thần)

Tích ngã Việt Hùng Lạc triệu cơ, Đẩu Ngưu phân dã; Phong Châu thắng địa, kiến lập kinh đô, Nghĩa Lĩnh hình cương, trùng tư miếu điện; Phụ truyền tử kế, nhị thiên dư niên, văn hiến túc trưng, anh hùng điệp xuất.

Đãi chí Đinh Mùi, Lê Đại Hành Hoàng đế Thiên Phúc niên gian, Tống triều Tri Ung châu, Thái thường bác sĩ Hầu Nhân Bảo thượng nam xâm sách lược, Tống đế dục thôn ngã quốc, mệnh chư tướng xuất Kinh Hồ sĩ tốt tam vạn, xuất kỳ bất ý tập kích. Thời Lạng châu văn Tống binh tương chí, cụ hữu trạng tấu. Đinh Thái hậu khiển Lê Hoàn tuyển dũng sĩ cự chi, dĩ Nam Sách nhân Phạm Cự Lượng vi Bình Tống đại tướng quân. Cự Lượng dự chư tướng quân dục hữu xích thốn chi công, tất tiên trạch suy chủ sự, nãi tôn Thập đạo tướng quan Lê Hoàn vi thiên tử. Đại Hành Hoàng đế tức vị, đô diệc Hoa Lư, kiến nguyên Thiên Phúc, mệnh quân dân thung mộc hạn giang, đế tự tướng kháng Tống. Thị niên thập nguyệt đế phát binh, khiển sứ như Tống, hoãn binh chi kế. Xuân tam nguyệt Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng chí Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ chí Tây kết, Lưu Trừng chí Bạch Đằng giang, thủy bộ tịnh nhập Nam quốc cảnh thổ. Đế suất chư tướng kích chi, Tống binh bại.

Khước thuyết: thời Đại Hành Hoàng đế thường đốc suất binh sĩ, tòng Nhuệ giang bắc tiến, lưỡng ngạn ấp nhân đa tòng phạt Tống. Nhất nhật, đế thứ quân vu Tả Thanh Oai xã, giang tả Hoa Xá ấp, thu thập binh lương. Chí Ngọ kiến tại chuyển lương chúng chi trung, hữu nhất thôn nữ diệp lạp thô y, mục thanh mi tú, diện mạo như ngọc, khẩu tiếu như hoa, cúc giang thủy tẩy kỳ thủ túc, thượng như ngũ sắc tường vân nhất đóa phúc cái kỳ thân. Đế dĩ vi phi thường chi nữ, nội tâm hữu động, ngoại bất cảm hình. Hậu nhật, Đại Hành Hoàng đế phá Tống tặc tại Đồ Lỗ giang, thiên hạ thái bình, khải hoàn kinh đô Hoa Lư, đế khai đại yến, luận công thưởng huân lao, quần thần thượng tôn đế hiệu, viết: "Minh càn ứng vận, thần vũ thăng bình chí nhân quảng hiếu Đại Hành Hoàng đế".

Đế nãi trạch nhật ngự loan giá bắc tuần, vấn an hương ấp. Chí giang tả Hoa Xá ấp, triệu tập lão ấu ấp dân đồng lại yến ẩm. Nãi triệu Đô Hồ nương cấp ngự y cẩm thường, phong vi quý phi, mệnh dục thể cải phục, tòng đồng ngự loan giá hồi Kinh. Phụ mẫu, tộc thuộc, ấp nhân giai hoan hỉ, dĩ vi quý hiển. Đế nãi cấp phó điền thổ kim tiền, dĩ phi kiến tạo long chu giang hành, thiết lập cung phủ tại cố trạch, hiệu Đô Hồ phi cung. Tương truyền tự thử đế quân, đế phi nhật tăng ái mộ, như cầm như sắt, như phượng như loan, sinh hạ nhất Lê công chúa, yểu điệu đoan trang, tinh phùng Thiên đế giáng sinh, niên chí thập nhị bệnh một. Thời công chúa sơ sinh, đế phi nạp Trần Phổ Hóa phu nhân Ngô Thị dưỡng dục, thập nhị niên liên đa hữu cần lao, cố đế phong vi “Thượng ban nhũ mẫu”.

Đãi chí Ất Tỵ ứng Thiên thập nhị niên, Tống Cảnh Đức nhị niên, xuân tam nguyệt sơ bát nhật, Đại Hành Hoàng đế băng vu Trường Xuân điện, táng tại Trường An châu sơn lăng, từ miếu đa phương kiến lập. Thử thời, tại Thanh Oai huyện, Tả Thanh Oai xã, Giang tả Hoa Xá ấp, dân diệc lập miếu phụng sự, dĩ niệm khuông dân hồng đức, truy tư phạt Tống kỳ công, thử địa thử giang trường tồn chiến tích, đế sinh đế hóa hương hỏa vĩnh thùy. Thị cố bản ấp lê dân cung ngưỡng đế quân vi Đệ nhất bản cảnh thành hoàng, mạc phù âm trợ đã.

Đãi chí đế phi hoăng, ấp dân tuế thời phụng tự. Cứ cựu trạch thiết ngự lâu, cải phi cung vi miếu điện, vị thánh đế, thánh phi chi miếu điện dã. Miếu tiền hữu Nhuệ thủy vi án, hậu ỷ Tam thai vi chẩm, đệ niên kính tế, lịch đại sắc phong, ấp dân kỳ đảo bản miếu nhị vị:

- Minh càn ứng vận thần vũ thăng bình, chí nhân quảng hiếu Đại Hành Hoàng đế, ngọc bệ hạ !

- Nhuận trạch hoằng phu bác lợi Nhàn Uyển Đô Hồ phi nhân, kim điện hạ !

Cập phối:

Lê triều phò thánh giá, phạt Tống hữu đại công, Dũng Mạnh tướng quân linh thần vị tiền.

Dũng Mạnh tướng quân chính miếu tại Phúc Lâm giáp, giáp dân phụng tự. Kim tồn tùng thụ nhất khu, tương truyền thử thời tướng quân trú binh vu thử.

Thánh phi một hậu giai nậm trứ linh ứng, cố lũy hựu phong. Tương truyền Trần thời hữu Nguyên tắc lai xâm, Thăng Long thành bị hãm, Trần đế mệnh quan mật đảo tại bản miếu, thần dĩ hiển linh, âm phù thảo thoái nguyên tắc. Chí Lê Thái tổ khởi nghĩa bình Minh, thần dĩ âm trợ chư tướng, đại phá Minh tặc tại Đông Đô, tại Ninh Kiều, Chúc Động, huyết lưu mãn giang. Chiến hậu Lê đế gia phong mỹ tự, sắc chỉ bản ấp trùng tu miếu điện phụng tự.

Hồng Phúc nguyên niên trọng xuân cốc nhật.

Hàn lâm Lễ bộ Đông các đại học sĩ, thần Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hựu lục niên trọng thu cát nhật. Quản giám bách thần tri điện, Hùng lĩnh thiếu khanh, thần Nguyễn Hiền tái tuân cựu bản.

2. Dịch nghĩa:

a. Lời tựa bản ngọc phả đình Hoa Xá:

Xét dấu vết linh thiêng của các bậc thánh đế thời xưa, thường thấy hiển hiện ở những nơi động thiên phúc địa, nên những việc trên dưới nghìn năm còn có thể bàn đến cội nguồn của nó được. Ôi, người mà giáo hóa được mọi người thì gọi là bậc thánh, sự hóa của thánh mà (người đời) không thể hiểu nổi thì đó là thần.

Xét linh tích đình Hoa Xá thuộc ấp bên tả sông Nhuệ, đất do sông Tô Lịch dẫn mạch, miếu do sông Nhuệ đắp nền. Sách xưa gọi là: "Đất mạch rồng dóng thước ngọc, sông nước vạch dây đo, bên tả bên hữu đối xứng nhau(2) ngôi chủ ngôi khách cùng tiến(3) khiến cho dòng trâm anh xuất sắc, đường khoa mục nối tiếp nhau". Nên ấp ta từ xưa đã sinh ra nhiều người tài giỏi.

Xét theo ngọc phả đình Hoa Xá, thì ấp ta từ triều Đinh, triều Lê đã được thánh qua thần giáng, linh tích đến nay vẫn còn, dân ấp hàng năm tế tự hai vị thành hoàng. ấy là vị thánh quân và vị thánh phi của ta. Đế quân từng có vũ công đánh đông dẹp bắc, Thánh phi có đức nhân từ, xứng là quốc mẫu. Ban đầu đức Thánh phi phát tích ở Hoa Xá, về sau duyên trời đưa đẩy đến ven sông Nhuệ. Nơi sắc đẹp của Bà làm cá chìm đáy nước nay còn dấu cũ, làm nhạn sa lưng trời(4) như vén mây cho thấy thiên nhan(5). Bà thuộc hàng quốc sắc, tính rất hiếu thuần, nhân cách hợp ý trời; đạo xây thể cốt, tiên đúc phong tư, cho nên lấy chữ Đô Hồvà chữ Uyển Nhàn(6) làm mĩ hiệu của Bà.

Bà lúc nhỏ nhà nghèo, sớm lo mò hến dưới sông, tối phải đội củi dọc đường. Lúc lớn lên lấy chồng, việc nhà ra tay mẫn cán, việc nước như một hiền thần; cùng Lê đế lo bình Chiêm phá Tống, mẫu mực đoan trang cả trong sáu cung; từng nổi tiếng thơm trên đất Việt, còn lưu chiến tích khắp non sông. Tài cán ấy do biển núi đúc nên, đức hạnh ấy do suối sông tạo dựng. Bà khi mất rất anh linh, như khi sống thường ngay thẳng, cho nên hương lửa muôn muôn năm vẫn còn, sự tích muôn muôn năm ghi trong phả lục. Nay tựa!

Ông người họ Lê, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, chức Lễ bộ Tả thị lang, tước Thanh Xuyên bá, kính cẩn đề tựa.

b. Phả lục miếu thờ thánh phi của hoàng đế họ Lê tại Hoa Xá

(Sắc phong Thượng đẳng thần, ghi sổ ở bộ Cấn chi Khảm)

Nước Việt ta xưa đời Hùng Lạc gây móng dựng nền, lấy sao Đẩu sao Ngựu chia cõi. Đất Phong Châu thắng địa dựng Kinh đô; núi Nghĩa Lĩnh hình thế kiên cường, tu sửa miếu điện. Cha truyền con nối, hơn hai ngàn năm, văn hiến rõ rệt, các anh hùng nối tiếp xuất hiện.

Đến cuối đời Đinh, vào niên hiệu Thiên Phúc triều vua Lê Đại Hành, có tên Tri châu Châu Ung nước Tống là viên Thái thường bác sĩ Hầu Nhân Bảo dâng sách lược xâm chiếm phương Nam, vua Tống nghe lời, muốn thôn tính nước ta, liền sai các tướng mang hơn ba vạn quân Kinh, Hồ sang thình lình tập kích. Lúc bấy giờ, người Lạng Châu thấy quân nhà Tống sắp sang, dâng trạng tâu về triều. Bà Đinh Thái hậu sai ông Lê Hoàn chọn quân dũng sĩ đi đánh; lại cử một người ở Nam Sách là ông Phạm Cự Lượng làm Bình Tống đại tướng quân. Ông Cự Lượng cùng các tướng sĩ đều nghĩ rằng: "Muốn lập một chút công, ắt trước phải chọn người chủ sự", bèn suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi thiên tử. Hoàng đế Lê Đại Hành lên ngôi, kinh đô vẫn đóng ở Hoa Lư, lập kỷ nguyên Thiên Phúc, rồi sai quân lính, dân chúng đẵn cọc gỗ cắm ngăn sông. Vua tự làm tướng chỉ huy đánh giặc Tống. Tháng mười năm ấy vua ra quân, có sai người đi sứ sang nước Tống để làm kế hoãn binh. Đến tháng ba mùa xuân (năm sau), Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn(7) Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, các cánh quân thủy bộ đều xâm nhập vào bờ cõi nước ta, vua đốc suất các tướng ra đánh, quân Tống bị thua.

Lại nói: lúc bấy giờ vua Lê Đại Hành thường đốc thúc quân lính theo dòng sông Nhuệ tiến lên phía bắc(8). Nhân dân ở nhiều ấp dọc hai bờ sông đã theo vua đánh giặc Tống. Một hôm vua Lê dừng quân ở ấp Hoa Xá phía tả ngạn thuộc xã Thanh Oai để thu thập binh lương. Đến trưa, vua trông thấy một thôn nữ trong số người chuyển lương, đội nón lá, mặc áo thô, mắt sáng mày đẹp, vẻ mặt như ngọc, miệng cười tươi như hoa, đang cúi vốc nước sông rửa chân tay, dường như có đám mây năm sắc che chở trên đầu. Vua cho rằng đó là một cô gái khác thường, trong lòng xúc động nhưng bên ngoài không dám thổ lộ.

Ít lâu sau, vua Lê Đại Hành đánh tan giặc Tống ở sông Đổ Lỗ(9), thiên hạ thái bình, khải hoàn về kinh đô Hoa Lư. Vua mở tiệc lớn, bình công, thưởng những người vất vả góp sức. Các đình thần dâng tặng tôn hiệu cho vua là: "Minh càn ứng vận Thần vũ Thăng bình Chí nhân Quảng hiếu Đại Hành Hoàng đế"(10). Vua bèn chọn ngày ngự giá bắc tuần, thăm hỏi dân làng. Vua về đến ấp Hoa Xá bên giang tả, triệu tập già trẻ trong ấp cùng đến dự yến. Vua cho mời nàng Đô Hồ tới, ban cho quần gấm áo ngự, phong làm quí phi. Sai Bà tắm gội(11) thay quần áo theo xa giá cùng vua về Kinh. Lúc đó, cha mẹ tộc thuộc và dân ấp đều vui mừng lấy làm vẻ vang. Vua lại cấp cho ruộng đất, tiền vàng để Bà đóng thuyền rồng bơi sông và lập cung điện tại nhà ở cũ, gọi là "Đô Hồ phi cung". Tương truyền từ đó, Thánh đế và Thánh phi ngày thêm yêu nhau như đàn cầm đàn sắt, như chim phượng chim loan, rồi sinh được một nàng công chúa, yểu điệu, đoan trang, nhưng vì sao thiên đế giáng sinh, nên đến mười hai tuổi đã bị bệnh mà chết. Lúc mới sinh công chúa, bà Thánh phi nhờ bà họ Ngô là phu nhân của ông Trần Phổ Hóa nuôi dưỡng bú mớm. Suốt mười hai năm liền, bà này có nhiều công khó nhọc, nên được phong là "Thượng ban nhũ mẫu".

Đến năm Ất Tỵ niên hiệu ứng Thiên(12) thứ mười hai (tức năm thứ hai niên hiệu Cảnh Đức nhà Tống) mùa xuân, tháng ba, ngày mồng tám, vua Đại Hành mất ở điện Trường Xuân, chôn ở lăng châu Trường Yên, nhiều nơi đã lập đền thờ. Thời ấy ở xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, dân ấp Hoa Xá bên tả sông Nhuệ cũng lập đền thờ vua để nhớ ơn đức giúp dân, ghi công đánh tan giặc Tống. Đất ấy, sông ấy mãi mãi còn truyền chiến tích, ngày sinh ngày mất của vua được đời đời hương lửa. Vậy dân ấp cung kính phụng thờ vua, làm Đệ nhất bản cảnh thành hoàng để được ngài phù hộ.

Đến khi bà Thánh phi mất, dân ấp cũng quanh năm phụng thờ. Tại nơi ngôi nhà cũ dựng ngự lâu, sửa phi cung làm thành miếu điện gọi là miếu điện thờ Thánh đế, Thánh phi. Phía trước miếu có sông Nhuệ làm án, phía sau tựa núi Tam Thai làm gối, hàng năm dân ấp tế lễ, đời đời được sắc phong. Dân ấp phụng kì đảo hai vị thành hoàng ở miếu hiệu là:

- Minh càn ứng vận Thần vũ Thăng bình Chí nhân Quảng hiếu Đại Hành Hoàng đế - Ngọc bệ hạ!

Và:

- Nhuận trạch Hoằng phu Bác lợi Nhàn Uyển Đô Hồ phi nhân - Kim điện hạ!

Mời phối hưởng có vị "Lê triều phò thánh giá, phạt Tống hữu đại công, Dũng Mãnh tướng quân linh thần - vị tiền".

Dũng Mãnh tướng quân có đền thờ chính ở giáp Phúc Lâm, do dân giáp thờ phụng. Nay còn một vùng cây cối rậm, tương truyền là nơi ngày xưa tướng quân đóng quân tại đó.

Sau khi đức Thánh phi mất, có nhiều linh nghiệm hiển ứng, nên trải các triều đại đều có sắc phong. Tục truyền đời nhà Trần có giặc Nguyên sang xâm lược, thành Thăng Long bị vây, vua Trần sai quan về cầu đảo tại miếu, Thần đã hiển linh ngầm giúp, nên đánh lui được giặc Nguyên. Đến thời vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa đánh giặc Minh, thần đã ngầm giúp các tướng đại phá được giặc Minh ở Đông Đô, ở Ninh Kiều, Chúc Động, máu chảy đầy sông. Sau ngày kháng chiến, vua Lê gia phong mỹ tự, sắc chỉ sai dân ấp sửa sang miếu điện để thờ phụng.

Hồng Phúc năm đầu, tháng trọng xuân(13) ngày tốt. Hàn lâm Lễ bộ, Đông các đại học sĩ, thần Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ sáu, tháng trọng thu, ngày tốt(14). Quản giám bách thần tri điện, Hùng Lĩnh thiếu khanh, thần Nguyễn Hiền tuân sao theo bản cũ.

T.B.C

CHÚ THÍCH:

(1) Cổ Công Đản Phụ: tên vị thủ lĩnh họ Chu, ông của Chu Văn Vương, dời tới đất Kỳ Sơn khai khẩn mở mang đất đai, xây thành quách, đặt quan lại, gây dựng cơ sở cho nhà Chu, được truy phong là Thái Vương. Kinh Thi - Đại nhã có câu: "Cổ Công Đản Phụ, Lai triều tẩu mã. Suất tây Thủy Hử, chí ư kỳ hạ".

(2) Tả, hữu: đây chỉ thế đất phát đạt về văn, về võ.

(3) Chủ, khách: ở đây nói về mặt nội trị, ngoại giao.

(4) Xưa có cô gái đẹp một lần ngửa mặt lên trời, đàn chim nhạn trông thấy mặt mà phải sà xuống; Cô dạo quanh hồ, cá mặt hồ ngơ ngẩn trước sắc đẹp mà phải chìm: "sắc đẹp nhạn sa cá chìm".

(5) Thiên nhan: sắc mặt nhà vua.

(6) Đô Hồ, Uyển Nhàn: những "mỹ từ" thường dùng tả về tiên.

(7) Đoạn này Nguyễn Bính soạn theo sử của Ngô Sĩ Liên.

(8) Sông Nhuệ thời cổ sâu rộng: Quân Bà Trưng, Bà Tía, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đều có lần tiến quân theo sông ấy.

(9) Sông Đổ Lỗ: Xem Trận Đổ Lỗ của Trần Bá Chí trong sách Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, Nxb. Quân đội Hà Nội 1992.

(10) Thực ra khi vua mất mới tôn hiệu là Đại Hành. Đây do chép theo sử.

(11) Rằm tháng giêng tế bà Đồ Hồ có lễ "mộc dục", tức lễ "tắm thánh" phản ánh việc Lê Hoàn sai bà tắm gội, mặc áo gấm về Kinh đô Hoa Lư.

(12) Năm Ất Tỵ niên hiệu ứng Thiên thứ 12 tức năm 1005 dương lịch.

(13) Tức tháng hai năm Nhâm Thân (1572) đời Lê Anh Tông.

(14) Tức tháng 8 năm 1740 dương lịch.

TB

BÀI MINH KHẮC TRÊN CHUÔNG CHÙA THIÊN PHÚC ĐỜI LÝ (1109)

HOÀNG VĂN LÂU

Bài minh này được tìm thấy trong sưu tập văn bia Kim loại văn tụ vào năm 1995. Năm 1998, đã được công bố bằng nguyên bản chữ Hán trong tập Văn khắc Hán Nôm Việt Nam - Từ Bắc thuộc đến thời Lý, một công trình hợp tác nghiên cứu và xuất bản văn bia Việt Nam do Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn đông Bác cổ (Cộng hòa Pháp) tiến hành. Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 2001, đăng bài Bài minh văn chùa Thiên Phúc đời Lý, bổ sung một số điểm về quá trình phát hiện và giám định văn bản, đồng thời có giới thiệu nội dung chủ yếu bài minh chùa Thiên Phúc này.

Nhận thấy bài minh chuông chùa Thiên Phúc thời Lý, không những là tư liệu hiếm về Thiền sư Từ Đạo Hạnh, mà còn là sử liệu rất quý; giúp hiểu thêm về Phật giáo và văn hóa thời Lý, chúng tôi xin phiên âm, dịch nghĩa và chú giải bài minh văn này và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Phiên âm:

THIÊN PHÚC TỰ HỒNG CHUNG MINH VĂN

Duy Long Phù Nguyên Hóa cửu niên Kỷ Sửu chính nguyệt, Đạo Hạnh thiền sư duyên hóa Cự Việt quốc chu môn bạch ốc, nhân nhân hỷ cúng, Hoạch xích đồng nhị thiên dư cân, chú hồng chung nhất khẩu, huyền ư Bồ Đà lạc sơn Hương Hải viện nội. Khấu kích lục thời hành đạo, thượng báo Tứ ân, hạ tế tam đồ giả.

Phù, diệu lý tuy nhất, vọng cảnh thực phồn. Bẩm tuy nhất nhi vạn hóa sinh thành, tùy vạn hóa nhi dung nhất viên điểm. Vô hình khả trắc, vô ngữ khả am. Vô hình nhi hình biến đại thiên, vô ngữ nhi ngữ chu ức sái. Trách bất vi ngại, tạp bất vi tri. Tại tiêm trần nhi hoa tạng trang nghiêm, cư trọc kiếp nhi viên châu oánh triệt. Thị chúng sinh chi hạnh ý, phi chủ Phật chi biệt tâm. Giác dã giả, nhất lộ Niết Bàn; mè dã giả, lục thú sinh diệt. Do thị tự tương bi mẫn, giả tướng thù luân. Thánh hiền phục như nghị mộ chiên, Thần lực hóa như phong yển thảo. Cức chức mang muội, tà bệnh triền miên. Diễn cổ giảo nhi đạo hĩ, định vị tề tri; tỳ tín khí nhi cảnh yên, phương năng tiệm tiến. Kỳ giáo dã, y căn lập thuyết, dĩ nhất thừa nhi quát nang; Kỳ khí dã, thủ tượng thành danh, dĩ hồng chung vi kiềm hạt.

Chung giả, ngoại thị viên thực, nội biểu hàm hư. Kỳ viên dã, thường dụng nhi mị giác; kỳ thực dã, thủ nan hoại chi danh. Kỳ hàm dã, chư nhập nhi vật ngại; Kỳ hư dã, dương vô tận chi ý. Bất như thị, hà Phật mệnh nhất khấu, thiên lôi thốn thanh, địa lại thu hưởng, tức Tam giới phản ngộ. Hạnh trí, nãi Tam đồ, toản chư khổ chân, khỉ việt liệt bất dĩ sự tế thiên hạ da? Kỵ hậu thục năng kế giả, thị chân khả hĩ.

Nhi kim tức hữu Đạo Hạnh thiền sư, ấu nhi tú cốt, trưởng nại kỳ tư, Tụng tập Liên kinh, ngọc dặc hầu nhi liễu lượng; xuất gia vận độ, Phật sinh ý nhi từ bi. Kiến Bát chủng nhi hải ngung tận nghiêm, cứu Tam kíp nhi thiền kinh cộng quán. Cấu thời đại hạn, nhiên nhất chỉ nhi vũ tất bái nhiên; Học cổ hưu lương, tọa đa vu nhi dung vô cơ sắc. Vạn dân khởi lệ, trì thủy sái nhi hạnh tuyệt bệnh nguyên; Chư sự vị manh, dự ngôn tri nhi đích như phù khế. Kinh viết: Phật hữu bát biện, phi sư nhi bất kế viên âm; Phật chế thi la, phi sư nhi bất năng kiên cố. Đế Thích phúc điền, phi sư nhi bất bá hùng hinh. Dược vương thiêu tế, phi sư nhi bất nại khổ thành. Quan Âm cứu nạn, phi sư nhi bất thiệu công danh. Cao tăng hiển dị, phi sư nhi bất chủng thần linh.

Nhiên tế cơ vân tất, trạch xứ thê trì. Xuất thành tây nhi nhĩ đoạn huyên, lịch họa lộ nhi tâm tự vinh. Việt nhất giang thủy, kiến nhất sơn thanh. Trạo thạch nhi bộ lạc tục trần, môn la nhi thân đăng thượng giới. Kỳ sơn dã, túng lăng già chi nhiễu, sinh Bảo Nguyệt chi thu. Hữu kỳ xích thê nhập viên khám, thạch khám dã. Ngũ sắc vân thành tựu, thất châu bảo huy thùy. Chu võng tương liên, thù y gián thái. Hạ tồn Phật tích, trung tráng nghê đài. Kỳ tích dã, bạch ngọc tại để, thanh long bàn ngoại; Kỳ dài dã, tê dốc trấn bàng, đăng công liên thứ. Khỉ mô trượng nhất, tức mô Thứu phong. Tích ẩn giả công đức sở thành, khỉ thần linh tạo hóa sở dị. Sư cự vị du tuần, sự hoàn cảm ứng. Dã hỉ lai phục, sơn cư tự thuần. Tịch mịch tạ nhi tụng Liên kinh, khung sùng thiên nhi tống hoa cổ. Xử chu lục tải, huệ phổ tích thiên. Chư vương tử chi xa mã hưởng phong, khuynh quốc nhân chi hương hoa đỉnh lễ. Ngự thư lai chiếu, pháp tịch giáng lâm. Tứ bảo y nhi đẳng thượng bằng, trắc Phật xa nhi mâu tứ quả. Trai bãi chi nhật, kim tích hồi lập ư sơn cước. Đệ tử các thân kỳ ngôn ý, lôi đồng viết: Nham điên tiếu trực, vân lộ nguy. Sư thần túc chi vị đăng, khách phàm tung chi nan bộ. Duy chiêm hạ thổ, diệc hợp thắng phương. Loan khuất khúc nhi khỉ dị Bồ Đà, thủy trừng triệt nhi hà thù Hương Hải. Mệnh kỳ lương tượng, quý bỉ trung ương. Cấu ngọc vũ nhi hoảng tứ duy, tọa kim dung nhi quang hữu tiệt. Chúng trì tư ngữ, thụ tức dương thanh. Phiến thời nhi sĩ nữ thân lai, bất nhật nhi cảnh giới tiện hiện. Thái tử kỷ mộc, đào bích ngõa lư, Thằng mặc tung hoành, cân phủ tạp tạp. Nga nga tân viện, nghiệp nghiệp nguy lâu. Tài tùng nhi kinh dẫn thanh lương, nghệ hóa nhị cảnh diên phức úc.

Sư nãi viết: "Tư đường trật trật, tựu chúng sâm sâm. Bất miễn thuyết pháp chi diên, tất quải hồng chung chi cảnh. Pháp tuy tự ngã, chung tất tòng tha". Cố sách trượng hạ hóa, cao thiên mạch. Như lân du thú vũ, trục phụng tường hoàng. Cạnh tùy hành vị lưỡng tuần, thi đôi nhất ngụ. Nghệ ư Hưng Phúc tự, chương phi vân bệ, thiên tích kim cung. Luyện thổ thành mô, dương hỏa tinh luyện. Chú chi nhật, sư tuy giám mặc, nhân cạnh xưng dương. Cảm Thái hậu chi đồng phong, khiển trung sứ chi lại thất. Thứ nãi luân đề bôn nhi không chu hộ, thiếu ngãi tẩu nhi khuât lư diêm. Huyền nhập hương giai, phân nhược đông thị. Khoảnh, hỏa công tứ lực, kim tượng nghiêm lệnh. Cổ thác luân nhi thanh chấn hải ngung, bình yên lư nhi quang đằng ngân hán. Hoàn khí hữu dị, gia thụy tương sinh. Vị cơ giả, cánh yên thứ loại, kháng mị tự giang. Tài lung nhi sắc đoạt tuyết hoa, sạ kích nhi thanh du lôi hống. Thiên hạ linh chi, nhân hàm khách ngưỡng. Sư tương quy Bồ Đà nham bạn, Đạt Bi vân lâu. Huyền dĩ kim sách, chàng dĩ kinh trùy. Đán tịch hành đạo, tiên hóa kim thượng vĩnh hóa, bảo tộ trường tân. Cảm quốc khí nhi thế phồn xương, tự lê nguyên nhi bang di thái. Nhiên nguyện sùng cao mộ đạo, động đạt thuần chân, dĩ phúc ấm ư thương sinh, dụng khuông phù ư hùng nghiệp. Hậu ký thí tu cự tế đẳng thuận phong thiên thiên, đỉnh đái hương hoa, kim cảnh lộc lai tư, hậu ngộ phù bản giác.

Sư kiến dư viết: "Tân thành kiện chùy nhất khẩu, tắc chúng duyên đồng tu. Ngã võng tích khả kỷ, lưu phương thí giả danh, liêu ký truyền hậu". Huệ Hưng thiển học, bất từ nịch quản vi minh. Minh viết:

Phật dĩ hồng chung cảnh vật hề, ngộ bản tâm.

Sư thành pháp khí hóa thế hề, phát tín âm.

Thiên cung ký trứ dục sắc hề, hoàn tự giác.

Địa phủ đương yếu hình lục hề, phóng nhược thâm.

Long Phù Nguyên Hóa cửu niên Kỷ Sửu bát nguyệt sơ cửu nhật lập ký.

Thiên Phúc tự tứ tử đa sa môn Thích Huệ Hưng soạn.

....

{Trần Anh Tông Hưng Long thập nhị niên cấp tự điền Thánh chỉ}

Dịch nghĩa:

BÀI MINH KHẮC TRÊN CHUÔNG CHÙA THIÊN PHÚC(1)

Tháng Giêng, năm Kỷ Sửu, niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109)(2). Thiền sư Đạo Hạnh(3) đi quyên giáo khắp nước Đại Việt(4), từ cửa son đến mái rạ(5), mọi người đều vui vẻ cung tiến, quyên được hơn hai nghìn cân đồng đỏ, đúc một quả chuông lớn, treo trong viện Hương Hải(6), Bồ Đà Lạc Sơn(7), sáu thời(8) gõ chuông hành đạo, trên báo đáp Tứ ân(9), dưới cứu với kẻ sa xuống Tam đồ(10).

Ôi, diệu lý(11) tuy một, nhưng vọng cảnh(12) thực rất nhiều. Bẩm sinh tuy chỉ một, mà vạn hóa sinh thành, theo vạn hóa nhưng chỉ một viên điểm. Không hình dạng để có thể quan sát, không lời nói để có thể am tường. Không hình dạng nhưng hiện hình khắp cõi đại thiên, không lời nói nhưng tiếng vang khắp muôn chùa Phật. Nhỏ hẹp mà chẳng gây trở ngại, hỗn tạp mà chẳng vấy bùn đen. ở chốn bụi trần mà tựa hoa nở trang nghiêm, giữa kiếp đục nhơ mà như hạt châu lóng lánh. Đó là may mắn của chúng sinh, chứ đâu phải chư Phật có ý gì khác. Kẻ giác ngộ, lên thẳng cõi Niết Bàn(13), người u mê, quẩn quanh vòng lục thú(14). Do vậy, tự mình bi thương buồn khổ, giả tướng muôn vẻ khác nhau. Thánh hiền phục như kiến bâu tanh, thần lực hóa như giông cuốn cỏ. Trăm việc mù tối, tà bệnh liên miên. Dùng cổ giáo(15) để dạy răn, hẳn không biết cả; đem vật thực mà cảnh tỉnh, mới hiểu dần dần. Giáo hóa thì dựa vào căn cơ, dựng nên học thuyết "Nhất thừa"(16) để tóm thâu. Vật thực thì lấy hình tượng để thành tên, coi chuông lớn là thứ nhất.

Chuông, bên ngoài biểu thị tròn đầy(17), bên trong tỏ ý chứa rỗng(18). "Tròn" nghĩa là luôn dùng mà không hay(19), "đầy" là lấy ý khó hủy hoại, "chứa" nghĩa là chứa vào mà không trở ngại; "rỗng" có ý phát huy vô tận. Nếu không như vậy, cớ sao Phật vừa sai gõ chuông thì sấm trời im tiếng, sáo đất lặng âm, Tam giới(20) lập tức tỉnh ngộ. May mắn hiểu được Tam đồ(21), là sự tiếp nối nỗi khổ đau, vượt qua được, chẳng phải là dùng sự thực để cứu thiên hạ hay sao? Từ đó về sau, mỗi dịp treo đèn bầy tiệc, gõ chuông lên, Phật tử thành hàng; mỗi khi mừng Phật lên tòa, gõ chuông mà thuyết pháp nghiêm bị. Từ đó, ai người kế nối, thực đã có thể rồi.

Nay có Thiền sư Đạo Hạnh, tuổi nhỏ thanh tú khác thường, lớn lên thiên tư kỳ vĩ. Khi tụng tập Liên kinh(22), tiếng ngọc vang sang sảng; lúc xuất gia hành lễ, tâm Phật thấm từ bi. Dựng Bát chủng tháp(23) mà khắp cõi hết mực uy nghiêm, đọc Tam khíp thư(24) mà kinh Phật thảy đều quán triệt. Gặp khi đại hạn, đốt một ngón tay mà mưa xuống tràn trề; học cổ không ăn, ngồi đó nhiều năm mà mặt không sắc đói. Dân mắc dịch bệnh, bưng nước rẩy mà dứt hết ốm đau; việc chưa manh nha, dự đoán trước mà trúng như bùa phép. Kinh Phật nói: "Phật có bát biện(25), không có thầy thì không ai nối viên âm; Phật đặt ra thi la(26), không có thầy thì không thể vững chắc. Phúc điền của Đế Thích(27), không có thầy thì không truyền bá được hương Phật, Dược Vương đốt cánh tay(28), không có thầy thì không ai hiểu được lòng thành. Quan Âm cứu nạn, không có thầy thì không ai nối tiếp công danh. Cao tăng tỏ rõ linh dị, không có thầy thì không ai kế gót thần linh".

Nhưng khi niệm Phật cứu đời xong, thầy chọn chỗ lui nghỉ. Ra phía tây kinh thành mà bên tai dứt mọi ồn ào, trải gót trên đường tai họa mà trong lòng tự thấy thanh tịnh. Qua một dòng sông, thấy một ngọn núi xanh, men đá mà bước lạc tục trần, vịn dây mà thân lên thượng giới. Ngọn núi ấy sừng sững như Lăng Già(29) bao bọc, vằng vặc một vầng trăng thu. Có bậc thang lạ, dẫn vào am Phật bằng đá. Mây ngũ sắc vần vụ, ngọc thất châu buông rèm. Lưới nhện đan xen, áo tơ(30) rực rỡ. Bên dưới có dấu Phật, ở giữa có đài nghê tráng lệ. Dấu Phật có ngọc trắng dưới đáy, rồng xanh cuộn bên ngoài. Đài nghê do tê giác trấn bên cạnh, đèn chuỗi sáng lung linh. Đây đâu giống phòng nghi trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong(31). Ngày xưa bậc ẩn sĩ góp công đức dựng nên, đâu có khác thần linh tạo hóa ? Thầy ở lại chưa đầy mươi ngày đã có sự cảm ứng: Hổ tới phục chầu, rồng kia thuần nết. Đêm yên tĩnh tụng niệm Liên kinh, trời vòi vọi vang đưa tiếng trống. Thầy ở đủ sáu năm, ân huệ ban nhiều rộng khắp. Các vương tử xe ngựa ồn ào, người khắp nước hương hoa dâng lễ. Ngự thư ban chiếu, vua dự tiệc chay. Ban bảo y ngang bậc thượng bằng, lên xe Phật sánh cùng Tứ quả(32). Hôm bãi tiệc chay, tích trượng đưa về dựng ở chân núi. Các đệ tử đều bày tỏ suy nghĩ của mình, đồng thanh nói: "Đỉnh núi dựng đứng, đường mây chon von. Thầy có đôi chân thần dễ lên, khách phàm tục rất khó bước tới. Duy xem mảnh đất phía dưới, cũng là chốn thắng địa. Dãy núi quanh co nào khác Bồ Đà, dòng sông trong vắt kém gì Hương Hải. Xin sai thợ giỏi, chọn chỗ đất ở giữa, dựng điện ngọc sáng rực bốn phương, đặt tượng vàng nghiêm trang chiếu tỏa..." Mọi người truyền đi câu nói đó. Thế là cây rừng lên tiếng, trong chốc lát, các thiện nam tín nữ kéo về, chẳng mấy hôm đã xuất hiện quang cảnh mới ! Tìm xẻ gỗ quý, đắp lò ngói xanh. Dấu mực thước dọc ngang, tiếng búa rìu chan chát. Nguy nga viện mới, sừng sững lầu cao. Trồng thông gây trong mát cho lối đi, làm vườn tỏa hương thơm nơi cảnh Phật.

Thầy nói với mọi người: "Điện Phật trang nghiêm, Phật tử đông đúc. Nhưng khi mở hội Thuyết pháp, ắt phải có tiếng chuông cảnh tỉnh. Thuyết pháp thì ta lo, còn chuông phải do người khác". Nói rồi, thầy chống gậy xuống núi đi quyên hóa, chân thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, tựa lân vờn thú nhảy, như phụng múa rồng bay. Người ta đua nhau đi theo thầy, chưa đầy hai mươi ngày, quyên được đồng đỏ chất thành gò, đưa về chùa Hưng Phúc. Chiếu bay về bệ mây, trời ban cho cung vàng. Nhào đất đắp khuôn, đốt lửa tinh luyện. Hôm đúc chuông, thầy dẫu im lặng, nhưng mọi người đều ngợi ca. Cảm ơn Thái hậu(33) cùng chí nguyện, sai trung sứ tới tận nhà. Thế rồi: Ngựa xe đi mà nhà giàu góp hết của, già trẻ tới để thôn xóm vắng lặng không. Người ta tới đài hương, đông đúc như đi chợ. Rồi, người đốt lửa ra sức, thợ đúc chuông lệnh nghiêm. Thổi ống bễ tiếng vang góc biển, đốt lò nung sáng dậy Ngân Hà. Chuông đúc xong đã khác lạ, điềm lành phát sinh. ít lâu sau, lại mời mọi người đến buộc vác chở đi. Chuông vừa lau thì sắc như hoa tuyết, vừa đánh lên tiếng át sấm rền. Thiên hạ nghe tiếng chuông, thảy đều kính ngưỡng. Thầy đem chuông về gác chuông Đại Bi trên núi Bồ Đà. Dùng dây vàng để treo lên, lấy chầy kình để gõ tiếng, sớm chiều hành đạo. Trên báo đáp đức Kim Thượng(34) được mãi mãi giáo hóa, ngự ngôi báu lâu dài. Nhờ vật báu quốc gia(35) mà các đời phồn thịnh, dân ấm no và đất nước bình yên. Nguyện cầu: tôn sùng mộ đạo, hiểu lẽ thuần chân, đem phúc ấm cho dân lành, để khuông phù cơ nghiệp lớn. Mong sao các bậc thí chủ, những người tu hành theo gió từ hướng làm điều thiện, sửa hương hoa thờ Phật thành tâm. Ngày nay lộc lớn tích nhiều, sau này bản tâm giác ngộ.

Thầy gặp tôi và nói: "Nay chuông mới đúc xong, là do chúng sinh đều góp duyên. Ta không có công gì đáng ghi, hãy lưu lại phương danh các tín thí, hãy ghi chép để truyền lại về sau". Huệ Hưng tôi(36) học thức nông cạn, không tiện từ chối, cầm bút làm bài minh:

Minh rằng:

Phật dùng tiếng chuông cảnh tỉnh muôn vật chừ, giác ngộ bản tâm.

Thầy hoàn thành pháp khí(37)để giáo hóa thế gian chừ, phát ra tín âm.

Thiên cung đã tỏ dục sắc chừ, trở về tự giác.

Địa phủ đáng phải hành hình chừ, quăng sâu ném xa.

Niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ 9, năm Kỷ Sửu(38), ngày mồng 9, tháng 8.

Sa môn Thích Huệ Hưng chùa Thiên Phúc được ban áo cà sa tía soạn bài minh.

...

Năm Hưng Long thứ 12, đời Trần Anh Tông(39) có thánh chỉ cấp ruộng thờ(40).

H.V.L

CHÚ THÍCH:

(1) Chùa Thiên Phúc: Theo Đại Việt sử lược (Bản Trần Kinh Hòa, 1987, tr.58), chùa này do vua Lý Thánh Tông ra lệnh xây vào tháng 12 năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), tục gọi là chùa Thầy, xưa gọi là viện Hương Hải, am Bồ Đà; thuộc hai xã Thiên Phúc và Thụy Khuê huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai xứ Sơn Tây (nay là xã Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây). Chùa này được các đời trùng tu, là danh thắng bậc nhất của nước ta.

(2) Long Phù Nguyên Hóa là niên hiệu Lý Nhân Tông (1101 - 1109), năm thứ 9 tức năm 1109.

(3) Thiền sư Đạo Hạnh tức Từ Đạo Hạnh, tên húy là Lộ (? - 1116), quê quán xã Yên Lãng huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Cha là Từ Vinh, làm chức Tăng quan đô án triều Lý. Từ Vinh có hiềm khích với quý thích Diên Thành hầu, Hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng pháp thuật giết chết. Đạo Hạnh tìm đường sang tây tìm thầy học đạo. Học xong, trở về, báo thù cho cha. Sau tu ở chùa Thiên Phúc. Về thiền sư Từ Đạo Hạnh, có nhiều truyền thuyết ly kỳ huyền bí. Năm 1116, ông mất trong hang núi Sài Sơn.

(4). Nguyên văn: "Cự Việt quốc", "Cự" nghĩa là "Đại".

(5). Cửa son: Nguyên văn "Chu môn", chỉ nhà giàu. Mái rạ: Nguyên văn "Bạch ốc", chỉ nhà nghèo.

(6) Viện Hương Hải tức chùa Thiên Phúc.

(7) Bồ Đà Lạc Sơn: tức núi Phật Tích, hay núi Sài Sơn.

(8) Sáu thời: nguyên văn "lục thời". Nhà Phật chia một ngày đêm làm 6 thời là: Thần chiêu (buổi sớm), Nhật trung (buổi trưa), Nhật lạc (buổi chiều), Sơ dạ (buổi tối), Trung dạ (nửa đêm), Hậu dạ (nửa đêm về sáng).

(9) Tứ Ân: Thuật ngữ nhà Phật, nói có 4 cái ơn phải báo đáp là: Ơn cha mẹ, Ơn chúng sinh, Ơn quốc vương và Ơn Tam bảo.

(10) Tam đồ: Thuật ngữ nhà Phật, nghĩa là ba con đường: Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh. Cũng gọi là Tam ác đạo.

(11) Diệu lý: "Diệu" có nghĩa là tuyệt vời, không thể bàn cãi, không thể so sánh. Diệu lý là đạo lý cao siêu, sâu sắc, kỳ diệu không thể bàn cãi.

(12) Vọng cảnh: Vọng: không thực, giả, đối lập với "chân". Vọng cảnh: cảnh giới giả, không thực.

(13) Niết Bàn: dịch ý là "tịch diệt", "diệt độ", "tịch", "vô sinh", đồng nghĩa với "Trạch diệt", "ly hệ", "giải thoát"... vốn chỉ sự xuy diệt, hoặc trạng thái xuy diệt (thổi tắt). Sau khi lửa thiêu đốt phiền não tắt rồi, hoàn thành cảnh giới ngộ trí (tức bồ đề). Đó là cảnh giới giác ngộ, siêu vượt sống chết (mê giới), cũng là mục đích thực tiễn cuối cùng của Phật giáo. Các giáo phái khác ngoài Phật giáo cũng có thuyết Niết Bàn, nhưng khác hẳn của Phật giáo.

(14) Lục thú: Thuật ngữ nhà Phật, tức lục đạo. Tỳ đàm luận nói "thú" nghĩa là "đến", nghĩa là "đạo" (con đường). ý nói dựa vào cái nghiệp thiện hay ác do mình tạo ra, mà có thể tới chốn được thiện báo hay chịu tội. Lục đạo là: Địa ngục đạo, Ngã quỷ đạo, Súc sinh đạo, Tu la đạo, Nhân gian đạo, Thiên đạo.

(15) Cổ giáo ở đây có nghĩa là phương pháp dạy, phương pháp giáo hóa truyền thống.

(16) Nhất thừa: Thừa có nghĩa là "cỗ xe". Nhất thừa có nghĩa là "cỗ xe duy nhất". Giáo nghĩa Phật giáo là chân lý duy nhất để giáo hóa chúng sinh trở thành Phật, như cỗ xe duy nhất chở người tu hành đến cõi Niết bàn, nên gọi là "Nhất thừa".

(17) Tròn, đầy: nguyên văn là "viên thực".

(18) Chứa, rỗng: nguyên văn là "hàm hư".

(19) Nguyên văn: "Thường dụng nhi bất giác".

(20) Tam giới: Kinh Phật có "Tam giới chư thiên". Tam giới gồm: một là Dục giới, hai là Sắc giới, ba là Vô sắc giới.

(21) Tam đồ: Xem chú 10.

(22) Liên kinh: là Pháp Hoa kinh. Tây dương trạp trở: Cố Hòa thượng ở chùa Đại Hưng Thiện chuyển ba vạn bảy nghìn bộ Pháp Hoa kinh. Có vị sư đề thơ rằng: Tam vạn Liên kinh tam thập xuân; Bán sinh bất đạp viện môn trần. (Ba vạn Liên kinh ba mươi xuân, Nửa đời chẳng dẫm bụi cửa Thiền).

(23) Nguyên văn: Bát chủng. ở đây có thể là "bát chủng tháp". Bát chủng tháp cũng gọi là "bát chủng nhân khởi tháp", nói 8 loại người là Như Lai, Bồ Tát, Duyên Giác, Ala Hán, Ana hàm, Tư đà hàm, Tu đà viên, Chuyển luân viên sau khi tịch diệt, ắt nên dựng tháp cúng dàng. ở đây ý nói xây dựng chùa tháp.

(24) Tam khíp thư: Tam khíp là 3 hòm. Tam khíp thư ở đây chỉ kinh Phật nói chung, như "Tam tạng kinh".

(25) Bát biện: Chỉ 8 loại biện tài. Biện tài tức tài tranh biện, tài khéo thuyết giảng ý nghĩa của Phật pháp. Tám loại biện tài là: 1. Biện tài không kêu thét, 2. Biện tài không mê loạn, 3. Biện tài không sợ sệt, 4. Biện tài không kiêu ngạo, 5. Biện tài nghĩa cụ túc, 6. Biện tài vị cụ túc, 7. Biện tài không vụng về, 8. Biện tài ứng thời tiết.

(26) Thi la: dịch âm, nghĩa là "giới", chỉ điều răn, giới luật.

(27) Đế Thích: tức Đế Thích Thiên, dịch âm là Thích Ca đề hoàn nhân đà la, gọi tắt là Thích đề hoàn nhân, Thích ca đề bà, cũng gọi là Thiên Đế thích, Thiên chủ. Vốn là vị thần của ấn Độ giáo. Thời cổ ấn Độ gọi là Nhân đà la. Sau khi vào Phật giáo gọi là Đế Thích Thiên. Theo ghi chép của các bộ kinh luận, Đế Thích Thiên vốn là Bàlamôn nước Ma già đà, do tu phúc đức bố thí, được sinh ở Thao lợi thiên, trở thành Thiên chủ của 33 trời.

(28) Dược Vương: là vị Bồ tát ban phát thuốc tốt, cứu chữa các bệnh về thân, tâm cho chúng sinh, là 1 trong 25 vị Bồ tát Adiđà Phật.

(29) Lăng Già: núi Lăng Già dịch nghĩa là núi Khó tới, núi Đáng sợ, núi Hiểm tuyệt... Tương truyền đó là nơi Phật Đà tuyên giảng kinh Lăng Già. Theo kinh Lăng Già thì núi này do các loại vật quý tạo nên, ánh sáng rực rỡ. Trong núi có vô lượng hoa viên, hương thụ, làn gió nhẹ đưa, cành lá rung rinh, trăm ngàn mùi hương thần diệu lan tỏa, trăm ngàn âm thanh kỳ diệu phát ra, núi non lớp lớp quanh co, khắp nơi đều là tiên cảnh...

(30) Áo tơi: nguyên văn: "thú ý", chỉ loại áo mỏng, cực nhẹ, dịch ý.

(31) Thứu Phong: tức Linh Thứu phong, gọi tắt. Núi Linh Thứu ở phía đông bắc thành Vương Xá nước Ma Yết Đà (ấn Độ), gọi tắt là Linh Sơn, hoặc Thứu Phong, Linh Nhạc. Như Lai từng giảng kinh Đại thừa như Pháp Hoa kinh ở đây.

(32) Tứ quả: 4 loại chứng quả có được khi tu hành theo phép Thanh văn của Tiểu thừa, có các giai đoạn: Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A la hán quả.

(33) Thái hậu: tức bà nguyên phi của vua Lý Thánh Tông là ỷ Lan phu nhân, họ Lê, là mẹ đẻ của vua Lý Nhân Tông (1072-1128).

(34) Kim thượng: Vị vua đương thời, tức Lý Càn Đức, miếu hiệu Nhân Tông, sinh năm 1066, lên ngôi năm 1072, mất năm 1127.

(35) Vật báu quốc gia: nguyên văn: Quốc khí.

(36) Huệ Hưng: Sa môn Thích Huệ Hưng ở chùa Thiên Phúc, đệ tử của Từ Đạo Hạnh, tác giả bài minh văn này.

(37) Pháp khí: ở đây chỉ chuông chùa.

(38) Xem chú thích 2.

(39) Hưng Long là niên hiệu của vua Trần Anh Tông. Năm Hưng Long thứ 12 tức năm 1304.

(40) Qua câu này, có thể thấy, trên chuông cũ, đời sau người ta đã khắc thánh chỉ của vua Trần Anh Tông. Bản Kim văn loại tụ không chép nội dung thánh chỉ đó.

TB

GIỚI THIỆU ẤN QUAN PHÒNG Ở
BẢO TÀNG LONG AN

VƯƠNG THU HỒNG

Tại Bảo tàng Long An đang lưu giữ một số ấn triện mới sưu tầm được trong thời gian gần đây. Được sự giúp đỡ của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh, nay chúng tôi xin giới thiệu nhằm cung cấp tư liệu cho các chuyên gia nghiên cứu về mảng đề tài này.

Việc đúc ấn Quan phòng đã được đề cập đến trong một số sách sử triều Nguyễn, đặc biệt trong bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ nói nhiều đến những quy định chế tạo và sử dụng ấn Quan phòng, qua đó tùy theo chức vụ, phẩm trật mà từng loại ấn được chế tác với chất liệu, hình thức, nội dung và kích thước khác nhau.

Về mặt quản lý ấn Quan phòng cũng rất nghiêm ngặt, trong trường hợp ấn triện bị thất lạc, quan chức phụ trách phải tâu báo để được đúc ấn chế, ban cấp ấn triện mới với chi tiết, nét chữ thay đổi để phân biệt với cái đã mất; khi thay đổi địa phương, chức vụ hành chính, những ấn triện không còn thích hợp phải được thu hồi kịp thời.

Đối với tỉnh Gia Định, Minh Mạng năm thứ 14 (1833) đã chỉ dụ chế tạo ấn Quan phòng Tuần phủ Gia Định, ấn triện Bố chính, án sát, ấn Quan phòng Chánh, phó Lãnh binh Gia Định và các quả ấn kiềm cái.

Về kích thước, ấn Quan phòng Đề đốc kinh thành, Lãnh binh các tỉnh và kinh tượng đều núm thẳng, dài 1 tấc 8 phân (7,65cm); ngang 1 tấc 2 phân (5,1cm). Theo Từ điển Tiếng Việt (1988) thì một thước dài khoảng 0,425m, một tấc bằng 1/10 thước, một phân bằng 1/100 thước.

I. CHIẾC ẤN ĐỒNG PHÁT HIỆN Ở TÂN TRỤ:

Ở tỉnh Long An, vào khoảng tháng 10 năm 1996, ông Nguyễn Văn Tư - nông dân, trong lúc làm ruộng ở khu vực Cầu Tre, xã Đức Tân, huyện Tân Trụ tình cờ phát hiện một chiếc ấn triện bằng đồng. Hiện vật đã được Bảo tàng tỉnh Long An thu hồi và lưu giữ.

Ấn hình chữ nhật, kích thước: dài 7,6cm; rộng 5,8cm; dày 0,9cm; núm thẳng và cao 2,5cm; nặng 377gam. Trên mặt ấn có khắc nổi 6 chữ Triện ngược có vài chỗ bị mất nét nhưng khi in ra đọc được là: Gia Định Lãnh binh Quan phòng (Quan phòng của Lãnh binh tỉnh Gia Định). Bố cục chữ có trình tự từ trên xuống dưới và từ phải sang trái.

Từ năm Minh Mạng 13 (1832) bãi bỏ Gia Định thành và các trấn được đổi làm tỉnh, triều đình nhà Nguyễn lập tỉnh Gia Định là một trong Nam Kỳ lục tỉnh. Năm Minh Mạng 17 (1836) đã nghị chuẩn: “... Ở Gia Định, Lãnh binh quan chuyên coi 10 cơ: Gia trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu, Định Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu hữu, Hậu. Phó lãnh binh quan chuyên coi 2 vệ Tả, Hữu thủy Gia Định”. Căn cứ vào thời điểm và tư liệu trên, có thể tạm thời đoán định rằng chiếc ấn Gia Định Lãnh binh Quan phòng bằng đồng được phát hiện ở Tân Trụ là của một vị Lãnh binh (chức vụ đứng đầu lực lượng quân đội ở một tỉnh) ở Gia Định thời bấy giờ và niên đại sớm nhất có thể vào khoảng năm 1836.

II. NĂM CHIẾC ẤN BẰNG GỖ PHÁT HIỆN Ở THỦ THỪA:

Khoảng tháng 6 năm 1995, anh Hồ Thanh Liêm - nông dân, trong lúc đào mương dẫn nước quanh khu đất trồng mía của gia đình thuộc ấp 4, xã Tân Thành, huyện Thủ Thừa, đã phát hiện ở độ sâu 30cm một lọ sành hình ống (dân gian thường gọi là ghè ống) màu nâu đen cao 20cm, đường kính miệng 10,5cm, trên miệng đậy bằng một chất keo màu nâu. Bên cạnh lọ sành có một bọc vải đỏ (đã mục nát) đựng 5 chiếc ấn bằng gỗ khắc chữ Hán theo kiểu Triện. Các hiện vật trên đã được Bảo tàng Long An thu hồi và lưu giữ.

Đặc điểm của các chiếc ấn đã được ghi nhận như sau:

1- Chiếc ấn thứ nhất:

Mặt ấn hình chữ nhật, kích thước: dài 8 cm, rộng 5,2cm, dày 1,7cm; ấn có núm cao 2cm, mặt trên núm có chữ thượng được khắc chìm. Trên mặt ấn có khắc nổi 8 chữ Triện ngược; khi in ra đọc được là: Gia Định Đốc binh Quân vụ Quan phòng (Quan phòng quân vụ của Đốc binh tỉnh Gia Định).

2- Chiếc ấn thứ hai:

Mặt ấn hình chữ nhật, kích thước: dài 3,3cm, rộng 2,8cm, cao 2,4cm; ấn không có núm, mặt trên ấn có chữ thượng được khắc chìm. Trên mặt ấn có khắc nổi 4 chữ Triện ngược, khi in ra đọc được là: Gia Định Đốc binh (đây là kiềm ấn của Đốc binh tỉnh Gia Định).

3- Chiếc ấn thứ ba:

Mặt ấn hình chữ nhật, kích thước: dài 8,6cm, rộng 4,8cm, dày 1,5cm; ấn có núm cao 1,3cm, mặt trên núm có chữ thượng được khắc chìm. Trên mặt ấn có khắc nổi 7 chữ Triện ngược, khi in ra đọc được là: Tân An đạo Tổng binh Quan phòng (Quan phòng của Tổng Binh đạo Tân An)

4- Chiếc ấn thứ tư:

Mặt ấn hình chữ nhật, kích thước: dài 6,7cm, rộng 4,6cm, dày 2cm; ấn có núm cao 2cm; mặt trên núm có chữ thượng được khắc chìm. Trên mặt ấn có khắc nổi 7 chữ triện, khi in ra đọc được là: Tân An đạo Tổng binh Quan phòng (Quan phòng của Tổng binh đạo Tân An).

5- Chiếc ấn thứ năm:

Mặt ấn hình vuông, có kích thước: mỗi cạnh 2,3cm, cao 2 cm; ấn không có núm, mặt trên ấn có chữ thượng được khắc chìm. Trên mặt ấn có khắc nổi chữ 2 chữ Triện ngược, khi in ra đọc được là: Tổng binh (đây là kiềm ấn nhỏ chức Tổng binh).

Chữ Triện ở cả năm chiếc ấn trên được bố cục trình tự từ trên xuống dưới và từ phải qua trái.

Về giá trị sử dụng, 3 chiếc ấn lớn (thứ nhất, thứ ba và thứ tư) có giá trị dùng để ban bố mệnh lệnh, mang tính “pháp quy”, 2 chiếc ấn nhỏ (thứ hai và thứ năm) là hai ấn kiềm có nội dung giản ước 3 chiếc ấn kia.

Về niên đại, căn cứ theo cấu trúc và tự dạng trên các chiếc ấn, có thể nhận định rằng:

- Chiếc ấn thứ nhất và thứ hai thuộc triều đình nhà Nguyễn, giai đoạn trước năm 1862 đến năm 1864.

- Ba chiếc ấn còn lại thuộc giai đoạn 1872-1875.

Do địa danh và các chức vụ quân sự được khắc trên ấn, nên phát hiện trên cho thấy rằng, có khả năng phong trào nghĩa quân Trương Định đã sử dụng chiếc ấn trên, vào các thời điểm đoán định ở trên, đánh dấu hoạt động kháng chiến chống Pháp của Trương Định và Thủ Khoa Huân trên vùng đất Tân An - Gia Định xưa.

Bộ sưu tập ấn triện vừa được phát hiện và lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh Long An có một ý nghĩa lớn về lịch sử quân sự thời Nguyễn. Đây là những di vật tuy hiếm hoi nhưng góp phần quan trọng cho công cuộc nghiên cứu, tìm hiểu về quá trình tổ chức quân đội và lực lượng kháng chiến chống Pháp của những người “dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

V.T.H

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Trần Viết Ngạc - Văn Đình Hy: Ấn triện dưới triều Nguyễn trong cuốn Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn. Nxb. KHXH, 1992.

2. Phạm Quốc Quân: Ấn Quan phòng trong cuốn Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn. Nxb. KHXH, 1995.

3. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 6, tập 9, Nxb. Thuận Hóa - Huế - 1993.

Phụ lục :

1. Gia Định Đốc binh 3. Tân An đạo Tổng binh

Quân vụ Quan phòng Quan phòng

2. Gia Định Đốc binh

4. Tân An đạo Tổng binh Quan phòng 5. Tổng binh

TB

HẬU DUỆ CỦA LÊ LAI TRÊN ĐẤT
THĂNG LONG

LÊ HOÀNG BẢO GIÁP

Hậu duệ đời thứ 17 của Trung Túc Đại vương Lê Lai ở Thanh Hóa là Lê Vinh, Trì uy tướng quân của Vương phủ, thấy thế đất thôn Quan Nhân đẹp cho rằng có thể phát văn võ, liền mang hài cốt cha mẹ từ Thanh Hóa ra táng ở thôn này. Sau, chi họ Lê ở làng phía Nam Thăng Long này quả phát khoa bảng, văn tài có tiếng. Ví như ông Lê Doãn Thăng, cháu 4 đời cụ Lê Vinh, cũng là cháu 3 đời cụ Lê Trần Hoán, án sát tỉnh Nam Định. Ông Lê Doãn Thăng đỗ Cử nhân tại trường thi Hà Nội ở vị trí khá cao: thứ 5 trên 25 người lấy đỗ trong khoa thi Hương Tự Đức 29 (Bính Tý - 1876). Sau đó ông được bổ làm Tri phủ phủ Hoài Đức, thăng Hàn lâm viện Điển bạ thừa sự Bộ học. Ông làm việc rất mẫn cán, chu đáo lại liêm khiết nhân từ nên được các bạn đồng liêu kính nể, quan trên tin cậy yêu mến. Mùa hạ năm Khải Định thứ 4 (1919), Lê Doãn Thăng biên tập bộ Nam quốc địa dư chí lược(1) dưới tên là Văn Nham Lê Doãn Thăng Đông Húc Thị. Anh trai ông là Bồ Nam Lê Từ Tiểu Đào Thị nhuận chính. Bộ sách gồm 104 trang in bằng chữ Nôm chân phương xen chữ Hán, tổng luận những nét cơ bản và nổi bật của nước Việt Nam ta thời đó với các mục: cương vực, núi non, sông ngòi, khí hậu, đê điều, thành phố, khoáng sản, các cửa khẩu, nhân dân, chính trị, giáo dục, tô thuế. Tấm bản đồ 3 kỳ với các tỉnh trong từng kỳ được giới thiệu đơn giản, ngắn gọn, khiến người đọc dễ dàng hình dung được địa lý tự nhiên ở nước ta. Ví dụ Bắc kỳ được chia thành các tỉnh ở phía Bắc, các tỉnh thuộc phía Đông, thuộc phía Tây và phía Nam. Nam kỳ thì được chia thành 5 tỉnh lớn: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên; rồi dựa vào đó mà giới thiệu các tỉnh giáp giới nhỏ hơn. Do am hiểu tường tận về địa lý cùng với khả năng khái quát và cách dẫn dụ mạch lạc, tác giả đã giới thiệu về đặc điểm địa thế cương vực nước ta theo một quan điểm riêng rất hợp lý: “Do hình thế núi sông, nước ta chia thành 3 kỳ, mỗi kỳ có sự cao thấp, độ phì nhiêu khác nhau.

Vùng sơn địa gồm thượng du Bắc kỳ và các tỉnh Trung kỳ; vùng cao nguyên gồm các tỉnh từ Thuận Hóa đến Bình Định; vùng bình nguyên ven sông Mê Kông và Nhị Hà là đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ”.

Về núi non, sách chỉ ra “Nước ta có một dãy núi lớn khởi từ Vân Nam thẳng qua Bắc kỳ, Trung kỳ tới Nha Trang. Dãy núi này qua mỗi địa phương thì lại mang tên khác nhau và làm nhiệm vụ phân chia ranh giới giữa các tỉnh như: Tam Điệp là ranh giới của Thanh Hóa - Ninh Bình, Na Sơn là ranh giới của Thanh Hóa - Nghệ An, Hồng Lĩnh là ranh giới của Nghệ An - Hà Tĩnh, Hoành Sơn là trường thành ranh giới Nam Bắc, Thạch Nhai là ranh giới Quảng Ngãi - Bình Định, Cù Mông là ranh giới Bình Định - Phú Yên, Đại Lãnh là ranh giới Bình Thuận - Khánh Hòa”.

Phần tóm tắt về các hải khẩu, ông Lê Doãn Thăng thống kê chi tiết và miêu tả tỉ mỉ từng cửa khẩu ở các địa phương nguyên trước đây có bao nhiêu, hiện còn lại những cửa khẩu nào, tình trạng xuất nhập khẩu ra sao. Đặc biệt thú vị là khi tác giả giới thiệu về thành phố Hà Nội theo trình tự từ trung tâm ra ven nội: “Thành phố Hà Nội chia làm 8 hộ, mặt phố chia thành 4 hạng.

Hạng 1: 10 phố là: Hàng Ngang, Hàng Buồm, Hàng Đào, Hàng Nhiễu, phố Trường Thi, Vũ Thạch, Gia Long, Đồng Khánh, phố Bôn Be, phố Gạc Nhe (GACNIE).

Hạng 2: 15 phố: Quan Chưởng, Hàng Đường, Phúc Kiến, Hàng Bồ, Hàng Bát, Hàng Giấy, Hàng Thiếc, Mã Vĩ, Hàng Hài, Cầu Gỗ, Kiếm Hồ, Hàng Bè, Bắc Ninh, Hàng Vôi, Hàng Gạo.

Hạng 3: 20 phố: Hàng Bạc, Hàng Đồng, Hàng Cựu Bát, Hàng Thuốc, Hàng Cót, Hàng Gà, Hàng Vải, Hàng Điếu, Hàng Da, Hàng Hòm, Hàng Cau, Nhà Hỏa, Hàng Bông, Hàng Quạt, Hàng Nón, Đồng Xuân, Hàng Tre, Hàng Chĩnh, Thương Chính, Đấu Mã.

Hạng 4: 10 phố: Hàng Nâu, Hàng Đậu, Hàng Cuốc, Hàng Cân, Hàng Lược, Hàng Cá, Hàng Mắm, Chân Cầm, Hàng Mành, Thợ Nhuộm”.

Đây chính là tư liệu quý cho những ai muốn tìm hiểu về đất nước ta nói chung, về Hà Nội nói riêng thời kỳ cận đại.

Ngoài ra ông Lê Doãn Thăng còn được triều đình giao cho công việc biên tập mục lục thư tịch quốc gia(2). Công trình đồ sộ này, một mình ông thực hiện trong suốt hai năm: từ năm Khải Định 9 đến năm Khải Định 10 (1924 - 1925). Sách gồm 11 bản viết tay, 2472 trang, khổ 27x15 bằng chữ Hán chân phương. Bộ sách chia thành các kho: Kinh, Sử, Tử, Tập, sách mới, Quốc thư:

Tập 1 là kho Sách mới gồm 262 bộ sách, báo chí mới in.

Tập 2 là kho Kinh gồm 47 bộ kinh, sử, loại, điển.

Tập 3 là kho Sử gồm 430 bộ ký sử, biên niên, địa dư, chính trị, bình luận, truyện ký.

Tập 4, 5 và 6 là kho Tử gồm 6550 bộ pháp gia, vũ vị, nông tang, y thuật, thư pháp, họa pháp, tiểu thuyết.

Tập 7 và 8 là kho Tập gồm 562 bộ thi, từ, phú, văn, biểu, sách, chế nghĩa.

Tập 9 và 10 kho Quốc thư gồm 601 bộ ngự chế thư, pháp học khoa, quốc sử khoa, văn học khoa, quốc âm thư.

Đây là bộ mục lục thư tịch lớn, biên soạn theo kiểu truyền thống, có thêm 2 mục mới (Sách mới và Quốc thư) của Thư viện Viện Cổ học Huế, cuối triều Nguyễn mà Lê Doãn Thăng là người có công đầu.

Sách được Nguyễn Tiến Khiêm và Nguyễn Bá Trác hiệu duyệt. Mỗi đơn vị thư mục đều có đủ tên sách, tình trạng sách, nội dung, người soạn, số hiệu, ký hiệu, khắc in hay viết, lai lịch…

Lê Doãn Thăng đỗ Cử nhân, chưa đỗ đại khoa, nhưng từng được bổ làm ở Viện Hàn lâm, có lẽ vì học vấn và phẩm hạnh mà ông được vua Tự Đức ban cho một bộ gồm hoành phi có chữ Thần to bằng nửa bức tường và 4 bức tứ bình. Mỗi bức là một bài thơ gồm 6 câu. Từng chữ trong đó đều được khảm bằng trai trên nền gỗ gụ.

Bài thứ nhất:

Phiên âm:

Tâm hề, bản hư
ứng vật vô tích
Thao chi hữu yếu
Thị chi vi tắc
Khắc kỷ phục lễ(3)
Cửu nhi thành hỹ

Dịch thơ:

Tâm vốn là hư vô
Theo vật không để vết
Dụng tâm có yếu quyết
Là nguyên tắc ở đời:
Sửa mình để theo lễ
Thành thật và lâu dài

Bài thứ 2:

Phiên âm:

Nhân hữu bỉnh di
Bản hồ thiên tính
Trí dụ vật hóa
Toại vong kỳ chính
Nhàn tà tồn thành
Phi lễ vật thính(4)

Dịch thơ:

Người biết theo lẽ phải
Vốn là ở tính trời
Theo vật trí đổi dời
Nên mất đi lẽ phải
Lòng thành nên giữ lấy
Điều trái lễ chớ nghe

Bài thứ 3:

Phiên âm:

Thuận lý tắc dụ
Tòng dục duy nguy
Tháo thứ khắc niệm
Chiến căng tự trì(5)
Tập giữ tính thành
Thánh hiền đồng quy

Dịch thơ:

Theo lẽ phải thì giàu
Theo lòng dục thì nguy
Dẫu vội chớ quên đi
Phải luôn luôn run sợ
Phải giữ mình thành kính
Hiền Thánh cùng theo về

Bài thứ 4:

Phiên âm:

Nhân tâm chi động
Duy ngôn dĩ tuyên
Thương dị tắc đản
Thương phiền tắc chi
Phi pháp bất đạo(6)
Khâm tai huấn từ.

Dịch thơ:

Lòng người ta dao động
Phát lộ ra thành lời
Tổn nhẹ thì sinh sai
Tổn nhiều thì chống đối
Điều phi pháp không nói
Lời dạy nghiêm kính thay.

Ông Lê Doãn Thăng sinh được 5 cô con gái. Cô Cả gả cho ông Hậu bổ, cô Hai lấy quan Huấn đạo, cô Ba lấy người cùng làng, Cô Tư góa chồng từ năm 21 tuổi đã thủ tiết nuôi 2 đứa con gái của mình khôn lớn và được vua ban cho hiệu “Tiết hạnh khả phong” (một trong hai người con gái của cô Tư lấy Nguyễn Văn Tố). Cô Út gả cho Lương Ngọc Quyến.

Bà Thăng là người rất nhân từ đối với người nghèo khổ. Bà luôn làm phúc, cho tiền gạo thuốc men giúp đỡ họ nên ai cũng quý trọng biết ơn. Mặc dầu vậy bà vẫn chưa sinh được quý tử. Một hôm chiêm bao, thấy có hai đứa bé trai kháu khỉnh đi từ quả chuông ra, sà vào lòng mình, quả nhiên năm đó bà sinh đôi: cậu cả húy là Doãn Đại tên là cả Chuông; cậu hai húy là Doãn Thân tên là hai Chuông. Hai Chuông nổi tiếng là thần đồng hay chữ, học đâu nhớ đấy, về sau thi đỗ Tú tài gọi là Tú Thân. Tú Thân chữ đẹp thơ hay, đoạt giải nhất trong cuộc thi câu đối ở đền Ngọc Sơn Hà Nội những năm 1949-1950.

Ông Lê Doãn Thăng giữ nếp nhà rất nghiêm. Bản thân ông tuy ở đất Thăng Long nhiều đời nhưng lòng vẫn hướng về cội nguồn. Khi vào kinh thi Hội, việc trước tiên là ông rẽ về Thanh Hóa lễ tổ tiên. Sau này con cháu ông dù phân tán bốn phương vẫn không quên tiên tổ, cứ mùng 4 tháng giêng (ngày giỗ tổ họ Lê ở thôn Quan Nhân) đều đủ mặt với tấm lòng thành kính.

Ngày nay các bậc cao niên ở thôn Quan Nhân mỗi khi nhắc đến ông Lê Doãn Thăng đều gọi ông bằng cái tên vừa tôn kính vừa thân mật: ông Phủ Hoài(7).

L.H.B.G

CHÚ THÍCH:

(1) Nam quốc địa dư chí lược. Ký hiệu: VHv.1723. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.

(2) Cổ học viện thư tịch thủ sách. Ký hiệu A.2601/1-19. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.

(3)(4)(5)(6). Câu trong Luận ngữ. Bốn bài tứ bình đều do PGS. Phan Văn Các phiên âm và dịch.

(7) Bài viết dựa vào gia phả họ Lê Sĩ thôn Quan Nhân và lời kể của con cháu cụ Thăng.